Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

Dấu chân trên cát 3

Dấu chân trên cát 3

CHƯƠNG 9 

Tôi nghỉ ngơi tại nhà Horemheb được mấy hôm nhưng hắn vẫn chưa trở về. Một buổi tối, tôi đang ngồi đọc sách thì Kepta đẩy cửa bước vào: 
- Thưa y sĩ, có một người lạ muốn gặp ngài. 
- Ai thế? 
- Người này không chịu xưng tên, chỉ đưa ra vật này.
Kepta xòe bàn tay ra, trên tay hắn là sợi dây đeo cổ có gắn một miếng đá khắc những hình vẽ loằng ngoằng. Đây chính là vật mà Pharaoh Akhenaten đã ban cho tôi trong buổi thiết triều lần đầu nhưng sau đó tôi đã dâng hiến cho Nefer.
Tôi xúc động: 
- Hãy cho cô ta vào.
Kepta dắt vào một người khoác chăn dầy phủ kín từ đầu xuống chân. Tôi run giọng hỏi dồn: 
- Nefer, phải Nefer đấy không? 
- Chính em đây. 
- Tại sao cô lại trùm kín người bằng tấm chăn dầy như thế? 
- Xin y sĩ cứu em với. 
- Chuyện gì vậy?
Người con gái run rẩy bước đến gần, lúc đó tôi mới ngửi thấy một mùi hôi thối nồng nặc từ thân thể cô phát ra. Nefer đưa tay khẽ vén tấm chăn để lộ ra một phần thân thể làm tôi hoảng hốt lùi lại. Trước mặt tôi không còn là tấm thân kiều diễm đã ám ảnh tôi suốt bao năm qua nữa mà chỉ là một khối thịt đầy máu mủ tanh hôi. Nefer ngượng ngùng đưa tay kéo tấm chăn xuống. Bàn tay với những ngón búp măng đeo đầy ngọc ngà châu báu khi xưa nay chỉ còn là miếng thịt đỏ hỏn, không một đốt nào còn nguyên vẹn.
Tôi luống cuống nói không ra hơi: 
- Bệnh cùi… Cô bị bệnh cùi… 
- Y sĩ cứu em với. 
- Tại sao… Tại sao…
Nefer sụt sùi khóc: 
- Em không biết… Mấy năm trước em thấy trong người không được khỏe rồi khắp mình mọc đầy những mụn nhọt, lở loét, ngứa ngáy vô cùng. Sau đó những ngón tay em sưng phồng lên… Em đã chạy chữa khắp nơi nhưng không khỏi. Tài sản dành dụm của em chẳng mấy chốc không cánh mà bay, em bán mọi đồ trang sức để chạy chữa nhưng vô hiệu… Sau cùng em đành trở thành kẻ hành khất lang thang ngoài chợ. Hôm qua em trông thấy y sĩ oai nghiêm ngồi trên cỗ xe đưa Pharaoh về cung, em nghĩ đến cảm tình của y sĩ đối với em ngày trước nên em tìm đến… Xin y sĩ chữa cho em…
Tôi im lặng nhìn người con gái đang run rẩy thu mình trong tấm chăn dầy mà lòng rộn ràng biết bao cảm xúc. Trái tim tưởng như chai đá của tôi lại rung động mãnh liệt hơn bao giờ hết, nhưng lần này nó không phải là sự nồng nhiệt, đam mê như xưa mà là một lòng thương xót vô bờ bến.
Tôi ngập ngừng: 
- Nefer, bệnh cùi rất khó chữa…
Người con gái ngẩng mặt lên nhưng vì khuôn mặt cô vẫn giấu kín sau tấm vải phủ nên tôi không biết cô đang nghĩ gì.
Có lẽ cô nghĩ tôi muốn nói đến chi phí chữa bệnh nên khẩn khoản: 
- Thưa y sĩ… em chẳng còn gì để trả công chữa bệnh nhưng xin y sĩ thương xót cứu chữa giùm cho em…
- Cô đừng lo, hiển nhiên tôi phải chữa cho cô rồi nhưng tôi chỉ có thể ngăn chận không cho bệnh phát ra thêm nữa thôi. Nefer mừng rỡ: 
- Y sĩ… y sĩ… có thể chữa được sao?
- Tôi sẽ cố gắng.
Nefer òa lên khóc: 
- Ngày xưa… em đã không tốt đối với y sĩ nhưng… nhưng… 
- Cô không phải nói nhiều, hãy bỏ tấm chăn ra, tôi sẽ chữa cho cô.
Nefer run rẩy kéo tấm chăn phủ mặt ra. Khuôn mặt yêu kiều với làn tóc mây óng ả khi xưa không còn nữa mà chỉ là một lớp da đầy mủ bám vào chiếc sọ trắng hếu. Đôi mắt nhung huyền mời mọc ngày xưa chỉ còn là hai hố sâu hoắm, nụ cười làm bao người xao xuyến chỉ là một khối xương thịt bầy nhầy.
Tôi phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh. 
- Này Nefer, tôi tiếc là chỉ có thể chữa cho cô khỏi bệnh, nhưng không thể giúp cô lấy lại vẻ đẹp ngày xưa được. 
- Xin y sĩ cứu em… em không muốn chết… 
- Cô đừng lo, tôi có thể chữa được bệnh này.
Sau khi xức thuốc và băng bó cho Nefer xong, tôi mệt mỏi thở dốc ra: 
- Nefer, hiện nay bệnh của cô sẽ không phát ra nữa đâu, tôi đã sử dụng những liều thuốc cực mạnh để ngăn chận nó rồi… Tôi rất tiếc không thể làm gì hơn.
Nefer khép nép choàng tấm chăn lên người: 
- Cám ơn y sĩ đã cứu chữa cho em. Em không biết phải nói gì hơn… 
- Đây là lọ thuốc để bôi lên người. Khi cô dùng hết lọ thuốc này thì bệnh cũng sẽ thôi phát tác…
Nefer nhìn tôi, sùi sụt: 
- Thưa y sĩ… em muốn xin y sĩ một ân huệ nữa… 
- Cô còn muốn gì?
- Em muốn y sĩ biết rằng khi xưa tuy em có đầy ngọc ngà châu báu quí giá nhưng món em quý nhất là chiếc vòng đeo cổ bằng đá mà hoàng đế Akhenaten đã ban cho y sĩ. Món này tuy không có giá trị hiện vật nhưng y sĩ đã tặng cho em bằng tất cả lòng chân thành nên em luôn giữ nó bên mình. Trọn đời em chỉ toàn những bán buôn, đổi chác, lừa gạt, gian dối. Chỉ riêng y sĩ đã tặng cho em một thứ mà chưa ai hiến tặng cho em… do đó em xin phép được giữ vật kỷ niệm này… 
- Được rồi, cô cứ giữ nó. Tôi đã tặng cho cô kia mà…
Nefer mừng rỡ nhặt chiếc vòng rồi quay người bước ra cửa. Tôi bùi ngùi nhìn theo người con gái đã làm tôi mê đắm năm xưa mà trong lòng dâng lên một cảm xúc khó tả.
Thấy Kepta đang thập thò đứng nhìn, tôi lên tiếng:
- Này Kepta, suốt mười năm nay ta chỉ mong gặp lại Nefer để trả thù. Ta vẫn muốn cô ta phải đau khổ ngắc ngoải, sống không ra sống mà chết cũng chẳng ra chết. Ta đã nghĩ đến những liều độc dược ghê gớm nhất… 
- Hiện nay ông chủ thấy sao? 
- Gặp lại Nefer, ta thấy mình không thể giận cô ta được mà chỉ thấy thương hại. Ta không thể làm gì khác hơn là tận lực cứu chữa bằng tất cả khả năng ta có. Không hiểu sao lòng thù hận nung nấu bao năm qua đã tiêu tan mất… Pharaoh Akhenaten nói đúng, thù hận chỉ đem lại dằn vặt đau khổ cho chính mình và kết quả chỉ là những gì trống rỗng mà thôi. Ta tiếc đã dại dột nuôi một mối hận quá lâu nên phải trả một giá đắt là sống tha hương hơn mười năm nay… Phải chi ta biết trước điều này…
Tôi mệt mỏi đặt lưng xuống giường ngủ thiếp đi. Vài hôm sau, tuy đã nghỉ ngơi tĩnh dưỡng nhưng lòng tôi vẫn dâng lên một nỗi buồn man mác. Sau cùng để giải trí, tôi gọi Kepta thắng ngựa để đi dạo phố. Nhưng khi vừa ra đến phố chính thì tôi đổi ý:
- Này Kepta, có lẽ ta muốn trở về thăm quê cũ.
Chúng tôi nhắm hướng Thebes trực chỉ. Sau một hành trình dài, tôi dừng ngựa trước bờ hồ lớn nằm ở phía đông thành phố, từ đây người ta có thể nhìn thấy những ngôi nhà san sát của Thebes, ẩn hiện dưới rặng chà là. Trong lúc tôi đang trầm ngâm ngắm cảnh quê xưa thì có tiếng cãi cọ vang lên: 
- Thằng kia, ai cho phép mày đến đây câu cá?
Một đám trẻ đang hung hăng bao vây một đứa trẻ trạc mười tuổi ở gần đó. Đứa lớn hơn cả quát nạt: 
- Hồ này là của chúng ta, cá trong hồ cũng thuộc quyền của chúng ta. Ai cho phép mày được đến đây câu cá?
Thằng bé kia sợ hãi, vội đưa rổ cá ra cho đám trẻ nhưng thằng bé thủ lãnh ra lệnh: 
- Tịch thu luôn cả cần câu của nó nữa. Thằng bé sợ hãi, riu ríu đưa cần câu ra. Bọn trẻ kia được thể xông đến lục soát túi quần túi áo của đứa bé. Thấy vẻ mặt nó sợ hãi ngơ ngác, thằng thủ lãnh thích thú ra lệnh: 
- Tụi bay lột luôn cả quần áo nó ra để trừng phạt tội câu cá tại hồ của tao.
Nghe thế tôi xúc động vô cùng. Cả một quá khứ tươi đẹp, ngây thơ và hồn nhiên hiện rõ trong tâm trí tôi.
Tôi quát lớn: 
- Quân sĩ đâu, hãy đánh mấy đứa bé kia vài roi để trị tội ăn hiếp kẻ cô thế.
Binh sĩ hầu cận lập tức thi hành. Bọn trẻ hà hiếp người sợ hãi bỏ chạy, chỉ còn lại đứa bé kia ngơ ngác đứng nhìn. Tôi mỉm cười với nó: 
- Này em bé, ta đã trừng trị những đứa trẻ hung ác kia rồi. 
- Tại sao ông làm thế? 
- Ta không thích việc kẻ mạnh ăn hiếp người yếu.
Đứa bé nhìn tôi rồi lắc đầu: 
- Nhưng ông có làm gì khác đâu, ông ỷ có binh sĩ hầu cận đánh đuổi mấy đứa kia… Tôi giật mình trước câu nói của đứa bé. Kepta tức giận quát lớn: 
- Thằng bé kia, mày có biết mày đang nói chuyện với ai không?
Ngay lúc đó có tiếng gọi vang lên: 
- Tut ơi, con ở đâu?
Đứa bé đáp lại ngay: 
- Mẹ ơi, con ở đây này!
Một phụ nữ tất tả chạy đến, ôm chầm đứa bé vào lòng: 
- Con làm gì thế? Con không nghe lời mẹ, lại đi đánh nhau rồi sao? 
- Thưa mẹ, con đâu có đánh nhau… 
- Mẹ nghe trẻ khóc lóc vang xóm, chỉ sợ có đánh nhau.
Đứa bé vội chỉ tay vào chúng tôi, mách: 
- Tại mấy ông này… đánh chúng nó.
Người đàn bà ngẩng đầu nhìn lên. Dưới ánh nắng rạng rỡ, tôi nhận ra đó chính là Meryt, người con gái bán rượu năm xưa. Tôi kêu lớn: 
- Meryt… phải cô Meryt đó không?
Cô ta trố mắt nhìn tôi rồi xúc động kêu lên: 
- Sinuhe… Ông là… Sinuhe phải không? 
- Chính tôi đây.
Kepta cũng nhận ra người xưa nên vui vẻ nhảy xuống ngựa: 
- Này Meryt, có lẽ cô không ngờ ông chủ tôi lại trở về bình an vô sự…
Tôi chăm chú nhìn Meryt, trông cô vẫn dịu dàng như xưa. Trong lúc tôi đang nhìn thì Tut lên tiếng: 
- Mẹ ơi, mấy ông này là ai thế? Mẹ quen họ hay sao?
Tôi ngạc nhiên: 
- Cô Meryt… tôi không ngờ cô đã lập gia đình…
Meryt nhìn tôi, dường như hờn giận nhưng vẫn nhẹ nhàng nói: 
- Y sĩ đi xa chắc mệt rồi, xin mời y sĩ ghé qua nhà dùng chút rượu giải khát.
Nói xong, Meryt rảo bước đi trước, tôi vội nhảy xuống ngựa đi theo. Quang cảnh Thebes vẫn như xưa, không thay đổi bao nhiêu nhưng tự nhiên tôi cảm thấy nó trở nên xa lạ thế nào. Tôi vừa đi vừa suy nghĩ không để ý đến đường xá cho đến khi Meryt đưa tôi đến trước một căn nhà nhỏ thì tôi mới giật mình sửng sốt: 
- Meryt… nhưng… đây là… căn nhà cũ của cha mẹ tôi… 
- Thưa vâng. Em đã mua lại nó từ người chủ trước.
Tôi đẩy cửa bước vào ngôi nhà quen thuộc mà lòng vô cùng xúc động. Căn nhà được giữ y như xưa với phòng khám bệnh và chiếc hòm gỗ đựng tiền để gần đó. Meryt có vẻ bối rối: 
- Em… em không có thì giờ… dọn dẹp… nên cứ để nguyên thế…
Tôi nhìn lên chiếc tủ thuốc của cha tôi và nhận ra những dụng cụ hành nghề như dao kéo, những hũ đựng dược thảo và chiếc cối xay thuốc vẫn nằm nguyên vị trí cũ. Tôi nhớ mình đã bán tất cả những thứ này để lấy tiền mua vui với Nefer nhưng tại sao chúng lại trở về đây? Meryt ngượng ngùng: - Em… em thấy người ta bày bán rẻ… ngoài chợ nên… mua về…
Kepta tủm tỉm cười, kéo Tut ra phía sau nhà: 
- Này chú bé, ta biết sau nhà chú có một cây chà là rất ngon. Chú leo lên hái cho ta ít quả chà là đi.
Trong nhà chỉ còn mình tôi và Meryt. Tôi ngượng nghịu nhìn quanh: 
- Này cô Meryt… thế anh ấy… đâu rồi? Meryt nhìn tôi dường như trách móc rồi ấp úng: 
- Em… em chưa lập… gia đình. 
- Tại sao?
Vừa nói xong tôi ý thức ngay rằng mặc dù tôi vẫn nói câu ấy không biết bao nhiêu lần nhưng chưa bao giờ nó lại vô duyên đến thế! Meryt im lặng ngượng ngùng nhìn đi chỗ khác.
Tôi ngập ngừng: 
- Thế… đứa bé đó là… con ai?
Meryt hạ giọng nói nhỏ: 
- Em… em đi qua sông Nile, nghe tiếng trẻ khóc và thấy một đứa bé nằm trên giỏ mây thả trôi trên sông. Chắc y sĩ cũng biết… ai cũng có lúc lầm lỡ nên có những giọt máu vô thừa nhận… nhiều người đành bỏ con vào giỏ thả trôi sông, phó thác cho thần sông Nile… Do đó em mang nó về nuôi… Tôi ngậm ngùi nghĩ đến thân phận mình. Tôi cũng là một đứa trẻ vô thừa nhận như thế và nếu cha mẹ tôi không mang về nuôi thì chắc tôi đã nằm trong bụng cá rồi! Tôi đang xúc động thì Tut và Kepta đẩy cửa bước vào với một nắm chà là trên tay:
- Ông ăn đi, chà là trên cây nhà tôi ngon hơn ngoài chợ nhiều lắm.
Tôi bật cười:
- Ta biết chứ, cây chà là này nổi tiếng ngon nhất xóm.
Thằng bé nhìn tôi như dò xét rồi hỏi: 
- Tôi nghe Kepta nói ông là một y sĩ?
- Đúng thế.
- Lớn lên tôi cũng học ngành y để trở thành y sĩ như ông vậy.
- Tốt lắm! Làm y sĩ, chú em sẽ kiếm được rất nhiều tiền.
- Không đâu! Tôi chỉ muốn trở thành y sĩ chữa bệnh cho người nghèo mà thôi.
- Tại sao em lại muốn thế?
- Mẹ tôi dạy rằng sứ mạng thiêng liêng của một y sĩ là làm dịu những nỗi đau khổ của đồng loại. Mẹ tôi còn kể rằng ngày xưa có một người y sĩ rất giỏi, chỉ chuyên phục vụ nhân loại như thế…
Meryt ngượng ngùng gạt đi: 
- Thôi đi, con nói nhiều quá… 
- Nhưng con chỉ kể lại chuyện người y sĩ mà mẹ vẫn kể cho con nghe hàng đêm. 
- Mẹ chú kể như thế nào? 
- Người y sĩ này rất giỏi, cứu nhân độ thế, làm việc tốt, khắp thành Thebes ai ai cũng biết và quí mến. Tiếc thay một hôm ông ta đi lạc đường…
Meryt lại gạt đi: 
- Con hãy ra chợ mua cho mẹ một con cá để mẹ làm bữa ăn đãi khách…
Tut phụng phịu bỏ đi: 
- Chút nữa về, tôi sẽ kể tiếp cho ông nghe. Sau khi đứa bé đi khỏi, tôi quay qua Meryt, dịu dàng nói: 
- Meryt… đứa trẻ nào cũng cần một người cha và nếu cô không chê trách, tôi muốn được làm cha của bé Tut để nuôi dạy cho nó nên người.
Meryt cúi đầu không nói. Tôi nắm chặt tay cô gái: 
- Này Meryt… tôi đã đối xử không phải với cô… 
- Sinuhe, anh là một y sĩ danh giá, đang làm ngự y cho Pharaoh, còn em… em chỉ là một người bán rượu tầm thường… đâu xứng đáng gì… 
- Cô đừng nói thế… 
- Anh là y sĩ thủ khoa trường Khoa Học Của Sự Sống, được khắp Ai Cập kính trọng, tương lai anh đang sáng sủa… 
- Meryt thân mến, tôi đã ngu dại nên bị lôi kéo vào những chuyện thị phi, tuy nhiên tôi đã học được bài học mà tôi cần phải học. Khi xưa vì thiếu hiểu biết nên tôi đã gây đau khổ cho bao nhiêu người, kể cả cô nữa; nhưng hiện nay tôi đã biết giá trị thực sự của chân hạnh phúc… 
- Sinuhe, xin anh đừng nói nữa… 
- Meryt ơi, những chuyện ấy đã trở thành quá khứ; nếu cô sẵn sàng bỏ qua tất cả để xây dựng một cuộc sống mới với tôi… Ngay lúc đó có tiếng vó ngựa dồn dập trước cửa rồi Kepta lật đật bước vào. 
Tôi cau mày khó chịu: 
- Chuyện gì thế? Ngươi không thấy ta đang bận hay sao?
Tôi chưa nói dứt câu thì cánh cửa đã mở tung và một người hầm hầm bước vào. Đó là công chúa Baketamon. Công chúa giận dữ: 
- Này Sinuhe, tại sao ngươi trở về mà không thông báo gì cho ta biết?
Tôi chưa kịp phản ứng thì công chúa Baketamon đã nói tiếp: 
- Ta nghe nói anh ta đã kết thông gia với vua xứ Hitites. Tại sao lúc đó ngươi có mặt mà không khuyên can? Sao ngươi có thể hồ đồ như thế được? 
- Nhưng… nhưng… lúc đó… 
- Ngươi có biết hậu quả của việc này sẽ ra sao không? 
- Thưa công chúa… tôi… tôi… 
- Anh ta là người lý tưởng nhưng ta thì không như thế. Anh ta có thể từ bỏ địa vị Pharaoh để đi theo lý tưởng thờ phụng Aten nhưng công lao gây dựng Ai Cập của gia đình ta đâu thể để cho bọn Hitites hưởng thụ một cách dễ dàng vậy được. Ngươi hãy theo ta về cung, mẹ ta có việc cần nhờ đến ngươi gấp. 
- Thái hậu Taiya ư? Sức khỏe… sức khỏe của bà có sao không? 
- Mẹ ta vẫn khỏe nhưng chẳng vui gì. 
- Tại sao?
- Làm sao mà vui được khi bao năm nay dòng họ ta đều tôn thờ các thần linh, nhất là thần Ánh Sáng (Amun) mà anh ta lại chủ trương chỉ tôn thờ thần linh độc nhất là Thái Dương (Aten) chứ không chịu phục tùng các thần linh khác. Điều này đã gây chia rẽ trong giới giáo sĩ và các quan triều. Việc triều chính chưa yên mà anh ta lại kết thông gia với người Hitites nữa thì thật hết chỗ nói. Ta và mẹ ta đã hết sức khuyên can nhưng vô hiệu. Có lẽ anh ta khùng điên mất rồi. Hiện nay anh ta không chịu nghe ai khuyên giải, may ra có mình ngươi thôi. - Tại sao?
- Tại vì những bầy tôi thân tín của anh ta đều có tham vọng cá nhân nhưng riêng ngươi thì không như thế…
Công chúa Baketamon chăm chú nhìn thẳng vào mặt tôi rồi giằn giọng: 
- Này Sinuhe, hiện nay tuy ngươi không có tham vọng gì nhưng theo thời gian ai cũng thay đổi, phải không? 
- Tôi… tôi không biết… Tại sao công chúa lại hỏi thế?
Công chúa Baketamon cười gằn: 
- Hiển nhiên khi cờ đến tay thì ngươi cũng phải phất chứ! 
- Công chúa… nói gì… tôi không hiểu… 
- Ngươi không cần phải hiểu trong lúc này. Ta muốn ngươi trở về Memphis để khuyên bảo anh ta nên hòa hoãn với bọn giáo sĩ, còn nếu không được thì thẳng tay giết sạch bọn đó đi. Các quan trong triều cũng thế, thấy đứa nào có thái độ chống đối thì giết ngay để diệt trừ hậu họa… 
- Điều này… tôi sợ… không được đâu… Công chúa Baketamon lắc đầu thở dài: 
- Sinuhe, ngươi làm ta thất vọng quá! Mẹ ta nói rất đúng, rằng ngươi cũng hiền lành, khờ dại như anh ta vậy. Một người lãnh đạo quốc gia, một Pharaoh không thể có thái độ ngây thơ dại dột như thế được. Kẻ lãnh đạo phải là kẻ có mưu lược, thủ đoạn, dám làm những việc không ai dám làm. Nếu cần giết người thì giết. Nếu cần hy sinh tất cả, phải sẵn sàng không ngần ngại. Chỉ những kẻ quyết đoán như thế mới làm được việc lớn. Thôi được, ngươi hãy theo ta trở về Memphis, mẹ ta có việc nhờ ngươi.
Tôi đành theo công chúa Baketamon trở về thủ đô. Trên đường, công chúa nói năng lung tung đủ thứ chuyện nhưng tôi chẳng có lòng dạ nào mà nghe vì đầu óc chỉ nghĩ đến Meryt. Tôi chưa có dịp nói hết những điều tôi muốn nói với người con gái hiền lành, chung thủy này. Đoàn tùy tùng hộ giá tôi và công chúa vừa đến trước cung điện thì Horemheb ở đâu bước đến: 
- May quá, tao đang đi tìm mày. Pharaoh muốn gặp mày gấp…
Công chúa Baketamon cau mày khó chịu: 
- Sinuhe đến thăm bệnh cho mẹ ta. Ngươi hãy nói với anh ta để khi khác. 
- Thưa công chúa, kẻ này được lệnh của Pharaoh phải đưa Sinuhe vào triều ngay. Công chúa Baketamon hậm hực: 
- Horemheb, lúc nào ngươi cũng chỉ biết đến anh ta mà thôi. Thôi được, sau khi Sinuhe gặp anh ta xong, ngươi hãy đưa hắn vào nội cung gặp ta.
Công chúa Baketamon vừa đi khỏi, Horemheb nói nhỏ: 
- Mày trở về vừa đúng lúc…
Tôi và Horemheb cùng bước vào trong cung. Khi xưa tôi đã từng đến đây kể chuyện cho hoàng hậu Nefertiti và các cung nữ nghe nhưng lần này tôi thấy cung điện rất vắng vẻ, chỉ có Pharaoh và hoàng hậu Nefertiti đang chờ.
Vừa thấy tôi, Akhenaten đã nói: 
- Ta và Nefertiti đã có với nhau sáu đứa con nhưng chẳng may hai đứa chết sớm. Lần sinh nở sau cùng, hoàng hậu gặp khó khăn, các quan ngự y nói rằng nàng không thể có con được nữa. Ta muốn nhờ ngươi khám lại cho hoàng hậu yên lòng.
Tôi bước đến khám bệnh rồi xem xét, đối chiếu với tài liệu của các quan ngự y trước khi kết luận: 
- Kính thưa hoàng hậu, kẻ nầy đã xem xét rất kỹ và hoàn toàn đồng ý với kết quả chẩn đoán của các quan ngự y rằng ngài khó có con được nữa.
Hoàng hậu Nefertiti im lặng, có lẽ bà đã biết trước nhưng vẫn còn nuôi hy vọng. Akhenaten bảo vợ: 
- Chúng ta đã có bốn đứa con gái xinh đẹp, cần gì phải thêm con trai nữa.
Hoàng hậu Nefertiti run giọng: 
- Em biết thế nhưng… nhưng Pharaoh sẽ không có con trai nối dõi và…
Akhenaten cười lớn: 
- Đó là việc của ta, nàng không cần quá lo như vậy.
Tôi hiểu cái chết của hoàng tử Teay đã gây khó khăn lớn trong việc thừa kế ngôi vị Pharaoh nên hối hận: 
- Kính thưa Pharaoh, kẻ này có lỗi… đã không săn sóc cho hoàng tử… 
Akhenaten lắc đầu: 
- Ngươi không phải bận tâm về việc đã qua này.
Hoàng hậu Nefertiti ngập ngừng: 
- Nhưng… Pharaoh vẫn có thể có con trai nối dõi nếu…
Akhenaten lắc đầu: 
- Này Nefertiti, việc có con trai nối dõi không phải là điều làm ta bận tâm. Tại sao Pharaoh cứ phải là con trai? Con gái không làm Pharaoh được sao? Ai đã đặt ra luật lệ kỳ quái này? Khi xưa Hashepsut là đàn bà mà vẫn làm Pharaoh đấy thôi! Theo ý ta. Pharaoh phải là người có đức độ, xứng đáng để chỉ huy quốc gia chứ không hẳn chỉ là kẻ được thừa kế. Ta sẽ ban hành đạo luật bãi bỏ việc thừa kế này.
Tôi và Horemheb giật mình. Đây là lần đầu tiên một vị vua dám phủ nhận truyền thống thừa kế thiêng liêng đã hiện hữu từ ngàn năm nay như vậy. Hoàng hậu Nefertiti nói nhỏ: 
- Pharaoh không nên khinh xuất. Hiện nay thiếp thấy triều đinh chưa yên. Thay đổi nhiều quá chưa chắc đã có lợi. Hơn nữa các Pharaoh thời trước vị nào cũng có rất nhiều phi tần…
Akhenaten lắc đầu: 
- Này Nefertiti, nàng là người đàn bà đẹp nhất thế giới. Dưới mắt ta, mọi phụ nữ khác đều lu mờ trước nhan sắc và đức độ của nàng. Tuy truyền thống vẫn khuyến khích Pharaoh phải có nhiều phi tần mỹ nữ nhưng ta không như vậy. Từ khi lên ngôi Pharaoh, ta đã cho tất cả cung nữ trở về nhà. Ta không muốn họ phải sống một cuộc đời tẻ nhạt, chán chường trong cung điện rộng thênh thang này.
Lúc đó tôi mới biết tại sao cung điện lại vắng vẻ như thế. Akhenaten giải thích thêm:
- Việc có con trai nối dõi chẳng đáng phải quan tâm. Vấn đề hiện nay là tuy nàng không thể có con được nữa nhưng tâm nàng vẫn còn mong có con. Khi tâm và thân không như nhất thì sẽ sinh phiền não rồi bệnh tật từ đó sẽ phát sinh. Này Sinuhe, ta nói như thế có đúng không?
Tôi chưa trả lời thì hoàng hậu Nefertiti đã cương quyết: - Pharaoh không nên quá lo lắng, thiếp có thể chấp nhận được điều này. 
- Nàng đừng vội kết luận. Liệu nàng có cảm thấy thoải mái khi nhìn thấy những đứa bé trai nô đùa không? Liệu nàng có làm chủ được lòng mong muốn có một đứa con trai không? Chỉ khi nào cả tâm lẫn thân nàng thản nhiên chấp nhận, không ao ước, không mong cầu thì ta mới yên lòng.
Ngay lúc đó, một người nô lệ bước vào nói nhỏ với Pharaoh. Ông gật đầu: 
- Được lắm, hãy cho Smenkere vào!
Được phép, vị tể tướng có khuôn mặt nhăn nheo khắc khổ bước vào. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi và Horemheb đang đứng đó: 
- Kính thưa Pharaoh, hạ thần đã điều tra được kỹ thuật rèn kiếm của người Hitites. Đó là thứ kim loại đặc biệt gọi là thép, được sản xuất từ một xứ ở phương đông tên là Trung Hoa. Những người này đã buôn bán trao đổi kỹ thuật rèn kiếm với người Do Thái. Xin Pharaoh ban chỉ thị để thần lưu dụng những thợ rèn Do Thái này. Akhenaten chăm chú nhìn Smenkere một lúc rồi thong thả đáp: 
- Phải chăng ông muốn ta khởi xướng cho rèn kiếm bằng thứ kim loại mới kia? Chúng ta đã ký hòa ước với người Hitites rồi thì cần gì phải chế tạo thêm vũ khí? Hẳn ông cũng biết ta không muốn gây chiến tranh và tránh sự giết chóc bằng mọi giá… 
- Thưa Pharaoh, tuy chúng ta không muốn gây chiến tranh nhưng việc rèn đúc vũ khí vẫn là quan trọng. Hiện nay người Do Thái đã nắm được kỹ thuật này và chẳng bao lâu nữa các xứ quanh vùng đều có vũ khí bằng thứ kim loại sắc bén ấy, nếu chúng ta không… 
- Không. Ta không chấp nhận việc sản xuất vũ khí như thế. Nếu Ai Cập cho rèn kiếm bằng thứ kim loại này thì người Nubia cũng sẽ làm như thế và rồi người Hitites, người Syria, người Babylon… Nếu chúng ta thi đua sản xuất vũ khí thì không ai có thể tránh khỏi việc đao binh và như thế chỉ có bọn sản xuất vũ khí là được lợi lạc.
- Nhưng nếu các xứ kia đều có vũ khí này, chúng ta cũng cần phòng thủ…
Akhenaten lắc đầu: 
- Vũ khí được chế tạo với mục đích duy nhất là phục vụ chiến tranh. Vũ khí càng sắc bén, lợi hại, người ta càng muốn gây chiến tranh để thử xem sức mạnh của vũ khí đó ra sao. Theo ta, sự phòng thủ hữu hiệu nhất là lòng dân và sự hiểu biết. Không một quốc gia nào dám xâm lăng Ai Cập nếu mọi người dân xứ này đều cương quyết một lòng chống ngoại xâm. Không một ông vua nào dám gây chiến nếu mọi người dân đều hiểu biết rõ rệt thảm họa của chiến tranh và biết rõ tham vọng điên rồ của kẻ lãnh đạo. 
- Nhưng vẫn có những kẻ chỉ huy khôn khéo biết lợi dụng tình thế để thực hiện ý đồ riêng.
Akhenaten chăm chú nhìn Smenkere rồi thong thả: 
- Bất cứ kẻ chỉ huy nào cũng có những lý do riêng để biện minh cho hành động của mình nhưng họ chỉ có thể đánh lừa được một số người lười biếng, dễ dãi, không hiểu biết mà thôi. Những người này sẵn sàng chạy theo những ảo vọng điên rồ, những lý tưởng mơ hồ, những quan niệm trừu tượng hay một lý thuyết vu vơ nào đó. Con người có trí khôn thì phải biết sử dụng nó để phân biệt chứ. Không một kẻ bịp bợm nào có thể đánh lừa cả một quần chúng thông minh, không một dân tộc nào lại gây chiến với một dân tộc khác khi biết rõ hậu quả tai hại có thể xảy ra cho đất nước mình. Không, ta không chấp nhận việc sản xuất vũ khí như thế.
Smenkere im lặng, khuôn mặt nhăn nheo của ông vẫn lạnh lùng như băng đá. Horemheb vội lên tiếng: 
- Thưa Pharaoh, ít ra chúng ta cũng nên nghiên cứu về kỹ thuật rèn kiếm kia để phòng khi hữu sự…
Akhenaten mỉm cười, ôn tồn nói: 
- Các ông đều là những người mà ta hết sức tin tưởng sẽ giúp ta phục hưng Ai Cập. Chúng ta chỉ có thể phục hồi nền minh triết cổ xưa khi biết vượt ra khỏi các quan niệm sai lầm, các truyền thống ích kỷ tai hại, hậu quả của những trận chiến tranh kéo dài suốt bao năm nay. Nếu các ông không thay đổi đường lối suy nghĩ này thì làm sao ta có thể đòi hỏi các quan trong triều phải thay đổi? Nếu triều đình không thay đổi thì làm sao xã hội, quốc gia có thể đổi thay? Nếu chúng ta cứ lo âu, sợ hãi, nghĩ rằng luôn luôn có một kẻ thù rình rập, chỉ chờ dịp hãm hại chúng ta thì làm sao chúng ta có thể tránh được chiến tranh.
Smenkere vội quỳ xuống: 
- Pharaoh nói rất phải, kẻ già này đã sáng mắt ra rất nhiều.
Akhenaten gật đầu:
- Được lắm, chúng ta sẽ có dịp bàn kỹ lại chuyện này. Hiện nay đã đến lúc ta phải thiết triều. Các ông hãy theo ta.
Chúng tôi vội vã theo Pharaoh bước ra khỏi hậu cung. Khung cảnh triều đình vẫn như xưa nhưng không khí có vẻ căng thẳng nghiêm trọng vì một chuyện gì đó. Pharaoh Akhenaten vừa an tọa, tôi đã thấy một giáo sĩ cao lớn bước đến: 
- Kính thưa Pharaoh, mấy năm nay Ai Cập bị hạn hán, mùa màng thất thu, dân tình đói khổ triền miên do hậu quả của việc sao lãng thờ cúng thần linh. Mấy năm nay, các giáo sĩ phái Amun chúng tôi chẳng nhận được chút lễ vật nào, các đền thờ thiếu người chăm sóc, khói lạnh hương tàn, cỏ hoang mọc đầy khắp đền miếu. Chúng tôi muốn xin Pharaoh đến tạ tội với chư thần, dâng cúng lễ vật để tránh cho dân tình khỏi lầm than và tránh cơn thịnh nộ của chư thần.
Horemheb nói nhỏ vào tai tôi: 
- Thằng giáo sĩ này to gan lớn mật, chắc hẳn nó phải có một lực lượng hậu thuẫn nào đó…
Akhenaten thản nhiên:
- Dựa vào đâu mà ngươi cho rằng các thần linh muốn trừng phạt Ai Cập vì ta không dâng cúng lễ vật? 
- Hẳn Pharaoh biết rõ, việc cúng lễ thần linh đã được ghi chép rõ ràng qua các sách vở tôn giáo từ ngàn xưa. Theo truyền thống, mỗi khi hạn hán, mất mùa, các Pharaoh phải đến đền thờ Amun dâng phẩm vật, cầu xin cho quốc gia khỏi thiên tai, hoạn nạn và được thái bình, thịnh vượng…
Akhenaten cười nhạt: 
- Một quốc gia thái bình thịnh vượng, không có chiến tranh là do tài điều khiển của người lãnh đạo chứ chẳng do thần linh nào hết. Khi xưa cha ta vẫn thờ cúng Amun rất cẩn thận mà Ai Cập có thoát khỏi nạn binh đao đâu? 
- Nhưng hiện nay Ai Cập đang gặp thiên tai, hạn hán, mất mùa, nếu đó không phải sự trừng trị của chư thần thì là gì?
- Thiên tai chỉ là thời tiết thay đổi, đến rồi đi, có năm lụt lội thì cũng có năm hạn hán; có năm được mùa thì cũng có năm mất mùa. Điều này chẳng do thần linh nào trừng phạt cả… Ta, Pharaoh của Ai Cập quyết định bãi bỏ các nghi thức thờ cúng quỉ thần. Thay vì dâng cúng lễ vật cho Amun, ta ra lệnh mở kho đụn, phát chẩn cho nạn nhân bị thiên tai. Vì tình trạng đói kém, ta sẽ bãi bỏ thuế khóa trong ba năm liền, và giảm thiểu quân số để cho quân sĩ trở về quê quán làm ăn.
Các quan trong triều xôn xao sửng sốt vì quyết định bất ngờ của Pharaoh. Trong mấy năm nay, Akhenaten đã cho cải tổ guồng máy hành chính nhưng không ai ngờ ông lại táo bạo đi xa đến vậy. Hiển nhiên việc giảm thuế sẽ làm giới quí tộc vốn bất mãn càng bất mãn thêm và việc giảm thiểu quân số sẽ khiến các võ quan bị mất nhiều quyền lực.
Horemheb nói nhỏ với tôi: 
- Pharaoh hấp tấp quá… hỏng việc mất thôi.
Giáo sĩ trưởng phái Amun lắc đầu than: 
- Nếu thế Ai Cập sẽ bị trừng phạt nặng nề…
Akhenaten dõng dạc nói: 
- "Lúc nào bọn giáo sĩ các ngươi cũng mang thần linh ra để dọa nạt. Các ngươi đã biết gì về thần linh? Ai đã đặt ra luật lệ dâng cúng thần linh kỳ quái này? Thần linh nào đòi hỏi như thế? Từ bao năm nay, giới giáo sĩ các ngươi đã nắm độc quyền việc giao tiếp với thần linh nhưng ai đã cho các giáo sĩ quyền lực này? Các ngươi muốn thảo luận với ta về thần linh chăng? Thần linh nào giúp cho Ai Cập khỏi nạn chiến tranh với người Hitites hôm trước? Các ngươi muốn ta dâng cúng phẩm vật cho Amun nhưng ai sẽ là người thụ hưởng những phẩm vật đó? Ai đã đặt ra quyền lợi riêng cho giới giáo sĩ? Từ ngàn xưa, tổ tiên chúng ta đã gây dựng một nền văn minh huy hoàng cho Ai Cập nhưng tại sao hiện nay nó lại thoái hóa đến thế này? Tại sao bao năm nay dân chúng Ai Cập phải chịu đựng chiến tranh liên tiếp, lúc nào cũng lo sợ phập phồng về hiểm họa xâm lăng của người Hitites hay người Nubia? Ai đã gây ra sự sợ hãi, bất an ấy? Phải chăng nó xuất phát từ cái tín ngưỡng xây dựng trên căn bản trừng phạt của thần linh?
Nhân danh thần linh, người ta đã làm đủ mọi chuyện tồi tệ như phê phán nhau, lên án nhau và đổ lỗi cho nhau. Thần linh nào đã dạy con người căm thù, chém giết lẫn nhau như thế? Phải chăng chính các giáo sĩ đã đặt ra những giáo điều kỳ quái này và tiếp tục giải thích nó theo thời thế?
Gặp hạn hán, các ngươi nói là do thần linh trừng phạt rồi đòi dâng cúng phẩm vật để các ngươi hưởng thụ. Cần vật dụng xây cất đền thờ, các ngươi cổ xúy chiến tranh để chiếm đoạt tài nguyên quốc gia khác. Cần nhân công xây cất lăng tẩm, các ngươi đặt ra giai cấp nô lệ và để có nô lệ, Ai Cập phải gây chiến với các nước chung quanh dưới danh nghĩa mở mang bờ cõi. Tóm lại, chỉ có dân chúng là chịu thiệt thòi và các thần linh mang tiếng hung ác. Nếu các ngươi biết rằng mọi sự xảy ra trong thiên nhiên đều có ý nghĩa và biết được những ý nghĩa này chính là mục đích của nền tôn giáo thời cổ mà ta muốn phục hồi. Ta muốn mọi người đều được học hỏi một nền giáo dục hoàn toàn để họ có thể tự biết mình, vì biết mình chính là biết được tất cả. Không có một sự trừng phạt hay đe dọa nào có thể chi phối những người đã tự biết mình, đã biết tự chủ hoàn toàn. Do đó thay vì phải qua trung gian của giới giáo sĩ, ta chủ trương con người cần học hỏi trực tiếp chân lý qua sự hiểu biết chính mình. Thái Dương chính là chân lý vì chân lý là những gì đẹp đẽ và có giá trị muôn đời.
Hàng ngàn năm trước, tổ tiên chúng ta đã chiêm ngưỡng vầng Thái Dương, hiện nay chúng ta cũng nhìn vầng Thái Dương y hệt như thế, và hàng ngàn năm nữa vầng Thái Dương vẫn sáng chói rực rỡ như lúc này. Chân lý không bao giờ đổi thay với không gian và thời gian, chỉ có những giáo điều, vốn là sự phát minh của các giáo sĩ, thì phải thay đổi để thích nghi với hoàn cảnh. Điều này cũng dễ hiểu vì giáo điều chỉ là sự tưởng tượng của giới giáo sĩ, đặt ra để giải thích các hiện tượng trong thiên nhiên mà họ không hiểu được mà thôi. Trời nóng hay lạnh cũng do thần linh đặt ra, trời mưa hay nắng cũng do thần linh đặt ra, nhưng chẳng bao giờ các ngươi tự hỏi thần linh đã đặt nó ra vào mục đích gì? Nếu các ngươi không hiểu được các ẩn nghĩa, các sự kiện ẩn tàng trong thiên nhiên thì không bao giờ các ngươi có thể hiểu được thần linh hết."
Pharaoh Akhenaten ngưng nói, đưa cao chiếc vương ấn lên:
- Ta quyết định bãi trừ các trò cúng tế dị đoan, không dâng cúng thần linh mà cho mở kho phát chẩn cho nạn nhân thiên tai, bãi bỏ thuế khóa trong ba năm liền và giảm thiểu quân số, cho quân sĩ trở về quê quán làm ăn. Đây là quyết định của ta, đúng hay sai sẽ do Osiris phán quyết sau khi ta chết. Các ngươi không cần phải nhiều lời…
Một viên quan vội vã ghi chép mệnh lệnh của Pharaoh. Không khí trong triều trở nên căng thẳng. Gã giáo sĩ trưởng phái Amun nhìn quanh như muốn tìm đồng minh nhưng mọi người e dè, chưa ai dám phản ứng gì.
Akhenaten nhìn quanh triều đình một lượt rồi lên tiếng:
- Ta biết các ông không thích thay đổi nhưng nếu lúc này ta không sắp đặt một đường lối mới, một định chế mới, một căn bản mới thì mọi việc sẽ chẳng bao giờ đổi thay được. Hôm trước ta đã ký hòa ước với người Hitites, lúc này ta muốn từ nay Ai Cập, cũng như các nước lân cận, mãi mãi không bao giờ gặp thảm trạng chiến tranh nên ta quyết định ban hành một số luật lệ mới để chấm dứt các tệ đoan của thời xưa.
Mọi người lại giật mình, không biết Pharaoh sẽ ban hành thêm những luật gì nữa. Thấy các quan hoang mang xôn xao bàn tán, Smenkere vội bước ra dõng dạc: - Pharaoh là người đã được thần linh lựa chọn để cai trị Ai Cập. Bất cứ ngài quyết định thế nào cũng là ý muốn của thần linh. Chúng ta phải triệt để tuân theo mệnh lệnh của ngài, kẻ nào không đồng ý hay muốn bàn luận điều gì hãy nói thẳng ra với ta. Một lần nữa, viên tướng già có khuôn mặt khắc khổ đã bày tỏ lập trường trung thành với Pharaoh. Akhenaten lắc đầu, lên tiếng: - "Smenkere, ông không cần phải làm thế vì hôm nay ta muốn mọi người hiểu rõ đường lối và chủ trương của ta. Các ông cần biết rằng trong thiên nhiên, không việc gì xảy ra do sự ngẫu nhiên tình cờ mà đều có những nguyên nhân sâu xa cả. Tình trạng xáo trộn, lo âu, thù hận, sợ hãi và ghen ghét hiện nay chỉ là những phản ảnh của tư tưởng xuất phát từ nội tâm chúng ta mà thôi. Tình trạng xã hội chỉ phản ảnh tâm tình của những cá nhân sống trong đó. Nếu các cá nhân thay đổi đường lối suy nghĩ thì xã hội sẽ thay đổi theo.
Từ lâu nay ta vẫn muốn sắp đặt một thể chế mới dựa trên những điều ta đã suy nghiệm, tuy nhiên ta còn dè dặt trong việc cải tổ này vì ta biết không ai hiểu ta. Sự kiện người Hitites và Nubia liên kết để chuẩn bị chiến tranh với Ai Cập vừa qua khiến ta thấy rằng nếu không thay đổi ngay trong lúc này thì thật khó có thể đòi hỏi người các xứ kia phải thay đổi. Nếu ta còn duy trì một lực lượng quân sự hùng mạnh thì họ cũng phải duy trì một lực lượng quân sự không kém. Nếu ta lo sợ họ tấn công thì họ cũng lo sợ chúng ta tấn công.
Tóm lại, tất cả đều sống trong lo sợ phập phồng và mọi nỗ lực, tiềm năng quốc gia đều dồn vào việc chuẩn bị cho chiến tranh. Do đó ta quyết định sẽ thay đổi hoàn toàn cơ cấu tổ chức quốc gia để mang lại một nền thái bình thịnh vượng cho tất cả…" Akhenaten thong thả nhìn mọi người rồi nói tiếp:
- "Tuy nhiên nếu đa số các ông đều hài lòng với hoàn cảnh hiện tại thì chẳng bao giờ sự thay đổi có thể xảy ra được. Nếu các ông chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng, chấp nhận nạn bất công, sự sợ hãi, thù hận, bạo động, cũng như hiểm họa ngoại xâm và cho rằng giải pháp duy nhất là luật của kẻ mạnh, thì sự tranh đấu sẽ tiếp diễn mãi mãi, không bao giờ chấm dứt. Nếu xã hội chỉ là một sự đấu tranh giữa kẻ thắng người thua thì chúng ta vẫn tiếp tục đi theo vết xe cũ của một vòng luẩn quẩn từ bao năm nay, không bao giờ thoát ra được. Nếu chúng ta tiếp tục bóc lột những kẻ yếu đuối, lợi dụng những kẻ khờ dại và cho rằng đời là phải thế thì chúng ta không bao giờ có thể tiến bộ được.
Hiển nhiên các ông cho rằng điều này khó thực hiện vì các ông đã được giáo dục rằng đời sống là một sự tranh đấu để sống còn, mạnh được yếu thua và nhiều người đã thành công trong quan niệm này. Nếu các ông chấp nhận khuôn mẫu xã hội đó thì các ông không thể nhìn thấy rằng có một căn bản khác xây dựng trên sự tự biết mình và lòng thương xót nhân loại. Ngày nào các ông còn thành công trong sự bóc lột thì các ông không thể kinh nghiệm được sự đau khổ của kẻ bị bóc lột, nỗi hận thù của kẻ bị đối xử bất công, và những thảm cảnh mà chiến tranh mang lại. Nếu hôm trước ta không khéo léo tránh cho Ai Cập khỏi nạn chiến tranh với người Hitites thì liệu giờ này các ông còn ngồi đây hưởng thụ những tiện nghi sung sướng đó không? Nếu quân Hitites tràn vào Ai Cập thì tình trạng của các ông lúc này sẽ ra sao?" Akhenaten ngưng nói một lúc như để mọi người suy nghĩ rồi mới tiếp tục:
- "Này các ông, chiến tranh với những đau thương thống khổ của nó chỉ là một kinh nghiệm để giúp chúng ta thay đổi đường lối suy nghĩ hiện nay; nhưng trải qua bao năm chinh chiến, chúng ta đã học được gì? Nếu thắng, chúng ta hả hê, sung sướng và thẳng tay đàn áp kẻ thua. Nếu thua, chúng ta chỉ biết căm thù, tức tối và chờ dịp phục hận. Phải chăng chiến tranh đã cho chúng ta thấy rõ những cực đoan của tâm hồn con người. Nếu chúng ta tiếp tục bỏ qua cơ hội học hỏi để thực sự biết mình là ai và mục đích cao quí của cuộc đời là gì thì có lẽ hàng ngàn năm nữa nhân loại vẫn chỉ quanh quẩn với đường lối suy nghĩ vẩn vơ này thôi.
Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi và ta mong các ông sẽ sát cánh cùng ta đặt một con đường mới. Theo ý ta thì Ai Cập phải trở nên một quốc gia hùng mạnh, không phải vì những đạo binh bách chiến bách thắng, không phải bằng những biên cương rộng lớn, không phải bằng những tài nguyên chiếm đoạt hay số nô lệ mang về nhưng là một quốc gia mà trong đó tất cả mọi cá nhân đều biết mình và chịu trách nhiệm về hành động của mình.
Ai Cập phải là một trung tâm văn minh thu hút mọi người khắp nơi tìm đến học hỏi. Ai Cập phải là một nơi mà người nghèo có chỗ trú ẩn, kẻ đói được ăn, kẻ bệnh được chữa trị. Một nơi mà mọi người đều biết chia sẻ cơm áo trong tình tương thân tương ái. Người Ai Cập sẽ không giàu có vất chất nhưng rất dồi dào về tinh thần vì tinh thần là điều mà không ai có thể cướp đoạt được.
Muốn được như thế, mọi người dân Ai Cập cần bắt đầu với chính bản thân mình, phải trở thành ngọn đuốc sáng soi đường cho chính mình. Họ không thể thực hành một cách máy móc những quy tắc hay nghi thức sẵn có mà phải nỗ lực tìm kiếm không ngừng trong nội tâm. Nếu không có sự nhiệt thành này thì không thể có sự thay đổi được. Muốn như thế, chúng ta phải thay đổi hoàn toàn đường lối giáo dục vì hiện nay giáo dục chỉ chú trọng đến việc truyền trao kiến thức chuyên môn và giới hạn cho một số ít người. Điều ta muốn là một nền giáo dục về minh triết, một thứ kiến thức siêu việt qua công phu suy gẫm, để áp dụng vào đời sống. Đây không phải là một điều mới lạ vì ngàn năm xưa, tổ tiên chúng ta đã chú trọng đến nền giáo dục này nhưng theo thời gian, nó đã biến thái, trở thành những lý thuyết trừu tượng, những kiến thức khô khan, không thể áp dụng được.
Từ trước đến nay, việc giáo dục được trao cho các giáo sĩ đảm nhiệm nhưng theo thời gian, các giáo sĩ thiếu công phu hành trì đã lầm lẫn minh triết với kiến thức. Thay vì khuyến khích con người tìm tòi hiểu biết chính mình thì họ đã đưa ra những đường lối vạch sẵn dựa trên những giáo điều khô khan, những kiến thức chết. Thay vì khuyến khích việc phát triển những khả năng sẵn có thì học sinh được nhồi nhét những lý thuyết vô giá tri làm thui chột khả năng tiềm tàng của họ. Thay vì được giáo dục về đời sống thực sự thì học sinh phải lặp đi lặp lại những mẩu chuyện rời rạc nói về tinh thần bộ lạc, quốc gia hay những người đã lập công trên xương máu đồng loại. Một nền giáo dục như thế chỉ tạo tinh thần chia rẽ, hận thù và cổ súy cho chiến tranh hay đào tạo ra những bạo chúa khát máu mà thôi."
Vị giáo sĩ trưởng phái Amun vội lên tiếng:
- Phải chăng ngài muốn phủ nhận công lao của tiền nhân cũng như lịch sử? Akhenaten cười nhạt:
- "Ta không ngờ giáo sĩ như ngươi cũng dám bàn chuyện lịch sử với ta.
Này các ông, lịch sử là những sự kiện được ghi chép lại một cách trung thực, rõ ràng và chính xác về những biến cố đã xảy ra. Tuy nhiên trên thực tế, nó chỉ là những gì được viết lại bởi những kẻ muốn cho hậu thế nhìn họ qua một hình ảnh hay quan niệm nào đó. Phần lớn đều không đúng với sự thật và nếu có ai nghi ngờ hay bàn tán điều gì không phù hợp với quan niệm của họ thì sẽ bị trừng phạt tức thì. Tuy nhiên sự thật là điều không thể thay đổi hay bóp méo được vì nó được ghi nhận trung thực trong lòng người. Một vị minh quân không cần phải cho ghi chép công trạng của mình vì điều đó hiển nhiên rõ ràng và ai cũng biết. Chỉ có những bạo chúa, những kẻ cai trị bằng bạo lực mới lo tô điểm cho mình bằng những chiến công hiển hách để biện minh cho hành động của họ mà thôi. Này các ông, phần lớn lịch sử được ghi chép lại bởi một thiểu số cầm quyền, không muốn hậu thế thực sự biết được họ đã làm gì, mà chỉ đưa ra những lý do chính đáng để bào chữa cho hành động của họ. Thứ lịch sử như thế không phải là sự thật. Thứ lịch sử được ghi chép trên những mồ mả, lăng tẩm lại càng không phải là sự thật. Tuy nhiên sự thật vẫn tiếp tục được lưu truyền trong dân gian qua những bài hát, bài thơ, trong những giai thoại truyền khẩu.
Ta không bao giờ phủ nhận công lao khó nhọc của tiền nhân đã xây dựng Ai Cập, nhưng ta cũng không chấp nhận những lỗi lầm của tiền nhân đã gây ra cho người dân xứ này. Một người lãnh đạo phải có can đảm chấp nhận hành động của mình vì đúng hay sai sẽ do lịch sử phán quyết. Nếu lịch sử được ghi nhận một cách trung thực thì xã hội ngày nay đã khác. Tiếc rằng lịch sử chỉ ghi chép lại chẳng mấy khi chính xác vì đa số người lãnh đạo đều có ý lừa dối thế hệ sau bằng những giai thoại mập mờ, thêu dệt những điều này nọ để bào chữa cho hành động của họ nên thảm kịch lịch sử cứ tái diễn không ngừng. Vì các bạo chúa cho viết lại lịch sử nên thứ lịch sử đầy sai lạc đó sẽ tiếp tục khuyến khích và sản xuất thêm ra những bạo chúa khác. Một xã hội được xây dựng trên sự áp chế, đe dọa, thù hận sẽ phá hoại tâm tính con người, hoặc sinh ra những kẻ thụ động, thờ ơ hoặc những kẻ hung ác, không có nhân tính. Cái thứ căn bản giáo dục sai lạc này sẽ sản sinh ra những người dân ngu dốt và tập thể ngu dốt sẽ có những kẻ lãnh đạo không hiểu biết, đưa quốc gia đến chỗ bại nhược, suy vong."
Akhenaten ngưng nói, đưa mắt nhìn quanh rồi kết luận:
- Do đó ta chủ trương phải thay đổi tất cả, không đi theo những vết xe cũ, không để cho lịch sử tái diễn những trò xưa. Ta muốn ban hành những đạo luật để sắp đặt lại cơ cấu tổ chức, phục hồi nền giáo dục về minh triết và đặt lại căn bản xã hội Ai Cập kể từ nay. Ta mong các ông hãy suy nghĩ kỹ về những điều ta vừa nói và phụ giúp ta trong việc cải tổ lớn lao này.
Thấy Pharaoh sắp chuẩn bị cho bãi triều, Horemheb vội bước ra:
- Kính thưa Pharaoh, trong biến cố vừa qua, y sĩ Sinuhe đã đóng góp công lao rất lớn. Xin Pharaoh cho xét lại tội trạng của y…
Akhenaten chăm chú nhìn tôi rồi thản nhiên:
- Sinuhe quả có công lớn trong biến cố vừa qua nhưng tội trạng ngày trước của y cũng không thể bỏ qua một cách dễ dàng được. Ta quyết định bãi bỏ án tử hình cho y nhưng ta truyền lệnh y phải đến những trung tâm giáo dục của Ai Cập và dành trọn đời để nghiên cứu, học hỏi.
Cả hai chúng tôi đều giật mình, không ngờ Akhenaten lại quyết định như thế. Horemheb muốn lên tiếng nhưng Pharaoh đã giơ cao chiếc vương ấn lên:
- Đây là lệnh của ta, truyền cho Sinuhe phải đến những đạo viện để học hỏi, trau giồi thêm kiến thức. Smenkere đâu, ngày xưa ông đã tiến cử Sinuhe thì kể từ nay ông phải chịu trách nhiệm về sự học hỏi của hắn…
Smenkere ngập ngừng bước ra nói lớn:
- Kính thưa Pharaoh, kẻ này xin chịu trách nhiệm về Sinuhe. Kể từ nay hắn sẽ được đặt dưới sự kiểm soát của kẻ này.
Tôi ngơ ngác chưa biết phải phản ứng ra sao thì Smenkere đã phất tay ra hiệu cho hai người lính đưa tôi ra bên ngoài. Chiều hôm đó, người sĩ quan có khuôn mặt khắc khổ đến gặp tôi:
- "Này Sinuhe, ta đã dặn ngươi rất kỹ nhưng không hiểu sao ngươi chẳng chịu nghe, cứ dính dáng vào những việc thị phi. Định mệnh của ngươi thật lạ lùng, giữa ta và cha mẹ ngươi đã có liên hệ từ trước nên ta vẫn coi ngươi như con, hướng dẫn cho ngươi hết lòng. Horemheb là bạn thâm giao nên hết sức che chở cho ngươi. Pharaoh Akhenaten cũng rất quý ngươi nhưng chẳng hiểu sao lần này ngài lại trừng phạt ngươi như thế!
Ta và Horemheb vừa vào cung xin giảm án nhưng Akhenaten đã truyền lệnh phải đưa ngươi đến Nekhen để học hỏi với các nhà chiêm tinh ngay. Ta không hiểu Akhenaten muốn gì! Ngài là một người lạ lùng hơn tất cả những người ta đã gặp. Hiển nhiên ngài có chủ đích riêng mà một kẻ nhiều kinh nghiệm như ta đây cũng không thể đoán biết được. Thôi, ngươi hãy lên đường và làm đúng những điều Akhenaten căn dặn. Ta hy vọng một ngày nào đó ngài sẽ đổi ý." 

CHƯƠNG 10
Khi tôi đến Nekhen thì phong cảnh vẫn như xưa với những đồi đá trơ trụi nằm dọc theo hai bờ sông Nile. Tôi được đưa đến ngọn đồi cao nhất trên có viễn vọng đài, nơi khi xưa Akhenaten đã thảo luận về khoa chiêm tinh với quan Thiên Giám. Có lẽ đã được thông báo trước nên quan Thiên Giám đã chờ sẵn.
Sau bữa ăn tối, ông đưa tôi lên đài viễn vọng, chỉ lên bầu trời đầy tinh tú lấp lánh:
- Ta được lệnh hướng dẫn cho ngươi về khoa chiêm tinh nhưng ngươi có biết tại sao Akhenaten lại muốn ngươi đến đây học hỏi không?
- Tại sao?
- "Vào thời đại hoàng kim, các Pharaoh thường gửi con cái đến học hỏi với các giáo sĩ, đạo trưởng để được giáo dục những kiến thức cần thiết. Sự giáo dục của một Pharaoh dĩ nhiên phải khác người thường vì người lãnh đạo quốc gia cần phải có những khả năng và đức hạnh đặc biết. Tuy nhiên không phải con cái Pharaoh nào cũng có khả năng học hỏi và không phải giáo sĩ nào cũng có đức độ và khả năng truyền dạy hữu hiệu.
Theo thời gian đã có những sự dạy dỗ sai lạc của các giáo sĩ nhiều tham vọng nên đã có những Pharaoh thiếu hiểu biết. Khi những người này lên địa vị chỉ huy lãnh đạo thì họ đã để cho tham vọng cá nhân chi phối, tạo những lỗi lầm lớn lao trong lịch sử, hậu quả là văn hóa Ai Cập trở nên suy đồi. Khi người chỉ huy tham lam, không có đức độ thì làm sao trách người dưới quyền ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mà quên bổn phận chung.
Theo thời gian, xã hội càng ngày càng suy thoái, con người càng ngày trở nên hư hỏng, chỉ biết tham lam, bóc lột lẫn nhau. Kẻ mạnh hà kiếp kẻ yếu, kẻ khôn áp chế kẻ dại. Việc chém giết, hận thù, bạo động đã trở nên một lối sống bình thường. Từ đó trào lưu cổ xúy chiến tranh ngụy trang dưới hình thức mở mang bờ cõi đã đưa Ai Cập vào một vũng lầy. Tinh thần bè phái, bộ lạc đã tạo ra hận thù giữa người dân các nước và chiến tranh chỉ là hậu quả tất nhiên.
Đối với các Pharaoh, chiến tranh là một hình thức gia tăng quyền lợi cũng như quyền lực qua các chiến lợi phẩm, các nô lệ, các tài nguyên. Đối với các quan lại, chiến tranh giúp cho họ trở nên giàu có, sung sướng qua việc bóc lột những kẻ bại trận để chất đầy hầu bao. Đối với giới giáo sĩ, chiến tranh giúp họ nhiều tài nguyên để xây cất đền đài, thờ cúng chư thần và thêm nô lệ phục dịch. Chỉ có dân chúng thiệt thòi vì nai lưng ra phục vụ chiến tranh và bỏ bê việc trồng trọt, chăn nuôi. Nếu thắng, họ chẳng được thêm quyền lợi gì. Nếu thua, họ sẽ trở thành nô lệ hay nạn nhân chiến cuộc. Tình trạng này kéo dài cho đến khi Pharaoh Akhenaten lên ngôi.
Từ nhỏ, Akhenaten đã là một đứa bé ham học hỏi và thường đến những đạo viện, trung tâm giáo dục để nghiên cứu thêm. Là người thông minh, ông đã quán triệt được những điều mà những bậc trưởng lão cả đời nghiên cứu cũng không biết. Ông đã tìm về mạch nguồn của nền tôn giáo cổ và đi khắp nơi tìm kiếm, học hỏi với các bậc đạo trưởng, những người có trách nhiệm gìn giữ nền minh triết cổ truyền. Akhenaten đã đến thụ giáo môn chiêm tinh với ta nhưng ông đã tự tìm ra những ẩn số, những bí mật trong vũ trụ mà chính ta đây cũng không hiểu. Tuy nhiên ta biết rõ những hoài bão của ông là mang những điều này ra truyền bá rộng rãi cho quần chúng để khôi phục nền minh triết cổ truyền.
Theo lời ông nói với ta, Akhenaten đã chọn ngươi làm kẻ phụ tá để thực hiện lý tưởng đó. Do đó hôm xưa ông đã truyền lệnh cho ngươi đến đây học hỏi nhưng vì lý do nào đó, ngươi đã vắng mặt nhiều năm nay, để mất đi cơ hội hiếm có này. Lần này thay vì ân xá cho ngươi, Akhenaten đã khôn khéo bắt ngươi phải đến đây học hỏi, nghiên cứu…"
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Thì ra Akhenaten đã có chủ trương từ trước. Vị quan Thiên Giám trầm ngâm một lúc rồi nói:
- "Này Sinuhe, thời gian không nhiều đâu nên ta sẽ bắt đầu việc dạy dỗ cho ngươi và ngươi phải chăm chỉ học hỏi. Hẳn người cũng biết, từ ngàn xưa nền văn minh Ai Cập vẫn được xây dựng trên căn bản của khoa Chiêm tinh. Đối tượng của khoa này là vũ trụ hay môi trường hoạt động của muôn loài chúng sinh. Biết được các định luật của vũ trụ là biết được các yếu tố chi phối sự sinh hoạt của muôn loài. Từ đó người ta có thể suy luận ra sự tương quan giữa các sinh vật để hành động theo đúng các luật vận hành của vũ trụ.
Chiêm tinh học là một khoa học rất tinh vi, đã được nghiên cứu và bổ túc bởi các bậc đạo trưởng cả ngàn năm nay. Qui tắc của nó như sau: Vũ trụ không phải là nơi mà các thiên lực biến chuyển một cách ngẫu nhiên mà mọi sự kiện xảy ra đều chịu sự chi phối của một định luật chung. Định luật này chỉ là sự biểu hiện của một sức mạnh thiêng liêng, mà tất cả sinh vật đều là một phần tử của cái sức mạnh thiêng liêng đó. Con người chính là một tiểu vũ trụ so với cái đại vũ trụ bao la kia nên biết được vũ trụ chính là biết được mình. Biết được sự thiêng liêng mầu nhiệm của vũ trụ chính là ý thức được sự thiêng liêng cao quý nơi mình. Do đó việc đầu tiên của một người là học hỏi cái môi trường mình sinh sống để ý thức rõ rệt về mình và ý thức tính chất thiêng liêng nơi mình. Để cho cái tính chất thiêng liêng này nẩy nở, phát sinh trọn vẹn, mọi sinh vật phải biến hóa qua các kiếp sống, để kinh nghiệm tất cả, để thu tập mọi thứ, xuyên qua không gian và thời gian." Từ đó tôi bắt đầu học hỏi về khoa Chiêm Tinh, nhờ thế tôi biết rằng đây là một khoa học rất phong phú, bao gồm căn bản của các bộ môn khoa học trên, nhất là Toán học và Hình học, vì nó là cái chìa khóa để mở cửa vào những kiến thức được ẩn giấu qua những ký hiệu, những biểu tượng huyền bí.
Nhờ nghiên cứu khoa Chiêm Tinh, tôi được biết trái đất chúng ta đang cư ngụ chỉ là một hành tinh trong hệ thống bảy hành tinh quay chung quanh mặt trời gọi là Thái Dương Hệ. Trong vũ trụ có vô số những Thái Dương Hệ tương tự như thế. Tất cả đều được sắp đặt theo những định luật thiên nhiên biến ảo và huyền diệu vô cùng. Theo khoa Chiêm Tinh Ai Cập thì Thái Dương Hệ được cấu tạo bằng bảy chất khí căn bản, mỗi chất khí lại tạo thành một cõi giới riêng biệt. Vì thân thể con người là một tiểu vũ trụ nên nó cũng được cấu tạo bởi bảy chất khí này, nhưng phần lớn đều là những chất khí cấu tạo nên ba cõi giới thấp là Hạ giới, Trung giới và Thượng giới nên con người dễ cảm ứng với ba cõi này nhiều hơn.
Mặc dù những chất khí cấu tạo các cõi đều bao trùm một khoảng không gian chung nhưng vì chúng có sự rung động khác nhau nên mỗi cõi giới đều có chiều đo (dimesion) riêng biệt. Từ ngàn xưa, các đạo trưởng Ai Cập đã di chuyển từ cõi này qua cõi khác nhờ biết nghệ thuật làm thay đổi sự rung động các chất khí tạo nên các thể của họ. Đây là một quan niệm rất khó giải thích, nên các danh sư Ai Cập đã phải sử dụng hình vẽ, biểu tượng ví con người như một cây đàn có bảy dây, mỗi dây có một rung động riêng, tương ứng với một cõi giới. Khi người ta biết tập trung tâm thức, để nó rung động theo một dây đàn nhất định thì họ có thể chuyển tâm thức đi vào cõi giới mà họ muốn đến.
Việc di chuyển đến các cõi giới không phải là đối tượng của khoa Chiêm Tinh nên các tài liệu này chỉ nói phớt qua một cách sơ lược, nhưng vì đã được học hỏi nguyên lý này từ trường Khoa Học Của Sự Chết nên tôi có thể hiểu quan niệm này một cách rõ ràng hơn. Cho đến lúc đó tôi mới hiểu được lời nhắn nhủ của đạo trưởng Ombo: "Nền minh triết của Thánh sư Thoth đã bị phân chia ra làm nhiều phần nhỏ, mỗi phần được giao cho một đạo viện, một môn phái, hay một nhóm người gìn giữ nên ít ai quán triệt được nó một cách toàn vẹn. Ta hy vọng ngươi có thể đi khắp nơi học hỏi những kiến thức này rồi tổng hợp chúng lại và phục hồi nền minh triết cổ xưa. Chỉ có thế, Ai Cập mới tìm lại được nền văn minh huy hoàng thuở trước".
Hôm đó tôi đang học hỏi với quan Thiên Giám thì một người khoác áo choàng màu trắng ở ngoài bước vào: Pharaoh Akhenaten. Chúng tôi giật mình toan đứng dậy thì Akhenaten đã xua tay:
- Này quan Thiên Giám, hôm trước ta quan sát bầu trời thấy có một hiện tượng rất lạ nên muốn bàn riêng với ngươi. Ngoài ra ta muốn biết việc học hỏi của Sinuhe đã tiến bộ như thế nào.
Quan Thiên Giám cung kính:
- Pharaoh quan sát rất chính xác, hạ thần cũng đang muốn bàn với ngài về hiện tượng này.
Akhenaten quay sang tôi:
- Quan Thiên Giám cho ta biết rằng ngươi đã tiến bộ rất nhiều. Ta rất vui lòng. Chắc hẳn ngươi cũng biết ta truyền cho ngươi phải đi khắp các đạo viện, học hỏi, nghiên cứu cũng vì có mục đích riêng.
- Thưa Pharaoh. Kẻ này hết sức cảm ơn ngài đã khoan hồng…
Akhenaten thân mật ngồi xuống bên tôi, thong thả nói:
- "Này Sinuhe, khi trước ta đã bàn với ngươi về việc xây dựng một nền tảng giáo dục mới, một sự giáo dục thực sự chứ không phải chỉ nhồi nhét vài quan niệm trừu tượng hay kiến thức chuyên môn. Nền tảng giáo dục mới này là sự dạy dỗ cho con người trở nên những cá nhân biết rõ về mình, về môi trường hoàn cảnh chung quanh, ý thức sự tương quan giữa mình và môi trường ấy.
Mục đích của nền giáo dục mới này là nuôi dưỡng, vun trồng những mầm mống cao thượng sẵn có, tiềm ẩn bên trong mỗi cá nhân, để nó được phát triển một cách tự nhiên hài hòa với các định luật trong thiên nhiên. Theo ta nhận xét, phần lớn con người trải qua bao năm chinh chiến đã hư hỏng, đã đắm nhiễm các thói hư tật xấu, chịu ảnh hưởng của một nền giáo dục đầy thù hận, ích kỷ nên rất khó thay đổi. Muốn đổi thay, chúng ta cần nhắm vào đối tượng mới là những trẻ ngây thơ, dễ uốn nắn, để giúp chúng thức tỉnh và phát triển những tiềm năng cao thượng sẵn có. Do đó ta có ý muốn giao cho ngươi trách nhiệm giáo dục những đứa trẻ thuộc thế hệ sau này. Bổn phận của ngươi là khuyến khích sự phát triển tự nhiên của những trẻ còn hồn nhiên vô tư để chúng trở nên những người có lòng tốt, có lòng vị tha, biết hướng thượng. Ta biết hoàn cảnh chung quanh cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của con trẻ nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là những người sống gần nó như cha mẹ hay vị thầy dạy dỗ nó. Những người này sẽ giúp cho đứa trẻ biết sống một cách ý thức, khôn ngoan trong mọi hoàn cảnh, và có thể sửa đổi ý nghĩa của hoàn cảnh đó nữa.
Dù cho đứa trẻ gặp hoàn cảnh bất hạnh, đau khổ nhưng nếu nó đã được giáo dục vững vàng thì những khổ đau này có thể giúp nó học thêm tính kiên nhẫn, chịu đựng và phát triển lòng thương đối với những người cùng hoàn cảnh. Dù cho nó gặp môi trường sung sướng, tốt đẹp thì nó cũng không trở thành một người ích kỷ, tự đắc hay dễ dãi với bản thân mình được. Tóm lại, một sự giáo dục chân chính sẽ giúp cho con người phát triển hoàn toàn trong mọi hoàn cảnh.
Này Sinuhe, đây là một công việc hết sức quan trọng. Nó đòi hỏi người thầy phải có một kiến thức rộng, một tâm hồn mẫn cảm, và một lòng thương rộng lớn để có thể giúp học trò phát triển một cách hữu hiệu. Tìm được một người thầy như thế thật không dễ chút nào nên ta đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của ngươi, quan sát xem ngươi giải quyết mọi việc như thế nào, chịu đựng các thử thách ra sao, trước khi quyết định giao cho ngươi trọng trách này." Akhenaten im lặng một lúc rồi tiếp:
- "Này Sinuhe, từ ngàn xưa việc giáo dục vẫn được giao phó cho các giáo sĩ, những người đã hiến mình cho lý tưởng cao đẹp. Tuy nhiên theo thời gian, các giáo sĩ đã không hoàn tất nhiệm vụ này. Đa số đều mắc vào những sai lầm căn bản, không còn ý thức về cái lý tưởng cao đẹp ban đầu nữa. Phần lớn các giáo sĩ đã tổ chức thành những phe nhóm hay môn phái, sống bám vào những giáo lý khô khan, cằn cỗi như một phương tiện sinh nhai. Vì thiếu kinh nghiệm tâm linh, họ đã để cho tham vọng cá nhân chi phối và rồi đi xa hẳn mục đích cao đẹp lúc đầu.
Này Sinuhe, một vị thầy theo đúng nghĩa không phải là người có nhiều kiến thức hay ăn nói lưu loát mà phải là người bạn đồng hành của đứa trẻ, dìu dắt nó như một người ngang hàng chứ không dựa vào một uy quyền nào đó để áp chế nó. Một vị thầy giỏi phải biết đặt mình vào địa vị của đứa trẻ, phát triển cùng đứa trẻ, hiểu biết đứa trẻ, đi sâu vào những vấn đề khó khăn của nó, nhìn ngắm mọi việc xuyên qua con mắt của đứa trẻ, và hoàn toàn hiến mình cho sự giáo dục đứa trẻ ấy. Nếu một vị thầy không tiếp xúc mật thiết với đứa trẻ như thế, thì mọi sự dạy bảo chỉ là những gì hời hợt bên ngoài, một sự lặp đi lặp lại những kiến thức chết, rồi để mặc cho đứa trẻ loay hoay với những khó khăn, sợ hãi và từ đó nẩy sinh tư tưởng thù hận, tạo những hố sâu ngăn cách con người.
Ta thấy tôn giáo Ai Cập suy đồi vì các giáo sĩ chỉ thích đứng ở vị thế đầy uy quyền, đòi hỏi sự kính trọng của học trò. Họ không biết rằng sự kính trọng chân thành xuất phát từ nội tâm chứ không phải sự lặp đi lặp lại những nghi thức hay tuân theo một kỷ luật nhất định. Đó chỉ là những lễ nghi bên ngoài, một sự dối trá hay đóng kịch xuất phát từ sự sợ hãi mà thôi. Con người không ai thích những cái làm họ sợ hãi nên sự giáo dục xây dựng trên căn bản những quyền uy, những giáo lệnh, những đe dọa… không bao giờ là sự giáo dục chân chính được."
Câu nói vô tình của Akhenaten làm tôi nhớ đến hoàn cảnh giáo dục tại Trung Tâm Y khoa Abydos khi xưa. Lúc đó tôi đã bị đối xử tàn tệ bởi những lớp học trò đàn anh và suýt bị đuổi ra khỏi trường nếu không có sự can thiệp kịp thời của Horemheb. Cho đến lúc đó tôi mới hiểu mặc dù nền y khoa Ai Cập đã tiến bộ với biết bao y sĩ tài giỏi nhưng đa số dân chúng vẫn bệnh hoạn, đau ốm lầm than vì hầu hết y sĩ chỉ lo kiếm sống bằng việc bóc lột bệnh nhân, chữa trị cho những người có thể trả tiền mà thôi. Một nền giáo dục dựa trên sự tranh giành, bóc lột lẫn nhau như thế chỉ có thể sản xuất ra những kẻ hành nghề bằng sự đổi chác, mua bán. Đến lúc đó tôi mới thấy thán phục lý tưởng phụng sự người nghèo của cha tôi và tiếc rằng vì thiếu ý thức mà tôi đã rời xa hẳn con đường cha tôi chỉ dạy. Tôi nghĩ đến gia sản khổng lồ xây dựng trong thời gian hành nghề tại Palestine, những mánh khóe hốt bạc, những việc đổi chác, mua bán với bệnh nhân mà không khỏi hối hận về việc làm của mình.
Có lẽ đoán được ý nghĩ của tôi nên Akhenaten nói tiếp:
- "Giáo dục là một phần rất quan trọng trong sự phát triển đời sống. Con người nhìn cuộc đời ra sao tùy thuộc rất nhiều ở sự giáo dục của người đó. Một vị thầy giỏi phải biết làm sao để phát triển những đức tính cao thượng, tốt đẹp nhất của học trò, không bao giờ khêu gợi, kích thích những nhược điểm hay tật xấu sẵn có của đứa trẻ. Bất cứ ai cũng đều có sẵn những tính tốt và xấu, ích kỷ cũng như vị tha. Chỉ cần được khuyến khích là những tính tình này sẽ phát triển mau chóng giống như các hạt giống được tưới nước sẽ nảy nở, tươi tốt. Vì lý do đó, việc khuyến khích các mầm thiện, chỉ dẫn những điều tốt, để con người biết hướng thượng là điều quan trọng của việc giáo dục. Nếu khi còn nhỏ, đứa trẻ được giáo dục kỹ lưỡng về luân lý, đạo đức, được vun trồng săn sóc cẩn thận thì sau này khi trưởng thành, tiếp xúc với đủ mọi ảnh hưởng tốt xấu, nó có thể đương đầu với điều xấu vì đã phân biệt và đủ sức chống lại những cám dỗ.
Vào thời xa xưa, phần lớn Pharaoh đều là những tu sĩ được dạy dỗ cẩn thận và phát nguyện sống theo những lý tưởng phụng sự cao đẹp. Khi già yếu, họ thường chọn những người tài giỏi trong nước thay họ làm Pharaoh để tiếp tục truyền thống phụng sự tốt đẹp này.
Theo thời gian, một số Pharaoh thiếu giáo dục đã đặt ra tục lệ thừa kế thiêng liêng để giành địa vị cho con cháu, cho người trong dòng họ nên từ đó nền giáo dục cũng thay đổi đi rất nhiều. Thay vì được hướng dẫn dạy dỗ về những điều cao thượng tốt lành để trở nên những con người chân thật thì các Pharaoh được giáo dục biệt lập trong nhung lụa, hưởng thụ những tiện nghi vật chất.
Chính lối dạy dỗ thoải mái, sung túc đó đã khiến họ trở nên thụ động. không thể tự mình giải quyết những vấn đề nan giải được nữa. Do đó họ dựa vào sự giúp đỡ của các quan lại để tuyển lựa người từ những đạo viện. Việc lựa chọn này đã vô tình khuyến khích sự tranh đua, giành giật hơn kém. Vì căn bản giáo dục suy đồi như thế nên hầu hết quan lại đều có tham vọng riêng và hậu quả là việc cai trị được đặt trên tinh thần bộ lạc, phe nhóm, môn phái khiến tình trạng tranh cướp, chém giết lẫn nhau đã xảy ra.
Tranh giành nhau chưa đủ, họ quay qua chiếm đoạt tài sản của nước khác, gây chiến tranh khắp nơi. Cuộc chiến đã dẫn dắt con người vào những hố thẳm, phá hủy con người tận gốc rễ, làm mất đi những hạt giống thiện, những căn bản đạo đức. Phần lớn những người thành công nhờ chiến tranh chỉ biết đến chém giết, tranh cướp, giành giật như lối sống duy nhất. Nếu một quốc gia mà đa số nhân sự không còn biết phải trái, tốt xấu vì các mầm mống cao thượng đã bị thui chột thì làm sao có thể phát triển và tiến bộ cho được? Nếu cha mẹ là những người chỉ biết đến hận thù, tranh đấu thì làm sao con trẻ có thể học được lòng tha thứ, thương yêu?
Này Sinuhe, giáo dục không phải là một bức rào ngăn cách con người nhưng là một cây cầu nối liền con người với nhau. Nếu một cái cây còn non phải được che chở uốn nắn để sau này có thể chịu đựng được những đổi thay về thời tiết, những cơn mưa gió phũ phàng thì con người cũng thế. Một đứa trẻ phải được giáo dục cẩn thận từ nhỏ để nó có đủ sức đương đầu với những thử thách của cuộc đời. Thiếu giáo dục thì đứa trẻ sẽ thua trước khi lâm trận, và thiếu hiểu biết thì nó sẽ bị lôi kéo vào những sa ngã vì những ảnh hưởng xấu xa mà nó không biết phân biệt.
Này Sinuhe, giáo dục là điều quan trọng nhất trong việc đổi thay, phục hồi những đức tính cao thượng, tốt lành vẫn ẩn tàng trong tất cả mọi con người. Giáo dục là một tiến trình tổng quát và linh động chứ không thể gò bó trong những quy luật cứng ngắc hay các giáo điều vì nó là một nghệ thuật cần được phát triển từng ngày, từng giờ, từng phút. Vì giáo dục là một nghệ thuật nên những nhà giáo dục không những phải là người có kiến thức mà còn phải là những nghệ sĩ, những người có tâm hồn rộng mở với thiên nhiên, biết rung động theo nhịp điệu của thời tiết, vui buồn với thế thái nhân sinh.
Họ phải là những con người hoàn toàn tự do trong việc nuôi dưỡng huấn luyện những tâm hồn còn non dại, ngây thơ này. Một vị thầy phải biết thích nghi với sự nảy nở của đứa trẻ, phải tiếp xúc với những giai đoạn phát triển của đứa trẻ để dạy bảo và dìu dắt đúng với khả năng tiếp nhận của nó.
Này Sinuhe, ta đã cho xây cất tại Tel El Amarna những vườn cây, những con suối, những hồ nước để sau này nó trở nên một trung tâm giáo dục quan trọng của toàn vùng. Không gì hữu ích cho con người bằng những ảnh hưởng của thiên nhiên và không đứa trẻ nào lại không thích thú những gì sống động như cây cỏ, hoa lá, chim chóc, thú vật. Theo chương trình đã vạch sẵn, ta sẽ đưa tất cả con trẻ về đây để thụ hưởng một nền giáo dục toàn vẹn, không phân biệt đứa trẻ đó phát xuất từ đâu hay gia cảnh như thế nào.
Ngày xưa, việc giáo dục chỉ dành riêng cho các gia đình quí tộc, nhưng ta không chấp nhận một sự phân biệt như thế. Đối với ta, bất cứ đứa trẻ nào cũng đều phải được đối xử công bình như nhau, và ta sẽ giao phó cho ngươi trọng trách chỉ huy trung tâm giáo dục này."
Akhenaten ngưng nói, suy nghĩ một lúc lâu trước khi tiếp tục:
- "Này Sinuhe, hẳn ngươi đã thấy rõ tầm quan trọng của nền giáo dục mà ta đang dự định cho thi hành. Nếu khi xưa các Pharaoh được giáo dục cẩn thận thì dưới sự lãnh đạo của ta, những người dạy dỗ con trẻ cũng phải được giáo dục cẩn thận như vậy và chỉ những người có đức hạnh nhất mới được tuyển chọn làm thầy giáo mà thôi. Ta không muốn các giáo sĩ đảm nhận việc giáo dục nữa vì đa số đều không hiểu giáo dục là gì. Dưới sự huấn luyện của họ, nền giáo dục đã biến thành một phương pháp để họ đạt được mục đích riêng chứ không hướng dẫn con người đạt đến những mục tiêu cao đẹp của đời sống. Thứ tôn giáo thờ thần linh xây dựng trên nền tảng của sự sợ hãi đã khiến con người trở nên thụ động, lười biếng, trơ trơ như gỗ đá, không còn cảm xúc được nữa. Thứ giáo dục xây dựng trên nền tảng của sự áp chế này sẽ khiến đầu óc con người trở thành những khối tư tưởng được nhồi nhét trong một cái khuôn cứng ngắc, được sắp xếp trong những giáo điều riêng biệt, làm mất tự do cũng như nhân phẩm của con người khiến họ không thể thay đổi hay tiến hóa được nữa.
Này Sinuhe, mục đích của đời sống là làm sao để cho tất cả mọi sự phải trở nên linh động, phong phú, dồi dào, kể cả các sự kiện tầm thường nhất. Phải làm sao để cho tiềm lực con người được khai phóng, mở mang khiến đời sống có thêm ý nghĩa. Phải làm sao cho khả năng sáng tạo của con người có thể tuôn chảy mạnh mẽ khắp nơi. Bất cứ người nào cũng phải được hướng dẫn để cho trí thông minh được nảy nở toàn vẹn hầu sử dụng vào những mục đích vị tha, hướng thượng. Giáo dục là khai mở trái tim cũng như khối óc, tạo ra những đường hướng huy hoàng, vô tận để con người có thể xây dựng một nền văn minh tỏa rộng khắp nơi.
Khi xưa thánh sư Thoth đã dạy: "Linh hồn con người vốn vất tử thì tương lai con người phải là những gì huy hoàng, mỹ lệ vô bờ bến". Nếu con người biết sống với đúng ý nghĩa của một con người thì tương lại nhân loại ắt phải huy hoàng chứ không thể nào khác đi được. Do đó nền giáo dục thực sự phải là một sự rèn luyện thân cũng như tâm để con người có thể tự do sống theo nhịp điệu điều hòa của những tiết điệu ẩn tàng trong họ, khiến đời sống trở thành một bản nhạc tuyệt diệu vang lừng khắp nơi."
Akhenaten ngưng nói, cặp mắt ông trở nên mơ màng như đang đắm chìm trong một hình ảnh tuyệt vời nào đó. Một lúc sau ông quay sang quan Thiên Giám, thong thả hỏi: 

- Này quan Thiên Giám, có lẽ ông đã quan sát kỹ về hiện tượng kỳ lạ kia, vậy ông hãy cho ta biết dự đoán của ông như thế nào? Quan Thiên Giám trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Kính thưa Pharaoh, theo sự suy đoán của kẻ này thì đó là một điềm xấu và nó sẽ ứng vào ngài nên kẻ này khuyên ngài hãy thận trọng. Theo sự tính toán của kẻ này thì tháng tới sẽ có nhật thực, ngôi Thái Dương sẽ bị che lấp một thời gian, các bầu tinh tú ở vị trí đối cực sẽ có dịp phát động rất mạnh rồi từ đó sẽ có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ…
Akhenaten gật đầu cắt ngang câu nói của quan Thiên Giám:
- Ta cũng biết trước hiện tượng nhật thực này, nhưng đó chỉ là những sự kiện thông thường của thời tiết, chẳng có gì đáng quan tâm. Dù sao ta cũng tin rằng việc thay đổi của các tinh tú chỉ phản ảnh những thay đổi của đời sống con người mà thôi. Nếu các tinh tú có thể chi phối con người thì hiển nhiên con người cũng có thể ảnh hưởng lên các tinh tú…
- Nhưng khi các tinh tú đối cực với ngôi Thái Dương nằm ở một vị trí nhất định nào đó thì chúng sẽ có các tác dụng hỗ tương rất mạnh, và khi ngôi Thái Dương bị che lấp, dù trong một khoảng thời gian không lâu, nó sẽ tạo cơ hội cho các ảnh hưởng kia phát động mạnh hơn. Kẻ này e ngại rằng thời gian cấp bách…
Quan Thiên Giám rụt rè chỉ lên tấm họa đồ tinh tú treo trên vách mà ông đã phân biệt các chùm sao, sự liên hệ giữa các tinh tú, các chi tiết mà ông tính toán đo lường để đưa ra những điều mà ông dự đoán. Pharaoh Akhenaten chăm chú theo dõi bản đồ rồi lẩm nhẩm tính toán một lúc trước khi lên tiếng:
- Này quan Thiên Giám, có lẽ ông tính đúng đấy…
Akhenaten chưa dứt lời thì có tiếng chân người bước vội lên cầu thang và Horemheb xuất hiện:
- Kính thưa Pharaoh, hạ thần vừa nhận được tin cấp báo…
Horemheb bước đến nói nhỏ vào tai Akhenaten. Pharaoh nhíu mày lắc đầu:
- Có chuyện như thế sao?
- Kính thưa Pharaoh, tể tướng Smenkere đã điều tra kỹ lưỡng và thông báo cho kẻ này…
Akhenaten thở dài:
- Chuyện đã thế, ta phải giải quyết cấp tốc, nếu không sẽ có những hậu qua tai hại không thể lường trước được!
Quan Thiên Giám chỉ tay lên tấm bản đồ, trên đó ghi nhận một ngôi sao vừa tắt với những dòng chữ tiên đoán điều vừa xảy ra: - Nếu kẻ này đoán không lầm thì việc này xảy ra vào trưa hôm qua…
Trong lúc Akhenaten chăm chú theo dõi những chi tiết ghi trên tấm bản đồ thì Horemheb quay qua bên tôi nói nhỏ:
- Giáo sĩ trưởng phái Amun vừa bị ám sát. Một số quan triều ủng hộ phe nhóm Amun cũng bị giết… Hiện nay người ta đồn rằng chính Pharaoh đã cho thanh toán các phần tử đối lập. Điều này gây rối loạn khắp nơi và phe giáo sĩ đang triệu tập những phiên họp khẩn cấp để bàn kế hoạch… Ta vừa cho tăng cường quân sĩ đề phòng một cuộc phản loạn.
Ngay lúc đó Akhenaten quay ra nói với Horemheb:
- Ta phải trở về Memphis ngay, ngươi hãy cho gọi Smenkere đến gặp ta. Chuyện này phải giải quyết cấp tốc chứ không thể để lâu được.
Quan Thiên Giám vội vã lên tiếng:
- Xin Pharaoh hãy bảo trọng, sự việc sắp xảy ra lành ít dữ nhiều…
Akhenaten thản nhiên gật đầu:
- Ngươi hãy yên chí, ta biết giữ mình.
Sau khi Akhenaten và Horemheb đi khỏi, vị quan Thiên Giám già ngồi trầm ngâm, suy nghĩ một lúc rất lâu rồi lên tiếng:
- "Dù Pharaoh có đề phòng cẩn thận nhưng ta vẫn thấy có điều chi không ổn. Ta thường quan sát sự thay đổi biến chuyển của các bầu tinh tú rất kỹ và bàn với Pharaoh. Mọi lần chúng ta thường đi đến một kết luận chung, nhưng lần này ta thấy Pharaoh có vẻ chủ quan hơi nhiều.
Này Sinuhe, từ ngàn xưa, nhờ nghiên cứu về khoa Chiêm Tinh, người Ai Cập đã biết ba động lực quan trọng phát xuất từ ba hành tinh thuộc chùm sao Thần Nông (Orion) có ảnh hưởng rất lớn đến những thay đổi trên mặt địa cầu. Vào những ngày giờ nhất định, ba bầu tinh tú này thường rọi xuống địa cầu những luồng thần lực rất mạnh, do đó các bậc trưởng lão Ai Cập đã cho xây cất ba Kim Tự Tháp nằm ở ba vị trí tương ứng với ba bầu tinh tú kia, để chiêu cảm các động lực thiêng liêng đó.
Từ ngàn xưa, người Ai Cập đã thực hành các buổi lễ điểm đạo huyền bí cho những bậc đạo trưởng trong những Kim Tự Tháp này. Đến thời Pharaoh Narmer, người đã thống nhất Ai Cập và thành lập một chính quyền trung ương, thì ông đã dựa theo qui tắc của ba nguồn thần lực kia mà tổ chức một guồng máy điều hành quốc gia gồm ba động lực chính: Pharaoh, vị lãnh đạo tối cao của dân Ai Cập; các giáo sĩ, lo việc tinh thần và thờ phụng thần linh; các võ quan, chỉ huy lực lượng quân sự có bổn phận gìn giữ an ninh, luật pháp trong nước.
Sự liên hệ và hỗ tương của ba động lực này sẽ giúp đỡ cho việc phát triển nền văn minh Ai Cập. Trải qua hàng ngàn năm nay, việc tổ chức quốc gia theo quy tắc này vẫn không thay đổi nhưng hiện nay ta thấy giữa Pharaoh và giới giáo sĩ đã có những rạn nứt, càng ngày càng trở nên căng thẳng, trầm trọng. Ta lo rằng việc này sẽ đưa đến những hiềm khích và một biến chuyển lớn sẽ xảy ra."
- Pharaoh có biết như thế không?
- Hiển nhiên Akhenaten có chủ trương riêng, do đó lần này chúng ta không đồng ý với nhau. Theo sự nhận xét của ta thì Ai Cập đang bước vào một giai đoạn thoái hóa bởi những ảnh hưởng hắc ám nên việc phục hồi nền minh triết của thời đại hoàng kim là điều không thể xảy ra được.
- Phải chăng Pharaoh Akhenaten không đồng ý với ông?
- "Đúng thế. Ông cho rằng đã đến lúc phải thay đổi toàn diện để đưa Ai Cập bước bào một thời kỳ mới. Hẳn ngươi cũng biết Akhenaten là một con người khác thường. Ông rất thông minh và có một cái nhìn bao quát, vượt xa những nhà thiên văn như ta. Ông cho rằng những kẻ như ta chỉ thấy những sự kiện xảy ra trong một giới hạn chứ không thấy rõ hoàn toàn tiến trình biến hóa của vạn vật.
Tuy cùng quan sát thiên văn nhưng sự nhận xét của ông về việc di chuyển và ảnh hưởng của các bầu tinh tú lại khác hẳn ta. Ông chủ trương phải vượt lên trên những giới hạn thông thường để hiểu được cái trật tự thiêng liêng của tạo hóa. Đây là điều mà ta không thể hiểu nổi…"
Vài hôm sau tôi đang nghiên cứu học hỏi bỗng nhận được lệnh gọi phải trở về Memphis ngay vì thái hậu Taiya đang lâm bệnh nặng. Lệnh này do một tên nô lệ thân tín của công chúa Baketamon cầm đến nên tôi không nghi ngờ gì, vội vã lên đường ngay.
Đến Memphis thì trời đã về khuya. Thay vì đi bằng cửa chính, tên nô lệ đưa tôi vào cung qua một đường hầm bí mật được quân sĩ canh phòng rất cẩn thận. Căn phòng của thái hậu Taiya vắng vẻ, không có cung nữ hầu cận như mọi khi mà chỉ có công chúa Baketamon đang đứng chờ mà thôi. Thái hậu Taiya ngồi trên chiếc ghế bành quen thuộc, một tay bà cầm ly rượu lớn, tay kia đặt lên trên miếng chăn đan bằng loại sợi Phalon.
- Đã lâu lắm ta không gặp ngươi, nghe nói ngươi bị trừng phạt phải đi đến các đạo viện học hỏi thì phải…
Tôi vội bước đến chẩn bệnh nhưng không thấy bà có triệu chứng gì bất thường như lời ghi trên tờ giấy mà tên nô lệ cầm đến. Thái hậu Taiya bật cười:
- Ta cần gặp ngươi vì có việc muốn nói riêng với ngươi nên ra lệnh như thế đó.
- Thái hậu nói gì, thần không hiểu?
- "Ngươi không cần phải hiểu trong lúc này. Hẳn ngươi vẫn biết ta xuất thân là con nhà thuyền chài ở làng Phalon. Năm xưa Pharaoh Amenophis đi dạo sông, thấy ta đang giăng lưới bắt cá nên gọi ta vào hầu. Ta tuy xấu xí chẳng thể so sánh với các phi tần cung nữ nhưng vì khỏe mạnh, ta làm Pharaoh vui lòng nên được đưa vào cung. Chỉ vài hôm ta đã thấy cuộc sống huy hoàng lộng lẫy trong cung chỉ là một bãi chiến trường với các nhóm phi tần, cung nữ tranh giành ảnh hưởng để được ơn mưa móc của Pharaoh. Phần lớn những người này được tuyển chọn từ các gia đình quyền quí, những người trong hoàng tộc. Họ được nuôi dưỡng, huấn luyện từ nhỏ để trở thành phi tần, cung nữ nên ít ai biết gì về các thủ đoạn gian trá ngoài đời. Họ chỉ biết ghen tuông, đố kỵ, nói xấu lẫn nhau mà thôi.
Phần ta là con gái dân giả nghèo hèn, va chạm thực tế đã nhiều, kinh nghiệm giang hồ nên chỉ một thời gian ngắn, ta đã mua chuộc hầu hết các nô lệ trong cung. Ta bành trướng thế lực qua việc giao thiệp với các giáo sĩ, nhất là các giáo sĩ thờ Amun và hứa hẹn cho họ rất nhiều quyền lợi. Chẳng mấy chốc các phe phái phi tần, cung nữ trong cung đều bị ta thu dụng, những kẻ chống đối bị ta bỏ thuốc độc cho chết dần mòn, có kẻ bị tà thuật của các giáo sĩ làm cho điên loạn. Sau đó các quan trong triều từ nhỏ đến lớn ít nhiều đều bị ta mua chuộc.
Trong khi Pharaoh lo việc chinh chiến khắp nơi thì trong triều đình ta cũng bành trướng thế lực không kém. Năm sau ta có thai nhưng lúc đó hoàng hậu Ptelomy cũng đã có thai vài tháng trước. Dĩ nhiên là con của một phi tần, con ta không thể tranh ngôi vị với con của hoàng hậu được nên ta âm mưu tráo đứa con mới sinh của bà bằng xác một con mèo chết. Ta muốn giết đứa bé này nhưng trong cung dễ gì mà giấu xác một đứa bé nên ta đành mang nó bọc vào chiếc chăn mà ta đã tự tay đan lấy, rồi bỏ vào giỏ thả trôi trên sông như những đứa trẻ vô thừa nhận khác.
Này Sinuhe, đó là một ngày trăng tròn cách đây gần ba mươi năm… Sở dĩ ta làm thế vì nếu ai bắt gặp thì cũng nghĩ rằng nó chỉ là một giọt máu vô thừa nhận của một cô gái làng Phalon nào đó mà thôi…"
Thái hậu Taiya ngừng nói rồi nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi bàng hoàng, chân tay rụng rời, mồ hôi toát ra đầy áo, lắp bắp:
- Thái hậu… thái hậu… bà không đùa đấy… chứ…
- Không, ta không nói đùa đâu. Chiếc chăn lót nôi của ngươi được đan bằng sợi Phalon chỉ là một phần của chiếc chăn ta vẫn giữ bên mình này. Ta chắc ngươi nhận ra nó…
- Tôi… tôi… không tin.
Thái hậu Taiya nghiêm trang:
- Này Sinuhe, phải chăng ở đùi dưới của ngươi có một vết bầm rất sâu?
- Sao… tại sao bà biết?
- Ha ha ha, ta phải biết chứ vì chính tay ta đã làm dấu vào đó. Này Sinuhe, ngay từ khi gặp ngươi, nghe kể chuyện về thân thế mơ hồ của ngươi, ta đã biết ngươi chính là con của Hoàng hậu Ptelomy.
- Nếu thế… mẹ tôi… mẹ tôi hiện nay ra sao?
- Ha ha ha, như vậy hẳn ngươi đã nhận rằng ngươi chính là con của Hoàng hậu Ptelomy chứ gì? Hay lắm! Hay lắm! Một hoàng hậu của Ai Cập lại đẻ ra một con mèo đen thì còn ra thể thống gì nữa. Các giáo sĩ bèn thưa với Pharaoh rằng chắc hẳn hoàng hậu có liên hệ với các loài ma quái nên mới đẻ ra một con mèo như thế. Pharaoh bèn ra lệnh thắt cổ Ptelomy và đốt xác bà ra tro bụi ngay. Ít lâu sau, ta sinh hạ một hoàng nam và được phong là hoàng hậu. Năm sau ta còn sinh thêm một công chúa nữa, củng cố địa vị mình đến ngày nay. Này Sinuhe, ngươi có biết tại sao ta lại kể chuyện này ra cho ngươi biết không? - Tại sao?
- Vì ta muốn ngươi biết rằng trong mình ngươi có mang dòng máu thiêng liêng của hoàng gia.
- Để làm gì?
Ngay lúc đó có tiếng ồn ào xôn xao bên ngoài. Thái hậu Taiya bình tĩnh nói:
- Này Sinuhe, có những việc mà lúc này ngươi không thể hiểu đâu nhưng theo thời gian, ngươi sẽ hiểu.
Một tên nô lệ bên ngoài bước vào nói nhỏ với thái hậu Taiya. Bà bình tĩnh phát tay ra hiệu cho tên nô lệ lui ra rồi nói với tôi:
- Này Sinuhe, ngươi và Baketamon hãy tạm lánh mình vào căn phòng nhỏ kia. Bằng mọi giá, ngươi chớ xuất đầu lộ diện vì nếu không tính mạng ngươi khó mà bảo toàn.
Tôi còn đang hoang mang thì công chúa Baketamon đã kéo phắt tôi vào căn phòng nhỏ cạnh đó. Tôi đứng trong phòng nhưng đầu óc quay cuồng bởi hàng trăm ngàn câu hỏi. Tôi đang ôm đầu suy nghĩ thì nghe có tiếng quân sĩ võ trang đi lại rầm rập ở ngoài hành lang rồi có tiếng hô lớn:
- Pharaoh đã đến!
Có tiếng chân người bước vào phòng rồi tôi nghe Akhenaten đằng hắng:
- Thưa mẹ, con được biết chính mẹ đã ra lệnh giết Ptah, giáo sĩ trưởng phái Amun và hơn hai mươi vị quan trong triều.
Thái hậu Taiya thản nhiên trả lời:
- Đúng thế, những đứa nào muốn làm phản, ta cho giết ngay.
Akhenaten im lặng một lúc rồi nhẹ nhàng:
- Hiện nay không phải như xưa để một cá nhân có quyền sinh sát như thế. Việc này không thể chấp nhận được…
- Tại sao lại không? Hẳn Pharaoh cũng biết đây không phải là lần đầu ta ra lệnh giết người.
- Nhưng đây sẽ là lần cuối vì từ nay con sẽ ra lệnh cho khóa chặt cửa cung điện này lại. Kể từ nay, đây sẽ là nơi bất khả xâm phạm, không ai được ra vào nữa. Bây giờ con mới hiểu tại sao khi phụ vương vừa qua đời, chú Kira lập tức cho người đến giết mẹ và em Baketamon…
- Khá lắm! Bây giờ Pharaoh mới biết quyền hành Ai Cập thực sự nằm trong ai hay sao? Phải đấy, chính ta là người nắm quyền chỉ huy Ai Cập trong bao năm nay. Cha của ngươi chỉ là một lão già mệt mỏi, bệnh hoạn vì chinh chiến; chính ta mới là người thực sự cai trị xứ này… Akhenaten phải biết, ta làm thế chỉ vì muốn giữ ngôi vị cho ngươi nhưng từ nhỏ ngươi chỉ là một đứa bé mơ mộng, không hợp với lòng mong đợi của ta. Baketamon còn xứng đáng hơn ngươi…
Akhenaten im lặng không nói gì nên thái hậu Taiya tiếp tục:
- Ngươi bỏ vào sa mạc rồi mất tích trong bao năm, ta tưởng ngươi đã chết nên muốn Baketamon tiếp nối công trình xây dựng của ta. Tiếc thay Smenkere lại tìm ra ngươi nên tình hình đổi khác. Từ khi lên ngôi Pharaoh, ngươi đã thay đổi mọi việc, làm xáo trộn triều chính, đảo lộn trật tự vẫn có từ trước đến nay và làm phiền lòng ta không ít. Đã thế ngươi còn liên kết với bọn Hitites và Nubia, đặt ra những thứ tôn giáo kỳ quái, tôn thờ chiếc đĩa tròn tượng trưng cho ngôi Thái Dương. Tại sao ngươi lại làm những việc kỳ quặc đó?
Akhenaten im lặng một lúc rồi thong thả đáp:
- Vì con đã tiếp xúc được với chân lý và từ đó cuộc đời con hoàn toàn đổi khác. Qua công phu tu tập, con biết được những chuyện đã xảy ra trong cung, những bí mật đằng sau những đẹp đẽ, mỹ lệ của triều đại văn minh, huy hoàng này. Con đã ý thức rất rõ những tham vọng điên cuồng của những người chỉ huy, lãnh đạo quốc gia, những người đầy mưu mô xảo trá nên quyết định đã đến lúc phải thay đổi tận gốc rễ.
- Ngươi quả là một kẻ ngu xuẩn, thật uổng công ta và cha ngươi đã xây dựng cho ngươi…
Akhenaten không trả lời chỉ cho gọi viên quan lo việc ghi chép:
- Đây là lệnh của ta, từ nay cung điện Memphis được niêm phong cẩn thận. Không ai được phép ra vào nơi đây nữa. Phần ta cũng sẽ không trở lại đây nữa. Từ nay việc triều chính sẽ đưa hết về Tel El Armarna.
Sau khi Akhenaten bước ra khỏi thì công chúa Baketamon mới giận dữ lên tiếng:
- Ngươi đã thấy chưa? Anh ta điên loạn mất rồi! Đã đến lúc chúng ta phải hành động gấp.
- Công chúa muốn gì?
- Còn gì nữa? Đã đến lúc ta phải tranh ngôi Pharaoh với anh ta. Ta đã chuẩn bị sẵn sàng.
Tôi đang trố mắt kinh ngạc thì thái hậu Taiya đã lên tiếng:
- Hiển nhiên Baketamon không thể làm Pharaoh được, nhưng nếu ngươi và Baketamon làm lễ thành hôn thì ngươi sẽ trở thành Pharaoh của Ai Cập. Dù sao ngươi cũng có dòng máu hoàng tộc trong người.
- Cái gì kỳ lạ vậy?... Tại sao lại có thể có chuyện như thế được?
Baketamon tức giận:
- Hiện nay cờ đã đến tay mà ngươi không muốn phất hay sao? Chúng ta đã chuẩn bị từ lâu, vì biết ngươi có dòng máu thiêng liêng nên ta mới để ý đến ngươi. Này Sinuhe, một công chúa cành vàng lá ngọc như ta đâu thể lấy một kẻ tầm thường được.
Tự nhiên mọi việc trở nên sáng tỏ hơn bao giờ hết. Thì ra thế! Việc Horemheb quyến rũ Nefer cũng do lệnh của công chúa Baketamon. Nguyên nhân Thái hậu và Công chúa để ý đến tôi chỉ vì phát hiện ra tôi chính là người xứng đáng thừa kế ngôi vị Pharaoh. Tôi đứng sững ra đó, đầu óc quay cuồng không biết phải phản ứng như thế nào.
Baketamon bật cười:
- Chúng ta đã tính toán từ lâu rồi nên để tâm theo dõi ngươi. Ngươi bỏ đi đâu mấy năm trời làm chúng ta lo muốn chết.
Ngay khi đó, tên nô lệ ở bên ngoài bước vào. Công chúa ra lệnh:
- Ngươi hãy chuẩn bị cẩn thận. Sau khi anh ta chết thì ngươi phải ra tay ngay không được chậm trễ. Phải giết Smenkere và Horemheb ngay để tránh hậu họa.
Tôi luống cuống nói không ra hơi:
- Công chúa… công chúa… dám giết… anh ruột ư?
- Này Sinuhe, khi xưa ta đã nói với ngươi rằng một người lãnh đạo phải có mưu lược và thủ đoạn. Phải dám làm những việc không ai dám làm, nếu cần giết người thì phải giết người, nếu cần hy sinh tất cả thì phải sẵn sàng hy sinh để đạt mục đích. Có như thế mới làm được việc lớn.
- Nhưng… nhưng công chúa làm thế nào để giết Pharaoh?
Baketamon thản nhiên:
- Ngươi sẽ làm việc đó cho ta.
- Cái gì?
- Anh ta vẫn tin tưởng ở ngươi. Hẳn ngươi cũng biết anh ta thường hay lên cơn động kinh vào những ngày trăng tròn, chỉ cần ngươi chữa sai đi một chút, gia tăng liều lượng thuốc làm sao cũng được. Sau đó thì ngôi vị Pharaoh sẽ về tay ngươi…
Thì ra tất cả đã có kế hoạch từ trước và tôi sẽ là người thi hành việc này. Tôi muốn đứng yên nhưng hai đầu gối run lên như muốn ngã.
Thái hậu Taiya nói:
- Ta biết Pharaoh đang chuẩn bị mở một trung tâm giáo dục tại Armarna và ngươi sẽ được giao phó trọng trách trông coi trung tâm này.
- Tại sao việc gì bà cũng biết vậy?
- Ha ha ha… Từ bao năm nay, có việc gì mà qua được mắt ta. Tuy ta chỉ ngồi trong cung mà vẫn nắm vững tình hình khắp nơi. Chúng ta có một lực lượng thám tử ở khắp mọi nơi nên chuyện gì mà ta chẳng biết. Tôi rùng mình toát mồ hôi hột. Thì ra người đàn bà già yếu kia mới chính là người nắm quyền Ai Cập trong nhiều năm qua. Để duy trì quyền lực này, bà không ngần ngại làm tất cả mọi việc, kể cả việc âm mưu giết con mình vì nó không đi theo con đường quyền lực mà bà chủ xướng. Khi trước tôi vẫn nghe Horemheb nói đến một thế lực đối nghịch trong bóng tối nhưng không để ý vì còn bận tâm đến những việc khác. Tôi nhớ đến buổi thiết triều của Akhenaten và thái độ khó chịu của một số quan lại trước chủ trương cải cách của vị hoàng đế trẻ tuổi này.
Đối với phong tục Ai Cập, Pharaoh là người đã được các thần linh lựa chọn để cai trị xứ này. Pharaoh vừa là ngươi, vừa là thần, có quyền hành tối thượng và bất khả xâm phạm. Việc bất đồng ý kiến với Pharaoh là một trọng tội, có thể bị tử hình. Đến nay tôi mới rõ sở dĩ một số quan lại dám chống đối vì họ có một thế lực khác ngầm ủng hộ và thế lực này không ai khác hơn là thái hậu Taiya, mẹ của Pharaoh. Thảo nào khi xưa lúc Hoàng đế Amenophis đời thứ ba vừa qua đời, hoàng thân Kira đã cho người vào cung ám sát thái hậu Taiya và công chúa Baketamon này. Hiển nhiên một người có âm mưu soán nghịch phải biết rõ những lực lượng đối lập để ra tay thanh toán ngay khi có dịp.
Tất cả mọi diễn tiến trong quá khứ tuần tự hiện lên trong óc tôi, từ cuộc thanh toán đẫm máu sau khi Hoàng đế Amenophis qua đời đến việc tìm kiếm cho ra vị thái tử nối ngôi đang ẩn tu ngoài sa mạc. Từ việc một Pharaoh trẻ, vừa lên ngôi đã thay đổi đường lối cai trị, không sử dụng những quan lại cũ mà đưa một người ngoài dòng họ như Smenkere lên địa vị tể tướng cho đến việc tuyển chọn một kẻ xa lạ như Horemheb vào địa vị chỉ huy Ngự lâm quân. Phải chăng Akhenaten đã biết rõ về cái quyền lực đứng sau ngôi vị Pharaoh này? Phải chăng ông đã ban hành những biện pháp cải tổ triều chính, tôn giáo, xã hội để đưa Ai Cập ra khỏi ảnh hưởng ma quái của vũng lầy quyền lực ấy? Tại sao một hoàng tử sống trong cung vàng điện ngọc như vậy lại không đi theo những vết xe cũ mà cương quyết thay đổi, cải tổ dù biết rằng sẽ va chạm mạnh với những sức mạnh quyền lực lớn lao trong nội bộ triều chính?
Tôi miên man suy nghĩ và thấy sợ hãi trước tham vọng điên cuồng của những kẻ ham mê quyền lực này. Để đạt địa vị, người đàn bà kia đã không ngần ngại làm những việc động trời như tráo con của Hoàng hậu Ptelomy để giành ngôi vị Pharaoh về cho con mình. Khi đứa con không chịu đi theo đường lối, chủ trương hay đáp ứng kỳ vọng của bà thì bà ta không ngần ngại âm mưu ám hại nó để đưa quyền lực vào tay đứa con khác…
Thấy tôi có vẻ đăm chiêu suy nghĩ, công chúa Baketamon vội lên tiếng: 
- Chúng ta đã suy tính rồi, việc trông coi trung tâm giáo dục này là một cơ hội rất tốt vì ngươi sẽ có nhiều dịp tiếp xúc với anh ta. Khi thuận tiện, ngươi cứ việc ra tay. Sau đó ngươi có thể thành hôn với ta và đương nhiên trở thành Pharaoh.
Thấy tôi không tỏ thái độ gì.
Thái hậu Taiya nhìn tôi dò xét rồi nhẹ nhàng nói:
- Này Sinuhe, địa vị Pharaoh này vốn thuộc về ngươi, ta chỉ giúp ngươi đoạt lại nó thôi. Ngươi có muốn làm Pharaoh không?
- Tôi… tôi không biết. Thái hậu Taiya bật cười nói với Baketamon:
- Thằng y sĩ này thành thật, dễ sai bảo. Mày cứ để cho nó làm Pharaoh rồi đứng sau lưng mà ra lệnh cho hắn… ha ha ha… Đang cười, bất chợt bà sa sầm mặt xuống rồi nghiến răng:
- Sinuhe, hôm nay chúng ta đã nói rõ mọi việc với ngươi, vậy ngươi hãy quyết định ngay, hoặc ngươi theo chúng ta hoặc…
Bà ngừng nói như để tôi suy nghĩ rồi gằn giọng:
- Này, ngươi nên biết rằng người của chúng ta hoạt động và có mặt khắp nơi. Nếu phản phúc, ngươi sẽ không toàn tính mạng đâu.
Công chúa Baketamon cười nhạt, thêm vào: - Không những thế, những người liên hệ với ngươi như con bé bán rượu ở Thebes cũng chẳng thể sống được.
Tôi giật mình kêu lớn:
- Cái gì… Cô nói gì?
Baketamon thản nhiên:
- Con bé bán rượu đã mua lại căn nhà cũ của cha mẹ ngươi hiện đang nằm trong tay ta và chỉ với một lệnh nhỏ là nó bị ném vào chuồng sư tử đói ngay. Này Sinuhe, chẳng một việc gì ngươi làm lại qua khỏi mắt chúng ta được. Kể từ ngày mẹ ta phát hiện ra ngươi là con của hoàng hậu Ptelomy thì chúng ta đã có kế hoạch và một khi chúng ta đã để ý đến ngươi thì làm sao ngươi có thể thoát ra khỏi tầm kiểm soát của chúng ta nữa!
Thái hậu Taiya chăm chú nhìn tôi:
- Sinuhe, hiện nay sinh mạng ngươi đang nằm trong tay ta. Nếu ngoan ngoãn tuân lệnh thì ngươi sẽ được đền bù xứng đáng, còn nếu không ngươi sẽ chẳng còn sống được bao lâu nữa đâu!
Tôi mệt mỏi ngồi phịch xuống chiếc ghế gần đó, đầu óc căng thẳng. Thì ra họ đã có những dự tính từ trước và tôi chỉ là một con cờ trong bàn cờ đã bày sẵn. Tôi nghĩ đến Akhenaten và chủ trương thay đổi của ông cũng như lời cảnh cáo của quan Thiên Giám. Không lẽ số phận của vị vua trẻ tuổi này lại kết thúc bi đát như vậy sao? Tôi nghĩ đến ảnh hưởng của những vì tinh tú đang vận hành trong vũ trụ, phải chăng con người không thể cãi lại số phận đã định sẵn? Tại sao một người đã nghiên cứu về Chiêm Tinh như Akhenaten lại bất cẩn, không để ý đến những chuyện này? Không lẽ ông quá lạc quan và tin tưởng rằng con người có thể hoán cải số mạng chính mình? Tự nhiên tôi nhớ lại lời dặn dò ân cần của Smenkere về việc đừng dính dấp vào những chuyện thị phi và không khỏi hối hận đã không nghe theo lời khuyên của vị sĩ quan già.
Công chúa Baketamon chăm chú quan sát tôi một lúc rồi mới hỏi:
- Thế nào, ngươi nghĩ sao?
Tôi ngước mắt nhìn khuôn mặt lạnh lùng của thái hậu Taiya rồi lắc đầu: 
- Tôi… tôi không thể làm chuyện này được.
- Cái gì? Ngươi muốn chết ư?
- Tôi… tôi… không thể làm thế được.
Thái hậu Taiya lắc đầu:
- Sinuhe, ngươi thật là một thằng ngu! Cơ hội đến tay mà không biết nắm, thật uổng công ta đã tính toán, xếp đặt. Được lắm, nếu ngươi muốn chết, ta cho chết ngay.
Tự nhiên tôi cảm thấy một bầu nhiệt huyết sôi sục trong lòng khiến tôi không còn sợ hãi nữa. Tôi thản nhiên trả lời:
- Thưa Thái hậu, là người ai chẳng phải chết, tất cả chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Kẻ chết sớm, người chết muộn nhưng trước sau ai cũng chết. Tuy nhiên tôi vẫn có thể lựa chọn cái chết cho mình và tôi sẵn sàng chết trong danh dự thay vì trong nhục nhã, ê chề. Hiện nay số phận tôi đã nằm trong tay bà thì bà cứ việc ra tay đi… Thái hậu Taiya cười gằn quăng ly rượu trong tay xuống đất:
- Được lắm! Ngươi đã muốn chết thì ta cho ngươi chết, nhưng ngươi không thể chết dễ dàng đâu!
Bà đập mạnh tay lên chiếc chuông nhỏ. Một gã nô lệ bước vào. Bà ra lệnh:
- Hãy ném nó xuống hầm sư tử đói, cùng với con bé bán rượu kia, nhưng hãy để nó chứng kiến việc sư tử xé xác con bé kia trước.
Công chúa Baketamon vội lên tiếng:
- Khoan đã, chúng ta còn cần đến hắn… Thái hậu Taiya quắc mắt:
- Thằng y sĩ này không thể dùng được nữa. Ta sẽ có kế hoạch khác…
- Nhưng… nhưng hắn có dòng máu linh thiêng…
- Cái gì? Đã thế mà ngươi còn muốn lấy nó hay sao?
Công chúa Baketamon lắc đầu:
- Nhưng con đâu thể lấy một thằng chồng dân giã, tầm thường được!
Thái hậu Taiya cười lớn:
- Baketamon con ơi, tuy con mang dòng máu thiêng của họ Amenophis nhưng thằng này là con của Ptelomy. Tao đã giết mẹ nó thì lẽ nào để nó sống và để việc này bị tiết lộ được! Nó phải chết.
Bỗng nhiên một tiếng cười nhạt ở đâu vang lên:
- Này Taiya, bà không giết được Sinuhe đâu. Thái hậu Taiya và công chúa Baketamon giật mình nhìn ra cửa. Viên sĩ quan già có khuôn mặt nhăn nheo khắc khổ đã đứng đó từ lúc nào.
Thái hậu Taiya giận dữ:
- Smenkere, làm sao ngươi vào được đây? Vị sĩ quan già thản nhiên:
- "Đối với thằng sĩ quan già này thì con đường hầm bí mật của Thái hậu chẳng có gì đáng gọi là bí mật. Này thái hậu Taiya, ta đã biết rõ âm mưu của bà từ lâu rồi nhưng chưa đủ bằng cớ cho đến khi bà ra lệnh giết nhóm giáo sĩ phái Amun. Khi Ptah công khai bầy tỏ thái độ chống đối Pharaoh thì ta biết ngay hắn chỉ là một con chốt thí trong bàn cờ bà bày ra.
Hiển nhiên nếu không được bà hứa hẹn thì thằng giáo sĩ trưởng phái Amun đó đời nào dám thách thức Pharaoh giữa chốn triều đình như vậy! Rõ ràng sự chống đối của hắn có lý do chính đáng và cái chết của hắn sẽ gây
 mầm bất mãn trong giới giáo sĩ, mở đầu cho một cuộc nổi loạn, tranh chấp tôn giáo.
Trong sự xáo trộn này sẽ có kẻ thắng và người bại. Nếu phe giáo sĩ thắng thì Pharaoh chẳng thể sống sót và bà sẽ tiếp tục là người nắm quyền chỉ huy xứ này. Ngược lại, nếu Pharaoh muốn bảo toàn ngôi vị, ông bắt buộc phải ra tay dẹp tan các phần tử nổi loạn và như thế bà vẫn chẳng mất gì vì vẫn là người đứng sau ngôi vị Pharaoh.
Này Taiya, bà tính toán đã hay nhưng bà quên rằng thằng sĩ quan già này cũng biết tính toán chẳng kém. Khi được biết bà ra lệnh giết Ptah và một số quan triều để đổ tội cho Pharaoh, ta đã cho người bắt giữ chúng trước và thay vào đó xác chết của một số nô lệ. Dĩ nhiên khi Ptah biết bà định lợi dụng cái chết của hắn để châm ngòi cho cuộc chiến tranh tôn giáo thì hắn phải khai hết mọi sự ra cho Pharaoh. Các quan triều cũng thế. Khi biết rằng họ chỉ là những con vật hy sinh cho tham vọng của bà thì họ đã cũng khai tất cả.
Này thái hậu Taiya, tất cả những kẻ thân tín của bà đều đã bị Horemheb bắt giữ cả rồi, hiện nay quân sĩ của ta đang làm chủ tình hình. Pharaoh Akhenaten ra lệnh niêm phong cung điện Memphis, cấm không cho ai ra vào chỉ là một hình thức che chở cho mẹ và em gái không bị liên lụy mà thôi. Ông hy vọng bị giam lỏng như thế, bà sẽ không còn cơ hội tác oai tác quái nữa và có thể sống tại đây cho đến ngày cuối cuộc đời. Tuy nhiên thằng sĩ quan già này không tin một người như bà lại chịu yên thân chết già như thế nên ta đến để giúp bà ra đi đây." Thái hậu Taiya ngồi yên trên ghế bành, sắc mặt nhợt nhạt, không nói gì. Có lẽ biến cố xảy ra quá đột ngột khiến bà không kịp phản ứng hay kịp mưu tính việc gì khác. Công chúa Baketamon cũng hốt hoảng lùi lại, hai mắt láo liên như muốn tìm lối thoát. Smenkere quay qua phía tôi, lên tiếng:
- Này Sinuhe, ta thật không ngờ ngươi lại chính là con của Hoàng hậu Ptolemy. Hay lắm! Hay lắm!... Ta không ngờ ngươi mang dòng máu thiêng trong huyết quản…
Thái hậu Taiya gượng cười:
- Smenkere, ta biết ngươi có nhiều tham vọng nhưng ta không tin ngươi lại trung thành với con ta như vậy…
Smenkere cười nhạt không nói gì, chỉ hất hàm ra lệnh. Gã nô lệ lặng lẽ nhấc một cái gối rồi bước đến bên cạnh Thái hậu Taiya. Có lẽ hắn sẽ chụp cái gối lên mặt bà để bà ngạt thở mà chết.
Công chúa Baketamon hoảng hốt:
- Ngươi… ngươi cũng theo phe… Smenkere hay sao?
Smenkere lạnh lùng:
- Này công chúa, dù là nô lệ nhưng chẳng ai muốn chết sớm. Công chúa nghĩ rằng với một ít vàng bạc, châu báu là công chúa có thể mua chuộc được tất cả mọi người hay sao?
Thái hậu Taiya quay qua nhìn tôi:
- Sinuhe, ta không muốn chết dưới tay thằng nô lệ này. Ngươi hãy chế cho ta một liều thuốc độc.
Smenkere cười nhạt:
- Lúc nào Thái hậu cũng có sẵn thuốc độc bên mình, việc gì phải nhờ đến Sinuhe. Từ trước đến nay đã có bao nhiêu người bị Thái hậu đầu độc rồi…
Thái hậu Taiya thở dài nhặt chiếc ly rượu nằm dưới đất lên. Bà thong thả rót cho mình một ly rượu đầy rồi rút chiếc nhẫn đeo trên tay ra, xoay ngược nó lại để đổ vào ly rượu một ít bột màu trắng. Thì ra thuốc độc được giấu trong một ngăn nhỏ nằm dưới đáy chiếc nhẫn.
Bà nhếch miệng cười:
- Giỏi thật, việc gì ngươi cũng biết. Có lẽ ta đã đánh giá lầm về ngươi.
Smenkere đứng yên nhìn Thái hậu uống cạn ly rượu, khuôn mặt nhăn nheo của y không để lộ cảm xúc gì. Công chúa Baketamon hốt hoảng định bước đến nhưng bị gã nô lệ chặn lại.
Cô quát:
- Hãy tránh ra, ta muốn cùng chết với mẹ ta.
Smenkere lắc đầu, lạnh lùng nói:
- Công chúa chưa thể chết được.
- Ngươi muốn gì?
Smenkere chậm rãi:
- Hình như công chúa vẫn có ý định lấy chồng nên ta sẽ giúp công chúa hoàn tất ý nguyện…
Công chúa Baketamon giận dữ:
- Cái gì? Phải chăng ngươi muốn lấy ta? Smenkere lắc đầu:
- Thằng sĩ quan này già rồi, đâu muốn lấy vợ nữa nhưng công chúa quả là một phần thưởng xứng đáng cho một người có công khác.
- Ngươi muốn nói đến Sinuhe ư? Smenkere đưa mắt nhìn tôi rồi nói buông thõng:
- Không. Ta muốn gả cô cho Horemheb. Công chúa Baketamon quát lớn:
- Ngươi dám gả ta cho thằng con nhà bán bánh ngoài chợ đó sao? Ta thà chết chứ không đời nào chịu lấy một kẻ hạ lưu, bần tiện; một thủ hạ như thế.
Smenkere cười nhạt:
- Ta muốn biết giữa công chúa và Horemheb, ai sẽ trị được ai.
Công chúa Baketamon nổi giận xông đến nhưng đã bị gã nô lệ cao lớn túm chặt lại. Smenkere ra lệnh:
- Ngươi hãy mang công chúa vào phòng riêng cho ta.
Thái hậu Taiya im lặng nhìn tên nô lệ đưa công chúa đi khuất rồi gật đầu như vừa hiểu ra một điều gì:
- Thì ra thế! Smenkere, ngươi giỏi thật nhưng ta muốn biết ngươi sẽ đối xử với con trai ta như thế nào?
Smenkere lạnh lùng:
- Bà đoán được ý ta đấy nhưng muộn rồi… Thái hậu Taiya thở dài:
- Này Smenkere, ta vẫn biết ngươi có tham vọng nhưng ta tưởng ngươi đã hài lòng với địa vị tể tướng rồi! Thật ta không ngờ ngươi lại muốn làm Pharaoh.
Câu nói của Thái hậu Taiya làm tôi giật mình ngơ ngác nhìn Smenkere. Không lẽ ông này cũng muốn tranh giành ngôi vị Pharaoh? Như hiểu được thắc mắc của tôi, Thái hậu Taiya thong thả giải thích:
- "Này Sinuhe, một kẻ hiền lành như ngươi không thể đoán ra âm mưu của Smenkere đâu. Hắn lợi dụng tình thế "trai cò mổ nhau, ngư ông đắc lợi" để tranh đoạt ngôi vị Pharaoh đấy. Khi trước ta chưa nghĩ ra nhưng qua thái độ của hắn đối với Baketamon, ta hiểu ngay. Dù làm Tể tướng, quyền uy tột đỉnh nhưng hắn vẫn chỉ là vị quan, lấy quyền gì mà đòi gả công chúa cho người khác trừ phi hắn làm Pharaoh! Chỉ có Pharaoh mới có thể gả công chúa cho một kẻ tầm thường như Horemheb.
Điều này cũng dễ hiểu, hiện nay chỉ còn hai lực lượng đáng kể là lực lượng quân sự của Smenkere và lực lượng Ngự lâm của Horemheb. Muốn Horemheb theo mình, hắn phải lấy lòng kẻ cầm đầu Ngự lâm quân và không phần thưởng nào xứng đáng hơn một công chúa cành vàng lá ngọc. Nếu lấy Baketamon, Horemheb sẽ đương nhiên trở nên người của dòng họ Amenophis và có triển vọng làm Pharaoh. Nếu Smenkere lên ngôi Pharaoh thì Horemheb sẽ hết lòng trung thành với hắn vì một lý do dễ hiểu là tuổi tác Smenkere đã cao lại không vợ con thì trước sau gì Horemheb cũng sẽ là kẻ thừa kế địa vị Pharaoh. Này Smenkere, liệu ta nói như vậy có đúng không?"
Smenkere im lặng không nói gì nhưng không trả lời tức là công nhận điều thái hậu Taiya nói là đúng. Tôi bàng hoàng trước sự nhận xét của người đàn bà già yếu sắp từ giã cõi đời này và tự hỏi không lẽ mọi người có thể tham lam, tàn bạo với nhau đến vậy hay sao?
Thái hậu Taiya bật cười, nói tiếp:
- Này Sinuhe, hiện nay ngươi là một ẩn số trong bài toán lạ lùng này đấy. Không ai ngờ ngươi lại mang dòng máu thiêng liêng của Hoàng đế Amenophis trong huyết quản và địa vị Pharaoh phải về tay ngươi mới đúng… Ha ha ha, ngươi hãy lo giữ mình vì Smenkere sẽ không để cho ngươi yên đâu!
- Tôi… tôi… không muốn làm Pharaoh.
Thái hậu Taiya quay qua nói với Smenkere nhưng giọng bà trở nên đứt quãng, có lẽ vì thuốc độc bắt đầu ngấm:
- Này Smenkere, ta chắc ngươi… sẽ mượn tay Sinuhe… để… giết con ta. Nếu ta biết trước… Nếu ta biết trước…
Smenkere im lặng quan sát Thái hậu Taiya đang từ từ gục xuống ghế. Tôi vội bước đến bắt mạch nhưng tim bà đã ngừng đập. Smenkere chăm chú nhìn tôi rồi nói:
- "Này Sinuhe, hẳn ngươi biết hiện nay Ai Cập đang lâm vào tình trạng rối loạn cùng cực. Việc tôn thờ Aten đã đưa đến việc tranh chấp tôn giáo giữa các giáo sĩ. Việc cải cách xã hội đã khiến giới quí tộc bất mãn, thêm vào đó việc bãi bỏ thuế khóa, bắt đinh, sưu tra đã đụng chạm đến quyền lợi của giới này rất nhiều. Việc giảm thiểu quân đội cũng đưa đến những mầm mống nổi loạn trong hàng ngũ sĩ quan.
Ta, một người Ai Cập, không thể để cho xứ này rơi vào tình trạng hỗn loạn đó được… Ta biết Akhenaten là người có lý tưởng nhưng cái lý tưởng này không phù hợp với tình thế hiện tại nữa. Việc kết thông gia với người Hitites và những hòa ước với người Nubia đã làm cho các nước chư hầu không còn thần phục Ai Cập nữa…
Ta, một người Ai Cập, không thể để những nước láng giềng này nhòm ngó nước ta. Này Sinuhe, hiện nay ngươi là kẻ có thể giúp ta khôi phục Ai Cập trở lại tình trạng huy hoàng như thuở xưa. Từ trước đến nay ta vẫn coi ngươi như con. Ta sẽ nhận ngươi làm con và ngươi sẽ làm Pharaoh. Phải rồi, ngươi xứng đáng nối ngôi ta làm Pharaoh… dù sao ngươi cũng mang dòng máu thiêng liêng…"
- Ông muốn tôi làm gì?
- Hiện nay Pharaoh đang chuẩn bị đi Amarna nhưng cái chết của Thái hậu Taiya sẽ làm ông xúc động có thể lên cơn động kinh. Ngươi hãy chữa trị cho ông ta và chỉ cần một xẩy tay, Akhenaten sẽ ra đi một cách nhẹ nhàng. Mọi việc đã có ta và Horemheb lo liệu.
- Horemheb cũng dính dáng vào việc này sao?
- Dĩ nhiên rồi. Nếu ta và Horemheb không hợp tác chặt chẽ với nhau thì dễ gì thanh toán được phe nhóm của thái hậu Taiya. Tôi chăm chú nhìn Smenkere như không tin vào tai mình. Chỉ một đêm mà bao biến cố bất ngờ liên tiếp xảy ra và hơn lúc nào hết tôi nghĩ đến Akhenaten cùng chủ trương thay đổi cải cách của ông.
Tôi gật đầu:
- Được lắm, hãy đưa tôi đến gặp Akhenaten.
Smenkere chăm chú nhìn tôi như dò xét một lúc rồi gật đầu quay mình đi trước. Tôi thong thả theo sau. Dọc hai bên hành lang tôi thấy quân sĩ của Smenkere canh phòng hết sức cẩn thận. Chúng tôi ra khỏi cung điện thì thấy một nhóm lính Ngự lâm gươm giáo sáng ngời đang chờ sẵn. Dưới ánh đuốc bập bùng, Horemheb mặc quân phục oai phong đang đứng chờ. Smenkere gật đầu ra hiệu cho Horemheb.
Hắn hội ý, vội bước đến xiết chặt tay tôi:
- Sinuhe, mày hãy giúp tao.
Tôi yên nhìn Smenkere và Horemheb dưới ánh đuốc bập bùng, và chợt nhận thấy cả hai đều đeo những thanh gươm hình thù kỳ lạ giống y hệt thanh gươm của người Hitites khi xưa. Không hiểu sao tôi cảm thấy lợm giọng buồn nôn…
Thì ra Smenkere và Horemheb đã không tuân lệnh Pharaoh mà vẫn tiếp tục theo đuổi việc thi đua võ trang với người Hitites. Tôi ngậm ngùi nghĩ đến lời dặn của Akhenaten: "Võ khí được chế tạo với mục đích duy nhất là phục vụ chiến tranh. Võ khí càng sắc bén, người ta càng muốn gây chiến tranh để thử xem sức mạnh của võ khí đó ra sao. Nếu Ai Cập cho rèn kiếm bằng thứ kim loại mới này thì người Nubia cũng sẽ làm như thế và rồi người Palestine, người Syria, người Babylon. Nếu mọi quốc gia đều thi đua sản xuất võ khí thì nạn đao binh sẽ không thể tránh khỏi, rốt cuộc chỉ có bọn sản xuất võ khí là được lợi lạc. Theo ta thì sự phòng thủ hữu hiệu nhất là nâng cao dân trí, khai triển sự hiểu biết của mọi người, không riêng cho Ai Cập mà cho cả những quốc gia lân cận. Không một dân tộc khôn ngoan nào lại lựa chọn những người lãnh đạo hiếu chiến; và không một kẻ lãnh đạo nào dám gây chiến khi biết dân chúng đã có trình độ hiểu biết cao, không dễ gì hướng dẫn họ vào những cuộc chiến bằng các lập luận mơ hồ, viễn vông".
Smenkere và Horemheb đưa tôi vào một căn phòng chung quanh có quân sĩ canh gác cẩn thận. Horemheb kéo ghế mời tôi ngồi rồi nghiêm trang nói:
- "Chắc mày cũng biết chúng ta vừa dẹp tan phe nhóm của thái hậu Taiya. Hiện nay Ai Cập đang bước vào một khúc quanh quan trọng của lịch sử. Thế hệ sau sẽ phán xét chúng ta qua những hành động của chúng ta ngày hôm nay. Là người Ai Cập với truyền thống oai hùng, bách chiến bách thắng, chúng ta cần phải tô điểm cho lịch sử xứ này thêm rạng rỡ.
Từ bao năm nay, mọi Pharaoh đều nối tiếp nhau xây dựng Ai Cập thành một quốc gia hùng mạnh, khiến các nước chung quanh đều phải kính sợ. Tiếc thay Akhenaten lại yếu đuối, nhu nhược, không theo gương tiền nhân nên Ai Cập ngày càng suy yếu. Một Pharaoh Ai Cập không thể hòa hoãn với bọn Hitites phản phúc, bọn Nubia mọi rợ, để cho các quốc gia chung quanh không còn kính nể chúng ta.
Bên ngoài đã mất uy tín như thế mà bên trong Akhenaten lại để cho đám hát rong điên khùng, bọn thi sĩ càn rỡ chi phối, làm rối loạn nhân tâm khiến xã hội mất trật tự, không còn ra thể thống gì nữa.
Từ trước đến nay, việc tôn thờ thần linh như Amun vẫn là truyền thống sẵn có nhưng Akhenaten lại bầy ra một thứ tôn giáo mới, tôn thờ thần linh duy nhất là Aten, khiến cho các giáo sĩ đều bất mãn. Họ là trung gian với thần linh, chỉ lo cúng tế cầu xin, thì cứ để họ làm việc đó chứ đâu tai hại gì.
Đã chẳng theo truyền thống cũ, Akhenaten lại không cung cấp tiền bạc, phẩm vật dâng cúng cho giới giáo sĩ khiến cho thần linh nổi giận, gây thiên tai hoạn nạn. Ai Cập đã suy yếu vì trật tự xã hội đảo lộn, lại còn kiệt quệ hơn vì các thiên tai này.
Truyền thông từ xưa vẫn cho giới quí tộc được cai trị các vùng và thu thuế, miễn là họ quy phục triều đình. Akhenaten tước bỏ quyền lợi thuế khóa, đất đai của họ làm gì để họ thêm bất mãn, gây mầm mống nội loạn khắp nơi.
Là người có trách nhiệm với quốc gia, tao không thể để cho tình trạng hỗn loạn này kéo dài mãi được. Tao không thể chấp nhận việc thay đổi luật pháp sẵn có khiến cho bọn nô lệ lộng hành. Tao không thể chấp nhận việc bãi bỏ thuế khóa khiến công khố khô kiệt. Tao không thể chấp nhận việc cắt giảm lực lượng quân sự khiến các nước chung quanh dòm ngó nước ta. Một Ai Cập hùng cường không thể có một Pharaoh điên khùng, nhu nhược thế được. Đã đến lúc Ai Cập cần một người lãnh đạo mới và mong mày hãy giúp chúng tao khôi phục Ai Cập trở lại tình trạng huy hoàng như trước."
Thì ra Horemheb cũng bất mãn với chính sách cải tổ của Akhenaten nhưng có lẽ hắn và Smenkere chưa dám tỏ thái độ vì còn e dè lực lượng của Thái hậu Taiya. Hôm nay, khi đã diệt được phe nhóm này thì họ lợi dụng ngay cơ hội để củng cố quyền lực cho mình. Vì mải suy nghĩ nên tôi không trả lời khiến Horemheb sốt ruột:
- Thế nào? Mày nghĩ sao?
Tôi chăm chú nhìn Horemheb rồi hỏi:
- Hiện nay lực lượng quân sự đều đang nằm trong tay mày, việc gì phải cần đến một y sĩ như tao? Không lẽ một người như mày lại sợ Akhenaten sao?
Horemheb lắc đầu:
- Không phải thế! Chúng tao đều là thuộc hạ của Akhenaten, đã thề nguyện trung thành với ông nên… việc này… việc này… tao không thể…
- Thì ra mày sợ hậu thế phê phán nên phải nhờ tay tên y sĩ quèn như tao! Truyền thống Ai Cập không chấp nhận việc soán nghịch nên mỗi khi cần thiết, việc này thường được giao cho một y sĩ thân tín của Pharaoh, một người mà ông luôn tin tưởng. Nhưng nếu Akhenaten chết thì ai sẽ làm Pharaoh?
Horemheb không ngần ngại, nói ngay:
- Còn ai hơn Tể tướng Smenkere nữa? Ông đã là người của hoàng tộc, đã từng cầm quân chinh phạt Hitites và Nubia… Không ai xứng đáng hơn Smenkere.
Tôi nhìn Smenkere và Horemheb, chua chát:
- Thì ra tất cả đều đã được tính toán từ trước. Thái hậu Taiya âm mưu tranh ngôi vị Pharaoh cho Baketamon để duy trì quyền lực cho phe nhóm mình nhưng bà không ngờ các người lại ra tay trước. Tuy diệt được phe của Thái hậu Taiya nhưng mày vẫn không dám đụng tới Akhenaten vì không muốn gây ra một tiền lệ cho việc soán nghịch. Mày sợ rằng sau này sẽ có những kẻ noi gương đó mà hãm hại mày chứ gì? Ha ha ha… vì thế Akhenaten sẽ phải ra đi một cách nhẹ nhàng, một cách danh chính ngôn thuận như chết vì bệnh tật chẳng hạn. Do đó mày cần một y sĩ như tao…
Smenkere từ lâu vẫn im lặng, bỗng lên tiếng:
- Này Sinuhe, ngày xưa ta khuyên ngươi nên đi theo con đường tinh thần như cha mẹ người để tránh xa mọi phiền phức. Tiếc rằng ngươi chẳng nghe ta, cứ dính dấp vào những việc rắc rối. Dù muốn dù không, ngươi cũng đã ít nhiều tham dự vào việc này rồi, chẳng thể tránh né được đâu. Có lẽ ngươi nên trách số phận của ngươi đã định như thế mà thôi…
Tôi liếc nhìn Smenkere, phải chăng ông muốn ám chỉ thân thế tôi? Dĩ nhiên Horemheb chưa biết chuyện Thái hậu Taiya đã tiết lộ vì lúc đó chỉ có công chúa Baketamon và Smenkere ở đó. Tôi chưa kịp trả lời thì một tên nô lệ của Smenkere từ bên ngoài vội vã bước vào:
- Kính thưa Tể tướng, Pharaoh vừa hay tin về cái chết của Thái hậu Taiya và ngài đã ra lệnh cho thi hành các nghi thức chôn cất…
Đối với phong tục Ai Cập, việc chôn cất để chuẩn bị cho đời sống bên kia cửa tử rất quan trọng nên các vua chúa đều có kế hoạch trù liệu cẩn thận ngay từ lúc mới lên ngôi. Là vợ của Pharaoh Amenophis đời thứ ba, nghi thức chôn cất thái hậu Taiya đã được hoạch định từ trước nên chỉ cần có lệnh là các giáo sĩ theo kế hoạch thi hành ngay.
Smenkere gật đầu, hỏi:
- Pharaoh còn chỉ thị gì nữa không?
- Ngài cũng biết y sĩ Sinuhe được gọi về để săn sóc sức khỏe cho Thái hậu nên truyền cho gọi y sĩ vào cung ngay.
Smenkere và Horemheb giật mình biến sắc. Việc tôi được đưa về cung là chỉ thị riêng của công chúa Baketamon trong âm mưu tranh giành địa vị Pharaoh của Thái hậu Taiya. Sở dĩ Smenkere và Horemheb biết được vì họ đã có dự mưu và tương kế tựu kế, thanh toán phe nhóm của Thái hậu Taiya. Việc này được giữ bí mật, nhưng tại sao Akhenaten lại biết?
Smenkere nhíu mày suy nghĩ, nét mặt trở nên nhăn nhúm khác thường:
- Hừm… có lẽ… có lẽ… Baketamon đã tiết lộ. Con nhãi này giỏi thật!
Người nô lệ nói nhỏ:
- Hiện nay Pharaoh đang xúc động, bệnh tình có thể tái phát nên có lẽ ngài cho gọi Sinuhe vào để khám bệnh…
Smenkere nhìn tôi một lúc như suy nghĩ rồi gật đầu:
- Được lắm! Sinuhe hãy vào săn sóc cho Pharaoh và nhớ lời ta đã dặn.
Horemheb định lên tiếng nhưng Smenkere đã gạt đi:
- Sinuhe đã biết hắn phải làm gì.
Tôi theo gã nô lệ đi qua những hành lang dài dẫn vào nội cung. Ngày trước tôi đã qua lại nơi đây nhiều lần nhưng không hiểu sao lần này tôi cảm thấy cảnh vật chung quanh có vẻ lạnh lẽo khác thường. Đến cửa nội cung, tên nô lệ vì không được phép vào nên đứng lại ra dấu cho tôi đẩy cửa bước vào. Tôi vừa bước qua cánh cửa dầy thì đã thấy công chúa Baketamon chờ sẵn.
- Công chúa… Tại sao công chúa lại ở đây?
Công chúa Baketamon giơ tay lên miệng ra dấu cho tôi giữ im lặng rồi nói nhỏ:
- Ta vừa trốn thoát được nên vào báo cáo với Pharaoh biết về cái chết của mẹ ta. Hiện nay tình thế gấp rút lắm rồi, ngươi hãy làm ngay việc mẹ ta giao phó. Sau khi anh ta chết, chúng ta sẽ làm lễ thành hôn ngay và ngươi làm Pharaoh. Chúng ta sẽ kêu gọi lực lượng quân đội quanh vùng kéo về. Tôi ngạc nhiên nhìn công chúa Baketamon và tự hỏi tại sao trong hoàn cảnh đen tối như thế mà cô vẫn không từ bỏ ý định tranh giành ngôi vị với anh ruột mình. Thấy tôi có vẻ do dự, công chúa Baketamon thì thầm: - Này Sinuhe, ngươi mới xứng đáng làm Pharaoh. Trong mình ngươi có mang dòng máu thiêng của cha ta…
Tôi chưa kịp trả lời thì Hoàng hậu Nefertiti ở trong bước ra:
- Sinuhe đấy ư? Pharaoh cho gọi ngươi vào…
Tôi vội theo chân hoàng hậu đi vào căn phòng riêng của Pharaoh. Quang cảnh nơi đây đìu hiu vắng vẻ, khác hẳn cảnh tấp nập đông vui khi xưa, lúc tôi vào kể chuyện cho các cung nữ nghe. Akhenaten đang ngồi trên chiếc ghế quen thuộc đặt dưới biểu hiệu của Aten. Mặc dù nét mặt ông vẫn bình thản nhưng tôi có cảm tưởng như sắp có chuyện không lành xảy ra.
Vừa thấy tôi thì Pharaoh đã mỉm cười:
- Này Sinuhe, ta được tin ngươi đã đến săn sóc sức khỏe cho mẹ ta.
- Kính thưa Pharaoh… Kẻ này… kẻ này… Akhenaten gật đầu buồn bã:
- Ta biết rồi… Ngươi không phải nói nhiều…
Tôi băn khoăn không hiểu Akhenaten đã biết những gì! Dĩ nhiên ông biết về cái chết của Thái hậu Taiya nhưng không biết ông đã biết việc những người thân tín của ông đang lợi dụng cơ hội này để tranh ngôi vị với ông chưa?
Akhenaten ra hiệu cho tôi ngồi xuống ghế rồi thong thả lên tiếng:
- Chắc hẳn hiện nay ngươi đang có hàng trăm câu hỏi trong đầu nhưng ngươi hãy bình tĩnh vì ta sẽ giải đáp cho ngươi những thắc mắc. Điều ta sắp nói đây rất quan trọng vì thời gian không còn bao lâu nữa. Này Sinuhe, ta đã biết trước những việc sắp xảy ra. Một kẻ nghiên cứu tường tận về khoa Thiên Văn như ta hẳn phải biết rõ những biến chuyển của tinh tú cũng như ảnh hưởng của nó đối với vận mệnh quốc gia…
Ông chỉ lên bầu trời đầy sao bên ngoài cửa sổ rồi tiếp:
- Quan Thiên Giám đã cảnh cáo ta từ trước nhưng điều ông nghiệm thấy và điều ta biết không giống nhau. Ông ta chỉ chú trọng đến ảnh hưởng của những tinh tú có liên quan đến Ai Cập, nhưng ta lại phóng tầm mắt nhìn xa hơn nữa vì ta quan tâm đến những biến chuyển của vũ trụ đối với số phận con người, không nhất thiết phải là người Ai Cập.
Tôi buột miệng:
- Nhưng nếu đã biết trước, tại sao ngài không tránh?
Akhenaten lắc đầu nói như trách:
- Ngươi đã học hỏi về khoa Chiêm tinh thì hẳn phải biết rằng vạn vật trong vũ trụ đều thay đổi theo những định luật thiên nhiên nhất định. Vận mệnh quốc gia cũng như con người trong đó đều chịu ảnh hưởng sự vận hành của tinh tú. Tuy nhiên các tinh tú tự nó không xấu hay tốt mà chỉ phản chiếu những ảnh hưởng xấu hay tốt phát xuất từ quốc gia hay con người sống trong đó mà thôi. Ai Cập đang bước vào giai đoạn đen tối vì hậu quả của những sai lầm do các Pharaoh đời trước gây ra. Thật ra các Pharaoh tự họ cũng không thể làm gì nhiều vì họ chỉ tiêu biểu cho những giá trị sai lầm về sự tương giao giữa Ai Cập và các quốc gia lân cận thôi.
- Tại sao lại thế?
Akhenaten im lặng một lúc như suy nghĩ rồi thong thả nói:
- "Vào thời hoàng kim, Ai Cập được hướng dẫn bởi các Pharaoh thánh thiện, những bậc minh sư thánh triết nên xứ này phát triển cực thịnh quanh châu thổ sông Nile. Vì biết sống theo những định luật thiên nhiên nên người Ai Cập phát triển được những kiến thức đặc biệt và xây dựng được một nền văn minh huy hoàng, tốt đẹp. Theo thời gian, khi người Ai Cập bắt đầu có phương tiện di chuyển, có thể vượt qua các bãi sa mạc bao la thì họ đã gặp những dân tộc khác mà trình độ văn minh thua Ai Cập rất xa. Thay vì giúp đỡ những người này thì các Pharaoh lại lợi dụng sự kém cỏi của các dân tộc ấy vào mục đích trục lợi, chiếm đoạt các tài nguyên thiên nhiên.
Khi sự tương giao giữa người và người được đặt trên nền tảng của lòng tham lam, chiếm hữu, lợi dụng, tích lũy thì hiển nhiên phải có kẻ lợi lạc và người thiệt thòi. Sự thu hoạch các quyền lợi vật chất lớn lao để mang về Ai Cập đã làm đảo lộn nền tảng giá trị thông thường trong nước. Sự tôn trọng kiến thức tinh thần bị thay thế bằng các tài sản vật chất. Nền tảng tôn giáo xây dựng trên căn bản minh triết bị thay thế bằng các pháp môn phù thủy, lợi kỷ hại nhân. Người sống trong sạch bị coi thường, và kẻ lợi dụng bóc lột được coi là thức thời, hiểu biết. Khi các giá trị đạo đức, tâm linh suy đồi thì cơ cấu tổ chức xã hội mà trong đó luật kẻ mạnh được coi là một lối sống bình thường.
Chính sự mạnh được, yếu thua này đã sinh sản ra những bạo chúa hiếu chiến, những quan lại vô lương tâm, và những giáo sĩ chỉ biết lợi dụng để trục lợi. Những kẻ lãnh đạo quốc gia này đã đưa Ai Cập vào một thời buổi đen tối mà trong đó sự nghi kỵ, ngờ vực, oán thù, tranh chấp ngày càng gia tăng.
Các sử gia cho rằng những Pharaoh này đã làm cho Ai Cập trở nên một quốc gia giàu mạnh, nhưng ít ai tự hỏi những của cải phi nghĩa đó lấy được từ đâu và với một giá nào? Trên các lăng tẩm vua chúa đều khắc ghi những chiến công hiển hách, những cuộc xâm lăng đẫm máu, những số tài nguyên khổng lồ, và con số nô lệ bắt mang về nhưng theo ta, đó chỉ là những vết nhơ không thể rửa trong lịch sử Ai Cập."
Akhenaten ngưng nói như hồi tưởng về những việc đã qua rồi tiếp:
- "Này Sinuhe, một nguyên nhân khác đã đưa Ai Cập xuống hố thẳm là sự ỷ vào quyền lực của Pharaoh, lời xin xỏ thần linh của giới giáo sĩ, và sự cai trị của giới quí tộc. Chính sự ỷ lại vào những người lãnh đạo này cũng như uy quyền của họ là động lực đã làm suy thoái nền văn minh Ai Cập. Khi dân chúng chỉ biết cắm đầu phục tùng thì họ không thể biết được tự do là gì, tự họ đã là nô lệ cho những quyền uy kia rồi thì còn nói gì đến văn minh hay sự hiểu biết nữa.
Đằng sau những quyền uy độc đoán chỉ có sự sợ hãi và lòng ích kỷ nên con người một khi đã nghĩ đến quyền lợi riêng đâu còn đếm xỉa gì đến ích lợi chung. Chính thái độ thụ động, cầu an này đã củng cố cho cái quyền lực độc đoán, thứ giáo điều phi nhân kia tiếp tục tái diễn từ đời này qua đời khác. Chính vì thế nên ta chủ trương phải thay đổi toàn bộ cơ chế tổ chức, giảm quyền lực của các giáo sĩ, thu hẹp quyền lợi của giới quý tộc và phát triển một nền giáo dục khác hẳn đường lối giáo dục cũ. Ta đã phác họa với ngươi một sơ đồ giáo dục căn bản mà trong đó con người phải tự biết mình, phải tự biết cách chuyển hóa chính bản thân mình, trước khi bắt tay vào việc thay đổi căn bản giá trị phi nhân kia. Nếu đa số không muốn thay đổi tận gốc rễ, không muốn chấm dứt lối sống đầy thù hận, lợi dụng, tham lam kia một cách triệt để, mà chỉ đổi thay hời hợt bên ngoài thì sự đổi thay thực sự sẽ không bao giờ xảy ra. Những cuộc cải cách nửa chừng này sẽ không thể chống lại cái quyền lực độc đoán của những kẻ lãnh đạo xảo quyệt kia được. Thời buổi huy hoàng không thể đến khi mọi người vẫn tiếp tục lẩn tránh các trách nhiệm hành động cá nhân mà cứ chờ đợi một lãnh tụ mới, một thời thế mới hay một đổi thay mới. Nếu tình trạng thụ động này tiếp tục thì con người sẽ mãi mãi trở thành nô lệ cho guồng máy cai trị độc đoán, tuy có tên gọi mới mẻ nhưng bản chất vẫn y nguyên như cũ."
Akhenaten nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Này Sinuhe, ta đã giao cho ngươi trách nhiệm đào tạo một thế hệ mới, một thế hệ không chịu ảnh hưởng của những giá trị phi nhân hiện nay. Ta đã cho xây cất một trung tâm giáo dục tại Tel El Amarna để đào luyện những người Ai Cập của tương lai nhưng tiếc thay, hiện nay mọi việc đã đổi khác…
Tôi ngạc nhiên:
- Pharaoh không muốn mở trường tại Amarna nữa sao?
- "Khi xưa ta xem thấy ảnh hưởng tinh tú đang thuận tiện để gieo mầm cho một nền văn minh mới, nhưng có lẽ vì chủ quan nên ta đã suy tính không đúng. Hiện nay ta suy nghiệm rằng ngày nào con người còn đồng hóa với một quốc gia, một dân tộc, một xứ sở, một bộ lạc, hay một lý tưởng thì họ vẫn còn sự chia rẽ và bị ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán, căn bản giá trị có từ ngàn xưa. Lúc này người Ai Cập vẫn còn tự hào dân tộc, coi những dân tộc khác là thứ man di, mọi rợ; đã thế họ vẫn hãnh diện về thành quả bách chiến bách thắng trong quá khứ nên chưa sẵn sàng chấp nhận một nền giáo dục mới, một nền giáo dục mở rộng, đặt căn bản trên sự không phân biệt chủng tộc, giai cấp, quốc gia như ta muốn chủ trương.
Từ bao năm nay, người Ai Cập đã được các giáo sĩ dạy dỗ rằng họ là một dân tộc đặc biệt, một giống dân được thần linh chọn lựa, một dân tộc cao cả hơn những dân tộc khác. Cái tinh thần dân tộc, bộ lạc này đã làm mất đi giá trị chân thật của con người vì sự thật thì con người đáng tôn quí hơn quốc gia hay bất cứ một giá trị căn bản nào khác. Nếu tất cả mọi quốc gia đều biết đặt căn bản giá trị trên sự tôn quý con người thì đâu còn sự chia rẽ, đâu còn hận thù, đâu còn sự khác biệt nữa.
Tiếc thay tinh thần dân tộc, quốc gia, bộ lạc đã bị các nhà lãnh đạo xảo quyệt khai thác triệt để. Họ đề cao sự khác biệt giữa các dân tộc, tôn giáo, chủng tộc để tạo sự chia rẽ nhằm mục đích gia tăng quyền lực cũng như quyền lợi cho chính họ. Những kẻ này sở dĩ thành công vì họ biết cổ súy cho một truyền thống mà hầu hết mọi người đều ít nhiều hưởng ứng và sẵn sàng tham gia."
- Như vậy ngài muốn gì?
Akhenaten im lặng như thả hồn vào một ý nghĩ xa xăm vào đó rồi nói:
- "Khi người Ai Cập còn tham lam quyền lợi, của cải vật chất và sự ham muốn này được nuôi dưỡng qua chủ nghĩa quốc gia, tinh thần bộ lạc thì thảm trạng của chiến tranh thật khó thể tránh. Hiện nay Ai Cập đang mạnh mẽ, hùng cường; người dân xứ này đang hưởng những quyền lợi tốt đẹp thì khó thể khuyên họ thay đổi. Chỉ khi nào Ai Cập bị xâm lăng, chà đạp và bị đặt dưới ách cai trị của nước ngoài; khi người dân nếm mùi đau khổ, mất tự do, mất quyền lợi, bị áp bức trong bất công, bị đàn áp bằng bạo lực, không phải trong vài chục năm hay trăm năm mà lâu hơn thế nữa, thì người Ai Cập mới học được bài học rằng sự tự hào dân tộc là một căn bệnh hết sức nguy hiểm và hậu quả của nó kéo dài rất lâu, có khi hàng thế kỷ…"
- Không lẽ tình trạng đen tối này kéo dài đến thế sao?
- "Này Sinuhe, quan niệm về quốc gia, dân tộc hay bộ lạc là một khối tư tưởng được hun đúc qua nhiều thế hệ, dễ gì có thể thay đổi một sớm một chiều. Hẳn ngươi cũng biết tiến trình đi lên để xây dựng thì lâu nhưng khi đi xuống để phá hủy thì nhanh chóng vô cùng. Thời đại hoàng kim thì ngắn nhưng thời đại hôn ám thì kéo dài. Phong thổ Ai Cập vốn là sa mạc, được nuôi dưỡng bởi phù sa sông Nile mà trở nên phì nhiêu; tuy thế người dân xứ này cũng chỉ trồng trọt được sau mùa mưa mà thôi vì khi nước rút đi thì ruộng đất lại khô héo cằn cỗi. Qua thời tiết, phong thổ, nhịp điệu lên xuống của nước sông Nile mà từ xưa người Ai Cập đã biết được các biến chuyển của luật thiên nhiên rồi từ đó suy ra các qui luật bất biến của vũ trụ.
Này Sinuhe, khoa địa lý Ai Cập đã định rằng tất cả những miền nào xây dựng trên mặt cát chỉ huy hoàng trong một thời gian rất ngắn rồi tàn lụi nhưng mấy ai chịu để ý đến điều ấy. Gặp thịnh thời, con người mải miết lo toan những tham vọng viễn vông mà đâu biết rằng những gì xây dựng trên mặt cát tàn lụi rất chóng.
Ngươi chưa sống trong sa mạc như ta nên chưa thể biết được những thay đổi thời tiết nơi đây. Vào mùa xuân, sau những cơn mưa đầu mùa, cây cối đua nhau trổ hoa, toàn sa mạc sống dậy một cách lộng lẫy huy hoàng. Cây cỏ trong sa mạc đẹp lạ thường, phát triển nhanh, đơm bông kết trái trong vài ngày, rồi tàn lụi ngay dưới sức nóng thiêu đốt của mặt trời. Suốt năm, sa mạc chỉ huy hoàng trong vài tuần lễ ngắn ngủi đó thôi. Theo sự suy đoán của ta, có lẽ Ai Cập đang ở vào buổi huy hoàng này, nhưng nếu không biết rõ luật chu kỳ tuần hoàn thì người dân xứ này sẽ còn đau khổ và phải chịu đựng nhiều thử thách rất lâu." Akhenaten nhìn lên bầu trời đầy sao, thong thả giải thích:
- "Này Sinuhe, trải qua bao triều đại, người Ai Cập đã gây chiến với tất cả những quốc gia lân cận. Sự tham lam, hung hãn và ích kỷ cũng như hậu quả tàn khốc của chiến tranh đã tác động lên vũ trụ khiến cho ảnh hưởng của các tinh tú phải thay đổi.
Đêm qua ta quan sát thiên văn rất kỹ và thấy rằng ảnh hưởng thuận lợi của các bầu tinh tú sẽ không rọi xuống Amarna như ta nghĩ mà xê dịch lên một vị trí khác ở miền bắc. Ta thấy trải qua bao cuộc chiến tranh, nhân cách người Ai Cập đã bị hủy hoại, hư hỏng đến tận gốc rễ. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, người ta tiếp tục cổ súy chiến tranh và phát triển những tập quán về bạo lực cho các thế hệ sau. Horemheb chính là nạn nhân của việc này. Vì các Pharaoh đời trước đều chủ trương xâm lược, cướp bóc tài nguyên của các quốc gia khác, bắt người xứ đó về làm nô lệ, đàn áp bóc lột những người không cùng quốc gia, chủng tộc hay tín ngưỡng nên việc huấn luyện dân chúng Ai Cập trở nên những quân nhân thiện nghệ như Horemheb là việc hiển nhiên.
Tuy nhiên chính cái tập quán về bạo lực này đã dẫn dắt xã hội Ai Cập vào vòng thù hận, tranh chấp. Từ bao năm nay, người Ai Cập không ngừng xung đột và nếu không có chiến tranh với các nước khác thì họ lại tranh giành, cướp bóc lẫn nhau. Ngay như mẹ ta, Thái hậu Taiya, cũng là nạn nhân của sự thù hận đó. Bà xuất thân là dân chài lưới nghèo đói, thường bị bóc lột, áp bức nên khi được tuyển vào cung, bà đã sử dụng mọi thủ đoạn để củng cố quyền lực cá nhân và sẵn sàng đàn áp kẻ khác.
Xã hội Ai Cập hiện nay đặt căn bản trên sự ích kỷ, bạo động, tôn sùng sức mạnh chiến tranh, luật kẻ mạnh luôn luôn thắng và kẻ yếu chịu thiệt thòi. Đa số người Ai Cập đều có đủ các tính xấu như hung hăng, ích kỷ, bạo ngược, tàn ác, thù hận… mà thiếu lòng nhân từ, bác ái, các đức tính căn bản để xây dựng một xã hội văn minh hơn. Người ta không thể thay đổi căn bản giá trị này cho đến khi họ trở nên nạn nhân của nó. Này Sinuhe, những thiên tai liên tiếp xảy ra trong thời gian gần đây chỉ là ảnh hưởng tạo nên do uất khí đến từ các nạn nhân của sự đàn áp, bóc lột này. Trên phương diện cá nhân thì nạn nhân dường như bất lực, nhưng trên phương diện tư tưởng thì sự phẫn uất của số đông này đã tạo ra những luồng tư tưởng rất mạnh, có thể dời núi, lấp sông và ảnh hưởng đến cả vũ trụ. Nếu ngươi biết rằng vũ trụ vốn quân bình tuyệt đối; bất cứ điều gì làm xáo trộn nó thì nó sẽ tạo ra các khí lực để phục hồi sự quân bình này.
Khi vũ trụ bị xáo trộn, các vũ trụ tuyến thay đổi, ảnh hưởng của nó sẽ tạo ra những thiên tai như động đất, núi lửa, hạn hán, bão lụt… Nếu con người vẫn ngoan cố, không chịu thay đổi thì cường độ của các thiên tai sẽ tiếp tục gia tăng, mỗi ngày một mạnh và rồi việc cần xảy ra sẽ xảy ra để tái lập quân bình cho vũ trụ.
Đã được học hỏi về khoa thiên văn, hẳn ngươi đã được dạy bảo về những trận đại hồng thủy chôn vùi các lục địa khổng lồ xuống đáy đại dương. Tất cả thiên tai hư hạn hán, bão lụt chỉ là điềm báo trước của những thay đổi thiên nhiên ghê gớm hơn nếu con người không chịu đổi thay.
Một người nghiên cứu thiên văn phải biết theo dõi những ảnh hưởng của tinh tú này để kịp thời báo động cho con người biết rằng sự ngông cuồng của họ chỉ là một hạt cát trong sa mạc, so với sức mạnh thiên nhiên thì chẳng là gì cả! Con người không biết rằng nếu các tinh tú có thể ảnh hưởng đến sinh hoạt trên mặt địa cầu thì con người cũng có thể ảnh hưởng đến các tinh tú qua lối sống hợp với thiên nhiên. Một sự tương quan hài hòa giữa con người và thiên nhiên sẽ tái tạo sự quân bình trong vũ trụ và mở đầu cho một thời buổi hoàng kim tốt đẹp…"
Akhenaten ngưng lại một lúc như suy nghĩ rồi tiếp:
- "Khi ẩn cư ngoài sa mạc, ta đã suy nghĩ nhiều về việc này. Ta biết thật khó mà thay đổi những người mà đầu óc đã bị tiêm nhiễm các tư tưởng tham lam, sân hận, ích kỷ, hung hăng. Khi quyền lực là mục đích của đời sống thì hiển nhiên bạo động sẽ là phương thức của xã hội. Giải pháp duy nhất cho tình trạng này là làm sao để cho mỗi cá nhân có thể làm một cuộc cách mạng trong tâm hồn; làm sao để họ có thể chuyển hóa những thói quen trong quá khứ.
Muốn như thế cần phải có một nền giáo dục mới xây dựng trên nền tảng minh triết của sự tự biết mình. Chỉ có sự tự biết mình mới đào tạo ra những con người hiểu biết và có từ tâm. Muốn xây dựng nền tảng của sự giáo dục mới này cần phải có những vị thầy tận tâm hướng dẫn học trò, không quản ngại khó khăn, trở lực. Đây phải là những người không những đã tự biết mình mà còn có khả năng truyền đạt sự hiểu biết đó cho học trò nữa.
Này Sinuhe, từ nhỏ ngươi đã được giáo dục cẩn thận bởi cha mẹ ngươi, những người đi trên con đường tinh thần, nên ít nhiều trong ngươi đã có những mầm thiện. Dù ngươi chưa có nhiều kinh nghiệm về cuộc đời nhưng trong mọi hoàn cảnh khó khăn, ngươi đã biết sử dụng trái tim thay vì bộ óc, để giải quyết vấn đề. Đó chính là lý do mà ta để ý đến ngươi…"
Akhenaten đặt nhẹ tay lên vai tôi, ân cần dặn dò:
- Ta trao cho ngươi nhiệm vụ thiết lập một nền giáo dục xây dựng trên căn bản của sự tự biết mình. Ngươi đã có dịp học hỏi những kiến thức chuyên môn với các danh sư Ai Cập và đã trải qua một số thử thách nên xứng đáng đảm nhiệm việc này. Ta mong ngươi sẽ mang những hạt giống thiêng liêng này gieo trồng tại những miền đất lành, những nơi mà người dân xứng đáng nhận lãnh nó, để xây dựng một nền văn minh cho nhân loại. Ta biết con đường này còn nhiều thử thách nhưng ta tin rằng ngươi sẽ vượt qua được. Vấn đề hiện nay là ngươi có sẵn sàng nhận trách nhiệm lịch sử này không?
Tôi cung kính quì trước mặt Akhenaten:
- Pharaoh yên tâm, kẻ này sẵn sàng noi gương ngài để hoàn tất sứ mạng mà ngài giao phó.
Akhenaten gật đầu hài lòng rồi chỉ dấu hiệu Aten trên tường:
- "Này Sinuhe! Khi xưa ta thấy truyền thống tôn giáo cũ chỉ gây chia rẽ nên muốn thay đổi nó bằng một tôn giáo mới, một tôn giáo giúp con người trực tiếp đón nhận chân lý mà không cần phải qua sự trung gian của các giáo sĩ. Các giáo sĩ không thể hiểu được sự mỹ lệ, huy hoàng của chân lý vì đầu óc họ đã khô cằn bởi thành kiến của giáo điều truyền thống.
Giáo điều không phải là sự thật. Nó chỉ là phương tiện giúp người ta tìm đến sự thật mà thôi. Tiếc rằng theo thời gian, nó đã bị sửa đổi sai lạc thành những hình thức cúng tế, cầu xin, hối lộ và quy phục thần quyền. Hiện nay đa số giáo sĩ không còn biết đến mục đích cao đẹp của tôn giáo nữa mà chỉ bám vào đó như một phương tiện sinh nhai mà thôi. Tuy nhiên ta đã đánh giá sai lầm phản ứng của mẹ ta, người đã xây dựng quyền lực qua sự ủng hộ của các giáo sĩ phái Amun. Nếu sử dụng bạo lực, dựa vào uy quyền của Pharaoh thì ta đã dẹp tan phe nhóm giáo sĩ Amun một cách dễ dàng, nhưng sự thay thế một quyền lực này bằng một uy quyền khác không phải là điều ta muốn.
Hiện nay dân Ai Cập thờ phụng hàng trăm thần linh, đi theo hàng chục giáo phái mà phái nào cũng khoe rằng giáo điều của họ mới hay, mới tốt và hứa hẹn những huy hoàng ở một cõi giới xa lạ viễn vông nào đó. Chân lý thật ra rất giản dị chứ đâu phức tạp như thế, nên ta muốn đưa hình ảnh vầng Thái Dương để giúp họ chiêm ngưỡng được điều mà ta gọi là Chân, Thiện, Mỹ. Đó là lý do ta không chịu thờ cúng thần quyền Amun và các thần linh khác mà chỉ đưa ra một hình ảnh độc nhất, tượng trưng cho chân lý, qua vầng Thái Dương.
Tuy nhiên trong những năm gần đây, ta nghiệm thấy rằng đầu óc người dân xứ này đã cằn cỗi, suy hoại quá nhiều rồi, khó có thể đón nhận được điều ta muốn truyền dạy. Tuy ta đã cho xây cất các đền thờ trang nghiêm tại Tel Amarna và có một số khá đông người đến đó tu học nhưng ta không hy vọng nhiều ở những người này. Có lẽ sau khi ta qua đời, người ta sẽ không còn biết đến Aten là gì nữa mà có thể coi đó chỉ là một vị thần cũng như hàng trăm thần linh khác.
Này Sinuhe, chủ trương của ta là một tôn giáo không có giáo sĩ, không có giáo điều, không có nghi thức hay sách vở vì mục đích duy nhất của nó là sự yêu mến sự thật hay Chân Thiện Mỹ mà thôi. Do đó ta chủ trương mở trường dạy học, giáo dục con người, mở mang kiến thức, đề cao sự tự biết mình để xây dựng một xã hội mà tất cả mọi người trong đó đều biết yêu chuộng sự thật.
Chỉ có sự thật mới có thể giải phóng con người ra khỏi những thành kiến nhỏ hẹp, những tư tưởng tiêu cực, tham lam và nâng cao phẩm chất đích thực của con người. Tiếc rằng ta không còn nhiều thời gian để hoàn tất tâm nguyện này nhưng điều này không quan trọng gì vì hạt giống chân lý đã được trao truyền cho ngươi.
- Tại sao ngài lại có vẻ tiêu cực về thời gian như thế?
Akhenaten bật cười nói nhỏ:
- Vì ta biết rõ điều mà Smenkere và Horemheb đã giao phó cho ngươi…
Tôi giật mình kêu lớn:
- Pharaoh, tại sao… tại sao ngài… biết được… việc này?
Akhenaten thản nhiên:
- Hiển nhiên ta vẫn biết Smenkere và Horemheb đều có tham vọng cá nhân nhưng ta không thể trách họ được. Họ chỉ là nạn nhân của một truyền thống sai lầm mà tổ tiên ta đã tạo dựng nên. Chắc hẳn ngươi chưa quên việc quan Thiên Giám đề cập đến một ngôi sao vừa tắt khi Horemheb đến báo tin cho ta về cái chết của giáo sĩ trưởng phái Amun.
Thật ra quan Thiên Giám đã nói tránh đi để Horemheb khỏi nghi ngờ vì Ptah không hề chết và ngôi sao đó ứng vào ta. Khi đó chúng ta đã xem xét rất kỹ sự thay đổi của các bầu tinh tú và biết rằng tai ương của Ai Cập sắp xảy đến. Một Pharaoh đầy uy quyền như ta không thể thay đổi được những hậu quả sẽ xảy ra cho xứ này.
Tôi ngập ngừng:
- Nhưng nếu… biết trước, ít ra… ngài cũng…
Akhenaten lắc đầu:
- "Tuy ta có khả năng biết trước một vài điều nhưng không đủ để thay đổi số phận một quốc gia hay dân tộc. Ta biết rõ định mệnh của ta cũng như của Ai Cập vì trước khi lên ngôi Pharaoh, ta là một tu sĩ được điểm đạo vào dòng tu Osiris.
Này Sinuhe, cái đêm mà ngươi và Horemheb đột nhập thánh điện Abydos chính là buổi lễ điểm đạo của ta đó…"
Tôi sửng sốt kêu lớn:
- Thì ra… thì ra thế… Ngài nằm trong quan tài đá, toàn thân bất động và không còn hơi thở… Kẻ này… kẻ này… vẫn thắc mắc… Akhenaten gật đầu xác nhận:
- "Chính thế! Đó là một nghi thức điểm đạo huyền bí mà kẻ đạo đồ phải kinh nghiệm về sự chết. Chỉ những kẻ hoàn toàn phá hủy được bản ngã mới có thể kinh nghiệm được sự chết một cách ung dung tự tại và chỉ có thế y mới xứng đáng trở nên một người của dòng tu Osiris. Câu chuyện Osiris bị phân thây làm nhiều mảnh, nhờ Isis đọc câu thần chú linh thiêng mà hồi sinh chỉ là một biểu tượng nói về sự điểm đạo huyền bí này. Đa số thường xem đó như một truyền thuyết hoang đường trong dân gian nhưng người đi trên đường đạo phải biết tìm ra những ẩn nghĩa của nó. Đúng thế, ta đã chết đi và sống lại. Ta đã kinh nghiệm được sự chết và hiểu được sức mạnh huyền bí của các định luật vũ trụ. Ta đã khai mở được một vài khả năng đặc biệt, nhờ thế ta biết được diễn tiến xảy ra khi cha ta qua đời. Ta thấy Ai Cập sắp bước vào một cuộc nội chiến bởi các phe phái trong hoàng tộc nên khi Smenkere đón ta về làm Pharaoh, ta đã không từ chối. Dù biết tương lai Ai Cập không sáng sủa do hậu quả của những việc xảy ra trong quá khứ nhưng ta vẫn muốn tận tâm tận lực vớt vát một phần nào. Đó là lý do ta cho thay đổi cái căn bản giá trị sai lầm mà các Pharaoh đời trước đã đặt ra mặc dù ta biết đây là một thử thách rất lớn.
Ta đã nghiên cứu rất kỹ các biến chuyển của tinh tú và tự biết thời gian không thuận tiện nhưng ta cũng không thể ngồi yên, mặc cho định mệnh an bài. Ta muốn gieo trồng những hạt giống tốt, dù biết xã hội Ai Cập đã cằn cỗi như cát sa mạc, không thuận tiện chút nào. Ta hy vọng chỉ cần vài hạt giống đâm chồi nảy lộc là ta mãn nguyện rồi.
Này Sinuhe, ta không phải là một kẻ mơ mộng như mọi người vẫn nghĩ. Một tu sĩ được điểm đạo không thể là kẻ thiếu thực tế được. Tuy ta biết trước một số việc có thể xảy ra trong tương lai nhưng ta cũng biết rằng tương lai sẽ đổi thay nếu có những động lực chuyển hóa mạnh mẽ. Do đó ta đặt ra những cơ chế tổ chức mới, ban hành những đạo luật mới.
Này Sinuhe, ta không phải là một người thích nghe các loại nhạc lạ lùng của đám hát rong như mọi người vẫn tưởng nhưng ta biết những nhóm hát rong đều là những nghệ sĩ chân chính, những ngươi yêu chuộng sự thật vì âm nhạc của họ phản ánh trung thực điều này. Nếu dân chúng biết nghe những bài hát ngợi ca cảnh đẹp thiên nhiên thay vì những bản nhạc xưng tụng thần linh thì họ đã tiến một bước xa trên con đường dẫn đến chân lý rồi. Đó là lý do ta không thích những điệu nhạc ca tụng sức mạnh Pharaoh nhạt nhẽo của đám nhạc công triều đình mặc dù ta biết họ bất mãn.
Sở dĩ ta gần gũi với giới thi sĩ và cho khắc những bài thơ của họ lên bia đá hơn là thân cận với các quan lại vì thi sĩ là người làm phong phú sự thật, không luồn cúi nịnh hót như các quan trong triều. Mỗi bài thơ là một nét đẹp tô điểm cho sự thật vì một thi sĩ chân chính có tâm hồn phong phú không thể nói gì khác hơn là ca tụng Chân Thiện Mỹ. Nếu mọi người đều biết làm thơ thì người ta sẽ không xa rời sự thật vì tâm hồn thi sĩ không cho phép họ nói đến sự giả dối. Hiển nhiên đám nịnh thần cũng làm thơ nhưng kẻ có tâm hồn què quặt, tàn tật chẳng bao giờ có thể trở nên thi sĩ được mà chỉ là những con vẹt lông lá xanh đỏ lải nhải các điệp khúc vô hồn."
Akhenaten im lặng một lúc lâu như thả hồn vào một nơi chốn nào đó rồi tiếp tục:
- Này Sinuhe, nhờ khả năng đặc biệt mà ta biết trước âm mưu soán nghịch tại xứ Hitites và đưa ra giải pháp để giải tỏa mối thù giữa hai dân tộc. Chỉ có tình thương và sự hiểu biết mới có thể xóa bỏ ân oán quá khứ và đưa đến việc kết tình hòa hiếu giữa hai quốc gia.
- Thì ra thế! Kẻ này vẫn thắc mắc không biết vì sao đang hôn mê bất tỉnh như thế mà ngài lại có thể đến địa điểm hẹn để cảnh cáo vua xứ Hitites về việc xảy ra bên xứ họ.
Akhenaten thở dài:
- "Tuy ta được điểm đạo lần thứ nhất và khai triển được một ít quyền năng nhưng ta đã thất bại trong việc thử thách của cuộc điểm đạo sau. Khi ẩn tu ngoài sa mạc, ta mắc một lỗi lầm khi thực hành phương pháp tu tập. Ta đã mất tự chủ nên xúc động trước vẻ đẹp huy hoàng của ánh sáng chân lý. Chính vì mất tự chủ như thế nên ta mắc chứng động kinh, cứ lâu lâu lại hôn mê bất tỉnh.
Ngày có hẹn với vua xứ Hitites, cơn động kinh lại xảy ra khiến ta hôn mê. Tuy thân thể ta hoàn toàn tê liệt nhưng thần trí ta vẫn tỉnh táo. Ta biết rằng nếu không có một giải pháp cấp thời thì Ai Cập và Hitites sẽ có chiến tranh. Với võ khí sắc bén đó, máu dân lành vô tội sẽ đổ, bao gia đình sẽ ly tán, bao thảm cảnh sẽ xảy ra. Ta không muốn như vậy, ít ra khi ta còn là Pharaoh, nên ta đã sử dụng tất cả sức mạnh và quyền năng để chiến thắng căn bệnh kia. Tuy ta đến điểm hẹn và giải quyết được cuộc chiến đó nhưng ta cũng bị nội thương rất nặng. Ta đã lạm dụng quyền năng và phải trả một giá rất đắt cho việc này…"
Tôi hoảng hốt vội đưa tay chẩn mạch cho Pharaoh thì thấy mạch của ông đập rất yếu. Tôi nói:
- Xin Pharaoh để tên y sĩ này chữa bệnh cho ngài.
Akhenaten lắc đầu:
- Ngươi không chữa được đâu! Ta biết rõ thời gian không còn nhiều nữa nhưng ta vẫn có thể cầm cự mạng sống cho đến khi cần thiết. Này Sinuhe, ta biết Smenkere muốn ngươi giúp ta ra đi một cách yên lặng và ta sẽ không để cho hắn thất vọng đâu.
- Tại sao… tại sao ngài lại chấp nhận việc này? Không lẽ chúng ta không còn giải pháp nào nữa sao? Akhenaten lắc đầu:
- "Này Sinuhe, đây là một thử thách cho ta. Nếu muốn sống, ắt ta phải sử dụng bạo động để đối phó với bạo động. Điều này không khó lắm nhưng đây không phải là giải pháp vẹn toàn vì nó không thể phá vỡ được vết xe cũ của những lỗi lầm xưa.
Ta không trách Smenkere hay Horemheb vì họ chỉ là nạn nhân của cái giá trị sai lầm đã có từ lâu mà ta muốn thay đổi. Cả hai đều được nuôi dưỡng trong môi trường tham lam, ích kỷ và bạo động nên chỉ biết đến quyền lợi cá nhân và lý tưởng phe phái mà thôi. Cái mong ước có uy quyền kia bắt nguồn từ những khát vọng thầm kín cá nhân rồi được đồng hóa với một lý tưởng lớn lao hơn và tạo ra tinh thần phe phái, bộ lạc.
Sự ước mong trở nên một người hùng đã khiến Horemheb chối bỏ thân thế nghèo hèn để trở thành một quân nhân. Vì là người của nhóm này nên y phải bảo vệ quyền lợi của phe nhóm và không thể chấp nhận việc ta ra lệnh giảm thiểu lực lượng này. Mục tiêu của giai cấp quân nhân là đặt quyền lợi phe phái qua chiến tranh, nhưng y không hiểu rằng nếu Ai Cập tiếp tục duy trì lực lượng quân sự lớn mạnh thì các quốc gia khác cũng phải làm thế và rồi họ sẽ đua nhau sản xuất vũ khí bằng những thứ kim loại sắc bén.
Để thí nghiệm vũ khí, họ sẽ tạo chiến tranh và hết cuộc chiến này sẽ đến cuộc chiến khác, hết vũ khí này sẽ có vũ khí khác, rốt cuộc chỉ có đám Do Thái chuyên sản xuất vũ khí là được lợi. Bằng cách đề cao các giá trị quân sự, những người như Horemheb đã vô tình hủy diệt những thế hệ tương lai và tạo ra một xã hội đầy bạo động, bóc lột, tham lam và rồi sự chém giết lẫn nhau là điều không thể tránh.
Này Sinuhe, chiến tranh chỉ phản ảnh tư tưởng của đa số người trong xã hội. Khi mọi người xem việc bóc lột, tranh giành là lẽ thường thì việc chiếm đoạt của cải của một nước khác đâu có gì quá đáng! Người ta có thể ngụy biện việc làm này qua các chiêu bài tốt đẹp nhưng chiến tranh vẫn là chiến tranh với những nỗi thống khổ và sự hủy diệt nhân cách. Khi người ta không kinh nghiệm được sự đau khổ của các nạn nhân chiến tranh thì người ta sẽ để cho chiến tranh tiếp tục và sự thiếu hiểu biết của mọi người sẽ tạo nên tình trạng dửng dưng, thản nhiên trước các thảm họa xẩy ra cho người khác. Theo thời gian, con người sẽ trở thành những cái xác vô hồn, có óc nhưng không tim và họ sẽ phải trả một cái giá rất đắt cho việc này.
Hôm nay ta đã nói những điều cần phải nói cho ngươi rồi. Ta muốn mọi việc sẽ diễn ra một cách tốt đẹp vẹn toàn cho tất cả mọi người, kể cả Smenkere và Horemheb. Ta không muốn lịch sử phê phán họ là những kẻ soán nghịch và cũng không muốn họ phải ăn năn về những việc họ đã làm."
- Nhưng… nhưng liệu không còn giải pháp nào khác sao?
Akhenaten mỉm cười:
- Ngươi đừng lo cho ta mà hãy lo cho mạng sống của chính ngươi. Nếu ta chết, liệu ngươi có thể sống được không? Từ ngàn xưa đã có biết bao Pharaoh chết trên giường bệnh và biết bao y sĩ bị qui tội bất tài, bị chôn sống trong nhà mồ. Nếu Smenkere đã mượn tay ngươi để thực hành ý đồ bất chánh thì lẽ nào y lại để cho ngươi sống được? Do đó ta đã có một giải pháp cho ngươi…
CHƯƠNG 11
Khi Smenkere và Horemheb bước vào nội cung thì họ thấy Akhenaten đang ôm ngực ho sặc sụa.
Thấy hai vị tướng thân tín, ông nói;
- Này Smenkere, ta thấy đầu óc quay cuồng… có lẽ cơn động kinh sắp đến… Smenkere cúi đầu thưa:
- Kính thưa Pharaoh, kẻ này đã cho gọi y sĩ Sinuhe đến săn sóc sức khỏe cho ngài. Không lẽ hắn chưa làm việc đó?
- Không đâu… Ta mệt mỏi, không còn muốn sống nữa… Ta không thể chịu đựng mãi những cơn động kinh bất thường như thế này được. Đêm qua ta nằm mộng thấy Osiris gọi ta trở về. Hiện nay ta chẳng thiết sống nữa.
- Xin Pharaoh đừng nói gở! Sinuhe là y sĩ đại tài có thể chữa mọi thứ bệnh.
- Này Sinuhe… Ta… ta muốn ngươi cho ta một liều thuốc độc để chấm dứt cơn đau không thể chịu đựng này và về với Osiris. Smenkere và Horemheb giật mình, vội vã thưa:
- Pharaoh, ngài mệt mỏi rồi… xin đừng nói nữa.
Ngay khi đó cánh cửa nội cung mở rộng. Một số quan triều được lệnh gọi cũng vội vã bước vào.
Akhenaten thong thả nhìn từng người rồi nói:
- Này các ông! Mấy lúc gần đây ta thấy trong người mệt mỏi và ta nằm mơ thấy Osiris gọi ta trở về… Ta đã ra lệnh cho Sinuhe giúp ta hoàn tất ý nguyện. Đây là lệnh của ta, các ông không được cãi…
Các quan hoảng hốt vội quỳ cả xuống, rối rít van xin. Horemheb đưa mắt nhìn Smenkere như hỏi ý.
Vị tướng già quì xuống thưa:
- Pharaoh là thần linh, ý muốn của ngài là lệnh của thần linh.
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, tôi lên tiếng:
- Kính thưa Pharaoh, có lẽ ngài cũng biết rõ truyền thống của trường y khoa Abydos là một y sĩ chỉ có thể cứu người chứ không thể giết người. Khi tốt nghiệp, kẻ này đã tuyên thệ như thế nên xin ngài hãy tìm kẻ khác.
Akhenaten thều thào:
- Ta đã ra lệnh mà ngươi dám cãi sao? Smenkere, ông tính thế nào đây?
Chưa khi nào tôi thấy Smenkere bối rối như thế. Khuôn mặt lạnh lùng của viên tướng già trở nên xanh xám, hai tay y run lên bần bật khiến y phải cố gắng lắm mới nói được:
- Y sĩ… Sinuhe… Pharaoh đã… có lệnh… - Xin tể tướng hiểu cho, kẻ này đã có lời nguyện, nếu vi phạm thì làm sao kẻ này có thể mong đợi sự xét xử công bình của Osiris ở thế giới bên kia!
Smenkere tức giận:
- Pharaoh chính là thần linh, kẻ nào trái lệnh sẽ bị xử tử tức khắc. Ngươi không muốn sống nữa hay sao?
Nhìn thấy tình thế căng thẳng, Horemheb vội vã can thiệp:
- Có lẽ Sinuhe còn đang xúc động về cái chết của Thái hậu Taiya. Xin hãy thong thả. Việc này… việc này…
Akhenaten lắc đầu:
- Ta thật không ngờ… Ta đối xử tử tế với ngươi như thế mà ngươi lại…
Smenkere và Horemheb bối rối chưa biết xử trí thế nào thì Akhenaten đã giơ cao chiếc vương ấn lên:
- "Này Sinuhe, ngươi có công trong việc phát giác âm mưu của người Hitites nên ta đã tha tội chết cho ngươi. Lần này không lẽ ta lại kết tội ngươi một lần nữa. Một Pharaoh không thể nói đi nói lại như thế được.
Này Smenkere, ta muốn ông hãy thi hành lệnh này một cách nghiêm chỉnh: Sinuhe phải rời xa Ai Cập vĩnh viễn, không bao giờ được đặt chân vào đây nữa. Án biệt xứ sẽ được áp dụng ngay trong lúc này." Smenkere và Horemheb còn đang chần chừ chưa biết phải nói gì thì Akhenaten đã lạnh lùng tiếp:
- Smenkere, nếu không thi hành lệnh ta thì ông sẽ phải chịu tội này thay cho Sinuhe. Mỗi khi Pharaoh đưa vương ấn lên tuyên bố điều gì thì một vị quan đã ghi chép ngay lệnh vừa ban và đó là một điều bất di bất dịch nên Smenkere đành cúi rạp người xuống:
- Xin tuân lệnh Pharaoh.
Vị tướng già phất tay ra lệnh cho quân sĩ đưa tôi ra ngoài. Horemheb nhăn nhó bước đến bên tôi nói thật nhỏ:
- Sao mày lại điên khùng như vậy? Cơ hội tốt thế mà mày không bắt lấy… Tao thật không hiểu nổi mày nữa.
Tôi không trả lời, chỉ tiếp tục bước thẳng ra ngoài. Vừa ra đến cửa, tôi thấy công chúa Baketamon chờ sẵn.
Cô ghé sát vào tai tôi:
- Này Sinuhe, ngươi hãy cùng ta trốn đi Thebes ngay. Ta đã triệu tập được một số thủ hạ thân tín tại đền thờ thần Amun. Chúng ta sẽ thành hôn và ta sẽ tuyên bố cho ngươi làm Pharaoh, chúng ta sẽ kêu gọi dân chúng nổi dậy…
Tôi lắc đầu:
- Người như công chúa phải lấy Horemheb mới xứng. Tôi chắc lúc này hắn đang cầu hôn với Pharaoh trong triều đấy.
Công chúa Baketamon tức giận nhưng chưa kịp phản ứng gì thì đã nghe tiếng chân Smenkere và quân sĩ ở trong bước ra nên cô vội lẩn tránh vào sau cánh cửa dày. Smenkere cùng nhóm quân sĩ đưa tôi ra khỏi cung điện. Khi đến sa mạc, hắn ra lệnh cho quân sĩ lùi lại phía sau rồi giục ngựa đi song song bên tôi:
- "Này Sinuhe, mạng sống của ngươi thật lạ lùng! Khi xưa ta đã khuyên ngươi nên lựa chọn một con đường thích hợp. Ngươi có thể đi theo chúng ta để hưởng thụ những gì mà cuộc đời mang lại, hoặc tiếp tục theo đuổi con đường tinh thần của cha mẹ ngươi. Tuy nhiên ngươi phải quyết định dứt khoát, không thể lang thang lúc thế này, khi thế khác như kẻ lạc lối trong sa mạc được!
Hiện nay định mạng đã đưa đẩy ngươi vào một con đường khác, vượt ngoài sự suy tính của chúng ta. Dù sao ta cũng cám ơn ngươi đã làm tròn nhiệm vụ mà chúng ta giao phó.
Này Sinuhe! Ngươi giỏi thật! Không biết ngươi đã làm gì Akhenaten mà sau khi ngươi ra đi, ta đã cho quan ngự y chẩn bệnh Pharaoh rất kỹ và được biết bệnh tình của Akhenaten rất trầm trọng, tim mạch hết sức rối loạn, chắc khó có thể sống qua kỳ trăng tròn này. Hiện nay Akhenaten đã được Horemheb hộ tống về Amarna để làm lễ trước đền thờ Aten một lần chót trước khi qua đời. Tuy nhiên hẳn ngươi cũng biết lệnh của Pharaoh là bất di bất dịch. Ta tiếc không thể thay đổi án biệt xứ của Pharaoh được, nhưng ta hứa sẽ đền đáp cho ngươi một cách xứng đáng.
Này Sinuhe, ta biết ngươi có dòng máu thiêng trong huyết quản và xứng đáng làm Pharaoh, nhưng tình thế lúc này đã khác trước…"
Smenkere chăm chú nhìn tôi như chờ đợi một phản ứng, nhưng thấy tôi vẫn im lặng, hắn tiếp tục:
- Từ lâu ta vẫn có ý nhận ngươi làm con. Nếu ta làm Pharaoh thì ngươi sẽ làm thái tử và sẽ nối ngôi ta cai trị Ai Cập. Khi đó ta không biết rõ thân thế của ngươi mà vẫn nghĩ rằng ngươi chỉ là một đứa bé vô thừa nhận được Sen Moot nuôi dưỡng. Hiện nay mọi việc đã đổi khác, ngươi bị án lưu đày biệt xứ nhưng ta sẽ đền bù cho ngươi một cách xứng đáng. Này Sinuhe, ta sẽ nhận đứa con trai của ngươi làm con để sau này nó sẽ thay ngươi làm Pharaoh xứ này.
Tôi ngạc nhiên định lên tiếng hỏi thì Smenkere vô tình nói tiếp:
- Ta không biết việc ngươi đã lập gia đình với Meryt và có một đứa con trai rất dễ thương với cô gái bán rượu ấy. Ta đã thu xếp để vợ ngươi có thể theo ngươi sống lưu đày tại bất cứ nơi nào ngươi muốn, nhưng ta sẽ giữ đứa con của ngươi tại Ai Cập. Nó mang trong mình dòng máu thiêng và sẽ làm Pharaoh thay cho ngươi.
Cho đến lúc đó tôi mới nhớ đến Meryt và đứa bé tên Tut kia. Thì ra Smenkere chưa biết thân thế của đứa bé kia cũng như chuyện của tôi và Meryt. Bỗng nhiên tôi ý thức được một điều quan trọng rằng hiện nay Smenkere đang sợ hãi. Phải chăng hắn lo ngại việc tôi có thể tranh giành địa vị Pharaoh với hắn nên phải hứa hẹn như thế? Dĩ nhiên một người mang dòng máu thiêng của hoàng tộc như tôi có thể khởi binh tranh giành ngôi vị Pharaoh nên hắn cần giữ bé Tut làm con tin? Dù không phải kẻ mưu lược nhưng biết đâu tôi chẳng liên kết với Horemheb hay Baketamon?
Bất chợt tôi ý thức được một sự thật rằng, ngay trong niềm vui vừa đạt được điều mà con người thèm muốn đã ẩn giấu một nỗi lo sợ. Nỗi lo sẽ bị người khác cướp đoạt mất cái mình vừa sở hữu. Hơn lúc nào hết, tôi nhận thức được sự mong manh, vô thường của những quyền uy giả tạo mà không biết bao người thèm muốn kia.
Tôi lên tiếng:
- Cám ơn Tể tướng đã lo lắng chu toàn. Chúng tôi có thể trở về Palestine sinh sống vì có sẵn tài sản, cơ nghiệp tại đấy. Smenkere lắc đầu:
- Ngươi không thể trở về Palestine được! Bọn Do Thái sẽ giết ngươi ngay.
- Tại sao?
- Khi ngươi bị Pharaoh bắt phải đến các đạo viện học hỏi thì thằng nô lệ chột mắt của ngươi đã trốn về Palestine và lấy trọn tài sản của ngươi rồi. Với số bạc khổng lồ đó, hắn trở nên thủ lãnh của đám con buôn Do Thái. Hiện nay hắn là người cung cấp võ khí của bọn Hitites cho chúng ta. Tuy nhiên chúng ta sẽ rửa hận cho ngươi vì sau khi lên ngôi Pharaoh, ta sẽ ra lệnh cho Horemheb tấn công Palestine, mở rộng bờ cõi Ai Cập, bắt đám phản phúc này về làm nô lệ.
Tôi ngậm ngùi nghĩ đến lời tiên đoán của Akhenaten. Quả thế, những con người sinh sống trong hoàn cảnh hận thù, bạo lực sẽ chỉ biết nghĩ đến chém giết và chiến tranh.
Tôi thở dài:
- Nếu thế, xin Tể tướng cho tôi đến một nơi chốn nào thật xa vậy.
Smenkere mừng rỡ:
- Được lắm! Ta biết có một bán đảo rất xa nơi đây. Ngươi có thể sống an lành mà không phải lo lắng gì. Ta mong ngươi sẽ theo đuổi con đường tinh thần của cha mẹ ngươi…
- Hay lắm! Phiền Tể tướng cho người đưa tôi và Meryt đến đó.
Mặt trời từ từ lặn. Những tia nắng rơi rớt vương vấn trên các cồn cát sa mạc. Xa xa, một con chim lạc lõng bay…
Sử gia Heterodotus ghi nhận: Một người Ai Cập tên Sinuhe đến Hy Lạp mở trường dạy học. Ông có rất đông học trò. Sau khi ông qua đời, học trò của ông đã góp phần xây dựng Hy Lạp trở nên một quốc gia văn minh, hùng cường mà các thế hệ sau này gọi là "thời buổi hoàng kim của các triết gia". Học trò của ông là Plato, Aristotle, Socrates, Epitetus, v.v…
PHẦN PHỤ LỤC
Theo các nhà khảo cổ thì Ai Cập là một trong những nền văn minh cổ nhất của nhân loại. Mặc dù ngày nay người ta vẫn chưa xác định được nguồn gốc dân Ai Cập nhưng khoảng hơn bảy ngàn năm trước, người Ai Cập đã di cư đến vùng đồng bằng quanh lưu vực sông Nile rồi định cư tại đó. Truyền thuyết Ai Cập nói rằng tổ tiên của họ xuất phát từ một đại lục rất xa, nơi có nền văn minh rất cao nhưng vì biết nơi đó sẽ gặp nạn hồng thủy nên một số người đã đóng thuyền di cư đến vùng này. Có thể vì xuất thân từ một nền văn minh cao nên từ bảy ngàn năm trước, người Ai Cập đã có chữ viết, biết sử dụng toán học để xác định vị trí các tinh tú và xây cất những kiến trúc hùng vĩ như thế.
Các nhà sử học sắp xếp lịch sử Ai Cập ra làm 6 thời đại với 30 triều đại vua Pharaoh như sau:
1. Tiền sử Thời đại (Pre-historic Period): Khoảng 7000 năm đến 5000 năm trước Công nguyên. Đây là một thời đại mơ hồ với rất nhiều huyền thoại, truyền thuyết mà phần lớn các học giả người Âu cho là hoang đường, huyền hoặc, không đáng tin. 

2. Nguyên sử Thời đại (Early Dynasties Period): Khoảng 5000 năm đến 4000 năm trước Công nguyên. Lúc đầu Ai Cập chia làm nhiều vùng, mỗi vùng có một sứ quân cai quản cho đến khi sứ quân Menes nổi lên đánh dẹp các sứ quân khác, thống nhất Ai Cập thành một quốc gia. Menes tự xưng là Pharaoh (Người Ở Nhà To Lớn), vừa là người vừa là thần linh, có quyền hành tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Pharaoh Menes chia xã hội thành những giai cấp để dễ bề cai trị. Giai cấp thứ nhất là Pharaoh và gia đình, nắm quyền chỉ huy cai trị. Giai cấp thứ hai là giáo sĩ, phần lớn là những người có học thức cao, có nhiệm vụ làm trung gian giữa thần linh và con người. Giai cấp thứ ba là quí tộc, gồm các quan lại và quân nhân, nắm quyền giữ an ninh, trật tự trong các địa phương. Những giai cấp sau như thợ thuyền, thương buôn, công nghệ và nông dân có bổn phận phục vụ cho những giai cấp trên. Pharaoh Menes lập triều đình gồm các quan thu thuế, xử kiện, giữ sổ sách và đặc biệt ghi chép các biến cố lịch sử lên bia đá nên từ đó lịch sử Ai Cập được đời sau biết đến.
3. Cổ sử Thời đại (Old Kingdom Period): Khoảng 4000 năm đến 3000 năm trước Công nguyên. Đây là thời đại rất đặc biệt với 6 triều đại và 32 Pharaoh mà vị nào cũng cho xây cất, kiến tạo những Kim Tự Tháp, đền đài, lăng tẩm hết sức hùng vĩ. Cũng trong thời đại này, người Ai Cập bắt đầu sử dụng thuyền buồm, bánh xe, nấu thủy tinh, luyện kim và xây các đập nước, kinh đào để dẫn nước vào ruộng.
4. Trung sử Thời đại (Middle Kingdom Period): Khoảng 3000 năm đến 2000 năm trước Công nguyên. Thời đại này gồm có 7 triều đại và hơn 100 Pharaoh. Đây là giai đoạn xã hội Ai Cập suy đồi nhiều vì đa số các Pharaoh chỉ lo hưởng thụ các tiện nghi vật chất chứ ít chịu phát triển hay xây dựng. Đây cũng là giai đoạn mà nền tôn giáo cổ Ai Cập thoái hóa thành các hình thức mê tín dị đoan nên việc sử dụng tà thuật, bùa chú rất thịnh hành. Nhiều người đã gọi thời đại này là thời đại của các giáo sĩ vì quyền hành của họ vượt xa Pharaoh. Hầu hết chủ trương tôn thờ Amun (Đa thần giáo) với các nghi thức thờ cúng, tế thần và giết nô lệ để chuộc tội.
5. Tân Sử Thời đại (New Kingdom Period): Khoảng 2000 năm đến 1000 năm trước Công nguyên. Thời đại này gồm 8 triều đại và 20 Pharaoh mà người nào cũng gây chiến với các nước láng giềng. Các nhà viết sử đã đề cao thời đại này như giai đoạn huy hoàng nhất lịch sử Ai Cập với các chiến công hiển hách, các đền đài lăng tẩm được xây cất to lớn vĩ đại hơn những triều vua trước. Hầu hết những Pharaoh thời này đều là những bạo chúa khát máu, chỉ trừ một Pharaoh duy nhất bị lịch sử chê trách là nhu nhược, hèn yếu vì đã từ bỏ truyền thống cũ để cổ xướng một sự thay đổi chưa từng có trong lịch sử Ai Cập. Pharaoh Akhenaten đã từ bỏ việc thờ cúng thần Amun mà chủ trương tôn thờ Aten (Độc thần giáo) hay chân lý tuyệt đối trong vũ trụ.
Trong 17 năm cai trị của ông, Ai Cập không hề gây chiến tranh mà chỉ phát triển rất mạnh về phương diện nghệ thuật, văn chương, đặc biệt là thơ phú. Các nhà khảo cổ đã gọi Akhenaten là "Pharaoh thi sĩ" vì ông đã để lại nhiều bài thơ khắc trên bia đá, thạch trụ rất đặc biệt. Sau khi Akhenaten qua đời, các vị Pharaoh đời sau lại phục hồi việc thờ cúng thần Amun và gây chiến với các nước chung quanh. Triều đại Seti mở rộng biên giới Ai Cập ra khắp bán đảo Ả Rập. Triều đại Ramses tiếp tục công cuộc xâm lăng các nước láng giềng, thu hoạch rất nhiều chiến lợi phẩm và nô lệ, mang về Ai Cập để xây cất các đền đài vĩ đại chưa từng có. Tuy nhiên cuộc chiến tranh kéo dài hàng trăm năm này đã mang lại một hậu quả rất khốc hại cho người Ai Cập. Vì đa số chỉ quen chém giết, cướp bóc chứ không còn biết xây dựng cho nên khi không còn kẻ thù nào để chinh phục, họ quay ra chém giết, bóc lột và tàn sát lẫn nhau khiến xã hội Ai Cập trở nên hỗn loạn, vô trật tự, suy yếu và theo thời gian trở thành mồi ngon cho Syria và Ba Tư. Đây cũng thời đại tự chủ cuối cùng của người Ai Cập vì trong suốt 2000 năm sau, Ai Cập hoàn toàn nằm dưới ách cai trị và bảo hộ của các quốc gia khác.
6. Ngoại thuộc Thời Đại (Domination Period): Khoảng gần 1000 năm trước Công nguyên cho đến cận đại. Giai đoạn này Ai Cập mất quyền tự chủ và bị đặt dưới ách cai trị của các cường quốc khác. Lúc đầu họ bị người Syria xâm lăng, chiếm đoạt phần lớn đất đai; sau đó Ai Cập lại bị Ba Tư, Hy Lạp, La Mã, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ, và cuối cùng là các cường quốc Âu châu như Pháp và Anh xâm chiếm, cai trị. Mặc dù trên nguyên tắc, Ai Cập vẫn được duy trì chế độ quân chủ (có vua và triều đình), nhưng suốt thời gian mấy ngàn năm, hầu hết các nhà lãnh đạo Ai Cập chỉ là những vị vua bù nhìn, vô quyền, làm tay sai cho những thế lực ngoại bang. Nền văn hóa phong phú của họ bị thay thế bằng một thứ văn hóa ngoại lai, lúc đầu chịu ảnh hưởng Ba Tư, Hy Lạp; sau bị đồng hóa với văn hóa Ả Rập. Ngay cả chữ viết của Ai Cập cũng hoàn toàn bị thay thế bằng chữ Hy Lạp và chữ Ả Rập. Đầu thế kỷ 18, tiếng Pháp trở nên ngôn ngữ chính rồi qua thế kỷ 19, tiếng Anh được sử dụng trong các văn kiện, giấy tờ và ngay cả hiến pháp quốc gia. Năm 1952, tướng Gamal Nasser truất phế hoàng đế bù nhìn Farouk, lập chế độ Cộng hòa Ai Cập và trở thành vị tổng thống đầu tiên của xứ này. Kể từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên cho đến thế kỷ 20, Ai Cập mới thực sự giành được độc lập
NHỮNG PHARAOH SAU AKHENATEN 

Sau khi Akhenaten qua đời, Tể tướng Smenkere lên ngôi Pharaoh nhưng ông nầy chỉ cai trị được hai năm thì chết. Người con duy nhất của ông tên Tut khi đó mới 12 tuổi, lên ngôi lấy hiệu là Tutankhamun (Tut tôn thờ Amun). Điều này cho thấy chỉ một thời gian ngắn, các giáo sĩ phái Amun đã phục hồi ảnh hưởng và thế lực với triều đình. Trước khi chết, Pharaoh Smenkere chỉ thị cho Tut phải lấy Ankhense, con gái lớn của Akhenaten làm hoàng hậu và phong cho cô này tước hiệu là Akhenseamun (Akhen tuân phục Amun). Pharaoh Tutankhamun (thường được gọi là King Tut) cũng chỉ cai trị được 6 năm thì qua đời. Vì ông chưa có con nối dõi nên ngôi vị Pharaoh được truyền cho Tể tướng Horemheb.
Pharaoh Horemheb cai trị Ai Cập được 28 năm. Ông đặt ra một nền quân chủ pháp trị rất nghiêm khắc, áp dụng kỷ luật thép cho các trai tráng trong nước. Dưới sự lãnh đạo của Horemheb, Ai Cập đã có những lực lượng quân sự hùng hậu, thiện chiến hơn những Pharaoh đời trước.
Vị chỉ huy, tướng Seti, đã dẫn quân chinh phạt khắp nơi và nổi tiếng là một trong những vị tướng khát máu nhất lịch sử Ai Cập. Seti chủ trương phải tiêu diệt các tiểu quốc quanh vùng, bắt những người này làm nô lệ cho người Ai Cập. Người Do Thái, vì sống tại Palestine gần đó, đã trở thành những nạn nhân đầu tiên. Seti để lại câu nói bất hủ: "Nếu người Do Thái được tự do, người Ai Cập không thể ngóc đầu lên được".
Sau khi Pharaoh Horemheb qua đời, Seti đã giết luôn mười hai người con của Horemheb rồi tự xưng làm Pharaoh. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Ai Cập, một tướng lãnh đã soán ngôi Pharaoh một cách công khai, không sợ lịch sử phê phán hay thần linh trừng phạt. Việc này cũng tạo ra một tiền lệ cho những đời vua sau đó. Triều đại Seti kéo dài được ba đời thì vị hoàng đế Seti đời thứ tư bị một tướng lãnh khác là Ramses giết chết.
Triều đại Ramses kéo dài được tám đời và được các nhà chép sử coi là triều đại vẻ vang nhất lịch sử Ai Cập. Các Pharaoh này đã liên tiếp gây chiến tranh với các nước chung quanh, chiếm đoạt rất nhiều tài nguyên và nô lệ để xây cất những đền đài lăng tẩm vĩ đại, chưa từng có. (Lịch sử ghi nhận, dưới sự lãnh đạo của nhà tiên tri Moise, người Do Thái được trả tự do vào đời Ramses thứ tư - Chương Exodus trong Kinh Thánh).
Sau triều đại Ramses, xã hội Ai Cập trở nên thoái hóa, hỗn loạn, vô trật tự vì các vua chúa và tướng lãnh không ngừng tranh chấp lẫn nhau. Không một vị vua nào cai trị được quá 4 năm. Có nhiều người chỉ lên ngôi được vài tháng đã bị giết. Triều đình hỗn loạn, quan lại tham những, giới quí tộc lo bóc lột, xã hội suy đồi, kinh tế kiệt quệ, kẻ mạnh đàn áp người yếu, dân chúng đói khổ lầm than nên chỉ ít lâu sau, Ai Cập trở thành miếng mồi ngon cho người Syria. Dưới sự cai trị của Syria, phần lớn các đền đài, lăng tẩm của vua chúa Ai Cập bị đập phá và dân Ai Cập phải cam chịu cảnh làm nô lệ cho người Syria, một giống dân mà khi xưa họ vẫn khinh là man di mọi rợ. Ít lâu sau, người Ba Tư đánh đuổi người Syria, chiếm Ai Cập và đặt xứ này dưới ách cai trị của họ trong suốt 260 năm.
Khoảng 322 năm trước Công nguyên, Hoàng đế Alexander của Hy Lạp khởi binh đánh đuổi người Ba Tư và chiếm Ai Cập. Tuy nhiên đối với các nhà chép sử Ai Cập thì đây là một cuộc giải phóng chứ không phải xâm lăng. Sở dĩ người Ai Cập có cảm tình với Hy Lạp vì Hoàng đế Alexander không những thông hiểu phong tục, tập quán của Ai Cập một cách tường tận mà còn tỏ ra tôn trọng các truyền thống văn hóa, tôn giáo của xứ này. Có lẽ Hoàng đế Alexander sở hữu một kiến thức rộng về Ai Cập vì thày dạy học của ông là hiền triết Aristotle, vốn là môn đệ của môn phái triết học do một người Ai Cập tên là Sinuhe khởi xướng. Học trò môn phái này đều là những triết gia nổi danh của Hy Lạp như Socrates, Plato, Aristotle, Pythagore, Thales, Lycurge, Solon, Jamblicus, Horedotus, Epitetus v.v…
Vì người Ai Cập xem Alexander như một nhà giải phóng xứ này khỏi ách ngoại xâm nên các giáo sĩ Ai Cập đã phong cho ông làm Pharaoh Ai Cập. Tuy nhiên chỉ ít lâu sau, Alexander lại lên đường tiếp tục công cuộc chinh phục các xứ khác như Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Tư, Syria, A Phú Hãn và Ấn Độ. Ông ban sắc lệnh đặt Ai Cập là đất bảo hộ, cho thiết lập một chế độ quân chủ tự trị nhưng bắt các Pharaoh Ai Cập hằng năm phải triều cống Hy Lạp. Không những thế, ông vẫn để một lực lượng quân đội lớn chiếm đóng xứ này để giám sát mọi việc nên chỉ ít lâu sau, nhiều tướng lãnh Hy lạp đã trở nên Pharaoh cai trị xứ này.
Khi Hy Lạp suy vong thì La Mã trở nên một thế lực quan trọng, kiểm soát toàn vùng Địa Trung Hải và xâm lăng Ai Cập. Lúc đó trong triều đình Ai Cập đang có việc tranh chấp ngôi vị Pharaoh. Công chúa Cleopatra sử dụng nữ sắc để lung lạc Hoàng đế Ceasar của La Mã khiến ông này phong cô làm Pharaoh.
Sau khi Caesar qua đời, Hoàng đế La Mã Augustus ban sắc lệnh sáp nhập Ai Cập thành một phần của đế quốc La Mã. Một lần nữa, người Ai Cập lại nai lưng ra phục vụ các triều vua La Mã cho đến khi đế quốc La Mã suy vong thì người Ả Rập xâm chiếm Ai Cập, đặt ra chế độ Caliphs để cai trị xứ này.
Từ đó hết quốc gia này đến quốc gia khác thay phiên nhau chiếm đóng, đô hộ Ai Cập cho đến thế kỷ 20, người Ai Cập mới thực sự giành lại chủ quyền.
CHỮ VIẾT AI CẬP
Từ 7000 năm trước Công nguyên, người Ai Cập đã có chữ viết, một thứ chữ tượng hình rất phong phú. Các nhà khảo cổ đã tìm được những tài liệu khắc trên đá đề cập đến vị trí các tinh tú cũng như ảnh hưởng thời tiết trong việc cấy cày ghi khắc vào năm 6700 trước Công nguyên.
Khi Ai Cập bị Ba Tư, Hy Lạp và Ả Rập cai trị thì văn hóa xứ này bị pha trộn với các ảnh hưởng ngoại lai nên dần dần thoái hóa, suy đồi. Mặc dù tiếng nói còn được sử dụng trong một thời gian nhưng chữ viết Ai Cập đã bị thất truyền vào khoảng đầu thế kỷ thứ ba sau Công nguyên.
Sử gia Julius ghi nhận không một người Ai Cập nào còn đọc được chữ viết của dân tộc họ nữa mà chỉ sử dụng chữ Hy Lạp, La Mã hoặc Ả Rập. Vì thế đa số người Ai Cập không hiểu được những dòng chữ ghi khắc trong các đền đài, lăng tẩm, cổ mộ, bia đá, thạch trụ nên chẳng mấy ai biết gì về nguồn gốc cũng như gia sản văn hóa phong phú mà cha ông họ đã để lại. Có lẽ vì thế người Ai Cập đã chấp nhận văn hóa Ả Rập như văn hóa chính thức của họ và trong mấy ngàn năm dài, lịch sử và văn hóa Ai Cập chỉ là những huyền thoại mơ hồ được kể lại trong những câu chuyện truyền khẩu chốn dân gian mà thôi.
Năm 1798, Hoàng đế Napoleon đem quân xâm chiếm Ai Cập. Ông cho xây cất những pháo đài quanh vùng duyên hải để ngăn ngừa tầm hoạt động của hải quân Anh. Trong lúc xây cất pháo đài nằm cạnh hải cảng Rosetta, Trung sĩ Pháo binh Boussard đã tìm được một khối đá màu đen trên có ghi khắc 54 dòng chữ Ai Cập và một bản dịch bằng tiếng Hy Lạp phía dưới. Chính nhờ thế mà nhà khảo cứu cổ ngữ Champollion mới nghiên cứu, sắp đặt lại các mẫu tự Ai Cập và phục hồi văn tự đã thất truyền này.
Qua công trình nghiên cứu của Champollion, các nhà khảo cổ đã dựa theo đó để phiên dịch các chữ viết ghi khắc trong các đền đài, cổ mộ, thạch trụ và phục hồi các chi tiết lịch sử Ai Cập cũng như góp phần phục hưng nền văn hóa phong phú này. Các công cuộc nghiên cứu về văn hóa Ai Cập bắt đầu khoảng cuối thế kỷ 19 qua sự khai quật các ngôi cổ mộ và đến nay đã hé mở cho chúng ta thấy được một phần về nền văn minh đã bị vùi lấp dưới lớp cát sa mạc này.
CÁC TÀI LIỆU KHẢO CỔ
Thời gian gần đây, người ta đã đào xới được rất nhiều cổ mộ và di tích như các cột đồng, bia đá ghi khắc các chi tiết lịch sử nên quá khứ huy hoàng của Ai Cập đã dần dần được phơi trải một cách khá rõ ràng, minh bạch. Từ trước đến nay, người ta chỉ biết về Ai Cập qua tài liệu của các sử gia Hy Lạp hoặc một vài truyền thuyết trong dân gian nhưng đến nay, các cuộc khảo cổ đã vén tấm màn bí mật để hé mở cho chúng ta thấy phần nào về nền văn minh cổ nhất lịch sử nhân loại này.
Giáo sư Bob Brier, nhà khảo cổ Ai Cập nổi tiếng nhất của hậu bán thế kỷ 20, người có công tìm ra hơn một trăm ngôi mộ của các Pharaoh Ai Cập, đã viết về cái chết của Pharaoh Akhenaten như sau:
"Mỗi khi một Pharaoh qua đời, triều đình đều gửi sứ giả đi khắp nước loan báo tin dữ này. Theo truyền thống, dân chúng ngưng hết mọi việc buôn bán, đồng áng trong ba ngày để chia buồn với hoàng tộc. Hiển nhiên cái chết của Pharaoh là một biến cố lớn vì không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra sau đó. Ai sẽ được thần linh chỉ định làm Pharaoh cai trị xứ này? Tuy nhiên theo sự suy nghiệm của tôi thì cái chết của Akhenaten có lẽ không như thế. Bên ngoài đa số tuy tỏ ra buồn rầu, lo lắng nhưng bên trong ắt hẳn một số không giấu được nỗi vui mừng. Hiển nhiên các giáo sĩ phái Amun phải vui lắm vì lời cầu xin của họ đã đến tai thánh thần.
Trong suốt lịch sử Ai Cập, Akhenaten là vị Pharaoh duy nhất không thần phục các nghi thức thờ cúng quỷ thần hay dâng cúng phẩm vật cho giới giáo sĩ như các Pharaoh đời trước và sau đó. Tại liệu đào được tại một đền thờ ở Memphis đã ghi: "Dưới thời Akhenaten, các đền thờ Amun từ Thebes đến Memphis đều hoang phế, điêu tàn. Các giáo sĩ không được triều đình cung cấp lễ vật nên rất đói khổ".
Hiển nhiên giới quan lại và quý tộc có lẽ cũng vui mừng không kém vì trong suốt thời gian trị vì Ai Cập, Akhenaten đã cắt giảm thuế má cho dân chúng tối đa. Không những thế, ông còn ban nhiều sắc luật cải tổ hệ thống bắt đinh, buôn bán nô lệ, thu thuế ruộng nương, đào xới khoáng vật cùng các quyền lợi mà giới quý tộc từ trước vẫn được hưởng. Tài liệu đào được trong ngôi mộ của nhà quý tộc Ankhesong đã ghi nhận: "Vợ tôi chết mà không được hưởng nghi thức tống táng của một mệnh phụ phu nhân. Đáng lẽ ra vợ tôi phải được phép chôn theo một trăm nô lệ để hầu hạ nàng ở thế giới bên kia. Thế nhưng Pharaoh Akhenaten lại hạ lệnh cấm chôn người sống trong mồ khiến vợ tôi phải chịu cảnh không người hầu hạ. Đã thế, qua sắc lệnh của nhà vua, sau khi vợ tôi chết, các nô lệ của nàng phải được trả tự do làm cho tôi thiệt hại một khoảng tiền rất lớn".
Hiển nhiên giới quân nhân có lẽ cũng vui mừng không kém vì từ nay họ có quyền gây chiến tranh và chiếm đoạt tài sản các nước khác. Trong một bản văn tìm thấy ở thung lũng Mayaheb có ghi: "Tại sao tôi lại sinh ra dưới triều đại một vị Pharaoh không thích chiến tranh? Nếu không có chiến tranh thì làm lính có ý nghĩa gì? Đời sống không có một giá trị gì, không có một vẻ vang gì nếu người lính không được múa gươm ra trận, uống máu quân thù và hưởng thụ những phụ nữ bắt được từ nước khác".
Theo sự suy nghiệm của tôi, có lẽ những nghệ sĩ sống quanh thành phố Amarna là lo lắng hơn cả vì số phận của họ bị đe họa nặng nề. Akhenaten là một Pharaoh yêu thích nghệ thuật, chiêu đãi nghệ sĩ nên quanh thủ đô Tel El Amarna, số nghệ sĩ kéo đến cư ngụ rất đông. Sự lo lắng của họ không phải vô cớ vì sau đó ít lâu, khi Pharaoh Smenkere (có sách dịch là Smenkare) lên ngôi thì ông lại dời đô về Memphis. Do đó Amarna đã trở nên một thành phố hoang vắng, điêu tàn."
Năm 1957, nhà khảo cổ Donald Redford đã tìm được ngôi mộ của Pharaoh Akhenaten tại một thung lũng hẻo lánh gần Amarna. Ông ghi nhận: "Hầu hết tất cả các Pharaoh Ai Cập đều cho chôn cất thi hài của mình trong Thung Lũng Mộ Vua (Valley of the Kings), nhưng không hiểu sao Akhenaten lại không chịu mai táng ở đây mà xây cho mình một nhà mồ khiêm tốn, giản dị nằm khuất sau một hẻm núi cách Amarna khoảng 6 dặm về phía đông. Ngôi mộ được đục sâu vào vách núi, cửa mộ có ghi dấu ấn của vua. Qua khung cửa hẹp là một hành lang dài khoảng mười lăm thước dẫn vào một căn phòng nhỏ, trong để cỗ quan tài của Akhenaten. Theo truyền thống, các Pharaoh Ai Cập đều cho xây cất những cỗ quan tài bằng đá, phía trong để áo quan bằng gỗ với nhiều lớp vỏ dày bao bọc quanh xác ướp (Sarcophagus). Tuy nhiên Akhenaten lại chỉ có một chiếc bệ bằng đá hoa cương sơ sài và một chiếc hòm gỗ không có nhiều lớp vỏ như các cỗ quan kia. Điểm đặc biệt là phía trên nắp hòm không chạm trổ hình ảnh thần linh như các vua chúa khác mà chỉ ghi tên người vợ thân yêu của ông là Nefertiti mà thôi. Điều này xác nhận sự không tin tưởng vào các thần linh như truyền thuyết Ai Cập vẫn nói về vị Pharaoh "vô thần, vô tín ngưỡng" này. Một điều bất ngờ nữa là người ta không tìm thấy dấu vết gì về xác ướp của ông. Khi khai quật ngôi mộ này, người ta không hề tìm thấy một xác ướp nào, kể cả các xác ướp giữ mồ, xác các nô lệ được chôn theo mồ để hầu hạ vua ở thế giới bên kia. Hiển nhiên đã có những kẻ trộm mồ mả, đến đây đào xới để lấy cắp đồ quý, nhưng thường thì các tay trộm này dùng lửa đốt cháy xác ướp trước khi lấy đồ quý và di tích chiếc xác bị cháy vẫn còn đó. Đằng này ngôi mộ không hề có một dấu vết gì khác thường. Không lẽ các tay trộm lại mang xác ướp của ông đi? Phải chăng Akhenaten được chôn cất tại nơi khác? Tuy nhiên trên vách tường ngôi mộ cổ vẽ lại cảnh tượng đám tang của Akhenaten cũng như ghi lại chi tiết về ngày giờ chết của ông một cách rõ ràng. Nếu quả như thế thì xác ướp của Akhenaten đã đi đâu?" Nhà khảo cổ Donald Redford, người bỏ ra hơn hai chục năm nghiên cứu tìm kiếm ngôi mộ của Akhenaten, đã viết: "Cuộc tìm ra ngôi mộ của Akhenaten có lẽ là một sự thất vọng lớn đối với tôi. Không những ngôi mộ trống trơn chẳng có đồ quý giá gì, mà ngay chiếc xác ướp cũng không có. Đã thế chiếc áo quan bằng gỗ cũng chỉ ghi khắc vài nét sơ sài, không có giá trị gì ngoài chứng cớ lịch sử. Có lẽ tài liệu quí nhất là mấy chục tập thơ của ông làm khi còn sinh tiền được chôn theo mồ mà thôi".
Qua tài liệu này, người ta thấy Akhenaten là một vị vua thi sĩ rất yêu cảnh vật thiên nhiên. Trong ba chục bài thơ chôn theo mộ có đến 26 bài ca tụng cảnh thiên nhiên, như cảnh rạng đông, buổi chiều tà, những đồng lúa hay thời tiết mưa nắng. Có bốn bài thơ của vua viết về vợ là hoàng hậu Nefertiti mà ông gọi là "Nàng Mật Ngọt" (Sweet Honey). Truyền thuyết Ai Cập cho rằng Akhenaten đã giả chết và thoát ra khỏi nhà mồ, do đó ông không chịu tống táng theo nghi thức ướp xác thông thường và cỗ quan tài của ông chỉ là một hòm gỗ sơ sài, chứ không đóng hàng chục lớp ván như những cỗ quan tài khác.
Một truyền thuyết khác cho rằng Akhenaten đã phục sinh nên trong mồ không có xác ướp. Có hàng chục giai thoại về Pharaoh thi sĩ này nhưng đến nay cái chết và những bí mật về ngôi mộ của Akhenaten vẫn là một dấu hỏi mà chưa ai tìm được câu trả lời. Trong công cuộc nghiên cứu, nhiều nhà khảo cổ đã làm việc một cách cẩu thả. Họ quá chú trọng đến việc phiên dịch các dòng chữ ghi khắc trong các ngôi cổ mộ mà không để ý đến những chi tiết lịch sử và phong tục xứ này nên đã có nhiều ngộ nhận đáng tiếc.
Thí dụ như Smenkere (Pharaoh Smenkere) được coi là "con trai" của Akhenaten. (Theo nhà khảo cổ Donald Redford thì danh từ "con" ở đây chỉ có nghĩa rằng Akhenaten đã nhận cho Smenkere được mang họ Amenophis chứ không có nghĩa là con ruột). Nhiều người đã kết luận rằng Pharaoh Smenkere là con trai của Akhenaten mà không chú ý đến chi tiết là Akhenaten có 6 người con (hai người chết sớm) chứ không có con trai. Nhiều nhà sử học đã ghi rằng Akhenaten truyền ngôi cho con trai là Smenkere mà không để ý đến chi tiết là Akhenaten chết năm 46 tuổi trong khi ngôi mộ của Smenkere ghi rõ ông này chết năm 72. Một người ngoài bốn mươi không thể có con trai ngoài bảy mươi được.
Cũng như thế, ngôi mộ của Smenkere ghi rõ ông này không có vợ. Chữ Ai Cập "Khum" (dịch sang Anh ngữ là "bare") nghĩa là không có gia đình hay con cái, thế mà có người lại ghi Tutankhamun là con trai của Smenkere.
Ngoài ra một số nhà khảo cổ khác còn cho Tutankhamun (King Tut) là con của Akhenaten mà quên rằng ông này không hề có con trai vì nếu ông có con trai thì một người như Smenkere chẳng thể làm Pharaoh được.
Sở dĩ có những kết luận vội vàng như thế vì Tutankhamun đã lấy Akhenaseamun, con gái lớn của Akhenaten làm vợ, tức là làm rể Akhenaten. Chữ Ai Cập, "Fi" có thể dịch nghĩa là con trai hay con rể cũng được.
NHỮNG TÊN GỌI THEO NGHĨA AI CẬP 

Trong tác phẩm The Egyptian, kịch tác gia Mika Waltari đã dựa theo truyền thuyết Ai Cập và Hy Lạp để tiểu thuyết hóa những nhân vật lịch sử như Sinuhe, Akhenaten, Horemheb. Tuy nhiên các chi tiết tìm được trong các ngôi cổ mộ gần đây đã cho thấy các truyền thuyết kia có lẽ không sai sự thật bao nhiêu.
Người Ai Cập rất chú trọng đến tên gọi, danh tánh vì việc định danh cho một người là nghi thức rất quan trọng có liên quan đến đời sống ở thế giới bên kia. Sau đây là ý nghĩa tên gọi của những nhân vật chính:
- Sinuhe (Độc Cô): Con người cô độc lang thang.
- Horemheb (Hùng Nhân): Người có nhiều hùng tính.
- Akhenaten (Thuận Thiên): Người sống thuận theo lòng trời.
- Smenkere (Giám Luật): Người thi hành luật pháp.
- Taiya (Ngư Nương): Người đẹp đánh cá. - Nefertiti (Mỹ Nương): Người đẹp từ xa đến.
- Baketamon (Thần Nương): Người tin theo quỷ thần.
- Meryt (Hạnh Nương): Người có nhiều nết tốt.
- Kepta (Lợi Nô): Người nô lệ chỉ biết tính toán lời lỗ.
Nói đến Ai Cập, người ta phải nhắc đến Kim Tự Tháp, một kiến trúc vĩ đại chưa từng có của lịch sử nhân loại. Làm sao người ta có thể di chuyển những tảng đá nặng hàng trăm tấn rồi sắp xếp chồng lên nhau một cách qui mô như thế được? Bằng kỹ thuật gì mà người xưa có thể đẽo ra những khối đá vuông vức để khi chồng lên nhau, nó vừa vặn như được đúc khuôn như thế? Người xưa xây Kim Tự Tháp vào mục đích gì?
Mặc dù có hàng chục giả thuyết khác nhau được đưa ra, nhưng hầu hết các nhà khoa học người Âu vẫn cho rằng Kim Tự Tháp chỉ là nhà mồ để tàng trữ thi thể các vua Pharaoh. Dĩ nhiên đó cũng chỉ là dự đoán. Các nhà sử học thận trọng không chấp nhận lời giải thích này. Họ đặt ra các câu hỏi rằng tại sao Ai Cập có hàng trăm Pharaoh mà chỉ có dăm bảy Kim Tự Tháp? Không lẽ người ta đem hai triệu ba trăm ngàn tảng đá, mỗi tảng nặng trên một trăm tấn, sắp xếp lên nhau một cách công phu chỉ để tàng trữ thi hài một Pharaoh?
Các nhà khảo cổ cẩn thận hơn đưa ra một dữ kiện khác rằng, người ta không hề tìm thấy một xác chết hay một dấu tích nào cho thấy Kim Tự Tháp là một nhà mồ. Vách tường trong Kim Tự Tháp trống trơn, không ghi khắc một dòng chữ hay tranh vẽ gì trong khi những mồ mả khai quật tại Thung Lũng Mộ Vua đều có rất nhiều hình vẽ, ghi nhận những chiến công oanh liệt cũng như chi tiết về vị Pharaoh liên hệ. Người ta còn tìm được đồ đạc, trang phục thuở sinh tiền chôn trong mồ để vị Pharaoh qua đời sử dụng ở thế giới bên kia. Chẳng lẽ một Pharaoh tốn công cho xây nhà mồ vĩ đại như thế chẳng để lại một dòng chữ hay hình ảnh gì về mình hay sao? Do đó, các nhà khảo cổ kết luận rằng chắc chắn Kim Tự Tháp không phải nhà mồ như mọi người vẫn nghĩ.
Tuy thế họ cũng bó tay không giải thích thêm được điều gì mới lạ. Cho đến nay Kim Tự Tháp Ai Cập vẫn còn là một bí mật mà chưa ai tìm ra câu trả lời.
THUNG LŨNG MỘ VUA
Thung Lũng Mộ Vua (Valley of the Kings) là nơi chôn cất dành riêng cho vua chúa Ai Cập và những quan triều có liên hệ đến hoàng tộc. Đây là một thung lũng hẹp, bao bọc bởi một rặng núi đá với những sườn dốc, nhấp nhô kỳ dị. Chính Ramses II, vị vua nổi tiếng nhất lịch sử Ai Cập, an giấc ngàn thu tại thung lũng này. Đây cũng là nơi Hatshepsut, người phụ nữ đầu tiên dám xưng là Pharaoh, bất chấp truyền thống trọng nam khinh nữ, được chôn cất. Khi những nhà khảo cổ người Âu tìm đến nghiên cứu thì những ngôi mộ đều trống rỗng vì bị kẻ trộm đào xới lấy đồ quí từ lâu, chỉ còn sót lại một số chum vại bằng đất nung và những hình ảnh ghi khắc trên vách đá mà thôi.
Thật ra ngay từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, sử gia Hy Lạp Diodorus Siculus đã đến viếng nơi này và ghi nhận: "Theo các giáo sĩ phụ trách việc cúng tế nơi đây thì trong nghĩa trang có bốn mươi bảy ngôi mộ Pharaoh nhưng hơn ba chục ngôi đã bị kẻ trộm đào xới và đốt phá tan hoang. Dù triều đình có cho quân sĩ canh phòng nghiêm ngặt và kết án tử hình những kẻ trộm mồ mả nhưng nạn đào xới để lấy đồ quí vẫn xảy ra như thường".
Mười lăm thế kỷ sau, Hầu tước Richard Polockle đến đây khảo sát nhưng ông chỉ tìm được di tích của chín ngôi mộ vì những ngôi mộ kia đã bị vùi sâu trong lòng cát sa mạc. Ông viết: "Đó là những ngôi mộ trống rỗng, đồ đạc bị đập phá, chỉ còn một ít chén bát bằng đất nung và hình ảnh vẽ trên vách là còn nguyên vẹn. Tôi tìm thấy một vài mẩu xương vụn của xác ướp bị đốt cháy nám đen nhưng không biết đó là xác vua Pharaoh hay xác người hầu cận bị ướp chôn theo mồ."
Vào năm 1798, Hoàng đế Nã Phá Luân (Napoleon) mang một đoàn tùy tùng gồm nhiều khoa học gia đến Ai Cập. Họ cũng không tìm thấy gì hơn ngoại trừ các cổ mộ trống rỗng và các thạch trụ ghi khắc những văn tự lạ lùng, không ai hiểu, Nã Phá Luân bèn cho tháo gỡ một thạch trụ (Obelisk) mang về Pháp và ngày nay nó trở nên một thắng tích cho du khách tại Paris.
Vào năm 1819, nhà thám hiểm Giovani Belzoni cho khởi công khai quật những ngôi cổ mộ tại đây với mục đích tìm kiếm các báu vật còn sót lại trong mồ. Ông cũng không tìm được gì ngoài di tích ngôi mộ của Pharaoh Seti I với những hình ảnh khắc trên vách đá rất đẹp. Thất vọng, ông cho vẽ lại những hình ảnh này rồi mang về Âu châu triển lãm và mở đầu cho phong trào nghiên cứu cổ vật Ai Cập.
Một trong những người có công lớn trong việc sưu tầm các cổ vật này là nhà sưu tầm cổ ngoạn Auguste Mariette. Ông tin rằng trải qua bao năm tháng, có lẽ các cổ vật này vẫn nằm trong tay dân chúng địa phương nên thay vì đào xới mất công, ông sẵn sàng trả một món tiền lớn để mua lại những cổ vật ấy. Chỉ trong vòng một năm, ông đã mua được hơn hai ngàn cổ vật rất giá trị, để mang về trưng bày trong bảo tàng viện Louvres, Pháp quốc.
Việc phát hiện khối đá đen Rosetta với những dòng chữ Ai Cập và Hy Lạp đã giúp nhà ngôn ngữ học Jean François Champolion sắp xếp các mẫu tự Ai Cập và phục hồi được văn tự đã thất truyền từ mấy ngàn năm nay. Nhờ thế, các nhà khảo cổ mới đọc được các dòng chữ ghi khắc trong cổ mộ. Chính vì thế, nhà khảo cổ Gaston Maspero đã đọc được tài liệu khắc trên đá của Pharaoh Hettetowey: "Ta rất đau lòng khi thấy các mồ mả trong thung lũng bị đào xới tan hoang, thi hài tổ tiên ta bị phơi bầy, không ai thờ cúng nên ta cho cải táng tất cả vào hang Deir El Bahri."
Đây là một chi tiết hết sức quan trọng, cho thấy nạn đào xới mồ mả để lấy đồ quí giá đã xảy ra từ lâu nên một Pharaoh phải mang thi hài tổ tiên cải táng vào một chỗ kín đáo. Nhưng hang Deir El Bahri nằm ở chỗ nào? Các cuộc tìm kiếm đều không mang được kết quả khả quan.
Cuối cùng Maspero nảy ra một sáng kiến táo bạo. Ông bắt chước Auguste Mariette, tìm mua cổ vật từ các con buôn Ai Cập nhưng treo giá rất cao cho các cuốn Tử Thư (Book of the Death). Đây là những cuốn sách được chôn theo quan tài của các Pharaoh, tìm được sách này là tìm được quan tài.
Quả nhiên ít lâu sau có người tìm đến bán cho ông cuốn Tử Thư của Pharaoh Hettetoway và trong một thời gian ngắn, ông sưu tập được hơn mười cuốn Tử Thư của các vương tôn, đại thần thuộc triều đại này. Hiển nhiên những con buôn Ai Cập đã biết chỗ côn cất thi hài của các Pharaoh nên mới lấy được những cuốn sách ấy. Ông bèn yêu cầu chính quyền Anh can thiệp và bắt giữ người bán cổ vật Abdul Er Rassould để điều tra. Qua sự thẩm vấn khéo léo, tên này khai rằng y đã tìm được hang Dier El Behri từ nhiều năm và sẵn sàng đưa Emil Brugsh, một thám tử người Anh, đến đó khảo sát.
El Behri là một hang sâu nằm trong lòng núi rất hiểm trở. Nếu không có người dẫn đường, ít ai có thể tìm ra được. Thám tử Brugsh phát hiện hơn năm mươi quan tài, chứa đựng thi hài các Pharaoh Ai Cập, từ thời đại Tân Sử đến thời đại của Pharaoh Hettetoway (hơn 400 năm).
Chính tại đây, Brugsh đã thấy xác ướp của Tutmosis I, II và III; Amenophis I và II (tổ tiên của Akhenaten); xác ướp của Smenkere, Horemheb; Seti I và II; Ramses I và II; Pinedjem I v.v… Tuy không phải là nhà khảo cổ nhưng ông cũng biết đây là một khám phá hết sức quan trọng. Ông cũng biết việc chính quyền Anh bắt giữ một người Ai Cập để điều tra nơi chôn giấu thi hài các vua Pharaoh có thể gây ra những hậu quả bất lợi. Nếu tin này lộ ra, người Ai Cập có thể viện cớ người Anh đến đào xới mồ mả tổ tiên họ để làm động cơ cho các lực lượng chính trị nổi dậy. Do đó ông vội vã cho thuyên chuyển những cỗ quan tài này về viện bảo tàng Cairo một cách gấp rút. Cũng vì thế, một số tài liệu đã bị thất lạc, hư hại, và ông đã không kịp ghi nhận căn hầm El Bahri bằng phim ảnh.
Sau khi kiểm điểm tất cả các thi hài, người ta thấy còn thiếu một số xác ướp của Tutmosis IV, Amenophis III và Menerpah I, là những Pharaoh đã có nhiều chiến công hiển hách trong lịch sử. Vì thế một cuộc tìm kiếm quy mô đã được tổ chức ngay sau đó. Năm 1898, nhà khảo cổ Victor Loret đã tìm được xác ướp của ba vị vua trên cùng với một số xác ướp khác được chôn giấu tại một hang núi gần đó. Đối chiếu với các tài liệu lịch sử thì hầu như tất cả các xác ướp Pharaoh của thời Tân Sử đều được phát hiện, chỉ trừ xác ướp của Akhenaten và Tutakhamun mà thôi.
PHẾ TÍCH AMARNA VÀ NHỮNG CÂU HỎI CHƯA ĐƯỢC GIẢI ĐÁP
Sau khi lên ngôi Pharaoh được 6 năm thì Akhenaten cho khởi công xây cất một thành phố gọi là Tel El Amarna. Không biết tại sao ông lại chọn một nơi chốn hoang vu, hẻo lánh ngoài sa mạc làm thủ đô như thế. Các nhà viết sử cho rằng Akhenaten muốn chọn một nơi không có đền thờ hay giáo sĩ của Amun (Đa thần giáo) để lập đền thờ Aten hay chân lý tuyệt đối. Người khác lại cho rằng ông muốn khởi xướng một triều đại mới, một tôn giáo mới nên chọn một nơi hoàn toàn mới mẻ, không chịu ảnh hưởng các truyền thống cũ, để dựng nghiệp.
Phần lớn các thành phố của Ai Cập đều được xây cất theo hình tam giác hay hình vuông, nhưng Amarna lại được xây cất theo hình tròn với trung tâm điểm là đền thờ Aten. Đây là một cuộc cách mạng kiến trúc rất lớn khi đó, tiêu biểu cho sự tin tưởng của Akhenaten về ngôi Thái Dương. Bên cạnh đền Aten là cung điện của Akhenaten. Đó là một cung điện nhỏ bé, khiêm tốn so với cung điện của các Pharaoh đời trước nhưng phía sau ông lại cho xây một thư viện khổng lồ, có thể chứa đựng rất nhiều sách vở. Hiển nhiên Pharaoh Akhenaten là người yêu thích sách vở, văn chương. Tài liệu tìm được tại đây ghi nhận rằng nhà vua đã cho thuyên chuyển rất nhiều sách vở tài liệu từ Thebes, Memphis và các thành phố lớn khác mang về đây để ông học hỏi.
Bên cạnh thư viện là một trường học đang được xây cất dở dang mang tên Per Ankh hay trường Khoa Học Của Sự Sống. Tại sao Akhenaten lại cho xây một Trung tâm Y khoa tại đây? Từ mấy ngàn năm nay, trường Khoa Học Của Sự Sống tọa lạc tại Abydos, vẫn được coi là nơi duy nhất đào tạo các học giả và y sĩ cho Ai Cập. Không lẽ Akhenaten cho xây một trường học khác tại Amarna cạnh tranh với trường tại Ai Cập hay sao? Đây là một câu hỏi mà các nhà khảo cổ không tìm được câu trả lời. Trước cửa thư viện là một đường lớn dẫn đến rạp hát, nơi Pharaoh thường đến xem hát. Phía sau rạp hát là một dãy nhà dành cho các nghệ sĩ trình diễn. Tài liệu tìm được cho biết lúc đó có cả trăm gánh hát khắp nơi đến đây trình diễn. Các bức bích họa còn cho thấy ngoài việc xem hát, Akhenaten còn yêu thích âm nhạc, tranh ảnh nghệ thuật và thơ phú. Nghệ thuật hội họa dưới thời Akhenaten là một chuyển hướng quan trọng vì hầu hết các tranh vẽ đều chú trọng đến đời sống của dân chúng với các màu sắc và nét vẽ phóng khoáng chứ không như nền hội họa khi trước, chỉ đề cao các thần linh và vua chúa. Quanh đó người ta còn tìm được hàng ngàn bài thơ của các thi sĩ viết trên vách hoặc trên những mảnh đất nung, phần lớn nội dung đều đề cập đến tình cảm thiên nhiên và con người, khác hẳn các thơ văn đời trước và sau đó, một mực ca tụng thần linh hay chiến công hiển hách của các bạo chúa. Đền thờ Aten cũng là một công trình kiến trúc độc đáo. Đó là một đền thờ lộ thiên, bên trong không có hình tượng, không có những cột đá uy nghi, không có các biểu tượng thần linh. Nó chỉ là một chiếc sân rộng, lớn bằng hai sân vận động ngày nay, với bàn thờ chính giữa để một biểu tượng Aten hình tròn, tượng trưng cho chân lý tuyệt đối. Có lẽ Ai Cập dưới triều đại Akhenaten phải là một thời buổi lạ lùng, vì trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, không một quốc gia hay vua chúa nào lại chủ trương tôn thờ một biểu tượng duy nhất, tượng trưng cho sự thật tuyệt đối cả.
Từ các quốc gia láng giềng như Syria, Ba Tư, Palestine, Nubia đến các bộ lạc man dã ở miền nam xứ Nubia, đâu đâu dân chúng cũng tôn thờ cả ngàn thần linh như thần đất, thần sông, thần làng, thần núi chứ chưa một nền văn hóa nào lại đề cập đến một ngôi vị duy nhất, độc tôn, toàn năng như chủ trương của Akhenaten.
Năm 1824, nhà khảo cổ John Wilkinson đến khảo sát Amarna và ghi nhận: "Đây là một thành phố với những kiến trúc lạ lùng, khác hẳn tất cả những thành phố Ai Cập mà tôi khảo sát. Khắp nơi là các bức bích họa và những bài thơ ghi khắc trên đá hay trên tường. Không tại đâu người ta làm thơ và vẽ lên tường nhiều như tại đây. Vì một lý do gì đó, các kiến trúc đều bị đập phá tan hoang, tên tuổi ghi khắc trên tường bị đục ra…"
Năm 1890, nhà khảo cổ Flinder Petrie đến đào xới nơi đây và ghi nhận: "Trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, các bích họa đều vẽ Pharaoh như một người khỏe mạnh, hùng tráng cưỡi ngựa, cầm gươm đánh đuổi quân thù; nhưng tại Amarna không có một bức họa nào vẽ cảnh chiến tranh cả. Khắp nơi chỉ toàn tranh vẽ đời sống dân chúng, phụ nữ gặt lúa, trẻ con chơi đùa, ông già câu cá. Không hề có bức vẽ Pharaoh dâng cúng phẩm vật cho thần linh, chỉ có những bức họa Pharaoh ngồi xem hát với vợ con hay đứng dưới chiếc đĩa tròn tỏa ánh sáng chói lọi".
Tuy nhiên các dòng chữ đề cập tên tuổi của vị Pharaoh này đều bị bôi xóa hay nếu khắc trên đá thì bị đục ra như để hậu thế không còn biết vị Pharaoh này là ai, tên gì. Một chi tiết lạ lùng hơn nữa là một số gạch đá, vật liệu xây cất cung điện của vua đã bị tháo gỡ mang đi như để xóa bỏ một thời đại trong lịch sử. Petrie cho khởi công đào xới quanh đó và tìm được rất nhiều tài liệu quí giá còn sót lại. Chính nhờ thế mà ông biết đến tên vị Pharaoh này là Akhenaten. Việc ghi chép các tài liệu lên giấy chỉ thảo (Papyrus) đã có từ ngàn xưa nhưng giấy chỉ thảo rất đắt, chỉ dành cho vua chúa mà thôi. Dưới triều đại Akhenaten, người ta bắt đầu sử dụng những miếng đất sét, ghi khắc lên đó rồi mang ra nung thành những mảnh ngói. Việc sử dụng những miếng ngói nung làm phương tiện truyền thông, phổ biến tư tưởng đã mở đầu cho một thời buổi vàng son của văn chương Ai Cập. Chưa lúc nào văn chương, thơ phú lại thịnh hành như thời đại này và nhờ những mảnh đất nung ấy mà Petrie đã tìm được những tài liệu quí giá do chính tay Akhenaten viết.
Cuộc đào xới quanh thư viện tại Amarna đã phát hiện ra rất nhiều tài liệu của Akhenaten viết, như sau: "Ta chỉ là người thuật lại những hiểu biết của cổ nhân chứ không phải là kẻ sáng chế ra những điều này".
Một mảnh ngói khác ghi nhận: "Ta chỉ học hỏi những hiểu biết của cổ nhân, sưu tầm, san định lại để phục hồi nền minh triết của Thánh sư Thoth. Chân lý của Thoth đã mất hẳn trong các đền thờ tôn giáo nhưng vẫn còn tồn tại nơi lòng người. Nếu biết quay vào bên trong tìm kiếm thì sẽ hiểu biết được những điều giảng dạy của Thoth". Nếu như thế, phải chăng nền tôn giáo thời cổ xưa của Ai Cập không hẳn là nền tôn giáo đa thần như nhiều học giả vẫn nghĩ? Trong các cổ vật Ai Cập, bức tượng bán thân của Nefertiti được coi là một công trình điêu khắc tuyệt hảo. Các nhà khảo cổ ngày nay đã đề cao Nefertiti như người "đàn bà đẹp nhất Ai Cập". Điều này có lẽ không sai bao nhiêu vì trong các cổ vật Ai Cập, người ta đã tìm thấy hàng trăm bài thơ ca tụng nhan sắc bà và một trong những tác giả nhiệt thành nhất chính là Pharaoh Akhenaten. Hầu hết trong các bức bích họa của Akhenaten đều có hình ảnh của Nefertiti đứng cạnh, hình như họ không hề rời nhau. Trước khi chết, Akhenaten truyền lệnh cho khắc tên Nefertiti quanh cỗ quan tài của ông chứ không ghi khắc hình ảnh các thần linh như truyền thống Ai Cập. Người ta còn tìm được trong mộ của ông rất nhiều bài thơ ghi khắc trên những tấm bảng đá, trong đó có nhiều bài nói về "người đàn bà ngọt ngào như mật ong" này.
Tài liệu lịch sử ghi rằng sau khi Akhenaten qua đời, Smenkere lên ngôi Pharaoh và dời thủ đô về Memphis nhưng Nefertiti, khi đó mới ngoài ba mươi tuổi, vẫn tiếp tục sống tại Amarna với bốn người con gái. Smenkere chỉ làm vua được hai năm thì qua đời. Trước khi chết, ông truyền lệnh cho con trai duy nhất là Tut phải thành hôn với Akhensenaten, con gái lớn của Akhenaten.
Pharaoh Tutankhamun cũng chỉ cai trị được 9 năm thì qua đời. Vì ông chưa có con nên ngôi vị Pharaoh được truyền cho Tể tướng Horemheb. Dưới sự cai trị của Horemheb, Ai Cập trở lại địa vị cường quốc với một lực lượng quân sự hùng hậu nhưng khi lên ngôi, Horemheb vẫn còn độc thân.
Truyền thống Ai Cập khuyến khích đàn ông lập gia đình sớm. Đa số con nhà dân giã đều lập gia đình khoảng từ mười sáu đến hai mươi và con nhà quyền quý thường lập gia đình sớm hơn nữa. Một người chỉ huy Ngự lâm quân dưới thời Akhenaten, làm tể tướng thời Smenkere và Tutankhamun mà vẫn độc thân là một việc lạ. Khi lên ngôi Pharaoh thì Horemheb đã ngoài bốn mươi và mãi đến tám năm sau ông mới chịu lập gia đình. Trong lịch sử Ai Cập, có lẽ Horemheb là Pharaoh duy nhất lập gia đình muộn màng như thế.
Năm 1967, nhà khảo cổ Kevin Livingston khởi công khai quật mồ của Horemheb trong Thung Lũng Mộ Vua. Ông phát hiện rằng các tảng đá xây mồ đều là những tảng đã cũ, đã được dùng từ trước tại Amarna. Theo truyền thống kiến trúc Ai Cập, mỗi khi đẽo đá người ta thường khắc lên đó niên hiệu của Pharaoh rồi đánh số thứ tự theo họa đồ kiến trúc của địa điểm xây cất. Livingston tìm thấy các tảng đá xây mồ cho Horemheb đều được tháo gỡ từ cung điện của Akhenaten tại Amarna. Mặt đá khắc ghi nhiên hiệu của Akhenaten được xoay vào phía trong rồi người ta khắc niên hiệu của Horemheb ra phía ngoài nên khi khai quật ngôi mộ này, Livingston đã tìm được rất nhiều tảng đá có ghi khắc niên hiệu của cả hai Pharaoh.
Tại sao Horemheb lại cho tháo gỡ những tảng đá tại cung điện của Akhenaten để xây nhà mồ cho mình? Không lẽ một Pharaoh oai phong lừng lẫy như ông lại hà tiện đến nỗi phải ăn cắp gạch đá từ cung điện vị vua trước để xây nơi chốn an nghỉ cho mình?
Vì bên cạnh niên hiệu Pharaoh là số thứ tự của địa điểm xây cất nên Livingston đã phát hiện được một chi tiết vô cùng lý thú: Tất cả những tảng đá xây mồ của Horemheb đều được tháo gỡ ra từ phòng riêng của Nefertiti, trong cung điện của Akhenaten.
Cuộc khảo nghiệm tại Amarna cho thấy cung điện của Akhenaten bị tháo gỡ ra thành nhiều mảnh; một số gạch đã được chuyển đi nơi khác, chỉ còn lại một số nằm vương vãi khắp nơi. Vì các gạch đá đều được đánh số thứ tự khác nhau để thợ thuyền xây cất nên người ta có thể biết đích xác số gạch bị lấy đi thuộc nơi nào trong cung. Cuộc điều tra cho thấy số gạch từ phòng riêng của Nefertiti đã bị lấy đi để xây mồ cho Horemheb. Tại sao lại có việc kỳ lạ như thế? Ngoài ra những bia đá, thạch trụ có ghi tên Nefertiti đều bị xóa bỏ hết, dường như người ta không còn muốn ai biết đến bà này nữa.
Theo tài liệu thì sau khi Akhenaten qua đời, Smenkere cho dời thủ đô về lại Memphis nhưng Nefertiti vẫn tiếp tục sống tại Amarna. Dù con gái lớn của bà lấy Tutankhamun, bà vẫn sống tại đây với ba người con gái sau cho đến khi qua đời. Không ai biết đời sống của người đàn bà đẹp nhất Ai Cập tại cố đô hẻo lánh hoang tàn này như thế nào nhưng sau khi bà qua đời được hơn một năm thì Pharaoh Horemheb mới lập gia đình.
Thông thường ngay sau khi lên ngôi, việc đầu tiên của các Pharaoh là lo xây cất mồ mả cho mình nhưng tài liệu trong mồ Horemheb ghi rằng ông cho khởi công xây mộ sau khi Nefertiti qua đời được khoảng một năm. Có thể ông bận rộn việc chấn chỉnh quân lực để chuẩn bị cho chiến tranh nên không cho xây cất nhà mồ ngay, nhưng tại sao ông lại cho tháo gỡ gạch đá từ phòng riêng của Nefertiti để xây mồ mình? Nếu vì lý do nào đó ông không thích Akhenaten thì việc ông cho phá hủy cung điện tại Amarna không phải là điều lạ. Trong lịch sử thiếu gì các Pharaoh cho đào mồ xới mả hay phá hủy cung điện của vị vua trước vì hận thù cá nhân, nhưng chưa có ai lại đi lấy gạch vụn ấy về xây mồ mả cho mình. Một Pharaoh oai phong như Horemheb đâu thể tiếc chút gạch vụn đó, trừ khi ông đã thầm yêu trộm nhớ người đàn bà đẹp nhất Ai Cập này! Chỉ có lý do đó mới giải thích được việc một Pharaoh bách chiến bách thắng như ông lại cho lấy gạch từ phòng riêng của bà vợ cựu hoàng đế về để xây mộ cho mình.
Người Ai Cập tin tưởng vào đời sống ở thế giới bên kia và thường chôn trong mồ những đồ đạc mà họ thích nhất, để mang nó qua cõi bên kia. Phải chăng việc mang gạch đá từ phòng riêng của Nefertiti để xây mồ cho mình ám chỉ việc Horemheb muốn sống mãi trong căn phòng riêng của người đàn bà ấy? Do đó ông mang cả căn phòng đó xuống tuyền đài?
Phải chăng vì ghen với Akhenaten mà ông cho bôi xóa tên Nefertiti trong các bia đá, thạch trụ? Dĩ nhiên người chỉ huy Ngự lâm như Horemheb phải có nhiều cơ hội gặp gỡ hoàng hậu Nefertiti và sắc đẹp của bà đã chinh phục con tim Horemheb. Khi Akhenaten còn sống thì đây chỉ là một thứ tình thầm kín, tuyệt vọng; nhưng khi ông này qua đời, Smenkere lên ngôi Pharaoh thì Horemheb có thể xin được thưởng cho mình bà vợ của ông vua kia. Phong tục Ai Cập không ngăn cấm việc một Tể tướng lấy một quả phụ vợ vua trước. Trừ khi Nefertiti cự tuyệt mối tình này để thủ tiết với Akhenaten. Phải chăng vì thế Horemheb đã ôm mối tình tuyệt vọng cho đến khi Nefertiti qua đời rồi còn cho gỡ gạch đá từ phòng riêng của bà này về xây cất nơi an nghỉ cuối cùng cho mình?
Cho đến nay, các nhà khảo cổ chưa khám phá ra ngôi mộ của Nefertiti mặc dù công cuộc khai quật chung quanh Amarna vẫn tiến hành đều đặn. Có lẽ người ta sẽ không bao giờ tìm được nấm mồ của người đàn bà đẹp nhất Ai Cập ấy! Nefertiti qua đời khi Amarna đã suy tàn, khi dân chúng không còn muốn nhắc nhở gì đến Akhenaten nữa. Ai Cập đã có một Pharaoh khác và người ta đang chuẩn bị chiến tranh. Không thấy một tài liệu gì ghi nhận về đám tang của bà và dĩ nhiên xác của bà không được ướp vì các giáo sĩ phái Amun không bao giờ tẩm liệm, ướp xác cho những kẻ "phản giáo", không tin tưởng vào thần Amun. Nếu không được ướp thì có lẽ thân xác của Nefertiti đã tan thành tro bụi từ lâu rồi và chỉ còn duy nhất bức tượng bán thân của bà tồn tại đến nay. Cuộc phát hiện ra việc Horemheb lấy gạch từ Amarna về xây mồ cho mình vẫn là một câu hỏi mà mấy ngàn năm nay chưa ai tìm được câu trả lời đích xác.
Cũng như những vết chân trên cát chỉ tồn tại một thoáng giây rồi phai mờ; huyền thoại về một người Ai Cập, qua Hy Lạp mở trường dạy học, đào tạo nhiều thế hệ học trò xuất sắc chỉ còn là một câu chuyện mơ hồ trong cuộc sống ồn ào, náo nhiệt ngày nay.
Mika Waltari
Nguyên Phong dịch
Theo https://thuvienhoasen.org/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đoàn Văn Cừ với hội xuân và những phiên chợ tết Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam ...