Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2020

Ai hát giữa rừng khuya 1

Ai hát giữa rừng khuya 1
Lời tác giả
Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa hồ chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà hình ảnh rõ rệt tôi được mục kích càng làm cho dữ dội, nặng nề.
Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trước mắt tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện tượng đó có quả thực là một hiện tượng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc? Tôi phân vân không biết tự đáp thế nào. Ngắm đi ngắm lại, nhìn rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức kinh nghiệm để chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.
Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có nghi ngờ là giả dối, mơ hồ. Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay như làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách đi gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên thì không thấy gì nữa cả; hoặc ta đưa lên mắt một cặ ống nhòm để phóng đại trường qua sát, phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình ảnh ta muốn thấy lại mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành trong như vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.
Bằng cứ chịu khó đứng xa xa mà ngắm nhìn, thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt, nửa mơ hồ, lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiêng của khí hậu gợi cho nó nỗi nhớ tiếc thời oanh liệt thuở xưa.
Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chẳng hạn. Tôi đã phải dằng lòng gắn sức đợi đến ngót tháng trời được trông thấy hình bóng tôi muốn thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.
Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được chứng kiến, nó là hai con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được nên tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.
Phàm giả người ta, trong buổi bình sinh, có một thú gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính tình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả những khoái lạc của cuộc đời, thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn, chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là chộp lấy ngay, không bỏ sót.
Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn thi nhân còn muốn ngâm thơ; một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn gảy đàn. Câu thơ Ðường của Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, điệu đàn của Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc đó chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho thuyết ấy hay sao?
Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nàosiêu linh tịnh độ được, cứ mập mờ khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bờ bến. Ðiểm linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình trải, vẫn còn đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều khi linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng với người đời cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn khi thác bỗng tỉnh ngộ ra, bay lên một cõi thiêng liêng cao sạch để ngao du, tĩnh dưỡng.... Còn như các linh hồn bị nghiệp duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt củ loài người, thì chúng thường hay bay vơ vẩn quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn thèm thuồng, chỉ đợi có dịp là tất là trở về sống chung với ta, dẫu rằng trong một phút.
Ðó là những chúng sinh.
Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng đến, để rồi cướp lộc cướp cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ lại họp cả ở cửa trường, để đợi gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.
Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa, nên khi có xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta chịu khó bỏ hết các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời chỉ hoàng toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là sự thực cả. Chỉ có một điều là không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phải đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Thí dụ như vàng muốn biến thành nước tất phải nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia không phải bất cứ trường hợp nào cũng xảy ra được.
Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt phải thiêng, mà muốn thiêng, thì thao như chúng ta biết, phải có một vài điều kiện. Một là chết đúng giờ, hai là chết trẻ, ba là chết một cách thê thảm, bốn là chết oan, năm là được chôn ở đất có mạch hay là hấp thụ được khí thiêng của trời đất.
Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi. Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng tuổi, từng chỗ, từng thời mới hiện lên được...
Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phải bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó có lòng hiện lên được, vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẫn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành.
Chả bù với thời thái bình êm ái thuở xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thuở đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Ðến thời nay, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời.
Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy tận mắt ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Ðó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này...
Ma không đầu
Hôm đó, cách đây chừng khoảng 20 năm, tôi đi về vùng Nam Ðịnh xuống ga Gôi, vào thăm một người bạn cũ.
Lâu ngày mới được bặp nhau, bạn tôi mừng lắm, vội vàng sai vợ con đi giết gà mổ vịt, lại cho người ra chợ đón mua những thứ quà ngon. Tôi gặp lại bạn cũng mừng, hai anh em ngồi uống trà đàm đạo mãi cho tới chiều, không biết mệt.
Lúc ấy, vào khoảng bốn giờ chiều. Trời tháng quy hạ, nóng nực lắm, tuy sắp sang thu mà cũng vẫn oi ả. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi hàn huyên với bạn đã ba giờ có. Lúc tôi đến, trời còn nắng chang như lửa đốt, nhưng khi vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu sa sầm mặt lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp nhau xé toạc quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng quang tuyến sáng xanh chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng chừng tưới xuống trần ai như thác chảy, nhưng chỉ trong khoảng nửa giờ lại tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít lâu, cũng theo chiều gió tan đi hết. Trời lúc nãy bị vẩn ám, bây giờ quang đãng như không, vài tiếng sấm cuối mùa thỉnh thoảng trổi dậy, nhưng chậm rãi uể oải, không có vẻ hùng tráng như khi mưa chưa nhỏ giọt.
Mặt trời, khói bị che kín sau ức màn mây tối, lại vui vẻ tia ra những luồng ánh sáng đỏ rực và gay gắt; hình như sau mỗi cơn mưa rào, thì ánh nắng càng nồng càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ nhàng. Mưa xuống nắng lên là một sự rất thường trong thời tiết, nhưng sự đó không mấy khi xảy ra trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong cụ mấy tháng mùa đông rét mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa hay có giông tố thất thường.
Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại ngùn ngụt bốc cao khỏi đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề bực bội, mà khí hậu thì hóa ra độc địa vô cùng.
Những buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho khí hậu hóa nên ám chướng, có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc động cả các âm hồn. Người ta thường nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở chốn thôn quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một vùng nào. Sự thực chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp nhoáng trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự tụ đặc ấy vô hình, ta chỉ nhận thấy ảnh hưởng của nó mà thôi; nếu không có nhà bác học thí nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang đường.
Hoang đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm ra cội rễ căn nguyên vậy.
Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét duyên cớ, nên cũng phải tạm liệt vào hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi huyền bí do sức có luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng chất gì, ta không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình vô ảnh, nó nhẹ nhàng phảng phất, đầm như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ lại theo những luật riêng óc mình không thể xét đoán được. Nó ví như những làn khói, những luồng điện trong vũ trụ vậy...
Vì tình cờ run rủi, tôi đã được chứng kiến sự âm hồn hiển hiện, sau một trận mưa trong một ngaỳ gay gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận cùng bạn, tôi đương vui vẻ, kể lể mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn tôi như chợt nghĩ đến điều gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi vừa nói:
- Bác hãy theo tôi, sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!
Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:
- Trời đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc lên ngùn ngụt như kia, bác muốn chúng ta đi đâu?
- Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ không phải hối hận đã xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ lỡ mất dịp này thì uổng quá!
Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. Tôi không cưỡng cũng không dùng dằng, vội đứng dậy cùng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Ðến một nơi cổ am, có bóng cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn tôi ra hiệu bảo tôi ngừng bước. Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng vào gốc cây, nhưng chưa hiểu bạn tôi định tâm cho xem một cảnh vật thế nào.
Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài ba bước, nghoảnh đầu nhìn cả bốn phía, rồi ngước mắt trông ra mé chân đồi như tìm kiếm cái gì. Một lát, hình như anh ta đã thấy được sự gì mà muốn cho tôi chứng kiến, anh lùi lại, bá vai tôi, một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc.
- Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi chỉ, có phải ở ven đồi, chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng đỏ hiện rõ giữa một màu xanh thẫm, chín chỗ ấy, có hai người đang diễn võ dương oai, vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...
Trong lúc bạn tôi nói, tôi chăm chú thu hết nhãn lực cố phóng luồng nhãn tuyến ra mé đồi để ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách hùng dũng. Nhưng khốn nạn cho tôi! Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà vẫn chưa thấy tí gì! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi cây thẫm biếc; chả có một dấu hiệu gì chứng tỏ cho tôi là có người đương nhảy múa cả. Bạn tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát đầu anh, hình như muốn truyền sang cho tôi nhãn lực của anh vậy.
- Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú ý nhìn vào nương khoai đo đỏ kia, chúng nó đang vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy chưa?
Bấy giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi thình lình thấy một vệt trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dưới nghiêng về bên tả. Liền lúc ấy, tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình dáng người nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rằng:
- Quái! Làm sao nó không có đầu.
Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ chúng tôi đứng, bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô phả vào mặt tôi rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương quấn lấy thân tôi, hút tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự nhiên bị cuốn lôi lên. Tôi níu chặt lấy bạn.
Một khắc như thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa, tôi mở mắt ra, thì bị một cảnh tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió lốc, nhanh như chớp, cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rất xa, ở lưng chừng trời. Cơn gió lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt. Khi đến chỗ nương khoai, chiếc mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi xuống đất, tỏ rằng cơn gió đã tan rồi.
Cố nhìn, thì chả thấy bóng dágn của hai anh chàng múa võ nữa. Tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi thì anh đã cười bảo tôi:
- Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặt biệt! Vì anh mà cuộc phô diễn này bị bỏ dở; nếu không, ta đã được một phen khoái trá vô cùng.
- Cớ sao anh lại bảo vì tôi...
- Anh mới đến nên không biết. Sự kiện mà tôi muốn cho anh được chứng kiến là một sự lạ lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai oan hồn của hai nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa xuống nắng lên, thì oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ nhảy múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà lại phải kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lỡ mồm, ắt xảy ra cái cảnh tượng như hai anh em vừa mới thấy đó. Thôi, bây giờ ta hãy đi lại nương khoa nhặt cái mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc múa võ kia, tưởng không lấy gì làm muộn...
Bạn tôi dìu tôi cùng đi lại mé chân đồi. Nhưng can đảm của tôi ít ỏi quá, tôi đành mất mũ, không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn về nhà mà thôi.
Bạn cười tôi hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về nhà và sai một tên gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.
Tôi ở nhà bạn non ba tuần lễ, ba tuần nóng ruột muốn thỏa chí tò mò hiếu sự của mình ngay, nhưng ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống nắng lên cả. Tôi đã xếp sẵn những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn luôn mình tự dặn mình đừng bao giờ thốt lên hai tiếng "không đầu" khiến cho hỏng việc một lần nữa.
Thắm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi quấy rầy bạn đã hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào khoảng chíng mười giờ sáng, trời đương nắng chang chang bỗng có cơn mưa. Tôi mừng quá. Mưa vừa ngớt hột, tôi thủ ngày máy ảnh và ống nhòm rủ bạn đi lại chỗ có cái miếu thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã đến một lần hôm trước.
Tới nơi, không cần bạn phải chỉ bảo, tôi tự đứng lên mé trên nhìn phương hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên bạn tôi nói có ngoa đâu, tôi nhận thấy hai cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.
Mới đầu tiên, trông không được rõ lắm; nhưng dần dần mắt tôi trông càng quen càng sáng suốt ra. Cảnh vật tôi được chứng kiến thật kỳ dị; từ bé đến giờ tôi mới thấy một sự thú vị như thế này.
Ðó chỉ là hai cái bóng, nhưng quái dị làm sao! Hai cái bóng giống hệt như hai người, có tay chân, biết cử động, song chỉ vị không có đầu. Hai cái bóng ma cụt trốc! Ðứng mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được thấy không có gì là chính xác, nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ thấy lờ mờ hai vệt xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý nhìn lâu tí nữa, thì rõ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau hùng dũng lắm. Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khó đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Ðó là một thứ y phục tôi tưởng tượng ra, vì tôi trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn ảnh. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cường tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo, hơn những người có mắt nhiều.
Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chả khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay thi cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất chúng, ít người thời nay sánh kịp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước, mộtthế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biết trong cuộc dĩ vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng chỉ còn là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng của thưở bình sinh?
Hai bóng ma kia cứ rập rờn quay lượn mãi. Chúng nó xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ như các miếng "Song long quá hải. Mãnh hổ tầm sào, Thái sơn áp đỉnh, Hạng võ phi truy" v.v... nhưng tựa hồ chúng không có ý làm hại nhau chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bỏ nhớ nhung cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống đến cùng.
Ðứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thật là khoái lạc ý vị. Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai người xử võ?
Giả sử có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chỉ toàn một màu là múa may cho qua loa câu chuyện; mấy khi đã gặp hai thiện nghệ hết sức trổ tài quyền cước cho mà coi? Bởi thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hền mỏi mắt.
Ngắm chán, tôi lại giơ ống nhòm lên quan sát cho rõ rệt; nhưng, thật là kỳ quặc, mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhậ được bóng dáng hai nhà võ sĩ "cụt đầu" nữa! Tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vật; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hễ đem ống kính lên mắt, hình ảnh kia đã lại biến lúc nào rồi...
Kế ấy không xong, tôi dùng kế khác. Tôi trao ống nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồi. Cách xa độ bốn cột đèn, tôi còn trông rõ bón hai con ma ấy cứ mờ dần đi, rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu như không hề xảy ra chuyện gì cả. Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi được cảnh thần bí mà mắt người không thấy nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn bị thất vọng như thường; trên ảnh không có dấu vết gì của hai người võ sĩ cả.
Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền bí của tạo hóa để nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi.
Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chết bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó chết đã năm chục năm nay, lúc anh chưa ra đời, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên tướng cướp bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi chỉ biết có thế thôi, câu chuyện của anh chàng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời gian để giải cho ra vấn đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thuở bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi ngoài năm mươi năm, khối ân hận ấy vẫn chưa tiêu? Thực là một sự lạ.
Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc ngọn, dù phải tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng, một kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồn nước Ðại Pháp vừa dựng cờ Bảo hộ trên đất Việt Nam này?
Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán học chưa tìm ra kết quả của bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ mãi mê về chuyện ma không đầu của tôí rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ, để họa may có tìm được một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong sách, tôi thấy nói đến rất nhiều chuyện về ấu trĩ của cuộc Bảo hộ, xong chả có pho nào đá động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi...
Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy. Tôi rất bực mình vì đã cố tận gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe đều là những vật chứng lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng của mình.
Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên dục vọng của tôi đi. Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị, lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở Viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng lên?
Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Ðồng Giao, tôi đã không tìm được một tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một chuyện ly kỳ hơn, khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.
Hạt Ðồng Giao
Khi chuyến tàu Hà Nội - Vinh ghé một phú tại ga Ðồng Giao để trút xuống mỗi một một người hành khách và một kiện hàng, thì kim đồng hồ nhà ga chỉ đúng 7 giờ 55 phút. Trời hôm ấy là một vòm trời đen tối; mưa phùn rả rích phủ kín không gian bằng một tấm màn ảm đạm; khí hậu nặng nề ẩm thấp; quang cảnh bốn bề lạnh lùng bí mật, chung quanh nhà ga đều là đồi núi rừng cây, khiến càng tăng thêm vẻ hoang vu rùng rợn.
Chỗ đó, xưa kia là một khu rừng sâu thẳm, ở vào một nơi đồi núi hiểm hóc, chỉ có thể dùng làm sào huyệt cho lũ giặc cỏ ẩn nấp hoặc làm trường mai phục cho hai đạo quân Chúa Nguyễn và Chúa Trịnh khi Bắc Nam xung đột binh đao. Chỗ đó ở chính giữa khoảng giáp giới hai xứ Bắc và Trung Kỳ, nó chia rẽ bờ cõi hai kỳ bằng ba từng núi liền nhau; vì cớ ấy người ta gọi là đèo Tam Ðiệp.
Ai đã từng đi xe lửa từ Thanh Hóa ra Ninh Bình, chắc cũng đã để ý đến một quãng đường sắt gập ghềnh, hiểm trở, có lắm đoạn khúc khuỷu, mỗi lần xe đi qua lại ngửa nghiên lúc lắc, phải nghìm bớt đà lại, làm cho hành khách khó chịu mỗi khi nghe tiếng nghiến kèn kẹt của b’anh xe ép chặt trong máy hãm, giữa khi thân thể thì bị rung chuyển vì con tàu quằn quại, lượn ngùng ngoằng như con rắn uốn éo trên một con đường hẹp hòi, đực ở giữa núi. Ló đầu ra ngoài cửa sổ để nhìn phong cảnh, ta chỉ thấy mặt đá trơ trơ, dựng cao như bức tường, và chung quanh toàn là thứ cây sậy khẳng khiu, mọc ở ven sườn đá. Một khi tàu chui qua khỏi núi ra tới nơi đất phẳng thì lại chỉ là một khoảng đất mênh mông bát ngát, lởm chởm những đá, trên mọc xanh um kín mít những thứ cây nhỏ không tên tuổi, lan rộng khắp vùng; trông bụi không ra bụi, đồng không ra đồng, chỉ thuần một màu xanh thẫm, không thấy mặt đất đâu nữa. Thứ cây đó chả hiểu là những loại gì, nó thấp lè tè, quá mặt đất độ hơn nửa thước, mọc chen lẫn với lau và sậy, với cỏ, với rêu, biến quãng bình địa ra một khu hoang vu xanh thẫm, rừng cây không ra rừng cây, nội cỏ chẳng ra nội cỏ. Trong muôn vàn thứ cây đó, thứ mọc nhiều nhất là cây săng, cây sim; có thứ lại có hoa trắng và hoa tím, điểm một nét diễm lệ trên vẻ trơ tẻ cằn cỗi của ngàn lau.
Ðã từ mấy năm nay, có một ông hào phú được nhà nước cho phép khai khẩn chốn hoang vu đó để làm đồn điền. Nhưng dáng chừng sự khai hoang khó khăn quá, nên nhà hào phú kia đành bó tay chịu thua Tạo Hóa, chỉ để lại trên đường sắt một tấm biển báo hiệu cho công chúng biết đất Ðồng Giao là nơi sắp thành ấp nay mai. Ai đi qua Ðồng Giao mà chẳng thấy một tấm biển gỗ to, đứng sừng sững trên ngàn cỏ xanh đã mấy năm nay, trên có một hàng chữ đập mạnh vào những người khách qua đường: "Concession Nguyễn Văn X..."
Sự mở mang khi đất rộng giáp với đường sắt ở vùng Ðồng Giao hẳn phải là một công trình vĩ đại, mà trong một thời gian ngắn ngủi, sức người khó nỗi làm xong. Muốn cho bãi đất hoang thành những cánh đồng phì nhiêu phong phú, tất phải bỏ ra một số tiền ức vạn, một là để phạt hết cây hoang cỏ xấu, hai là để san bằng mặt đất, vạt cho hết lượt sỏ đá gồ ghề. Công trình ấy cũng đủ nuốt hết một gia sản khổng lồ, huống chi lại còn phải xây nhà cửa, nuôi xúc vật, và trồng trọt! Có lẽ cũng vì thế nên nhà hào phú kia đành nhẩn nha làm việc, không thể tiến hành công cuộc khai khẩn một cách nhanh chóng nữa.
Ấy là chưa nói về khí hậu xứ Ðồng Giao. Ai đã từng ở vùng ấy độ dăm bảy tháng, ắt phải rùng mình ghê sợ, mỗi khi nói về thủy thổ miền giáp giới Bắc, Trung Kỳ. Ðó là tổ sốt rét rừng, dẫu uống ký-ning đến điếc tai cũng khó lòng tránh khỏi. Khí hậu thực là kỳ quặc: tuy ở vào miền gần bể, mà Ðồng Giao về phương diện thời tiết cũng chả khác gì những chỗ ở mạn Thượng Du, và có lẽ còn độc hơn các tỉnh lỵ vùng Thượng Du nữa. Ðêm thì lạnh buốt phải đắp chăn tới sáng, ngaỳ lại nóng bức như giữa mùa hè. Sống trong bầu hàn thử tương xung đó, phải có xương đồng da sắt mới tránh khỏi sự ốm đau quặt quẹo. Buổi sáng, tám giờ, sương trắng như sữa, đặc như khói, còn phủ kín non sông cây cỏ; mãi đến khi mặt trời lên cao lắm mới tan dần. Chiều tới, vào khoảng bốn năm giờ, sương đã bắt đầu rỏ xuống rồi tụ lại, chỉ chốc lát là phong cảnh bị chìm đắm trong một bức màn trắng đục, ẩm thấp, khiến người đi trong năm bước khó lòng trông thấy mặt nhau. Trong cụ quý xuân, mỗi khi có mưa dầm rả rích, sự nặng nề ướt át càng tăng gấp bội, trời thu một màu tiêu điều xám đục, đất thì vắng lạnh đìu hiu, phong cảnh thực là thê lương ảm đạm. Có lẽ vì vùng Ðồng Giao ở cao hơn mặt bể, lại có các rừng núi bao bọc, nên tuy không xa đồng bằng mấy, mà khí hậu thời tiết khác hẳn các miền ở đồng bằng. Quanh năm không khí bao giờ cũng đầy hơi nước; sự ẩm thấp không làm sao tả xiết; cỏ hoang rêu lạ tha hồ được tươi tốt nhưng quần áo đồ đạc thì luôn luôn phải hơ, phải sấy, nếu không ắt bị mốc bị mục một cách mau chóng lạ thường.
Ðem so sánh các tỉnh rải rác trên quãng đường thiên lý chạy từ Hà Nội đến Huế, thì có lẽ hạt Ðồng Giao là chỗ độc địa nhất. Sở dĩ nước độc, tại vì bống chung quanh hạt toàn là rừng rú, ngàn nội, truông sậy hãi lau; những cây lá mục nát từ thuở xưa còn chồng chất cả trên mặt đất, trong lòng suối, khiến nước xanh lè như màu rêu, hoặc đục váng lên như nước ao tù.
Những cây cỏ thường hay giữ lấy hơi nước, không cho tan đi, lại nhuốm các khí độc ở đất bốc lên, thu tấ cả bao nhiêu những nguồn ám chướng vào lòng rừng rú. Gia dĩ trong rừng, bóng mặt trời không lọt vào được, lá cây cổ thụ rườm rà che lấp hẳn ánh nắng, hóa nên sự ám chướng thiêng niên vạn đại cũng chưa tiêu. Lá cây, khi rụng xuống, xếp lên thành khối, lâu ngày mục dần biến ra một tảng đất đen hôi thối, có khi rơi vào nước, hoặc ngấm vào mạch nước, đầu độc cả các suối, các ngòi. Dân cư bởi thế, không tài nào tránh khỏi bệnh tật, vì ai ai cũng đều phải lấy nước làm một sự cần thiết cho cuộc sống sinh hoạt thường ngày.
Ðấy, chỉ là xem qua như thế, ta cũng đủ thấy đất Ðồng Giao là một vùng ám chướng; mà không những hạt ấy chỉ độc ở khí hậu, chỉ buồn tẻ cằn cỗi ở phong cảnh, nó lại còn dữ dội tàn ác ở chỗ rừng núi bụi bờ chứa đầy các mãnh thú sinh hoạt một cách rất hùng cường phồn thịnh trong vẻ phồn thịnh của cỏ cây.
Bởi địa thế hiểm hóc, Ðồng Giao đã làm trường thí nghiệm cho muôn ngàn tấn bi kịch khủng khiếp. Nào là cướp bóc, chém giết, nào là hãm hiếp, giam kìm v.v... Những các trò thương tâm ấy đều là của loài người, tranh cạnh với loài người, mà diễn ra, nó không có tính cách lạ lùng cho lắm. Thê thảm bi đát hơn ấy là sự mãnh thú, vì đói ăn, bắt loài người cấu xé ra từng mảnh, xác thì dùng để lót dạ, mà hồn thì đày đọa vào kiếp nô lệ ma trành. Một câu chuyện trong muôn ngàn câu chuyện Hổ hại người, tình cờ khi đặt chân lần đầu trên đất hạt Ðồng Giao này tôi đã được nghe thuật lại.
Bạn hãy theo tôi xuống tàu vào ga một chút, rồi chúng ta sẽ cùng đi tới đầu đề. Hôm đó, trời mưa rả rích, lại tối đen như mực, dẫu vừa mới tám giờ đêm. Quang cảnh nhà ga trông quạnh hiu hoang vắng, sự buồn sự lạnh thấu trời rơi vào tận đáy tâm hồn. Tàu huýt còi rồi nặng nề lăn bánh trên con đường sắt, chui vào bóng tối chập chùng. Tôi ngẩng trông trời, mưa phăn tạt vào mặt, tỉnh táo ra đôi chút. Một mình thui thủi, tôi xách va ly thất thiểu trên vỉ đường ẩm thấp, đi vào cửa ga.
Cửa ga hé mở có một cánh. Một người thư ký gần gò trong chiếc áo the lụng thụng, giơ tay đón lấy cái vé tôi trao. Tôi cũng chả buồn nhìn xem ông ta già hay trẻ và mặt mũi thế nào. Vả lại tối lắm.
Bước vào mé trong ga, tôi thấy ấm áp dễ chịu. Ánh sáng các ngọn đèn dầu tây tỏa ra một cách dịu dàng trong gian phòng hẹp vắng, bẩn thỉu, trên tường có tranh ảnh của sở hỏa xa xuất bản, ở một góc lại có một cái cân to.
Tôi còn đương bàng hoàng ngần ngại, ở bóng tối bỗng đâu nhô ra một người vạm vỡ, mũ dạ đội sụp lấy trán, áo tơi mưa bọc kín cả người. Chàng lực sĩ ấy ra nắm lấy tôi, rồi nhe ngay bộ răng trắng nhởn.
- Tôi đợi anh đã lâu. Sao tàu chậm thế?
Tôi mới nhận ra rằng đó là Trần Văn Thủy, bạn tôi, mà nhà thầu khóan to hiện đương dở công việc xây đắp nhà cửa và đường sá ở mạn Ðồng Giao. Anh Thủy thấy tôi mừng quýnh như kẻ được vàng, vội kéo tôi xềnh xệch ra khỏi ga, đẩy tôi lên xe ô tô, mở máy chạy vèo vèo trên con đường đá vụn. Tôi ngồi trên xe, chỉ nhìn thấy một vùn vô định, lờ mờ u ám, không còn nhận rõ sự gì. Duy chốc chốc lại nghe tiếng sỏi bắn vào thành xe, kêu rắc rắc, và luôn luôn bên tai tiếng động cơ xoay chuyển đều đều. Một nửa giờ như thế, xe ngừng lại. Bạn tôi bấm đèn "pile" rọi sáng, đưa tôi vào một tòa nhà.
Trời tối lắm, tôi cũng chả biết nhà ấy lợp bằng ngói hay bằng gồi, tiến vào nhà thì thấy trên nền nhà cao ráo, phòng ốc rộng rãi, tường tuy bằng rơm và phên trát vữa, nhưng có cửa kính cửa chớp chắc chắn, mé trên thì cũng có trần như các nhà tây. Trong nhà có ghế xa lông rơm, và dăm bộ phản, cùng một bộ bàn ăn. Bày biện rất sơ sài, song thực là ngăn nắp sạch sẽ, thoạt mới vào ai cũng phải võ đoán chủ nhân là một kẻ làm ăn cẩn thận, ưa sự thực tế mà ghét thú xa hoa. Trên tường, quét vôi trắng toát, chả có tranh ảnh gì cả. Gian giữa, thì thấy treo một khẩu súng trường dài nòng và ba thứ khí giới ta; một thanh mã tấu, hai thanh quất và một cái nỏ. Thế là hết. Các đồ trang hoàng chỉ có thế, còn thì trơ trụi mặt tường không.
Nhưng ta cũng chớ nên vì thấy vẻ sơ sài đó một vội liệt chủ nhân vào hàng người chỉ có óc buôn bán, không có óc mỹ thuật. Thực ra, Thủy là một thanh niên rất chuộng văn chương, âm nhạc; sở dĩ chàng chịu sống trong hoàn cảnh trơ tẻ như thế chỉ bởi chàng muốn theo đúng chí hướng của cha, muốn tự buộc mình luôn luôn phải nghĩ đến sự làm ăn để làm thí dụ cho đứa con thơ và cho vợ. Cái nhà ở Ðồng Giao này, chẳng qua chỉ là chỗ sống tạm bợ mà thôi, hà tất phải vẽ vời trang hoàng bày biện mỹ lệ làm gì cho tốn. Có quen Thủy lâu ngày, có đi sâu vào tâm lý chàng, mới có thể hiểu chàng là một nhân vật dễ xúc cảm, dễ mơ mộng, dẫu bề ngoài chàng cố hết sức nén đè các tính tình nhu nhược của mình đi.
Thoạt vừa tới nơi, tôi đã thấy trên bàn bày sẵn sàng bát đũa và các món ăn nghi ngút. Có một sự làm tôi chú ý nhất, ngạc nhiên nhất, nhưng cũng vui thú nhất: ấy là một bộ khay đèn sáng loáng rất tươm tất bày trên một cái sập gụ ở góc phòng...
Ăn cơm có Lệ Thi, vợ Thủy, cháu Thu Nhi, con gái Thủy, bạn tôi và tôi. Chuyện trò vui vẻ, ăn ngon quá, đồ ăn hết nhẵn, vì Thủy ăn khỏe như hùm. Giữa chốn đồng rừng u tịch này, vợ và con gái Thủy tựa như hai đóa hoa thành thị, lạc vào bãi thảo mộc xanh um của đồi núi, ngõ hầu đem đến cho kẻ bị đày vào nơi hoang vắng một chút hương thơm của chốn náo nhiệt phồn hoa. Vợ con Thủy tức là một cái mục gia của chàng, cái mục gia mà, mỗi lần quá mệt nhọc ưu tư, chàng quay về ngắm nghía thì khuây hẳn nỗi âu lo sầu lao khổ. Có ở một chỗ xa xôi lạ người lạ đất, ở một chỗ mà "lau già trúc võ nẩy mầm quanh hiên", thì mới biết bàn tay mềm mại của người đàn bà và tiếng nói líu lo của trẻ con, thực quả là rất cần thiết cho sự sinh hoạt thường ngày. Mất hai thứ quý báu ấy cuộc đời dễ tẻ dễ chán lắm, và mỗi lần phải xông pha những cuộc khó khăn để đạt tới cong danh hay phú quý, thì không làm gì có sự khuyến khích thiết tha tâm trí để bền lòng gắng sức tiến lên.
Trong đời kẻ anh hùng, đem toàn thân thờ một quan niệm siêu quần, có lẽ vợ con là một điều trở ngại cho chí khí. Nhưng trong đời một kẻ sống một cách tầm thường bình dị thì sự thiếu vợ con quả là một nỗi buồn rầu, một động lực làm trở ngại sự tấn tới trên đường sinh hoạt.
Bởi thế, đối với Thủy, tôi thấy ngay rằng anh đem vợ con cùng ra Ðồng Giao là một điều chí lý, dẫu rằng khí hậu thủy thổ ở đất này không dược lành như ở đồng bằng. Song le, vì anh khéo giữ gìn, ăn đúng phép vệ sinh, nên cả nhà anh ít bị ốm đau quặt quẹo; vợ con anh trông đều khỏe mạnh cả, không đến nỗi mặt bủng da chì như phần nhiều dân ở nước độc rừng thiêng.
Cơm nước xong, cả hai vợ chồng bạn và đứa con thơ theo gót tôi cùng lại sập gụ ở góc phòng, bốn chúng tôi quây quần chung quanh bàn đèn, nói chuyện với nhau như họp chợ. Lệ Thi tự tay rót nước lọc ra ấm, đặt lên đèn cồn, đung một ấm nước sôi. Rồi lại tự tay nàng lấy cốc lấy đường, pha cho hai anh em tôi mỗi người một cốc cà phê rõ đặc.
- Hút thuốc có kèm theo cà phê đắng mới thú vị, em nghe cậu em ngày trước vẫn nói như vậy. Ở đây tuy có cà phê nhưng rang lấy không được ngon lắm, bởi thế thứ cà phê này, em phải gửi từ Hà Nội xuống đây. Nhà em uống quen rồi, cứ gần hết em lại vội nhắn mua kỳ được, nếu không cơn nghiện ông ấy lên, ông ấy ray rứt cho đến khổ!... Nhưng mà... anh thử uống xem có phải đúng Moka hảo hạng đó không?
Hôm đó thực là ngày hội. Nào là Lệ Thi, nào cháu Thu Nhi, nào Thủy, nào tôi, cứ cướp lời nhau mà nói, nói đến chỗ vui quá lại cười ầm lên. Cho đến khi cháu Thu Nhi buồn ngủ Lệ Thi mới chịu dắt con vào phòng. Chỉ còn hai anh em chúng tôi nằm đối diện nhau cạnh bàn thờ Phù dung nữ chúa mà thôi. Thủy đứng đậy bỏ màn xuống cho đỡ muỗi.
Ðêm lúc ấy đã khuya. Chim rừng queng quéc báo hiệu đầu giờ Tý. Bạn và tôi buổi này không đàm đạo nữa, cùng nằm yên hưởng thú tĩnh mịch của canh trường. Chúng tôi hiểu rằng nói chuyện với nhau vô ích; đã là đôi bạn tri giao thân thiết, thì nhiều khi kề bên nhau cũng đủ rồi. Chúng tôi được gần kề nhau, được thấy mặt nhau, còn gì sung sướng khoan khoái hơn nữa; tội gì đem lời nói phá tan sự khoan khoái ấy đi. Trong cái êm đềm quạnh quẽ, tình thân yêu quý mến còn nồng nàn hơn lúc nói cười. Có biết nằm yên để lẳng lặng nhìn nhau, đó mới thực là tương ái đến tột điểm. Mà có khi lại không cần nhìn nhau nữa; mỗi người nhắm mắt mơ màng một lối, miễn là đều có tín ngưỡng rằng cả hai cùng được gần nhau. Thế là đủ, trong tất cả cuộc đời thân thiện của Thủy và tôi, chúng tôi tương tri nhau ở chỗ ấy hơn cả.
Tôi bấy giờ mới thấy thuốc Mẹo thấm vào gân cốt, trong người nhẹ nhàng êm ái, say sưa một cách rất dịu dàng, chỉ muốn lơ mơ nằm điềm tĩn bên khay đèn mãi mãi, đừng bao giờ phải dậy nữa.
Thực là một thú vị, êm đềm và huyền ảo, không tài nào tả rõ được. Trong lúc bàng hoàng, yên chí rằng có bạn ở bên cạnh, và cũng đương trầm ngâm mơ mộng như mình, tôi cứ yên lặng nghĩ quanh nghĩ quẩn hết xa đến gần, thức cũng không phải thức, mà ngủ thì không ngủ được, linh hồn nửa tỉnh nửa mê, phiêu diêu phảng phất, đi sâu vào cõi Yên Hà. Bất giác tôi nghĩ đến đôi câu đối:
Cao ngọa gia san, hô hấp vân yên hàm bán tháp;
Ẩn cư cầu chí, trù mấu phong vũ đối có đăng...
Tôi bèn ngâm váng lên một cách rất tự nhiên, nhưng thực quả là vô lý.
Bạn tôi, có lẽ đương lim dim ngủ, giật mình tỉnh dậy. Nhìn đồng hồ, bấy giờ vào khoảng hơn một giờ đêm, đầu giờ Sửu. Thủy với tay lấy cốc cà phê, ghé lên mồm uống một hớp nhỏ. Tiếng cùi dìa sắt (cái muỗng) đụng vào thành cốc leng keng.
Liền lúc ấy, xa lắm, xa lắm, tôi thoáng nghe có tiếng đờn ca não ruột. Tôi lắng tay chú ý. Im lặng. Chỉ có tiếng mưa tuôn rả rích, tiếng gió phả vì phèo, tiếng trùng than dế khóc, và chốc chốc một con chim rừng kêu quạc quạc trên ngàn. Tôi lại ngả đầu xuống gối.
Bỗng đâu, một nhịp đàn hát lại văng vẳng lọt vào tay tôi, nhỏ lắm, xa lắm, tưởng chừng ở cõi vô hình đưa lại. Dưới manh lực của Phù dung, xúc động hết giác quan của tôi khi say khói, tai tôi nghe thính một cách lạ thường. Tôi áp tai xuống phản.
Thì này, không còn sai nữa, rõ ràng có tiếng hat ở đâu đây! Tôi hết sức lắng nghe. Từng quãng một, như xa như gần, như khoan như nhặt, âm thanh kia réo rắt từng hồi. Càng ngày nghe càng quen, càng rõ. Một chốc, tiếng đờn ca ngừng bặt, rồi lại tỏa ra; nhưng ước chừng gợn dư âm kia ở mãi ngọn đồi, chân ải, ở một vùng xa nhà bạn tôi đến dăm bảy trăm thước, không biết phát xuất từ hướng nào. Cũng có lúc, nhờ sức gió bạt sang, nghe rõ nửa câu, vài điệu; lại có khi gió quay đi hướng khác, chỉ nghe lờ mờ văng vẳng mà thôi.
Tôi chú ý đến nửa giờ, mới đoán được giọng hát kia là giọng một cô đào hát nói. Bởi lẫn trong đàn hát, một đôi khi thoáng nghe có dịp phách chấm câu. Thôi, đích thị rồi! Có lẽ quanh vùng này, có nhà hào mục, tổng lý nào được ăn khao, vui mừng nên đặt ra trò tiêu khiển thanh cao nhã đạm ấy. Nếu không phải thế thì trong hạt này làm gì có cái của hiếm, giống những nơi xa hoa phồn thịnh, tức là cái thú cô đầu?
Nghĩ thế, tôi ngồi nhỏm lên, với tay gọi bạn:
- Này Thủy, ở đây có nhà nào đặt tiệc ăn mừng không?
Bạn tôi mắt nhắm mắt mở, choàng thức dậy, với lấy cốc cà phê hớp mấy ngụm cặn cuối cùng. Xong, mới hỏi tôi:
- Cái gì thế? Anh không hút thuốc nữa à!
- Tôi muốn hỏi ở đây, có nhà tổng lý nào được sắc ăn khao mà hát xướng om sòm lên thế?
- Làm gì có ăn khao, làm gì có hát xướng! Có lẽ tai anh bị ù đấy.
- Nói lạ! Rõ ràng, tôi lắng nghe đến nữa giờ, có tiếng hát ả đào văng vẳng, nên mới tưởng rằng quanh vùng này có tiệc ăn khao...
- Anh nghe thấy tiếng hát ư? Thế thì anh có phúc thật! Tôi ở đây đã mười mấy tháng trời, mà cả hai vợ chồng, chả đứa nào nghe thấy gì cả!
- Anh nói cái gì tôi không hiểu? Nghe cái gì?
- Nghe hát.
- Hát gì?
- Hát cô ả đào...
- Cô đào ở đâu?
- Ở trong rừng nghĩa là ở trong rừng, chứ sao!
- Thằng cha này nói vô lý! Cô đào nào lại có thứ cô đào ở trong rừng?
- Thế mà ở trong rừng mới lạ chứ!
- Thôi, hẳn lại có sự bí hiểm gì ở chỗ này rồi, chớ không sai! Anh Thủy ơi! Anh làm ơn kể cho đệ nghe với nào!
- Dễ chửa, anh có gì biếu, tôi mới kể cho mà biết; chớ dễ thường mỗi lần muốn thỏa chí tò mò hiếu sự, thì anh cứ việc đang đêm hôm dựng cổ tôi dậy, là tôi phải kể hầu anh nghe đấy ư?
- Tôi lạy anh. Hễ anh kể tôi nghe, mà tôi viết được thành sách thì quyển sách ấy sẽ riêng tặng anh. Lệ Thi và cháu Thu Nhi! Thế là món quà quý nhất của tôi đó.
- Ừ, thì được, nhưng mà hãy thong thả một chút. Ðể tôi đánh thứ Lệ Thi dậy, bảo đun nước pha một cốc cà phê đặc uống cho tỉnh táo đã, sau đó mới kể cặn kẽ cho anh nghe.
- Thôi để tôi pha hầu, hà tất phải làm tội Lệ Thi như thế!
- Không được! Chỉ có vợ tôi pha, tôi uống mới ngon thôi, vì nó biết tính tôi rồi. Bao nhiêu nước, bao nhiêu đường, lại chỉ được lọc nửa cốc thôi, còn thì pha thêm nước sôi, nếu không, uống sẽ đắng mà không thơm. Lệ Thi! Còn thức đấy không? Dậy anh mượn tí.
Lệ Thi trong màn bước ra, vừa đi vừa vấn tóc. Dưới ánh đèn lờ mờ, trông nàng ban đêm đẹp quá. Nàng lịch kịch đun nước, pha cho hai cốc cà phê. Và nàng lại róc mía đường chèo chất đầy một đĩa cho chồng hãm giọng. 
Ðương khi chờ đợi, Thủy uống hớp cà phê đầu thì lòng hiếu kỳ của tôi được mãn nguyện, và muốn cho câu chuyện đượm thêm vẻ nồng nàn đầm thắm, tôi lại khêu thêm đèn để hút thuốc nữa, khiến cho thời gian chung quanh mình cũng bớt phần ảm đạm, nặng nề.
Tiếng nước réo mãi không sôi làm tôi thêm sốt ruột. Lệ Thi quay vào buồng đắp kín chăn cho con cháu bé, xong quay ra giắt màn cho chúng tôi cẩn thận, rồi yểu điệu ngoan ngoãn ngồi thu hình sau lưng chồng, góp thêm trong quãng u tịch của đêm trường một cái bóng dịu dàng bên hai chiếc bóng cứng cỏi của tôi và Thủy.
Ngoài thềm, tiếng trùng than dế khóc ầm ĩ tỉ tê như một khúc nhạc rầu rĩ êm đềm. Vài chiếc lá khô, thỉnh thoảng bị gió bạt lìa khỏi cành, xào xạc rơi xuống mặt sân gạch. Gió từng luồng nhẹ, chốc chốc rúc vào khe cửa, rên lên một tiếng não nùng như tiếng thở dài. Mưa, nghe chừng đã tạnh, nên không có tiếng tí tách rả rích trên vỉa hè nữa. Vạc, hàng dãy, xé không trung bằng những tiếng rải rác, ngắn ngủi không hề có gợn dư âm. Lệ Thi vươn tay qua mình chồn, lấy cái lọc cà phê bỏ ra ngoài, Thủy hớp được vài hớp nước nóng, bấy giờ mới đằng hắng vài cái, bắt đầu nói chuyện. Bóng Lệ Thi vẽ lên màn một cái hình thiếu phụ mơ màng.
Ngàn khuya vắng tiếng
- Hai vợ chồng tôi ở đây đã quá một năm mà thực quả chưa bao giờ được cái hân hạnh như anh cả.
Từ khi chúng tôi vừa mới đến, đã nghe các ông cai và các bác phu già nói dông dài về nhiều chuyện đường rừng: Nào dã sử của mấy mươi loài chim lạ, như con "cô ơi", con "trà toản", con "tử quy", con "da da" vân vân, nào sự tích của bao nhiêu loài dị thú, như con "thủ thỉ", con "rắn lục", con "sài cứu", con "vọng nguyệt", nói thế nào cho hết được; tóm lại phần nhiều những chuyện đó, tuy lý thú, ý vị cả, song không lấy gì làm kỳ dị hãi hùng.
Bản tính tôi chỉ thích nghe những chuyện hãi hùng mà thôi, hóa nên tôi chả để ý đến lời họ nói. Mãi sau này, có một ông cai già mà anh em áo cộc thường gọi "Lão Cai Móm", vì răng ông ta rụng gần hết - ông ấy thuật tôi nghe một câu chuyện rất kỳ quặc, khủng khiếp. Ðầu tiên tôi không tin, cho là ông ta cố tình bịa đặt, một là để vừa lòng tôi, hai là để dọa vợ tôi cho thú vị. Nhưng, được ít lâu, trong một trường hợp cực kỳ quái gở, tôi suýt nữa bị tán đởm vì sợ hãi rồi từ đó tôi phải tin lời ông Cai già là đúng.
Từ độ ấy, hễ cứ đêm nào mưa dầm gió bấc, như đêm nay chẳng hạn, là tôi cố thức và chú ý lắng tai nghe.
Tôi thức mãi, lắng mãi, mà chả bao giờ thấy gì cả. Cái lần mà đáng lẽ được nghe thấy, thì tôi lại sợ quá, chết ngất đi thiếu chút nữa mất mạng. Còn về sau này, thì cả vợ chồng đêm đêm thường cùng nhau ngồi lắng tay gần suốt sáng, thế mà cũng chả thấy gì. Chán nản, chúng tôi đành bỏ cuộc, không thám thính nữa. Ai ngờ lần đầu tiên anh đến, anh đã nhận được ngay sự bí hiểm mà tổn bao tâm trí tôi vẫn chưa nhận được; tai anh thực là tai thánh, linh ứng bằng tai Hổ thần!
Quả như lời anh nói, sự bí hiểm kia là một điệu hát cô đầu. Trong rừng có ả đầu, đó mới là một sự đáng cho là bí hiểm! Nhất là ở mạn rừng này. Bởi lẽ Ðồng Giao là một hạt hẻo lánh, dân thưa, nước độc, cô đầu đến làm gì? Trong mấy chục năm nay, có lẽ từ Thượng cổ đến giờ, chưa khi nào có một chị ả quẩng mỡ hoặc điên rồ đến đây mở một ngôi hàng Hồng lâu cả. Thế thì tại sao ở chỗ này lại được nghe hát ả đào?
Cứ về đêm, quá giờ Tý, thì mới văng vẳng có tiếng đàng ca réo rắt. Ðàn ca ấy lại phát xuất từ mé giữa rừng. Hai tháng đầu khi tôi mới đến cũng lắm người nói với tôi như thế nhưng tôi đều cho là bịa đặt. Về sau, nghe thấy ai cũng cam đoan là sự thật, tôi mới đâm ra nghi ngờ, muốn biết rõ nguyên cớ vì đâu có sự dị kỳ như vậy. Nhưng hỏi ai, họ cũng đều bảo là trong rừng đêm đêm nghe có tiếng hát, không biết tại sao mà có. Người đoán đó là ma, kẻ bảo là yêu tinh, có một ông lão nhà ai quyết rằng đó là một thứ hồ ly lạc mãi từ bên Tàu đi lần đường núi thẳm qua Vân Nam sang tới xứ Lào, rồi lần mò tới Ðồng Giao thì không đi nữa, vì tìm được địa thế hạp với nó. Sau lại có một bà già nói là mắt bà thấy con quái vật ấy ởtrong hang đá nứt mà chui ra, trước thì là con vượn trắng, rùng mình một cái biến ngay ra con gái rõ đẹp; vô phúc ai gặp phải thì nó quyến rũ đưa vào hang, đàn bà nó không thèm bắt, nhưng đàn ông thì túm ngay lấy làm chồng. Kẻ nào đi lại cùng nó, nó rút hết xương tủy, trong ba ngày phải chết.
Ông ký ga bảo là không phải thế. Theo như ông biết, thì đó là một nàng Tiên rất mỹ miều diễm lệ, không làm hại ai cả. Nàng ấy ngụ ở thân một cây quế lớn, đi tạt qua cũng ngửi thấy mùi hương xông lên, nhưng cố tìm tòi hàng tháng cũng không ra, bởi lẽ nàng Tiên đã biến cây quế thành một cây gỗ khác rồi. Cứ những ngày tối tăm trời đất, hoặc những ngày sáng sủa có trăng sao. Nàng lại hiện ra. Trời đất buồn thì nàng buồn; trời đất vui thì nàng vui; hoặc vui, hoặc buồn. Nàng đều lấy điệu hát câu ca véo von làm thú tiêu khiển. Truyền rằng có khi nàng thổi sáo, nghe như tiếng sáo diều, bay xa ngàn dặm. Nhưng ít khi nàng dùng thứ âm nhạc ấy; thường thường nàng tự mồm ca tay đờn, ca be bé cho một mình nàng nghe thôi, bởi thế ta có thính tai lắm mới thoáng nhận được một vài điệu bổng trầm...
Khi hỏi đến bà Chánh Ba, là người đã từng đi lại hạt Ðồng Giao buôn bán, thì bà nghiêm nghị hạ thấy giọng xuống và nói se sẽ, một cách rất kính cẩn rằng nàng Tiên đó là một vị Công Chúa trong 12 Chầu Cô hầu Ðức Bà Thượng Ngàn. Ấy là "Cô Nường" Quỳnh Hoa đó. Vì cô nường lỡ tay làm rơi một chiếc chén Cẩm Ngọc khi rót rượu mời Ðức Bà Liễu Hạnh ở Sòng Sơn, nên bị đày ra rừng Ðồng Giao. Bởi thế, những đêm u tịch tẻ buồn, hay những đêm thanh vắng sáng sủa, nàng Quỳnh Hoa lại nhớ đến Chầu Bà Thượng Ngàn và mười một chị em, trong lòng buồn rầu. Và những lúc ấy, đối cảnh sinh tình. Cô nường bùi ngùi hoài vọng, hát lên một khúc ngõ hầu vợi bớt nỗi lòng.
Nghe thuyết ấy của bà Chánh Ba, các bọn phụ nữ đều tỏ vẻ sợ hãi, sùng kính; ai cũng cho thuyết ấy là đúng. Nghĩ cho kỹ thì câu chuyện bà Chánh nói nó còn có ý vị, nó không hoang đường mấy và còn hợp lẽ hơn các chuyện khác nhiều.
Nhưng nó không được ly kỳ rùng rợn bằng câu chuyện của ông Phó Cựu. Ông Phó cả quyết nói lớn rằng ông biết đích tông tích của con quái vật hiện ra trong rừng nó chính là một con Sài Kíu. Cái giống Sài Kíu này na ná như loài sói, song dữ tợn hơn nhiều. Ðầu nó cứng như sắt; có kẻ bẫy được nó, lấy búa bổ mãi vào sọ dừa mà cũng không vỡ. Nó thường hay cúu gằm mặt xuống mà đi, trông tựa như một con chó dại lớn lờ đờ buồn bã. Thế mà hễ gặp người thì nó nhảy xồ lại mé sau lưng, bá chặt lấy vai, móc mắt, và khi mình ngã xuống rồi, nó cắn vào cổ cho chết; xong đâu đấy nó tha xác vào một hang hốc giấu đi. Nó đợi cho lúc xương thịt rã rời, có mùi hôi thúi xông lên, có ruồi bọ bám đầy, lúc bấy giờ nó mới đến ăn. Cái giống sài ấy chỉ ham có thịt thiu, thịt rữa mà thôi, nó không thèm ăn thịt tươi như các mãnh thú khác. Ở phía Tây nước Tàu, trong các tỉnh lắm rừng rú hiểm trở như Tứ Xuyên, Quý Châu, và Vân Nam, Cúc Tam v.v.... Có rất nhiều Sài Kíu. Người Tàu thường dùng hai chữ Sài Lang; lang là để chỉ loài chó sói, còn sài thì chỉ giống Sài Kíu đó. Giống đó đi lung tung khắp chốn, đánh hơi ngửi mùi xác chết; phàm giả chỗ nào có mả mới là nó sục đến, lấy đầu húc vào đất cho bật tung quan tài lên, rồi xé xác ra mà ăn. Bởi thế nên trong mấy tỉnh trên đây, ở các miền gần rừng rậm dân cư không dám chôn người chết nữa, họ phải dùng lối táng treo, nghĩa là đem quan tài vào trong rừng rồi buộc lủng lẳng trên càng cây cao. Giống Sài Kíu không leo trèo được, đành chịu thua, hết kế vọc xác người chết. Nhưng chúng nó cứ đợi cho quan tài có nước rỏ xuống cỏ thì lại liếm thứ nước "béo bổ" ấy.
Ăn thi thể mục nát mãi, lâu ngày có con thành tinh; con nào ăn được hơn trăm tử thi, thì cũng linh thính và có phép biến hóa như hổ bắt được đủ trăm người. Con yêu ở Ðồng Giao này chính là con Sài Kíu cái đã có hạnh phúc "xơi" được hơn trăm thây người chết nên thành ra đủ phép thần thông đó! Nó cứ hiện lên hất véo von để bẫy người ta vào xem. Gần đến sào huyệt của nó, nó sẽ run rủi cho mình đi vào tử địa, khiến mình bị bỏ xác ở những chỗ hang sâu vực thẳm, rồi, đợi khi nào trên tử thi mình đầy các thứ giòi bọ hôi tanh, lúc bấy giờ nó mới đến xé thịt mình ra đánh chén.
Cứ nghe thiên hạ xôn xao bàn tán, thì mỗi người có một cách, mỗi người có một chuyện riêng. Mà không chuyện nào giống chuyện nào. Như thế, còn xét làm sao cho rõ biết căn nguyên của sự mình muốn biết nữa? Thực là khó. Bởi thế tôi cứ phân vân, bán tính bán nghi, nghe bà con kể lại thì biết vậy, song không dám tin lời ai cả.
Cho đến lúc tôi được nghe chuyện ông Cai Móm. Ông Cai Móm là người làm công cho tôi từ lúc tôi vừa chân ướt chân ráo, đến Ðồng Giao lần đầu. Ông là một cụ già quắc thước, đứng đắn và nghiêm nghị, tôi tin cẩn lắm. Ông lại ít nói, không bờm xơm bợm bãi bao giờ. Các bạn đồng nghiệp và các phu phen sợ hãi và kính nể ông lắm.
Ông chỉ giao thiệp với tôi trong những giờ có việc, còn ngoài ra, ít khi ông vào nhà tôi chơi lâu độ vài tiếng đồng hồ. Tuy già mà ông chăm chỉ làm lụng cặm cụi cả ngày hóa nên chả mấy lúc rảnh. Cũng do một sự tình cờ mới được nói chuyện với ông trong một đêm, rồi được rõ sự tích khúc hát trong rừng nó ly kỳ rùng rợn như thế nào.
Hôm đó vào khoảng tám giờ tối, có một kiện hàng rất quan trọng từ Hà Nội gửi về. Lẽ ra thì sáng hôm sau ra ga lấy cũng được nhưng năm giờ sáng có đủ vật liệu để khở công thành thử ông Cai Móm phải đi lãnh ngay hàng về cho tôi. Ðường tối lại vận tải bằng xe bò, thành hì hục mãi gần chín giờ đêm ông Cai Móm mới về đến trại. Ông vừa tới nơi, vừa kịp xếp hàng vào kho thì gió đâu bỗng trổi lên đùng đùng, rồi mưa trút xuống như thác chảy, lại có cả sấm sét nữa. Một cơn bão lớn. Thực là gió núi mưa ngàn.
Ông Cai không về được, phải xuống bếp ngồi nghỉ cùng tụu cu ly đẩy xe và khuân hàng. Tôi nhân có việc dặn ông gọi ông lên nhà trên uống nước. Ông Cai Móm từ chối hai ba lượt nhất định không ngồi ghế xa-lông mãi sau tôi cố sức mời, ông nể lắm mới ghé lưng ngồi rất kính cẩn lên chiếc ghế ở góc bàn ăn. Tôi vốn biết ông là người ít nói cử chỉ rất thận trọng, nên cũng biệt đãi ông. Nhân có một chai rượu nếp cẩm, ngọt lật như đường và rất mạnh của một người bạn thân vừa biếu tôi được vài ngày, tôi bèn sai mở ra, rót mời ông Cai Móm.
Ông đứng dậy tạ từ hai ba lần, không uống, ép mãi, ông mới chịu đặt môi vào chiếc cóc con, dốc một hơi cạn hết. Ông là người thích rượu, rượu của tôi lại quá ngon, hóa nên khi mời đến cốc thứ hai, thứ ba, ông không từ chối nữa, chỉ cám ơn thôi. Cốc nào ông cũng hớp một hơi là sạch ráo, tôi thấy tửu lực hùng tráng của ông mà vui lòng. Tôi cứ rót, ông cứ uống. Chả bao lâu, chai rượu vơi hẳn, gần hết, tôi đoán chừng ông đã hơi say. Quả nhiên ông lấy tay ngăn không cho tôi rót tiếp nữa, ông tươi cười đắc ý, vái tôi, nói khà khà:
- Ða tạ thầy đã yêu con mà cho con uống quá nhiều, say rồi thầy ạ! Biết lấy gì mà đáp ơn thầy?
- Cái đó có hề chi! Lúc vui ta cùng uống chơi, có gì mà ơn với huệ. À này, nhân tiện ông ở đây, tôi muốn hỏi ông về câu chuyện lạ ở đất Ðồng Giao này. Chả hay cái điệu hát cô đầu văng vẳng từ trong rừng đưa ra nguồn gốc nó ở đâu? Thiên hạ mỗi người nói một lối, ông đã già, vả lại ở đây đã lâu, chắc hẳn biết rõ hơn mọi người, ông thử kể lại tôi nghe?
- Thầy đã dạy, con đâu dám trái lời, nhưng để khuya khuya chút nữa, khi nào tĩnh mịch hẳn, con thuật lại thầy nghe mới thú, bây giờ còn ồn ào lắm, vả lại con còn đương say, nói chả được rành mạch.
- Chốc nữa ông sẽ say quá rồi ngủ mất tôi biết làm thế nào?
- Thầy đừng ngại. Con có uống đến gấp bốn năm lần như ngày hôm nay cũng chả say nữa là! Thầy hãy chịu nán một chút nữa, con xuống bếp hút điếu thuốc lào, rồi xin lên ngay.
Khi ông Cai Móm trở lên phòng khách của tôi, nửa giờ sau, thì đồng hồ chuông trong phòng reo vào không gian mười một tiếng. Con Thu Nhi đi ngủ từ sớm, còn Lệ Thi thì vẫn ngong ngóng chờ đợi chí kỳ được nghe chuyện mới thôi. Vợ tôi bế tắc ngồi bên cạnh tôi, tỏ ý sốt ruột. Lúc thấy mặt ông Cai Móm, nàng mừng rỡ như đứa trẻ con được kẹo, vội vàng đứng dậy đón, dắt lại chỗ ngồi cẩn thận, xong rót đưa ông một cốc rượu lớn.
- Nào bây giờ thì cụ kể đi cho chúng tôi nghe! Tôi xin biếu cụ cốc rượu ngon này. Cụ uống hết bao nhiêu, cứ việc tự tiện, chúng tôi xin chu tất đủ hết. Cụ bắt đầu đi!
Dưới ánh đèn măng-sông sáng lóe, lúc ấy tôi mới ngắm kỹ dung mạo ông Cai Móm. Một cái trán cao vọi, vồ hẳn ra, làm cho ta phải để ý đến đầu tiên. Cái trán ấy lan rộng mãi đến tận gần đỉnh đầu hói bóng; một làn tóc ngắn thưa và trắng xóa, lơ thơ bao vành hai bên và phía sau chiếc sọ dừa gần nhẵn thín. Một đôi mắt to, mà rượu đã làm mờ ám đi bởi những tia máu nổi lên đỏ ngầu; một cái mũi hùng vĩ như mũi sư tử ở giữa đôi lưỡng quyền cao vòi vọi; một cái mồm rất tươi, nhưng có hai hàm răng trụi cả, khiến cho hai làn môi mỏng co rúm lại, vập vào mé trong, làm khuôn mặt ngắn hẳn lại đó là vài nét đặc biệt vẽ thành diện mạo ông Cai Móm. Ông tuy già, mà đa dẻ còn hồng hào tươi tốt, chỉ vì sạm đi như màu đồng đen, và nhăn nhúm như vỏ trái xoài chín nẫu. Dưới bộ quần áo vải tây vàng, ta có thể đoán thân thể ông Cai còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn lắm...
Lúc ở nhà dưới trở lên, ông không quên mang theo cái điếu cày, một vật liệu tối cần cho sự kể chuyện cổ tích giữa đêm khuya. Ông đặt điếu xuống gầm bàn, rồi ngồi nghiêm trang trên ghế. Lệ Thi đưa biếu ông cốc rượu, ông giơ hai tay đỡ lấy, uống một hơi dài gần hết nửa cốc.
Uống xong, ông thở khà một tiếng, liếm môi rồi cất tiếng nói vang vang nghe hùng dũng lắm.
- Nào! Mời thầy cô ngồi gần sát lại đây và xin thầy cô đừng sợ nhé! Câu chuyện này, nó không phải chuyện bịa đặc, vì nó hoàn toàn đúng sự thực, mà cũng không phải chuyện cổ tích, vì nó mới xảy ra độ dăm chục năm nay. Chỗ xảy ra chuyện con sắp kể đây chính là Hạt Ðồng Giao ta đó!
Tôi xin mạn phép anh xen vào chỗ này một tí, trước khi thuật lại anh nghe sự tích ông Cai Móm đã kể cho vợ chồng tôi đêm hôm ấy. Ðã lâu lắm rồi, tôi không nhớ rõ cách dàn xếp của ông Cai và nguyên văn của ông ra làm sao. Tôi chỉ biết cả tôi và Lệ Thi nghe ông nói lấy làm thú vị lắm. Cảm giác chúng tôi lúc đó thực là đặc biệt; nói cho đúng, ông Cai quả có tài trứ thuật vô cùng. Ngày nay, tôi kể lại câu chuyện này, có lẽ không hay như ông ấy kể, song tôi tin rằng văn tôi sẽ rườm rà mà lẳng lơ bay bướm hơn nguyên văn. Sau đây là câu chuyện của ông Cai Móm mượn miệng lưỡi và tinh thần tôi mà lọt vào tai anh đó thôi. Anh nên hiểu như thế cho tôi thì mới được.
Oanh Cơ
Ngày xưa khi nước Ðại Pháp vừa mới dựng nền Bảo Hộ, thì dân ta sống theo các tục lệ cổ hủ; đường sá thành thị thuở ấy chưa được mở mang rộng rãi; trong nước còn đang thời loạn lạc, cướp bóc tứ tung, các tay anh hùng lục lâm hoành hành khắp chốn mà nền trị an thì chưa lấy gì được vững vàng.
Ở các chốn đô thành, dân cư có lẽ được yên ổn đôi chút. Các quan cai trị một mặt thì hết lòng truy nã những đảng phản kháng, một mặt thì ra công mở mang khai khẩn các miền bình địa, đặt ra luật lệ mới và xây đắp các trường học để đưa dần trí thức con em trong nước, với nền văn học Âu Tây. Lúc ấy mới là cuộc sơ khai, làm gì đã có đường sá quang đãng, làm gì đã có hỏa xa và đèn điện? Ông bà chúng ta vẫn sống bần tiện trong những căn nhà tranh hoặc ngói lụp sụp, tối tăm ẩm thấp, sự sinh hoạt của các cụ mãi về sau này mới tăng bề sạch sẽ và sung sướng chút ít. Nói ra dài dòng lắm, tôi chỉ kể qua thầy cô được rõ rằng cách ăn ở lúc ấy thì rất lùi xùi khốn cực, về phương diện vật chất văn học và luân lý, thì lại là một câu chuyện khác.
Bởi chưa có nhiều đường sá, sự đi lại và sự vận tải là một điều khó khăn hiểm trở vô cùng. Ngoài Bắc Kỳ, đi đứng còn được dễ chịu đôi chút, bởi lẽ, từ trấn nọ qua trấn kia - trừ các châu ở vùng Thượng Du - không có núi rừng ngăn cản. Vả chăng đồng bằng rộng rãi, phẳng phiu, các gian phi trộm cướp hết nghề tìm sào huyệt làm nơi căn cứ để trú ẩn lâu bền. Còn như ở đất Trung Kỳ, Thanh Nghệ này, ôi thôi! Trộm cướp không biết bao nhiêu mà kể! Vì rằng xứ Trung Kỳ eo hẹp, mé Ðông tuy giáp bể song mé Tây lại tiếp ngay với núi rừng, hóa nên quân gian tìm ra nhiều chỗ đất có thể làm tổ quỉ lắm. Ðường sá lại gập ghềnh nguy hiểm, khi lên thác khi xuống đèo, khi qua rừng, khi ven núi, thực là khi khu, khó nhọc. Từ Thanh Hóa, theo đường thiên lý ra xứ Bắc, tất phải trèo đèo Tam Ðiệp, mà đèo Tam Ðiệp nó có phải đất xa lạ gì, chính là về hạt Ðồng Giao ta đó! Thuở trước chỗ này rừng núi rậm rạp gấp mười ngày nay, chỉ dùng để làm trường hỗn chiến cho mấy toán quan mai phục bắn nhau, giết nhau để chiếm quyền lợi hoặc cho Chúa Nguyễn trong Nam, hoặc cho Chúa Trịnh ngoài Bắc. Chỗ này lại còn là nơi thắng địa cho các loài mãnh thú, cho các khách lục lâm; hổ cứ ở đó hàng đàng, kẻ cướp nấp ở đó hàng toán, thực là một chốn nguy hiểm đến tột bực, đi qua đấy không chết vì đạo quân đạo tặc, thì lại bỏ xác dưới các móng vuốt hùm thiêng.
Thế mà ngày nay vẫn thường có kẻ can tràng len lỏi đi qua, đánh bạo với sự chết, không hề sợ hãi. Chả lã vì đường sá đầy tai nạn mà đành bó tay ngồi ở xó nhà, không dám vượt rừng núi từ Nam ra Bắc, để cho con đèo Tam Ðiệp, lâu dần, phải hóa ra một nơi hoang vắng, không hề có dấu chân người? Khó nhọc đến đâu thì khó nhọc, nguy hiểm đến đâu thì nguy hiểm. Lúc có việc quan trọng cần kíp, lúc phải quay cuồng xoay xở để mưu thực, nào ai còn suy nghĩ nữa, còn dùng dằng lo sợ chi nữa, còn ngại ngùng chẳng dám băng mình xông pha cửa ải ngọn đèo? Những lúc cần sống cần hăng hái để sống, một người con gái cũng còn đủ can đảm vượt nghềnh xuống thác, huống hồ là lũ nam nhi!
Mà cũng bởi có hai kẻ "liễu yếu đào tơ" dám len lỏi vào chốn ma thiêng nước độc, hổ dữ dội, cướp hung tàn này, nên mới có câu chuyện ngày hôm nay, một chuyện rùng rợn ghê người, nghe phải lạnh mình sởn gáy.
Số là, một buổi về mùa xuân, cách đây chừng sáu mươi năm về trước, quan nguyên Tri phủ Nho Quan, sau khi làm Sơn Hưng Tuyên tổng đốc, được ba năm thì cáo bệnh về dưỡng lão ở hạt đó, nhân được chiếu chỉ nhà vua phong cho làm Ðông Cái đại học sĩ, lại vừa đẻ được một công tử đầu lòng, thiết một lễ ăn mừng rất long trọng trong năm ngày; có tiệc, có đàn, có cô đầu mời rượu, bắt bài bông, nhảy múa và hát ca, lại có cả phường tuồng và phường chèo thiện nghệ lần lượt diễn các tiết mục hay nhất ròng rã suốt năm đêm ngày. Bởi thế, các giáo phường ở mọi vùng lân cận phủ Nho, đều rủ nhau tới phủ đường xin hát.
Tiếng đồn dinh quan Thượng Nho Quan (đó là tên mà dân gian đặt ra để gọi cụ Ðông Các) có đãi tiệc chạy mãi vào Thanh Hóa; các thiếp mời gửi từ hai ba tháng trước, tất cả các quan xứ Bắc và các quan phủ huyện ở lân cận tỉnh Ninh Bình mỗi người đều nhận được một tờ hoa tiên màu hồng chói lọi, trên có mấy hàng chữ Lan Ðình đen lay láy, rất mỹ lệ sắc sảo viết bằng một thứ mực hảo hạng, thơm ngát, hình như có lẫn mùi xạ, mùi trầm. Thiếp đó gửi cho quan phủ Quảng Hóa, Hà Trung, Thọ Xuân, Hoằng Hóa, và cho các quan huyện Tống Sơn, Nga Sơn, Mỹ Hóa, Quảng Tế, Thụy Nguyên, Lôi Dương, Yên Ðịnh v.v...
Quan Thượng Nho Quan là một tay cự phách trong làng nghiên bút, bốn đời ông cha ngài đều được phong tước, đến đời ngài thì đỗ Cử Nhân đệ tam danh trường Nam Ðịnh rồi đỗ tiến sĩ đệ bát danh. Trong hoạn trường, ngài quen thuộc rất nhiều, đối đãi với ai cũng thuần hậu, có tình, nên các bạn đồng liêu đều một lòng kính nể quý mến ngài, coi ngài vào hàng thầy chớ không phải vào hàng bạn. Như thế cũng không lấy gì làm quá đáng: trong đám quan lại thời ấy, một phần đông đã thụ giáo của ngài.
Cũng bởi vậy nên khi được tin báo ngài ngoại ngũ tuần mới sinh công tử đầu lòng, lại được thăng hàm Ðông Các, các thượng quan và các quan phủ huyện khắp xứ Bắc cùng trong hai chấn Thanh - Nghệ gửi đưa đồ lễ đến mừng nhan nhản: từng lớp lính cơ nón sơn, áo nâu nẹp đỏ, khố lục, sà cạp điều, khiêng lễ mễ những cái nịp nặng trĩu trên có phủ nhiễu hồng; lại có đứa đội trên đầu những cái hòm bọc da đen niêm phong cẩn thận, trông chả khác gì một đoàn gia đình nhà trai đem các đồ nạp thái đến nhà gái. Họ đi từng cánh một, đông lắm, cùng chỉ hướng Bắc tiến hành cứ theo dọc con đường thiên lý mà ra khỏi cương giới xứ Trung Kỳ, rồi còn đi, đi nữa.
Nhập với bọn họ, có một ích lợi rất lớn, là đi đường xa khỏi bị những tai nạn cướp bóc - vì họ là lính quan - lại tránh cả được sự bị hổ ăn thịt - vì đông người thì hổ không dám hành hung. Hỏi ra mới rõ bọn họ cùng ra cả Nho Quan, dâng lễ mừng quan Ðông Các. Một người đồn mười, mười người đồn trăm, trăm người lại đồn nghìn, bởi thế mà xa gần khắp xứ Bắc và phía bắc xứ Trung Kỳ, chẳng ai không biết nhà quan Thượng Nho Quan có đại tiệc ăn khao mời khắp mặt quan viên hàng xứ.
Các giáo phường nghe đồn đại đều rủ nhau đi Nho Quan một chuyến, may ra kiếm được ít nhiều, càng hát hay càng hậu thưởng, gặp dịp sẽ có cơ hội phát tài to, đủ sống trong nửa năm không phải vất vả. Các phường đều hội nhau lại, đi nhập bọn với tốp lính quan khiêng lễ vật đông như người trẩy lễ hội đền. Trong hạt Bàn Thạch phủ thọ Xuân tức là nguyên quán của giáo phường, thuở ấy có hai cô đào chính tông hát hay có tiếng, đã được giải đình đám đến mười lần. Hai chị em nhà đó sản nghiệp chẳng có gì, lại mồ côi cha mẹ từ thuở còn ấu trĩ, phải sống nương nhờ vào người anh cả, mà người anh lại góa vợ, cũng nghèo. Anh thì làm kép, gẩy đờn khuôn cho các em theo nhịp, gõ phách, gõ sênh họa theo mà hát, kiếm ăn kể cũng không lấy gì làm sung túc nếu hai đứa em không có chút nhan sắc hơn người.
Cha mẹ ba anh em nhà ấy thuở xưa đều là những tay lỗi lạc, mẹ là một nàng danh kỹ, một đời nổi danh tài tử, cha xuất thân là công tử con nhà thế phiệt, thi ba khoa đều nhượng bản Tôn Sơn, nên ngán nỗi khoa trường lận đận, bực mình bỏ nhà đi ngao du sơn thủy, mà hát hay đến quên cả giai cấp, lấy ca nhi làm vợ, rồi đổi nghề nghiên bút ra nghề đàn dịch, tự làm một tên kép cho vợ hát, sống một cuộc đời túng quẫn nhưng thanh nhàn...
Cuộc sinh hoạt lãng mạn của người cha đã để di tích trên thế gian trong ba đứa con thơ cùng lãng mạn, tài hoa vì truyền thống. Người anh cả, Văn Quản, từ thuở còn nhỏ, đã thích thổi ống tiên, ống địch, khi lớn lên thì chiếm giải quán quân trong nghệ thuật bốn cung đàn đáy, cả vùng chẳng có ai đàn lịch sự và thánh thót não ruột hơn chàng. Quản lấy một người vợ ả đào gần nhà, nhưng người vợ ấy, sau ba năm chăn gối, bỗng thụ bệnh mà thác, không để lại đứa con nào. Quản đành ôm hận sống cô độc giữa hai người em gái; đời tuy có bạn mà cũng vẫn quạnh hiu tẻ lạnh, khiến điệu đàn, những đêm mưa tuôn gió lớn, càng bổng trầm chua xót thế nào!...
Hai người em gái, trái lại, tính khí bao giờ cũng thản nhiên vui vẻ, bởi họ chưa từng bị nỗi thất tình thấm thía như ông anh. Nàng thứ nhất Huyền Cơ, thanh rất trong, âm rất tinh nhưng hơi kém bề diễm lệ; nàng cũng đẹp, song chỉ đẹp một cách dễ coi, xinh xắn - người nhỏ nhắn mà da ngăm ngăm - không lấy gì làm khuynh quốc khuynh thành.
Nàng thứ hai, Oanh Cơ thì là công trình tuyệt mỹ tuyệt xảo của Hóa Công, gồm cả thanh âm lẫn nhan sắc. Ðó là một người đà bà độc nhất vô nhị trong một thời, mà cứ trong khoảng năm sáu trăm năm, mới được gặp một lần trên cõi phàm tục. Con người ấy chả kém gì Tây Thi, Muội Hỉ, Ðắc Kỷ, quý Phi, nàng đẹp, một vẻ đẹp oái ăm, huyền bí, oanh liệt, lại dịu dàng, tựa hồ đấng thiêng liêng đem hết cả bao nhiêu tinh túy của non sông cây cỏ mà chung đúc vào nhan sắc ấy. Tóc nàng là một đám mây thu chan chứa những vẻ êm đềm mơ mộng; mỗi lần làn tóc ấy xõa tung chấm gót, thì rõ ràng là một dải hắc tuyền cuồn cuộn, óng ả, nhẹ nhàng; nét bút họa công khi vẽ đến phải cả quyết, lại ngập ngừng, làm thế nào cho suối tóc nõn nà đen mượt kia cũng phảng phất giống một đám lục vân nặng trĩu những niềm u uẩn, mà phủ lên một hình hài tiên nữ, muôn phần yểu điệu, thanh kỳ...
Nói đến khổ người của mỹ nhân. Tả làm sao cho hết mọi vẻ siêu phàm, xuất chúng? Nội trong các bậc giai nhân trong lịch sử, mỗi người đẹp một vẻ riêng, như Thúy Kiều khác với Thúy Vân, Tây Thi khác Trịnh Ðán, dẫu cùng "mười phân vẹn mười" cả. So sánh nà Oanh Cơ với các giai nhân đó, cũng chưa biết nàng kém xa họ, hay họ phải lu mờ trước vẻ mỹ lệ của nàng. Chỉ biết nàng không béo mập tựa Dương Quý Phi, cũng không ẻo lả, mai cốt cách, liễu dung hình như mấy ả tiểu thư bị nhốt trong cung cấm. Oanh Cơ là một người tầm thước, hơi mảnh khảnh dong dỏng cao, lưng ong, ngực nở, thực là "trúc mọc sân đình". Ông Tạo Hóa đã muốn cho ai đẹp, thì cái đẹp đó gồm đủ muôn vẻ mỹ miều, từ tiếng nói nụ cười cho đến nét đi điệu đứng, không cái gì là không ngộ không tươi. Oanh Cơ là một thiếu nữ có hạnh phúc được Hóa Công ban cho muôn vẻ mỹ miều ấy. Thoạt đến tuổi 15, 16, ai trông thấy nàng cũng phải tấm tắc khen ngợi.
Các con gái thời cổ nhất là con gái thôn quê, yếm sẻ, váy hàm ếch, dây lưng sồi, áo vá vai, khăn mỏ quạ, thì mấy chị trông "sạch nước cản"; mà dù có sạch nước cản, thì nào đâu đã có các màu mè bề ngoài để tăng nhan sắc của mình? Phàm giả đã mặc váy, mặc yếm, quần áo lòa xòa, khăn khố sùm sụp, thì bao nhiêu nét yểu điệu, bao nhiêu đường óng ả, mà trời đã phó cho để gợi tình cảm của bọn đàn ông, chúng nó đều bị giấu kính cả đi, đè nén không cho lộ ra được thế thì lấy gì mà tô điểm trau chuốt cho nhan sắc, một mai, khuynh quốc với khuynh thành? Theo cổ tục, con gái không được để ngực phồng lên mà mang tiếng, phải buộc giải yếm cho chặt, mặc yếm cho sát, làm thế nào cho ngực bằng phẳng, lép kẹp đi thì thôi. Bị tục lệ hủ lậu ấy bó buộc, có được phô trương vẻ lộng lẫy thiên nhiên củ tấm ngực mình đâu mà chăm chút cho nó đẹp?...
Nàng Oanh Cơ là một thiếu nữ đã chịu ẩn mình sau thứ quần áo thô lỗ ấy, vậy cho nên nhan sắc nàng mới gìn giữ được lâu bền. Nếu không, ắt hẳn từ lâu kia, nàng không còn tuyết trong giá sạch nữa! Nàng càng khó lòng giữ gìn trinh bạch, vì nàng là một cô đầu! Cái bộ y phục cổ hủ của nước Nam ta thuở xưa, tuy nó có nhiều điều bất tiện và thiếu mỹ thuật, song nó cũng có chỗ ích lợi. Nhất là Oanh Cơ!
Vẻ đẹp tuyệt diệu của nàng, mãi sau này mới có người nhận biết; còn khi nàng chưa xuất giá, chỉ một mình nàng, Huyền Cơ được rõ mà thô! Huyền Cơ đã say mê sắc đẹp của Oanh, tự ví mình như một nô tỳ mà coi em như một nữ chúa đáng thờ đáng kính...
Không tài nào tạc đúng pho tượng tuyệt mỹ của nàng Oanh Cơ được, người ta chỉ nên dùng sự tưởng tượng vẽ trong không gian và thời gian một thân hình Vệ Nữ Á Ðông, một thứ vệ nữ nhỏ nhắn, xinh xinh, mềm mại dịu dàng, mà cũng nghiêm trang, oanh liệt.
Nhỏ nhắn mềm mại, đó là mấy đức tính của khổ người Oanh Cơ, còn như vẻ lẫm liệt oai nghiêm, chỉ có riêng ở nét mặt giai nhân, nhất là trong đôi mắt. Ðôi mắt ấy trong veo như nước hồ thu những hôm trời quang đãng; đôi đồng tử đen như mảnh huyền không vết, lại sáng ngời như chứa điện ở trong. Con mắt là dăm dài dài như mắt bồ câu; có lúc là đà ngây ngất như mắt chim thư gọi chim hùng, có lúc đăm đăm mơ mộng như hướng về cõi xa xăm, lại có lúc trông sâu sắc bí mật như đượm vẻ lạnh lùng dữ dội. Cũng vì đôi mắt giai nhân, mà nó hiện ra muôn vẻ diễm lệ dịu dàng.
Tất cả tinh thần và nguyện vọng u uẩn của một người đàn bà, chúng nó như nấp ở cả sau con mắt, có lắm khi hiện ra rõ rệt, trông mắt là đoán được người. Dù đẹp tinh thần hay đẹp vật chất, cái đẹp ấy cũng chỉ ở đôi mắt; sở dĩ so sánh các giai nhân, cũng toàn là cân nhắc giá trị của đôi mắt đó mà thôi!
Ðôi mắt sắc sảo, tuyệt mỹ của Oanh Cơ, đã đẹp mà lại còn được cái miệng tươi đỏ của nàng phụ thêm để tăng dung nhan nàng lên mãi mãi. Cái miệng đó có đôi môi son thắm hơi cong lên như một vành cung. Bao giờ nó cũng tươi, cũng đẹp, cũng như đóa hoa hồng hàm tiếu.
Oanh Cơ không những chỉ có sắc đẹp, mà nàng lại có thanh nữa. Nàng hát rất hay, giọng trong trẻo, đầm ấm, khi não ruột lúc lâm ly, dịp khoan dịp nhặt, điệu bổng điệu trầm, thánh thót véo von; giọng nàng thật là một cây đàn muôn điệu mà nàng tựa hồ như làm bá chủ tất cả các âm thanh, muốn sai khiến chúng thế nào cũng được.
Những hôm ngoài trời mưa phùn rả rít, gió bấc vi vu, những hôm mà lòng người tự nhiên cũng thấy bị đè nén nặng nề bực bội, những hôm đó mà được ngồi trong căn nhà cỏ, trước ngọn đèn dầu, cầm chiếc dùi nguyệt quế để gõ vào tiểu cổ, thưởng thức vài khổ hát của nàng Oanh Cơ, thì các thú tao nhã đậm đà của sự thẩm âm rũ sạch lòng mình hết những nổi ưu phiền ô trọc, đưa tâm hồn mình lâng lâng lên cõi thơm tho sáng lạng, tưởng có phải chết sau phút thanh kỳ đó, thực không ân hận tí gì!
Thực vậy, ai đã được hạnh phúc nghe Oanh Cơ và Huyền Cơ hát, nhất là nghe Oanh Cơ thì không bao giờ có thể quên được giọng thanh tao thánh thót ấy. Cái giọng nỉ non âm ỉ, lúc chứa chan tình cảm, lúc man mác buồn... giọng hát ấy trong hơn tiếng trúc, đầm hơn tiếng tơ tinh... Oanh Cơ là một con chim tuyệt quý mà tiếng hót vô song đã làm rực rỡ cả một thời dĩ vãng không tên; nàng là một ca nhi sống trong bóng tối, nhưng tài sắc nàng đã trùm đời, đã khiến đấng Hóa Công tạo ra nàng lại phải ghen với nàng, mà gây ra nỗi thảm họa sau này, tấn bi kịch xảy ra giữa chốn rừng thẳm núi thiêng. Giữa hạt Ðồng Giao độc địa, mà hiện chúng ta đang ở.
Oanh Cơ là kẻ sống sót sau tấn bi kịch ấy. Nàng là một cái mồi ngon mà loài mãnh thú rất thèm thuồng ham muống, chỉ lăm le rình để bắt tha đi. Người đáng quan tâm chú ý nhất trong chuyện này, chính là nàng.
Tai nạn và gặp gỡ
Ông Cai Móm kể tới đây thì dừng lại.
Chuyện mà ngày nay tôi thuật anh nghe môt. cách rành mạch văn hoa như thế, ông Cai đã kể vợ chồng tôi thưởng thức bằng một giọng oang oang cộc lốc, ông chỉ tả qua loa sắc đẹp của hai chị em nàng Oanh Cơ và lối đi hát ngày xưa thế nào.
Nay nhân đêm khuya cao hứng, tôi đem hết cả những sự từng kinh nghiệm nghe biết, thêm vào cho câu chuyện có ý vị hoa hòe, anh cũng nên lượng thứ cho tôi nhé!
Ông Cai Móm sở dĩ im bặt đi không nói nữa, vì xa xa, ông thoáng nghe có tiếng hổ gầm. Ông trầm ngâm lặng lẽ hồi lâu, chú ý lắng tai trong đêm vắng. Một lát, ông cúi sát lại gần tai tôi, nói nhỏ:
-Thầy cô thử lắng nghe xem, có phải có tiếng hổ gầm chăng? Hổ gầm xong, lại vẳng nghe có tiếng đàn bà ca đứt quãng. Thầy cô cứ chú ý một lúc, sẽ nhận rõ ngay.
Tôi và Lệ Thi hết sức chăm chú. Quả như lời ông Cai nói, chúng tôi nghe có tiếng "â â... ô ô u ô ô m m" vang động xa lắm ở trong rừng. Nhưng nghe chỉ có thế thôi, ngoài ra không còn tiếng gì nữa cả. Lắng tai mãi cũng thế, ngoài tiếng dế than trùng khóc, tiếng gió rít lá rơi, chẳng có tiếng hát xướng đàn ca gì cả.
Chán nản, tôi bảo ông Cai:
-Chúng tôi nghe chả thấy gì, chỉ có tiếng hổ gầm ở tận đâu đâu... Lắng mãi chán tai vô ích. Thôi ông kể nốt câu chuyện Oanh Cơ đi, nghe đang thú vị ...
Lệ Thi cũng nói theo:
-Rồi sao thế nào nữa hả ông Cai? Ông vừa nói có tấn bi kịch, bi kịch ấy làm sao, ông tiếp đi!
Ông Cai cầm cốc rượu nếp cẩm, uống nốt nữa phần còn sót lại. Ông vừa để cốc xuống, Lệ Thi vội vàng rót bồi thêm rượu rõ đầy. Ông Cai quen thói, khà một cái rất đắc ý, xong, liếm môi, ông nói tiếp:
Hai nàng Huyền và Oanh Cơ có tiếng hát hay nhất xứ. Trong mấy cuộc hát đình, hát đám, nàng Huyền đã chiếm giải đến chín mười lần, vì có sức hát giọng tốt. Nàng Oanh hát hay hơn chị, song không sung sức, chỉ ca trong nhà được mà thôi, ra đình giọng bé quá, bị tiếng ồn ào át đi, không trổ tài được.
Dù thế mặc dầu, các quan khách đã từng nghe được Oanh, thì không muốn nghe Huyền nữa. Như thế là một sự nhục nhã cho Huyền, thế mà nàng cũng không ghen tị với em, chỉ quý hóa kính phục em thêm mà thôi. Lúc nào có các Thượng Quang, công tử vời đến hát mừng, chị lại nhường cho em, mặc sức em trổ tài cùng quý khách. Nhưng hễ gặp quan viên tầm thường, không phải là người trí thức thế nào Huyền cũng tranh hát, cho em được nghỉ ngơi dưỡng sức dưỡng thần. Oanh Cơ rõ biết lòng chị như vậy, yêu chị như yêu mẹ, yêu anh như yêu cha, ở với chị một niềm kính nhường hiếu thảo.
Tất cả hàng tỉnh, chẳng ai không nức nở khen tài khen đức của nàng Oanh. Phàm các tay thích từ phú thi văn, tất thế nào cũng mời cho được anh em Văn Quản về tận nhà để hát. Hoặc, nếu xa xôi quá khó vời về được, thì lại lần mò lên tận Bàn Thạch để nghe một lần cho biết. Cho nên Oanh Cơ nổi danh khắp cả một vùng Thanh Nghệ tiếng tăm đồn đại đi có nhẽ cả vùng Nam Ðịnh, Ninh Bình.
Trong buổi sinh bình, cha mẹ nàng Huyền và Oanh đã được hân hạnh thừa tiếp Nho Quan tri phủ. Quan phủ xưa kia có nghe thân mẫu hai nàng hát và thân phụ hai nàng đàn. Sau một cuộc thẩm âm, quan phủ nhận biết ông kép già, đương kính cẩn nắn nót cung cầm để vừa lòng ngài, cũng là một nhà nho có tài thi phú, chỉ vì lỗi thời nên phiêu dạt nổi nênh... Sự tri ngộ ấy xui quan viên cùng kép hát dừng cuộc xướng ca để ngâm vịnh với nhau suốt sáng; trống dùi xếp xó những chỗ cho bút nghiên, rồi hai tay thâm nho cùng đọ sức với nhau trong một trường bút chiến thanh tao nhã.Rốt cuộc, quan phủ rất cảm phục tính tình cao siêu và văn tài lỗi lạc của ông kép; nên hai người kết tình bằng hữu. Sau đó quan phủ có tặng cho cha nàng Oanh một hòm trân châu để làm kỷ vật. Còn ông kép già tặng lại bạn một cây sáo ngọc của tổ tiên lưu lại ba đời. Rồi từ đó hai người không gặp lại nữa...
Tuy hai nàng Huyền và Oanh có tiếng hát hay, song hàng tháng mới có một lần được gọi đến hát. Hát hàng tuần suốt ngày hay thâu đêm tới sáng khi tan cuộc chỉ thâu được độ ba quan tiền kẽm không đủ cung khách và chi tiêu. Thiên hạ có phải luôn luôn lúc nào cũng có cuộc vui mừng sung sướng để mượn dịp mà ca hát cả năm đâu!
Bởi thế, cuộc sinh hoạt của ba anh em nàng không lấy gì làm sung túc. Ðã nhiều lần Văn Quản nghe nói ông bạn xưa của cha mình hiện là quan Thượng Thư Chí Sĩ Nho Quan, cũng đã dự định trẩy thăm quan Ðông Các một lần, một là để nối lại mối dây liên lạc bấy nay đứt quãng, hai là để mong có dịp được ngài nghĩ tình đề bạt hoặc cứu giúp cho ít nhiều. Nhưng ngày giờ thấm thoát, đường xá xa xôi, Quản chưa lúc nào rảnh việc nhà mà đi được. Muốn đi, ít ra cũng phải có tiền lộ phí, và có vốn để lại cho hai em sinh hoạt trong dăm tháng nửa năm. Bởi lẽ, anh ra đi, không có ai đàn cho hai em hát nữa, mà mượn một người kép lạ thì bất tiện chừng nào! Cũng vì thế Văn Quản đành nấn ná chưa đi, vì chưa nghĩ được kế gì hoàn hảo cả.
Ðến nay nghe nhà quan Ðông Các có đại tiệc. Quản nhất định thu xếp, bán đồ đạc quý giá trong nhà còn lại, và nếu thiếu, thì vay mượn bà con ít nhiều. Ði kỳ này, tiện thể có mọi cuộc ca vũ, cho cả Huyền và Oanh Cơ đi cùng, khiến hai nàng có dịp trổ tài, ngõ hầu chiếm giải quán quân trong khi thi hát. Quản một mực trù tính như vậy, chỉ đợi thu xếp xong mọi việc là đi. Trong giáo phường, đã có nhiều bạn đồng nghiệp rủ nhau thành một đoàn đông lắm, cùng trỏ hướng Nho Quan thẳng tiếng, đi chen vào với bin sĩ đem lễ vật của quan phủ Thọ Xuân.
Quản rất muốn theo bọn ấy cùng đi có bạn cho vui và cho đỡ lo tai nạn. Khốn nỗi khi họ khởi hành, anh ta chưa gom góp được đủ số tiền lộ phí; trong giáo phường ca nhi đi quá một nửa, ai cũng bo bo giữ lấy vốn riêng để chi dụng ở dọc đường. Hóa nên Quản phải dằn lòng chờ đợi.
Ðợi đến bốn năm ngày mới bán các đồ bảo vật của cha để lại, và thu thập được dăm bảy quan tiền, có thể túc dụng được cho ba anh em trong cuộc Bắc trình. Nhân có tốp lính cơ ở Quảng Hóa cũng đem đồ mừng ra Ninh Bình, nếu kịp tới Ðò Lèn thì gặp họ; Quản bèn sắm sửa hành lý cẩn thận định ngày đưa hai em gái lên đường. Gần đến kỳ xuất hành, không may, Huyền Cơ lâm bệnh, nằm liệt tám chín hôm mới dậy được, chạy thầy thuốc hụt đi mất non một quan tiền.
Khi Huyền khỏe mạnh, có thể xông pha mưa gió được thì tính ra đã chậm mất ngót nửa tháng trời. Có đi nhanh lắm may ra mới khỏi lỡ ngày đại hội ở dinh quan Ðông Các. Ba anh em tức tốc đeo nải quẩy gánh, vội vã lên đường, dẫu Huyền Cơ chưa lấy gì làm cứng cáp lắm. Ði suốt ngày, mỗi đêm chỉ nghỉ có vài giờ, cứ đầu trống canh tư là thức dậy đi rồi, thế mà cũng mất ba hôm mới đến Ðò Lèn, bởi vì hai chị em Oanh Cơ không quen đi bộ nên đi chậm quá. Tới Ðò Lèn, ba anh em vào quán nghỉ chân, đợi xem có đoàn lính tráng nào ra Bắc thì xin nhập bọn cho chắc chắn.
Nhưng đợi đến hai ngày, chả thấy đoàn nào cả. Thì ra họ đã ra Nho Quan từ trước cả rồi. Hiện nay, chỉ còn độ ba hôm là tới ngày đại tiệc, không còn phường hát nào hay đội lính nào chưa khởi hành nữa, có đợi cũng vô ích mà thôi. Lác đác trên đường, chỉ có những tốp dăm ba người đi ra phía Bắc; hỏi ai cũng nói rằng họ đi quanh quẩn trong vùng mà không ra khỏi biên giới. Mãi sau cùng mới bắt gặp một nhóm bảy người cho biết rõ họ buôn gạo tải ra Bỉm Sơn, rồi mua chè ở Bỉm Sơn tải về bán ở các vùng tỉnh lỵ. Anh em Văn Quản buộc lòng phải theo họ; ra đến Bỉm Sơn họ đều rẽ về lối phố Cát, Thạch Thành, để mặc ba anh em trơ trọi lần mò đi về phía đèo Tam Ðiệp.
Từ đây mới bắt đầu cuộc hành trình nguy nan và khó nhọc. Ba anh em sợ hãi không dám đi bạo, cứ phải chờ có ai ra đường ấy mới lủi thủi đi theo.May sao gặp được vài ba người thợ mộc, song họ chỉ đi đến Ðền Sòng mà thôi. Khỏi Ðền Sòng, lúc ấy mới thưa thớt người, không còn ai đi nữa.
Vô kế khả thi, anh em nàng Oanh không biết làm sao cho tiện. Ðành lần mò vào tận trong đền xin ngủ trọ một đêm, rồi nhất định sáng mai vượt qua đèo Tam Ðiệp. Ði suốt ngày, ra công cố sức bước nhanh, thế nào cũng sẽ qua khỏi cái chỗ nguy hiểm ấy. Kẻ cướp thì không sợ mấy, vì anh em nghèo chẳng có gì, có lẽ họ chả thèm đếm xỉa đến; sự đáng sợ nhất, ấy chỉ là ông Cọp, hễ không may gặp phải, thì hết đường chạy trốn kêu van.
Ba anh em cùng thành kính lên cửa đền, quỳ xuống lễ hết tất cả mọi linh vị thờ thánh Mẫu và các thần bộ hạ cùng các ông Hoàng bà Chúa. Khi đến trước thần tượng Bạch Hổ giữ đền, cả ba cùng khấn khứa rất lâu, cầu đức Bạch Hổ phù trì cho giữa buổi xông pha rừng núi, đừng xui xảy ra tai nạn hiểm nghèo nào.
Cái đêm hôm ngủ trọ ở đền Sòn, ba anh em nhắm mắt làm sao cho nổi! Ðền làm ở giữa một nơi rừng sâu núi thẳm, chung quanh toàn là cảnh rùng rợn hoang vu, hễ cứ khuất bóng mặt trời là nghe muôn vàn tiếng kêu, tiếng hú, sợ đến sởn tóc gáy. Những ngày không có hội, thiếu gì loài mãnh thú ác đều qua lại né ngoài đền; thôi thì hùm beo, sói, gấy, bò tót, lợn lòi, chả còn thiếu giống gì đến quấy nhiễu nhân gian, bắt gà, bắt chó, giẫm nát cả ruộng lúa, nương khoai, đến sáng ra, vết chân in trên cỏ thấy rõ mồn một. Bước ra khỏi đền buổi tối trời, tức là tánh mệnh khó toàn vẹn lắm; có đi một lũ đông khi sáng sủa, họa chăng mớ có thể tránh khỏi hàm vuốt beo. Cả đêm chỉ nghe vượn hú, cú kêu, hòa với muôn vàn thứ tiếng khác nghe rất lạ; và, xé vừng không khí, trội hơn tất cả các thứ tiếng, một tiếng "à uộm" rung động cả rừng vang trong đêm tối, dội vào da thịt và xương sống mình một luồng khí lạnh, lạnh hơn hơi lạnh của mùa đông...
Ðương lúc bâng khuâng lo ngại, trời sáng lúc nào không rõ. Ba anh em Văn Quản thấy có ánh bình minh mà vẫn chưa dám đi ra. Ðợi khi mặt trời đỏ chói cả vừng đông, bấy giờ mới quẩy gánh xách nải, giã từ ông bà đồng, lo lắng nần ngại đi lên, trông mé đèo Tam Ðiệp thẳng tiến. Từ Sòng Sơn tới Tam Ðiệp đi còn xa lắm, vả lại ngoằn ngèo khuất khúc chả biết theo hướng nào cho khỏi lạc. Chơ vơ một người anh hai đứa em gái ngơ ngác trên quãng đường rừng hoang vắng, không đánh bạo cố mà đi đến, cũng chả còn kế hoạch gì! Vả lại chung quanh mình, chẳng có ai để dò hỏi cho biết lối, thôi cứ đành nhắm mắt đưa chân, cúi đầu thành kính trước thần linh, rồi phó mặc tấm thấn cho số mệnh, muốn đến đâu thì đến.
Ba anh em đi mãi, hết sức bước nhanh gấp bội, mong sao lên đến Ba Ðèo. Ðường hai bên toàn cây cối và lau sậy. Quản dắt tay Oanh, Oanh dắt tay Huyền im lặng theo gót nhau mà tiến. Ði mãi, đi mãi, hình như đã quá trưa rồi. Nhưng ô hay! Sao chưa thấy ải đèo gì cả? Chỉ toàn một màu ruộng thăm thẳm đường đá quanh co, chả thấy chốc nào lên núi xuống núi cả chỉ thấy ven núi mà thôi. Chết mất! Hay là đã lạc đường rồi.
Văn Quản định thần suy nghĩ. Thôi, phải rồi!Có lẽ lúc ở đền Sòng ra độ chừng mươi dặm, có một chỗ rẽ, một bên về phía Ðông, một bên về phía Tây. Anh em đinh ninh rằng đi ra Nho Quan phải đi chếch theo hướng Tây, thành bây giờ mới tới chỗ này, tiếng mãi mà vẫn không thấy đâu là đèo Tam Ðiệp.
Nhầm thật. Nhưng may còn sớm có thể bước đi lộn lại được, chiều sẽ về đến đền, sáng mai lại ra đi sớm. Cố đi ba ngày, may ra sẽ đến Nho Quan, cũng còn kịp! Vả chăng từ sáng đến giờ, không gặp sự gì rủi ro cả, cướp cũng không mà ác thú cũng không, có lẽ đức Thánh Mẫu đã thương hại phù trì cho đó. Bao giờ xong việc trở về, thế nào cũng sẽ vào đền lễ tạ Thánh Mẫu, không dám quên ơn ngài đã mở lòng từ bi mà săn sóc cho.
Nghĩ vậy, Quản nhủ với hai em quay gót lại, đi ngược trở lại. Ði mãi, đến tận chiều, chân Huyền Cơ và Oanh Cơ sây sứt rớm cả máu. Nghoảnh nhìn tứ phí, nào thấy bóng dáng đền Sòng ở đâu, chỉ có ngàn nội xanh um, cây cỏ cao ngất trời, đường đi thì chỉ là một vệt lờ mờ giữ một bãi rậm rạp, hoang vu. Ba anh em lúc ấy lo ngại đến cực điểm cùng vừa đi vừa niệm Phật, mong sao ra khỏi bãi lau sậy để được thấy bóng đền Sòng.
Ði giời lâu nữa, thì ra khỏi bụi lau, đến một khu đất rộng, cỏ không cao lắm, cây mọc cũng thưa, nhưng toàn là cây cổ thụ rườm rà xanh thắm, to đến vài người ôm. Chung quanh khu bình địa ấy, bốn bề là sườn đồi thoai thoải, rừng rú um tùm, ngày lau trắng xóa. Nghoảnh đầu tìm đường cũ vừa đi buổi sáng, chả biết nó ở tận đâu, kiếm bóng một ngôi đền hay một tòa nhà để nghỉ chân, tìm đến mỏi con mắt thì thôi, chớ chẳng có ngôi nào. Thực là rừng hoang cảnh vắng, chơ vơ ba kẻ lạ đường; không còn biết nương tựa vào đâu nữa.
Giữa đám bông lau gió rung phơi phới, một đàn cò trắng từ đâu vỗ cánh bay về. Từng lớp một, chúng nó bay đến đấy hàng ngàn, hàng muôn, lượn vòng trên không kêu quang quác, lượn mãi rồi mới đậu xuống. Xem có vẻ tối, cũng đủ biết lúc đó đã về chiều. Quả vậy chỉ thoáng một chốc, màu trời thấy sẫm lại, chả bao lâu nữa tối bây giờ.
Trong chốn thung lũng hẻm này, chung quanh đều là ngàn sâu, nội thẳm, ba anh em biết chạy đàng nào. Biết lấy chỗ nào nương thân cho khỏi sợ vuốt hùm móng báo. Một màu cỏ cao, cây rậm, thực là hết kế thoát thân. Oanh Cơ biết rằng khó lòng sống thoát đêm nay nghĩ thương anh chị và thương thân, nên oà lên khó. Huyền Cơ mủi lòng cũng khóc; Văn Quản không can đảm được nữa, ứa hai hàng nước mắt; song cố trấn tĩnh để lo tìm một kế trong trường hợp tối nguy này.
Ðương khi than thở, cả ba anh em bỗng đâu nghe tiếng gọi, làm cho Oanh kinh sợ thất đảm, mặt tái mét đi, ngừng không khóc nữa, chỉ rú lên ôm lấy chị. Huyền cũng sợ hãi như Oanh, cả hai ôm chặt lấy nhau, tưởng đâu ma quỷ trong rừng thiêng hiện lên dọa nạt. Duy Văn Quản, tuy thấy rợn gáy rùng mình, mà vẫn cố giữ vẻ táo bạo, gọi to lên rằng:
- Ai đó, xin làm phúc cứu anh em chúng tôi với.
Quản vừa dứt lời, thì thấy ngay trên cây cổ thụ mọc giữa chỗ ba anh em ngồi nghỉ, một người tráng sĩ vạm vỡ nhảy xuống hỏi chào. Tráng sĩ nói:
- Các ngài cao danh quí tính là gì? Ði đâu mà sa lạc vào đây?
Văn Quản vội vàng đem họ tên và câu chuyện định trẩy ra Nho Quan thế nào nói một lượt cho tráng sĩ rõ. Tráng sĩ nghe xong lắc đầu:
- Chết nỗi! Ðường đi Nho Quan phải theo hướng đông đi ra chợ Ghềnh, sao ông lại không biết! Ở đây là hạt Ðồng Giao, nhưng ở phía Tây, cách đền Sòng còn xa, phải theo lối khác mới tới được. Ðường nãy là đường xuyên sơn đi lên Mường lên Mán, kia mà. Thôi, ông trót lỡ đường rồi, thì phải ngụ tìm ở chốn này một đêm, mai tôi sẽ đưa giúp ông qua đèo Tam Ðiệp. Tôi quê ở vùng Nam Ðịnh, tên là Lê Trọng Việt, bình sinh chỉ thích nghề săn bắn mà thôi. Tôi vào đây săn báo và săn hươu, nên có làm một cái nhà sàn con trên cây này, định đêm nay nằm rình các ác thú đến thung lũng này uống nước thì sửa một mẻ. Vả nay gần ngày vọng, có trăng sáng, bắn sẽ thú lắm.
Tráng sĩ nói đến đây ngừng lại ngửng đầu nhìn lên ngọn cây. Bỗng chàng hít hơi rõ mạnh, rồi nhăn trán lại có vẻ lo nghĩ. Chàng vội vàng bảo Văn Quản:
Bây giờ tôi leo lên trước, thả dây xuống. Ông buộc chặt chẽ vào nách một cô em, tôi kéo lên xong lại thòng dây xuống cho cô khác lên. Sau cùng đến lượt ông. Nếu ông leo được thì, khi tôi đem hai cô lên cả trên cây rồi, ông nên trèo lên ngay đừng chậm trễ nhé! Mà khi thả dây xuống, ông cố làm cho lẹ tay một chút, xin ông nhớ kỹ đấy!
Ðoạn tráng sĩ nhảy lên cây thoăn thoắt; chỉ một chốc đầu dây sa xuống đến gốc cây rồi. Quản và Huyền cùng đồng lòng để Oanh Cơ lên trước, bèn túm nhau lại buộc dây vào nách Oanh. Xong dặn Oanh nắm chặt lấy dây, không được thả. Vừa buộc cho Oanh xong, bỗng thấy một mùi hôi thúi ở đâu xông lên nằng nặc, rồi nghe tiếng một đàn chim khướu ríu rít kêu, bay đậu cả vào cây cổ thụ. Tráng sĩ đứng trên cây, ra sức kéo Oanh Cơ lên tận nhà sàn dựng ở gần ngọn. Oanh vừa sắp tới nơi, một quang cảnh bi đát, khủng khiếp và thê thảm bỗng hiện ra trước mắt nàng và tráng sĩ.
Một con hổ vàng to, từ đâu biết, hình như ở rừng sậy, nhảy sổ lại phía gốc cây, giữa lúc xuất kỳ bất ý. Văn Quản và Huyền Cơ vừa buộc dây xong, đương ngước mắt nhìn theo Oanh Cơ không biết rằng có tai nạn ở ngay cạnh mình. Hổ xông lại chỉ trong nháy mắt, đã thấy dưới gốc cổ thụ có hai xác người đương giãy giụa máu me đầm đìa.
Oanh vừa leo được lên sàn, thấy anh chị bị hại thảm thiết đau đớn quá, lòng như bị xé tan, bào rách; nàng kêu lên một tiếng rồi ngã gục, suýt nữa rơi từ trên cao xuống. Tráng sĩ lúc bấy giờ tay chân luống cuống vì Oanh, không có thì giờ lấy đao lấy nỏ. May sao dây buộc Oanh Cơ còn vướng ở người nàng, nên nàng không bị rớt, tráng sĩ vội vực nàng vào sàn nứa, rồi mới đem ra ba ngọn phi tiêu đứng trên cây ném xuống. Hổ đang ngoạm đùi Văn Quản, bị một mủi phi tiêu ném trúng cổ, một mũi nữa trúng sườn, đau quá, vùng gầm lên một tiếng, bỏ mồi chạy mất. Tráng sĩ phóng theo một mũi tên cắm vào đít hổ, hổ nhảy cao, biến mất vào bụi sậy.
Xác ma cười
Ông Cai Móm ngừng lại, rít một hơi thuốc lào. Câu chuyện đang đến đoạn hay, Lệ Thi nóng ruột vội giục ông nói nốt. Ông Mỉm cười cúi đặt điếu xuống gầm bàn kể tiếp:
Tráng sĩ, lúc ấy thấy cơ sự xảy ra như vậy, bèn đợi một lát, rồi giắt lên lưng một con mã tấu, nhảy xuống xem họa may còn cứu được Văn Quản và Huyền Cơ chăng? Nhưng cả hai đều bị trọng thương, xác tuy còn nóng nhưng tim không đập nữa và đã tắt thở rồi. Ngậm ngùi, tráng sĩ lại leo lên ngọn cây cởi dải lưng buộc chặt Oanh Cơ vào một cành cây to, rồi tháo đầu dây buộc nàng khi trước. Oanh Cơ vẫn mê man bất tỉnh, nằm thiêm thiếp, mặt cắt không còn một hột máu, song hơi thở vẫn đều đều.
Yên trí rằng Oanh không việc gì, tráng sĩ lại trèo xuống, buộc thật nhanh cả hai xác vào đầu dây, rồi vội nhảy lên ngọn cây lập tức. Ðứng từ trên cao, chàng vịn vào một cành to cố sức kéo, đem được hai cái xác lên lưng chừng cây. Xong đâu đấy chàng buộc đầu dây kia thật chắc vào thân cây, để hai cái xác khỏi bị rơi xuống đất. Chàng nghĩ đi nghĩ lại một chốc, sợ khi dây có thể đứt được, vì hai thi hài nặng lắm; nên lại trụt xuống vài bực đến gần tử thi Quản Văn và Huyền Cơ. Chàng đem cả hai anh em để nằm ngang cẩn thận trên cành cây; đầu gối vào một cành, thân dựa vào một cành khác, chân lại gác vào một trà cây. Ðoạn chàng rút dao cắt một đoạn dây, và tháo thắt lưng của cả hai kẻ bạc mệnh buộc họ cho chặt vào cành vì sợ có con vật nào ban đêm đến sục sạo thì cả Quản và Huyền lại rơi xuống đất.
Công việc ấy yên ổn rồi, tráng sĩ mới leo lên sàn ngồi. Chàng vừa vào, thì Oanh Cơ mở mắt hồi tỉnh. Câu hỏi đầu tiên của nàng là về tánh mệnh hai người nàng thương yêu nhất:
- Thưa ông, anh chị của cháu đâu rồi?
- Nằm cả dưới kia. Anh chị cô không may bị hổ vồ đã thác rồi. Nó đang định tha đi thì tôi bắn trúng, nó phải bỏ chạy. Tôi sợ nó ăn mắt thi hài ông và cô hai nên buộc chặt cả vào cành cây dưới này! Chẳng qua cũng là số phận cả, cô chớ than khóc làm gì. Bây giờ có khóc cũng vô ích mà thôi; phải cố dưỡng sức mai còn đi, tôi sẽ đưa cô ra Nho Quan tử tế, cô đừng ngại. Cô nên đi nằm nghỉ một chốc, tôi còn phải ngồi đây canh hai cái xác kia, kẻo nếu có loài ác điểu ác thú khác đến, nó sẽ rỉa ăn đi mất.
Tuy tráng sĩ hết lòng an ủi, Oanh Cơ cũng vẫn ngồi bưng mặt khóc như gió như mưa. Khóc một hồi rõ lâu, nàng mới gạt lệ, thổn thức bảo tráng sĩ rằng:
- Ông đã có công cứu mạng cho tôi, thực là ơn trời bể, tôi lấy gì báo đáp được. Không may cho anh chị tôi lại không được ông cứu nốt, đến nỗi phải vong mệnh một cách thảm thương thế này. Tôi từ bé đã mồ côi cha mẹ, chỉ nương nhờ vào anh chị tôi thôi. Nay anh chị tôi đều thác cả, cô thân trích ảnh, tôi biết làm sao bây giờ. Thực là bơ vơ phận gái yếu hèn, tôi cũng đến chết mất. Mà thà chết theo anh chị tôi còn hơn.
Tráng sĩ nghe nói, động niềm trắc ân, hết sức khuyên dỗ người bạn gái tình cờ:
- Cô đừng lo! Cô đã gặp tôi, tôi xin hết sức che chở cho cô. Nhà tôi tuy không giàu, song đủ bát ăn, cô nếu không chê là chỗ tường phên vách đất, xin cứ về ở với tôi, tôi có mẹ già, sẽ nhận cô là nghĩa nữ, tôi sẽ làm anh nuôi cô. Tôi xin tình nguyện giúp đỡ cô tới khi cô yên bề gia thất. Cô không nên phiền muộn nữa cô ạ.
Tráng sĩ nói đến đây, bỗng nghe có tiếng xào xạc trên cành cây, rồi có tiếng vỗ cánh, Oanh Cơ sợ ngồi thu mình vào mé giữa sàn, im không khóc nữa. Giữa lúc ấy, lại nghe cả tiếng hổ gầm rất to, chừng như ở dưới thân cây, rồi ngửi thấy mùi hôi hám khó chịu. Tráng sĩ nói:
- Hình như con cọp lúc nãy nó trở lại tìm mồi đó! Cô cứ bình tâm ngồi yên lặng đừng sợ hãi gì cả; cứ để mặc tôi với nó. Thử xem con quái kia dám cả gan giở những trò gì nào. Tôi sẽ cho nó một phen tán đởm kinh hồn cho nó biết.
Oanh Cơ ngoan ngoãn nghe lời tráng sĩ, ngồi nép vào một xó, không dám nhúc nhích cựa quậy. Nàng tuy trong lòng đương đau như cắt vì cái chết rất bi đát của anh chị, nhưng nàng cũng cảm thấy, không hiểu vì đâu, một sự đầm ấm trong tâm hồn, tựa như giọt nước cam lồ hay liều thuốc thần tiên làm cho vết thương đau lâng lâng dịu được vài phần. Nàng vẫn nhớ như in trong óc trường hợp thê thảm vừa xảy ra, thương anh thương chị vô cùng, xót xa hận tiếc vô cùng, nhưng nàng cũng tựa hồ thấy một mối liên lạc gì ngẫu nhiên mà thanh khiết ràng buộc nàng với chàng võ sĩ vừa cứu riêng một nàng khỏi bước gian truân. Nàng nửa cảm ơn Trời Phật đã run rủi nàng khỏi thác lại oán trách quỷ thần đã xui khiến cho nàng mất cả anh lẫn chị. Trong lúc cô đơn nàng chỉ biết nương tựa vào tráng sĩ, nàng bớt lo ngại buồn rầu. Nàng nghĩ vẫ vaơ, trong óc man mác không biết bao nhiêu ý tưởng mới lạ, trong người bất thần không biết bao nhiêu cảm giác dị kỳ, những cảm giác không biết từ đâu đến, mà đến từ bao giờ...
Trong bóng tối, Oanh Cơ nghe lời tráng sĩ cố ngồi im lặng; tráng sĩ thì chăm chú canh hai xác chết, rình xem có quái vật nào đến sẽ đuổi đi, hay bắn cho nó một mũi tên thần. Giữa lúc cả hai người cùng trầm ngâm, mỗi người có một hoài bão, mặt trăng ở đâu đã ló đầu qua khỏi núi, tia ra một thứ ánh sáng nhợt nhạt, trắng như mà sữa, biến quang cảnh u tối trong rừng ra một cảnh chứa đầy thi vị.
Có ở giữa chốn rừng cao núi thẳm trong một đêm có trăng sao sáng sủa, mới cảm thấy vẻ mênh mông bát ngát của vũ trụ, vẻ rực rỡ mà huyền bí của non sông, cây cỏ, vẻ êm đềm rùng rợn của nỗi cô đơn quạnh hiu. Bóng cây um tùm bao bọc khắp thung lũng; thảm cỏ xanh bằng phẳng lúc ấy tựa hồ như một mảnh giấy xám rộng rãi bao la, trên có vẽ một bức tranh thủy mạc thiên nhiên, do một họa sĩ lấy bút điểm từng chấm khổng lồ, rồi lại lấy tay bôi thêm ra nhòe nhoẹt. Không thể nào tả được cái sắc của một đêm trăng tỏ, nhất là cái màu đậm không đậm, nhạt không nhạt, xám không xám, vàng không vàng, của các thứ bóng chen chúc nhau, mỗi thứ đượm một vẻ riêng... cho dù một ngọn bút thiêng liêng đến đâu cũng khó lòng hình dung lại cho đúng được.
Trong hoàn cảnh kỳ dị ấy, lại có muôn ngàn thứ âm thanh cũng lạ lùng bí mật như các bóng âm u rùng rợn; bóng kia tưởng chừng như hồn người chết phảng phất hiện về để lượn phiêu dưới đám lá um tùm đen tối, mà tiêng kia tựa hồ như tiếng ma kêu quỷ khóc, tiếng các vong linh oan ức thở dài trong luồn gió thảm vi vu...
Các tiếng kêu, tiếng hú, tiếng gầm thét, rên rỉ, chúng nó xuất phát từ muôn nghiền cửa miệng, muông nghìn cổ họng, của đủ các thứ côn trùng, cầm thú; nó hòa nhau lại để cùng với tiếng vì vèo của hơi thở Tạo Vật, tiếng xào xạc của đám cỏ cây, biến thành một khúc nhạc ảo não, một điệu đàn bi thiết nghe lạnh lẽo thấu tận đáy lòng.
Oanh Cơ ngồi im lặng bên cạnh tráng sĩ, trên cành nứa ở ngọn cây, lần đầu tiên mới được nghe những âm thanh kỳ quặc ghê rợn dường ấy nên trong lòng thấy lo sợ khủng khiếp, ngồi thu mình co rúm lại, sát kề người tráng sĩ, quên cả lễ nghĩa cương thường. Giữa lúc sợ lạnh toát mồ hôi, thiếu chút nữa thì lăn ra chết ngất, còn thần trí nào mà nghĩ đến câu "nam nữ thọ thọ bất thân"? Oanh Cơ trong lòng bối rối đủ trăm điều, phần bồn chồn lo ngại, phần thương chị tiếc anh phần sợ hãi, bấy giờ thực quả là một pho tượng nặn bằng xác thịt loài người mà không có tri thức gì cả. Bao nhiêu tinh thần của nàng bay đi đâu hết, nên nàng cứ đờ ra không cử động nói năng gì được nữa.
Tráng sĩ thì khác hẳn. Quen nghề săn bắn, chàng nhiều phen đã ngủ suốt đêm đến sáng trong rừng. Chàng chả biết sợ là gì, cứ bình tĩnh ngồi bó gối cạnh hai cái tử thi, cặp mắt đăm đăm không chớp. Nhân có ánh trăng vằng vặc, chàng nhận được rất rõ rệt sự vật xung quanh.
Sau khi bắn một con cú xong, nửa giờ sau tráng sĩ lại bắn được một con chồn to luẩn quẩn dưới gốc cây, nhưng chàng không xuống nhặt xác con chồn ấy, định sáng mai lượm lên cũng không muộn. Rồi chàng lại ngồi yên chăm chú lắng tai nghe động tĩnh. Chốc chốc, chàng lấy đá lửa đánh vào bùi nhìu châm đóm hút một khói thuốc lào cho đỡ buồn. Hút xong, chàng có ý tắt lửa ngay, để khỏi bị các loài dã thú nhận được ánh sáng đèn.
Tráng sĩ đương trầm ngâm bỗng cựa quậy, rồi ghé đầu qua mép sàn cúi xuống ngắm nhìn. Chàng bỗng hít mạnh đánh hơi, hít xong thì vội vã sờ vào mé trong sàn lấy cái nỏ và ba bốn mũi tiêu thép cùng với con mã tấu để ngay cạnh mình. Liền lúc ấy, nghe bên rừng sậy phía Ðông có tiếng xào xạc, rồi, vụt một cái, thoáng nhận được một cái bóng dài, to bằng con trâu nhưng thấp hơn, đi lẹ làng êm ái lại chỗ gốc cây cổ thụ. Cái bóng ấy tới nơi, mới trông rõ là một ông chúa sơn lâm, ở sườn có vết máu đỏ hoen mất một đám lông vàng và trắng. Có lẽ là con hổ buổi chiều.
Nó tiến lại gốc cây, đánh hơi ngửi chỗ đất có máu đọng sót lại, cái chỗ mà, cách đó vài giờ, nó đã tát và cấu chết hai anh chị Oanh Cơ. Nàng biết nó đứng dưới sàn, hoảng hốt ôm chặt lấy tráng sĩ, kêu lên một tiếng, tiếng kêu của nàng chỉ là một tiếng rên se sẽ mà thôi.
Tráng sĩ bấy giờ bất đắc dĩ phải che chở cho nàng khỏi phải sợ hãi thái quá nên ôm ngay nàng vào lòng, cho nàng ngồi thu mình gọn trong lòng mình. Rồi chàng ghé mồm sát vào tai nàng, bảo rằng:
- Cô chớ sợ hãi! Ở trong rừng đêm khuya, có kinh sợ cũng vô ích. Lần đầu, cô chưa quen nên thấy khủng khiếp, chớ sau như tôi, nào có biết sợ là gì. Ðã có tôi đây, xin hết sức bảo vệ cô, cô cứ an tâm. Dù con hổ nó có đứng dước chân mình chăng nữa, nhưng nó có làm trò trống gì được? Giá phải con báo thì đáng sợ thật, song là con hổ thì chẳng lo sợ gì, vì nó không biết leo. Ðến việc ngẩn đầu lên nhìn còn khó thay huống gì là trèo lên đây. Cô cứ ngồi im trong lòng tôi cho ấm, như thế cô chẳng còn ngại nỗi gì! Ðể xem con quái này nó giở những thủ đoạn ra làm sao cho biết. Hôm nay vì có cô; tôi đành bỏ một đêm không săn bắn nữa; tôi chỉ ngồi đây phù tá chô chô và chăm nom hai cái tử thi kia mà thôi. Cô cố ngồi yên lặng, đừng hốt hoảng kêu la mà náo động lên, cô nhé!
Như một đứa trẻ con chiều ý mẹ, Oanh Cơ ngoan ngoãn ngồi gục đầu vào vai tráng sĩ. Tráng sĩ có giai nhân ngồi trong lòng, nhưng vì mải mê trông con hổ nên không hề nghĩ gì đến việc càn rỡ cả. Vả chăng, chàng cũng là con nhà thi lễ gia giáo, lại là một tay nghĩa sĩ hào hiệp, có khi nào chàng lợi dụng cảnh ngộ nguy ngập khốn quẫn của một người đàn bà để chiếm đoạt lấy người ta? Chàng ôm Oanh Cơ, ấp ủ cho nàng, chả khác gì chị gái ấp ủ cho em, mẹ ấp ủ cho con.
Oanh Cơ đang ngồi êm ái trong lòng tráng sĩ bỗng níu chặt lấy cổ chàng. Liền lúc ấy trong bầu không khí hiu quạnh tẻ vắng của rừng khuya, bỗng phát ra từ đâu không rõ, như tiếng cười sằng sặt của một cặp vợ chồng ma cù nhau, rú lên một cách vui vẻ lạ lùng. Bạo đến như tráng sĩ, mà chàng cũng thấy rợn tóc gáy. Tiếng cười phát ra như ngay dưới chân chàng; có lẽ con hổ yêu tinh kia đến để dọa nạt chàng nên mới cười lên như vậy.
Oanh Cơ tin chắc trong lòng là ma rừng hiển hiện nên nàng ôm chặt lấy tráng sĩ, úp mặt vào ngực chàng không dám lộ mặt ra nữa. Tráng sĩ định thần một chốc, cúi xuống quan sát chỗ gốc cây. Chàng chả thấy gì, cũng không thấy hổ cười, chỉ thấy nó hình như đang cào đất làm gì không rõ. Ngắm lâu một chút, mới hay dưới đất, ánh trăng vẽ trên thảm cỏ cây cổ thụ và bóng hai xác người nằm ngang trên cành cây.
Con hổ cứ chạy vòng quanh bóng hai cái xác đó. Nó tựa hồ đùa cùng hai chiếc bóng, nó cong đuôi chạy lởn vởn một lúc rồi lại lấy chân trước vờn mặt đất, như cù hai chiếc bóng ấy vậy. Nó lấy trò chơi đó làm một tấn tuồng ý vị, nên chơi nhởn một cách rất chăm chú, sốt sắng, để hết tâm lực vaò cái trò trẻ con ấy. Thực là một bức tranh tương tự như tranh "sư tử hí cầu".
Tráng sĩ biết chính xác ý của con hổ rồi, chàng se sẽ lấy bùi nhùi đánh đá châm lửa; xong thò tay vào một cái túi vải để ở góc sàn phía trong, lấy ra một ống nứa to và dài, ở một đầu có ngòi như ngòi pháo. Chàng buộc ống nứa to và dài ở một đầu dây, giơ bùi nhùi đốt cái ngòi, rồi thòng dây xuống đặt cẩn thận không cho có tiếng động.
Hổ đương mải mê chơi với bóng, không biết gì hết. Anh chàng cúi đầu gầm xuống đất, chăm chú vờn mặt cỏ xanh. Ðương lúc xuất kỳ bất ý, ngòi pháo cháy hết, cháy lan vào đầu diêm sinh trong ống, làm cho ống pháo nổ một tiếng kinh thiên động địa. Hổ bị một phen kinh sợ, tưởng như bị sét đánh ngay giữa đỉnh đầu, không kịp nhìn xem tự đâu có sự lạ xảy ra, chỉ còn đủ thì giờ vật đuôi đánh chát một cái, nhảy bổ lên rồi cong đuôi chạy bán mạng vào rừng, không dám ngoảnh nhìn lại.
Tráng sĩ, đắc ý vỗ tay cười ha hả. Oanh Cơ cũng bị tiếng pháo giật mình ra khỏi cơn khủng khiếp; nàng đương ngồi ủ mặt vào ngực tráng sĩ nghe tiếng pháp nổ bỗng giật bắn người lên, sửng sốt nhìn thì thấy tráng sĩ vỗ tay cười khoan khoái. Tráng sĩ ôm lấy nàng bảo rằng:
Xong rồi! Cô chớ kinh hãi. Ðó là tiếng địa lôi tôi phát ra để đuổi loài mãnh thú kia đi, không cho nó diễn cái trò quỷ quái của nó nữa. Sự này rất lạ, song thực rất thường: cô được chứng kiến lần đầu nên hoảng sợ đó mà thôi. Tôi đã quen với những sự kỳ quặc hơn thế nữa, thành ra chẳng coi cái cảnh tượng đêm nay vào đâu... Bây giờ tôi đã đuổi hổ đi rồi, chúng ta không còn gì để lo sợ nữa. Chúng ta có thể nghỉ ngơi yên ổn, không có giống vật hay loài ma nào mà dám đến quấy phá, cô cứ an tâm, ở đây đến sáng tôi sẽ giúp cô hết cả mọi việc tống táng, rồi sẽ đưa cô qua đèo Tam Ðiệp. Cô nên đi nghỉ một lát, cho khỏe đi.
Tráng sĩ nói thế, nhưng Oanh Cơ cũng vẫn ngồi yên bất động trong lòng chàng. Nàng không dám bước đi đâu hết vì vẫn còn khiếp vía nên không đủ can đảm ngồi một mình dù chỉ một bước. Không nói năng chi cả, nàng ngồi im, gục đầu vào vai tráng sĩ. Tráng sĩ biết rằng nàng không dám lìa chàng nên chàng đành phải ôm nàng mãi trong lòng. Rồi chàng tìm cách an ủi nàng bằng cách kể chuyện cho nàng nghe, ngõ hầu tinh thần nàng bị chăm chú vào câu chuyện mà không còn để ý đến sự việc bên ngoài nữa.
Viết xong tại phố Nghĩa Ðịa Tây,
 7/4 năm Canh Thìn, tức 23-5-1940 âm lịch
Tchya - Ðái Ðức Tuấn
Theo http://chimviet.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đoàn Văn Cừ với hội xuân và những phiên chợ tết Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam ...