Cụ Trương Đăng Quế là một nhà trí thức lớn, một vị quan có
trách nhiệm với dân với nước.
Trương Đăng Quế (1793-1865) là một quan đại thần, đồng thời
là một danh sĩ, đóng vai trò quan trọng trong thời các vua Minh Mệnh, Thiệu Trị
và Tự Đức. Là con trai viên Tri phủ Quảng Ngãi triều Tây Sơn, Trương Đăng Quế lại
tiến thân bằng con đường khoa cử triều Nguyễn, rồi từng bước đạt tới chức quan
tột đỉnh trong triều đình.
Trong cuộc đời 44 năm làm quan (1819-1863), Trương Đăng Quế
thể hiện lòng trung thành, công minh, liêm chính của mình bằng cách hết lòng với
công việc triều chính. Một trong những đóng góp đặc sắc nhất chính là hoàn
thành việc đạc điền và lập điền bạ trên vùng đất Nam Bộ dưới triều Minh Mạng.
Đây chính là một đóng góp to lớn vào công việc hoàn thiện lãnh thổ Quốc gia và
phục hưng đất nước, đặc biệt với vùng đất phương Nam. Chỉ trong 5 tháng việc đo
đạc và ghi chép điền bạ cho cả vùng đất phương Nam thể hiện năng lực của
Trương Đăng Quế nhờ vào một tầm nhìn xa và quan điểm cận dân của cụ .
Phan Thanh Giản ca ngợi công lao ấy: “Thời tiên sinh phụng mệnh
vua, lo việc đạc điền phân định cương vực ở Nam Bộ quê tôi, một vùng đất mới,
công việc đòi hỏi phải hết sức linh hoạt vì tất cả đều mới lạ, không thể cứ câu
nệ lấy cách làm thông thường và sử dụng các loại dụng cụ đo đạc cũ mà thực hiẹn
suôn sẻ được, lại còn phải quan tâm và đừng gây phiền hà cho dân, thế mà tiên
sinh đã hoàn thành chỉ trong vòng có năm tháng! Vả lại, tiên sinh từng trải, nắm
vững vùng đất Nam Kỳ lục tỉnh như lòng bàn tay, nhìn xa trông rộng, xác định những
nơi hiểm yếu, tâu xin xây dựng thành trì ở Tây Ninh là điều mà tôi tuy là người
gốc Nam Bộ, thật tình cũng chưa từng nghĩ tới”.(Thơ Trương Đăng Quế, tr. 4).
Vua Tự Đức tuyên dương cụ giữa triều đình: “Kinh lược đại thần Trương Đăng Quế
khâm mạng đi vào Nam Kỳ đo đạc ruộng đất, biết giữ công bằng ngay thẳng, vô tư,
hoàn thành được công việc, không làm nhục mệnh vua, dẫu không so sánh được với
người đi đánh dẹp ở cương trường, người mở rộng đất đai bờ cõi, nhưng lần đầu
kinh lý, làm cho cương giới được phân minh, nhân dân sáu tỉnh đều được lợi ích
và vui vẻ. Vả lại, xếp đặt phủ Tây Ninh, khiến cho dân ẩn lậu đều trở thành
làng, ấp tất cả. Như vậy không khác gì những người có công mở mang đất đai bờ
cõi, thực rất đáng khen”. (Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 995).
Về mặt văn học Trương Đăng Quế còn để lại một sự nghiệp lừng
lẫy.
Cụ là vị Tổng tài Quốc sử quán đầu tiên, mở đầu sự nghiệp viết
sử triều Nguyễn, Trương Đăng Quế chủ biên các tác phẩm đồ sộ còn lại ngày nay
như là:
1. Đại Nam thực lục tiền biên.
2. Đại Nam liệt truyện tiền biên.
3. Đại Nam thực lục chính biên (đến Thiệu Trị).
5. Hoàng Nguyễn thực lục tiền biên.
6. Hoàng Nguyễn thực lục hậu chính biên.
Cụ cũng đã để lại nhiều sáng tác có giá trị văn hóa như là:
1. Quảng Khê văn tập.
2. Trương Quảng Khê văn tập.
3. Trương Quảng Khê tiên sinh tập (tức Học văn dư tập).
4. Sứ trình vạn lý tập.
5. Duyệt Giáp Thìn khoa Điện thí văn.
6. Về Diệu Liên thi tập.
7. Nhật Bản kiến văn tiểu lục.
Trương Đăng Quế là người đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước,
được đông đảo giới trí thức thời bấy giờ kính trọng, tôn sùng như các vị hoàng
thân Tùng Thiện, Tuy Lý, Mai Am..., các đại thần Hà Tông Quyền, Trương Minh Giảng,
Phan Thanh Giản, Nguyễn Đăng Giai... Đặc biệt, cụ quan tâm đến binh sĩ, hoàn cảnh
sinh sống của người dân nghèo, đồng bào dân tộc ít người, người dân các vùng chịu
ảnh hưởng chiến tranh, cụ thường tâu xin cho họ được hưởng điều này việc nọ, và
đều được triều đình thông qua.
Có lẽ vì vậy mà giới chỉ huy quân đội xâm lược Pháp căm ghét
Trương Đăng Quế. Chúng quy cho cụ tội cầm đầu phe chủ chiến đánh Pháp đến cùng,
ngấm ngầm không công nhận hòa ước Nhâm Tuất 1862 (hòa ước cắt cho Pháp ba tỉnh
miền Đông Nam Kỳ), và chủ trương ủng hộ các phong trào kháng chiến của Trương Định.
Những năm về trước, rất hiếm tài liệu về cụ và sáng tác
của cụ cũng chưa được dịch ra Quốc ngữ, nên nhiều độc giả muốn tìm hiểu về cụ rất
khó. Cho đến gần đây, giới sử học đã công bố nhiều công trình nghiên cứu về cụ,
và giới văn học cũng xuất bản nhiều công trình dịch thuật các sáng tác của cụ,
thuận lợi cho việc tìm hiểu toàn diện về một nhân vật có ảnh hưởng khá đậm trên
trang sử của một thời kỳ. Ngày nay, thành phố Hồ Chí Minh có một con đường mang
tên Trương Đăng Quế, nối từ đường Lê Lợi quận Gò Vấp đến đường Nguyễn Thượng Hiền
quận Bình Thạnh, gần với các đường Lê Lai, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực,
Trần Bình Trọng, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Chúng tôi giới thiệu sách Trương Đăng Quế, Cuộc đời và Sự
nghiệp đến quý độc giả. Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên giới thiệu tương
đối đầy đủ về nhân vật Trương Đăng Quế. Sách này có phần phụ lục toàn tập tác
phẩm Trương Quảng Khê tiên sinh tập (tức Học văn dư tập), gồm phần dịch thuật
và phần chữ Hán (bản khắc gỗ năm 1857).
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
DƯƠNG TRUNG QUỐC
Tổng
Thư ký Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam
DẪN NHẬP
Vào một ngày mùa hạ năm Mậu Tý, đầu thế kỷ XXI, đã có một
chuyến xe, ruổi rong trên đường Trường Sơn, theo lộ trình Nam Bắc. Chúng tôi gọi
đó là chuyến xe về miền quá khứ, đưa chúng tôi trở lại quê hương, với một sứ mạng
đã được xác định: đi tìm cứ liệu về một con người thuộc về lịch sử, với mục
tiêu là giải đáp cho niềm trăn trở từng ám ảnh cả thế hệ chúng tôi suốt bấy lâu
nay.
Chúng tôi, những cá nhân có hoàn cảnh, cương vị và kiến thức
chuyên môn khá là khác biệt này, đã cùng ngồi trên chuyến xe về miền quá khứ,
đi đến một địa điểm Quảng Ngãi để cùng tìm hiểu về một nhân vật: Trương Đăng Quế.
Thế thì, chúng tôi đã gặp nhau ở điểm chung nào, để có thể cùng đi một con đường,
tham gia vào một công việc không kém phần nhiêu khê, phức tạp, là nỗ lực làm
sáng tỏ những sự thực về một con người đã thuộc về lịch sử?
Điểm chung đó, chính là niềm hoài vọng về quê hương. Một quê
hương không chỉ là niềm thao thức trong mỗi cá nhân chúng tôi, mà còn gắn kết với
bao nhiêu sự kiện lịch sử. Có thể nói, mỗi sự kiện mang tính lịch sử ở vùng đất
này, đều thấm đẫm tính chất bi tráng, cũng như hàm chứa trong đó rất nhiều ẩn số.
Chỉ cần lướt qua một số tên người, tên đất ở Quảng Ngãi, chúng ta có thể thấy
được dấu ấn của vùng đất này lên cục diện của lịch sử đất nước như thế nào.
Đó là Trấn Quốc công Bùi Tá Hán, danh thần đời Hậu Lê, người ổn
định bờ cõi phương Nam, khi dải đất này được xác lập vào cương giới nước Đại Việt
không lâu, kéo dài từ đèo Hải Vân đến đèo Cả.
Đó là Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định thành, người
có công lớn kiến tạo thế ổn định cho miền Nam thời nhà Nguyễn.
Đó là Bình Ty Đại Nguyên soái Trương Định, vị anh hùng dân tộc
cầm đầu sự nghiệp kháng chiến chống Pháp đầu tiên ở Nam Bộ.
Đó là Quận công Trương Đăng Quế, Thái sư triều Nguyễn, một
người lập nên sự nghiệp lẫy lừng, mà tên tuổi đi cùng với địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh.
Và còn nhiều nhân vật có công với dân với nước mà chúng tôi
chưa đủ tư liệu để lập chương trình.
Các địa danh ở vùng đất này cũng có đặc thù tương tự, khi đọc
lên, không chỉ làm nao lòng những người con xứ Quảng, thậm chí còn vượt biên giới
quốc gia. Đó là: Ba Tơ, Mỹ Lai, Ba Gia, Vạn Tường, Dung Quất…
Thế nhưng, ngoài người anh hùng dân tộc Trương Định đã được
công nhận và lập đền thở hoành tráng, thì lịch sử cận đại của vùng đất này vẫn
còn tồn tại một số nghi án, mà đến nay, đã sang thế kỷ hai mươi mốt, vẫn chưa
được làm sáng tỏ. Danh thần thời Hậu Lê Bùi Tá Hán và Tả quân Lê Văn Duyệt được
nhìn nhận công nghiệp như thế nào trong sự nghiệp mở nước về phương Nam của nước
Đại Việt? Thái sư Trương Đăng Quế giữ vai trò gì suốt ba đời vua Minh Mệnh, Thiệu
Trị, Tự Đức và đóng vai trò như thế nào trong chủ trương chống Pháp của triều
đình Huế? Nhân vật này cũng đã đi vào lịch sử với một nghi án tày đình: Vua Tự
Đức có phải là con ruột của ông?
Những nghi vấn lịch sử đã bao trùm lên dư luận dân gian hàng
trăm năm, và ở một chừng mực nhất định, đã tác động đến sự nhìn nhận của giới
chức có trách nhiệm về văn hoá, ở các thế hệ sau này. Thế nhưng, chưa ai đặt ra
vấn đề, về bản thân các nghi vấn, rằng chúng cần được tìm hiểu, mổ xẻ để đưa ra
trước ánh sáng phán quyết của công luận. Lịch sử, như bản chất đặc thù của nó, ở
một thời điểm nào đó, có thể hàm chứa một dung lượng nhất định của nghi vấn và
sự huyền hoặc. Thế nhưng với thời gian, như một dòng nước gột rửa bao lớp phấn
son, cát bụi để trả lại dung mạo đích thực cho các sự kiện lịch sử, và sẽ không
còn chỗ cho sự mơ hồ. Các nghi vấn phải được làm sáng tỏ bằng những bằng chứng
lịch sử có tính thuyết phục, cộng với sự vận dụng tư duy logic.
Để làm được điều này, chúng ta cần các dữ liệu lịch sử trung
thực. Với trường hợp của Trương Đăng Quế, điều khó khăn trong việc giải mã các
tư liệu lịch sử nằm ở chỗ, hầu hết các tư liệu chính thống của triều đình, đều
đã ghi chép bằng chữ Hán. Ngay cả các tác phẩm của ông, hoặc do ông sáng tác
như Trương Quảng Khê tiên sinh tập, hoặc do ông làm Tổng tài chủ biên như Đại
Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện, Thiệu Trị văn quy, cũng đều viết bằng
chữ Hán. Có lẽ đây chính là lý do, khiến cho các nghiên cứu về Trương Đăng Quế
rất khó thực hiện trong bối cảnh Hán học suy tàn, và cũng vì lý do cắt nghĩa tại
sao, trong một thời gian quá dài, những nghi vấn về ông chưa được làm sáng tỏ.
Để khắc phục những khó khăn cơ bản đó, chúng tôi đã nhận được
sự trợ giúp quý học giả Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội, Viện Khoa học xã hội
vùng Nam Bộ và các dịch giả đàn anh. Kết hợp với các tư liệu thư tịch, nhất là
bộ sách đồ sộ ĐẠI NAM THỰC LỤC do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành, cùng với các
tư liệu thu thập từ quê nhà và từ các địa phương mà dấu chân của Trương Đăng Quế
từng đi qua hoặc dừng lại, chúng tôi đã có được nguồn tư liệu phong phú và đáng
tin cậy.
Nhiệt tình của đám hậu sinh, trước những nghi án lịch sử liên
quan đến một nhân vật gắn bó với quê hương như Trương Đăng Quế đã mang chúng
tôi đến với nhau, cùng góp sức trong khả năng của mỗi người, với hy vọng vén được
bức màn sương khói của thời gian, cũng như chứng minh được sự huyễn hoặc của
bao lời đồn đại, trả lại sự công bằng cho một con người đã đi vào lịch sử.
Với niềm hy vọng đó, kính mời quý độc giả, và các bạn, cùng
tham dự cuộc hành trình với chúng tôi trên chuyến xe về miền quá khứ, chiêm
nghiệm các tư liệu đã sưu tầm được, đến giờ này, để cùng rút ra kết luận về
chân dung đích thực của một con người: Trương Đăng Quế.
HỌ TỘC
Trương Đăng Quế tự là Duyên Phương (1), tên hiệu là Đoan Trai, biệt hiệu là Quảng Khê, người làng Mỹ
Khê, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Cuối thế kỷ XIX, huyện Bình Sơn tách làm
hai huyện, làng Mỹ Khê thuộc huyện Sơn Tịnh,
nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
Tiên tổ Trương Đăng Quế vốn người huyện Thạch Hà, tỉnh Hà
Tĩnh. Năm 1624, Trương Đăng Nhất (2) theo chúa Nguyễn vào cư trú tại Quảng Ngãi. Chúa Nguyễn vào
Nam từ 1558, đến 1624 là 66 năm, thì phía Nam
sông Gianh đã được xem thuộc các Chúa Nguyễn. Từ năm 1570, vua Lê chúa Trịnh đã
cử Nguyễn Hoàng thay Nguyễn Bá Quýnh kiêm lãnh trấn thủ Quảng Nam, đến năm
1611, Nguyễn Hoàng mở rộng xứ Đàng Trong, lập thêm phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng
Xuân và Tuy Hòa. Vả lại, từ năm 1613, sau khi Nguyễn Hoàng mất, người con là
Nguyễn Phúc Nguyên lên kế nghiệp, tức chúa Sãi, thì phía Nam sông Gianh đã được
xem như một vương quốc độc lập.
Trương Đăng Nhất sinh Trương Đăng Trường (hoặc Trưởng).
Trương Đăng Trường sinh Trương Đăng Hưng.
Trương Đăng Hưng sinh Trương Đăng Huỳnh.
Trương Đăng Huỳnh sinh Trương Đăng Giác.
Trương Đăng Giác sinh Trương Đăng Lượng.
Trương Đăng Lượng sinh Trương Đăng Phác.
Trương Đăng Phác sinh Trương Đăng Quế.
Từ thủy tổ Trương Đăng Nhất đến Trương Đăng Quế là 7 đời.
Nhưng về sau, kể từ thế hệ con Trương Đăng Quế, vì kỵ tên húy
vua Kiến Phúc triều Nguyễn tên là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, lên ngôi năm 1883, nên
họ Trương Đăng đổi thành Trương Quang như Trương Quang Trụ, Trương Quang Đản.
Trương Đăng Quế sinh năm 1793, đúng 169 năm, tính từ khi ông
thủy tổ Trương Đăng Nhất vào cư trú tại Quảng Ngãi. Một dòng họ cư trú liên tục
từ ba đời trở đi tại một địa phương nào thì là người gốc tại địa phương đó (1).
Đến Trương Đăng Quế thì dòng họ ông đã cư trú liên tục tại
vùng đất Quảng Ngãi đã 6 đời, 169 năm. Đó là một cư dân Quảng Ngãi thuần thành,
không còn chút gì của cư dân Hà Tĩnh. Vả lại, phần lớn dòng họ người Quảng Ngãi
nào mà chẳng có nguồn gốc xa xưa từ Thanh, Nghệ, Tĩnh đã kinh qua nhiều thế hệ
lai Chăm từ dòng máu, văn hóa, đến cách ăn ở sinh hoạt, giọng nói, từ vựng...
Họ Trương Đăng Quảng Ngãi nhiều đời làm quan cho các chúa
Nguyễn, từ Nguyễn Phúc Nguyên, trải qua các chúa Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc
Chu, Nguyễn Phúc Khoát, Nguyễn Phúc Thuần, nhưng chỉ là những chức quan địa
phương. Thời chúa Nguyễn, vùng đất phía Nam sông Gianh mới bắt đầu được khai
phá, đất đai hoang hóa còn nhiều, dòng họ nào khai thác giỏi đều được phong
quan chức để làm hiệu lệnh cho vùng đất đó. Họ Trương Đăng- Quảng Ngãi có lẽ là
một dòng họ có thanh thế vào thời kỳ đầu khai phá và xây dựng vùng đất Quảng
Ngãi.
Đến khi nhà Tây Sơn dấy lên thì họ Trương Đăng Quảng Ngãi mới
thực sự đóng vai trò lãnh đạo quan trọng. Thời Tây Sơn, bản thân Trương Đăng
Phác (cha Trương Đăng Quế) làm chức Tri phủ phủ Quảng Ngãi (khi đó Quảng Ngãi mới
là phủ, chưa là tỉnh nên không thể gọi là chức Tuần vũ), người anh là Trương
Đăng Chấn làm chỉ huy một cánh hải quân của anh em nhà Tây Sơn, người em là Tú
đức hầu Trương Đăng Đồ làm đô đốc chỉ huy một cánh bộ binh.
Cuối thời Gia Long, qua con đường khoa cử, họ Trương Đăng Quảng
Ngãi làm quan to cho Triều Nguyễn. Trương Đăng Quế là người Quảng Ngãi đầu tiên
đậu hương cống (cử nhân), là người khai khoa của tỉnh Quảng Ngãi, Trương Đăng
Trinh, con trai người anh của ông là người đỗ tiến sĩ đầu tiên của tỉnh Quảng
Ngãi, người khai khoa tiến sĩ của tỉnh Quảng Ngãi.
Họ Trương Đăng Quảng Ngãi là một họ tộc có truyền thống hiếu
học, và có danh vọng tại địa phương, liên tục có người được phong quan chức, đặc
biệt vào thời Tây Sơn và Triều Nguyễn. Họ Trương Đăng Quảng Ngãi là một trong số
các họ tộc đã có nhiều đóng góp trong bước đầu khai cơ lập nghiệp hình thành tỉnh
Quảng Ngãi.
THỜI NIÊN THIẾU
Trương Đăng Quế sinh ngày 01 tháng 11 năm Quý Sửu (1793), là
con thứ ba, và là con út của Trương Đăng Phác. Năm 9 tuổi, Trương Đăng Quế mồ
côi cha, là cậu bé chăm chỉ, thông minh, hiền lành nên được anh chị thương yêu
đùm bọc. Qua tập thơ bằng chữ Hán “Trương Quảng Khê tiên sinh tập”, ông thường
nhắc đến người chị rất đỗi thương kính, đã chăm lo cho ông từ việc nhỏ đến việc
lớn:
TẠM BIỆT CHỊ
Chưa uống lòng đã say
Nâng ly bụng không đành
Sớm nay tạm biệt chị
Mai đây em lên đường
Gió bấc se se thổi
Trăng cuối thu còn non
Vào đời em xin hứa
Hươu vượn, nghe làm gì
Thơ Trương Đăng Quế “Trương Quảng Khê tiên sinh tập”, NXB
Phương Đông, 2007, tr. 6
Và bài
ĐỂ LẠI CHO CHỊ
Phiền muộn nhiều sinh bệnh,
Chức cao dễ oán thù.
Thương thay bà chị họ,
Vì ta mà âu lo
Ngày ta mới ra đi
Chưa có chức tước gì
Mới thấy lòng chị qúi
Tốt xấu khó hợp hòa
Lòng mỗi người mỗi xa
Làm sao kết nhau được.
Thơ Trương Đăng Quế, Sđd, tr. 64
Khoảng năm 25 tuổi, ông được anh chị cho đi Huế ăn học. Có lẽ
là việc đi tìm thầy giỏi chốn kinh đô ôn luyện một vài năm trước khi thi. Từ
nơi thôn quê vùng biển thuộc giải đất miền Trung đơn sơ, thì Huế là nơi đô hội
đầy quyến rũ mà cũng đầy cạm bẫy. Ông có hai bài thơ kể chuyện du học ở Kinh đô
Huế mà thời bấy giờ thường được gọi là Tràng An:
DU HỌC Ở TRÀNG AN.
Khi ta rời khỏi nhà,
Nói là đi du học,
Vợ may cho áo mới,
Chị nắm cơm đi đường
Từ biệt ai cũng dặn
Phải nhớ ngủ cho ngon.
Vạn dặm đất khách xa
Cực khổ một thân ta.
Đột nhiên trong một sớm
Dậy trong lòng chí lớn,
Uống toàn rượu Đỗ Khang
Áo Thiên Tôn cho sang
Bạn mới, trang hiệp khách
Cố tri là phú thương
Dạo chơi khắp thành thị
Vui suốt chẳng ngày nghỉ
Ý khí thật mênh mông
Mênh mông mà rỗng không
Than ôi! Ta lo lắm.
Hỏng vì đời lông bông.
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 487
Với tâm tình của chàng trai trọ học nơi đất khách, mỗi
lần tết đến, nhìn cảnh người ta đoàn viên ăn lễ tưng bừng, riêng mình buồn tủi
nhớ nhà
TẾT ĐOAN NGỌ
Sống lâu ngày đất khách
Xuân đi tự bao giờ
Người bảo tết Đoan Ngọ
Sáng dậy ra ngoại ô
Người lấn chen hối hả
Có cô gái hàng hoa
“Răng nỏ mua bông nợ
Ngày tháng mô có chờ?
Ta cảm thấy ngường ngượng
Mua cô nàng chuỗi hoa
Hương thanh sực nức mũi
Xuân quả thật đã qua
Vấn vương quá bất ngờ
Hè nắng nôi khá rõ
Ta chẳng chút xôn xao
Quang cảnh thật ồn ã
Mua lễ cúng ông bà
Mời chào ta niềm nở:
Ngồi một chắc xụi lơ?
Phải sống răng cho sướng
Khắng túi moi tiền ra
Về treo trên giường ngủ
Rõ nhưng rồi tiệc hoa
Lần chuỗi hoa còn tủi…
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 33
HỌC VẤN CỦA NHÀ NHO THỜI NHÀ NGUYỄN
Trước khi đi vào luận định một nhân vật trong lịch sử, cần
tìm hiểu bối cảnh lịch sử mà nhân vật ấy đã sống và hoạt động, mà trong đó, phần
quan trọng là môi trường giáo dục đào tạo mà nhân vật ấy được thụ hưởng. Tất
nhiên, còn nhiều lãnh vực quan trọng khác nữa về chính trị, kinh tế, xã hội...
liên quan đến cuộc sống của nhân vật ấy.
Gần đây, giới sử học tập trung nghiên cứu về nhà Tây Sơn,
cũng như chú ý đến những đóng góp về kinh tế của triều Mạc. Đó là hai triều đại
mà tư liệu sử học còn lưu lại quá ít vì bị các triều sau hủy phá gần hết, nên cần
thiết phải khảo sát bổ sung nguồn tư liệu, ngõ hầu đánh giá cho tương xứng với
sự nghiệp của hai triều đại đã tạo ra nhiều biến động trong lịch sử nước ta
theo hướng tích cực về mặt kinh tế, văn hóa, xã hội.
Còn triều Nguyễn, triều đại sau cùng đã từng tồn tại trong lịch
sử dân tộc hơn một thế kỷ. Tất yếu, triều Nguyễn kế thừa và phát triển việc quản
lý đất nước của các triều đại phong kiến trước đó về các mặt hành chính, bang
giao, quân sự, giáo dục, sản xuất, thuế khóa và pháp luật (lục bộ: Lại, Lễ,
Binh, Học, Công, Hộ, Hình). Cho nên, có thể nói triều Nguyễn đã đạt đến trình độ
hoàn thiện và tinh vi nhất nền cai trị kiểu phong kiến ở nước ta, so với các
triều đại Đinh, Lê, Lý Trần, Lê trước đó.
Ở đây, chỉ khảo sát việc học thời nhà Nguyễn, để tìm hiểu
phương pháp đào tạo nhân tài thời phong kiến.
Một chế độ giáo dục đào tạo những nhà chính trị mà nhà văn
Pháp Nobel văn học 1965, Albert Camus đã từng đánh giá:
“Hòa bình thế giới có thể bảo vệ, nếu những người có thiện
chí ở các nước thành lập được một thứ hội đoàn quốc tế theo kiểu các sĩ phu Nho
học và dựa trên cơ sở học thuyết của Khổng Tử”.
Đối với Albert Camus, Nho giáo là một học thuyết như mọi
học thuyết khác, nhưng người ta tìm thấy ở đây một căn cứ để mở tầm nhìn rộng lớn
đối với con người và đối với vũ trụ. Đối với người Việt Nam, Nho giáo còn hơn
là một thứ học thuyết ghi chép trong sách của thánh hiền, đó là một di sản của
lịch sử, một di sản lịch sử để tiếp thu, để chống lại, để vượt qua trong quá
trình chuyển biến lịch sử mà đất nước đang phải trải qua trong thời kỳ hiện nay (1).
Nhận định của một nhân vật tầm cỡ như Albert Camus,
chúng ta không thể xem thường, nhưng tại sao những con người được đào tạo theo
phương pháp ấy đành chịu thúc thủ trước phương Tây. Không chỉ ở Việt Nam, mà cả
đến cái nôi là Trung Quốc, lúc bấy giờ đã có số dân đông áp đảo?
Chúng ta tuần tự khảo sát xem học gì.
I. Giáo dục nhà Nho:
Nho giáo là học thuyết chính thức sử dụng trong thi cử ở nước
Việt Nam xưa. Kỳ thi đầu tiên mở năm 1075 và kỳ thi cuối cùng vào năm 1919.
Trong mười thế kỷ, học thuyết đó là giềng mối tri thức và tư tưởng của người Việt
Nam. Nhà nước phong kiến tuyển chọn quan lại cao cấp qua các kỳ thi, mở ra cho
mọi người tham gia, không phân biệt tầng lớp, giai cấp (chỉ trừ phụ nữ và phường
hát).
Trước tiên, người học chữ Nho phải học qua các sách giáo khoa
thông thường như Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự, Sơ học vấn tân,
Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn, Tam tự kinh. Đó là các sách ban đầu dạy
tiếng một, đặt thành câu có vần cho dễ nhớ, rồi tiến tới dạy các sách cho trẻ
con biết luân thường đạo nghĩa. Các sách ấy đặt theo lối văn vần, cho dễ học dễ
nhớ, “thành ra trẻ con học thuộc những câu ấy, tuy lúc nhỏ chưa hiểu rõ nghĩa
lý, nhưng khi lớn lên nhớ ra, ôn lại thời dần dần cũng vỡ vạc thấm thía các
nghĩa lý ấy, coi những câu ấy như châm ngôn trong việc tu thân xử thế” (1) rồi mới học đến Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Cổ
văn.
1. Tứ thư gồm 4 sách: Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh Tử.
- Đại học: Sách dạy về tôn chỉ của người quân tử, phương pháp
và cách thực hành, gồm hai phần: Kinh (chép lời của đức Khổng Tử) và Truyện (giảng
giải của Tăng tử vốn là học trò giỏi của đức Khổng Tử). Đó là luận lý học Tám
bước:
* Cách vật: khảo sát, nghiên cứu các lẽ mọi vật.
* Trí tri: để biết cho thấu đáo cùng cực.
* Thành ý: thì ý mới có thể thành thật.
* Chánh tâm: thì tâm mới được chánh.
* Tu thân: phải năng sửa mình (chủ yếu là sửa mình cho chánh
tâm).
* Tề gia: rồi mới chỉnh đốn được việc nhà.
* Trị quốc: thì mới có khả năng cai trị đất nước.
* Bình thiên hạ: và bình thiên hạ.
- Trung dung: do cháu đức Khổng Tử là Tử Tư chép những
lời tâm pháp do học trò ngài truyền lại. Sách này luận thuyết về đạo làm người
quân tử. Trung là không cực đoan, không thiên lệch, dung là thường có, không
thay đổi. Đạo Trung dung là đạo dạy phải hành xử đúng mực, không thái quá,
không bất cập, phải có ba cái đạt đức là Trí, Nhân, Dũng. Trí, để biết rõ các sự
lý, Nhân, để hiểu điều lành mà làm theo, Dũng, là cái khí cường kiện làm điều
lành cho đến cùng. “Sách Trung dung nói cái đạo của thánh nhân căn bản ở Trời,
rồi diễn giải ra hết mọi lẽ, khiến người ta phải giữ mình cho kính cẩn trong
khi hành động và khi im lặng một mình. Suy cái lý ấy ra cho đến sự nhân nghĩa,
để khiến cho cả thiên hạ được bình trị và lại tán dương cái công hiệu linh diệu
của đạo ấy cho đến chỗ tinh thần vô thanh, vô sắc mới thôi. Thật là một quyển
sách triết lý rất cao”.(1)
- Luận ngữ: Sách chép lời đức Khổng Tử dạy học trò và lời nói
chuyện của Khổng Tử với những nhân vật đương thời về các vấn đề: luân lý, triết
lý, chính trị, học thuật do các môn đệ của ngài thu thập biên soạn. Đây là sách
dạy làm người quân tử trong thực tế, phác họa mẫu mực hoạt động cho người đời
sau theo. Đó là người có phẩm cách cao thượng, hồn hậu, thành thực, khiêm cung,
khoáng đạt...
- Mạnh Tử: Sách do Mạnh Tử biên soạn. Mạnh Tử (sống sau Khổng
Tử khoảng 300 năm) phát triển mở rộng Nho giáo có từ thời Khổng Tử. Ông đề xướng
thuyết Tính Thiện (Nhân chi sơ tính bản thiện), cho rằng phẩm cách của người
quân tử mà ông gọi là đại trượng phu, là người có đủ bốn điều Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí. Ông mở sự quan tâm của người quân tử sang địa hạt kinh tế. Ông nói:
“Người có hằng sản thì mới có hằng tâm. Ông chỉ cho các bậc
vua chúa thời bấy giờ các phương lược phát triển trồng trọt, chăn nuôi, công
nghệ”.
Tứ thư là bộ sách cốt yếu của đạo Nho, mà bất cứ nhà Nho nào
cũng phải nghiên cứu, nghiền ngẫm và lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ,
hành vi suốt đời mình.
2. Ngũ kinh: là năm bộ sách do đích thân Khổng Tử biên soạn.
- Kinh Thi: là sách sưu tập ca dao vùng nông thôn và nhạc
chương nơi triều miếu trong xã hội Trung Quốc thời cổ đại. Khổng Tử sưu tầm đượ
ba ngàn thiên, chọn ra 305 thiên sắp xếp thành bốn phần là Quốc phong, Tiểu
Nhã, Đại Nhã, Tụng.
* Quốc phong: là những câu ca dao nơi nông thôn từng nước, lại
chia ra: chính phong (các bài hát từ trong cung điện hoàng đế Trung Hoa, vua
các nước chư hầu truyền ra), biến phong (ca dao tại mười ba nước chư hầu).
* Tiểu Nhã: những bài hát trong cung đình, thường dùng trong
các cuộc tiệc tùng.
* Đại Nhã: những bài hát dùng trong các trường hợp quan trọng
như khi thiên tử họp các vua chư hầu, hay khi tế miếu đường.
* Tụng: những bài ngợi ca các vua anh minh thời trước dùng để
hát nơi miếu đường.
- Kinh Thư còn gọi là kinh Thượng Thư: ghi chép Điển, Mô, Huấn,
Cáo, Thệ, Mệnh của nhà vua và bề tôi tại các triều đại nước Trung quốc từ thời
Nghiêu Thuấn đến thời Đông Chu.
+ Điển: những chế độ kiến thiết về đời Đường (Nghiêu) và
đời Ngu (Thuấn).
+ Mô: điều trần của các quan đời Ngu.
+ Huấn: Lời vua tôi khuyên nhau điều hay, lẽ phải.
+ Cáo: Lời răn bảo của vua khi bổ nhiệm họ sắp đi làm
quan
+ Thệ: Lời thề, cũng như bài “ hịch “ trước khi chinh
chiến.
+ Mệnh: Sắc lệnh của vua.
Ý tứ lời của vua răn bầy tôi, lời bầy tôi khuyên vua trong một
đất nước thái bình hạnh phúc, đựơc gọi là thời đại hoàng kim, là xã hội lý tưởng
của mọi thơì đại (1).
- Kinh Dịch: sách lý giải lẽ biến hóa của trời đất và hành động
của muôn vật, là một công trình rất lạ trong văn học thế giới, chỉ là những nét
vạch ngang (hào), một liền, một đứt, chồng lên nhau, sắp xếp thành ba vạch (quẻ
đơn), sáu vạch (quẻ kép), thay đổi không trùng lặp mang những ý nghĩa khác
nhau, gắn kết nhau theo quy luật, thể hiện khái quát mọi lẽ biến dịch (2).
- Kinh Lễ còn gọi là Lễ ký: là sách chép các lễ nghi trong
gia đỉnh, hương đảng và triều đình.
- Kinh Xuân Thu: là quyển sử nước Lỗ, viết theo thể biên niên
trong thời gian 243 năm. Là cuốn sử đề cao thuyết Chính danh. Ngày xưa, nhà Nho
cho rằng giá trị sách Xuân Thu lớn lắm, và giá trị kinh Xuân Thu ở chỗ “chính
danh định phận”, “ngụ bạo biếm, biệt thiện ác”. Nói cách khác, giá trị kinh
Xuân Thu ở chỗ tác giả gởi gắm tâm trí, trình bày một cách gián tiếp, quan điểm
đánh giá nhân vật và sự việc. Khổng Tử nói: “ Người biết ta chỉ ở Xuân Thu, người
trách ta cũng ở Xuân Thu”. Nam Sơn phu tử Nguyễn Đức Đạt (thầy Nho nổi tiếng xứ
Nghệ thế kỷ 19), đánh giá “Kinh Xuân Thu là gấm là hoa, kiêm cả Thi, Thư, Lễ,
Nhạc, Dịch” (3).
3. Bắc sử, Cổ văn: là sử và văn học Trung Quốc. Sử từ thời
Ngũ Đế đến Nguyên Minh. Cổ văn Trung Quốc thì phỏng theo sách “Bội văn vận phủ”
của Trung Quốc mà bổ sung, làm thành sách. “Thu tóm cả xưa và nay vào túi, vét
cả lớn bé vào rọ, nhờ đó học vấn được thịnh”.
Cái chung nhất, cái cơ bản nhất của Nho giáo là cương thường,
đó là: Bát điều mục, Cửu trù, Thiên mệnh, Chính danh, Tùy thời, Nhân trị, quân
tử và tiểu nhân... được các nhà Nho mọi thời đại xem là chân lý vĩnh cửu, là “Đạo”,
là “thiên địa chi thường tình, cổ kim chi thông nghị”, “thiên địa bất biến, đạo
diệc bất biến” (1).
Nam Sơn phu tử bảo:
“Tóm hết sự biến đổi trong thiên hạ, thông suốt tình hình
trong thiên hạ, không sách nào rõ bằng Kinh Dịch. Nêu lên chế độ trong thiên hạ,
bồi thực cái gốc cho thiên hạ, không sách nào rõ bằng Kinh Thư. Thu thập trí tuệ
của thiên hạ, giúp đỡ việc trị an cho thiên hạ, không sách nào rõ bằng Kinh
Thi. Chấn chỉnh quyền bính trong thiên hạ, không sách nào rõ bằng Kinh Xuân
Thu. Châm chước điển tác trong thiên hạ, định ra đạo chí cực cho thiên hạ,
không sách nào rõ bằng Kinh Lễ”.
Chúng ta phải công nhận công lao to lớn của Khổng Tử trong việc
thiết lập nền trật tự, dẫn đến sự yên vui cho quần chúng, đã mang đến cho họ
bao nhiêu nguồn hạnh phúc nho nhỏ. Lập luận của Khổng tử nếu ta thấu suốt được
thì giá trị con người sẽ được nâng lên, quan niệm về cuộc sống sẽ trở nên rộng
rãi và độ lượng biết mấy (2).
II. Cái học Nho giáo trong thời Nguyễn.
Thế kỷ 18, Lê Mạc, rồi Trịnh Nguyễn phân tranh, chế độ phong
kiến bị khủng hoảng nặng nề, ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội, trong đó có việc học
hành thi cử. Cuối triều Lê- Trịnh, việc học việc thi đã trở nên suy đồi.
“Khảo thí cốt để chọn người tài giỏi, xưa nay lệ thi Hương
chưa bao giờ nghe nói lấy tiền thay thế khảo hạch. Từ trung hưng (Lê Lợi đánh
đuổi quân Minh trung hưng đất nước) trở về sau, cách thức tinh mật, không còn
chê vào đâu được. Các đời sau noi theo, đều lấy được thực tài, những người cắp
sách đi học thì biết khoa trường là trọng. Từ khi kẻ nịnh thần đề nghị đổi phép
thi, thì hạng “sinh đồ ba quan”, đầy cả thiên hạ...” (1)
Các vua đầu triều Nguyễn đều hết sức chú trọng đến việc học
và thi, nghĩa là việc đào tạo và tuyển lựa nhân tài cho chế độ. Họ đều nhận rõ
vai trò trọng yếu của văn hóa, giáo dục, tư tưởng trong việc củng cố chính quyền.
Họ muốn, họ quyết làm như nhà Tống: tập trung mọi quyền hành, thống nhất chính
trị, thống nhất tư tưởng. Trừ Gia Long là người rất tự mãn về võ công của mình,
các vua đầu triều Nguyễn đều là những nhà Nho khá uyên bác, hơn nữa, họ là những
nhà thơ, nhà văn say mê văn học, có nhiều sáng tác. Chính Gia Long là người ra
chỉ thị:
“Học hiệu là nơi chứa nhân tài, phải giáo dục có căn bản thì
mới có thể thành tài, trẫm muốn bắt chước người xưa, đặt nhà học để nuôi học
trò ngõ hầu văn phong dấy lên, hiền tài đều nổi, để cho nhà nước dùng”. (2)
Minh Mạng bàn với đình thần Lương Tiễu Tường:
“Trẫm từ khi thân chính đến nay, chưa từng lúc nào không lấy
việc đào tạo nhân tài làm việc ưu tiên... Đế vương ngày xưa dùng người có tài
có phải vay mượn nhân tài ở đời khác đâu” (1).
Minh Mạng ra Dụ cho bộ Lễ:
“Đạo trị nước tất phải lấy việc gầy dựng nhân tài làm việc ưu
tiên, mà phương pháp gây dựng thì trước hết phải nuôi cho có sẵn. Đời xưa, con
trưởng các công khanh đại phu và những đứa tuấn tú con nhà dân, đến 15 tuổi phải
vào đại học” (2).
Thiệu Trị ở ngôi có bảy năm mà mở đến 11 khoa thi, tự hào là
chấn hưng văn trị. Lâm Duy Thiếp cho là “Từ cổ, đặt chế độ, mở khoa thi, lấy
nhân tài, không đời nào thịnh bằng đời này”. Tự Đức tiếp tục sự nghiệp giáo dục,
văn học của ông của cha. Bản thân Tự Đức là người học rộng, nhớ nhiều, sáng tác
nhiều. Tự Đức tự tay ra nhiều đề thi và tự tay chấm các bài đối sách thi Đình,
những bài thi cấp cao thường có quan hệ với thời cuộc chính trị, trưng cầu kiến
giải của thí sinh nhằm phát hiện nhân tài. Tự Đức lại bắt buộc các hoàng thân,
các đình thần, hai ngày mỗi tháng, tập hợp cùng nghe giảng kinh điển với nhà
vua. Giảng viên là những danh nho như Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Trương
Quốc Dụng...
Cụ Phan Bội Châu kể việc học thời của cụ, vào cuối thế kỷ 19:
“Năm lên sáu tuổi, cha dắt tôi đến trường, trao cho tôi sách
chữ Hán, mới ba ngày đã đọc trầm (thuộc) hết quyển sách “Tam Tự kinh”, không
sót một chữ. Cha lấy làm lạ, đem “Luận ngữ” cho tôi đọc, tập làm văn trẻ con,
và khiến viết trầm những sách đã đọc, mỗi một bài học phải viết đến mười tờ. Vì
nhà nghèo không mua được nhiều giấy, thường lấy tàu chuối thay giấy, viết vào đọc,
đọc thuộc thì đốt ngay.
Năm tôi lên bảy, bắt đầu đọc các kinh truyện, thảy đều biết
được ý nghĩa sơ sơ. Thường nhái sách “Luận ngữ”, làm bản “Phan tiên sinh Luận
ngữ” có nhiều lời chê cười các bạn học, cha thấy được, đánh đòn thật đau. Lên
tám, đã hay làm những văn ngắn theo thời tục, đi thi tiểu khảo ở hương lý phủ
huyện đều đỗ đầu.
Lên mười ba tuổi, đã làm được các thức thi văn, hoặc lối cận
lối cổ, nhiều câu các thầy già ở hương thôn không cắt ra nghĩa. Lúc bấy giờ cha
tôi đã không ưng dạy tôi nữa, muốn khiến tôi đi học ở các trường đại gia, nhưng
vì xã thôn gần miền không có trường lớn, lại khổ vì nhà nghèo không thể đi học
xa được, nên phải học ở trường cha, mà lại đến thỉnh nghiệp với Nguyễn tiên
sinh ở xã Xuân Liệu. Tiên sinh là ông Nguyễn Kiều, Hán học thông lắm, đậu cử
nhân, bổ Biên tu, chốc bỏ quan về nhà, gặp lúc nước loạn, ẩn dạy học trò. Tôi đến
học, được tiên sinh khí trọng lắm, thường mượn sách vở các nhà đại gia cho đọc
nên văn chương Hán học của tôi mới sở đắc được nhiều. Nhưng tiếc thay, lúc bấy
giờ chỉ đua đuổi bằng văn khoa cử, không có gì đáng chép...” (1).
Triều Nguyễn sau các triều Lý, Trần, Lê, Trịnh, tất nhiên là
triều đại kế thừa và phát triển các triều trước, kể cả trong việc học và thi. Hầu
như đại bộ phận các nhà văn nhà thơ nổi tiếng trong Văn học sử nước ta xuất hiện
trong thời nhà Nguyễn.
“Ngoài các sáng tác tập thể của các cơ quan nhà Nguyễn, cá
nhân các nhà Nho cũng viết khá nhiều, nhiều hơn lúc nào hết. Các vua Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự Đức là ba nhà thơ viết rất khỏe, tác phẩm của họ còn là những bài
Luận, Dụ quan trọng, chứa đựng một số nét tư tưởng độc đáo so với lúc ấy. Đình
thần, tỉnh thần, các nhà Nho riêng lẻ viết nhiều trên nhiều loại sáng tác từ tư
tưởng, lịch sử, địa dư, đến thơ văn, tiểu thuyết, tuồng hát, y học... Trong số
đó có những nhà văn đại tài, những tác phẩm trứ danh, những học giả uyên bác,
thuộc vào loại nhất trong lịch sử văn hóa ngàn năm của nước ta từ trước đến đó.
Hiển nhiên là có những bông hoa sinh nụ từ Lê mạt, Tây Sơn nay mới nở, và cũng
phải nói rằng, hiển nhiên có nhiều bông hoa văn hóa tự nó sinh ra, chứ không phải
nhờ triều đình chăm sóc, dù là gián tiếp” (1).
Nhưng trong khi bên trời Tây, người ta đã tìm ra Tân thế giới,
rồi phát kiến sức mạnh của hơi nước, chế được máy hơi nước, mở ra nhiều môn học
mới phát triển công nghiệp, nâng cao kỹ thuật và đời sống, thì tầng lớp trí thức
nước ta chưa có gì mới:
“Tại Việt Nam tên tuổi của những người, những tác phẩm đã
đóng góp vào việc nâng cao trình độ học thức của người Trung Quốc luôn luôn được
truyền tụng. Nhưng đối với các nhà Nho học của ta, khi nghe các ông bàn luận,
thì dường như chỉ biết có một mình ông Khổng Tử. Người có học, đương nhiên đều
tôn kính Khổng Tử. Người da vàng tưởng nhớ và biết ơn Khổng Tử, nhưng những bậc
cao siêu thì rất ngần ngại khi phải chấp nhận nhà đạo đức, nhà triết gia của quảng
đại quần chúng này, là người thầy, người hướng dẫn con đường trí tuệ và tinh thần
của mình
Điểm mấu chốt trong học thuyết của Khổng Tử nằm trong con người,
trong việc tự tu dưỡng bản thân của mỗi người. Nó đòi hỏi trước nhất phải thấu
hiểu tường tận nguyên nhân và cội rễ của mọi hành động của con người. Nói khác
hơn, am hiểu hành vi con người tức là nắm được công lý vậy. Hãy hiểu người ta
trước khi xét đoán, hãy phân tích cặn kẽ rồi hãy phán đoán. Mà rồi, thử hỏi ai
là người có thể luận tội và kết án một hành động mà mình tự cho là đã nắm được
căn nguyên cội rễ? Khoan dung, độ lượng, vị tha trở thành kết quả đương nhiên của
một nguyên tắc sống như vậy. Con người bớt khắc nghiệt với người khác hơn là với
chính mình, sẽ đòi hỏi ở bản thân mình nhiều hơn là ở người khác, sẽ chỉ đòi hỏi
ở bản thân mình mà thôi”. (1)
Đó là cái học còn ở dạng hướng nội, nằm ở tầng triết học không
còn phù hợp với tình hình thế giới thế kỷ 19, đang biến chuyển rất nhanh. Tình
hình xã hội thực tế đã vượt quá xa sở học của nhà Nho. Nguyễn An Ninh vạch ra
thế thua của tư duy giới nhà Nho triều Nguyễn, lẽ tất nhiên phải gánh chịu sự
thảm bại nghiệt ngã của lịch sử, hoàn toàn bó tay trước sức tiến công của văn
minh tư bản phương Tây. Thời Tự Đức, nước ta phải đương đầu với một sức mạnh tầm
cỡ thế giới là thực dân Pháp mà cả triều đình lúc ấy còn hiểu rất mơ hồ, xem họ
như là đám thương nhân hạ cấp, để rồi bị đám thương nhân ấy đánh cho thất điên
bát đảo, thua hết trận này đến trận khác, để phải bị hết nhượng bộ này đến nhượng
bộ khác gần như liên tục, đến nỗi, phải nhục nhã cắt đất, dẫn đến mất nước, mất
luôn nền độc lập dân tộc.
Giúp việc cho Tự Đức là những nhà Nho ưu tú được tuyển lựa hết
sức nghiêm ngặt theo chế độ thi cử tuyển chọn nhân tài ra làm việc cho nước. Quả
thật, phần lớn các danh nhân nước ta thế lỷ 19 đều là những người đỗ đạt, đa số
ra làm quan, phục vụ triều đình, phục vụ đất nước.
Chú thích:
(1) Ngày nay, ở Âu Mỹ, Hiến pháp
quy định ứng cử viên Tổng thống của một quốc gia, chỉ cần sinh ra trên nước ấy
và cư trú liên tục từ 10 năm trở lên, tức là họ cho rằng chỉ cần hai thế hệ là
đủ điều kiện làm công dân của nước đó. Ở ta hiện còn cơ chế lý lịch ba đời,
ngoài nơi sinh của bản thân, còn có mục nguyên quán, tức nơi sinh của người
cha, tức là tính đến thế hệ ông nội. Ngày xưa, nhà viết sử của ta thường nhắc đến
nguồn gốc lâu đời của nhà vua mở triều đại, như nguồn gốc tộc người Hoa của Sĩ
Nhiếp, của nhà Trần, nhà Hồ, nhà Nguyễn. Người ta viết rằng tổ tiên Trần Thái
tông qua Việt Nam sinh sống đã năm thế hệ, Sĩ Nhiếp thì sáu thế hệ, ông tổ Sĩ
Nhiếp qua đất Việt sinh sống từ thời loạn Vương Mãng. Trường hợp Hồ Quý Ly còn
xa hơn nữa, ông tổ họ Hồ qua đất Việt từ thời nhà Hậu Hán (947-950) tới khi Hồ
Quý Ly ra đời (khoảng năm 1350) là gần bốn trăm năm, mười sáu thế hệ. Nhà Nguyễn
lại càng quá xa, từ thời quan Thái thú Nguyễn Phu, thế kỷ thứ 3.
Thật ra thì sao? Trần Thái Tông, Hồ Quý Ly, Nguyễn Hoàng cũng
giống như những nhà vua mở triều đại nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý. Sự nghiệp của họ
hoàn toàn giống nhau trên lập trường lãnh đạo nhân dân quyết liệt chống lại ách
xâm lược từ phương Bắc. Về mọi phương diện, họ đã được sinh ra và lớn lên trong
môi trường Việt, không còn chút ảnh hưởng nào của ông tổ xa xưa trong tư duy
cũng như trong mọi cung cách sinh hoạt của họ nữa. Họ hành động như mọi người
trong cộng đồng các dân tộc Việt. Nhưng những nhà viết sử Trung Quốc thời phong
kiến luôn nhắc đến nguồn gốc ấy, cũng như họ coi nước ta là một nước chư hầu của
họ, giống như nước Việt, nước Sở... thời Xuân Thu chiến quốc bên Tàu, là chư hầu
của hoàng đế nhà Chu. Cái cớ họ dựa vào là triều đại nào của ta cũng do họ
phong vương. Tất nhiên, ngày nay chúng ta hiểu đó là sách lược ngoại giao của
ông cha ta phải xin cầu phong nước lớn để rảnh tay xây dựng đất nước.“ Chứng cớ
là sứ Tàu đến rồi phải đi, chứ không được ở lại hoặc để làm mật thám, hoặc để
gây mâu thuẫn nội bộ trong nước ta, hoặc để áp chế hay yêu sách theo cách này hay
cách khác. Phải nhận rõ là vua nước ta chỉ là một ông vua nước nhỏ, còn
vua Tàu là ông vua nước lớn. Phải cần cho khỏi có ngoại xâm ở phía Bắc…” (theo
Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, tr. 143).
Thật sự, trên mọi phương diện, nước ta là một nước hoàn toàn
độc lập. Sử gia của ta ngày xưa bị ảnh hưởng lối viết sử kiểu này, nhấn mạnh những
yếu tố rất phản khoa học, bởi vì họ bị ảnh hưởng cái học nhà Nho đến mức sùng
bái, khiến cho có những điều họ hành xử một cách vô thức như phát hiện của
Tâm phân học Freud. Viết sử Việt mà lại đi ca tụng Mã Viện, người đánh diệt Hai
Bà Trưng, cướp bóc châu báu chở về mấy xe, bị cáo giác rồi bị vua nhà Hán khép
tội, tịch thu tài sản, đày đi biên ải phía Tây, vĩnh viễn không được về. Thế mà
trong văn học ta viết lời ca tụng Mã Viện là da ngựa bọc thây, mà quên mất cái
tội tày đình của Mã Viện đối với sự nghiệp Hai Bà và nhân dân ta. Đó là cách
đánh đồng cái học Nho giáo với các triều đại phong kiến của Trung Quốc.
Cũng cần nên biết, trong tác phẩm “Trung Việt Văn hóa luận tập”, một quyển
sử cận đại Trung Quốc vào đầu thế kỷ XX, viết rằng những dòng họ làm vua ở nước
ta như Sĩ Nhiếp, nhà Tiền Lý Nam đế, nhà Ngô, nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ, nhà
Nguyễn đều là người Trung Hoa hết cả. Họ đã không chứng minh được nguồn gốc nhà
Đinh và nhà Lê, nên họ cho là tổ tiên hai họ này là người Việt.
Ngày nay, chế độ chúng ta thừa nhận rằng, một người có nguồn
gốc xa xưa thuộc bất kỳ tộc người nào, Mường, Thái, Kinh, Hoa, Chăm, Khmer...,
nếu người ấy đã sinh ra và lớn lên tại Việt Nam thì người ấy hoàn toàn thuộc cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Các nhà khoa học Mỹ đã làm trắc nghiệm và khảo sát khoa học
trên mẫu rất cụ thể, cho biết rằng người da đen gốc Phi không khác gì người da
trắng gốc Âu về mặt sinh học, chỉ khác nhau ở trình độ giáo dục và định kiến xã
hội mà thôi. (Robert V. Kail và John C. Cavanaugh, Human Development,
United States of America, 2000).
(3) Trần Văn Giàu: Hệ ý thức Phong
kiến và sự thất bại của nó trước các nhiệm vụ lịch sử. NXB Thành phố Hồ Chí
Minh 1993. tr. 82-83.
(1) Phan Bội Châu: Tự Phán. Tr.
20-21.
II. Các phong trào chống đối triều Nguyễn.
Sau chiến thắng lẫy lừng, đánh tan 20 vạn quân Thanh năm
1789, vãn hồi trật tự toàn miền Trung, miền Bắc, vua Quang Trung đang bắt tay
vào việc chiếm lại Nam Bộ thì đột ngột qua đời năm 1792. Thiếu người đủ tài
năng hướng sức mạnh vào việc ổn định và phát triển, thì những bất đồng nội bộ
có cơ hội nảy sinh, nhà Tây Sơn bắt đầu suy yếu. Để rồi chưa đầy 9 năm sau khi
Quang Trung qua đời, nhà Tây Sơn bị sụp đổ hoàn toàn.
Nhà Tây Sơn có một số chương trình cải cách, hấp dẫn nhiều
người, trong đó có giới sĩ phu, những người ưu thời mẫn thế, nhất là giới trẻ,
nhưng khi Trương Đăng Quế đến tuổi trưởng thành thì cái chế độ lý tưởng ấy đã
trở thành quá khứ mất rồi, chỉ tồn tại qua lời kể của các bậc cha anh, qua những
câu chuyện như cổ tích. Ai nghe cũng thích, nhưng chẳng thấy một ai giương ngọn
cờ cách tân. Hóa ra bậc anh hùng cái thế chỉ mỗi một Quang Trung. Thiếu bậc anh
hùng ấy, thì ai nấy như gà mắc tóc, tan hàng rã ngũ, lo chạy tháo thân dưới sự
truy đuổi tàn sát của Nguyễn Ánh.
Nói nhà Tây Sơn cách tân, tức là nói vua Quang Trung phán
truyền các chỉ thị mang tính cách tân, chứ chẳng phải có lý luận, có chương
trình, kế sách cụ thể như ngày nay. Vua kế nghiệp bất tài thì sự nghiệp cải
cách khó lòng duy trì và cỗ máy phong kiến nặng nề vẫn cứ lăn bánh theo lối mòn
của cả ngàn năm tồn tại. Nhà Tây Sơn lóe sáng qua hình ảnh một anh tài cái thế
Quang Trung. Sau hai trăm năm phân tranh loạn lạc, đã hun đúc cho đất nước một
nhân tài cứu dân rực sáng. Bất hạnh thay cái hình ảnh vĩ đại là niềm hy vọng của
dân tộc, đã tắt đi nhanh quá. Thật sự, những người kế thừa vua Quang Trung đã
không gây được chút ấn tượng nào về việc duy trì và phát triển một chương trình
cải cách sáng suốt, đi trước thời đại của người lãnh đạo văn võ toàn tài. Suốt
thời nhà Nguyễn, có nhiều cuộc nổi dậy chống lại triều đình, nhưng trong đó
không nổi rõ vai trò lãnh đạo của nhà Tây Sơn. Hoặc là nhà Tây Sơn quá ngắn ngủi,
chưa tạo được chỗ đứng trong lòng giới sĩ phu phong kiến và trong nhân dân, hoặc
là những lãnh tụ khởi binh chống triều đình không có chương trình cải cách nào
hợp với nhân tâm, nên dễ dàng bị quân triều đình tiêu diệt khi vừa mới dấy lên.
Các phong trào chống đối triều đình đã không thể hiện điều gì mới mẻ hơn triều
Nguyễn, mà loanh quanh ở mấy chiêu bài phò Lê, chống quan lại địa phương nhũng
nhiễu.
Thực ra cả thời nhà Nguyễn không bao giờ yên ổn, nhất là từ
thời Minh Mạng. Minh Mạng mới lên ngôi, xảy ra cuộc nổi dậy của Phan Bá Vành
(1821), và Vũ Đức Cát vùng Sơn Nam (Nam Định), thanh thế lan đến Hải Dương. Sáu
năm sau, Nguyễn Công Trứ dẹp yên. Lê Duy Lương lấy danh nghĩa nhà Lê, thừa lúc
nhân tâm bất mãn, liên kết với các tù trưởng Mường ở Hòa Bình nổi lên năm 1831,
đến năm 1833 thì tan. Lê Văn Khôi được sự ủng hộ của nông dân nghèo và bị một số
cha cố Thiên Chúa giáo lợi dụng, nổi lên năm 1833, khiến cho quân Xiêm thừa cơ
phá phách Hà Tiên, Châu Đốc, đến năm 1835 thì sự biến Lê Văn Khôi bị thất bại
hoàn toàn. Trong đời Tự Đức, có giặc châu chấu là lớn nhất. Năm 1854, vùng Sơn
Tây, Bắc Ninh, châu chấu phá hại mùa màng, nhân dân đói khổ, nhà nho Cao Bá
Quát, thừa cơ hội, phù Lê Duy Cự nổi lên chống triều đình, dân nghèo đói theo rất
đông. Đến năm 1855 thì Cao Bá Quát bị bắt, cuộc nổi dậy cũng chấm dứt.
“Tạ Văn Phụng là con chiên đạo Thiên chúa được đào tạo ở
Malaysia, liên kết với lực lượng phương Tây qua các tu sĩ Thiên Chúa giáo, lợi
dụng tình trạng đói khổ của nhân dân để chiêu mộ tín đồ, quấy rối miền Bắc mà yểm
hộ cho cuộc xâm lược ở miền Nam”.(1)
Tạ Văn Phụng hứa sẽ biến cả nước ta thành nước Thiên
Chúa giáo, nếu giúp cho Phụng chiến thắng. Đó là một thủ đoạn tìm kiếm sự liên
minh với một lực lượng có vũ khí mạnh, tuyệt không thể hiện điều nào mang tính
tư tưởng. Các phong trào chống đối triều Nguyễn không thể sánh được phong trào
do người anh hùng kiệt xuất Quang Trung lãnh đạo. Các nhà tư tưởng lỗi lạc về đổi
mới thời bấy giờ như Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện, đều trình bày
chương trình đổi mới đất nước với triều Nguyễn, dù không được triều đình nghe
theo. Nhìn theo chiều nào thì đều phải công nhận rằng giới sĩ phu thời nhà Nguyễn,
về mặt chính danh, chữ trung đặt vào cái triều đình chính thống là triều Nguyễn.
III. Thuyết Chính danh và đạo lý xuất, xử
“Các nhà khoa bảng của ta, được nhồi nắn theo lý lẽ của Khổng
Tử, biết đặt mình vào vị trí của tác giả để hiểu (cứ cho rằng các ông ấy có đủ
khả năng để hiểu, thực ra nhiều người trong số họ không hiểu). Các nhà Nho của
ta lại muốn Khổng hóa tất cả những gì rơi vào tay họ, họ muốn biến mọi thứ theo
tư duy hẹp hòi” (1).
Cuối thế kỷ 19 là thời kỳ hắc ám nhất trong lịch sử cách mạng
vũ trang chống Pháp của ta, các cuộc khởi nghĩa nối nhau tan rã gần hết. Năm
1887, Mai Xuân Thưởng bị bắt. Năm 1895, Phan Đình Phùng bị bệnh lị và mất ở Hà
Tĩnh, phong trào cũng tan rã sau đó không lâu. Năm 1897, Nguyễn Thiện Thuật phải
chạy trốn qua Trung Hoa nương thân nhà Lưu Vĩnh Phúc, phong trào Bãi Sậy cũng
im tiếng. Đề Thám còn lực lượng, nhưng phải tạm giảng hòa với Pháp, cố thủ chiến
khu Nhã Nam.
Nhưng sáu năm sau, năm 1897, một cuộc vận động khởi nghĩa qui
mô khá lớn đã manh nha, do cụ Phan Bội Châu chủ mưu. Chủ trương khởi nghĩa lần
này hơi khác các nhà cách mạng trước, không tự lực hoạt động trong một khu vực
mà muốn thống nhất các hoạt động rời rạc, gây phong trào bao trùm khắp cả nước,
tạo sự hưởng ứng trong toàn dân và sự viện trợ của nước ngoài, lúc đó là Nhật Bản.
Cụ soạn sách “Lưu Cầu huyết lệ tân thơ” (khoảng năm 1903-1904) để tả cái nhục
mất nước và tuyên bố phải “mở mang dân khí làm nền tảng cứu quốc”. Liền sau đó,
ba cụ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp vào khuấy động trường thi
Hương ở Bình Định với hai dự thi, bài phú “Danh ngọc lương sơn” và bài thơ “Chí
thành thông thánh” đả phá kịch liệt cái học và thi theo kiểu cũ, kích thích duy
tân, tiếp cận cái học cái hành mới. Ba cụ tổ chức những cuộc nói chuyện, các lớp
tân học để đả đảo khoa cử, bài trừ hủ tục, hô hào cắt tóc ngắn... Các cụ còn tiến
tới việc mở công ty kinh doanh.
Nhưng, phải đợi đến khi Đông Kinh Nghĩa thục ra đời năm 1907
thì mới thật sự áp dụng lối học mới. Lối dạy cốt đào tạo những người có sáng kiến,
có óc thực tế, ngược hẳn với lối huấn hỗ, lối “Tử viết, Thi vân”, lối bảo thủ của
nhà Nho (1).
Một bài nghị luận viết năm 1904 về “Văn minh tân học sách” (2):
“Tưởng nên đón thầy giỏi, chọn người khéo tay, nhanh trí
khôn để cho vào học, rồi triều đình thường săn sóc mà dạy dỗ họ. Lại hạ lệnh khắp
nước hễ ai học được kiểu mới, chế được đồ mới thì cũng theo lối Âu châu cấp cho
bằng khen làm lưu chiểu, thưởng cho phẩm hàm để ngợi khen họ, cấp lương bổng để
khen thưởng họ, cho giữ quyền sáng tạo để hậu đãi họ. Những ai giỏi về khoa học
cách trí, cơ khí học, hóa học thì làm cho họ được vẻ vang sang trọng hơn những
người đỗ đại khoa...”.
“Cho phép học trò bàn bạc tha hồ, đối đáp tự do, không phải
nề hà, không cần thể cách nào hết. Rồi thêm vào đó, mấy bài về toán pháp, về chữ
Quốc ngữ, để cho cái mà học sinh học và thi không trái với công việc thực tế họ
phải làm, như thế thì cũng là tàm tạm đúng vậy” (3).
Cái học và thi cũ thật quá lỗi thời trước thế giới thay đổi,
trước sức bành trướng mãnh liệt của văn minh và sức mạnh vật chất phương Tây. Cụ
Dương Bá Trạc nổi tiếng học giỏi, 17 tuổi thi đậu Cử nhân Hán học, nhưng nhận
thấy cái hủ bại của cổ học, nên hô hào cái học thực nghiệp để cứu quốc. Gặp bạn
nào còn ham tập văn khoa cử, cụ bảo: “Anh còn muốn cái cử nhân ư? Này, tôi bán
cho anh, một xu thôi” (1).
Chữ hiếu, chữ trung là nội dung chủ yếu của các sách ấy, được
các thầy đồ bồi dưỡng cho học trò rất kỹ. Hiếu với cha mẹ, ông bà, tổ tiên thì
rõ rồi, nhưng trung là trung như thế nào đây? Nhà Nho bảo trung với vua là
trung với nước.
Tất cả 29 tỉnh đều trực tiếp với triều đình, với vua. Ở vùng
núi, triều đình còn giao chức tri châu cho các tù trưởng, nhưng chế độ “lưu
quan” kiểm soát các tri châu rất chặc chẽ. Cả bộ máy nhà nước tập trung vào một
mối. Điều này thực tế là một bước tiến về mặt quốc gia.
Sự tập trung cao độ về quyền hành cai trị này không phải
không có liên quan gì với sự “thống nhất ý thức” bằng Nho giáo được tôn làm quốc
giáo, quốc giáo độc tôn, tuyên dương Nhân trị, Đức trị (2).
TÍNH CÁCH CON NGƯỜI TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ
Người xưa bảo “Cái quan định luận”, khi đã đậy nắp quan tài
thì mới có thể nhận xét đúng sai, công tội của người ấy. Trương Đăng Quế đã yên
nghỉ từ năm 1865, hơn một trăm năm rồi, biết bao nhiêu nhận xét, người khen thì
nhiều, nhưng lời chê cũng có, mà lời chê đa số là của người nước ngoài, của phe
xâm lược.
Các cha cố theo phe Lê Văn Khôi và phe Hồng Bảo, nhất định phải
nặng lời với Trương Đăng Quế, vị quan cố mệnh lương thần một lòng trung trinh với
Minh Mệnh và Tự Đức. Lê Văn Khôi gây nên sự biến ở Nam Kỳ, vận động mọi lực lượng
chống lại triều đình, trong đó có việc tranh thủ và hứa hẹn với lực lượng Thiên
Chúa giáo. Khôi đã được họ hưởng ứng đi theo để mong lập một quốc gia tự trị
Nam Kỳ, được tự do truyền đạo. Hồng Bảo cũng vậy, ông muốn giành lại ngôi vua
mà ông cho đáng lẽ là của ông, nên ông đã nhắm vào lực lượng Thiên Chúa giáo
đang bị cấm ngặt, cũng âm thầm chống đối triều đình quyết liệt.
Những người Thiên Chúa giáo bấy giờ nghe theo Lê Văn Khôi và
Hồng Bảo là những người trí lự hạn chế, chính cha Pellerin đã sáng suốt cấm họ
nhúng tay vào chuyện chính trị nội bộ của triều đình, nên nhận định khen chê của
họ cũng chỉ hạn hẹp trong những việc linh tinh, nhỏ lẻ.
Đô đốc Bonard, kẻ cầm đầu cuộc đàn áp nghĩa quân Trương
Định thì làm sao ưa được Trương Đăng Quế, kẻ đối đầu nặng ký nhất trong triều
đình mà Bonard cho là đang ám trợ Trương Định trong mưu đồ không công nhận hòa
ước Nhâm Tuất 1862. Vì thế, Bornard đã hằn học gán cho Trương Đăng Quế cái tội
là khắc nghiệt với người nước ngoài theo quan điểm của một tên thực dân võ biền.
Gần đây, sử gia người Nhật trẻ tuổi Tsuboi viết luận án tiến sĩ đề tài về Việt
Nam mà chủ yếu kê cứu tài liệu của phái Thiên Chúa giáo lúc bấy giờ đang bị triều
đình đàn áp và tài liệu của chính quân xâm lược Pháp, nên không thoát được cách
nghĩ của họ, để rồi đưa ra những nhận định thiếu công bằng.
Còn bên khen Trương Đăng Quế, quan trọng nhất là những người
cùng thời với ông. Các quan đại thần Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản... kể cả
các vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức và các quan đại thần các bộ. Còn những học
giả Tây học về sau này, không có điều kiện nắm được vấn đề một cách toàn diện,
cụ thể là họ không thông thạo Hán Nôm, nên lời khen cũng không thể mang tính
xác thực cao. Đến như người được đào tạo chính qui tại Pháp, đậu Cử nhân Văn
chương như Nguyễn Thiệu Lâu thấy Trương Đăng Quế được thờ ở Thế miếu, mà cất
công truy tìm ở ngay kinh đô Huế không thấy tài liệu về công trạng của ông. Thế
miếu là ngôi nhà thờ ở trong thành nội Huế, có chín cái đỉnh trước sân được đúc
năm 1835 (Minh Mệnh năm thứ 16) để ghi công và thờ tự những vị đã có công to với
triều Nguyễn.
Ngày nay, nhiều tư liệu lịch sử đã được các bậc tiền nhân dịch
các tài liệu Hán Nôm, tiếng Pháp, ra chữ Quốc ngữ cũng như nhiều bài viết có
giá trị khoa học về nhân vật lịch sử Trương Đăng Quế, có thể tạm cho là đủ để
nói lên tiếng nói công bằng, hướng đến tính khách quan Lịch sử mà thường tình
trong những giai đoạn nhất định người ta chưa chú ý đến. Trong đó quan trọng nhất
là bộ Đại Nam thực lục 10 tập đồ sộ của nhà xuất bản Giáo Dục, và gần đây, tập
“Thơ Trương Đăng Quế” của nhà xuất bản Phương Đông, dịch lại toàn tập Trương Quảng
Khê tiên sinh tập, một di cảo hiếm hoi của Trương Đăng Quế do Tùng Thiện vương
Miên Thẩm biên tập cho khắc in năm 1858.
Sau đây là một số nhận định về tính cách con người Trương
Đăng Quế đã được nhiều người đề cập:
1. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ LÀ NGƯỜI TRUNG THÀNH VỚI TRIỀU NGUYỄN.
Hai lần ông được vua lúc lâm chung gởi gắm việc quan trọng nhất
của triều đình là việc người nối ngôi lên làm vua.
Vua Minh Mệnh cầm tay con là Trường Khánh Công (sau này là
vua Thiệu Trị) trối trăn:
“Trương Đăng Quế thờ ta đến nay là 21 năm, trọn đạo làm tôi,
một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là
một người công thần kỳ cựu của Triều đình...”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 889
Vua Thiệu Trị thì nói với Hồng Nhậm:
“Vả lại, ngự ban cho cố mệnh lương thần, Thái bảo, Tuy Thạnh
bá Trương Đăng Quế, trước kia vâng cố mệnh của tiên đế khi gần thăng hà để lại,
cùng ta trù tính việc biên cương, rồi thành tựu được võ công, giúp rập đức tốt,
thực không phụ ơn tri ngộ. Vậy cho khắc vào vàng cỗ súng thứ nhất”.
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 1040-1041
Vua Tự Đức tâm sự với Trương Đăng Quế khi ông xin về hưu lần
thứ tư:
“Trẫm đương tuổi nhỏ, kiến thức còn ít, mọi việc chưa quen,
nên muốn dùng người cũ để giúp trẫm những điều trẫm không nghĩ tới được. Từ trước
đến nay, phàm khanh có dâng điều hay, can điều trái, không điều gì mà trẫm
không nghe theo, khanh còn ngại ngùng gì mà nỡ phụ lòng trẫm...”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 405-406
Các vua Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức lên ngôi thì chuyện Tây
Sơn đã lùi xa rồi.
Nước ta thời đó lại được mở rộng hơn lúc nào hết, Cao Miên đã
thành Trấn Tây thành, tuy có vua Chân Lạp trị vì.
Vùng đất Lào tây Thanh Hóa đã thành tỉnh Trấn Ninh thuộc Việt
Nam năm 1827. Lại có đất Chiêm Động và Lạc Phàn cũng xin thuộc về Việt Nam. Triều
đình chia những đất ấy ra làm Trấn Tĩnh phủ và Lạc Biên phủ.
Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, tr. 496
Kể từ triều Minh Mạng, trải qua triều Thiệu Trị cho đến những
năm đầu triều Tự Đức, nhà nước Việt Nam trong thế đi lên, trở thành một quốc
gia hùng cường trên bán đảo Đông Dương.
Đó cũng là thời kỳ Trương Đăng Quế trưởng thành và được tham
chính ngày càng sâu vào cái triều đình hùng mạnh ấy. Thử hỏi, một người đã gắn
bó với triều đình, ngày càng được trọng dụng thăng quan tiến chức thì lẽ nào
người ấy lại không dốc lòng vun đắp cho cái triều đình đã coi trọng mình. Mặt
khác, trong thời của mình, Trương Đăng Quế chứng kiến một triều đình ngày càng
tỏ ra có hiệu quả, có những ông vua có học thức cao, tự tay ra đề thi và chấm
quyển thi Đình, lại được đông đảo nhân tài trong nước ủng hộ, thì lẽ nào ông
không một lòng một dạ phò tá cái triều đình lý tưởng theo mô hình Nho giáo mà
ông đã được đào tạo và tôn thờ.
Trong tập thơ Trương Quảng Khê tiên sinh tập, Trương Đăng Quế
thể hiện sự tôn thờ lý tưởng nhà Nho của mình:
TẾ THU VĂN MIẾU
Đức giáo lưu thiên cổ
Tượng đài suốt xưa nay (1)
Quan trường dường nguội lạnh
Miếu mạo càng thâm uyên
Thành tâm dâng cỗ cúng,
Kính cẩn lễ ơn thầy
Phò vua lo trị nước,
Lòng son, kẻ mọn nầy.
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 335
ĐƯỢC PHÉP VỀ QUÊ
Vua tôi tình nghĩa cũng là lâu
Già yếu xin về, dám phụ đâu!
Báo quốc một lòng soi bóng nguyệt
Ưu dân bao nỗi bạc thêm đầu
Ơn vua suốt kiếp thân nhuần gội
Lộc nước bảy đời tộc thấm sâu
Bắt chước ngày xưa lời chúc tụng
“Tam Đa” phong nhã thuộc làu làu.
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 100
CẦU ĐƯỢC MÙA
* Bài 1
Trăm nghĩ ngàn lo luôn trước dân
Mong cho đồng ruộng cỏ đừng lan
Sâu rầy diệt hết mùa tươi tốt
Lúa má sinh sôi ngút mắt xanh
Vẫn muốn ban lành ân thánh chúa
Còn mong cứu hạn Phó Nham thần
Hoa màu chăn thả thêm chài lưới
Đại hữu năm nầy lại tiếp năm.
* Bài 2
Hạ chiếu hàng năm đến tỉnh thành
Trời mưa trời tạnh cũng lo toan
Kịp thời cứu trợ dân khi đói
Mãi mãi siêng năng chuyện tưới tiêu
Hãy nhớ tiên ưu gương xán lạn
Đừng quên hậu lạc phú gia ngư
Thẹn vì chẳng xứng lời khen tặng
Ân sủng ban riêng đã quá nhiều
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 331-333
THU CẢM
Sáu năm lữ thứ quá long đong
Vạn mối sầu đan lại rối bong
Trăng sáng thu về ôm khóm lá
Hồn quê thao thức dậy trong lòng
Tâm tình xin gởi cho thi phú
Thân thể lo đền nợ núi sông
Những mối thâm tri đâu bỏ được
Bên hồ sen muộn một bầu không
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 116
Thế thì, không thể đòi hỏi một Trương Đăng Quế phải ra tay
khôi phục nhà Tây Sơn, thậm chí không thể đòi hỏi một Trương Đăng Quế phải hành
động như Cao Bá Quát. Nhà Tây Sơn đã trở thành quá khứ và như là thứ trái cấm,
chỉ nhắc đến đã có thể bị mất đầu. Họ Trương Đăng từng theo Chúa Nguyễn vào lập
nghiệp ở Quảng Ngãi, tình gắn bó hàng trăm năm đồng cam cộng khổ khai phá hình
thành thôn làng người Việt từ Huế vào Nam Kỳ lục tỉnh với triều Nguyễn, nên
không nặng tình với vua Lê chúa Trịnh của người miền ngoài như Cao Bá Quát.
Cũng không thể đòi hỏi một ông nhà Nho Trương Đăng Quế đi liên minh với lực lượng
Thiên Chúa giáo và quân Pháp để đổi mới đất nước.
Vì thế, cũng dễ hiểu và hết sức logic việc Trương Đăng Quế đã
chứng tỏ là một người trung thành với triều Nguyễn.
2. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ LÀ NGƯỜI SẮC SẢO, THẬN TRỌNG VÀ CÓ ÓC THỰC
TẾ.
Đây chính là tính cách giúp Trương Đăng Quế được tín nhiệm
trong công việc, giúp ông được thăng quan tiến chức nhanh.
Năm 1831, Minh Mệnh thứ 12, sai Hữu thị lang bộ Lễ, sung công
việc Nội các là Trương Đăng Quế quyền trông coi công việc bộ Công. Từ đây, ông
tỏ rõ tài quán xuyến công việc qua bản tâu của bộ Công do ông quyền trông coi:
“Từ trước đến nay, những vật liệu cần dùng vào mọi công việc,
chưa có thể thức lưu hành nhất định. Ở kinh đô thì lấy những việc đã làm làm lệ,
còn các thành trấn ở ngoài thì chỉ tùy việc, liệu chừng mà làm, không khỏi có
chỗ hơn kém, khác nhau về vật liệu. Đến khi số chi dùng vật liệu gởi đến bộ, bộ
tư giao cho võ khố xét lại, nhất luật lấy lệ ở kinh đô mà tính, nhiều thì chi bội
lên, ít thì là kém lệ, đến nỗi xin bác bỏ, xin bồi thêm, giấy má phiền phức mà
các thành trấn cũng vẫn chưa biết lệ định như thế nào. Vậy xin các kho võ khố
chiếu theo lệ ở kinh đô, suy tính cho rõ thêm, như các số ngói gạch, đá, vôi, mật,
giấy, rơm cần dùng vào việc làm nhà cửa, kho tàng, đình miếu, thì lấy chiều dài
một thước, chiều ngang một thước làm tiêu chuẩn. Các số gạch, đá, vôi, mật, giấy,
rơm cần dùng vào việc xây thành, tường vách, bờ hào, cầu cống thì lấy bề cao một
trượng, bề rộng một trượng làm tiêu chuẩn. Cho tới những thứ đinh sắt đóng ván
gỗ, đồng, thau làm khí giới, than gỗ để rèn đồ sắt cùng những số thành khí và số
hao hụt là bao nhiêu nhất thiết các vật liệu cần dùng đến mọi công việc (xây dựng,
chế tạo) đều chiếu từng khoản mà châm chước, liệu lượng, lập thành quy thức nhất
định, tâu xin khâm định rồi sao gởi cho trong kinh đô ngoài thành trấn tuân
hành.
Vua nghe theo lời tâu ấy, ra Dụ cho Nội các hạ lệnh sai bộ
Công thông tri cho các nha môn từ nay phàm đường sá và các thứ gỗ lạt, nên đo bằng
trượng, tính toán thì có biên ghi là trượng và thước, không được dùng chữ “tầm”
như trước nữa”.
Đại Nam thực lục, tập 3, tr. 171
Có lần, quan thự thượng thư bộ Lại là Lê Đăng Doanh dâng sớ đề
cử người học trò là Nguyễn Văn Anh có thể làm chức huấn đạo (quan coi việc học
của một huyện) đến lúc sát hạch chỉ đậu hạng thứ. Vua Minh Mệnh nói:
“Chức huấn đạo dù nhỏ, nhưng quan hệ đến phong hóa. Nguyễn
Văn Anh học vấn tầm thường như thế đảm đương chức ấy sao nổi”.
Bèn không cho. Nhân bảo mọi người:
“Trẫm tự lúc lên ngôi đến nay, vẫn chấn hưng văn giáo, mà sao
nhân tài ít ỏi thế?”.
Thị lang bộ Lại Phan Bá Đạt tâu rằng:
“Hoàng thượng lưu ý đào tạo nhân tài, ai chẳng phấn khởi.
Nhưng giáo chức đều do đề cử, học vấn thấp kém không đủ làm mô phạm. Nếu lấy
khoa mục mà dùng thì nhân tài sẽ ngày càng thịnh”.
Tả thị lang bộ Công Trương Đăng Quế tâu rằng:
“Nhân viên bị truất cách, có người nào là khoa mục, nên cho
khởi phục làm giáo chức, thì sẽ không thiếu người”.
Vua Minh Mệnh nói:
“Trẫm cũng muốn làm như thế. Nhưng suy đi nghĩ lại, bọn ấy có
tội vừa bị truất, lại vội dùng ngay, sẽ làm gương xấu cho người khác, vì thấy
có đường phục chức sẽ thi nhau làm bậy không sợ hãi gì, thì làm sao gạn lọc được
quan trường”.
Đại Nam thực lục, tập 3, tr. 19-20
Nhưng 4 năm sau, năm 1834, các địa phương khuyết nhiều chức
giáo thụ và huấn đạo. Vua sai bộ Lại bàn xét bổ dùng những người do cử nhân xuất
thân trước đã có lỗi. Điều này chứng tỏ Trương Đăng Quế là người có óc thực tế
và có tầm nhìn xa.
Thời gian xảy ra sự biến Lê Văn Khôi ở Gia Định, suốt ba năm
vẫn chưa lấy lại được thành Gia Định, vua hỏi:
“Giặc Khôi liều chết để giữ cô thành, bọn ngươi tính xem mưu
kế của chúng sẽ ra sao?”.
Trương Đăng Quế nhận định:
“Thần cho rằng bọn chúng tự liệu hết đường chạy trốn, nên cố
bám vào cái cô thành ấy để tạm thời kéo cái sống từng ngày thôi”.
Vua cho là phải.
Năm 1837, vua Minh Mệnh xem sổ tổng cộng thuế lệ năm trước do
bộ Hộ dâng lên, thấy tiền thuế sáu tỉnh Nam Kỳ sau khi được bọn Trương Đăng Quế
làm Kinh lược sứ cùng với bọn Trương Minh Giảng đạc điền lập địa bạ ở Nam Kỳ,
chia đặt cửa quan, bến đò, đến nay so với 13 năm trước tăng đến gấp ba lần. Vua
sắc phong Trương Đăng Quế là Tuy Thạnh nam. Tước nam là tước thấp nhất trong hệ
thống phẩm tước công, hầu, bá, tử, nam của triều đình nhà Nguyễn.
3. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ LÀ NGƯỜI CÔNG MINH, LIÊM CHÍNH
Có lần, vua bảo bọn Hà Tông Quyền và Trương Đăng Quế rằng:
“Nội các là chỗ cơ quan trọng yếu, bọn khanh nên xét kỹ các
thuộc hạ, ai giỏi thì cho tiến lên, ai kém thì cho lui, đừng có thiên tư, để
cho người bậy được cầu may mà dung thân, không ích gì cho công việc”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 930
Do đó Hà Tông Quyền, Trương Đăng Quế làm sớ đề bạt những người
cần cán hơn mười người, trong đó có những vị như Trương Văn Uyển, Trần Ngọc
Giao, Nguyễn Đức Hoạt, Lâm Duy Nghĩa. Đồng thời, họ đề nghị điều chuyển công
tác bọn người kém cỏi, học thức tầm thường Tôn Thất Du và Nguyễn Duy Tường. Vua
nghe theo.
Kinh lược sứ là bọn Trương Minh Giảng, Trương Đăng Quế đề nghị
bắt về hưu phó lãnh binh tỉnh Gia Định Nguyễn Văn Hội vì đã lớn tuổi, sức đã yếu
làm việc chậm chạp và đề nghị thay vào đó phó vệ úy Hậu bảo Nguyễn Văn Tiến còn
trẻ, nhanh nhẹn, giỏi giang lại có chiến công, và đề nghị thay vào chỗ của Nguyễn
Văn Tiến là Cai đội Trần Văn Quản. Vua Minh Mệnh cho là phải và ban dụ khen là
công bằng trung thực vì nước. Lại có tên nhũng lại ở Định Tường là Tống Hữu
Tài, nhân việc đạc điền mà sách nhiễu lấy tiền của dân. Việc phát giác, bọn
Kinh lược sứ liền đem chém để làm gương răn. Việc tâu lên, vua Minh Mệnh khen
phải.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 934
Vua cho rằng thi Hội là điển lễ long trọng, trước đây các
giám sinh ở trường Quốc Tử Giám đều do quan ở nhà Giám sát hạch, rồi cho vào
thi, như thế sợ chưa được kỹ. Vua bèn sai thượng thư Lê Đăng Doanh và Phan Huy
Thực, sung làm chánh chủ khảo, các quan tham tri Bùi Phổ và Trương Đăng Quế sung
làm phó chủ khảo. Các chức Lang trung hoặc Viên ngoại lang các bộ mỗi bộ một
người sung làm phân khảo. Theo danh sách các quan nhà giám dâng lên gọi họ họp
lại, sát hạch lại một lần nữa cho kỹ, chia ra từng hạng, đóng thành bản danh
sách đâng lên vua để đợi Chỉ. Khi danh sách đã dâng lên rồi thì người nào được
điểm ưu, bình sẽ được chuẩn cho vào thi với các cử nhân, hạng thứ ở lại nhà
Giám tiếp tục học tập, còn hạng liệt thì bổ đi làm thư lại ở các bộ. Từ đó, mỗi
khi mở khoa thi Hội, lại mở kỳ khảo hạch như thế thành lệ.
Quan thự binh mã sứ ty là Trương Viết Súy được giao nhiệm vụ
dẫn quân đến nguồn Ô Lâu làm xe “Thủy hòa ký tế” để tán thuốc súng. Hơn một
tháng Trương Viết Súy cho đắp đập, đào khe, dời đổi chỗ này, di dịch chỗ khác,
không nhất định, đến nỗi chậm trễ lỡ việc, nên bị hặc tội, bị bắt xiềng lại,
giao đình thần nghị tội. Lại cử đề đốc Kinh thành Lê Văn Quý đến thay, ra lệnh
cho Tham tri bộ Công Hà Duy Phiên đến xem công việc. Sau đó cũng bị phái viên
là Ngự sử Phan Đăng Đệ hặc tâu vì làm việc không đúng. Vua sai Cơ mật viện đại
thần Trương Đăng Quế và Phan Bá Đạt đến tận nơi để xét nghiệm. Khi về họ làm biểu
tâu:
“Chỗ ấy, sức nước chảy chậm và yếu, tất phải đắp đập dẫn nước
chảy rót vào. Công việc làm đã khó, mà ngọn nước xói vào, đê đập cũng khó giữ vững
được. Nếu cứ mãi làm chỉ uổng công nhọc sức”.
Việc mới bãi đi.
Định lệ tuyển bổ các thông phán, kinh lịch ở các tỉnh. Trước
đó Lê Văn Đức, Trương Đăng Quế đã tâu nói:
“Từ trước đến nay, bộ Lại tuyển bổ thông phán, kinh lịch vào
chỗ thiếu, nhưng chỉ lấy những người kêu van chạy vạy, chứ không hề tư báo cho
đường quan các bộ biết, đối với người trong bộ mình thì bổ cho chỗ tốt, người
các bộ khác thì bổ đi nơi xa xôi, e có sự mở đường cho hạng người cầu cạnh”.
Năm 1840, Minh Mệnh năm thứ 21, vua sai bọn Phủ thừa là Nguyễn
Thịnh, Giám thành là Nguyễn Công Tiến đến đường núi Hải Vân khám xét mở đường mới
ít hiểm trở hơn. Bọn ấy đến nơi thuê 100 người, làm hơn một tháng gần xong, tốn
đến 1.000 lượng bạc. Thị vệ Bùi Bá Bằng nhân đi việc công về tâu lên rằng đường
mới không bằng đường cũ. Vua bèn sai Lang Trung bộ Công là Thang Huy Thận, Ngự
sử là Vũ Viện đi khám, lại báo là đường mới tiện hơn. Vua thấy mỗi bên giữ một
thuyết, nên sai Đại học sĩ Trương Đăng Quế, Thống chế Bùi Công Huyên, Thị lang
Nguyễn Tri Phương đi kiểm tra lần nữa. Họ về tâu rằng:
“Đường cũ có ba đoạn cao, trong đó có một đoạn hiểm cao mà thế
hơi thoai thoải, đi cũng không phải khó nhọc lắm, hai bên đường lại có nhiều
cây, khách đi đường có chỗ nghỉ mát khi trời nắng nóng.
Đường mới ngoài vài đoạn nhỏ hơi bằng phẳng, xuôi thoải, còn
thì nghiêng lệch khó đi, lại không có cây to bóng mát bên đường.
Đã hai ba lần so sánh, đường mới không bằng đường cũ rõ ràng
lắm”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 682
Vua cho bãi việc làm đường, giao bộ Hình luận tội.
Khi con trai đầu lòng là Trương Quang Trụ được tước phong thì
Trương Đăng Quế lại xin không nhận vì con mình chưa làm nên công trạng gì. Khi
già yếu, Trương Đăng Quế lại dâng sớ xin giáng chức mình làm hàm Thượng thư, tước
bỏ tước công đã phong trước đây. Vua Tự Đức không cho, ông lại xin trừ phân nửa
lương, vua bèn miễn cưỡng nghe theo.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 793-794
4. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ LÀ NGƯỜI BIẾT LẤY DÂN LÀM GỐC.
Trương Đăng Quế nhận thấy được sự cực khổ của người dân nơi
vùng có chiến sự, ông còn thấy rõ mặt tiêu cực của chế độ thổ ty thổ tù trong
các nhóm người ít học Mường -Thái, ông đã đề ra các quyết sách mang tính đổi mới.
Bản tâu của Trương Đăng Quế cách nay trên 160 năm mà cứ tưởng như báo cáo của
chế độ ta hiện nay.
Trương Đăng Quế viết:
“Dân thổ từ trước đến nay chỉ làm đầy tớ cho thổ tù, phàm con
em thổ tù mới được đón thầy học tập, còn đều bị ngăn cấm, nên thổ dân phần nhiều
ngu dốt mê lầm. Nay xin cho các viên huyện châu chọn con em thổ dân, những cháu
hơi sáng suốt, dạy cho học chữ để làm biến đổi phong tục của họ.
Hai huyện Thạch Thành, Quảng Địa đã bị tàn phá, dân ở đây lại
theo quan quân đi đánh giặc, đài tải lương thực, cùng các huyện châu Cẩm Thủy,
Quan Hóa, Lương Chánh, Thường Xuân tình hình hao hụt thật là đáng thương, về
thuế lệ phải nộp năm nay cùng số để thiếu năm trước, xin tha giảm để cho dân ở
đây bớt đói túng”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 77
Ba cơ An man ở Trấn Tây thành, có người Chăm Đồ Bà ở nhờ từ
lâu, mỗi khi có việc phần nhiều họ đều ra sức giúp triều đình. Vua Minh Mệnh muốn
cấp áo quần và tiền bạc để cho họ phấn khởi, nhưng ngại thổ binh các cơ cho là
có chỗ phân biệt. Hiệp biện đại học sĩ Trương Đăng Quế tâu nói:
“Trấn Tây thành là đất mới phụ thuộc, việc phải sửa sang còn
nhiều. Ân cách của Triều đình để vỗ về gây sự cảm kích, ai dám xen vào”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 410
Vua Tự Đức băn khoăn cho là người Bắc Kỳ khó yên ủi vỗ về, hỏi
quan địa phương ai là người tốt, ai là người không tốt. Trương Đăng Quế nói:
“Binh và dân là trách nhiệm của quan địa phương, dù binh
lính, dù lương ăn cho dân, lo đủ là người chăn dân tốt, không lo đủ để thiếu thốn
là người không làm nổi chức vụ”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 171
Tháng 8, năm này, bọn Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Ngụy
Khắc Tuần trình bày 4 việc:
“- Phàm các thứ của vua dùng và ban cấp, hết tháng này xin giảm
bớt.
- Phàm các bề tôi cũ khi còn ở tiềm để (nơi vua còn là
thái tử), các người nơi giáng trướng (chỗ học), các thân thuộc nhà Tôn thất,
xin đừng cho chức vụ.
- Xin bãi lệ khoa đạo chuyên bổ chức lang trung, mà chỉ đặt
chức chưởng ấn 6 khoa và ngự sử 6 đạo.
- Phàm các nha môn Nội vụ, Võ khố, Thương trường, nguyên trước
phái 4 nha (Cơ mật, Đô sát, bộ Hộ, bộ Công) hội đồng với khoa đạo cùng xét làm
đều xin đình chỉ”.
Đây là vì bọn Trương Đăng Quế thấy hiện nay quan trường chưa
được trong sạch đều do ở theo lệ thăng bổ một loạt không phân biệt người hay kẻ
dở, nên mới kiến nghị tâu bày. Vua Tự Đức bảo rằng:
“Sự thể cũng khó đấy, nhưng các điều khoản tâu bày minh bạch,
chắc có thể làm được”.
Bèn chuẩn cho làm.
Có lần, vua Tự Đức hỏi Thọ Xuân công và các đại thần:
Việc đào sông mới Phổ Lợi, thì làm ruộng có tiện hơn không?
Nay dân tình cùng lòng xin đắp con bối nhỏ (con đập) chắn ngang để ngăn nước mặn,
bọn khanh hội khám thế nào?.
Trương Đăng Quế, Đặng Văn Thiêm đều tâu là nước mặn làm hại
việc làm ruộng, nếu dân địa phương ấy tự nghĩ ra mưu kế, xuất lực mà đắp con bối
để ngăn, tưởng cũng bảo đảm được sự làm ruộng.
Miên Định cho biết khi tổ chức đào sông thì dân chúng ven
sông cũ khẩn khoản xin đình công. Nhưng vì chỗ đó thông đến cửa Thuận An được
hơi gần, nên vua trước hạ lệnh cho đào.
Trương Đăng Quế tâu:
- Hình thế Kinh thành, sông nước vòng quanh, từ khi khai sông
mới, thì sông cũ mất thế hiểm.
Vua bảo nước lấy dân làm gốc, dân tình nguyện xin đắp con bối
thì cho làm. Việc đường thủy xa gần không kể đến”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 347
Năm 1845, Thiệu Trị năm thứ 5, Đại học sĩ Trương Đăng Quế tâu
lên:
“Lúc bắt đầu mở đất ở Hà Tiên, Mạc Thiên Tứ có công tốt, nên
xét đến con cháu người ấy.
Vua cho tìm con cháu Mạc Thiên Tứ, người nào có tài có thể
dùng được, cứ thực tâu lên. Sau đó Lĩnh phủ Hà Tiên Nguyễn Lương Nhàn chọn được
dòng dõi chính là Mạc Văn Phong, vua phong cho ấm thụ Chánh thất phẩm Chánh đội
trưởng, cho làm việc ở Hà Tiên”.
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 717
Mùa thu năm 1855, Tự Đức năm thứ 8, bọn Trương Đăng Quế, Nguyễn
Tri Phương, Phan Thanh Giản, Tôn Thất Cáp tâu bày công việc nên làm ở Nam Kỳ.
Xin làm 4 việc:
“Xin: Các thuyền ở Nam Kỳ, chiếu theo ngạch lính hiện đã giảm
bớt, chỉ để cho đủ ngôi thôi.
Xin: Khai đào dòng sông ở hai huyện Long Xuyên, Kiên Giang để
giúp cho việc chẹn chỗ hiểm yếu.
Xin: Ở các tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, Định Tường thuộc Nam Kỳ
thì thóc lúa dồi dào mà kho tàng của tất cả Nam trực, Tả kỳ thì còn trống rỗng,
xin cho thuê thuyền buôn vận tải để chứa sẵn.
Xin: Nhân dân hai tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa ở gần rìa rừng,
thường gặp nạn hổ bắt, dân không yên sống, nên giúp đỡ để dân được yên. Đến việc
giao hiếu với nước Xiêm La, thì ý họ vẫn muốn đến giảng hòa với ta, nhưng chưa
có manh mối gì xác thực. Xin đợi có cơ hội sẽ làm sớ tâu lên thi hành”.
Vua đều y cho.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 512-513
Mùa xuân, năm 1858, Tự Đức năm thứ 11, Trương Đăng Quế tâu:
“Việc hà đê ở Bắc Kỳ không đâu xung yếu cho bằng Hà Nội. Thần
trước đã đi khám, thì những đê ở Hà Nội và Hưng Yên thường bị vỡ. Vì là địa thế
thấp trũng, nước chảy xói mạnh nên đê hay bị vỡ như thế. Nhưng cũng còn lý do
đê điều chưa được chắc cho lắm, chứ không phải chỉ tại nước chảy mạnh. Công việc
hiện nay, nên lấy việc đắp đê làm cần kíp. Xét cái lẽ thừa trừ của trời đất thì
năm nay mưa ít mà nắng nhiều. Nếu đem việc đắp đê Hà Nội, Hưng Yên làm trước, lấy
công thuê người làm thay cho phát chẩn, sửa đắp vững bền thì còn có thể giữ được
cái lợi vài năm, rồi sau tính đến việc khơi con sông khác để làm cái kế lâu dài
trăm năm, mới thật hoàn hảo. Nếu đương lúc kho tàng thiếu thốn này mà các việc
đào sông đắp đê khởi công làm cả một lúc, chi phí đến vài trăm vạn quan tiền,
phương gạo mà chỉ mong chờ đến chuyện đi quyên thì chưa nên làm. Còn như dòng
sông Thiên Đức cũ phải nên khai thêm, nhưng cũng phải tùy theo địa thế đào cửa
sông khác, để dẫn nước chảy về phương đông, mới có thể giữ được cái lợi vô cùng.
Nếu chỉ cứ sửa đào sông Thiên Đức, e chưa đủ để tiêu bớt được nước dòng đại hà
như sông Hồng. Còn như sông Thanh Hương cố nhiên nên khơi thông, nhưng chỉ giảm
được chút ít mà thôi. Duy có ở Ninh Bình thì nên đào con sông Vạc để tiêu tiết
nước sông Hát, là thỏa đáng nên làm
Vua cho là phải sai sao lục gởi cho quan đê chính để thi
hành”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 544
Người Chăm, người Chà Và (bọn Ốc Nha tên là Ốc Bồn Nha, tên
là Hiên và binh dân hơn 1.000 người) từ Cao Miên trở về quy thuận. Vua hỏi viện
Cơ Mật, Trương Đăng Quế, Lưu Lượng tâu:
“Họ đem vợ con về với ta, vì sự bạo ngược của vua Cao Miên.
Ta đã nhận cho họ về mà nay từ chối sợ lại sinh việc và phụ lòng trong mong của
dân. Họ thật thà, cũng có thể chắc là không gây trở ngại gì. Nhân lúc họ mới vừa
đến mà ta vỗ về, cho họ ở tản ra các phủ Thất Sơn, Ba Xuyên, Lạc Hóa là những
vùng đất thưa dân hẻo lánh cho họ làm ăn sinh sống. Rồi tùy theo tình lý từng
lúc mà ứng đối với nước Cao Miên”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 639
Trương Đăng Quế nói về dân với một tấm lòng thương cảm, lời lẽ
bênh vực, chăm lo mà không phân biệt họ là người kinh, người Mường - Thái, người
Chăm, người Chân Lạp, người Mã Lai đa đảo.
Chú thích:
(1) Trần
Văn Giàu: Chống xâm lăng. NXB TP. Hồ Chí Minh. 2001. Tr. 45-46
(1) Nguyễn
An Ninh: Lý tưởng của thanh niên An Nam. Sách Nguyễn An Ninh. NXB Trẻ. 1996.
Tr. 79.
(1) Nguyễn
Hiến Lê: Đông Kinh nghĩa thục. NXB Văn Hóa Thông tin, 2002. Tr. 58.
(2) (3) Nguyễn
Hiến Lê: Sđd, Tr. 58 - Tr.60
(1) Nguyễn
Hiến Lê: Sđd, Tr. 60
(2) Trần
Văn Giàu, Hệ ý thức phong kiến, Tr. 19
(1) Chỉ Khổng
Tử
5. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ LÀ NGƯỜI HẾT LÒNG VỚI NHIỆM VỤ.
Vua Minh Mệnh thường hỏi thị lang bộ Binh Nguyễn Trọng Vũ về
việc binh chính. Vũ không trả lời được. Vua nói:
“Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế ở bộ Hộ, Lê Văn Đức ở bộ
Binh đều biết rõ việc trong bộ, còn bọn Đỗ Khắc Thư, Nguyễn Trọng Vũ mỗi khi hỏi
đến phần nhiều không đáp được. Dẫu vì thực thà chất phác nên được bổ dụng,
nhưng đã làm quan, phải cố gắng để khỏi phụ chức trách của mình”.
Vua Minh Mệnh lại sai Lê Văn Đức, Hà Tông Quyền và Trương
Đăng Quế hội đồng nghĩ cách đóng thuyền kiểu mới. Khi thuyền đóng xong, chở gỗ
từ Gia Định về đến kinh đô được vua khen là nhanh chóng và tiện lợi, thưởng cho
bọn Đức.
Tháng 12 năm 1830, binh thuyền nước Pháp đến đậu ở cửa biển
Đà Nẵng, nói là vâng mệnh vua nước họ, muốn được một viên quan ở nhà Thương bạc
đến nói chuyện. Vua Minh Mệnh sai sung biện Nội các Thị giảng học sĩ là Nguyễn
Tri Phương đến để dò hỏi, thuyền trưởng nhất định không chịu nói. Lại sai Tả thị
lang Trương Đăng Quế quyền chức quan Thương bạc đến, thuyền trưởng ấy mới chịu
nói rằng vua nước ấy muốn cùng nước ta giao hiếu, nhưng xa cách biển khơi không
đạo đạt được, nay nghe tin nước Anh mưu đồ xâm lấn đất Quảng Đông, thế tất rồi
cũng lan đến nước ta, nên vua nước ấy sai đến báo tin dân ta đừng giúp Quảng
Đông.
Vua đặc cách phái Đô ngự sử viện Đô sát Hà Duy Phiên, cầm cờ
biển, đem theo ngự sử Lê Bình Trung và ty thuộc bộ Hình cùng với trấn phủ đi Quảng
Ngãi tra xét vụ quan Bố chánh tỉnh Quảng Ngãi nhận đồ lễ biếu bị phát giác. Sai
Tả tham tri bộ Hộ Trương Đăng Quế tạm quyền giữ ấn triện viện Đô sát.
Năm Qúy Tỵ, 1833, mùa xuân, vua duyệt binh tuyển lính ở 6 tỉnh
miền bắc. Vua lại cho bộ Lại châm chước ghi công, ban thưởng có thứ bậc. Vua
ban cho Tả Tham tri bộ Hộ Trương Đăng Quế và Hữu Tham tri bộ Hình Bùi Phổ, mỗi
người một cái nhẫn vàng.
Cử Trương Đăng Quế kiêm lãnh Hiệp lý sự vụ thủy sư ở Kinh kỳ,
tức hải quân. Sai mộ lính ở Hưng Yên, đặc biệt cho mộ lập một đội thủy binh để
phòng sai phái, tuần tiễu đường sông.
Tháng 9 năm 1839, Minh Mệnh năm thứ 20, sai Đô thống Nguyễn
Tăng Minh, Hiệp biện đại học sĩ Trương Đăng Quế tổ chức diễn tập thủy chiến
trên sông An Phúc. Quân lính bơi chèo nhịp nhàng, diễn bắn súng điểu sang cũng
khá được vua khen thưởng từ Thủy sư Hiệp lý trở xuống đến biền binh.
Vua lại sai Trương Đăng Quế kiêm ấn triện công việc bộ Lễ.
Năm 1840, Minh Mệnh năm thứ 21, mùa đông, vua bị ốm, tám ngày
sau bệnh rất nguy kịch. Cho vời các hoàng tử, các thân công và Cơ mật viện đại
thần Trương Đăng Quế vào hầu. Vua kêu Trương Đăng Quế đến bên giường, Dụ rằng:
“Hoàng tử là Trường Khánh công lấy về ngôi thứ là hàng
trưởng, lấy về đức, về tuổi nên nối ngôi lớn. Ngươi nên hết lòng hết sức giúp rập,
hễ việc gì chưa hợp lẽ, ngươi nên dẫn lời nói của ta mà can gián: Ngươi trông mặt
ta, nên ghi nhớ lấy”.
Rồi vua cầm tay Trường Khánh công trối trăng:
“Trương Đăng Quế thờ ta đến nay là 21 năm, trọn đạo làm tôi,
một lòng công trung, bày mưu dưới trướng, ra sức giúp việc ngoài biên, thực là
một người công thần kỳ cựu của Triều đình. Ngươi nên đãi ngộ một cách ưu hậu, hễ
nói gì phải nghe, bày mưu kế gì phải theo, ngày sau có thể được thờ vào nhà thế
thất ”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 889
Năm 1841, vua Thiệu Trị cùng với Thượng thư bộ Binh Trương
Đăng Quế bàn về thủy chiến.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 312
Năm 1843, Thiệu Trị năm thứ 3, vua giao Trương Đăng Quế kiêm
giữ ấn triện bộ Lễ.
Năm 1843, Thiệu Trị năm thứ 3, vua giao Trương Đăng Quế kiêm
quản công việc vận tải.
Năm 1847, Thiệu Trị năm thứ 7, đúc xong 12 cỗ súng, các đại
thần ba bộ Hộ, Binh, Công là bọn Trương Đăng Quế dâng biểu tâu lên. Vua ra Sắc
rằng:
“Ta chịu mệnh trời đất Tổ khảo, cai trị nước Đại Nam. Năm trước,
đất miền Tây chưa được mở mang, thường lấy làm thẹn. Năm Ất Tỵ [1845], cất quân
đánh nước Chân Lạp, dẹp được, năm Bính Ngọ [1846], ta lên thọ 40 tuổi, đến 30 lần
ân dụ ban ra, năm ấy nước Xiêm phục, nước Miên hàng, nộp lễ cống, chầu hầu. Năm
nay [1847], tướng quân kéo quân về, tâu thắng trận, thôi không đi đánh, võ công
cáo thành, sai công thần trông nom chế ra ba cỗ súng đồng thượng tướng quân,
truyền đến con cháu, giữ thứ bảo khí ấy lâu dài, không say mê tửu sắc, nghĩ làm
việc mới, noi việc cũ, theo noi mưu mô công liệt, trọng văn tạp võ ức muôn năm
làm mạnh nước Đại Nam ta. Vả lại, ngự ban cho cố mệnh lương thần, Thái bảo, Tuy
Thạnh bá Trương Đăng Quế, trước kia vâng cố mệnh của tiên đế khi gần thăng hà để
lại, cùng ta trù tính việc biên cương, rồi thành tựu được võ công, giúp rập đức
tốt, thực không phụ ơn tri ngộ. Vậy cho khắc vào vàng cỗ súng thứ nhất”.
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 1040-1041
Từ đầu tháng 8, năm 1847, Thiệu Trị năm thứ 7, vua không được
mạnh, hơi trở trời. Vài ngày sau lại khỏi dần, gượng bệnh coi việc chính trị, sớ
tấu bốn phương đều chuẩn cho mỗi ngày tiến trình, tùy từng việc mà phê trả lời.
Rồi nhân nhọc mệt, bệnh tình chuyển thành trầm trọng. Đến ngày Quý tỵ, tuyên
triệu Trương Đăng Quế, Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Thiếp vào hầu.
Vua đợi vắng kẻ hầu, bảo các đại thần:
“Ta nối nghiệp lớn, đến nay 7 năm, sớm tối chăm lo, không dám
nhàn rỗi. Gần đây bị bệnh, nay mệt lắm rồi, nghĩ đến nghiệp lớn của tổ tông
giao phó vào mình, ta không thể không nghĩ sẵn chí kế của xã tắc. Các con ta, Hồng
Bảo tuy lớn, nhưng là con vợ thứ, mà lại ngu độn, ít học, chỉ ham vui chơi,
không thể để cho kế thừa nghiệp lớn được. Hoàng tử thứ hai là Phúc Tuy công
thông minh, nhanh nhẹn, chăm học, giống như ta, có thể nối ngôi hoàng đế. Trước
đây ta đã tay phê vào di chiếu để trong cái ống rồng, nay giao cho các ngươi
kính cẩn phong kín, vạn nhất ta có mệnh hệ nào, thì tuyên bố ngay để cho thần
dân trong ngoài đều biết ta sở dĩ cẩn thận chọn người nguyên lương là cái lý lo
sâu nghĩ xa. Các ngươi đều là đại thần của nước, chịu ân sâu nghĩa nặng, nên
đem tấm lòng giúp ta mà giúp tự quân. Phải kính cẩn thay, chớ bỏ mệnh lệnh của
ta! ”.
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 1074
Di chiếu lấy hoàng tử thứ hai là Phúc Tuy công có thể nối được
việc lớn lên ngôi hoàng đế và chuẩn cho cố mệnh lương thần là Trương Đăng Quế,
các đại thần Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Thiếp đều sung làm phụ
chính đại thần.
Năm 1847, Trương Đăng Quế được tấn phong Tuy Thạnh quận công.
Sau Trương Đăng Quế là Vũ Văn Giải được tấn phong là An Viễn hầu, Nguyễn Tri
Phương được tấn phong làm Tráng Liệt bá, Lâm Duy Thiếp được thăng Hiệp biện Đại
học sĩ.
Ngày Đinh Tỵ, tháng giêng, mùa xuân, năm 1850, Tự Đức năm thứ
3, tổ chức duyệt binh, vua đang tĩnh dưỡng, đặc phái cho đại thần Trương Đăng
Quế khâm mệnh điểm duyệt.
Tháng giêng, năm 1853, Tự Đức năm thứ 6, sai Trương Đăng Quế
làm Chánh sứ hà đê, Nguyễn Đăng Giai làm Phó sứ, Tổng đốc Nghệ An là Nguyễn Trạch
sung chức Tham biện hà đê.
Tháng 10 năm này, Trương Đăng Quế đi công việc ở Bắc Kỳ trở về,
sức khỏe suy yếu, xin nghỉ việc ở bộ Binh, vua cho rằng chức tam công (Thái sư,
Thái phó, Thái bảo) là để bàn đạo trị dân, sửa sang việc nước không dám phiền đến
việc nhỏ, nên đặc ân y cho, còn các hàm kiêm sung thì Quế vẫn giữ như cũ. Phàm
có việc gì, đều dự ở chỗ đình nghị chiểu theo thường lệ vào triều yết, để hỏi
công việc chính trị.
Nhưng đến năm sau, năm 1854, các chính khanh ở lục bộ tâu xin
vua cho vời Trương Đăng Quế quản lý công việc bộ Binh trở lại.
Vua Minh Mệnh có dụ rằng:
“Mới rồi vì giặc nghịch ở Bắc Kỳ quấy rối, Binh bộ và Nội
các hội đồng với nhau vâng lời dụ, làm phiếu bàn định, hễ làm là đúng cơ nghi.
Mùa xuân năm nay, mới đầu đặt viện Cơ mật, các đại thần đã được chọn vào viện ấy,
đều sớm tối siêng năng, việc gì cũng làm thanh thỏa cả. Nay công lớn đã xong,
biên giới được yên lặng. Họ tuy chỉ là những người chạy vạy ở chỗ màn trướng,
không phải có sự khó nhọc đổ mồ hôi, nhưng cầm bút ở chỗ cấm đình, hiệp sức
giúp việc quân, cũng đáng khen ngợi. Nay thưởng gia một cấp, dưới tên ở trong
quan tịch có ghi phát bổng hay bị phân xử đều miễn cho cả là các đường quan ở
Cơ mật viện, bộ Binh và Nội các là Trương Đăng Quế, Nguyễn Kim Bảng, Phan Bá Đạt,
Phan Thanh Giản, Nguyễn Trung Mậu, Lê Văn Trung, Hà Tông Quyền, Nguyễn Tri
Phương và Hoàng Quýnh.
Vua Minh Mệnh ra tờ dụ viết chữ son rằng:
Ba năm xét công, lọc lựa quan chức, tiến người hiền tài, loại
kẻ hèn kém, thực là chính sự hay của người xưa, cho nên ta bắt chước mà làm.
Nay ta xét định kỹ càng thì thấy như: Hiệp biện đại học sĩ lĩnh thượng thư bộ Hộ
là Nguyễn Khoa Minh chăm chỉ mẫn cán, giữ tròn nhiệm vụ và làm được công việc;
thượng thư bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần là Trương Đăng Quế bày mưu ở nơi then
chốt hiệp sức đồng lòng, đều cho gia hàm Thái tử thiếu bảo”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 316-318
Cuộc đời Trương Đăng Quế thể hiện tính cách mẫu người Nho sĩ
mà ngày xưa gọi là sĩ quân tử, gồm đủ: Nhân, Nghĩa, Trung, Tín. Mạnh Tử bảo đó
là tước của trời. Người như vậy, nhất định được thăng tiến trong xã hội phong
kiến, xã hội triều Nguyễn.
HOẠN LỘ
Khoa thi đầu tiên của triều Nguyễn, khoa Kỷ Mão, niên hiệu
Gia Long thứ 18 (1819), Trương Đăng Quế 27 tuổi, thi đỗ Hương cống (Cử nhân),
khoa này chỉ có thi Hương, chưa có thi Hội, thi Đình. Bấy giờ cũng chưa gọi những
người thi đỗ là Cử nhân.
Khoa này lấy đỗ 29 người thuộc hai trường Quảng Nam và Gia Định
(chỉ mở hai trường thi này) lấy đỗ:
Trường thi Quảng Nam:
Nguyễn Đăng Ngạn, Bùi Bá Trinh, Nguyễn Thành, Phan Nhật Thạnh,
Lê Huệ, Thân Văn Duy, Trần Văn Nhiễm, Phạm Đình Học, Trương Đăng Quế, Đinh Doãn
Trung, Nguyễn Khắc Biểu, Doãn Văn Xuân, Võ Đỉnh, Nguyễn Xuân Hải, Nguyễn Văn Điển,
Ngô Trọng Vỹ, Nguyễn Nhân Lý.
Cộng 17 người
Trường thi Gia Định:
Trương Bảo Hợp, Đặng Văn Nguyên, Đặng Văn Mô, Trương Minh Giảng,
Ngô Phúc Hội, Mai Thăng Đường, Nguyễn Công Hoán, Hoàng Văn Tú, Hồ Hựu, Bùi Tăng
Huy, Chu Kế Thiện, Trần Vĩnh Lại.
Cộng 12 người.
Đại Nam Thực lục, Tập 1, tr. 993
Sau này, ông có dịp gặp lại hai người Nam Kỳ thi đỗ cùng khoa
với mình năm 1819 và ông kể lại chuyện ấy với tình cảm hân hoan đầm ấm trong
bài thơ: CÙNG TRƯƠNG QUÝNH XUYÊN, TRƯƠNG LY CHI
Đất Tràng An tháng chạp
Khoa Kỷ Mão, đồng niên
Tuổi thanh xuân phơi phới
Thi hứng, tứ triền miên
Ngoài trời mưa nhè nhẹ
Cầu son, liễu xanh viền
Gọi trẻ châm thêm rượu
Vui say ngày Hạnh viên.
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 437
Trương Đăng Quế được bổ chức Hành tẩu bộ Lễ, một chức quan nhỏ
chuyên về văn thư làm việc ở một bộ. Thường thì các cử nhân mới đỗ đều phải trải
qua thời kỳ thử việc làm chức Hành tẩu. Thời kỳ tập sự này, Trương Đăng Quế có
bài thơ tự tình:
XUÂN THƯ TRAI
Gặp buổi tàn đông lại nhớ nhà
Đón mùa xuân đến mấy câu ca
Rau dưa nhẹ bụng qua ngày tháng
Phòng sách âm thầm nỗi khách xa
Tài kém dám từ quan chức nhỏ
Phận hèn đâu oán tướng môn nha
Rong chơi tùy lúc ta thong thả
Thắng cảnh nơi nào chịu bỏ qua?
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 114
Gia đình Trương Đăng Quế nhiều người làm quan lớn cho triều
Tây Sơn, Trương Đăng Đồ cùng vợ là nữ Đô đốc Huỳnh thị Cúc trong ngũ phụng thư
của nhà Tây Sơn đã phò tá Nguyễn Quang Thùy chiến đấu quyết liệt với quân Nguyễn
Ánh ở Sơn Tây và cả hai đều tử tiết theo nhà Tây Sơn. Sau này, chính Trương
Đăng Quế đã ra công truy tìm phần mộ chú thím mình, đưa về cải táng trong nghĩa
trang của họ tộc tại Quảng Ngãi.
Thế thì, tại sao Trương Đăng Quế vẫn ra làm quan với triều
Nguyễn và lạ hơn nữa là được các vua triều Nguyễn hết sức tin dùng. Khi bộ Lễ
đưa vấn đề lý lịch ba đời của ông để lập hồ sơ truy tặng tước hàm cho ông nội
ông, trình vua Minh Mệnh, xin phê duyệt, thì triều đình có vẻ bênh vực ông.
Năm 1838, Minh Mệnh năm thứ 19, bộ Lại tâu về việc phong tặng:
“Bộ thần lại nghĩ Hiệp biện đại học sĩ Trương Đăng Quế theo lệ
được phong tặng, hai đời ông và cha viên ấy đã nhận tước phong của ngụy, nhưng
ông của viên ấy không từng theo ngụy, liệu có được dự phong hay không, tâu rõ
chờ Chỉ...”. (1)
Vua Minh Mệnh bảo:
“Ông của Trương Đăng Quế theo lệ đáng được phong, nhưng chỉ
vì con theo ngụy (Trương Đăng Phác, Trương Đăng Đồ...) nên che mù cả điều hay,
có lẽ chưa hợp. Bộ ngươi nên bàn kỹ với bộ Lễ, tham khảo lệ cổ và thể lệ nhà
Minh, nhà Thanh cho thỏa đáng rồi tâu lên”.
Hai bộ tham khảo rồi cùng tâu lên đồng ý phong tặng ông nội của
Trương Đăng Quế. Vua y cho.
Đại Nam thực lục, tập 5, trang 312.
Quang Trung đã có công đặt cơ sở thống nhất đất nước khi đánh
bại các tập đoàn phong kiến trong và ngoài nước. Vua Quang Trung từ trần năm
1792, thì năm sau, năm 1793, Trương Đăng Quế ra đời. Kể từ đó, phong trào Tây
Sơn bắt đầu suy yếu, để rồi chẳng bao lâu sau, chỉ trong vòng bảy năm, Nguyễn
Ánh phản công đánh chiếm thành Qui Nhơn vào năm 1799, rồi thu hồi Phú Xuân vào
năm 1801 và lấy Thăng Long và cả nước vào năm 1802.
Diễn biến lịch sử Việt Nam sôi động trong thập kỷ 1790 thì
Trương Đăng Quế còn quá nhỏ, đến năm Gia Long lên ngôi vua, ông chưa đến 10 tuổi.
Kể từ đó, tình thế đất nước dần dần ổn định, công cuộc xây dựng một quốc gia thống
nhất có liên quan đến nhiều lãnh vực, trong đó có việc sử dụng nhân tài.
Gia Long được thừa hưởng thành quả thống nhất đất nước của
triều Tây Sơn, khôi phục quyền cai trị của dòng họ mình, cho đến gần 20 năm
sau, năm 1919, triều Nguyễn đã thực hiện xong việc ơn đền oán trả, củng cố vững
chắc quyền thống trị của mình, và bắt đầu nới lỏng bàn tay sắt. Việc tổ chức
khoa thi đầu tiên vào năm Kỷ Mão (1819), khoa thi Trương Đăng Quế tham dự và đỗ
Hương cống đã chứng minh điều đó. Trong tình hình như vậy, dù xuất thân trong
gia đình vốn thù địch với triều đình đương quyền, các nho sĩ vẫn có thể tiến
thân bằng con đường khoa cử.
“Việc nho sĩ thi đậu ra làm quan là bình thường, và tất yếu họ
phải tuân theo chế độ mới. Cho nên, dù là con một viên Tri phủ thời Tây Sơn,
Trương Đăng Quế vẫn tham gia được vào chính quyền Gia Long, thời mà tân triều
còn thiếu quan lại giỏi”. (theo Giáo sư Phan Ngọc Liên, Hội thảo khoa học về
Trương Đăng Quế, 1994).
Vả lại, dòng dõi họ Trương Đăng Quảng Ngãi đã từng liên tục
nhiều thế hệ làm quan dưới thời các Chúa Nguyễn. Đúng ra, phải nói là giới Nho
sĩ bấy giờ đã đồng tình góp tay xây dựng chế độ mới, một chế độ đã bền vững về
mặt chính trị và đang trên đà phát triển.
Năm 1820, Minh Mệnh nguyên niên, sau một năm tập sự, vì có tiếng
học hạnh, còn được một quan đại thần tiến cử, nên Trương Đăng Quế được bổ làm
Đông cung bạn độc, tức cùng học với các hoàng tử. Đó là cách nói khác của công
việc dạy các hoàng tử học. Trong thời kỳ này, Trương Đăng Quế may mắn được gần
gũi người sau này lên làm vua, tức hoàng tử Miên Tông, vua Thiệu Trị.
Cho đến những năm 1826, 1827, Trương Đăng Quế vẫn chưa có tiếng
tăm gì, vì chức quan thì nhỏ, lương thấp, nhà nghèo. Ông có bài thơ gởi bạn đồng
khoa cũng thanh bạch như mình, nhưng bàng bạc chút tự hào về sự thanh bạch của
mình.
NHẬN HOA CÚC, CHIA TẶNG BẠN LÀM THƠ KỂ LẠI
Nếu gọi văn chương cũng ngọc châu,
Tràng An như tớ có nghèo đâu
Chia ông mấy bụi hoàng hoa cúc
Kỷ Mão đồng khoa bạn với nhau
Đã chín năm trời lưu chánh sắc
Chỉ ba ngõ cách có xa nào!
Nhắc ông đặt chỗ sương nhuần thấm
Đóa đóa tươi xinh rực sắc màu
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr. 299
Sau đó, ông được bổ chức Thượng bảo Thiếu khanh. Theo quan chế
thời bấy giờ với hệ thống mười tám thang bậc từ tòng cửu phẩm đến chánh nhất phẩm
thì phẩm cấp này mới là tòng tứ phẩm. Tòng tứ phẩm mới là phẩm trật gần trung
bình.
Năm 1830, Minh Mệnh thứ 11, do siêng năng, có khả năng làm việc,
và nhờ được tiến cử, ông được bổ chức Tả thị lang bộ Công, làm việc ở Nội các,
tức văn phòng của vua. Chức thị lang là chánh tứ phẩm, được làm việc ở Nội các
là được gần vua, tham gia cùng với vua bàn bạc đề ra những quyết sách liên quan
đến cả đất nước. Cũng trong năm này, Tả thị lang bộ Công Trương Đăng Quế được đổi
bổ làm Tả thị lang bộ Lễ, vẫn làm việc ở Nội các. Bộ Lễ có phần quan trọng hơn
bộ Công, như thế là dù chánh tứ phẩm, nhưng cũng coi là Trương Đăng Quế được
lên chức.
Chỉ một năm sau đó, vào tháng 12 năm 1831, Trương Đăng Quế lại
được thăng chức và điều chuyển từ Tả thị lang bộ Lễ sang làm thự (tức ngày nay
gọi là quyền) Tả tham tri bộ Hộ. Sau đó lại ông được điều động quyền coi việc ở
Võ khố. Võ khố là kho quân sự nhà nước, quản lý phần lớn tài sản nhà nước, vì
ngoài Võ khố, còn có Tào chính mà sau này Trương Đăng Quế cũng kiêm chức luôn.
Chức tham tri là tòng tam phẩm. Phải là người cẩn thận chu đáo như thế nào mới
được nhà vua và triều đình tín nhiệm giao các trọng trách này.
Từ cuối năm 1830, Trương Đăng Quế bắt đầu được giao nhiều trọng
trách thêm nữa. Ông làm nhiều việc tại nhiều bộ, như ta đã biết ông từng làm việc
ở các bộ Công, bộ Lễ, Nội các, Võ khố (kho quân dụng của cả nước). Từ nay ông
còn làm Tả tham tri bộ Hộ, thượng thư bộ Binh, nắm Thương bạc, Đô sát viện, Tào
chính, Khâm thiên giám, Cơ mật viện, Văn minh điện Đại học sĩ, rồi lên tột đỉnh
phẩm cấp quan lại là Cần chánh điện Đại học sĩ, tước đến Quận công.
Dường như ông cầm đầu đơn vị nào thì đơn vị đó trở nên ngăn nắp,
ổn định. Đó là cách làm việc thời bấy giờ mà ngày nay có thể gọi là làm việc có
khoa học.
Nhiều việc ông đề ra trở thành lệ, thành khuôn mẫu quản lý có
hiệu quả, như sau đây chúng tôi trình bày cụ thể.
Tháng 12 năm 1830, binh thuyền nước Pháp đến đậu ở cửa biển
Đà Nẵng, nói là vâng mệnh vua nước họ, muốn được một viên quan ở nhà Thương bạc
đến nói chuyện. Vua Minh Mệnh sai sung biện Nội các Thị giảng học sĩ là Nguyễn
Tri Phương đến để dò hỏi, thuyền trưởng nhất định không chịu nói. Vua phải sai
Tả thị lang Trương Đăng Quế quyền chức quan Thương bạc đến, thì thuyền trưởng
nước ấy mới chịu nói.
Mùa xuân năm 1832, Minh Mệnh năm thứ 13, vua lại điều thự Tả
tham tri bộ Hộ, quyền làm công việc võ khố Trương Đăng Quế về bộ cung chức và
cùng với thự Hữu tham tri bộ Hộ là Bùi Phổ quyền giữ án triện bộ Hộ. Đặng Đức
Thiệm thay Trương Đăng Quế coi võ khố, Trương Đăng Quế chính thức là Tả tham
tri bộ Hộ. Chức Tham tri chỉ đứng dưới Thượng thư, cũng như ngày nay Thứ trưởng
chỉ đứng dưới Bộ trưởng. Như vậy có thể nói ông làm việc của Thượng thư bộ Hộ.
Cũng năm này, Trương Đăng Quế được thăng thự thượng thư bộ
Binh kiêm lãnh ấn triện viện Đô sát. Đến mùa đông, Trương Đăng Quế được chính
thức làm thượng thư bộ Binh. Chức này là chánh nhị phẩm.
Cũng năm này, vua Minh Mệnh lại sai Trương Đăng Quế kiêm
trông coi Tào chính.
Năm 1834, Minh Mệnh năm thứ 15, nhân vì việc quân quốc cơ yếu
là việc rất quan trọng, vua Minh Mệnh đặt ra Cơ mật viện cho có trách nhiệm
riêng. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy thì dùng bốn viên, văn võ quan
từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Các đại thần ở Cơ mật viện đeo kim bài
để phân biệt với các quan khác. Cơ mật viện là cơ quan tối cao của triều đình gồm
năm người do vua chủ trì cùng bốn viên đại thần.
Năm 1835, Cơ mật viện đại thần gồm bốn vị là quan thượng thư
bộ Lại Nguyễn Kim Bảng, quan Thượng thư bộ Binh Trương Đăng Quế, quan Tả phó đô
ngự sử viện Đô sát Phan Bá Đạt và quan Đại lý tự khanh kiêm công việc bộ Hình
Phan Thanh Giản.
Năm 1836, Minh Mệnh năm thứ 17, Trương Đăng Quế được thăng Hiệp
biện đại học sĩ, tòng nhất phẩm.
Cũng năm này, Trương Đăng Quế kiêm lãnh công việc bộ Công.
Sau đó, Trương Đăng Quế lại kiêm lãnh công việc bộ Lễ.
Năm 1837, Trương Đăng Quế kiêm quản Khâm thiên giám
Năm 1841, niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất, Trương Đăng Quế là cố
mệnh đại thần nên được thăng làm Phụ chính đại thần, Văn Minh điện Đại học sĩ,
phẩm hàm là chánh nhất phẩm.
Trương Đăng Quế được thăng chức từ chánh tứ phẩm lên chánh nhất
phẩm, trong thời gian có mười một năm từ năm 1830 đến năm 1841, được thăng sáu
phẩm cấp triều đình như thế là rất nhanh. Nên biết rằng, người làm quan thời bấy
giờ nếu không phạm khuyết điểm gì thì bình thường phải làm việc liên tục từ ba
đến năm năm mới được thăng một phẩm cấp. Điều đó có thể cho biết Trương Đăng Quế
là người khôn khéo, cẩn thận và có thực tài.
Năm 1841, Thiệu Trị năm thứ 1, vua phong Hiệp Biện Đại học sĩ
Trương Đăng Quế, gia thêm hàm Thiếu bảo, vẫn lãnh chức Thượng thư bộ Binh, sung
làm Cơ mật viện đại thần.
Tháng 12, năm 1841, Thiệu Trị năm thứ nhất, cho Hậu quân Chưởng
phủ sự Nguyễn Văn Trọng và Thái bảo Văn Minh điện Đại học sĩ Trương Đăng Quế
sung chức Ngự tiền đại thần.
Năm 1844, Thiệu Trị năm thứ 4, Trương Đăng Quế được ban tước
Tuy Thanh Tử, con là Trương Đăng Trụ được ban phẩm cấp Hàn lâm viện Thừa chỉ.
Ông dâng sớ nói:
“Thần, gặp thời ra làm quan, lạm lên ngôi cao, đức bạc, quan
to, đã vượt quá phận. Trương Đăng Trụ còn trẻ tuổi, chưa học mà có quan, không
làm việc gì mà ăn lộc, nghĩ thấy quá ưu ái, lấy làm sợ hãi. Khẩn xin đình lại
việc ấm thụ và chi lương ”.
(Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 633)
Vua Thiệu Trị cho là điển lệ hay của nhà nước cho bề tôi có
công được hưởng tước lộc đời đời.
Con được phong theo điển lệ, không phải là Trương Đăng Quế
không biết điển lệ ấy, nhưng ông xin được không nhận.
Thật lạ vì trong thực tế suốt xưa nay chưa thấy ai làm được
như vậy, dù theo lý thuyết, đó là lời dặn rất cặn kẽ của Khổng Tử mà sách Luận
ngữ ghi lại: “Người hưởng quá tài đức của mình tất có hại về sau.”
Năm 1846, Thiệu Trị năm thứ 6, Trương Đăng Quế được phong tước
Tuy Thạnh bá.
Năm 1847, Tự Đức năm thứ nhất, vua Tự Đức cho thăng chức ông
làm Cần Chánh điện Đại học sĩ, tấn phong tước Tuy Thạnh Quận công.
Đáng chú ý ở đây là một lúc thăng từ tước bá lên tước công,
vượt qua tước hầu, còn phẩm trật Cần Chánh điện Đại học sĩ là tột đỉnh, tức
quan đầu triều, chỉ đứng sau vua.
Trong vòng 27 năm từ 1820 đến 1847, từ một nho sĩ con trai một
tri phủ phe địch thời Tây Sơn, Trương Đăng Quế đã vươn đến tột đỉnh quan chức triều
Nguyễn, một thành tích thật phi thường, nếu không có thực tài và được cả triều
đình tín nhiệm thì không thể làm được. Hai lần liên tiếp, Trương Đăng Quế còn
được vua ủy thác trọng trách trước lúc lâm chung. Một lần, chỉ riêng một mình
ông được vua Minh Mệnh cho đến bên giường bệnh gởi gắm Trường Khánh công, sau
này là vua Thiệu Trị. Lần thứ hai, ông cùng với Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh
Giản, Lâm Duy Thiếp được Thiệu Trị gởi gắm Phúc Tuy công, về sau là vua Tự Đức.
Trong lịch sử nước ta, Tô Hiến Thành thời nhà Lý được vua Lý
Anh tông gởi gắm Thái tử Long Cán, về sau trở thành vua Lý Cao Tông, nhưng cũng
chỉ một lần hiếm hoi, ngoài ra không thấy có vị quan nào được tín nhiệm như thế.
Có lẽ có nhưng trong những trường hợp không nổi bật, nên không được nhắc đến
chăng?
Nhất định là Trương Đăng Quế đã có những đóng góp xuất sắc
như thế nào đó cho triều đình nhà Nguyễn, triều đại quân chủ sau cùng của nước
ta, dù có những hạn chế nhất định nhưng triều Nguyễn cũng đã chứng tỏ nhiều cố
gắng hoàn thành và củng cố sự thống nhất đất nước mà nhà Tây Sơn đã tạo tiền đề.
Năm 1862, Trương Đăng Quế thọ 70 tuổi. Vua ban cho bài thơ
ngũ ngôn và các phẩm hạng để nuôi tuổi già đọc sách gồm:
Nhung hươu 1 cặp,
Nhân sâm 5 chỉ
Quế thanh 2 phiến
Nghiên đá bằng cẩm thạch chạm chữ Phúc Thọ 1 cái,
Bút lông 10 ngòi
Ống cắm bút bằng sứ 1 chiếc
Mực 1 hộp 4 thoi
Giấy viết thơ hạng tốt 100 tờ
Đai vàng 1 chiếc
Gậy đầu cưu 1 chiếc
Bàn chè 1 bộ
Bát sứ 2 chiếc
Chén 7 cái
Đĩa 10 chiếc
Áo chống rét tay rộng, tay vừa, tay chẽn mỗi thứ 1 cái đều
lót bông
Chăn 1 chiếc
Đệm nằm, đệm ngồi lót bông mỗi thứ 1 chiếc
Trừu sợi gai màu huyền, trừu hoa màu ngọc lam, trừu dệt mãng
cuộn tròn màu bảo lang, trừu non màu đỏ, màu trắng đều mỗi thứ 1 chiếc.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 799
Năm 1863, Tự Đức năm thứ 16, Trương Đăng Quế trí sĩ. Trước
đây, Trương Đăng Quế 5 lần dâng sớ xin về hưu, nhưng vua cho Đăng Quế là cố mệnh
lương thần của hai triều, cốt để nương nhờ, chưa nỡ tạm rời hai bên tả hữu, cho
đình thần họp bàn, các quan đều xin ông ở lại. Nay vì già ốm, ông thiết tha xin
về hưu, vua chìu theo ý muốn. Khi về, vua sai đình thần làm lễ đưa tiễn. Sau
khi về làng, vua chi cho một nửa lương, quan tỉnh thường xuyên đến thăm hỏi.
Vua lại dặn Đăng Quế là sau này có nghe thấy gì và nghĩ tính gì đến những việc
lợi hại to có liên quan đến việc nước việc quân thì cho phép gởi tâu lên. Đăng
Quế về rồi, vua lại ban cho bài thơ thất ngôn.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 808
Mùa xuân năm 1865, Tự Đức năm thứ 18, cố mệnh lương thần,
Thái bảo, Cần Chánh điện Đại học sĩ, sung Cơ mật viện đại thần, Kinh diên giảng
quan, Tuy Thạnh quận công, trí sĩ Trương Đăng Quế qua đời. Tháng trước, vua
nghe tin Trương Đăng Quế bệnh, sai đưa sâm quế và phái viên thái y đến điều trị.
Rồi sai tỉnh thần Quảng Ngãi đến thăm hỏi nếu có muốn nói việc gì lợi ích cho
quốc kế thì sao đệ lên.
Đăng Quế thưa rằng:
“Trải thờ mấy triều tới nay, từng đội ơn tri ngộ, duyên phận
đến như thế còn có gì hơn nữa. Việc trị nước, đại đoạn giảm bớt quan lại thì
năm đầu Tự Đức đã trình bày cả rồi. Lại như việc dùng người, tìm người hiền,
cũng đã trình bày những điều cốt yếu, tưởng không còn việc quan yếu nào nữa. Gần
đây, lại đem ba việc lớn, bí mật trình bày (chép ở tháng 6 năm trước), không
dám có ẩn dấu. Ngày trước có phụng họa bài thơ ngự chế có câu “ Bình sinh bội
phục tiên hiền huấn, Phi đạo hà tằng cảm thượng trân”’. Sức học ngày thường của
tôi chỉ được đến thế, nếu được thâu lượm để dùng, tưởng cũng không phải là
không có chút bổ ích. Nay không dám trình bày điều gì khác thêm nữa”.
Tỉnh thần sao chép lời nói ấy dâng lên. Vua giao cho viện Cơ
mật phụng giữ, để làm tài liệu cho sử biên sau này. Nghe tin Đăng Quế qua đời,
vua Tự Đức bãi triều 3 ngày, tặng hàm Thái sư, cho tên thụy là Văn Lương, xuống
chỉ cấp thêm 2.500 quan tiền tuất và gấm lụa các hạng. Lại sai đem rượu thượng
phương - rượu vua dùng - và một bài thơ. Hôm chôn cất, lại sai quan đến tế và dựng
bia ở mộ, đợi khi hết trở, sẽ theo lời tiền thánh cho tòng tự ở Thế miếu.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 906
Tên thụy là tên được ban trước khi nhắm mắt. Người ta thường
đem tính hạnh của người ấy so sánh rồi đặt tên thụy. Tên thụy của Trương Đăng
Quế được vua Tự Đức so sánh với toàn bộ cuộc đời của Trương Đăng Quế và đặt là
Văn Lương.
Vì tên thụy nào cũng bắt đầu bằng chữ Văn, nên ở đây, cần
nghiên cứu chữ Lương trong từ Văn Lương. Có phải chăng Tự Đức muốn nói đó là một
con người trung lương, một người lương thiện, một con người có lương tri, một
con người có lương tâm?
Cũng là chuyện lạ, một viên quan sáu lần viết đơn xin về hưu,
lần thứ nhất vào năm ông 58 tuổi và đến lần thứ sáu mới được toại nguyện khi tuổi
đã vượt ngưỡng xưa nay hiếm, 73 tuổi, để rồi chưa tới hai năm sau thì qua đời.
Sáu lần xin về hưu cách nhau 15 năm. Lý do xin về hưu là tuổi già, không còn đủ
sức khỏe và sáng suốt để làm việc, nhưng vua và triều đình chưa cho ông về hưu
mỗi lần mỗi lý do khác nhau.
Mùa thu năm 1855, Tự Đức năm thứ 8, Trương Đăng Quế làm tờ
tâu xin nghỉ việc, đại ý nói:
“Thần ngày thường tự biết là làm chính sự không bằng Đặng Văn
Thiêm, văn học uẩn súc không bằng Phan Thanh Giản, siêng năng không bằng Lâm
Duy Thiếp, chất phác không bằng Tôn Thất Thường, chỉ có ra vào chầu hầu cố gắng
làm việc, lâu ngày nên công. Gần đây ngày càng suy yếu không lợi gì cho việc
chính sự...”.
Vua một mực ủy dụ không cho về, nói rằng:
“Ở đời những người làm quan, cố nhiên có người tự biết đủ
(tri túc), biết yên nghỉ để không bị nhục, không bị nghi. Nhưng cũng có người lại
cố gắng làm việc, không dám kêu khó nhọc, vì phải tùy thời mà tiến, lùi chưa từng
cố định được. Nay theo như đức và vị của khanh, mà muốn xin nghỉ để được rảnh
mình thì có 5 điều không nên...Trẫm đương tuổi nhỏ, kiến thức còn ít, mọi việc
chưa quen, nên muốn dùng người cũ để giúp trẫm những điều trẫm không nghĩ đến
được. Từ trước đến nay, phàm khanh có dâng điều hay, can điều trái, không điều
gì mà trẫm không nghe theo, khanh còn ngại ngùng gì mà nỡ phụ lòng trẫm...”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 405-406
Tháng 9 năm 1855, chuẩn cho Trương Đăng Quế thôi việc ở bộ
Binh, vẫn sung chức Cơ mật viện đại thần, Trước đó, Trương Đăng Quế dâng sớ xin
sở viện về hưu. Vua phê vào tập tâu:
“Nay gặp lúc nước nhà gặp tai nạn, dù tuổi đã già yếu như Trần
Văn Trung còn chưa nỡ bỏ, huống chi là phận nghĩa khí thức của một viên Đại học
sĩ, lại muốn vin lệ nghỉ việc thì có nên không? Hãy đợi giúp ta giữ nước ”.
Trương Đăng Quế lại viết sớ tâu xin lần nữa. Vua lại nói rằng
trong nước có người tài, thì nước mới vững vàng, sao nỡ khiết nhiên, làm trái ý
ta lần nữa. Đình thần đều tâu là viên đại thần ấy là bậc lão thành, rất quen
công việc, trí lự còn rất tinh tường, còn có thể mưu bàn việc lớn, giúp ích được
nhiều.
Tháng 9, năm 1860, Tự Đức năm thứ 13, Trương Đăng Quế lúc này
68 tuổi, lại dâng sớ xin miễn chức về quê. Đại ý nói rằng:
“Từ khi Tây dương đến đây đã ba năm nay, mà ngồi trơ mặt ở
triều ban, không vạch ra được một mưu chước gì để đánh lại được giặc Tây dương,
tội ấy chối sao được. Lại bóng chiều đã xế, bệnh tật luôn luôn, gần tới cõi chết
mà cố giữ địa vị, thực đáng hổ thẹn. Vậy xin cho về quê để nhường chỗ cho lớp
trẻ”.
Vua giao cho đình thần xét nghĩ. Đình thần đều nói xin lưu
Đăng Quế lại để tính toán giúp đỡ. Vua an ủi Trương Đăng Quế, bảo rằng đang có
việc giặc Tây dương, nên hết sức làm việc, nếu một phút nào còn sống cũng phải
nên cố gắng để báo đền ơn nước.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 678
Tâm sự về hưu của ông qua mấy bài thơ:
CẢM XÚC NGÀY XUÂN
Đất khách vui được mấy
Một mình, thoảng gió xuân
Sáng sớm đi thong thả
Xem sinh hoạt nhân dân
Lăn xăn người qua lại
Vui vẻ mặt tươi tỉnh
Riêng ta lòng ưu tư
Ngày một thêm chồng chất.
Vườn xưa ven đông nam
Cây cối mọc xanh tốt.
Anh ta còn ở nhà
Đôn đốc việc trồng trọt.
Cháu bé chơi bên cạnh
Hả hê đùa thật thích
Việc chi ta cứ mãi
Ngày đêm ra vào cung
Lụy vì thăng đấu phỏng?
Để hận cái thân danh
Thơ Trương Quế, sđd, tr 24
TẶNG QUAN THƯỢNG THƯ BỘ CÔNG
BÙI ĐOÀN VỀ HƯU
BÙI ĐOÀN VỀ HƯU
Đường đời từng gánh lắm gian nan
Phải chịu ba lần giáng chức quan
Lên xuống cả đời, đành sống nhún
Nỗi trôi suốt kiếp, chịu cư bần
Mình mang bệnh nặng nên hưu trí
Chức phận lo tròn nhẹ tấm thân
Muốn bước theo ông chưa thể được
Ở, về đâu phải chuyện dễ bàn
Thơ Trương Quế, sđd, tr 293
Trương Đăng Quế cảm thấy nhẹ người khi đã được về hưu qua mấy
bài thơ:
HỌA NGUYÊN VẬN HAI BÀI "KIẾN HOÀI" CỦA THƯƠNG SƠN CÔNG
(Đồng gởi Triệu Phong công)
* Bài 1
Trăng sáng thu về đêm vắng tanh
Chập chờn nhớ lại thuở làm quan
Lan Đình thắng hội say còn nhớ
Bạch Xã danh thi lão vẫn mong
Nhà mát thơ nhàn theo họ Tạ
Ruộng phì lúa tốt học nơi Phàn
Nhìn lên sắp sáng, xa kinh quá
Chỉ thấy lau già sương vẫn trong
* Bài 2
Về hưu nhà cũ mặc xuề xòa
Lá rụng thu sang chạnh tuổi già
Đã hết quan to bàn chiến lược
Nên gần dân giả kết thông gia
Ruộng kề vui thấy sân đầy lúa
Biển sát buồn nghe sóng dữ qua
Tựa bóng dừa trông về hướng bắc
Mịt mù kinh khuyết khói mây xa
Thơ Trương Quế, sđd, tr. 443
THU CẢM
Từ khi về ở Khúc Giang đông
Mọi thứ phồn hoa chuyện sắc không
Thấm thoắt đã vào thu tháng tám
Lững lờ sáng tỏ một vầng trong
Gió xao cây quế hương thơm nhẹ
Sương thấm rừng phong lá rực hồng
Xong khúc Nghê Thường trăng cũng vắng
Quảng Hàn giá lạnh có buồn không
Thơ Trương Quế, sđd, tr. 116
Những bài này ông làm khi đã về hưu, trở lại sống tại làng Mỹ
Khê, Quảng Ngãi, cách kinh thành Huế 240 km về phía nam. Ông nhập thân cuộc sống
nơi thôn quê “trăng sáng... đêm vắng tanh”, “mặc xuề xòa”, cái mong ước đơn sơ
“ruộng phì, lúa tốt”, vui buồn mang khí vị của người nông dân “sân đầy lúa”,
“sóng dữ qua”. Nhưng phảng phất đâu đây nỗi lòng của người già lo lắng chuyện đất
nước, làm ta nhớ đến bề tôi nhà Hán là Đại thần Lư Thực thời Tam Quốc khi loạn
Thập thường thị nổ ra, đau lòng nhìn kinh đô biến loạn mà bất lực chỉ biết than
thở. Trong thời gian ngắn ngủi từ khi được về hưu chưa tới hai năm tuổi già,
trước khi qua đời, Trương Đăng Quế để lại ba bài thơ này.
Chú thích:
Chú thích:
(1) Theo
chế độ các triều đại phong kiến, có tục truy tặng cho cha, ông nội của các
quan. Thời Tây Sơn, Trương Đăng Phác làm chức Tri phủ nên cha là Trương Đăng Lượng
được phong tặng tước hàm dù không làm quan cho nhà Tây Sơn ngày nào. Đến khi
Trương Đăng Quế làm quan cho triều Nguyễn, thì Trương Đăng Phác đương nhiên là
không được xét, song Trương Đăng Lượng được phong.
SỰ NGHIỆP TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ
Thời kỳ đầu làm quan, Trương Đăng Quế cố gắng làm tròn chức
trách, chưa có đóng góp gì đáng kể cho triều đình, vì chức nhỏ, chưa được phép
ý kiến nhiều, và cũng như bất cứ người trẻ tuổi nào, ông cũng bị vướng một số
khuyết điểm, lầm lỗi, nhưng những đóng góp của ông cho triều đình, cho đất nước
mới là quan trọng.
Chúng ta tuần tự nghiên cứu từng lãnh vực cụ thể.
Sử ghi hai lỗi nhỏ.
Lần một, bộ Lại kê danh sách quan địa phương đợi vua khuyên
tên cho vời đến kinh chúc thọ. Quan Hộ tào thành Gia Định là Ngô Bá Nhân được
vua khuyên mà các quan ở bộ Lại và các quan ở Nội các quên mất, không gởi cho,
nên đều bị giáng 3 cấp, trong đó có các quan thị lang Nội các Phan Thanh Giản,
Trương Đăng Quế và Phan Bá Đạt. (Đại Nam thực lục, tập 3, tr. 34)
Lần hai, là nhân ngày làm lễ đại khánh vua Minh Mệnh, Thị
lang Nội các là Phan Thanh Giản và Trương Đăng Quế dâng bài tụng đại khánh, thuật
các việc từ lúc vua lên ngôi đến nay, siêng lo chính trị làm gốc để được phúc
hưởng thọ. Vua Minh Mệnh bực mình phê:
“Bọn ngươi không lo cố gắng làm hết chức phận, cứ ngày thêm lỗi,
nay lại làm bài văn vô dụng này đối với lầm lỗi có bổ ích gì?”.
Đại Nam thực lục, tập 3, tr. 39
Vua ném trả lại và truyền chỉ quở mắng.
Sử đã ghi nhiều đóng góp của Trương Đăng Quế từ những công việc
cụ thể đến những sách lược về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội mang tầm quốc
gia.
Trên kia, chúng ta đã nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, về gia
tộc Trương Đăng Quế, và sơ yếu lý lịch bản thân, về con người ông. Bây giờ
chúng ta nghiên cứu những việc làm cụ thể trong cuộc đời và sự nghiệp của ông.
1. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ VẠCH THẾ TRẬN TRẤN
TÂY THÀNH
Trấn Tây thành là nước Chân Lạp thời nhà Nguyễn. Sau khi đã
yên giặc Xiêm, vua cho rằng việc biên giới nên xếp đặt trước, bèn cho đình thần
bàn kỹ về mọi việc cho thành Nam Vang và hai tỉnh An Giang, Hà Tiên. Đình thần
cho rằng có rất nhiều việc đáng nên sửa sang thực khó làm cả một lúc được. Nên
biết rằng, đình thần bàn bạc trên cơ sở tờ trình của bộ Binh, do Trương Đăng Quế
đứng đầu khởi thảo.
Những việc cần kíp dưới đây liệt kê từng điều để tâu lên:
1. Thiết lập thành trì đồn trại: Thành Nam Vang đã bị giặc
Xiêm tàn phá, đáng lẽ vua nước Chân Lạp sửa đắp để ở và giữ. Nhưng mới lấy lại
được, lòng người còn ngờ sợ, nên phải liệu đem trọng binh để giúp việc trấn áp.
Xin chọn một chỗ đất ở dưới thành lập một đồn to đặt tên là đồn An Man, để
2.000 biền binh đóng giữ, đặt thêm một quan Lãnh binh An Giang đến coi quản,
phàm những công việc quan trọng đều do quan Tổng đốc điều khiển. Còn công việc
nước Phiên vẫn do vua Chân Lạp liệu lý. Vì mạn thượng du Battambang là nơi địa
đầu rất xung yếu, cũng xin đặt ở chỗ ấy một đồn to gọi tên là đồn Tịnh Biên,
phái quân đi đóng giữ để nghiêm việc phòng bị. Ở dưới Nam Vang có xứ Kanport,
trên thông với Nam Vang dưới suốt đến An Giang, đấy là trung độ. Và đối ngạn với
Nam Vang là xứ Loveth, đường bộ có thể thông đến Quang Hóa. Ở trên Nam Vang có
biển hồ Tonlesap đường có nhiều ngả, ví chẳng do đường Battambang hay do đường
khác, nếu đi qua biển này cũng có thể thông đến Nam Vang, Xứ Poipet là cuối địa
giới Chân Lạp với nước Xiêm, cũng là nơi trọng yếu, đều nên liệu đặt đồn trại,
phái vài chục quân Chân Lạp đóng giữ. Khi có việc thì báo cho nhau để thông tin
tức. Ngoài ra, hoặc có chỗ nào nên đặt đồn xin do bọn Trương Minh Giảng, Nguyễn
Xuân và Lê Đại Cương xét kỹ, tâu lên sẽ theo thứ tự mà làm. Còn thành tỉnh An
Giang trước đã dựng ở đất Long Sơn, chưa làm xong. Chỗ ấy cũng cao ráo, sáng sủa,
đào cảng thông đến Châu Đốc, thì có thể ngoái trông cả Tiền Giang và Hậu Giang,
đủ là địa thế hiểm trở hữu hình, xin nên theo chỉ dụ trước, tiếp tục xây dựng
cho được hoàn thành. Lại nữa, Châu Đốc trên thì thông với Nam Vang, dưới thì tiếp
với Vĩnh Long, cùng với Hà Tiên, che chống lẫn cho nhau, xin theo như cũ, sửa đắp
thêm, liệu để trọng binh canh giữ. Từ miền hạ du Châu Đốc đến thủ sở Chiến Sai
cũ là nơi đường thủy Tiền Giang - Hậu Giang tất phải đi qua. Quan quân đi tiễu,
đã có đặt đồn đóng quân, xin lập hai pháo đài ở hai bên tả hữu chỗ ấy: một cái
đặt tên là pháo đài Toàn Thắng, một cái đặt tên là pháo đài Phá Địch, liệu đặt
biền binh đóng giữ. Còn tỉnh thành Hà Tiên, trước vì lỵ sở cũ chật hẹp nên đã dời
đến Giang Thành. Chỗ này địa thế cao rộng, quang đãng, đủ để cư tụ. Nếu dựng lập
tỉnh thành ở đấy, rồi đặt đồn lớn ở tỉnh lỵ cũ, đồn để đóng trọng binh, ngoài
có pháo đài Kim Dữ cùng bảo vệ lẫn cho nhau, ví như có tường phên che đỡ, lại
có cửa ngõ canh phòng, thì những lúc gặp việc quân cơ, ứng phó thình lình, có
thể phòng bị những điều bất trắc. Còn như tỉnh lỵ cũ, gần sát cửa biển ngoài
không có gì để che đỡ, e không phải là nơi đất tốt. Duy hộ phủ Trịnh Đường đã
có tâu, chuẩn cho thiết lập lại như cũ. Đường bộ từ Gia Định thông đến Nam
Vang, chỗ cầu Tây Hoa (Tây Ninh) đạo Quang Hóa rất là xung yếu. Xin đắp một
thành đất ở đạo Quang Hóa, đặt một đồn ở Tây Hoa phái quân đóng giữ.
2. Dự liệu phân phối về việc công dịch và việc trú phòng:
Ngoài thành Nam Vang và hai đồn lớn ở Battambang, còn những
công trình xây dựng khác xin do bọn Trương Minh Giảng liệu phái biền binh,
thương lượng với vua Chân Lạp liệu điều động quân, dân nước ấy góp sức cùng
làm. Còn thành mới An Giang, đồn Châu Đốc, pháo đài Toàn Thắng, pháo đài Phá Địch,
thành đất ở đạo Quang Hóa thì do quan tỉnh An Giang, quan tỉnh Gia Định điều động
quân, dân tại chỗ đến làm. Còn biền binh trú phòng: đồn An Man do bọn Trương
Minh Giảng liệu để lại 2.000 biền binh, điều động thuyền bè canh giữ. Thành mới
An Giang, đồn Châu Đốc cùng hai pháo đài Toàn Thắng và Phá Địch thì do hai tỉnh
An Giang, Vĩnh Long. Thành đất Quang Hóa và tấn sở Tây Hoa thì do tỉnh Gia Định
liệu phái biền binh canh giữ. Còn Tonlesap, Ba Nộn, Loveth và Kanport thì thuộc
Nam Vang điều động và ngoài những chỗ ấy, phàm những chỗ nào nên đặt tấn sở thì
điều động quân dân đến làm. Những chỗ canh giữ do quan địa phương châm chước mà
làm. Và số quân tỉnh Hà Tiên không có bao nhiêu, xin do quân tỉnh An Giang phái
thêm 500 biền binh đóng giữ. Nếu tỉnh thành đặt ở Giang Thành, tỉnh lỵ cũ mà
làm đồn to thì xin lấy quân và dân tỉnh Vĩnh Long để cùng làm. Còn các đồn ải
và các tấn sở ở nước Chân Lạp thì do quan Tổng đốc An Giang bàn cùng vua Chân Lạp
liệu điều động quân Chân Lạp xen với quân ta phòng thủ.
3. Dự trữ quân nhu ở các đồn trại bộ là Bùi Phổ quyền giữ ấn
triện bộ Hộ.
Nước Chân Lạp trước không có tàng trữ lại bị chiến tranh tàn
phá. Thế nên 2.000 biền binh đóng giữ ở đồn An Man xin do tổng đốc tỉnh An
Giang tư lấy thóc vài vạn hộc, tiền vài vạn quan ở hai tỉnh Vĩnh Long - Định Tường
đem đến chứa ở đấy để đủ cấp lương rồi sẽ làm dần.
4. Phân biệt công tội của quan nước Chân Lạp:
Khi giặc Xiêm mới vào cướp, vua Chân Lạp đã chạy trước sang
ta, quan Chân Lạp mà người nào biết tập họp quan dân, mượn tiếng quan quân,
đánh lùi giặc Xiêm, không những vì nước mình diệt thù mà còn giúp rập quân ta
đuổi giặc, ví như bọn Nhâm Lịch Trà Tri thì nên liệu khen thưởng để khuyến
khích người sau. Còn trong bọn quân Chân Lạp, người nào nhanh nhẹn được việc vốn
được người dân tại chỗ tin phục thì do bọn Trương Minh Giảng hội cùng vua Chân
Lạp làm danh sách kể rõ tên họ, quan chức và sự trạng tâu lên đợi Chỉ để ban
cho quan chức của triều đình đặt trùm lên trên, khiến họ cùng đội ân, vinh cho
mọi người đều biết khuyến khích. Những kẻ cam lòng theo giặc, đứng đầu làm ác
thì cho vua Chân Lạp lọc ra để nghiêm trị, để họ biết răn sợ. Còn những người bị
bắt ép theo giặc thì không nên xét kỹ.
5. Đình chỉ việc cho sứ Chân Lạp sang Xiêm La:
Trước đây nước Chân Lạp mỗi năm một lần sai sứ sang Xiêm, do
quan thành Gia Định cũ đem việc chuyển tâu cho hợp lễ giao hiếu với láng giềng.
Nay người Xiêm tham tàn càn rỡ, đem quân vào cướp, xua đuổi dân Chân Lạp, cướp
bóc của cải tài vật của họ nên hai nước trở thành kẻ thù của nhau. Vậy việc
thông sứ xin giao quan Tổng đốc An Giang - Hà Tiên chuyển sức, đình chỉ mãi
mãi.
6. Chỉnh đốn quân Chân Lạp và chiến khu:
Nước Chân Lạp đất rộng, người đông mà từ trước đến nay quân
lính tản mác, không có thông thuộc. Cần nên một phen chỉnh đốn cho có quy tắc.
Xin do bọn Trương Minh Giảng hội cùng vua Chân Lạp sức cho an phủ các phủ: cứ số
dân, mười người lấy một làm lích, cho theo các an phủ, đóng giữ địa hạt. Lại
nên bảo cho vua Chân lạp phải rộng tích trữ, sắm khí giới, đóng thuyền bè để
làm thế cường thịnh.
Đại Nam thực lục
Bản phác thảo chiến lược về việc xây dựng và phát triển vùng
đất Nam Bộ và Chân Lạp rất cụ thể, tưởng không thể nào chu đáo hơn.
Trong bài tựa tập thơ Trương Quảng Khê tiên sinh tập, Phan
Thanh Giản viết có câu:
“Vả lại, tiên sinh từng trải, nắm vững vùng đất Nam Kỳ
lục tỉnh như lòng bàn tay, nhìn xa trông rộng, xác định những nơi hiểm yếu, tâu
xin xây dựng thành trì ở Tây Ninh là điều mà tôi tuy là người gốc Nam Bộ, thật
tình cũng chưa từng nghĩ tới”.
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, trang 10
Trương Đăng Quế làm nhiều bài thơ, có lẽ khi ông đi kiểm tra
công việc thực hiện sách lược trên kia, bài:
TỪ LẦU THÀNH TRẤN TÂY (Nam Vang)
Khống chế cả vùng biên trấn nầy
Đồn binh lương thảo giáo gươm đầy
Thừa khi công chúa lên ngôi báu
Là lúc nguyên nhung lập kế hay
Mười sáu phố phường dân hội tụ
Bốn luồng dòng rẽ nước thông đầy
Lên cao đưa mắt nhìn toàn cõi
Vạn lý thu về nước Việt đây.
Năm 1835, Minh Mệnh năm thứ 16, mùa đông, bọn tướng quân Nguyễn
Xuân, Phạm Hữu Tâm khải hoàn từ quân thứ Gia Định về đến Kinh (dẹp xong dư đảng
Lê Văn Khôi).
2. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ LẬP ĐỊA BẠ SÁU TỈNH NAM KỲ
Năm 1836, Minh Mệnh năm thứ 17, vua Minh Mệnh tổ chức việc
kinh lý Nam Kỳ. Bổ nhiệm Binh bộ thượng thư, Cơ mật viện đại thần Trương Đăng
Quế và Lại bộ thượng thư Nguyễn Kim Bảng làm Kinh lược đại thần, thự Lễ bộ Hữu
thị lang Tôn Thất Bạch và thự Thông chính sứ Nguyễn Đức Trí làm phó sứ.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 878
Ngày 24 tháng 3 năm 1836, phái bộ Nam Kỳ Kinh lược sứ Trương
Đăng Quế đi thuyền mới sáu ngày đã tới Gia Định, làm sớ tâu lên. Vua Minh Mệnh
thấy chuyến đi này thuận buồm, xuôi gió, nên truyền chỉ hỏi thăm úy lạo, lại thấy
thời tiết đã sang mùa hè, trong Nam nóng dữ, nên sai thị vệ mang rượu thuốc Tây
dương gấp đến ban cho.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 899
Bọn Trương Đăng Quế khi mới đến Gia Định bàn với hai phó sứ
Tôn Thất Bạch và Nguyễn Đức Trí chia đi Biên Hòa, Định Tường để khâm đạc. Bấy
giờ đại sứ Nguyễn Kim Bảng bị bệnh, Trương Đăng Quế liền dâng sớ xin tạm ở Gia
Định, xếp đặt năm ba ngày rồi đi ngay Vĩnh Long, An Giang để lướt qua một phen
chỉnh sức trước. Ông tâu về triều:
“Hạt này, sau nạn binh hỏa, dân mới được yên ổn sum họp.
Về việc tuyển lính, những kẻ ngu lười, yên thói cũ, lúc mới thì hoang mang sợ
hãi, đến khi được các phủ huyện theo lời dụ dẫn bảo, bấy giờ mới hơi yên ổn.
Quan tỉnh hiện đang gọi và tuyển lính. Duy về việc đạc ruộng, nhân dân sở tại
ít người biết toán pháp, không khỏi một phen phải tốn công chỉ bảo cho nhiều
người tập quen để sẽ lần lượt tiến hành. Thần đã sai giáo thụ, huấn đạo hiệp với
các viên phủ huyện cùng làm, ngõ hầu mới mong xong sớm được”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 902
Vua cho giải chức Kinh lược của Nguyễn Kim Bảng vì tuổi già lắm
bệnh, chờ thuyền trở về kinh đô điều dưỡng. Sai Trấn tây tướng quan Trương Minh
Giảng thay làm. Dụ rằng:
“Việc đi kinh lý lần này, tuyển lính để bảo vệ dân, đạc ruộng
để định cương giới, đều là chính sự lớn của nước, triều đình không phải lấy đó
làm lợi. Nên đem ý này hiểu thị cho dân sở tại. Các khanh là trọng thần của nhà
nước, mọi việc phải nên vừa phải, không dễ dãi mà cũng không mạnh quá. Việc
Kinh lược Nam Kỳ lần này không phải chỉ được ủy cho hai việc ấy thôi đâu, mà
trong sáu tỉnh Nam Kỳ, phàm việc lợi nên làm, việc hại nên bỏ, đều châm chước
mà làm cho được ổn thỏa và tốt. Đến như nhân dân nếu có điều gì uất ức, thì nên
làm cho tới nơi tới chốn mà gỡ oan cho người ta để đức ý nhà vua thông suốt tận
người dân và tình dân được thấu lên trên. Thế mới không phụ lòng ta ủy thác”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 903
Quan tỉnh Gia Định tâu nói:
“Năm ngoái thuê mướn dân phu ở tỉnh hạt và ở Vĩnh Long và Định
Tường để san bằng thân thành Phiên An cũ, và lấp các hào rãnh, đến nay công việc
mới được quá nửa. Bây giờ có việc tuyển lính và đạc điền, dân các tỉnh gián hoặc
có người phải đăng lính, có người phải đích thân đứng ra nhận ruộng đất, vậy
xin hãy tạm cho họ về, chờ khi xong việc đăng lính và đạc điền mới có thể tiếp
tục”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 903
Vua y cho.
Bố chính Vĩnh Long là Trương Văn Uyển tâu có nói:
“... còn dân Nam Kỳ mới qua khỏi sự biến, nếu vội đạc ruộng
ngay thì họ không khỏi sợ hãi. Vậy xin nên cứ theo đây, thửa ruộng đất trước, rồi
châm chước định lệ thuế, khiến cho nhiều ít vừa phải mà thôi”.
Vua Minh Mệnh sao gởi cho bọn Kinh lược Trương Đăng Quế bàn
xét. Trương Đăng Quế tâu:
“... còn như việc đặc điền trót đã làm rồi, cốt cho giới hạn
rõ ràng, mẫu sào ấn định, rồi sau châm chước bàn định thuế khóa mới có chuẩn. Nếu
vì mới qua khỏi sự biến, chưa thể vội làm thì đợi đến bao giờ mới làm được? Ruộng
không đo đạc ngay thì lấy đâu làm chuẩn mà định thuế lệ và giữ cho nhiều ít được
quân bình? Điều xin ấy là không phải ”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 903
Vua cho ý Trương Đăng Quế là phải, truyền chỉ khen thưởng,
chuẩn cho làm theo như đã đề nghị.
Tháng tư mùa hạ năm 1936, bọn Trương Đăng Quế, Nam Kỳ Kinh lược
sứ tâu nói:
“Lính mới tuyển ở Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định
Tường đã dần đủ số. Còn việc đạc điền đã làm thử ở chỗ gần, thấy dân tình cũng
có một vài người không vui, nhưng phần đông đều muốn đo đạc. Vì Nam Kỳ chứa chất
tệ hại đã lâu, cường hào cậy mạnh bá chiếm, người nghèo không có đất cắm dùi.
Có kẻ xã này chiếm ruộng đất ở xã khác mà người sở tại lại phải tá ngụ để cày cấy
ăn ở. Có nơi ruộng có một thửa, tô thuế nguyên trưng không quá ba bốn hộc, nay
lại chia thành sáu bảy thửa bán cho người khác mà những người mua ấy lại phải nộp
thóc gấp bội cho chủ nguyên trưng thu riêng. Có nhiều cách sách nhiễu không sao
kể xiết! Nay khám đạc lại thì mọi người cứ chiếu phần mình cày cấy mà nộp thuế
không còn bị cường hào ức hiếp nữa. Đất bỏ hoang dân ra sức khai khẩn thì được
chia lợi. Cho nên người thích muốn đo đạc thì nhiều. Thế thì việc đạc điền cũng
là việc người dân muốn làm, chứ không phải là việc làm khổ dân. Duy từ quan lại
ở tỉnh cho đến tổng lý không có ai am tường về địa phận đông tây, về phân số mẫu
sào và những cách nêu ruộng, ghi nhận, tính, đo! Bọn thần đã chỉ bảo hai ba lần
cho đến khi họ thông thuộc được cũng là việc rất gian khổ. Trong số ruộng đất đạc
được có chỗ nguyên trưng là ruộng mà nay thanh ra vườn tược, nhà ở, có chỗ cấy
thực mà không có sổ, có chỗ ở xã khác mà ghi lầm vào bản xã, có chỗ nguyên
trưng là một thửa mà nay chia làm mấy chục thửa, chuyển bán cho người ta rồi,
có chỗ trước gọi là một thửa mà dài rộng quanh co đi đến nửa ngày đường mới hết
chỗ cày cấy thực. Sự tình dường ấy không phải kể một nơi mà đủ cả được. Cho nên
có đo đạc, tất phải kê cứu, nên không tránh khỏi kéo dài”.
Vua Minh Mệnh phê:
“Nhìn việc thấu triệt, nói đươc rõ ràng, có thể đi đến chỗ
thành công đấy!”.
Rồi ban Dụ khen:
“... Duy việc đạc điền là sáng kiến mới, sợ rằng dân quen
thói thường, theo nếp cũ, chưa trông thấy lợi, có kẻ cho là tai hại! Không ngờ
một khi hiểu được thì họ biết cố gắng, vượt được biếng lười, thích làm điều thiện,
sốt sắng việc công. Xét tình hình ấy biết rằng sau khi xong việc không những có
thể cùng vui công việc đã thánh mà ngay lúc mới làm cũng đã thấy sơ được công
hiệu. Bọn Kinh lược đại thần vâng mệnh đi kinh lý đã tuyên dương được ý trẫm,
làm yên lòng dân, thật rất đáng khen”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 915,916
Tiết Vạn thọ, bọn Nam Kỳ Kinh lược sứ Trương Minh Giảng,
Trương Đăng Quế, Tôn Thất Bạch, Nguyễn Đức Trí dâng sớ cung chúc vua Minh Mệnh
và báo cáo công tác đang ráo riết tiến hành.
Vua Minh Mệnh phê bảo rằng:
“Bọn khanh khỏe mạnh, việc binh lính và việc ruộng đất làm dần
đâu ra đó, xem tờ tâu sớ trẫm yên tâm và vui mừng. Gặp ngày lễ Vạn thọ của trẫm,
cúi trông triều ban, không thấy bọn khanh xếp trong hàng, lòng trẫm cũng nao
nao!”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 924
Bọn Kinh lược sứ Nam Kỳ Trương Minh Giảng, Trương Đăng Quế
tâu lên:
“Lần trước trong tập thỉnh an của quan bố chánh Vĩnh
Long Trương Văn Uyển và bố chánh Định Tường Trần Tuyên đều nói: đất sáu tỉnh
Nam Kỳ nhiều đường sông, mọi người đều có thuyền, dân lười biếng trốn lính và trốn
dao dịch, côn đồ nhân sơ hở mò mẫm đều do đấy. Vậy xin: phàm tất cả thuyền bè mới
cũ của dân đều cho trình sở tại để được cấp bài chí (thẻ bài) cắm ở mũi thuyền,
hoặc là khắc chữ (ghi khắc tên xã, thôn) ở mũi thuyền. Lại chia đặt việc tuần
sông, liệu thiết lập đồn xích hậu (đồn tuần tra), xét ra kẻ nào đội tên giả mạo
thì bắt tội. Về việc thuyền bè, đã được giao bàn xét kiểm tra lại, thì năm trước
đình thần có bàn chắc đã chu tất cả rồi, nếu quan địa phương biết, thể theo mà
làm, tự khắc có thể chặn được cái tệ trốn tránh, không còn phải tìm kiếm ở đâu
khác nữa. Nếu quy cho vì cớ nhiều thuyền, rồi đặt pháp lệnh để nghiêm phòng,
thì mỗi khi đặt một pháp lệnh lại sinh một tệ hại, phiền phức sẽ không kể xiết!
Ngay như đóng một chiếc thuyền nho nhỏ, phải trình quan cấp bài, báo quan khắc
chữ, vậy có giữ được bọn lại dịch khỏi khó dễ yêu sách không? Chỉ vì Nam Kỳ đường
sông có nhiều ngả, côn đồ dễ ra vào, bọn du thủ du thực phần nhiều cũng mượn cuộc
sống lênh đênh để làm kế qua khỏi tạm thời. Vậy xin: ở những nơi giáp ranh giữa
sáu tỉnh Nam Kỳ, chọn chỗ xung yếu, dựng một sở tuần tấn, phái lính phòng giữ.
Phàm thuyền dân qua lại, xét đủ tờ bằng chiếu mới cho đi. Lại ở các xã thôn ven
sông, liệu chỗ đặt đồn xích hậu, kiểm soát thình lình hễ thuyền nào không có bằng
chiếu thì bắt giải lính để trừng trị. Nếu muốn phân biệt thuyền từng tỉnh hạt
thì sơn màu sắc ở mũi thuyền để tiện kiểm soát. Thuyền tỉnh Gia Định mũi sơn
màu đỏ, thuyền Biên Hòa kiêm hạt nên mũi cũng sơn màu đỏ viền đen, thuyền Vĩnh
Long mũi màu đen, thuyền Định Tường mũi màu đen viền đỏ, thuyền An Giang và Trấn
Tây mũi màu lục, thuyền Hà Tiên kiêm hạt mũi cũng màu lục viền đỏ. Kẻ nào sơn
giả mạo sẽ trị tội rất nặng. Như thế thì dân trốn tránh không còn chỗ dung thân
mà côn đồ giặc cướp cũng còn chỗ ẩn núp”.
Vua Minh Mệnh chuẩn y cho thực hiện.
Bọn Trương Minh Giảng, Trương Đăng Quế còn tâu về việc quản
lý ở Cần Giờ, Cần Thạnh. Vua Minh Mệnh phê bảo rằng:
“Nói thì chính trực vô tư, làm thì quả quyết được việc, chặn
được mánh lới kẻ gian, dứt được việc lừa dối trước đây”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 943
Họ còn tra xét việc lãnh binh Hà Tiên là Hoàng Văn Lý cưỡng
ép con gái nhà dân lấy tiền tài của dân. Lý đều thú nhận, bị thu bằng sắc đem
giam. Họ đề cử Phó lãnh binh thành Trấn Tây Hoàng Quang Thông lên thay làm lãnh
binh Hà Tiên. Vua Minh Mệnh chuẩn y nhưng Dụ bảo:
“... Chưa tâu đã xét xử trước thì không phải đâu. Các Kinh lược
sứ là bầy tôi thân tín của ta, được ta ủy thác những việc quân dân trọng đại,
nhưng việc thưởng phạt quan to một tỉnh như Lãnh binh há nên chuyên quyền như
thế! Sau này nên cẩn thận để tránh lời công nghị của đình thần”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 966
Vua Minh Mệnh thấy việc tuyển lính và đạc điền ở Nam Kỳ nhiều
lần đã được Kinh lược sứ là Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế tâu báo ước đến
khoảng tháng 6, tháng 7 năm nay là xong, bèn dụ sai xét các nhân viên để khen
thưởng. Có ba người Cai tổng cho con đi lính trước để làm gương cho dân, khiến
công việc được hoàn thành nhanh chóng, mỗi người được thưởng thêm 100 quan tiền.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 968
Tháng 7 năm 1836, việc đạc điền ở sáu tỉnh Nam Kỳ đã xong. Bọn
Kinh lược sứ Trương Đăng Quế, Tôn Thất Bạch, Nguyễn Đức Trí làm sớ báo rằng đến
ngày 18, 19 tháng này chia ra từng đợt đi đường trạm về kinh phục mệnh. Trương
Minh Giảng thì ngày 19 về thành Trấn Tây cung chức.
Họ đệ trình bản sách ghi số mục ruộng đất.
1. Trước trong sổ nộp thuế là ruộng, nay khám đạc là thổ; trước
trong sổ nộp thuế là thổ, nay khám đạc là ruộng; trước là đất hoang, nay thực sự
đã cày cấy; trước là đất hoang, nay là ruộng nhưng chưa kịp khai đơn nộp thuế,
đều theo thực tế cho khai vào các hạng ruộng đánh thuế. Gián hoặc trước trong sổ
nộp thuế là ruộng thực canh, mà nay khám ra toàn trồng dâu, mía và cau, cũng có
một hai phần tách ra thì cũng theo thực tế, cho khai vào các hạng thổ đánh thuế.
2. Các hạng ruộng đất nộp thuế trước, gián hoặc có chỗ xây dựng
miếu mạo đền chùa, mồ mả thì tách ra, liệt vào hạng riêng; còn thì căn cứ vào số
thực canh, chiếu đạc biên vào sổ.
3. Những đất dân cư, chỗ nào là đất hoang và gò đống, trong sổ
không ghi người nào trước đã nộp thuế thì liệt làm hạng đất dân cư, miễn thuế;
nếu có chủ khai nhận, thì cho dân đánh giá, nộp thuế theo hạng đất công.
4. Trong số trước là thực trưng, nay khám ra còn một hai chỗ
hoang vu thì căn cứ vào thực canh, đã đạc thành mẫu, thành sào, trước bạ; còn
thì liệt vào hạng lưu hoang, đều do quân địa phương sức dân khai khẩn cày cấy
thành ruộng, cho làm hạng công điền, bắt nộp thuế.
5. Các hạng ruộng đất của các xã thôn trước đã nộp thuế, có lệ
thuế trong điền bạ ở thôn này, mà ruộng đất tọa lạc ở tỉnh khác, nay cho trả về
sổ địa bạ của tỉnh và thôn mà đất tọa lạc ở đó.
6. Ruộng đất thực canh, ở trong sổ khai là cả thôn ấy cùng
cày cấy, thì cho là hạng ruộng đất công. Gián hoặc có những chủ ruộng trốn đi
hoặc chết, mà không có con cái, thì giao cho dân sở tại cày cấy, nộp thuế theo
hạng ruộng đất công.
7. Ở ngoài phụ quách thành Phiên An cũ, trừ ra những nơi đặt
làm thành mới Gia Định và những chỗ liệu để làm quan xá, quân trại, thủy tướng,
còn thì đạc được hơn 440 mẫu, cho dân phụ cận lập sổ địa bạ, nộp thuế theo hạng
công thổ.
8. Một thửa đất thành cũ Định Tường trước đạc được hơn 40 mẫu,
cho dân sở tại khai khẩn cày cấy, nộp thuế theo hạng công thổ.
9. Ở Gia Định có 3 thửa ruộng bỏ hoang, trước cấp cho đội An
Lương khai khẩn cày cấy đã thành ruộng, nay đạc được hơn 14 mẫu, cho dân nhận
lĩnh canh tác, nộp thuế theo hạng ruộng công.
10. Ở Hà Tiên có 3 thửa ruộng quan điền, trước không phải nộp
thuế, cấp cho cơ Hà Tiên cày cấy; nay đạc thành ruộng được hơn 75 mẫu, vẫn để
cho lính cơ, nộp thuế theo hạng quan điền.
11. Ở Định Tường, trước kia Tôn Thất Chương để lại hai thửa
ruộng cỏ, từ trước vẫn cho người tá canh, nửa vời, các điền hộ chuyền tay nhau
bán đi; nay khám ra là 50 thửa, mà dấu tích tá canh hãy còn rõ ràng thì có thửa
đạc được 398 mẫu, vẫn giao cho chủ trước. Còn 44 thửa đạc được 359 mẫu, thì cho
dân nhận lãnh trước nộp thuế, liệt vào hạng ruộng công.
12. Nhân dân thôn xã nào trốn tránh tan tác, địa phận của họ
không ai đứng nhận đạc thì sức cho Chánh Tổng sở tại gọi những xã thôn bên cạnh
nhóm lại, tiếp nhận, khám đạc, rồi căn cứ vào số ruộng đất, lập thành sổ địa bạ,
cho người ta canh tác nộp thuế, đợi khi dân đó về thì cho nhận lại.
13. Thôn xã nào trước không có địa phận, lại không có ruộng đất,
phải mua đất ở thôn khác để ngụ cư mà hiện có sổ dân và ngạch lính, thì cho
tách lấy chỗ ruộng đất đã mua ấy làm địa phận, xây dựng địa bạ. Gián hoặc có
vài xã thôn, trước không có địa phận, cũng không có ruộng đất, không có đóng
thuế mà chỉ ở nhờ ruộng đất người xã khác, hiện nay đã thành làng xóm, thì cũng
cho xắn lấy số ruộng đất đã ở nhờ đó làm địa phận mình. Nếu thôn xã nào ở tản
mác, không thành thôn xóm, thì do quan địa phương xét xem trong hạt, những nơi
rừng rú gò đống bỏ hoang mà có thể cày cấy, cư trú được, thì cho họ lập ấp, làm
sổ địa bạ, để họ được an cư.
14. Các hạng ruộng đất, trước ở trong sổ, gián hoặc có chỗ
trước bạ hai lần hoặc có chỗ bỏ hoang mà không rõ tọa lạc ở đâu, nay xét ra quả
thực là đúng thì đều cho miễn trừ.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 983,984
Vua dụ Nội các rằng:
“Sáu tỉnh Nam Kỳ, bấy nay những xứ sở bờ mốc ruộng đất đều lộn
xộn. Nay Kinh lược đại thần thân đi xem xét tại chỗ, bàn kỹ từng khoản, đều được
ổn thỏa, hợp lý, chuẩn cho thi hành như lời đã bàn...”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 984
Vua Minh Mệnh thưởng cho Trương Đăng Quế 400 quan tiền làm lộ
phí về kinh, thưởng cho Trương Minh Giảng 300 quan tiền làm lộ phí đi Trấn Tây.
Kinh lược sứ Trương Đăng Quế lại dâng sớ tâu:
“Việc tuyển lính, đạc điền đã đâu ra đó, lòng dân đã yên, tưởng
không còn điều gì khác. Có điều việc lập pháp dẫu là việc khó, nhưng giữ được
pháp chế lại càng khó hơn, không thể không nghĩ kỹ cái kế bền vững. Lính Nam Kỳ
sở dĩ trốn nhiều, là hoặc vì người cầm quyền ở làng thôn giấu giếm cho gia đình
hào phú, mà bắt người cùng đinh ra lính, hoặc vì người quản suất cay nghiệt nhiều
đường làm cho binh lính chịu không nổi. Như vậy cũng không nên chỉ quy tội cho
binh lính hay trốn. Vậy nên làm phép để ngăn ngừa, trừ bỏ cái tệ đã tồn tại lâu
ngày ấy đi.
Đến như còn nhiều khoảnh ruộng đất bỏ hoang, trong đó có nhiều
thửa ruộng màu mỡ có thể trồng trọt cày cấy, cũng nên bàn định thể lệ thưởng phạt
để khuyến nông”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 985
Báo cáo nêu cụ thể các biện pháp ngăn chặn lính trốn, biện
pháp thưởng phạt khuyến nông:
1. Phân xử việc lính trốn, thiếu.
Quy định mỗi quý kiểm soát một lần:
Phân binh thôn xã nào từ một đến năm người, trong quý 1 nếu
thiếu người, thì lý trưởng sở tại phải bị phạt năm chục roi, cứ thiếu một người,
lại tăng tội lên một bậc; nếu thiếu cả thì phạt chín chục trượng, bắt phải điền
vào ngay. Quý 2, nếu vẫn còn thiếu thì phạt năm chục roi, cứ thêm một người lại
tăng tội lên một bậc; nếu thiếu cả thì phạt một trăm trượng.
Phân binh thôn xã nào từ sáu đến mười lăm người, mà quý 1 thiếu
một người, thì phạt lý trưởng sở tại ba chục roi, cứ thêm một người lại tăng tội
lên một bậc; nếu thiếu đến sáu người thì phạt chín chục trượng, bắt phải điền
vào ngay. Quý 2, nếu vẫn còn thiếu thì phạt ba chục roi, cứ thêm một người lại
tăng tội lên một bậc; nếu thiếu đến bảy người thì phạt một trăm trượng.
Phân binh thôn xã nào từ mười sáu đến ba chục người, mà quý 1
thiếu một người, thì phạt lý trưởng sở tại hai chục roi, cứ thêm một người lại
tăng tội lên một bậc; nếu thiếu đến bảy người thì phạt chín chục trượng, bắt phải
điền vào ngay. Quý 2, nếu vẫn còn thiếu thì phạt một trăm trượng.
Phân binh thôn xã nào từ ba mươi mốt đến năm chục người, mà
quý 1 thiếu một người, thì phạt lý trưởng sở tại hai chục roi, cứ thêm một người
lại tăng tội lên một bậc; nếu thiếu đến tám người thì phạt chín chục trượng, bắt
phải điền vào ngay. Quý 2, nếu vẫn còn thiếu thì phạt một trăm trượng.
Phân binh thôn xã nào từ năm mươi mốt người trở lên, mà quý 1
thiếu một người, thì phạt lý trưởng sở tại mười roi, cứ thêm một người lại tăng
tội lên một bậc; nếu thiếu đến chín người thì phạt chín chục trượng, bắt phải
điền vào ngay. Quý 2, nếu vẫn còn thiếu thì phạt một trăm trượng.
Phàm tội đến mãn trượng (tội bị đánh đủ một trăm trượng) và
lính tuyển bổ sung nếu vẫn cón dám trốn, khi bắt được sẽ bị phát đi thành Trấn
Tây làm hạng nô tì chăn nuôi.
Các cai tổng, phó tổng, quý 1 nếu lính thiếu đến hai chục người
thì phạt sáu chục trượng, cứ thêm mười người, lại bị tăng tội lên một bậc, thiếu
đến sáu chục người trở lên thì phạt một trăm trượng, cho lưu dịch (được ở lại
làm việc), bắt phải gọi điền đủ số. Quý 2, nếu vẫn còn thiếu, thì bị phạt một
trăm trượng, bị cách dịch (cách chức).
Các viên tri phủ, tri huyện cứ từng quý phải kiểm soát, đốc sức
giục điền bổ khuyết, nếu trong huyện phủ, hai quý thiếu đến một trăm người trở
lên, thì quan tỉnh phải nghiêm hặc, trừng trị.
Còn đối với các quản suất cũng có quy định: mỗi quý một lần
soát lại. Quý 1, mỗi đội trốn đến sáu người, thì độ trưởng và ngoại ủy đội trưởng
phải bị phạt hai chục roi, suất đội được giảm một bậc. Cứ thêm ba người lính trốn
lại bị tăng tội lên một bậc. Mỗi vệ, mỗi cơ để trốn đến ba chục người, lại bị
tăng tội lên một bậc, nhưng tối đa là một trăm trượng.
Nếu quan cấp tỉnh Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Lãnh binh
không biết đốc suất chặt chẽ để biền binh trong tỉnh trốn đến hai phần mười trở
lên thì lập tức phải làm tờ tấu, kể rõ để đợi Chỉ.
2. Thưởng phạt tăng hay giảm ruộng đất:
Xã trưởng, thôn trưởng nào biết xướng xuất nhân dân khai khẩn,
Trong một năm tăng được hai chục mẫu trở lên thì được thưởng
ngân tiền Phi long lớn, nhỏ mỗi thứ một đồng.
Trong một năm tăng được năm chục mẫu trở lên thì được thưởng
ngân tiền Phi long lớn, nhỏ mỗi thứ ba đồng.
Trong một năm tăng được một trăm mẫu trở lên thì được thưởng
ngân tiền Phi long lớn, nhỏ mỗi thứ năm đồng.
Trong một năm tăng được hai trăm mẫu trở lên thì được thưởng
ngân tiền Phi long lớn, nhỏ mỗi thứ mười đồng.
Nếu ruộng nương trong xã thôn bị bỏ hoang:
Giảm sút từ một mẫu đến năm mẫu thì bị phạt sáu chục trượng,
cứ mỗi mẫu lại tăng thêm một bậc.
Giảm sút từ hai mươi lăm mẫu trở lên thì bị phạt một trăm trượng,
cách chức.
Chánh tổng nào biết đốc suất nhân dân khai khẩn:
Trong một năm tăng được từ một trăm mẫu trở lên thì được thưởng
ngân tiền Phi long lớn nhỏ mỗi thứ ba đồng.
Trong một năm tăng được từ hai trăm mẫu trở lên thì được thưởng
ngân tiền Phi long lớn nhỏ mỗi thứ năm đồng.
Trong một năm tăng được từ bốn trăm mẫu trở lên thì được thưởng
ngân tiền Phi long lớn nhỏ mỗi thứ mười đồng. Nếu là Chánh tổng tạm thời thì được
thực thụ.
Còn nếu để ruộng đất bỏ hoang:
Giảm đến ba chục mẫu trở lên thì bị phạt sáu chục trượng,
Giảm thêm mười mẫu lại bị thêm tội lên một bậc.
Giảm đến bảy chục mẫu trở lên thì bị phạt một trăm trượng và
bị cách chức.
Các viên tri phủ, tri huyện nếu biết chăm chỉ khuyến nông:
Nếu ruộng đất trong huyện tăng từ hai trăm mẫu trở lên thì được
thưởng tiền lương ba tháng.
Nếu ruộng đất trong huyện tăng từ bốn trăm mẫu trở lên thì được
thưởng tiền lương sáu tháng.
Nếu ruộng đất trong huyện tăng từ sáu trăm mẫu trở lên thì được
thưởng ký lục một thứ, lại được thưởng thêm tiền lương ba tháng.
Nếu để ruộng đất hoang hóa:
Giảm đến năm chục mẫu trở lên thì bị phạt sáu tháng lương.
Giảm đến một trăm mẫu trở lên thì bị phạt một năm lương.
Giảm đến hai trăm mẫu trở lên thì do quan tỉnh hặc tâu để trừng
trị.
Hàng năm quan cấp tỉnh Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh, Án sát
kiểm soát các phủ huyện, các phủ huyện kiểm soát các tổng xã. Nếu xã nào ruộng
đất tăng đến ba trăm mẫu trở lên, tổng nào ruộng huyện nào ruộng đất tăng đến
tám trăm mẫu trở lên, thì do tỉnh ghi lấy những viên tổng lý phủ huyện ấy tâu
lên, xin cho khen thưởng ưu hậu. Nếu trong tỉnh hạt, ruộng đất tăng đến một
ngàn mẫu trở lên, hoặc giảm đến ba trăm mẫu trở lên, thì các Tổng đốc, Tuần phủ,
Bố chánh, Án sát ở tỉnh ấy cũng sẽ cứ thực kể rõ, đợi Chỉ thưởng phạt.
Sáu tỉnh Nam Kỳ có nhiều kẻ du thủ du thực, lâu dần thành
quen, không làm ăn gì, tới khi bần cùng thì đào tường khoét ngạch sớm tối sống
bằng nghề trộm cướp. Từ trước tới nay, hễ có bắt được đem đến quan, chẳng qua lại
theo luật, đánh đòn quở trách rồi tha. Chúng lại cho là đắc sách, thù hằn đến
những nhà mất của, ném gạch đốt nhà, không gì không làm, khiến cho người ta thà
chịu mất của chứ không dám bắt hoặc tố cáo chúng. Trộm cắp nhiều vị tất không
vì cớ đó hay sao? Vậy xin phàm những tên đào tường khoét ngạch, ăn trộm ăn cướp,
một khi bắt giải, hễ có thực trạng thì không kể là mới phạm lần đầu hay tái phạm,
đều nên cho thích chữ, xích lại, rồi giao cho các vệ, các cơ quản thúc, bắt làm
khổ sai, đủ hạn ba năm, giao về dân ghi vào sổ. Làm như vậy để kẻ chơi bời lười
biếng biết răn sợ, ngõ hầu trộm cướp mới dứt được.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 985,986,987
Vua Dụ bộ Binh:
“Kinh lược đại thần nêu ra những cái tệ hại chứa chất về việc
quân dân ở Nam Kỳ, bàn định đặt ra những điều lệnh nghiêm khắc để ngăn cấm. Có
thể gọi là thiết thực và trúng bệnh. Nhưng ta xem ra dân ta tự có lương tri,
thay đổi phong tục thì phải dần dần. Phen này tuyển lính đạc điền, là những việc
mới mẻ làm lần đầu, thế mà sau khi hiểu dụ chỉ thị, dân ta liền hiểu rõ lẽ phải,
sốt sắng việc công, mọi việc đều đâu ra đó. Chính trị đã có cơ đổi mới được”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 987
Tháng 8 năm 1836, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17, đoàn Kinh lược
Nam Kỳ về đến Kinh. Vua vời lên điện, úy lạo hồi lâu, thân rót rượu ban cho, rồi
xuống Dụ rằng:
“Kinh lược đại thần Trương Đăng Quế khâm mạng đi vào Nam Kỳ
đo đạc ruộng đất, biết giữ công bằng ngay thẳng, vô tư, hoàn thành được công việc,
không làm nhục mệnh vua, dẫu không so sánh được với người đi đánh dẹp ở cương
trường, người mở rộng đất đai bờ cõi, nhưng lần đầu kinh lý, làm cho cương giới
được phân minh, nhân dân sáu tỉnh đều được lợi ích và vui vẻ. Vả lại, xếp đặt
phủ Tây Ninh, khiến cho dân ẩn lậu đều trở thành làng, ấp tất cả. Như vậy không
khác gì những người có công mở mang đất đai bờ cõi, thực rất đáng khen. Vậy thưởng
cho [Trương Đăng Quế]:
1 con cá bằng vàng, để ngụ ý cá nước duyên ưa,
1 thẻ bài bằng ngọc trắng có chữ Thọ bằng bát bảo,
1 cái chén có nắp bằng ngọc bịt vàng,
1 quả chanh bằng vàng
Công lao Trương Minh Giảng cũng ngang với Trương Đăng
Quế, vậy thưởng cho cũng như nhau. Phái thị vệ mang đi ban cho”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 995
Vua Minh Mệnh bảo Trương Đăng Quế:
“Sau khi đạc điền ở Nam Kỳ, ta thường sai thăm dò dân tình,
thì họ đều nói, khi mới đạc, cứ tưởng ruộng đất tăng lên thì tô thuế thêm nặng,
không khỏi ngờ vực trong lòng, chẳng ngờ sau khi kinh lý, bờ cõi đã đúng, kẻ
giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản, mà thuế khóa lại khoan giảm,
dân được chịu ơn rất nhiều...”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 1034
Trong bài tựa tập thơ Trương Quảng Khê tiên sinh tập, Phan
Thanh Giản viết có câu:
“Thời tiên sinh phụng mệnh vua, lo việc đạc điền phân định
cương vực ở Nam Bộ quê tôi, một vùng đất mới. Công việc đòi hỏi phải hết sức
linh hoạt vì tất cả đều mới lạ, không thể cứ câu nệ lấy cách làm thông thường
và sử dụng các loại dụng cụ đo đạc cũ mà thực hiẹn suôn sẻ được, lại còn phải
quan tâm và đừng gây phiền hà cho dân, thế mà tiên sinh đã hoàn thành chỉ trong
vòng có năm tháng! Vả lại, tiên sinh từng trải, nắm vững vùng đất Nam Kỳ lục tỉnh
như lòng bàn tay, nhìn xa trông rộng, xác định những nơi hiểm yếu, tâu xin xây
dựng thành trì ở Tây Ninh là điều mà tôi tuy là người gốc Nam Bộ, thật tình
cũng chưa từng nghĩ tới ”.
Thơ Trương Đăng Quế sđd, tr. 9-10
Năm 1839, Minh Mệnh năm thứ 20, vua Minh Mệnh Dụ rằng:
“Các tỉnh ở Nam Kỳ từ trước yên tâm theo thói hủ lậu, ruộng đất
chỉ kể dây, thửa mà không đo bằng trượng, lượng tính mẫu, định rõ ngạch thuế,
cho nên dân gian gian dối thành thói quen, ruộng đất tuy nhiều, mà thuế khóa vẫn
không tăng thêm. Trước kia đặt cách Kinh lược sứ đại thần là bọn Trương Đăng Quế
đi khám đo, lượng định thuế lệ, so với các hạt khác vẫn nhẹ, thuế không tăng ngạch,
ruộng không thêm tô, mà số tiền thuế tự nhiên ngày thấy đầy đủ, việc ích quốc,
lợi dân thực có thành hiệu, cũng nên coi như mở mang bờ cõi đất đai, thực đáng
ban cho tước, cho được vĩnh viễn, để báo đền công lao, mới có mệnh này”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 449
3. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC THI CỬ
Năm 1932, mở thi Đình (khoa Nhâm Thìn), vua Minh Mệnh sai thự
tiền quân Trần Văn Năng sung làm giám thí đại thần, thượng thư bộ Lễ Phan Huy
Thực, Tả tham tri bộ Binh Lê Văn Đức, Tả tham tri bộ Hộ Trương Đăng Quế và phủ
doãn Thừa Thiên Đỗ Khắc Thư sung làm việc đọc quyển.
Năm 1835 có khoa thi Hội, vua cử Trương Đăng Quế làm chủ khảo,
Phan Thanh Giản làm phó chủ khảo. Lấy 11 người đỗ Tiến sĩ, 02 người Phó bảng. Đến
thi Đình, thì cử Hữu quân Nguyễn Văn Xuân làm Giám thí đại thần, còn Trương
Đăng Quế, Phan Bá Đạt, Hà Tông Quyền và Phan Thanh Giản được cử đọc quyển.
Tháng 7, mùa thu, năm 1837, Minh Mệnh năm thứ 18, mở khoa thi
Hương các tỉnh. Vua sai Hà Tông Quyền, Phan Thanh Giản làm Chủ khảo, Phó chủ khảo
trường Thừa Thiên. Doãn Uẩn, Lâm Duy Nghĩa làm Chủ khảo, Phó chủ khảo trường
Gia Định. Vũ Đức Khê, Hà Đăng Khoa làm Chủ khảo, Phó chủ khảo trường Nghệ An.
Danh sách các trường dâng lên, lấy đỗ 51 cử nhân. Khi bộ Lễ duyệt lại quyển đỗ.
Trường Thừa Thiên bị truất ba người là Nguyễn Công Tùng, Bùi
Đạo và Mai Văn Mỹ. Nguyễn Công Tùng viết lầm chữ đầu đề bài phú. Bùi Đạo làm
bài phú suýt soát giống bài của tú tài Vũ Văn Khiêm. Mai Văn Mỹ là con của người
trùm phường hát bội Thanh Bình, văn lý lại tầm thường. Ba người này đều bị truất
xuống tú tài, quan trường phải bị phạt.
Trường Nghệ An kiểm duyệt quá khắc khe, không quyển văn nào
trúng cả 3 kỳ, không mấy người trúng 2 kỳ. Vũ Đức Khuê dâng sớ tâu rằng chọn được
5 người khá hơn trong đám người kém ấy, xếp vào loại cử nhân.
Vua Minh Mệnh cho là Thanh Nghệ Tĩnh vốn có tiếng văn học,
nhân tài nhiều, sao cả 3.000 thí sinh chỉ chọn được có 5 người, còn cho là người
khá hơn trong bọn kém, có lẽ vì bọn Khuê quá hẹp hòi. Nhân đó, quan khoa đạo là
Ngô Văn Địch tâu xin toàn bộ quyển thi trường Nghệ An, không kể đậu rớt, chuyển
cả về bộ, tái duyệt, chước lượng lấy đỗ thêm 15 cử nhân nữa. Vua nghĩ từ trước
vẫn không có lệ lấy đỗ thêm những quyển hỏng, bèn cho đòi cả 20 cử nhân trường
thi Nghệ An về Kinh sát hạch. Vua sai Hiệp biện đại học sĩ Trương Đăng Quế và Tả
tham tri bộ Lại Hà Tông Quyền làm chủ khảo xét hạch, lấy đỗ 15 người, đánh hỏng
5 người.
Năm 1838, Minh Mệnh năm thứ 19 cho Hiệp biện đại học sĩ Lê
Văn Đức, Trương Đăng Quế kiêm lĩnh công việc Quốc Tử Giám, chuẩn cho lấy ngày
mùng 1 tháng 10 năm ấy bắt đầu, tháng chẵn do Lê Văn Đức trông coi, tháng lẻ do
Trương Đăng Quế trông coi.
Năm 1838, Minh Mệnh năm thứ 19, thi Hội. Vua cử Trương Đăng
Quế làm Chủ khảo, Thượng thư bộ Công là Hà Duy Phiên làm Phó chủ khảo. Khoa này
có 130 cử nhân dự thi. Từ khi tiến trường đến ngày xuất bảng là18 ngày. Lấy
trúng cách 18 người:
Nguyễn Cửu Trường, Nguyễn Danh Thành, Đinh Viết Thận, Phạm
Văn Nghị, Nguyễn Văn Tùng, Lê Duy Trung, Lê Thiệu Trị, Doãn Khuê, Phạm Chân, Trần
Tiễn Thành, Hoàng Trọng Từ.
Phó bảng 10 người:
Nguyễn Tường Vinh, Tạ Kim Vực, Dương Công Bình, Nguyễn Hữu Độ,
Lê Thúc Đôn, Diệp Xuân Huyên, Nguyễn Văn Dục, Phan Quang Nhiễu, Nguyễn Văn
Siêu, Nguyễn Xuân Bảng.
Dương Danh Thành vì không thực trong việc cung khai tam đại
nên bị truất, không được dự Điện thí (thi Đình). Thí sinh phải cung khai tam đại:
tên mình, tên cha, tên ông nội.
Thi Đình, vua sai Đốc sự chưởng phủ là Phạm Hữu Tâm sung chức
Giám thí, Hiệp biện đại học sĩ Trương Đăng Quế, Thượng thư bộ Công là Hà Duy
Phiên sung chức độc quyển.
Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân:
Nguyễn Cửu Trường, Phạm Văn Nghị.
Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân:
Đinh Viết Thận, Phạm Chân, Nguyễn Văn
Tùng,Lê Duy Trung
Trần Tiễn Thành, Hoàng Trọng Từ, Lê Thiệu Trị, Doãn
Khuê.
Sai Hiệp biện đại học sĩ Lê Văn Đức, Trương Đăng Quế khảo hạch
tú tài các khoa tuổi từ 40 trở lên ở Quốc tử giám. Đại thần, tế tửu, tư nghiệp ở
Quốc tử giám và tứ ngũ phẩm có khoa học, ở các bộ, viện 6 người sung làm phân
khảo. Hạch xong lập danh sách:
- Hạng bình 9 người chuẩn cho làm huấn đạo.
- Hạng thứ, hạng liệt 70 người phân ra:
* Người từ Hà Tĩnh trở ra Bắc thì cho về quê.
* Người từ Quảng Bình trở vào Nam thì chuẩn cho làm
Hành tẩu ở sáu bộ.
Năm 1839, Minh Mệnh năm thứ 20, Trương Đăng Quế tâu:
“Đặt ra chức khởi cư chú để ghi lời nói và việc làm của vua,
người xưa sở dĩ trong việc tuyển lựa, thực vì cái bút đứng ở chỗ bệ đá đầu con
ly, sách quốc sử do đấy mà ra. Hoàng thượng ta lời nói là phép tắc, hành vi thì
thường khi là đạo lý, quan ở đài giữ chức biên chép, nếu ghi được rõ ràng mới
có thể rõ là sử thực. Nhưng tài làm sử, chép sử, từ xưa còn lấy làm khó, huống
chi trong khi xét việc, việc yên và răn bảo, lời nói hay, rõ ràng đáng chép, việc
ghi chép nếu có bỏ sót, chép qua loa, ngày sau chép vào sử sách, sẽ theo đâu mà
xét định, tức không thể không cẩn thận.
Xin từ nay, phàm ngày vua ngự điện nghe việc chính, các quan
chầu hầu, có lời vua răn bảo, cho đến cử động, cùng là việc các nhà tâu lên, có
huấn thị tuân hành thì các khoa đạo đứng hầu đều ghi chép rõ ràng, như khi vua
ngự điện và ngự giá đi chơi, cũng theo như thế, cốt phải mười phần rõ đủ, không
sót, không lầm, vận dụng ngòi bút, sử dụng chữ nghĩa cho thật tinh tường hết thảy,
xứng đáng, theo từng tháng, đem bản biên chép do viện thần nhuận sắc trước lại
trình đương trực thần xét xem, đều tự tay thay đổi ghi tên ở cuối giấy. Trong bản
ghi chép gặp có viết thêm hay thay đổi và chỗ đóng, đương trực thần phải đóng ấn
quan phòng, cho khỏi thiếu sót. Phàm đương trực thần xét xem, nếu trong bản ấy
chữ nghĩa có chỗ nào chưa nhã, sự lý có chỗ chưa chu đáo thì cho được sửa chữa.
Nếu ghi sai lầm, thì phải sửa lại cho đúng sự thực. Duy bất kỳ triệu đình thần
vào hầu, viên khoa đạo theo lệ không được theo bàn, thì do Các thần (quan làm
việc ở Nội các) ghi chép, ký giao cho Khoa đạo đương ban, vẫn do Viện thần (các
quan làm ở Cơ mật viện) và đương trực thần theo lệ duyệt chữa, như thế thì biên
chép không việc gì không rõ, đủ mà việc khảo xét có chuẩn đích”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 480, 481
Vua y lời tâu ấy. Vua lại hạ sắc lệnh cho lục bộ xét hỏi các
quan trong Kinh và các tỉnh bất cứ tại chức hay đã hưu, người nào biết rõ những
sự việc từ năm Gia Long trở về trước, thì kê tên tâu lên, chuẩn bị làm sách Thực
lục. Vua bảo Tổng tài Trương Đăng Quế:
“Sách Thực lục biên chép cốt để làm sáng tỏ mãi về sau, cho
nên trẫm muốn được người cũ hoặc còn ghi nhớ những việc cũ, tham khảo mà chép
vào”.
Trương Đăng Quế nói:
“Trước đây tìm được một vị kỳ lão trong dân, hỏi thì những
việc về ngụy triều Tây Sơn họ nói được rất rõ ràng, nhưng đến những sự thực về
quốc triều thì lại không được rõ lắm”.
Vua bảo:
“Những người như thế, cứ việc hỏi kỹ họ để dùng làm tham khảo.
Đó cũng là việc góp da cáo để làm áo cừu, có gì là không nên”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 521
Vua ngự ở điện Văn Minh, cùng Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức bàn
luận chùm thơ họa thơ Hà Tiên thập vịnh của Nguyễn Cư Trinh. Vua khen Nguyễn Cư
Trinh có khí độ bề tôi rường cột của triều đình. Lại hạ sắc cho bộ Lễ truyền dụ
cho Hà Tiên sưu tầm thơ văn của Mạc Thiên Tứ, ngoài mười bài thơ ấy, còn tập
nào khác thì chép lại dâng nộp.
Thơ Minh Mệnh từ tập 1 đến tập 5, các bài văn ở sơ tập, và
các tập thơ Tiễu bình Nam Bắc Xiêm khấu nghịch phỉ, cùng là các bài minh khắc
vào cổ khí, đều đã được khắc in, ban hành rồi. Duy còn tập 6, tập văn 2, và tập
thơ Thiên cơ dư triệu chưa khắc in được, và một thiên Trù biên chưa kịp làm
xong. Bọn Trương Đăng Quế, Lâm Duy Thiếp được vua Thiệu Trị giao việc xem xét
làm ngay. Sau khi làm xong trình lên nhà vua làm bài Tựa cho sách. Vua Thiệu Trị
cho rằng Tựa là lời người trên, Bạt là lời người dưới. Đối với văn thơ của vua
Minh Mệnh là cha, thì mình chỉ có thể viết lời Bạt mà thôi, không dám viết Tựa.
Năm 1841, Thiệu Trị năm thứ nhất, mùa hạ thi Đình. Chưởng vệ
Hoàng Đăng Thận sung chức Giám thí, Văn Minh đại học sĩ Tương Đăng Quế và Thự
Binh bộ Thượng thư Phan Thanh Giản sung làm chức độc quyển. Lấy đỗ:
- Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân:
Nguyễn Ngọc, Ngô Điền
- Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân:
Lê Đức, Bùi Tuấn, Trần Vỹ, Đào Danh Văn, Phạm Bá Tuệ, Vũ
Văn Lý, Bùi Duy Phan, Hồ Văn Trị, Nguyễn Xuân Thọ.
Năm 1841, Thiệu Trị năm thứ nhất, mùa thu, vua sai Thái bảo
Trương Đăng Quế làm chức Tổng tài, Tham tri Tôn Thất Bạch là phó làm phả hệ của
hoàng tộc.
Vua Thiệu Trị nhận xét:
“Thái bảo, thự Văn Minh điện đại học sĩ, lãnh Thượng thư bộ
Binh Trương Đăng Quế, thi thố được nhiều tài năng mưu kế, làm chức cơ yếu lâu
năm, vừa siêng năng vừa cẩn thận, vua tôi cùng một đức một lòng. Từ khi vâng mệnh
tiên đế dặn lại giúp đỡ cho ta, khi ở trong triều, trung trinh một mực”.
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 238
Bắt đầu đặt quan và thuộc viên ở Quốc Sử quán. Vua Thiệu Trị
cử Văn Minh điện Đai học sĩ Trương Đăng Quế và Đông Các Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn
làm Tổng tài, Thượng thư bộ Công là Nguyễn Trung Mậu và Thượng thư bộ Lễ là
Phan Bá Đạt làm Phó tổng tài. Ngoài ra còn có 4 Toản tu, 8 Biên tu, 4 Khảo hiệu,
6 Đăng lục, 4 Thu chưởng kiêm Biện sự.
Cũng năm này làm xong Ngọc điệp, có chỗ sai (chép lầm giờ,
ngày 28 tháng 12, Minh Mệnh năm thứ 21 việc giờ Ất Hợi chép lầm ra giờ Giáp Tuất).
Việc làm này do Nguyễn Văn Siêu thảo sai bị cách chức, Trương Đăng Quế kiểm xét
lại song không thấy, bị phạt sáu tháng lương.
Sách Thực lục tiền biên về liệt thánh vừa soạn xong, bọn Tổng
tài Trương Đăng Quế tâu xin khắc in, dâng sớ nói:
“Nước mà có sử, để sự việc đời nay truyền đến đời sau, từ xưa
các bậc đế vương lên trị vì, đời nào cũng có chế độ, không việc gì không chép
vào sử sách, có thể lần lượt khảo cứu được. Thực lục làm ra, gồm đủ các phép
biên chép từng năm ghi truyền về sau, mà chính sử cũng ra từ đấy. Vĩ đại thay
nước nhà ta chịu mệnh trời cho! Thái tổ Gia Dụ hoàng đế gây cơ nghiệp ở cõi
Nam, các bậc thánh đời nọ nối đời kia rõ ràng rộng lớn, trong khoảng ấy, lễ nhạc,
đánh dẹp, chế độ, văn pháp, vẫn khuôn phép thể thống dựng nên một nước. Duy cơ
nghiệp khi mới gây lên ở đất Mân, đất Kỳ (nơi dựng cơ nghiệp của nhà Chu -
Trung Quốc), sử vẫn còn bỏ sót. Đến Thế tổ Cao hoàng đế ta dựng lại dư đồ thống
nhất cả nước, sau khi bình định, nhớ đến công nghiệp đời trước, tìm hỏi những việc
xưa, Sử cục đặt ra vẫn thường lưu ý mà chưa có thì giờ làm được. Thánh tổ Nhân
hoàng đế ta vận dụng văn chương ngang trời dọc đất, mong sánh kịp thời xưa. Năm
Minh Mệnh thứ nhất [1820] xuống chiếu tìm những sách cũ còn sót lại, đến năm thứ
hai, mở ra Sử quán, sai các quan biên soạn bộ Thực lục. Năm thứ 14 [1833], lại hạ
lệnh tiếp tục biên tập định ra từng kỳ trong bộ Thực lục: Từ Thái tổ Gia Dụ
hoàng đế đến Duệ tông Hiếu Định hoàng đế là Tiền biên, sau khi Thế tổ Cao hoàng
đế trung hưng, là Chính biên. Phàm nghĩa lý ý chỉ đều cân nhắc cho đến chỗ vừa
phải, lần lượt biên chép dâng lên ngự lãm, rồi sửa chỉnh lại. Nhưng lại nghĩ,
buổi đầu biên chép còn phải khảo đính cho kỹ càng, để được chu đáo, cho nên bộ
Thực lục còn để chậm lại, chưa làm xong, lòng Thánh tổ còn đợi về sau. Đến
hoàng thượng ta, thuận theo mưu mô ý chí đời trước, lưu ý trông đức sáng và tô
bày công liệt của tiên vương. Năm Thiệu Trị thứ nhất [1841] bắt đầu mở Sử cục,
sai bọn thần sửa lại Tiền biên và Chính biên bộ Thực lục, kế tiếp sửa Thực lục
Chính biên về Thánh tổ Nhân hoàng đế, đã chuẩn định chương trình cho chuyên
trách, lại thời thường khuyên bảo mong cho chóng được thành công. Bởi vì tín sử
chép rõ việc từng đời, càng nên rõ ràng và cẩn thận.
Bọn thần học thức nông hẹp, từ khi vâng mệnh đến nay, ngày
đêm sợ hãi, khuyên bảo lẫn nhau, trước đem nguyên bản các kỷ trong Tiền biên,
kính cẩn kiểm duyệt lại. Lại xét những chỗ biên chép ở sách cũ trong Sử quán và
những văn thư ở các địa phương dâng lên, trích lấy thêm vào cho rõ. Chỗ nào nên
chép thêm, chỗ nào nên chép lại, chiếu từng khoản chép vào, làm bản thảo dâng
lên. Kính vâng ngự lãm sửa định lại, tựu trung các sự tích có chỗ nào chưa được
rõ ràng đầy đủ, thì sắc sai tìm rộng mà bổ sung. Trông lên thấy tấm lòng hoàng
thượng rộng rãi kín đáo, đã tinh lại cầu cho tinh thêm, chu chi đến như thế. Bọn
thần kính vâng lời Dụ, hết lòng hết sức chỗ nào cần bổ sung thì đã tuân hành rồi.
Cúi nghĩ: Nước nhà từ khi gây dựng hơn 200 năm, đời trước làm ra, đời sau noi
theo, công đức tích lũy. Nhớ lại cơ nghiệp đế vương để lại đã lâu đời, tuy từng
đời từng năm đã lâu, sử sách tản mát, trong đó không phải không có chỗ khuyết
lược. Duy từ thời Minh Mệnh đến nay, lần lượt kế tiếp biên tập, những chỗ chép
lại ở trong sử sách, công nghiên cứu trong sách vở, cần nên khắc in để lại, lưu
vào kho sách, để nêu rõ công nghiệp to tác của đời trước mà hướng dẫn cho đời
sau. Vậy nên làm tập tâu lên, xin đem Thực lục Tiền biên về các tiên đế, chọn
ngày khởi công khắc in trước, rồi đem thực lục Chính biên về Thế tổ Cao hoàng đế
và Thánh tổ Nhân hoàng đế, kế tiếp biên chép xong, sẽ xin khắc in sau. Như vậy
một pho sách quý báu đều được hoàn thành để nêu tỏ nước Đại Nam ta, các bậc thần
thánh truyền nối, mưu mô rất rõ rệt, công liệt phải vâng theo, mà càng tỏ đức
hiếu của hoàng thượng ta nối chí cùng noi việc của đời trước không biết đâu là
cùng.”
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 579 - 580
Tháng 5, mùa hạ, năm 1844, Thiệu Trị năm thứ 4, thi Đình. Sai
Thủy sư Đô thống Vũ Văn Giải sung Giám thí đại thần, Văn Minh điện Đại học sĩ
Trương Đăng Quế và Thượng thư Hà Duy Phiên độc quyển. Lấy đỗ:
- Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân:
Nguyễn Lập, Nguyễn Tư Giản.
- Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân:
Nguyễn Huy Dương, Hồ Sĩ Tuấn, Hoàng Công Thịnh, Bùi Duy
Phiên, Trần Hữu Thụy, Nguyễn Hữu Tạo, Văn Đức Khuê, Nguyễn Chính
Năm 1846, Thiệu Trị năm thứ 6, vua sai Văn Minh điện Đại học
sĩ, lãnh Thượng thư bộ Binh, sung đại thần Cơ mật viện, Tuy Thạnh bá Trương
Đăng Quế sung Tổng tài bộ Văn quy, tức bộ sách sau này là Thiệu Trị văn quy.
Sai Hiệp biện Đại học sĩ lãnh Thượng thư bộ Hộ Hà Duy Phiên, Hiệp biện Đại học
sĩ lãnh Thượng thư bộ Lễ Lâm Duy Thiếp, thụ Thượng thư bộ Hình Phan Thanh Giản
đều sung chức duyệt lại. Sai Tả Tham tri Bùi Quỹ, Tả phó Đô ngự sử viện Đô sát,
Phạm Thế Hiển, Thự Hữu Tham tri bộ Hộ Phạm Thế Trung, Thự Tả Tham tri bộ Binh
Nguyễn Đức Chính, Thự Tả Tham tri bộ Binh Hoàng Tế Mỹ, sung làm việc ở Nội các
Nguyễn Bá Nghi, Nguyễn Cửu Trường, Vũ Phạm Khải, Lê Chân đều sung chức làm
sách. Lại chọn lấy thuộc viên ở Nội các, Hàn lâm viện và cử nhân hành tẩu ở lục
bộ 34 người, đều cho làm Hàn lâm sung chức biên chép.
Thiệu Trị Dụ rằng: “Năm ngoái đã sai Nội các, Hàn lâm viện
đem sách Vận thư các đời, tham khảo Tự điển, xét định kỹ hơn, bổ thêm biên
chép, gọi là Thiệu Trị văn quy... Nhưng nay xét các sách tự điển thì thấy các
sách ấy còn nhiều chỗ thiếu sót. Nay sách Văn quy làm ra, chính là muốn văn, chữ,
âm, vận đều được hợp cả lại, nhưng có chỗ chưa đủ chưa rõ thì làm cho được đủ
được rõ hơn, để ban cho học trò, để làm vẻ vang việc văn trị”.
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 882 - 883
Cũng năm này, vua sai Ngự tiền đại thần Vũ Xuân Cẩn, cố mệnh
lương thần Trương Đăng Quế, các Thượng thư Hà Duy Phiên, Đặng Văn Thiêm, Lã Duy
Thiếp, Phan Thanh Giản sung chức Tổng vựng. Tham tri lục bộ, Phó Đô ngự sử viện
Đô sát, Thị lang lục bộ, Viên ngoại lang ở Nội bộ, Thị độc, Thừa chỉ ở Nội Các
sung chức tu tập. Ngoài ra còn có 76 người chuyên việc bên chép làm sách Hội điển.
Như chính Thiệu Trị Dụ rằng:
“Bậc đế vương trị nước, cốt ở đạo, mà đạo ẩn ở việc làm. Đòi
xưa đặt quan làm việc, tất có phép tắc để lại, để tỏ bảo người ở ngôi vua biết
tin dùng và giá ngự các quan... Trẫm được hưởng thịnh vượng, lo toan noi theo,
rất mong nối được ý nghĩ việc làm của đấng Hoàng tổ ta, Hoàng khảo ta. Đã kính
làm sách Thực lục, nêu rõ kỷ cương lớn, pháp độ lớn, rạch ròi từng điều từng mục.
Còn tiết chế việc làm, ngăn ngừa điều trái thì sai làm sách Hội điển này, cốt
mong phân chia cương, mục, đầu mối rõ ràng, đặt ra thể lệ, để bảo các Ty, ngõ hầu
những người thừa hành đều có thể theo giữ để làm khuôn phép. Đó là pháp điển rất
lớn. Vậy phải kén phái người làm, để có chuyên trách và cốt cho được thành tựu...”.
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 900 - 901
Năm 1848, Tự Đức năm thứ nhất, tổ chức thi Đình.
Trương Đăng Quế và Lâm Duy Thiếp sung làm độc quyển.
Đỗ Quang và Vũ Phạm Khải sung làm duyệt quyển.
Lấy đỗ:
- Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân:
Nguyễn Khắc Cần, Bùi Thức Kiên.
- Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân:
Nguyễn Đăng Hành, Nguyễn Hinh, Đặng Trần Chuyên, Đỗ
Thức Tĩnh, Lê Hữu Lệ, Vũ Xuân Xán
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 88
Tháng 2 năm 1848, cuối xuân, Tự Đức năm thứ nhất, ngày Đinh
Mão mở Kinh Diên, nơi vua nghe giảng sách, chọn Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản
làm Kinh Diên giảng quan, Nguyễn Đức Chính, Phạm Thế Trung, Hoàng Tế Mỹ, Trương
Quốc Dụng sung làm giảng quan thường xuyên. Trong tập thơ Trương Quảng Khê tiên
sinh tập, có bài:
HỌA THƠ VUA NƠI KINH DIÊN
(Ngay sau khi giảng bài)
Trường học chẳng là chỗ nói suông
Trị bình cốt mở rộng lòng nhân
Ưu tư ý chúa mưu bền vững
Gắng sức lòng tôi việc chẳng nhàn
Quy hối bàn sâu tìm Lã, Phạm (*)
Hình danh đâu thể học Thân, Hàn
Đề từ châu bản ngầm tu chỉnh
Trân trọng lời vua dặn các quan
Thơ Trương Đăng Quế, sđd, tr.337
PHỤNG HỌA THƠ VUA NHÂN NGÀY KHAI GIẢNG ĐIỆN KHÂM VĂN VÀO CUỐI
XUÂN
Mùa xuân quang cảnh đẹp
Không khí vui thái bình
Nhân dân sống yên ổn
Hoa cỏ thảy tươi xinh
Cúng năm kịp lúa chín
Cai trị thuở yên bình
Ân trạch ban rộng khắp
Văn hóa sùng cao sinh
Tiếp nối gương cần mẫn
Giữ vững đạo tri hành
Xong Viên khâu hành lễ
Tâm Ngọc kính trong lành
Nghiêm túc giữ pháp độ
Đức khéo kết xa tinh
Đường ván mưa lấm tấm
Kinh diên hiện vẻ lành
Nắng rọi sáng rèm trúc
Gió nhẹ vờn qua song
Hương hoa đượm thềm bậc
Phòng ốc khí học hành
Trẻ nam sức chim hộc
Trẻ nữ vẻ chim loan
Lớp lớp người hoàng tộc
Hàng hàng chín phẩm quan
Chuyện trò thật rôm rả
Đối đáp rõ ngọn ngành
Huyền Dịch bởi hiếu thiện
Cẩn thận vì Tích Anh
Đào sâu nghĩa Kinh Dịch
Phân tích lý Xuân Thu
Đồng thanh thì tương ứng
Đồng khí thì tương cầu
Chan chứa tình vạn vật
Ngưỡng mộ đức ân sâu
Công tư việc rất nặng
Nghĩa lợi xét rạch ròi.
Học làm sáng đức sáng
Tập phong nhã hoài oanh
Lo toan theo hiền thánh
Khó nhọc trước dân mình
Rạng ngời đức sáng tụ
Dựa Huấn Dịch phẩm bình
Những ai vào giảng dạy
Phấn khởi tự nhiên sinh.
Theo cách sư á thánh
Cống hiến lấy ý thành
Ngàn thu phỏng lối cổ
Hợp hòa ngũ vị canh
Vua, đức như Nghiêu, Thuấn
Tôi, học theo Khiết, Cao
Luật vua vững cơ nghiệp
Tôi hiền, nước chắc nền
Quyền A, giọng sang quí
Thiên Bảo, tiếng đồng thanh
Yến ngon, nước trà nõn
Bao thư thái trong lòng
Trung phu, cho điềm tốt
Thảo luận chừng còn lâu
Đồng sức xây văn hóa
Là lo việc nhân dân
Thơ Trương Đăng Quế, tr. 502
Tháng 4 nhuận thi Đình, lấy đỗ 12 người. Vua bảo Trương Đăng
Quế:
“Trẫm ra đầu bài, cũng dễ trả lời, mà đình đối khoa này, chỉ
có 2 quyển được 4 phân (tương tự điểm 4 bây giờ), so với khoa trước có phần
kém”.
Trương Đăng Quế tâu:
“Các sĩ tử ngày thường học tập chỉ rập theo khuôn sáo, nay được
hoàng thượng ra đầu bài, tầm con mắt mới được đổi mới, sau này tự nghĩ phải mài
giũa thêm”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 127
Tháng 4, năm 1856, Tự Đức năm thứ 9, tổ chức phúc thí cho những
người thi Hội trúng cách ở điện Khâm văn. Sai Trương Đăng Quế và thự Văn minh
điện Đại học sĩ Đặng Văn Khiêm đều sung chức độc quyển. Hữu Tham tri bộ Lễ là
Phạm Khôi, và thự Hữu Tham tri bộ Lại là Vũ Duy Ninh đều sung chức duyệt quyển.
4. BÌNH ĐỊNH TÂY THANH HÓA
Năm 1836, Minh Mệnh năm thứ 17, người thổ (người dân tộc thiểu
số) tụ tập ở các sách vùng núi Ngọc Lặc, Cao Trĩ, tỉnh Thanh Hóa nổi lên ở châu
Quan Hóa. Trước đó, Lê Duy Hiển là con của Lê Duy Trạch, sau khi Lê Duy Lương bị
tiêu diệt, thì trốn lánh ở miền núi Ninh Bình, là vùng đất của các quan lang Mường,
các quan lang Quách Tất Công, Quách Tất Tại nuôi con cháu nhà Lê là Lê Duy Hiển,
suy tôn lên làm minh chủ cùng người Bắc Ninh là Hoàng Đồng Nguyệt đưa Hiển vào
Sơn Âm, xưng là Đại Lê hoàng thân Hiển công. Hoàng Đồng Nguyệt làm Quốc sư,
chiêu tập các đồ đảng, đúc ấn tín, đặt Quách Tất Công làm Tiền quân Thống tướng,
Quách Tất Tại làm Hậu quân Thống tướng, Quách Phúc Thành làm Tả quân Thống tướng,
Đinh Kim Bảng làm Binh bộ Thượng thư. Chúng sai Đặng Kim Bảng phát hịch và văn
thư xúi giục bọn Phạm Công Nho, Hà Công Kim, Phạm Bá Nho, mật dụ các thổ ty, thổ
mục ở Quan Hóa, Cẩm Thủy, Lương Chánh thuộc tỉnh Thanh Hóa ấn định ngày khởi
binh. Nhưng khi nghe tin quan quân đi đến kinh lý, họ sợ, bèn sai đồ đảng dẫn
khoảng 500 người đánh trống, bắn súng kéo thẳng tới động Hồi Xuân (châu lỵ châu
Quan Hóa) giết Tri châu là Tô Danh Cận cùng 4 thuộc hạ ném xác xuống sông. Lính
lệ đều là dân tại chỗ, tản đi gần hết.
Thự Tổng đốc Hoàng Văn Ẩn được tin báo, phái ủy Lãnh binh
Nguyễn Văn Kỳ đem theo Quản vệ Nguyễn Cửu Ngọ, Phạm Văn Huy và hơn 400 biền
binh đi gấp, đốc suất bộ biền phải đi trước là bọn Lê Văn Chấn và Đỗ Văn Tình,
tùy cơ đánh dẹp. Lại sai Tri phủ Quảng Hóa là Đỗ Khắc Mẫn đi theo giúp việc
quân. Nguyễn Văn Kỳ tiến quân đến động Hồi Xuân, châu Quan Hóa, chia phái biền
binh lùng nã giặc thổ, bắt được 6 tên. Bọn yếu phạm thì tản ra, như Phạm Công
Nho và Phạm Bá Nho trốn ở Ái Chữ, Hà Công Kim và Đinh Kim Bảng chạy về Lương
Chánh, Cẩm Thủy, Quách Phúc Thành về Sơn Âm.
Sau đó, Hà Công Kim, Đinh Kim Bảng, cùng với Phạm Thúc Liêm lại
tụ tập hơn 1.000 người từ châu Lương Chánh tràn xuống địa hạt hai huyện Thụy
Nguyên, Lôi Dương. Đinh Kim Bảng làm tờ hịch xưng niên hiệu là Vĩnh Tại, khiến
nhiều người ùa theo. Sai đồ đảng là Lê Phi Ất, Lê Phi Bài đến bắt Tri châu
Lương Chánh là Hồ Tố Thiện giết đi.
Đây là cuộc khởi loạn quan trọng của Lê Duy Hiển, con cháu
nhà Lê, chống lại nhà Nguyễn. Sự khởi loạn này, căn cứ vào miền núi Thanh Hóa,
Ninh Bình và dựa vào dân Mường - Thái. Vì lẽ đó, có thể nói đây là cuộc nổi loạn
của dân Mường - Thái chống triều đình, đem Lê Duy Hiển ra làm danh nghĩa phù
Lê.
Vua Minh Mệnh bèn sai Tạ Quang Cự làm Kinh lược sứ đạo Ninh
Bình, có Hà Duy Phiên làm tham tán. Việc đánh giặc khó khăn lắm.
Bố chánh Nguyễn Nhược Sơn phái Vệ úy vệ Nghĩa võ là Tô Văn Trực,
Phó Lãnh binh thủy sư là Đặng Công Thập, dẫn 600 biền binh, 5 thớt voi trận,
chia đi đánh dẹp. Lại mộ 1.000 hương dõng ở ba huyện Đông Sơn, Hoằng Hóa và Quảng
Xương, dự bị tổ chức thành đội, giao Chánh tổng, lý trưởng cai quản để đợi cho
gọi là đi. Lại phi tư cho Kinh lược, Tham tán đạo Ninh Bình, đều động ngay quân
cứng mạnh, đi gấp tới quân thứ của thự Tổng đốc Hoàng Văn Ẩn để cùng tiễu phỉ.
Vua Minh Mệnh cho rằng đạo binh Ninh Bình đã lâu chưa thành
công, bèn sai thị vệ đem tờ Dụ tuyên bảo cho Kinh lược Tạ Quang Cự, Hà Duy
Phiên rằng:
“Bọn giặc trốn là Quách Tất Công chỉ lẩn lút ở trong một giải
Sơn Âm, thế mà không làm gì nó được, trong khi bốn mặt đã có các tỉnh phân phái
ngăn chặn, sức quân tập hợp hùng hậu, tưởng nước đổ cũng khó chảy lọt. Nếu nhân
khí sắc bén, thẳng tiến, lật đổ sào huyệt, lo gì không xong việc. Thế mà bấm đốt
ngón tay, đã hơn một tháng, những tin tâu báo chỉ là điều binh, vận lương mà
thôi, không hề thấy nói bắt hoặc chém được một tên giặc nào. Huống chi chuyến
đi này chỉ là lùng bắt kẻ phạm trốn, không thể ví với chuyện đánh dẹp, vậy mà
dùng quan, tốn lương đến bấy nhiêu lâu! Lỡ gặp đám giặc to thì làm thế nào! Chẳng
biết tính toán những việc gì, mà chậm trễ loanh quanh đến thế! Lũ ngươi là đại
thần trong nước, được ủy cho một việc bắt kẻ phạm trốn mà không làm được sớm
thành công, nếu đợi phái viên khác thay thì lũ các ngươi còn mặt mũi nào nhìn
ta nữa!”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 1055-1056
Đạo binh của Lãnh binh Thanh Hóa Nguyễn Văn Kỳ đến đóng ở Ái Chữ,
bị bọn Phạm Công Nho, Phạm Bá Nho bao vây. Hai bên giao chiến, quan quân bị chết
và bị thương nhiều, Văn Kỳ cho người tức tốc báo cho thự Tổng đốc Hoàng Văn Ẩn
xin quân tiếp viện. Ẩn tiến quân đến Thiết Úng, gặp giặc chém được một thủ cấp,
nhưng quan quân cũng bị thiệt hại, nên Ẩn lui quân về La Khán. Giặc lại chia đặt
đồn trại, ngăn chặn con đường cứu viện cho Quan Hóa. Vậy là thế giặc mạnh lắm.
Vua lệnh cho thự Đề đốc Hà Nam - Ninh Bình là Tôn Thất Bật
đem một vệ lính Nam, đến hội quân với Hoàng Văn Ẩn đánh dẹp. Lại điều lính thú
thuộc Trung vệ, dinh Long võ Nghệ An đến Thanh Hóa chờ điều động, hai vệ Quảng
Bình, Quảng Trị chia đi đóng giữ Nghệ An Hà Tĩnh.
Kinh lược sứ Ninh Bình là Tạ Quang Cự và Tham tán Hà Duy
Phiên tâu nói:
“Anh em tên phạm trốn là Quách Tất Công, Quách Tất Tại đời đời
làm ác, bấy lâu chỉ chuyên dùng con cháu nhà Lê làm mồi xúi dục dỗ dành dân
Mán, mà trong bè đảng chúng cha con Đinh Thế Đội, Đinh Thế Đức là kiệt hiệt nhất,
thứ đến là bọn Quách Phúc Thành, Quách Công Thản. Theo tin thám tử báo thì nhiều
lần Quách Tất Công cùng với em họ nó là Quách Tất Tế, Quách Tất Nham lẻn trốn ở
sơn phận các xã Sơn Âm, Hưng Thi, nhưng dời đổi ẩn nấp bất thường, rừng núi
mênh mông phải có đến vài ngàn quân mới rải khắp được. Chúng thần vừa tiếp được
tin phi báo rằng Lãnh binh đạo Quan Hóa là Nguyễn Văn Kỳ bị giặc ngăn trở và thụ
đề đốc Hoàng Văn Ẩn không tiến quân, mà đóng tại La Khán. Bọn thần đã cử Quản vệ
Nguyễn Tiến Tá đem 1.000 biền binh đi cứu viện, còn tự đem quân và voi đóng tại
Quỳnh Côi, nơi giáp Hoành Giang, để làm thanh thế tiếp ứng cho đạo quân Thanh
Hóa vừa tùy cơ đánh bắt kẻ phạm...”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 1060-1061
Vua Minh Mệnh bèn lệnh cho Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên là Lê
Văn Đức tức tốc phái một vệ binh Nam đắc lực cho theo làm việc quân. Lại phi tư
cho tỉnh Hưng Hóa khẩn cấp đốc thúc quan quân đang phòng chặn ở hai châu Mai
Châu, Mộc Châu lên đường thẳng tới quân thứ Nguyễn Văn Kỳ để cứu viện.
Như vậy là cuộc khởi loạn của Lê Duy Hiển ở tây Thanh Hóa đã
phát triển rất mạnh, triều đình đã phải điều động quân dân 8 tỉnh Thanh Hóa,
Hưng Hóa, Ninh Bình, Hà Nam, Nghệ An, Hà tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và điều động
những danh tướng Tạ Quang Cự, Phạm Văn Điển, Lê Văn Đức, Hà Duy Phiên mà tình
hình ngày càng rối thêm.
Ngày 22 tháng chạp năm 1836, vua Minh Mệnh phải xuất tướng ruột,
điều động Hiệp biện Đại học sĩ lĩnh Binh bộ thượng thư sung Cơ mật viện Trương
Đăng Quế làm Thanh Hóa Kinh lược sứ, Hữu thị lang bộ Hình Doãn Uẩn và Bố chánh
Bắc Ninh Nguyễn Đăng Giai làm Kinh lược phó sứ.
Việc này, Trương Quảng Khê thi tập có bài:
ĐI KINH LƯỢC XỨ THANH
Trong Nam vừa về đến
Lệnh đi ngay xứ Thanh.
Sá gì chuyện sắp Tết,
Trời yên như thuận tình
Liên đêm thay ngựa trạm
Hoa bên đường tiếp nghinh
Thánh triều uy đức khắp
Không lâu sẽ yên bình.
Và bài
TRÊN ĐƯỜNG NGÀY TẾT.
Việc quân, đi ngày Tết
Hấp tấp như dịch phu
Mừng xuân cùng tỉnh Nghệ
Nắng sớm, thiên lý cù
Đầu năm, ngàn thứ mới
Xứ lạ, khác giọng sao!
Châu Ái, chiều nay đến
Suốt đường gió lao xao.
Trước đây, vua Minh Mệnh ngự ở điện văn minh, vời Trương Đăng
Quế đến nói:
“Nay ta muốn phái một viên đại thần đi kinh lý sự việc thổ
dân ở Thanh Hóa. Nghĩ đến khanh vừa mới Kinh lược Nam Kỳ về, không nỡ cho đi
khó học lần nữa”.
Khi Quế lui về, vua lại sai trung sứ đến bảo rằng năm gần hết
rồi, đợi sau Tết hãy đi cũng được. Quế khảng khái nói:
“Binh cơ cần phải khẩn cấp, phải đi ngay mới được”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 1073
Lại cho rằng Nguyễn Đăng Giai vì năm trước đã nhậm chức ở
Thanh Hóa, nên cho đi cùng với Doãn Uẩn làm phó sứ. Rồi cho Nguyễn Đăng Giai về
Thanh Hóa trước, còn Trương Đăng Quế và Doãn Uẩn nhằm giờ tốt, đem phù tiết và
cầm cờ bài “vương mệnh” dẫn đầu quan quân, lên ngựa tiến phát. Ngày 24, tháng
chạp bọn Quế vào từ biệt trước bệ để ra đi. Vua ban cho ấn quan phòng Kinh lược
sứ và Dụ rằng:
“Thổ ty Thanh Hóa bấy nay vốn vô sự, nên dân thổ sở tại cũng
yên ổn, chăm lo làm ruộng sinh sống. Mới đây, xảy ra lũ xuẩn động gây nên sự biến
làm phiền quan quân phải đi đánh dẹp. Nhưng nghĩ cho cùng, suốt trong bờ cõi ai
ai cũng là con đỏ của trẫm cả, há có mất hết lương tâm cả đâu! Chỉ bởi có vài kẻ
mờ tối ngang ngạnh, ngày thường quen dùng thế lực hiếp đáp tiểu dân, gây chuyện
náo loạn nhất thời. Nưng dân không biết gì, phần nhiều bị chúng xua lùa bức
bách phải theo đó thôi. Sau khi dẹp xong phải trù tính đến công việc bền vững
lâu dài... Lại nữa người Thổ bấy lâu, dưới chính sách ràng buộc lỏng lẻo, quen
thói hủ lậu, nhân dịp này nên chấn chỉnh làm cho thói man di thành tính người
Kinh. Vậy việc liệu chia thôn xã, chọn đặt đồn bảo và hết thảy những việc nên
làm đều cho tùy nghi. Bọn ngươi khi đến tỉnh, từ thự tổng đốc Hoàng Văn Ẩn đến
thự đề đốc Tôn Thất Bật trở xuống, đều cho đặt dưới sự điều khiển để công việc
và quyền hành được chuyên nhất”.
Đại Nam thực lục, tập 4, tr. 1073, 1074
Kinh lược sứ Thanh Hóa là Trương Đăng Quế, phó sứ là Doãn Uẩn,
Nguyễn Đăng Giai khi mới đến tỉnh liền cho thị vệ đến các đạo quân Tôn Thất Bật,
Nguyễn Văn Kỳ hỏi dò tình hình, bảo phải nhân thế mạnh mà tiến công nhanh. Lại
cho rằng số quân ở tỉnh không có mấy, làm sớ tâu xin tạm lưu một vài ngày, đợi
quân vệ Kiều Võ ở Kinh phái đều đến nơi đủ cả thì mới đêm đến quân thứ, chờ cơ
điều khiển. Và xin cho điều vệ Kỳ Võ trước đã phái đến Nghệ An, không làm gì
nay tăng cho sức quân thêm mạnh.
Kinh lược sứ Thanh Hóa là Trương Đăng Quế, phó sứ là Doãn Uẩn
tâu về:
“Lãnh binh Nguyễn Văn Kỳ đạo Cẩm Thủy cùng quản vệ Nguyễn Tiến
Vạn từ Kim Lô dẫn quân đến La Khán đánh phá trại giặc, chém được bảy tên. Vừa
nghe tin Kinh lược đại thần đạo Ninh Bình tư báo rằng đã theo hẹn tiến đến Cổ
Lũng để hợp sức đánh giặc, tin báo đến, đã lập tức tính ủy phó sứ Nguyễn Đăng
Giai đem hai trăm quân vệ Kỳ Võ đến ngay La Khánh sách ứng. Lại nhân tiện chiêu
phủ thổ mục, thổ dân để đợi xếp đặt. Lại nghe tin thự Đề đốc đạo Lương Chánh là
Tôn Thất Bật, vì đàng trước bọn giặc giữ chỗ hiểm cùng bắn ra, quân chưa tiến
lên được, cũng đã sức ngay cho đạo quân Phó Lãnh binh Đặng Công Thập ở sách
Nông Vụ (thuộc huyện Lôi Dương, tiếp giáp Lương Sơn), đạo quân Quản vệ Ngô Tài
Đắc ở đông Lâm Tự (thuộc châu Lương Chánh) đều tiếp địa giới ngăn chặn rất
nghiêm. Lại định ngày đến quân thứ Lương Chánh cùng đánh thẳng sào huyệt giặc,
tùy nghi kinh lý.”
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 13
Trong khi, Lãnh binh đạo Cẩm Thủy tỉnh Thanh Hóa là Nguyễn Văn
Kỳ tiến quân đến Cổ Lũng đánh tan được năm đồn giặc, đã đánh thẳng Trình Hoàng,
đốt phá sào huyệt giặc Hà Công Kim, nhân quân tỉnh Ninh Bình chưa đến, bèn kéo
quân về đóng ở sách Vũ Lao. Trương Đăng Quế được tin báo, một mặt tư cho Kinh
lược Ninh Bình biết để khẩn đốc biền binh đến cùng với Nguyễn Văn Kỳ hợp sức
đánh dẹp cho xong ngả ấy, một mặt tư cho Phó sứ Nguyễn Đăng Giai nhân tiện
trích lấy đạo quân của Lãnh binh Vũ Văn Thuyên ở La Khán (Tôn Thất Bật nghe tin
Ninh Bình hội đánh Cổ Lũng, liền phái Vũ Vân Thuyên đem tám trăm quân từ La
Khán tiến đi) chia đường đánh phá các trại Thiết Úng, Nhân Kỷ, đánh thẳng vào
phía châu Lương Chánh, để cho đạo quân của Tôn Thất Bật dễ làm việc. Trương
Đăng Quế lại được tin đường vận lương ở châu Lương Chánh, thuyền ở xa bến xã An
Lạc (cách quân thứ một ngày đường), rừng cây rậm rạp mà quan đi bộ giải có ít,
liền tính ủy Phó sứ Doãn Uẩn đi trước, còn mình đi sau đêm quân tiếp đến, bỗng
gặp Tôn Thất Bật cho báo rằng mặt trước quân thứ, phàm các đường trọng yếu có
thể đi đến Lương Chánh, giặc đều đặt đồn kháng cự, chưa dễ đánh tan được ngay.
Dò xét được một đường từ Thúy Sơn chuyển đến sách Cự Lạc có thể đánh đàng sau
lưng giặc, xin cho thêm quân ngay. Trương Đăng Quế bèn lưu đóng quân ở An Lạc để
làm thanh thế cứu viện, sai Quản vệ Nguyễn Văn Tiến đem ba trăm quân theo Doãn
Uẩn đến hội cùng với Tôn Thất Bật tiến đánh giặc.
Kinh lược Phó sứ đạo quân Thanh Hóa Nguyễn Đăng Giai đóng
quân ở La Khán thấy đạo quân Lãnh binh Ninh Bình Trần Hữu Lễ một ngàn năm trăm
người từ Cổ Lũng đến, sai trở lại tìm bắt dư đảng giặc. Nguyễn Đăng Giai bèn
chia theo hai bờ sông tiến đánh Thiết Úng, giặc dựa vào rừng bắn ra, quân ta vẫn
hăng hái tranh nhau đi trước, liền lấy được đồ giặc, bắn chết vài tên, giặc liền
chạy trốn. Duy đạo quân tiếp ứng của Lãnh binh Vũ Văn Thuyên ở mặt sau vẫn chưa
đến, Giai bèn tạm đóng quân ở đấy. Vừa gặp Kinh lược Ninh Bình tự rút đạo quân
Trần Hữu Lễ ở Phủ Liễn về. Trương Đăng Quế nghe tin ấy, nhận định:
“Nay bọn giặc ở Lương Chánh, giữ chỗ hiểm chống lại, là
sợ sức mạnh của đạo quân Đề đốc Tôn Thất Bật, cho nên hết sức cố giữ, tuy có
tìm được đường khác, cũng chưa tiện tiến ngay, phải từ Thiết Úng, Nhân Kỳ đánh
xuống cho chúng chia ra, sức sẽ yếu, mới dễ tiến lấy. Quân ta nếu đánh Nhân Kỳ
thì Cổ Lũng lại ở đường sau, trại giặc ấy tuy đã bị phá tan, nhưng chưa bắt hết
lũ giặc, còn nếu vội rút đạo quân Hữu Lễ, không khỏi bọn giặc lại tụ tập quấy rối.
Nên để Trần Hữu Lễ ở lại Cổ Lũng làm thanh thế hậu lộ cho Nguyễn Đăng Giai, để
được chuyên việc giáp đánh Lương Chánh, hầu được vẹn toàn”.
Đại Nam thực lục, tập V, tr. 17
Đạo quân của Nguyễn Đăng Giai liền từ Thiết Úng thẳng tiến
Nhan Kỳ, thì giặc chạy trốn trước rồi, đạo quân Tôn Thất Bật bèn cùng Phó sứ
Doãn Uẩn từ Ngọc Khuê xuyên núi đánh vào trường lũy của giặc (giặc theo núi
đóng trại dài hơn một dặm, chỗ mà năm xưa Hà Công Thái đánh nhau với quân Tây
Sơn, người ta gọi là Lũy Kêu), lấy súng du sơn bắn, giặc chết nhiều phải tan vỡ.
Quan quân bèn tiến vào động Khương Chánh đốt phá sào huyện của tướng giặc Lê
Phi Thái.
Trương Đăng Quế ở quân thứ Lương Chánh, hỏi dò biết lũ giặc
sau khi bị thua, bọn giặc ở Tam Lô (thượng du của châu Lương Chánh tiếp giáp
các huyện hạt Man Duy, Trình Cố), bọn giặc ở Tứ Động (thượng du châu Quan Hóa
tiếp giáp Hưng Hóa) đều chạy về sào huyệt, bọn giặc ở Lương Chánh thì chạy trốn
ở Lâm Lũng. Quế tính ủy thác cho Phó sứ Nguyễn Đăng Giai đến Tứ Động, Thự Đề đốc
Tôn Thất Bật đến Tam Lô đuổi theo. Kinh lược sứ Trương Đăng Quế cùng Phó sứ
Doãn Uẩn ra yết thị chiêu an, và phân phái đi tìm bắt bọn giặc còn lẩn trốn. Quế
tâu lên:
“Động Khương Chánh là chỗ đường sá bốn bề thông suốt, rất là
xung yếu, nên đặt một đồn lớn để trấn áp và làm lỵ sở của châu này ngày sau,
huy động ba trăm dân huyện Lôi Dương tại chỗ cùng quan quân sửa đáp, gọi là đồn
Ninh Lương, phái quân đóng giữ”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 23
Trương Đăng Quế còn nhận định rằng:
“Quan quân tuy đã phá tan sào huyệt của giặc, nhưng các sách ở
thượng du chưa phá hết, đầu sỏ giặc cũng chưa bị kết án trị tội. Việc chạy khắp
rừng bắt loài thú, thế cũng thực khó, ngày đêm tính nghĩ thực rất sốt ruột. Cứ
theo Nguyễn Đăng Giai, Tôn Thất Bật cho biết rằng hiện nay đuổi bắt bọn giặc, tất
phải đụng vào dân thổ, dùng người man trị người man mới mong có kiến hiệu. Vả lại,
năm ngoái thổ phỉ Thanh Hóa nổi loạn, hai châu Quan Hóa, Lương Chánh đều theo
giặc, duy sách Kim Lô huyện Cẩm Thủy, các thân thuộc với Hà Công Đức như Hà
Công Hồ tình nguyện theo quân đi đánh giặc để chuộc tội của bọn chúng, mỗi khi
đi đánh dẹp đều xin đi đầu, có người bắn giết được bọn giặc, cũng có người bị
chết tại trận tiền. Vừa rồi trận đánh ở Thiết Úng, cháu Hà Công Đức là Hà Công
Kỳ, mình bị trọng thương mà cũng cố gắng theo quân đi đánh giặc, trước sau vì
triều đình ra sức, không có chí khác chút nào, nên cho bọn Hà Công Đức đi theo
quân thứ, để cho đám thân thuộc cũng cố sức tìm bắt bọn giặc, nếu có sơ suất hỏng
việc, thì tự chịu lấy lỗi”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 23-24
Về việc này, Trương Quảng Khê tiên sinh tập của Trương Đăng
Quế có nhiều bài thơ:
LẦN ĐẦU ĐẾN CHÂU LƯƠNG CHÁNH
Cứ ngỡ Bồng Lai đảo
Mà đây động sách dân
Chót vót núi dựng đứng
Đường đi thiếu vết chân.
Cây to dư chỗ nghỉ
Ruộng phì đủ dưỡng thân
Tương lai mạnh tích tập
Vùng biên sẽ theo dần.
Thơ Trương Đăng Quế, tr.387
Ở LẠI ĂN TẾT Ở ĐỘNG KHƯƠNG CHÁNH, GỞI THƯ CHO PHÓ SỨ TOẢN PHU
NGUYỄN ĐĂNG GIAI
Chiến địa sang năm mới
Bụi vàng nhuộm hết râu
Cùng nhau lên xứ Thượng
Trưởng, phó gặp được đâu.
Đầy trời núi lền núi
Khắp đất vầu lại vầu
Vỗ về dân là chính
Kế sách soạn đã lâu.
Thơ Trương Đăng Quế, tr.381
ĐI QUÂN THỨ ĐỘNG KHƯƠNG CHÁNH
Suốt đường, rừng heo hút
Bát ngát bầu không gian
Ba bề vây suối nước
Chập chùng núi giăng ngang
Cây tiếp trời xanh biếc
Mây điểm như thạch bàn
Đồn Ninh Lương mới lập
Là bia ghi khải hoàn.
Thơ Trương Đăng Quế, tr. 383
Quan đi bắt giặc ở Nông Cống tỉnh Thanh Hóa là Ngô Tài Đắc
đóng quân ở Lâm Lự, có tên Lê Công Vụ làm gián điệp cho giặc, giả báo là có ba
chục tên giặc họp ở thôn Hung, mưu toan đánh úp. Đắc bị mắc lừa, ủy suất đội
Nguyễn Văn Cáo đem tám chục binh dõng đi bắt, cho Vụ làm hướng đạo. Khi đến
nơi, Vụ trốn đi, bọn giặc hai trăm tên xông lại vây, quan quân vỡ thua. Bấy giờ
Đắc mới cấp báo, Trương Đăng Quế liền phái Quản vệ Nguyễn Tiến Vạn đem quân đến
cứu. Vạn bèn dẫn quân thẳng đến Bát Văn, hai lần đụng trận, bị giặc phục quân bắn
súng, biền binh có người bị thương và chết, lại dẫn quân về thôn Hung. Quế bèn ủy
Doãn Uẩn đem một vệ quân Kỳ võ đi ngay đến đốc thúc tiến đánh.
Đạo quân của Kinh lược phó sứ Thanh Hóa Nguyễn Đăng Giai tiến
đến châu Quan Hóa, rồi thẳng đến Phù Lệ, đi đến đâu, giặc đều trốn xa, cùng Quản
vệ đạo Hưng Hóa là Nguyễn Văn Quỳnh hội quân, rồi chia nhau đi chiêu dụ, tùy tiện
kinh lý. Đạo quân của thự Đề đốc Tôn Thất Bật tiến đến Tam Lô, giặc đã bỏ sào
huyệt trốn đi, Bật sai đốt hết cả, rồi kéo về đông đến quân thứ Lương Chánh.
Phó sứ đạo Nông Cống là Doãn Uẩn thân đốc quan quân từ Bát Vân đến đánh sào huyệt
giặc ở Thọ Thắng là chỗ ở của đầu mục giặc Lê Duy Hiển. Giặc giữ chỗ hiểm chống
cự, quân ta hăng hái cố đánh, liền phá được trại của giặc, giặc bị súng bắn bị
thương nhiều, tan vỡ chạy trốn.
Trương Đăng Quế mật tâu:
“Hiện nay việc bắt giặc thật là khó, vì chúng tự biết phản
nghịch là tội bị giết không tha, một khi nghe tin tìm bắt thì hang sâu hốc tối
chỗ nào cũng có mà trốn để bảo toàn tính mạng, mà các phận núi Lương Chánh,
Quan Hóa rừng cây rậm rạp, dù gần ngay một trăm bước, mà không đến tận nơi cũng
khó biết là có người ẩn nấp hay không. Lại như việc bắt nộp súng điểu thương,
đã có một vài đứa ra đầu thú, hiểu dụ hai ba lần, nhưng chúng đều nói dối là bị
giặc bắt hiếp đi theo, gánh lương cho giặc, đến chết cũng không chịu nhận việc
cầm súng chống cự quan quân. Chúng thần bàn nhau là trước hết phải bảo vệ uy đức
của triều đình, cho chúng đem nhau ra đầu thú, phàm động sách nào ra thú hết
thì đổi ra làm xã, sách nhỏ thì vẫn làm một xã, sách lớn thì chia làm 2,3 xã
thôn, chọn bầu lý trưởng, phó lý, sai làm sổ đinh điền, đợi ra thú đã hết, làm
sổ đã xong, rồi mới biểu rõ họa phúc, bắt nộp súng điểu thương, thì đã có người
có tên, thế tất không dám trốn nữa, cũng không nói thoái thác được. Lại bắt
chúng dẫn bắt lũ yếu phạm, chả ở động sách này, tất ở động sách khác, như thế
thì đâu có thể nhảy thoát ra ngoài các phận rừng thượng du được. Đến lúc ấy nếu
có đứa ẩn giấu chống cự, lập tức trị ngay. Một khi đã thành xã thôn, bầu ra lý
trưởng theo làm việc quan, dần dần theo phong tục người Kinh, nếu có thổ mục thổ
tù thì chẳng qua cũng là một người dân, không được tập thành thói quen thói lừa
dối như trước, nếu học cách như người Kinh thì không sợ bị thổ mục tổ tù ức hiếp
nữa. Tôi nay ở Lương Chánh, hiểu dụ dân ấy, dân đã quay đầu về, chính đang sức
cho làm sổ để nộp”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 32
Vua phê bảo là mọi việc tâu lên đều hợp ý trẫm, cố gắng làm tốt.
Trương Đăng Quế còn tâu:
“Kinh lý châu Lương Chánh là việc bắt đầu, xin sức cho
bộ chọn ngay tri châu, cho đến cung chức, để ngày sau dễ làm việc. Châu sở đã
làm đồn lớn, nên phái một Quản vệ đắc lực ở tỉnh sung lĩnh quản phủ Thọ Xuân, dời
đến đóng ở đấy để đàn áp.”
Đại Nam thực lục, Tập 5, tr. 33
Đạo quân của Kinh lược Phó sứ Thanh Hóa Nguyễn Đăng Giai đóng
ở Quan Hóa, thổ dân mười hai động lục tục đến quân thứ đầu thú, sai làm sổ đinh
sổ điền đã gần xong, bèn chuyển về quân thứ Lương Chánh, cùng Kinh lược sứ
Thanh Hóa Trương Đăng Quế hội bàn. Đạo quân của Phó sứ Doãn Uẩn từ Thọ Thắng tiến
đến sách Quân Thiên, động Lâm Tự, bọn giặc đều đã tan vỡ chạy trốn cả. Thự Lãnh
binh Nghệ An là Nguyễn Cửu Đức đưa bọn giặc ra thú và tìm bắt hơn chín chục người.
Doãn Uẩn cho là bọn ấy bị giặc bắt hiếp đi theo, đếu tha cả, bèn đóng quân ở đấy,
treo bảng yết thị “chiêu an”, tùy tiện kinh lý, tư cho Nguyễn Cửu Đức rút quân
về Nghệ An, liệu để lại biền binh ở phủ Quỳ Châu để ngăn chặn. Trương Đăng Quế
lại tâu lên:
“Thượng lưu Quan Hóa có ba con sông cùng chảy rót vào động Hồi
Xuân. Sông Mã từ động Vân Luông chảy đến, sông Lũng từ động Sơn Trà chảy đến,
sông Lô từ động Tam Lô chảy đến. Chỗ ấy địa thế cao ráo, xin làm một đồn để làm
châu lỵ, gọi là đồn Tòng Hóa. Lại nay Thanh Hóa có việc vận tải, đã sai thự Phó
lãnh binh thủy sư là Đặng Công Thập, Thành thủ úy là Đặng Công Thành, đem lính
thủy đi đánh trận cùng biền binh hai đội Túc võ, Quảng võ rút về hàng ngũ ở tỉnh,
Đạo quân Hưng Hóa cũng xin Chỉ để lại một quản vệ, hai trăm biền binh để đóng bắt
giặc trốn”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 41
Vua đều y cho. Lại thấy việc bắt giặc đã hơi rảnh, trong khi ở
Bắc Ninh gạo đắt, dân thiếu gạo, điều động Nguyễn Đăng Giai về Bắc Ninh cung chức.
Trương Đăng Quế tâu nói:
“Bọn thổ phỉ nay tuy đã tan, nhưng chính yếu phạm như bọn Phạm
Công Nho, Hà Công Kim, Phạm Thúc Liêm vẫn chưa bắt được một tên nào, sau này
chưa hẳn đã vô sự. Cần phải đuổi bắt cho hết mầm ác. Bề tôi cũng như Doãn Uẩn đều
là người mới, duy Nguyễn Đăng Giai đã từng làm quan tỉnh ấy, địa thế chỗ hiểm
chỗ bằng, thổ tục dân tình vốn đã quen thuộc, gần đây việc đánh bắt đi đến đâu
đều có hiệu quả nhờ công của Giai. Lại lũ thổ ty, thổ mục đến thú, trong đó
cũng có người nhận quan chức của giặc, hết thảy giao cho mang đi theo quân là
vì được chúng tin theo, giữ được không để xảy ra việc bất ngờ gì. Nay nếu giao
cho người khác cai quản thay không khỏi sinh ra ngờ, thì việc đánh bắt chưa
xong, mà mầm sợ trốn lại phát. Sự thế hiện nay, không có Giai không được. Xin để
Giai ở lại làm việc, để nhờ tay quen. Còn việc bán thóc ở Bắc Ninh, xin phái
Doãn Uẩn đi thay đủ làm nổi việc. Bề tôi kính được chọn phái, ngày đêm nghĩ hết
lòng làm việc, thực không dám sợ khó mà đùn đẩy”.
Đại Nam thực lục, Tập 5, tr. 44
Vua Minh Mệnh rất lấy làm phải, và khen Quế có phong độ đại
thần, cho Nguyễn Đăng Giai, Doãn Uẩn vẫn ở lại Thanh Hóa đánh bắt giặc cho rốt
ráo. Vua điều động Bố chánh Sơn Tây là Ngụy Khắc Tuần đi Bắc Ninh.
Kinh lược sứ Thanh Hóa Trương Đăng Quế ở quân thứ Lương
Chánh, mật phái người có sức làm việc là Hà Công Đức, bắt được đầu mục giặc là
ngụy Trung đồn Trương Công Mật, ngụy Quản đạo Phạm Công Quân, cùng bè lũ bảy
tên. Lại phái Quản vệ Nguyễn Lương Nhàn, Phạm Bạch Như bắt được đầu mục giặc là
lũ Tả đồn Lang Văn Thái, ngụy Tham tán Tạ Văn Ninh, cùng bè lũ tám tên ở động
Lương Sơn. Trương Đăng Quế lại cho dò biết được tin đầu đảng giặc là Phạm Công
Nho, Hà Công Kim vẫn ngầm hợp trốn tránh ở các phần rừng thượng du Tam Lô, tức
thì phái Phó sứ Nguyễn Đăng Giai đi vây bắt ngay, còn mình đích thân dẫn quân đến
Ái Chữ, qua châu Quan Hóa, qua Cẩm Thủy về An Lạc đóng quân. Phó sứ đạo Nông Cống
là Doãn Uẩn phái Lại mục phủ Thọ Xuân là Lê Danh Chấn cùng cách viên là Ngô Tài
Đắc bắt được gián điệp của giặc là Lê Công Vụ, đầu mục giặc là ngụy Hậu đồn Lê
Yên. Doãn Uẩn lại chuyển quân đến Lương Sơn đốc thúc bọn Nguyễn Lương Nhàn tìm
bắt giặc còn sót.
Nguyễn Đăng Giai, Tôn Thất Bật đóng quân ở Ái Chữ. Trước đây,
Giai có đem theo trọng quân thứ Lê Phúc An (trước là Bố chánh Thanh Hóa), gia
quyến của người phạm tội bị giam là Nguyễn Văn Thắng (trước là Tham hiệp Thanh
Hóa) cố sức lập công để chuộc tội cho người nhà mình. Giai sai họ cùng thám tử
Vi Văn Ái dò bắt giặc trốn, hỏi biết Phạm Công Nho ẩn nấp ở núi sách Bất Căng,
liền dẫn quân sấn đến ập bắt. Nho vừa chống vừa chạy, bị chém trúng vài nhát mới
thúc thủ chịu bị bắt. Phạm Công Nho bị đóng cũi giải về kinh giết đi.
Trương Đăng Quế tâu lên:
“Nay giặc trốn còn nhiều, nên nghiêm đốc biền binh đi tìm bắt,
cũng khó một mẻ lưới mà hết được. Trời thì nóng, lam chướng, không tiện ở lâu.
Các người theo giặc đều có danh mục, nay biết ra thú, xin tha tội cho chúng, bắt
phải cùng nhau dẫn đi bắt, ngõ hầu dễ được việc, và kẻ phạm phải giam là Nguyễn
Văn Thắng cùng Nguyễn Huy Chiểu (trước là Án sát Thanh Hóa), nếu được tha tội,
sai đem gia nhân thủ hạ đi bắt giặc để chuộc tội, tưởng cũng được việc”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 52
Vua Minh Mệnh đồng ý bản tâu tha tội cho những người lầm lỡ
theo giặc nay ra thú, cho thả Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Huy Chiểu phái theo quân
thứ lập công chuộc tội.
Trương Đăng Quế lại tâu lên:
“Các động sách Trịnh Vạn, Mậu Lộc, Quân Thiên, Lâm Lự (tả ngạn
sông Lương) thuộc châu Lương Chánh, dân ở dựa núi, rải rác hai ba nhà một,
không thành thôn xóm, mà chỗ nào cũng rừng rậm, núi khe, đi lại rất là gian hiểm,
lại cách xa châu lỵ, thế khó trông coi. Vả lại, xứ ấy hai mặt tây bắc giáp giới
với phủ Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An, và huyện Sầm Tộ, phủ Trấn Biên, cũng là nơi
quan yếu. Nếu khống chế ở chỗ ấy thì Lâm Lự, Quán Thiên không còn hiểm trở.
Tách chia sách Trịnh Vạn làm hai xã, hợp với hai xã Thọ Thắng, Mậu Lộc thành lập
một tổng gọi là tổng Trịnh Vạn. Tách chia sách Quán Thiên, Lâm Lự làm tám xã
thôn thành lập một tổng gọi là tổng Quán Nhân. Lại trích tổng Như Lăng, Lôi
Dương, Luận Khê thuộc huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa gần đấy, lập châu Thường
Xuân gồm bốn tổng, làm đồn Trịnh Vạn làm châu lỵ. Lại Cẩm Thủy chia đặt huyện lỵ,
mà hạt ấy dân cư đông đúc, không có núi khe hiểm xa, xin đặt huyện lỵ ở đất xã
Thạch Lẫm (tả ngạn sông Mã) ”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 63-64
Vua Minh Mệnh đều duyệt y cho thực hiện.
Tháng ba năm 1837, Minh Mệnh năm thứ 18, quân thứ Thanh Hóa
đem binh dõng các đạo rút về, phái ủy thổ ty châu Quan Hóa là Hà Văn Vân tiếp tục
tìm bắt giặc còn lẩn trốn. Tháng tư năm ấy, Hà Văn Vân bắn chết chính yếu phạm
là Phạm Bá Nho ở rừng Lạc Canh đem đầu về dâng. Nguyễn Đăng Giai lại dẫn quân đến
thượng du rừng khe các hạt Quan Hóa, Cẩm Thủy, Lương Chánh, đích thân đốc thúc
làm việc với cùng thổ mục, thổ dân chia đường đi tìm bắt giặc trốn. Ngụy Thượng
thư là Đinh Kim Bảng ẩn ở xã Thịnh Điện (thuộc châu Quan Hóa), bị bọn làm việc
chuộc tội là Hà Công Đức, Nguyễn Văn Thắng, Nguyễn Huy Chiểu đem thủ hạ đến bắt
được. Thổ mục Thượng Lô là Phạm Phúc Thượng lại bắn giết được ngụy Chánh Thống
lĩnh Phạm Phúc Hiển cùng bè lũ bốn tên khác ở rừng Man Duy.
Trương Đăng Quế đem việc kinh lý bày tâu:
“Sáu huyện châu Thạch Thành, Quảng Địa, Cẩm Thủy, Lương
Chánh, Quan Hóa, Thường Xuân vốn là ràng buộc, cai trị một cách sơ sài, nên vừa
rồi xảy ra việc loạn, đều do thổ tù chuyên chế áp bức thổ dân mà ra. Nay xin đổi
sách động làm xã thôn, lập sổ sách đinh điền, lại chọn người thông hiểu làm lý
trưởng cai quản dân ấy. Những người trước làm phòng ngự, thiêm sự, đồng tri, đều
nên thu lấy bằng sắc, bỏ ngạch cũ đi, trong bọn ấy có người có thể sai khiến được
thì do tỉnh tâu xin đổi bổ chức hàm bá hộ, theo tỉnh sai phái, để trừ mối tệ thổ
tù kế tiếp nối theo.
Dân cư ở động sách, địa thế rộng rãi, nay đã đổi thành xã
thôn, đặt ra tên tổng, xin chọn người đầu mục thật thà cho làm cai tổng, phó tổng,
mỗi chức một người, theo viên tri châu, tri huyện xướng xuất các việc quan.
Những động sách đất hẹp dân ít, vẫn theo như cũ, chỉ đổi tên
làm xã thôn, động sách nào số đinh điền gấp đôi, thì liệu chia làm ba, bốn xã
hoặc bảy, tám, chín xã thôn cho dễ cai quản. Những số đinh có người ra thú thì
chọn người khỏe mạnh biên vào sổ, còn thì đều không hỏi đến. Số ruộng có chỗ bỏ
hoang sót sổ cũng đều cứ thực biên vào sổ, mà tha cho cả các tội bỏ hoang ẩn lậu
từ trước.
Trước kia thổ phỉ làm loạn, bị ép đi theo giặc có đến hàng
ngàn, thì phàm thổ mục, thổ dân đến cửa quan đầu hàng thì sức cho đem súng điểu
thương đến nộp, cho về yên nghiệp, biên vào sổ đinh, sai các viên huyện châu vỗ
về dạy bảo, khiến cho chúng đổi làm điều lành, không cần truy xét tội trước.
Sổ sách đinh điền ba bản đều đóng ấn Kinh lược quan phòng, bản
giáp nộp bộ, bản ất để ở tỉnh, bản bính giao về xã thôn chấp chiểu, hằng năm do
quan lại địa phương sức làm sổ điền, sổ đinh cùng giống như người Kinh.
Dân thổ từ trước đến nay chỉ làm đầy tớ cho thổ tù, phàm con
em thổ tù mới được đón thầy học tập, còn đều bị ngăn cấm, nên thổ dân phần nhiều
ngu dốt mê lầm. Nay xin cho các viên huyện châu chọn con em thổ dân, những cháu
hơi sáng suốt, dạy cho học chữ để làm biến đổi phong tục người Man.
Hai huyện Thạch Thành, Quảng Địa đã bị tàn phá, dân ở đây lại
theo quan quân đi đánh giặc, đài tải lương thực, cùng các huyện châu Cẩm Thủy,
Quan Hóa, Lương Chánh, Thường Xuân tình hình hao hụt thật là đáng thương, về
thuế lệ phải nộp năm nay cùng số để thiếu năm trước, xin tha giảm để cho dân ở
đây bớt đói túng.
Sổ điền các huyện châu cũng nên đại số qua loa, còn giới hạn
các thôn xã, kinh lý buổi đầu, chưa tiện đo đạc. Xin đợi sau ba năm, do quan địa
phương sức làm địa bạ để định địa giới.
Sổ cũ của huyện châu cùng số đinh mới thêm ra nhiều, nên chọn
phần làm lính, nhưng sau khi binh hỏa, nhân dân chưa về đủ cả, cũng xin đợi sau
ba năm chiếu số tuyển lính, đều theo lệ năm đinh lấy một.
Về súng điểu thương của thổ dân đem nộp và đương trường bắt
được, tất cả hơn năm trăm năm chục cây súng do tỉnh làm danh sách phụng giữ.
Lại tùy theo địa thế xa gần, đinh điền nhiều ít, chia đặt tổng
làng, làm ra sổ sách.
Về phủ Quảng Hóa:
Huyện Cẩm Thủy trước bảy tổng, năm mươi hai sách, trang, trại,
nay đặt làm chín tổng, bảy mươi mốt xã.
Huyện Quảng Địa trước năm tổng hai mươi sáu sách, trang, trại
nay đặt làm hai mươi bảy xã.
Huyện Thạch Thành trước sáu tổng, sáu mươi mốt sách, trang,
trại, nay dồn thành năm mươi bốn xã.
Về phủ Thọ Xuân:
Châu Quan Hóa trước mười ba động, thôn, nay đặt làm sáu tổng,
hai mươi tám xã.
Châu Lương Chánh trước mười lăm động, nay đặt làm tám tổng, bốn
mươi ba xã.
Châu Thường Xuân mới đặt, trước hai tổng, mười bảy động,
sách, nay đặt làm bốn tổng, hai mươi sáu xã, thôn.
Huyện Lôi Dương trước hai tổng Bái Đô, Mục Sơn ở thượng du,
trước mười bốn trang, sách, nay dồn làm mười hai xã.
Về phủ Tĩnh Gia:
Huyện Nông Cống trước hai tổng Lai Triều, Lăng Lăng ở thượng
du trước có bảy sách, nay giữ nguyên.
Huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa trước có ba tổng Quảng Thi,
An Tràng, Ngọc Lặc ở trung du, trước có mười tám sách, nay đổi làm xã. Số đinh
sổ cũ 1.690 người, mới thêm 1.393 người, cộng 3.083, điền thổ sổ cũ hơn 4.920 mẫu,
mới thêm hơn 8.302 mẫu, cộng 13.223 mẫu.
Lại xin phái bốn suất đội, hai trăm biền binh thuộc tỉnh đến
đóng giữ ở chỗ quan yếu đồn Ninh Lương, Quản phủ Thọ Xuân cũng lưu ở đấy để
ngăn ngừa”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 77
Trương Đăng Quế, Nguyễn Đăng Giai ở đạo quân Thanh Hóa nghiêm
đốc thúc bọn thú đinh và người cố sức làm việc chuộc tội, lần lượt bắt được đầu
mục giặc là Hà Công Tư (người sách Cổ Lũng, ngụy xưng Khang Vũ quân điều bát),
Lê Phi Hiếu (người động Khương Chánh, là con giặc chết chém Lê Phi Ba, ngụy
xưng Phó tướng), yếu phạm của giặc là Lê Phi Ất, Lê Phi Bài, và bọn thân của tối
yếu phạm Hà Công Kim, Phạm Thúc Liêm vài mươi người. Duy hai giặc Hà Công Kim,
Phạm Thúc Liêm vẫn chưa bị bắt, họ dâng sớ xin gia hạn.
Vua Minh Mệnh cho triệu Trương Đăng Quế về kinh. Dụ rằng:
“Ngươi là đại thần nhất phẩm, chức giữ cơ mật trọng yếu, há
nên ở ngoài lâu. Nay việc kinh lý đã làm xong, chỉ còn một hai đứa giặc trốn,
giao cho Nguyễn Đăng Giai nghiêm đốc bọn thú đinh và bọn làm việc chuộc tội tìm
bắt, cốt bắt được hai yếu phạm là Hà Công Kim và Phạm Thúc Liêm để kết án trị tội.
Khi ngươi tiếp đươc dụ này, lập tức đi thong thả về Kinh cung chức”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 92
Đang khi đó, Nguyễn Đăng Giai phái ủy Suất đội Vũ Đình Lượng
cùng bọn hiệu lực Hà Công Đức bắt được Hà Công Kim, đóng cũi giải về Kinh. Vua
lại Dụ cho Trương Đăng Quế vẫn theo Dụ trước về Kinh, cả Nguyễn Đăng Giai cũng
về Kinh, rút tất cả biền binh đi trận ấy về nghỉ ngơi. Còn mỗi tên giặc Phạm
Thúc Liêm thì giao cho tỉnh, hạn ngặt cho bọn hiệu lực, thú đinh tìm bắt.
Trương Đăng Quế lại tâu lên:
“Thổ ty, thổ mục người đã theo đi đánh giặc dự có công trạng,
thì xin bổ riêng chức hàm Cai đội, Đội trưởng theo tỉnh sai phái. Còn bọn
nguyên Phòng ngự, Thiêm sự, Phòng ngự đồng tri lúc thổ phỉ bắt đầu nổi loạn thì
im lặng hông phân biệt phải trái, mặc cho chúng hoành hành, xin cách chức cả. Nếu
trong đó người còn sai khiến được thì do tỉnh tâu xin đổi bổ chức hàm bá hộ,
còn thì bắt về quê chịu sai dịch”.
Đại Nam thực lục, tập 5, tr. 92
Vua nghe theo.
Kinh lược sứ Trương Đăng Quế, Phó sứ Nguyễn Đăng Giai ở đạo
quân Thanh Hóa về đến Kinh. Vua ra Dụ khen ngợi, cho Quế nghỉ ngơi mười ngày, vẫn
giữ chức Hiệp biện đại học sĩ lãnh Thượng thư bộ Binh, Giai lại về làm Bố chánh
Bắc Ninh.
Trương Đăng Quế có bài thơ tổng kết đợt công tác này
GHI CHÉP TRÊN ĐƯỜNG CÔNG CÁN
Cuối năm lệnh đi bắc,
Gió bấc thổi càng rét,
Chí trai nào sá gì!
Buông bút khoác nhung y.
Thư sinh chưa trận mạc,
Song từng quan nhà binh,
Mưu chước trong chinh chiến,
Thuật Tôn Ngô phải tinh.
Tướng sĩ ta dũng tiến,
Giặc cỏ chạy trốn tất,
Cơ bản việc đã xong,
Công bố chuyện được mất.
Thổ dân ai chưa hiểu,
Đầu phạm chưa bị gông,
Dùng kế vây chặt núi,
Thử hỏi thoát được không?
Phải tính kế lâu dài
Vừa chống lại vừa xây,
Nên mở đường nhân đạo,
Vỗ về dân ở đây.
Trong vòng có mươi hôm,
Lần lượt giặc ra hàng,
Hung hăng rồi cũng tỉnh,
Một sớm dẹp sạch xong.
Cấm tuyệt lính tham tàn,
Tránh làm khổ nhân dân,
Nhớ lúc ta vừa đến,
Kể sao xiết gian nan,
Đường quanh co, sông suối
Dốc núi chót vót cao.
Nắng mưa mái lá rừng,
Không một chỗ nằm ngủ
Bốn bên núi đựng đứng
Cây cối dàn kín bưng
Chướng khí tỏa ngùn ngụt
Có khi nắng vừa lên
Hốt nhiên nổi mưa gió
Trời tối đen như mực
Suốt đêm tiếng điêu đẩu
Đốm lửa hồng lưa thưa
Ba tháng ròng từng trải
Tóc tai mọc bờm xờm
Thánh triều uy đức khắp
Tận xóm làng hoang vu
Khải hoàn ta rửa giáp,
Cầm bút ghi sự thực.
Thơ Trương Đăng Quế, tr. 495-497
Nói tóm lại, nhiêu người Mường - Thái mạn Ninh Bình, Thanh
Hóa đã suy tôn Lê Duy Hiển làm minh chúa, để nổi loạn chống lại nhà Nguyễn. Sự
nổi loạn này kéo dài đến bảy tám tháng, triều đình đã phải huy động quân dân 8
tỉnh và 6 viên danh tướng đánh dẹp mới xong, mà trong đó Trương Đăng Quế đóng
vai trò dẹp giặc, an dân quan trọng hơn hết.
Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, tr. 544
5. TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ VỚI SÁCH LƯỢC CHỐNG PHÁP
Trước khi chiến tranh xâm lược Việt Nam, nước Pháp đã là một
trong 4 nước hàng đầu của châu Âu nói riêng và của thế giới nói chung. Các cuộc
cách mạng tư sản đã nổ ra ở nước Anh và nước Pháp từ nửa cuối thế kỷ XVIII. Trước
đó, ở châu Âu cách mạng khoa học công nghệ và khoa học xã hội đã làm cho nền
kinh tế châu Âu phát triển tốc độ nhanh.
“Từ năm 1849, kỹ sư công binh Pháp đã phát kiến và chế tạo được
nòng pháo có đường khương tuyến, xoáy nòng làm tăng độ chính xác và sức mạnh
lên gấp bội. Họ liên tục cải tiến để đến năm 1861, Đô đốc Charner trong trận
đánh chiếm thành Chí Hòa đã dùng loại pháo bắn ra những viên đạn 4kg, tầm
3.200m, độ chính xác tuyệt đối”. (Thái Hồng, Nguyễn Tri Phương, NXB Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh, Tr.107)
Pháp còn có những tàu chiến ba buồm trang bị hơn 30 khẩu pháo
mỗi tàu. Đến năm 1849, quân đội Pháp đã có chiến hạm chạy bằng hơi nước và buồm,
trang bị 100 khẩu pháo mỗi tàu.
Trước năm 1857, quân đội Pháp ráo riết cải tiến súng trường
cá nhân, đã có loại súng tầm bắn hiệu lực 1.200m, tốc độ bắn nhanh mỗi phút một
viên, cho phép bắn chính xác từng mục tiêu. Việc cải tiến súng cá nhân đã làm
tăng hỏa lực lên gấp 10 lần.
Trong chiến tranh, pháo binh và súng cá nhân dần dần trở thành
sức mạnh chủ yếu quyết định chiến thắng. Chính Napoléon I nói:
“Ngày nay các trận đánh được quyết định bằng hỏa lực chứ
không phải bằng xung lực”.
Hỏa lực là vũ khí gồm pháo binh và súng cá nhân (theo Thái Hồng,
sđd, tr.107)
Năm 1858, liên quân Pháp - Y Pha Nho đánh vào Đà Nẵng, rồi
đánh vào Gia Định thì hải quân Pháp có hỏa lực vượt trội quân ta.
Trong tấn công chiến thuật cũng đã thay đổi, đội hình mật tập
đông quân không còn hiệu lực và trong phòng ngự, trận địa đơn tuyến không còn
thích hợp nữa. Với tàu chạy bằng máy hơi nước linh hoạt và đồ sộ, với hỏa lực
vượt trội, người châu Âu không cần đông người vẫn đủ khả năng phát động chiến
tranh khắp thế giới. Tại các châu lục, đội quân bách chiến bách thắng ấy mang nỗi
bức xúc nguyên liệu và thị trường của nền kinh tế công nghiệp đang phát triển của
họ. Hoàn toàn không phải như thời kỳ Gia Long mới lên ngôi, quân Pháp bây giờ
đã mạnh lên gấp bội, trong khi quân đội các nước châu Á gần như không được cải
tiến gì trong xã hội phong kiến nông nghiệp.
Đối đầu với đội quân Pháp như vậy, đòi hỏi phải bằng quyết
sách đúng đắn và táo bạo. Người Nhật chấp nhận thua sút, chủ động cầu hòa để học
hỏi cái mạnh của kẻ thù mà mình còn yếu. Còn nhiều dân tộc khác thì không như vậy,
triều đình xử lý thiếu dứt khoát, chiến không ra chiến, hòa không ra hòa.
Vì sao vậy? GS Trần Văn Giàu cho rằng vì triều đình thiếu
thông tin về tình hình địch. Lúc Pháp bị bấn loạn ở Tàu, ở Trung Mỹ, nhỏ giọng
ngoại giao để quân ta đừng đánh. Đúng khi ấy, ta có cơ may duy nhất đánh đuổi
chúng thì ta không nắm rõ tình hình địch, nên không đánh, bỏ mất cơ hội sẽ
không bao giờ có lại lần thứ hai.
Năm Pháp tấn công Đà Nẵng, thì Trương Đăng Quế đã sắp sửa bước
vào tuổi xưa nay hiếm. Từ đấy cho đến khi ông qua đời chỉ còn vỏn vẹn 7 năm.
Người ta muốn biết Trương Đăng Quế đóng vai trò như thế nào trong sự kiện lịch
sử bi thảm này, nhưng thực tế là ông đã là ông lão 67 tuổi rồi và từ năm 1855,
Trương Đăng Quế đã không còn giữ chức Thượng thư bộ Binh nữa để có thể có thẩm
quyền đề ra quyết sách chiến hay hòa.
Đa số các nhà nghiên cứu cho là ông chủ chiến. Họ chứng minh
rằng:
Năm 1847, Thiệu Trị năm thứ 7, vua đương triều hỏi đại thần
viện Cơ Mật Trương Đăng Quế rằng:
“Thuyền Tây dương đến đây chỉ cần có hai việc là bỏ cấm đạo
Gia tô và thông thương mà thôi. Thông thương thì được, bỏ cấm đạo có được
không?”.
Trương Đăng Quế tâu:
“Chúng đã sinh chuyện ra trước, không thể lại mong khoan điển”.
Đại Nam thực lục, tập 6, tr. 985
Tháng hai, năm 1859, Tự Đức năm thứ 12, Trương Đăng Quế đem
việc Võ Duy Ninh chết vì việc nước tâu lên. Trước đó, Võ Duy Ninh làm chức Hộ đốc
thành Gia Định, tháng giêng năm 1859, lính Pháp đánh phá các đồn, đồn Lương Thiện
thuộc tỉnh Biên Hòa, đồn Phương Vĩnh, đồn Danh Nghĩa thuộc tỉnh Gia Định, vào cửa
Cần Giờ chặn sông Phu Giang thuộc tỉnh Biên Hòa, đánh phá đồn Bình Khánh, đồn
Phú Mỹ, đồn Hữu Bình thuộc tỉnh Gia Định. Sông Đồng Nai to rộng, tàu chiến của
Pháp chạy giữa sông, quân ta chỉ có súng tầm ngắn làm sao có thể ngăn được giặc,
nên Pháp có thể đổ bộ lên bất cứ chỗ nào. Quân Pháp tấn công các đồn ngoại vi để
bức thành Gia Định, các đồn này đều thất thủ. Hộ đốc Võ Duy Ninh chạy giấy các
tỉnh kêu gọi hội binh cứu thành Gia Định. Rồi Võ Duy Ninh tự tử.
Nguyễn Thiệu Lâu, Quốc sử tạp lục, tr. 563-564
Vua Tự Đức sắc chỉ cho tìm xác tạm chôn, đợi khi xong việc
thì chở thuyền về nguyên quán chôn.
Đại Nam thực lục, tập 7, Tr. 597
Tháng 5, năm 1859, quân Pháp chiếm đóng Hữu Bình, vua Tự Đức
bảo nên chọn người giỏi giang, không câu nệ phẩm cách. Bọn Trương Đăng Quế, Phan
Thanh Giản tâu rằng:
“Người Tây dương tính là thành Gia Định, các ngả đường thông
suốt, mà chỗ đỗ thuyền thì thế sông chảy dồn lại, phòng bị rất khó, không tiện
cho việc chống giữ dằn co lâu dài, cho nên lui đóng ở bảo Hữu bình là chỗ hạ
lưu, có chỗ hiểm yếu giữ được, mà tiến lui cũng tiện. Ý của giặc cũng chưa rút
ngay. Nay các quan ở quân thứ như Tôn Thất Cáp, Phan Tĩnh, Nguyễn Duy, khó có
ai hơn được, Nguyễn Thăng, Nguyễn Hữu Thân cũng là những người làm việc giỏi,
nên giao cho bọn ấy chuyên trách, xét tình thế, nghiêm hiệu lệnh. Những thuộc hạ
của họ, cùng các tỉnh có người nào có thể làm được việc gì, cho được tùy tài
phân biệt tâu xin sung bổ”.
Vua Tự Đức cho là phải.
(Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 609)
Thư của tướng Pháp Bonard gởi cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao
Pháp:
“... L’autre parti, aveuglé par sa haine pour les Européens, à
la tête duquel figure le Ministre du Commerce actuel Trương, chargé des
ralations avec les étrangers, ne pésent aucunement les désastres qui doivent
être la conséquence d’une lutte prolongée et au moyen de laquelle ils espèrent
nous lasser, sans s’inquiéter des pertes et des sacrifices...”.(ASIE, tome 58,
Arcgi ves du Ministre des Affaires E1trangères, Paris)
... Phe kia cầm đầu là Quế, Thượng thư bộ Thương mại, người
có trách nhiệm quan hệ đối ngoại của Triều đình, mù quáng vì thù ghét người
Châu Âu chúng ta, không có chút cân nhắc nào những tai họa tất yếu của một cuộc
chiến kéo dài mà còn hy vọng qua đó khiến cho chúng ta mỏi mệt, chán nản, nên
không ngại tổn thất và hy sinh... (Tạp chí Á châu, Paris, Tập 58, Văn khố Bộ
Ngoại giao Pháp)
Năm 1860, vua Tự Đức bàn với Trương Đăng Quế về việc quân ở
Nam Kỳ, Trương Đăng Quế tâu:
“Ngày nay thuyền quân Tây dương còn đang ở đồn Hữu Bình, ở hạ
lưu thành Gia Định, ý là ở lâu. Thực khó mong làm xong việc một sớm một chiều
được. Mà Cao Miên lại ra vào địa đầu còn ngăn trở, khiến cho sức quân ta phải bị
chia ra. Vậy cần phải tính việc nào làm trước, việc nào để làm sau, việc nào
hoãn, việc nào cấp bách phải làm ngay thì việc đánh dẹp mới thực có kế hoạch. Vả
lại Cao Miên trước kia nhút nhát, lần này dám gây hấn khích là vì có thuyền Tây
dương đóng lâu, chúng giao dịch ngầm với nhau, định tìm cách hiếp chế quan
ngoài biên ải của ta... Tính về kế sách hiện nay, bọn Tây dương còn thủ thế ở đồn
Hữu Bình, cùng ta cầm cự, ta nên để Tôn Thất Cáp vẫn đốc thúc quan lính phòng
thủ như cũ. Còn quân Cao Miên vốn khiếp sợ thanh thế Nguyễn Tri Phương lúc bình
định thành Trấn Tây, ta cử Tri Phương lẻn đi An Giang, đem cả hạng lính mới lần
này điều động đi Gia Định ấy, ta điều động thẳng đến An Giang, cùng biền binh
các đạo An Giang, Hà Tiên hội binh cho đông do Tri Phương quản đốc, điều khiển.
Một mặt gởi thư cho Xiêm, đừng can thiệp, một mặt kéo quân thẳng đến Nam Vang
hay Oudong, tất chúng bở vía trốn chạy, mãi mãi không dám sinh lòng phản trắc.
Bấy giờ ta sẽ liệu để một số binh dõng ở địa đầu An Giang để phòng giữ. Còn
dùng toàn lực đối phó với Tây dương. Một khi quân Cao Miên đã tan vỡ, thì giặc
Tây dương thế cô, chẳng bao lâu cũng sẽ lui mà nghe theo ta thôi”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 682-683
Vua rất mừng, rồi đem việc ấy hỏi Tri Phương. Nhưng Tri
Phương lại nói xem tình thế chưa tiện, đợi xem thế nào sẽ tính. Rồi cuối cùng kế
sách ấy không được thi hành.
Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp thương thuyết về việc trả lại
3 tỉnh, tướng nước Pháp không nghe. Vua cho hỏi đình thần, Trương Đăng Quế, Trần
Tiễn Thành tâu xin:
“Nhân trước khi sứ nước Pháp chưa đến (trong hòa ước nói, hạn
trong một năm, nước Pháp sẽ cử sứ giả đến Kinh trao đổi hỏi thăm các điều), thì
ta nên cho sứ sang vấn an vua nước Pháp, nhân đệ thư biện bạch về việc Phan
Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp nhẹ dạ nhượng đất, Bonard bắt ép. Cử Võ Phẩm (Thủy sư
Đô đốc) sung làm Khâm sai, Trần Đình Túc làm phó, Đỗ Đệ, Hồ Quang làm bồi sứ”.
Đại Nam thực lục, Tập VII, Tr. 783
Vua chần chừ, rồi sau việc ấy bỏ đấy, không bàn đến nữa. Khi
Hòa ước đã thành, thông dụ cho Nam Kỳ nghỉ quân, đổi Trương Định về Phú Yên.
Khi ấy nhân dân Gia Định, Định Tường, Biên Hòa không chịu theo, ứng nghĩa tụ họp
đoàn kết tôn Trương Định làm người đầu mục. Về sau, vua sai Phan Thanh Giản đi
hiểu dụ, nhưng Trương Định lâu không đến nhận chức, bèn cách chức hàm.
Tháng 4, năm 1861, Tự Đức năm thứ 14, Trương Đăng Quế lại tâu
rằng:
“Người Tây dương ý muốn chiếm đóng Gia Định, lại yêu cầu muốn
cắt lấy Biên Hòa, Định Tường (ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ), sợ hòa cục không
thành. Ngoại trừ việc chiến việc thủ, không còn kế nào khác. Nhưng các quan ở
quân thứ, xét kỹ thực tình, nhiều người kém khí hăng hái, nên cho Lê Quang Tiến,
Thân Văn Nhiếp trích lấy vài vệ biền binh trước đã phái đi, hiện còn ở Bình Thuận,
Khánh Hòa để nhờ sức mới, chia nhau phòng bị cố giữ. Cũng cần giục Đỗ Thúc
Tĩnh, Nguyễn Túc Trưng đến ngay để làm công việc của các viên chức ấy, thì Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên mới có chỗ nương dựa. Đấy là việc cần kíp lúc này. Khiến
Nguyễn Bá Nghi lại viết thư cho Tây dương...”
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 714
Cũng có người cho là ông chủ hòa, họ có bằng cớ là:
Tháng 7 năm 1859, Tự Đức năm thứ 12, quan Đê chính là Nguyễn
Tư Giản dâng sớ nói thiết tha không nên hòa với Tây dương. Vua đem hỏi các quan
Cơ mật. Bọn Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản tâu rằng:
“Phái viên Tây dương yêu cầu nguyên có 3 khoản. Hiện nay khoản
cắt đất, quyết nhiên ta không cho. Khoản thông thương, thì bản triều ta đã có lệ
nhất định. Khoản truyền giáo, thì từ triều Trần, triều Lê đã cấm rồi. Gần đây
vì điều cấm của ta quá ngặt nghèo. Nay nhân thế, ta nên khoan dung để có thể
cho quân và dân được nghỉ ngơi. Trong đó tất nhiên ta làm nhiều điều ước giao kết,
thì bọn giáo dân cũng không được tự do muốn làm gì thì làm... Hán Văn Đế há đã
chẳng từng hòa thân với Hung Nô đó sao? Tống Chân Tông há đã chẳng từng hòa
thân với Khiết Đan đó sao? ”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 623-624
Ngày nay, nhìn lại tình hình thời bấy giờ, ai cũng thấy rõ
tương quan lực lượng không ngang bằng, thế thua của ta quá rõ. Chính người Pháp
đánh giá vũ khí quân ta lúc bấy giờ như sau:
Schreiner viết:
“Vũ khí của họ thuộc loại chậm hơn một thế kỷ. Thí dụ, súng
trường là loại súng từ thời đá lửa (loại Saint E1tienne, kiểu năm 1777 về trước).
Ở đó có cả súng châm ngòi kiểu Tàu”.
Thái Hồng, sđd, tr. 160
Đó là loại thạch cơ, hay thường gọi là súng điểu thương, là
vũ khí thông dụng trong thời Trung Cổ (thế kỷ XIV trở về trước):
“Súng điểu thương cò bằng đá lửa, bắn xa độ 250 đến 300 thước
là cùng. Mỗi đội 50 lính thì chỉ có 5 người có súng điểu thương, mỗi người chỉ
được bắn có 6 phát mà thôi. Hễ ai bắn quá số ấy thì phải bồi thường. Muốn bắn
phải lấy thuốc súng (đựng trong một cái bao mang ở nịt lưng) bỏ vào nòng súng,
dùng cây thông hồng nén thuốc vào cho chặt rồi bỏ viên chì (đựng ở cái bầu mang
ở cổ) rồi bóp cò cho viên đá nảy lửa làm cháy thuốc ngòi. Bắn được một phát tốn
nhiều thời giờ. Chưa kể là có nhiều khi bóp cò, mà đá lửa không bật lửa, lại phải
tháo ra nhồi lại tốn hơn gấp đôi thời giờ”.
Thái Hồng, sđd, Tr 160
Súng cá nhân đã vậy, pháo thì sao? Chính tướng Rigault De
Genouilly miêu tả pháo của ta:
“Hỏa lực của địch không làm thiệt hại chúng tôi mảy may nào,
cho dù đạn pháo của họ bắn trúng vỏ tàu của ta”.
De Larclause viết:
“Người An Nam đã cố gắng cải tiến rất nhiều, nhưng họ vẫn
không thể làm chúng ta lo lắng, vì đường đạn đại bác của họ chỉ đạt đến 1.200m
là cùng... Đại bác của họ bằng đồng hay bằng gang, đủ các kiểu, trông thì đẹp
nhưng khó di chuyển, bố trí kém, thuốc lại xấu...”.
Schreider nhận xét chung các loại pháo của ta:
“Không một khẩu pháo nào của họ đạt tầm bắn 1.500m”.
Tương quan lực lượng như vậy, thì chiến hay hòa đều không phải
là quyết sách đúng đắn, có thể cứu nước cứu dân. Bao nhiêu hào kiệt cầm quân
chiến đấu thực sự đều phải chịu thất bại. Chiến như Trương Định, Nguyễn Tri
Phương, Hoàng Diệu, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Phan Đình Phùng, Đinh Công
Tráng, Hoàng Hoa Thám... đều lần lượt hy sinh đền nợ nước. Hòa như Phan Thanh
Giản, Nguyễn Văn Tường... người phải uống thuốc độc tử tiết, người bị bắt đi
lưu đày tận quần đảo Nam Thái Bình Dương, để rồi bỏ mình nơi xứ lạ, vĩnh viễn
không còn thấy đất nước của mình nữa.
Trong tình thế ấy, triều đình và sĩ phu cả nước ta lúc bấy giờ
chẳng đưa ra được một quyết sách nào khả thi. Cái học cũ đã không giúp được gì
trong công cuộc đối phó với văn minh phương Tây có đại bác tàu đồng, với hỏa lực
mạnh hơn mình gấp bội. Bấy giờ Trương Đăng Quế đã là ông lão gần 70 tuổi, tuy
có chức nhưng không có quyền hành như trước nữa, nên chỉ có thể đưa ra đề nghị,
chờ duyệt. Nhưng càng ngày tình thế càng rối ren mà đề nghị của ông thường bị bỏ
qua, vì triều đình đang quá bối rối không còn biết phải làm như thế nào cho
đúng.
Trương Đăng Quế có thể chưa hiểu rõ xu thế bành trướng khao
khát đi tìm nguyên liệu và thị trường của các đội quân phương Tây, nhưng ông cảm
nhận được mứt độ nguy hiểm của nó, nhưng làm thế nào ngăn chặn chúng hữu hiệu
thì kế sách của ông đề ra tuy có quyết tâm cao, nhưng cũng không phải là kế vẹn
toàn cũng giống như tất cả các sĩ phu khác thời bấy giờ:
“Trong thâm tâm, Trương Đăng Quế hoàn toàn thừa nhận sức mạnh
và ưu thế của người châu Âu, chính vì vậy mà ông căm ghét và lo sợ khi họ đến...
Theo ông, bằng mọi biện pháp có thể, ngăn không cho họ xâm nhập vào nội địa,
ông lập luận rằng bờ biển An Nam có nhiều chướng ngại thiên nhiên lớn, và còn
có thể làm tăng thêm các chướng ngại. Cho nên nếu An Nam quyết tâm thì người Âu
không thể cập bến sinh sống ở ven biển được.
Ông nghĩ rằng tốt hơn nên để cho họ mệt mỏi vì những cố gắng
vô ích, còn hơn là mở cửa cho họ vào để sau này không đóng lại được nữa” (theo
Trần Viết Ngạc, Tham luận Hội thảo về Trương Đăng Quế, 1994).
Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản tâu rằng:
“Người Tây dương đến lần này, chỉ vì muốn lập phố thông
thương. Nay tự họ xin giảng hòa, tình thế cũng cấp bách. Duy họ muốn chiếm nhiều
lợi thế, ta không nên nhẹ dạ mà cho. Hơn nữa, ở Đà Nẵng thì họ dụng ý cố chấp, ở
Gia Định thì họ giả làm kính thuận. Nhiều việc trái ngược không hợp nhau, cuộc
hòa nghị chưa chắc đã xong. Nên sức lại cho những chỗ quan yếu ở ven biển, chú
ý sửa sang, cũng là sự phòng bị trước khi có việc”.
Đại Nam thực lục, tập 7, tr. 632
Sau khi thất thủ thành Gia Định, Định Tường, đến cuối năm
1861, Tự Đức năm thứ 14, vua hỏi Trương Đăng Quế làm kế hoạch gì để có thể giữ
được Biên Hòa. Trương Đăng Quế tâu:
“Thành Biên Hòa kế liền sông lớn, thực khó giữ được. Mà nay
có việc sai phái, chỉ lo về nhân tài mà thôi. Theo ý kiến của tôi thì bọn Nguyễn
Tri Phương, Nguyễn Công Nhàn hiện đang chờ án xử, nên cho họ lập công chuộc tội.
Họ cảm kích thì khí mạnh tăng thêm, ngõ hầu có thể làm nên việc được.
Công thì thưởng, tội thì răn, đó là lệ thường. Ngày nay sao
câu nệ làm gì, người nào có tài thì phá cách mà dùng cũng được.
Chức thấp thì không có quyền, tướng không có quyền thì khiến
ai được?”.
Nhưng vua và đình thần còn đang dùng dằng chưa quyết thì tin
Biên Hòa thất thủ bay về, đình thần lại xin như Đăng Quế. Bấy giờ vua mới đặc
cách chuẩn cho bọn Tri Phương, Công Nhàn được khai phục chức hàm.
Đại Nam thực lục, tập VII, Tr. 744
Cũng như đông đảo sĩ phu nước ta lúc bấy giờ, nung nấu nhiệt
tâm yêu nước thương nòi, một lòng chống quân xâm lược phương Tây, nhưng do sở học
theo lối nhà Nho lỗi thời, Trương Đăng Quế chỉ đưa ra được một số biện pháp ngắn
hạn chưa xứng tầm một bản Luận cương chính trị thích đáng với tình hình trong
và ngoài nước lúc bấy giờ. Tuy nhiên, không thể đòi hỏi một ông lão gần đất xa
trời đề ra được chánh sách đổi mới cho triều đình. Đó là nhiệm vụ của lớp người
bốn mươi năm mươi tuổi đương quyền như Phan Đình Phùng, Tôn Thất Thuyết, Ông
Ích Khiêm, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ, Bùi Viện... sau này. Nhưng như
chúng ta đã biết, không một ai có thể làm chuyện đổi mới một lực lượng trí thức
chỉ biết mỗi cái học cũ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét