Thứ Tư, 26 tháng 8, 2020

Dấu chân trên cát 2

Dấu chân trên cát 2

CHƯƠNG 5
Khi tôi và Horemheb bước vào cung điện thì Hoàng đế Amenophis đang ngồi làm mẫu cho các nhà điêu khắc tạc hình ngài. Theo truyền thống, các Pharaoh đều cho tạc một pho tượng mẫu làm tiêu chuẩn cho việc khắc ghi hình ảnh của mình trong các đền đài, lăng tẩm, cột trụ, bia đá để lại cho đời sau. Việc chọn bức tượng mẫu là điều vô cùng quan trọng nên các Pharaoh đều xét rất kỹ pho tượng này cho đến khi thật vừa ý mới thôi.
Vừa thấy chúng tôi, Hoàng đế Amenophis đã hỏi:
- Này Horemheb, ngươi thấy những bức tượng này như thế nào?
Horemheb nhìn ngắm qua loa một vài pho tượng rồi khéo léo nói:
- Pho tượng nào cũng đẹp cả, hạ thần là kẻ chỉ biết dùng kiếm chứ không biết gì nhiều về nghệ thuật, xin Pharaoh hãy hỏi những người có khiếu thẩm mỹ hơn. Hoàng đế quay qua tôi:
- Phần ngươi thấy sao?
Tôi chăm chú quan sát những pho tượng nhưng thất vọng vì không hiểu sao chúng không giống Hoàng đế chút nào. Pharaoh Amenophis có khuôn mặt dài như mặt ngựa, đôi lông mày rất rậm và hai con mắt lớn, gần như lồi ra. Theo tiêu chuẩn lúc đó thì ngài không phải là người "đẹp trai" cho lắm nhưng đa số pho tượng nào cũng tạc ngài có khuôn mặt vuông vức, cặp mắt oai nghiêm với những đường nét hùng tráng. Tuy Hoàng đế cao lớn nhưng vì ít hoạt động nên bụng ngài cũng to hơn người thường. Thế mà các nhà điêu khắc lại tạc ngài có một thân thể cân đối, khỏe mạnh, ngực nở, bụng thon. Tôi định lên tiếng phê bình thì bỗng Horemheb đằng hắng một tiếng lớn khiến tôi giật mình ấp úng, nửa muốn nói, nửa lại ngại ngùng.
Hoàng đế mỉm cười:
- Ta đang trách các nhà điêu khắc vụng về vì các pho tượng này không giống ta chút nào. Ta muốn họ tạc lại cho đúng với sự thật… Này Sinuhe, ngươi đừng ngại ngùng gì, cứ thẳng thắn nói đi.
- Hạ thần đồng ý với nhận xét của Pharaoh. Nghe thế, Horemheb liền phát tay ra hiệu cho các nhà điêu khắc:
- Các ông đã nghe rõ lệnh của Pharaoh chưa?
Các nhà điêu khắc nhìn nhau ngơ ngác. Theo truyền thống Ai Cập, Pharaoh vừa là người, vừa là thần, làm trung gian giữa các sức mạnh huyền bí và các kiến thức siêu việt. Một người như thế phải có hình dáng oai nghiêm, hùng tráng khác thường chứ tạc hình một kẻ mặt dài, mắt lồi, bụng phệ thì có khác gì chế giễu Hoàng đế? Tội phạm thượng như thế có thể bị quăng vào hầm sư tử đói ngay. Không những thế, đây là bức tượng mẫu làm chuẩn cho mọi công trình kiến trúc, nghệ thuật và tài liệu lịch sử sau này. Không lẽ trong các lăng tẩm, bia đá, thạch trụ lại tạc hình một người "xấu trai" như thế sao?
Hình như đoán được ý các nhà điêu khắc, Hoàng đế Amenophis mỉm cười khuyên:
- Các ông hãy làm việc cho đúng với sự thật, đừng thay đổi hay thêm thắt gì. Nghệ thuật chân chính là việc nói lên sự thật vì chỉ có sự thật mới tồn tại muôn đời. Các ông đừng vẽ vời những đường nét không đúng với sự thật.
Các nhà điêu khắc vội vã bắt tay vào việc. Hoàng đế Amenophis thong thả ngồi xuống ghế làm mẫu. Một gã nô lệ đưa vào một đoàn hát giúp vui. Horemheb ra dấu cho tôi ngồi xuống nghe nhưng tôi không phải là người biết thưởng thức âm nhạc nên chỉ ngồi nghe lấy lệ. Truyền thống âm nhạc Ai Cập gắn liền với tôn giáo, đa số các nhạc sĩ đều được giáo dục cẩn thận trong các đền thờ vì âm nhạc chính là những nghi thức tôn giáo. Cũng vì thế, đối tượng của âm nhạc luôn luôn bị giới hạn và tập trung vào việc ca tụng thần linh hoặc công lao của Pharaoh mà thôi.
Nghe một lúc, Hoàng đế Amenophis nhăn mặt:
- Ta chán những loại âm nhạc như thế này rồi. Horemheb hãy ra ngoài thành tìm cho ta một đoàn hát rong vào đây.
Đoàn hát rong là những nghệ sĩ lang thang sống rày đây mai đó và không chịu sự quản thúc của các giáo sĩ trong đền thờ. Không những người hát rong có một loại nhạc khác thường mà còn sử dụng các nhạc khí khác hẳn với các nhạc khí truyền thống. Vì không chịu tuân theo các khuôn mẫu tôn giáo nên đối tượng âm nhạc của họ rất tự do, phóng khoáng và vì thế các nhóm hát rong đều bị giới giáo sĩ lên án gắt gao. Có nhiều lúc họ bị ngược đãi, tù đày và loại nhạc của họ bị cấm đoán nhưng họ vẫn lén lút hoạt động vì nhạc của họ thích hợp với lòng dân hơn các loại nhạc truyền thống tôn giáo.
Một lúc sau, Horemheb dẫn vào một đoàn hát rong phục sức rất lạ lùng. Họ ngơ ngác nhìn Pharaoh với một vẻ e dè, sợ sệt vì không biết vị hoàng đế này muốn gì.
Đoàn hát gồm một ông già sử dụng nhạc khí, hai thanh niên chuyên nhào lộn biểu diễn và ba cô gái vừa múa, vừa hát, vừa kể chuyện cổ tích dân gian. Được lệnh, họ bắt đầu trổ tài nhưng có lẽ còn e ngại nên họ tự giới hạn việc trình diễn trong các bản nhạc truyền thống mà thôi.
Nghe một lúc, Hoàng đế lên tiếng:
- Phải chăng các ngươi từ miền Đông đến? - Thưa vâng, chúng tôi đến từ vùng Beda. Hoàng đế gật đầu ra lệnh:
- Nếu vậy ta muốn nghe những bài hát đặc biệt của dân Palestine.
Đối với người Ai Cập, Palestine chỉ là miền sa mạc hoang vu, dân cư thưa thớt sống quanh những ốc đảo và bị coi khinh là man di mọi rợ. Việc Pharaoh thưởng thức nhạc của kẻ thiếu văn minh này là một điều hết sức bất ngờ cho những nhạc công trong triều. Tôi nhìn rõ những nét mặt khó chịu, đầy bất mãn của họ nhưng dĩ nhiên không ai dám có phản ứng gì. Tôi ngồi nghe một lúc rồi nhân cơ hội không ai để ý, chuồn về nhà trọ nghỉ ngơi.
Việc một Pharaoh lại thích nghe những loại nhạc dân gian này được loan truyền khắp thủ đô. Người ta bàn tán xôn xao, người chê, kẻ khen nhưng vài hôm sau khi có tin một đoàn hát rong khác cũng được mời vào cung trình diễn thì dư luận đã thay đổi nhanh chóng. Khắp Memphis, các đoàn hát rong ở đâu xuất hiện như cỏ dại sau cơn mưa rào. Các bài hát với thể nhạc và âm điệu mới được dịp phổ biến và lan rộng khắp nơi.
Ít lâu sau, khi pho tượng mẫu của Hoàng đế Amenophis đời thứ tư được hoàn tất thì người ta còn sửng sốt hơn nữa. Đây là lần đầu tiên người Ai Cập thấy Pharaoh của họ có đường nét giống người hơn là một vị thần. Pho tượng Pharaoh có khuôn mặt dài, lông mày rậm, mắt lồi và chiếc bụng khá lớn đã trở thành đề tài của nhiều cuộc bàn cãi sôi nổi. Người bảo thủ thì chê Pharaoh không có khiếu thẩm mỹ nhưng giới nghệ sĩ đã dẫn chứng câu nói của Pharaoh: "Nghệ thuật chân chính là việc nói lên sự thật vì chỉ có sự thật mới tồn tại muôn đời" như bằng chứng cho sự thay đổi đang bắt đầu.
Theo truyền thống, cửa cung điện luôn luôn đặt một tấm bia đá ghi chép công trạng của Pharaoh đương thời. Khi vua qua đời, tấm bia đá này sẽ được chôn theo mộ vua như một chứng tích về cuộc đời và công trạng hiển hách của hoàng đế đối với lịch sử Ai Cập. Vì tầm mức quan trọng của nó, các Pharaoh đều cho khắc thêm hình ảnh của mình oai nghiêm ngồi trên ngai vàng với các thần linh bao quanh che chở và ban phép lành.
Đến đời Pharaoh Ahmose, nhà vua cho khắc hình ảnh của vua và mẹ vua, Thái hậu Ebana, ngồi cạnh nhau. Đây là lần đầu trong lịch sử Ai Cập, hình ảnh một người đàn bà được khắc lên tấm bia đá danh dự này. Trong suốt mấy chục năm, Hoàng đế Ahmose phải lo đánh nam dẹp bắc, mở mang bờ cõi cho Ai Cập nên mẹ vua, Thái hậu Ebana, đã thay mặt ông trông coi việc triều chính, do đó bà được hưởng danh dự này. Đến đời Pharaoh Amenophis đệ nhất, nhà vua cũng cho khắc hình ảnh mình và mẹ mình, Thái hậu Nofretari, lên bia đá. Sở dĩ Thái hậu Nofretari được tôn sùng vì bà đã cho xây nhiều đền thờ khắp nước và được giới giáo sĩ coi là ân nhân lớn của họ. Hình ảnh bà và Pharaoh đang làm lễ dâng hương trước bàn thờ thần linh, với các giáo sĩ đứng hầu chung quanh, đã nói lên lòng sùng tín và sức mạnh của tôn giáo trong triều đại này.
Pharaoh Amenophis đệ nhị có công mở mang bờ cõi lên miền bắc. Ông chiếm đất Palestine và Syria, bắt sống hai vị vua xứ này rồi cầm tù họ trong nhiều năm trước khi thả ra. Ông cho khắc hình ảnh của mình oai hùng ngồi trên xe ngựa với hai vị vua xứ kia bị trói ở phía sau.
Theo gương cha, Pharaoh Amenophis đệ tam tiếp tục mở mang bờ cõi cho Ai Cập. Phía bắc, ông đánh phá Syria và Palestine, bắt hai xứ này quy phục làm chư hầu, hàng năm phải triều sống. Phía nam, ông xua quân chiếm Nubia và bắt hàng ngàn trẻ con xứ này mang về Ai Cập làm nô lệ. Vua xứ Nubia phải cắt một nửa lãnh thổ, những vùng có mỏ vàng mỏ bạc, cống hiến cho Ai Cập. Không như Syria và Palestine là nước chư hầu, Nubia trở thành thuộc địa, đặt dưới sự cai quản của một hoàng thân có công lớn là Oka Mazuk (ông ngoại tôi). Pharaoh Amenophis đệ tam đã cho ghi khắc hình ảnh của mình oai hùng ngồi trên xe ngựa, theo sau là những đoàn xe chuyên chở tài nguyên, chiến lợi phẩm, cùng rất nhiều nô lệ bị trói dẫn đi theo xe. Dư luận Ai Cập bắt đầu bàn tán, không biết Pharaoh Amenophis đệ tứ sẽ cho ghi khắc hình ảnh, công trạng của mình như thế nào lên tấm bia đá danh dự kia? Không lẽ lại tạc hình một kẻ mặt dài, lông mày rậm, bụng to ngồi xem các đoàn hát rong trình diễn? Khắp Memphis, người ta đã bàn bạc và đánh cá với nhau về hình ảnh ghi khắc trên tấm bia này cho đến khi nó được công bố: Theo gương cha và ông nội, Hoàng đế Amenophis đời thứ tư cũng cho khắc hình ảnh của mình đứng trên xe ngựa. Thay vì cầm gươm thì nhà vua lại cầm một bó hoa và đang ôm hôn Hoàng hậu Nefertiti một cách nồng nàn. Thay vì có các thần linh bao quanh che chở thì nhà vua cho khắc một chiếc đĩa vàng (Aten) to lớn, tượng trưng cho ngôi Thái Dương. Ngay trên tấm bia, Hoàng đế còn ban sắc lệnh thay đổi danh hiệu cho mình từ Amenophis đời thứ tư thành Akhenaten đời thứ nhất. (Akhenaten có thể tạm dịch là thuận theo ý trời hay ngôi Thái Dương, tượng trưng bằng chiếc đĩa tròn (Aten). Chữ Akhen có nghĩa là hoàn toàn dâng hiến. Chữ Khen, gốc ở bộ chữ Shu còn có nghĩa là ánh sáng hướng dẫn. Cuốn Tử Thư Ai Cập đề cập rất nhiều đến bộ chữ Shu và sử dụng chữ Khen như luồng sáng hướng dẫn linh hồn đi tái sinh hay sự đổi mới.
- Ghi chú của dịch giả)
Tấm bia đá lịch sử này đã tạo ra một chấn động lớn khắp nước. Giới giáo sĩ cực lực phản đối vị lãnh đạo tinh thần của họ vì không chú trọng gì đến các thần linh mà chỉ đề cao một chiếc đĩa tròn, tượng trưng cho ngôi Thái Dương. Ngoài ra họ cũng bất mãn về việc nhà vua cho khắc hình ảnh một người đàn bà, chưa có công trạng gì rõ rệt, lên tấm bia đá danh dự. Giới quan lại cũng hết sức khó chịu vì việc đầu tiên Pharaoh ban hành là những đạo luật giảm thuế, bãi bỏ việc sưu tra để bắt đinh và cắt giảm quyền hành của một số quan lại và giáo sĩ. Giới quân nhân cũng phản đối vị lãnh đạo quân sự của họ, thay vì cầm gươm giáo lại cầm một bó hoa. Một vị chỉ huy thích hoa và đàn bà hơn gươm giáo như thế sẽ khó lòng gây chiến tranh và nếu không có chiến tranh thì quân đội sẽ không được hưởng các quyền lợi vật chất như đất đai, nô lệ; đó là chưa kể việc thăng quan tiến chức nhờ chiến tranh.
Tuy nhiên với người dân Ai Cập thì việc có một Pharaoh "khác thường" này đã tạo ra nhiều thích thú bất ngờ và mở đầu cho một phong trào cải cách chưa từng có trong lịch sử. Người ta bắt đầu nói đến tình yêu nam nữ trong văn chương và âm nhạc; người ta đề cập đến thời trang phụ nữ qua hình ảnh Hoàng hậu Nefertiti.
Khi mối đe dọa của chiến tranh không còn nữa, qua những hòa ước ký kết với các nước láng giềng, thì người dân Ai Cập bắt đầu lo kiến thiết. Các công trình xây cất được khởi công từ Abka, sát biên giới Nubia đến Beda, biên giới Palestins. Khắp nơi, các thi sĩ được tự do làm thơ, các đoàn hát rong được tự do phổ biến tư tưởng mới lạ và nhiều môn văn học nghệ thuật mới được phát sinh.
Người Ai Cập rất thích bích họa nhưng hầu như từ trước đến nay, mọi tranh ảnh đều có tính cách tôn giáo, miêu tả giai thoại phục sinh của thần Osiris hay việc xét xử của thần Horus. Kể từ lúc Hoàng đế Akhenaten lên ngôi, không đề cao thần linh nữa, thì những bức tranh miêu tả đời sống bình thường của người dân bắt đầu xuất hiện. Tranh vẽ cảnh dân chúng làm ruộng, cảnh những thuyền đánh cá trên sông Nile, cảnh trẻ con chơi đùa trong những ngày hội v.v… được vẽ nhan nhản khắp nơi. Các họa sĩ đua nhau sáng tác, các trường phái hội họa ra đời đưa nghệ thuật hội họa Ai Cập lên một địa vị quan trọng chưa từng có.
Ngành thủ công nghệ cũng phát triển. Các hàng sợi dệt được phổ biến khắp nơi nên thời trang cũng bắt đầu thay đổi. Mái tóc của phụ nữ được chải chuốt và bới cao lên thay vì để xõa, rồi được tô điểm bằng những màu sắc lạ lùng. Đồ trang sức, mỹ phẩm từ các xứ quanh vùng như Assyria, Ba Tư, Babylon, A Phú Hãn, Ấn Độ được dịp tràn vào thị trường Ai Cập khiến việc buôn bán, trao đổi hàng hóa phát triển mãnh liệt. Những bộ lạc Do Thái nghèo đói sống vất vưởng trong vùng Palestine bỗng trở nên những con buôn thiện nghệ, hăng hái tìm đến những nơi xa xôi mua những thứ hiếm có để bán tại Ai Cập. 
Từ trước đến nay, văn kiện, thư từ đều được khắc lên bảng đá hoặc ghi lại trên giấy chỉ thảo rất tốn kém, chỉ dành cho triều đình và giới quí tộc. Từ lâu, người Ba Tư đã phát kiến ra việc sử dụng những mảnh đất sét để khắc chữ vào rồi nung lên để giữ được lâu nên việc liên lạc, truyền thông đã được phổ biến mạnh mẽ. Ba Tư là xứ yêu chuộng văn chương, thơ phú nên thơ văn ghi chép trên những mảnh đất nung này cũng theo hàng hóa truyền vào Ai Cập. Các bài thơ ghi trên mảnh ngói được thanh niên nam nữ truyền tay nhau đọc rất nhiều. Chỉ một thời gian ngắn sau khi Hoàng đế Akhenaten lên ngôi, bộ mặt của Ai Cập đã đổi khác. Từ Memphis đến Thebes, từ Edfu đến Hiba đều tràn ngập những đoàn thương buôn khắp nơi kéo đến mua bán, đổi chác.
Đối với người Ai Cập, Pharaoh là một vị thần có trách nhiệm cai trị xứ này, quyền hành của Pharaoh là tuyệt đối, kẻ nào bất tuân sẽ bị xử tử, nên dù không đồng ý với chủ trương cải cách của Akhenaten nhưng không ai dám tỏ thái độ. Sau Pharaoh là giới giáo sĩ, làm trung gian giữa thần và người, phụ tá cho Pharaoh trong việc cai trị Ai Cập. Dù Pharaoh được truyền ngôi cho con nhưng người này chỉ chính thức trở thành Pharaoh sau khi được các giáo sĩ làm nghi lễ phong vương. Trong buổi lễ này, Pharaoh sẽ hứa hẹn với thần linh một số điều kiện như cúng lễ vật, xây cất đền thờ, hoặc ban hành các đạo luật dành nhiều quyền lợi cho giới giáo sĩ.
Không ai biết lúc lên ngôi, Akhenaten đã hứa hẹn những gì nhưng việc ông thay đổi nghi thức trong triều, không đề cao thần linh mà tôn thờ chiếc đĩa tròn (Aten) tượng trưng cho ngôi Thái Dương đã làm giới giáo sĩ quan tâm nhưng họ chưa dám tỏ thái độ. Đa số chưa quên biến cố phản loạn vừa xảy ra. Mặc dù Akhenaten đã ra lệnh thiêu hủy chứng tích, không trừng phạt ai nhưng mọi người đều biết Smenkere là người đã đích thân điều tra, phát hiện các phần tử phản nghịch nên ai cũng kiêng nể ông này. Việc Akhenaten phá lệ, phong cho một người ngoài dòng họ như Smenkere làm tể tướng đã củng cố ngôi vị của Pharaoh thêm vững chắc.
Người Ai Cập tôn thờ rất nhiều thần linh, hầu như làng mạc, thôn xóm nào cũng có những vị thần địa phương như thần làng, thần cây, thần sông, thần núi. Không những thế, mỗi gia tộc còn có những thần linh trông nom gia tộc của họ. Họ xây cất một nhà từ đường để những người trong gia tộc đến đó lễ bái, cầu xin. Trên nguyên tắc, thần gia tộc không nhiều quyền lực như thần làng, thần làng không nhiều quyền lực bằng thần tỉnh, và thần tỉnh không bằng các thần linh cai trị những vùng có phạm vi địa lý rộng lớn hơn.
Có hàng ngàn thần linh và những thần này luôn luôn thay đổi tùy theo các biến cố xảy ra trong xã hội loài người. Một gia đình giàu có, thế lực, có thể ảnh hưởng đến cả làng, có nghĩa là vị thần gia tộc đó đã mạnh hơn vị thần làng. Người gia trưởng của gia tộc đó có quyền làm lễ truất phế thần làng, bắt mọi người trong làng phải thờ cúng vị thần gia tộc của mình và phong vị này lên chức thần làng. Khi một người làm quan lớn, được Pharaoh ban cho cả một vùng đất thì thần gia tộc đó được suy tôn thành vị thần trông coi toàn vùng đó, và hiển nhiên mọi người trong vùng đều phải thờ cúng vị thần này.
Mỗi khi các thành phố hay làng xã được sát nhập vào nhau thì dân chúng các vùng liên hệ sẽ bàn tính thảo luận xem thần nào phải ra đi và thần nào ở lại để được thờ cúng. Do đó danh hiệu và quyền lực các vị thần luôn luôn thay đổi tùy theo các biến cố xã hội.
Ngoài ra còn có những vị thần sông, thần núi, thần sa mạc, thần đất, thần cây, thần mặt trời, mặt trăng, thần công lý, và các vị thần cai quản các cõi giới vô hình nữa. Vì có quá nhiều thần linh và danh xưng thay đổi luôn luôn nên chỉ các giáo sĩ mới thuộc hết tên các vị thần và biết làm các lễ nghi thờ cúng mà thôi. Từ đó, giới giáo sĩ trở nên một quyền lực rất mạnh vì làm trung gian giữa thần và người. Họ chỉ thua có Pharaoh vốn vừa là người vừa là thần. Tuy quyền lực giáo sĩ cao hơn các quan nhưng các quan lại có một quyền lực khác, thực tế hơn, là quân đội; cho nên giới giáo sĩ và quan lại thường hợp tác với nhau rất chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi cũng như quyền lực của đôi bên.
Ngoài các thần linh địa phương, người Ai Cập còn thờ phụng những thần khác như Thoth, vị thần tượng trưng cho minh triết. Theo truyền thuyết, chính Thoth đã hướng dẫn dân chúng xứ này cách cày bừa, canh tác, săn bắn và thờ cúng thần linh. Những lời dạy bảo của thần Thoth được truyền tụng sâu rộng trong dân gian và được đúc kết lại thành cuốn Tử Thư Ai Cập (Egyptian Book of the Dead). Nhiều người coi đó là cuốn sách nói về các nghi thức thờ cúng, đọc thần chú, làm lễ khâm liệm, tống táng người chết nhưng thật ra trong đó còn đề cập đến sự thành lập vũ trụ, quan niệm sống và một số đoản văn với những ẩn nghĩa huyền bí đặc biệt mà chỉ một số rất ít giáo sĩ hiểu được mà thôi.
Theo cuốn Tử Thư, lúc đầu vũ trụ chỉ là một luồng ánh sáng tinh khiết không có màu sắc (tượng trưng cho sự Tuyệt đối), nhưng sau phân chia ra thành hai màu đen và trắng hay ngày và đêm (tượng trưng cho sự Tương đối). Từ khi có sự phân chia này thì quan niệm hữu hình - vô hình, chánh tà, thiện ác, tốt xấu, bắt đầu nảy sinh. Chính sự phân chia này đã làm đảo lộn trật tự trong vũ trụ, tạo ra các động lực xoay vần theo các vòng xoáy và sinh ra những cảnh giới hữu hình cũng như vô hình. Trong cảnh giới hữu hình, các động lực tiếp tục xoay vần tạo ra tinh tú, rồi các tinh tú tiếp tục xoay vần phát sinh ra vô số các tinh tú khác, mãi mãi không bao giờ ngưng. Quan niệm về cái gọi là vô tận (infinity) mãi mãi không chấm dứt này chính là then chốt của cuốn Tử Thư Ai Cập vì nó ám chỉ vũ trụ tương đối chỉ là những động lực chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau nên không có sự chấm dứt (sự chết) mà chỉ có sự thay đổi, biến thiên, chuyển hóa, từ trạng thái này qua trạng thái khác, từ cõi giới này qua cõi giới khác, từ kiếp sống này qua kiếp sống khác, như ngày và đêm, sáng và tối, đen và trắng, v.v…
Ngoài nghi thức cúng tế người chết, cuốn Tử Thư Ai Cập (chương 13) còn đế cập đến sự sống: "Trong sự hỗn loạn của những xoay vần trong vũ trụ, thần Nu đã tạo ra trái đất nhưng lúc đó trái đất chưa có sự sống. (Nu được coi như vị thần đã tạo ra quả đất này). Chính nhờ ánh sáng của Ra (mặt trời) rọi xuống trái đất mà trái đất mới có sự sống và từ đó muôn loài phát sinh". Vì lý do này, Ra hay thần mặt trời, được tôn kính như vị thần trông coi sự sống.
Sách chép rõ: "Ta là thần Temu (có khi gọi là Amu), đấng duy nhất mang ánh sáng của Ra (Thái dương) đến Suten-Henen (tên một vùng sa mạc ở Ai Cập). Từ ánh sáng của Ra mà sự sống bắt nguồn và từ đó tất cả mọi vật phát sinh". Một số giáo sĩ cho rằng Temu là người đem ánh sáng của Ra đến trái đất và sinh ra loài người. Do đó Temu được coi là thủy tổ của loài người.
Một số giáo sĩ khác quan niệm Temu là hóa thân của Ra, hay hình thức nhân cách hóa của Ra mà thôi. Vì là người đầu tiên trên trái đất nên Temu sinh sản bằng sự trực phân (thân thể tự động tách ra làm hai, làm bốn…) và đứa con đầu là Shu, sinh ra từ mắt bên phải của Temu. Lúc đó trời đất còn hỗn độn, chưa phân chia rõ rệt nên Shu đã dựng nên những cột trụ bằng đá để chống đỡ bầu trời, không cho trời sụp đổ xuống đất. Shu được coi là vị thần kiến thức vì Shu đã dạy cho loài người các kiến thức về toán học, vật lý, hóa học, thiên văn, kiến trúc, v.v…
(Ghi chú: Tất cả mọi công trình xây cất tại Ai Cập từ các thánh điện, đền thờ, đến kim tự tháp đều có ghi những dòng chữ rằng họ đã làm theo họa đồ và phương pháp xây cất của Shu).
Vì sở hữu kiến thức, tiêu biểu bằng chiếc cột chống trời của Shu, loài người không còn sống theo bản năng như loài thú mà bắt đầu biết suy nghĩ.
Tefnut là em gái của Shu, sinh ra từ mắt bên trái của Temu. Tefnut không thờ cúng mặt trời (tượng trưng cho sự sống) mà đặt ra nghi thức thờ cúng mặt trăng (tượng trưng cho sự chết). Thay vì dạy bảo những kiến thức khoa học như anh thì Tefnut lại đặt ra các nghi thức huyền bí, truyền dạy giới hạn cho một số người.
Cuốn Tử Thư Ai Cập đưa Temu, Shu và Tefnut lên địa vị ba ngôi (Trinity) với những mật nghĩa rất đặc biệt.
Seb là con trai của Shu, hay thần đất (Thổ thần).
Nut là vợ của Seb hay thần nước (Thủy thần).
Osiris là con của Seb và Nut và là vị Pharaoh đầu tiên của Ai Cập, Isis là vợ của Osiris và là hoàng hậu đầu tiên của Ai Cập. Seth là em của Osiris, tranh giành ngôi Pharaoh với anh, rồi giết anh cắt thây thành mười bốn mảnh chôn quanh Ai Cập. Isis, vợ của Osiris, lúc đó đang có thai, phải bỏ trốn vào một đạo viện và học hỏi được những giáo lý huyền môn. Isis lập đàn, đọc thần chú khiến cho Osiris tuy bị phân thây nhưng các mảnh này tự nhiên ráp lại rồi hồi sinh. (Sự hồi sinh của Osiris được giải thích như sự chiến thắng sự chết, sự chuyển hóa hay niềm hy vọng của con người).
Isis sinh ra Horus, và chính Horus sau này đã tranh lại ngôi vị Pharaoh từ Seth, chú ruột của mình.
(Truyền thuyết về Osiris, Isis, Horus và Seth đã được truyền tụng từ đời này qua đời khác, gần như người Ai Cập nào cũng biết. Theo các nhà khảo cổ, đây là một trong những câu chuyện cổ nhất của lịch sử nhân loại. Các cổ mộ xây từ 4000 năm trước Công nguyên đều có đề cập đến sự tích này.
- Ghi chú của dịch giả)
Osiris tuy chết nhưng hồi sinh nên trở thành vị thần cai quản cõi chết, có nhiệm vụ xét xử người chết. Isis nhờ học hỏi các kiến thức huyền bí, biết lập đàn tràng, đọc thần chú nên được coi là vị thần trông coi kiến thức huyền môn. Isis thường được tượng trưng bằng hình ảnh người đàn bà có khuôn mặt được che bằng một tấm lụa mỏng hay một thiếu nữ để một ngón tay lên miệng, ngụ ý rằng chân lý tuyệt đối vốn không thể tiết lộ hay nói được. Horus tượng trưng cho lòng can đảm, sự thật, lẽ phải và thường được vẽ lại qua hình ảnh một người đầu chim ó. (Đối với người Ai Cập, chim ó tượng trưng cho lẽ phải hay sự không sợ hãi). Seth vì giết anh, tranh ngôi nên được coi là tượng trưng của những gì xấu xa, tàn ác, hung dữ và luôn luôn được vẽ như một người mặc áo đen. Cuộc tranh đấu giữa Horus và Seth còn được coi là sự tranh đấu giữa chánh và tà, giữa thiện và ác, giữa phải và trái, v.v… 
CHƯƠNG 6
Một buổi chiều tôi đang đọc sách thì Horemheb đẩy cửa bước vào:
- Này Sinuhe, hôm nay tao sẽ đưa mày đến một nơi mà mày sẽ không bao giờ quên được. - Nơi nào thế?
Horemheb mim cười bí mật:
- Tao được thăng quan tiến chức là nhờ mày, nên hôm nay tao đưa mày đi ăn mừng một bữa cho biết mùi đời.
Horemheb đưa tôi đến một biệt thự sang trọng nằm sát bờ sông Nile. Tuy đã từng qua lại hoàng cung mà tôi vẫn phải ngạc nhiên trước sự trang hoàng lộng lẫy của ngôi biệt thự này. Tôi đoán chủ nhân của nó hẳn phải là một bậc thân vương, đại thần vì thế đã sững sờ trước một thiếu nữ xinh đẹp, kiều diễm trong chiếc áo màu hồng nhạt với những nữ trang lạ lùng chưa từng thấy mà Horemheb cho biết đó mới chính là chủ nhân.
Cô ta ngồi trên chiếc ghế dài, quan sát mọi việc diễn ra chung quanh với một vẻ lạnh lùng, thản nhiên. Quanh đó còn có các thiếu nữ xinh đẹp khác đang tiếp đãi khách khứa mà tôi nhận ra một vài vị quan trong triều. Trên bàn tiệc bày đầy những sơn hào hải vị mà tôi chưa từng biết. Cuối phòng là một ban nhạc đang trình diễn những điệu nhạc kỳ lạ mà tôi chưa từng nghe.
Thấy vẻ ngơ ngác của tôi, Horemheb bật cười:
- Nhạc của dân Babylon đó, man rợ và đầy kích động, mày không biết ư?
- Không, tao không biết gì về âm nhạc cả. Horemheb là người quảng giao. Vừa đến nơi hắn đã đi vòng quanh các bàn tiệc thăm hỏi người này ít câu, chuyện trò với người khác vài thứ và liên tục uống rượu. Tôi rụt rè đi theo nhưng vì không biết uống rượu nên chỉ cười trừ. Khi chung tôi ngồi xuống bàn thì một nhóm thiếu nữ xinh đẹp đã ùa đến bao quanh.
Horemheb cười ha hả, chỉ vào tôi:
- Đây là Sinuhe, em kết nghĩa của ta. Mọi việc đã có ta lo, các cô hãy tiếp đãi hắn cho tử tế.
Nhóm thiếu nữ chỉ chờ có thế, đua nhau mời mọc tôi đủ điều nhưng tôi không quen nên lắc đầu từ chối lia lịa. Từ trước đến nay tôi tiếp xúc với phụ nữ qua việc chữa trị, săn sóc bệnh nhân nên gặp hoàn cảnh này, tôi đâm ra lúng túng, không biết đối đáp ra sao. Vì không biết phải làm gì nên tôi chỉ ừ ào cho qua chuyện, bất chấp mọi lời mời mọc chào đón. Horemheb đã bước qua bàn khác, cười đùa ầm ĩ với một số bạn hữu quen biết từ trước. Các món ăn sang trọng, thơm phức được mang đến cho tôi nhưng vốn là người quen sống thanh bần, dù các cô mời tiếp mãi mà tôi vẫn không nuốt trôi. Thấy tôi không ăn mà cũng chẳng uống bao nhiêu, các thiếu nữ tỏ ra chán nản, dần dần kéo nhau qua bàn khác, mặc tôi ngồi đó ngơ ngác nhìn quanh. Tôi thấy nữ chủ nhân vẫn ngồi trên chiếc ghế dài, nét mặt lạnh lùng như băng trước sự ồn ào, náo nhiệt của căn phòng. Tôi đang quan sát thì Malik, một đại quan trong triều từ bàn tiệc bước đến bên cạnh chủ nhân, đặt trước mặt cô một chuỗi ngọc sáng ngời và nói:
- Hãy cười lên đi em, hãy ban cho ta một cụ cười đi!
Nữ chủ nhân vẫn thản nhiên ngồi yên, sắc mặt lạnh lùng. Malik quì xuống ôm lấy chiếc chân trần của cô này mơn trớn: - Nàng hay ban cho ta một nụ cười, chỉ một nụ cười thôi cũng đủ làm ấm lòng ta nhiều lắm rồi.
Người thiếu nữ vẫn dửng dưng, bất chấp quan đại thần cứ lải nhải nói những câu thừa thãi. Sau cùng dường như khó chịu, cô khẽ phất tay. Một người nô lệ da đen thân hình cao lớn, bước đến lôi xốc quan đại thần ra chỗ khác. Tôi ngạc nhiên vì Malik có quyền uy rất lớn trong triều, chỉ một lệnh ban ra đã có thể làm rơi hàng trăm chiếc đầu, thế mà ông ta vẫn để cho một tên nô lệ kéo đi như vậy mà không có phản ứng gì.
Một người lái buôn Ba Tư, thân hình cao lớn, bước đến bên nữ chủ nhân với một túi vàng lớn:
- Ta không cần em cười nhưng ít ra em hãy nói với ta một câu, chỉ một câu mà thôi là số vàng này sẽ thuộc về em liền.
Thiếu nữ có vẻ giận, đôi mày có hơi nhíu lại và miệng hơi bĩu ra. Chỉ có thế thôi mà gã lái buôn đã sợ cuống lên:
- Xin lỗi, ta đã lỡ lời. Em không cần phải nói gì, chỉ nhìn ta cũng đủ…
Người thiếu nữ khẽ liếc nhìn gã lái buôn nhưng nét mặt cô vẫn lạnh lùng như băng giá. Gã lái buôn mừng rỡ quỳ mọp xuống bên cạnh cô nói lung tung những gì không rõ. Một lần nữa, thiếu nữ lại phất tay và gã nô lệ da đen ở đâu bước tới lôi phắt gã này ra ngoài. Tôi ngạc nhiên không biết thiếu nữ này là ai mà có quyền hành lớn như vậy! Vì mải theo dõi gã nô lệ kéo người lái buôn Ba Tư ra cửa nên khi tôi quay lại thì thiếu nữ chủ nhân đã đi đâu mất. Trên chiếc ghế dài chỉ còn lại một chiếc khăn màu hồng nhạt. Không hiểu sao tôi cảm thấy trong lòng tự dưng trống trải, dường như vừa mất mát một thứ gì.
Ngay lúc đó, Horemheb ở đâu bước đến, hai tay ôm hai cô gái và cười ha hả:
- Này Sinuhe, mày có muốn ra vườn sau hái hoa với tao không?
Tự nhiên tôi cảm thấy khó chịu, không muốn đi đâu hết nên trả lời nhát gừng:
- Mày cứ việc ra vườn đi, tao ngồi chờ ở đây được rồi.
- Cái gì? Nếu mày muốn chờ tao thì… ít ra phải đến sáng.
- Tại sao?
Horemheb bật cười rồi hạ giọng nói nhỏ:
- Hôm nay tao hái đến hai bông hoa nên chắc lâu lắm…
Hai cô gái nghe hắn nói, bật cười khúc khích. Tôi khó chịu nhún vai:
- Không sao, tao chờ được.
Sau khi Horemheb bỏ đi rồi thì tôi mới thấy mình lầm. Quanh bàn tiệc, người ta cười nói ồn ào nhưng tôi cảm thấy lạc lõng làm sao. Tôi muốn đứng dậy ra về nhưng hình như tâm hồn còn vương vấn một điều gì không giải thích được. Tôi ngồi đó, bất chấp những người khách dập dìu qua lại, rồi như bị một điều gì kỳ lạ thúc đẩy tôi nâng ly rượu uống một hơi dài. Tiệc đã tàn. Những người khác dần dần bỏ đi đâu mất. Các thiếu nữ xinh đẹp cũng tản mát dần, chỉ còn tôi ngây ngô ngồi đó với một tâm trạng trống trải kỳ lạ. Đầu óc tôi trở nên hoang mang, không biết vì men rượu hay cái gì khác!
Bất chợt tôi ngửi thấy một mùi hương rất dịu dàng. Thiếu nữ chủ nhân đang đứng trước mặt tôi. Cô đã thay đổi y phục, mặc một chiếc áo mỏng màu xanh nhạt. Cô hỏi: - Anh là ai? Tại sao còn ngồi đây?
Giọng nói của cô thánh thót như thủy tinh khiến tôi cảm thấy chếnh choáng:
- Tôi là Sinuhe, y sĩ cho hoàng đế Akhenaten…
Thiếu nữ nhíu mày như suy nghĩ rồi nhẹ nhàng hỏi:
- Phải chăng Sinuhe còn có nghĩa là "con người cô độc"?
- Cha tôi nói Sinuhe có nghĩa là "người sống một mình". Ông chọn tên này trong một cuốn cổ thư nói về sự biết sống một mình…
Tôi chưa nói hết thì thiếu nữ đã để tay lên môi ra hiệu cho tôi đừng nói rồi lắc đầu:
- Em không thích… cô độc.
Tự nhiên tôi thấy một cảm giác ấm áp kỳ lạ truyền đi khắp thân thể khiến tim tôi đập mạnh và miệng lưỡi trở nên khô ráo lạ thường. Thiếu nữ thì thầm:
- Anh ơi, em rất sợ sống một mình…
Chưa bao giờ tôi nghe câu nói nào tình tứ như thế. Tôi muốn lên tiếng nhưng không sao thốt nên lời. Thiếu nữ thản nhiên:
- Vì thế mỗi đêm em đều mở tiệc để tránh sự cô đơn nhưng… tiệc vui nào rồi cũng có lúc tàn, và rồi mọi người đều bỏ đi và em lại cô đơn…
Tôi run giọng nói không ra hơi:
- Nhưng… nhưng còn có tôi đây.
Thiếu nữ mỉm cười không nói nhưng tôi đã ngây ngất trước nụ cười hàm tiếu đó. Bất chợt tôi nghĩ đến quan đại thần Malik và gã lái buôn người Ba Tư. Cả hai đều sẵn sàng bỏ ra những số tiền rất lớn chỉ để đổi lấy nụ cười mỹ nhân. Tôi đâm ra ngượng ngùng:
- Tôi chỉ là một y sĩ nghèo… không có gì để tặng cô hết.
- Nhưng em đâu đòi hỏi anh một thứ gì.
Tôi run giọng hỏi dồn:
- Thật… thật… không?
Thiếu nữ chăm chú nhìn tôi một lúc rồi thì thầm:
- Nefer này chưa bao giờ đòi hỏi ai một thứ gì hết.
Thì ra thiếu nữ tên là Nefer. Tôi say sưa nhắc lại tên nàng:
- Nefer… Nefer… Ôi! Cái tên tuyệt đẹp… Thiếu nữ nhíu mày:
- Chỉ có cái tên đẹp thôi sao?
- Không… không đâu… Không những tên cô đã hay mà cô còn đẹp tuyệt vời nữa. Tôi chưa thấy ai đẹp hơn cô.
Thiếu mỉm cười có vẻ hài lòng:
- Anh khéo nói lắm. Người từng trải như anh chắc phải nói câu này nhiều lần rồi? Tôi cảm thấy chếnh choáng như người say rượu:
- Không… không đâu… Đây là lần đầu. Tôi chưa hề khen ai hết.
- Thôi đi, đàn ông các anh lúc nào cũng thế…
Tôi thành thật:
- Nefer, tôi chưa hề quen biết ai như cô… Thật ra cô là người phụ nữ đầu tiên…
- Thế ư?
Tôi nói như mê sảng:
- Nefer, tôi không biết phải nói thế nào nữa. Nefer, cô đẹp tuyệt trần. Nhìn vào đôi mắt cô, tôi có thể quên đi tất cả mọi sự. Nhìn đôi môi của cô, tôi có thể làm tất cả mọi thứ cô muốn. Nefer, nếu được yêu thì dù chết tôi cũng sẵn sàng…
Nefer chăm chú quan sát tôi rồi nhẹ nhàng hỏi:
- Anh sẽ không hối hận chứ?
- Hối hận ư? Làm sao tôi có thể hối hận được nếu…
Nefer mỉm cười, nói thật chậm:
- Này Sinuhe, Con Người Cô Độc! Anh có thể ở đây với em cho qua đêm nay nhưng anh hãy suy nghĩ thật kỹ vì anh chỉ có thể đến với em một lần mà thôi.
Tôi giật mình hoảng hốt:
- Tại sao? Tại sao… chỉ một lần thôi?
Nefer nhìn tôi với vẻ thương hại:
- Khi đến với em, người nào cũng mang cho em một món quà. Phần anh cũng thế, món quà của anh là sự ngây thơ nhưng anh chỉ có thể cho em một lần mà thôi…
- Tại sao?
- Vì sau đó anh sẽ được đối xử như mọi người đàn ông khác, không hơn, không kém.
- Tại sao thế?
Nefer có vẻ ngạc nhiên, khuôn mặt của cô chợt đanh lại nhưng rồi cô bật cười:
- Sinuhe, anh thật ngây thơ! Không lẽ anh không biết em là ai sao? Anh hãy suy nghĩ cẩn thận vì em không muốn anh phải đau khổ sau này.
- Tôi không cần, tôi chỉ muốn…
Nefer mỉm cười nắm lấy tay tôi khiến tôi bủn rủn chân tay:
- Anh đã suy nghĩ kỹ chưa?
Tôi cảm thấy tim mình đập mạnh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực:
- Tôi… tôi đã suy nghĩ kỹ rồi…
Nghe tiếng đập cửa, gã nô lệ da đen bước ra. Hắn nhìn tôi từ đầu xuống chân nhưng im lặng không nói gì. Tôi thu hết can đảm lên tiếng:
- Tôi… tôi muốn gặp cô Nefer.
- Ông là ai?
- Tôi là Sinuhe… Tôi… đã từng đến đây… mấy hôm trước.
Gã nô lệ lạnh lùng:
- Nếu thế hẳn ông biết quy luật nơi đây. Ông có mang quà gì cho chủ nhân của tôi không?
Tôi luống cuống:
- Tôi… tôi không có gì cả nhưng…
- Thế thì không được.
Gã đóng sập cửa lại một cách tàn nhẫn. Hiển nhiên không phải là người thông minh tôi cũng biết rõ tình trạng hiện tại của mình. Sau cái đêm thần tiên đó, tôi biết chuyện gì sẽ xảy ra nhưng vẫn không thể quên Nefer được. Tôi đã đi qua đi lại trước cửa ngôi biệt thự này biết bao lần mà không dám vào. Tôi tự nhủ phải quên Nefer nhưng tôi vẫn không thể đừng nhớ tới ánh mắt và nụ cười nàng. Tôi đã tìm đủ mọi việc bận rộn để làm mong tìm quên nhưng hình ảnh Nefer vẫn ngự trị trong tim tôi.
Tôi tìm đến kể lể với Horemheb thì hắn bật cười:
- Trong trời đất thiếu gì đàn bà mà sao mày lại khổ vì một đứa như thế?
- Nefer không giống những người đàn bà khác.
Horemheb lắc đầu thương hại:
- Có lẽ mày cần gặp những phụ nữ khác rồi mày sẽ quên nó.
- Không, không bao giờ tao quên được Nefer.
Horemheb không phải là người thích nói nhiều. Thấy tôi buồn, hắn rủ tôi đi uống rượu nhưng dù uống đến say mèm, tôi vẫn không thể quên được Nefer. Vài hôm sau, Horemheb phải hộ tống Pharaoh đi Tel El Amarna nên tôi không còn ai để tâm sự nữa. Sau nhiều đêm mất ngủ, tôi lại thất thểu tìm đến biệt thự của Nefer. Một lần nữa, gã nô lệ da đen mở cửa nhưng thấy tôi hắn bèn đóng sập cửa lại. Tuy thế tôi cũng thoáng thấy một người đàn ông đang ngồi sát bên Nefer. Cơn giận ở đâu tràn đến, tôi chồm lên đẩy gã nô lệ qua một bên để xông vào trong nhà nhưng tôi không đi được xa. Nghe tiếng động, một toán gia nhân khác đã xúm đến đè chặt tôi xuống đất.
Trong cơn tuyệt vọng, tôi kêu lên:
- Nefer! Nefer! Sao cô nỡ đối xử với tôi như vậy?
Đám gia nhân bịt chặt miệng tôi lại và kéo thẳng tôi ra cửa nhưng bất ngờ thay, Nefer từ trong bước ra:
- Này Sinuhe, em đã nói rất rõ với anh rồi… Tôi thều thào van xin:
- Tôi biết… tôi biết nhưng… tôi vẫn muốn gặp cô.
- Nếu muốn gặp em, anh cứ việc mang quà đến như những người khác.
- Nhưng tôi chỉ là một y sĩ nghèo, tài sản chỉ có hai bàn tay trắng.
Nefer nheo mắt nhìn tôi rồi lạnh lùng nói:
- Anh vẫn có một căn nhà… phải rồi, một phòng mạch.
Tôi giật mình như bị sét đánh trúng rồi lắp bắp nói không ra hơi:
- Nhưng… đó là… đó là nhà của… cha mẹ tôi…
- Em đã nói rồi, muốn gặp em anh phải mang quà đến.
- Phải chăng… nếu tôi biếu cô căn nhà đó thì cô sẽ…
Nefer nhăn mặt như không muốn nghe. Tự nhiên tôi cảm thấy hối hận hơn bao giờ hết: - Nefer, cô hãy tha lỗi cho tôi… đáng lẽ tôi không nên nói như thế.
- Em không bao giờ đòi hỏi anh một thứ gì. - Đúng rồi! Đúng rồi!
Tôi vội vã trở về Thebes thu xếp văn tự, địa đồ mà cha tôi vẫn cất kỹ trong tủ. Tôi nhặt nhạnh thuốc men, dụng cụ hành nghề y khoa của cha tôi để lại, mang hết ra chợ bán lấy một số tiền. Trước khi Kepta kịp phản ứng, tôi đã tống cổ tên nô lệ Do Thái này ra đường, rồi trở lại Memphis. Tôi phủ phục dưới chân Nefer, đưa cho cô này tất cả giấy tờ, tiền bạc. Cũng như lần trước, sau một đêm ân ái, tôi lại thấy mình lang thang trước cửa ngôi biệt thự đó. Trong cơn tuyệt vọng, tôi cố gắng gõ cửa một lần nữa.
Gã nô lệ nhìn ngắm thân thể bạc nhược của tôi rồi lắc đầu:
- Ông không nên trở lại đây nữa.
- Nhưng tôi cần gặp cô Nefer.
- Chủ tôi không bao giờ tiếp những người như ông đâu.
- Xin chú hãy thương tôi, làm ơn cho tôi gặp Nefer.
- Không được.
Gã nô lệ đóng sập cửa lại. Tôi liều lĩnh đưa chân ra chận lại nên bị cánh cửa kẹp trúng làm máu phun ra có vòi. Tôi đau đớn rú lên nhưng gã nô lệ thản nhiên đẩy tôi ngã nhào ra thềm rồi khép chặt cửa. Tôi ôm chiếc chân đầy máu nằm gục trước cửa cho đến khi ngửi thấy mùi hương dịu dàng ở đâu thoảng đến.
Nefer đứng trước bực thềm nói vọng xuống:
- Này Sinuhe, em đã cảnh cáo anh từ trước rồi.
- Tôi biết… tôi biết nhưng… tôi vẫn muốn gặp cô.
- Nếu muốn gặp em, anh cứ việc mang quà đến như những người khác.
- Nhưng… nhưng quả thật tôi không còn gì để tặng cô nữa.
Nefer nhìn tôi chăm chú một lúc rồi thong thả nói:
- Sinuhe, em biết anh vẫn còn một thứ.
Tôi mừng rỡ kêu lớn:
- Cái gì? Tôi còn cái gì?
Nefer chỉ tay vào sợi dây đeo trên cổ mà hoàng đế Akhenaten đã tặng tôi:
- Người ta nói rằng trong thời gian ẩn tu ngoài sa mạc, Pharaoh đã tự tay quấn lấy cho mình chiếc dây này để đeo trên cổ. Tuy nó không có giá trị hiện vật những nó cũng là thứ mà anh có thể tặng cho em được. Tôi run giọng:
- Đây là kỷ vật của Pharaoh, đâu thể mang ra đổi chác được. Nếu ngài biết được thì tôi chỉ có nước chết.
Nefer nhún vai thản nhiên:
- Em chỉ muốn thử lòng anh thôi và bây giờ em biết rõ tình yêu của anh đối với em như thế nào rồi. Này Sinuhe, chiều nay có một đại phú thương từ Syria đến, ông ta sẽ tặng em một vòng ngọc mà khi xưa hoàng đế xứ Hitites đã phải tốn bao công phu mới chiếm được nó. So với chiếc vòng đó thì… Tôi đau đớn cởi sợi dây đeo trên cổ ra đưa cho Nefer:
- Đây, cô hãy cầm lấy. Tôi sẵn sàng cho cô tất cả những gì tôi có.
- Em không bao giờ đòi hỏi anh một thứ gì mà anh không muốn.
- Đúng rồi! Đúng rồi! Cô cứ việc cầm lấy đi. Nefer nhận sợi dây đeo cổ rồi lắc đầu một cách thương hại:
- Sinuhe, anh quả đã yêu em một cách tuyệt đối.
Tôi thều thào:
- Nefer… Nefer… Tại sao cô không thể yêu tôi tuyệt đối như vậy?
Nefer im lặng nhìn tôi một lúc rồi ghé sát vào tai tôi thì thầm:
- "Này Sinuhe, nếu anh có thể hiểu được em. Nếu anh có thể hiểu được tâm trạng một người con gái chưa đầy mười hai tuổi đã bị bán làm nô lệ như thế nào. Trong nhiều năm, người ta đã bán em từ chủ này qua chủ khác như bán một con vật. Em đã trải qua những giây phút nhục nhằn, tủi hổ và em đã tìm cái chết nhiều lần.
Em đã từng yêu nhưng không được đáp lại. Em đã từng hiến tặng những gì em có nhưng chỉ nhận lại những phản bội, lường gạt. Em đã khóc hết nước mắt và sự đau khổ đã làm tâm hồn em chai đá. Em thề sẽ không bao giờ để ai làm chủ mình nữa. Em cương quyết sẽ không bao giờ yêu ai nữa. Đối với em, tình yêu chỉ là một sự đổi chác, mua bán, được cái này thì mất cái khác. Em tự nhủ rằng người ta đã đối xử với mình ra sao thì mình sẽ đối xử như thế với người khác. Ngày trước em là một nô lệ, một thứ giải trí của đàn ông thì ngày nay đàn ông phải là nô lệ của em, phải là trò tiêu khiển của em. Ngày trước em đã bị mua đi bán lại như một con vật thì ngày nay những người đến với em đều phải tán gia bại sản, thân bại danh liệt. Như thế mới công bình, có phải không?
Này Sinuhe, em đã cảnh cáo anh từ trước nhưng anh không nghe. Đa số đàn ông chẳng bao giờ biết nghe hết. Lòng tự hào đã khiến họ hành động như loài thiêu thân, tuy biết mà vẫn lao mình vào ánh đèn để cháy tan xác.
Này Sinuhe, em đã dạy anh một bài học vè đàn bà nhưng có lẽ anh chưa học được. Đã thế anh còn đòi một tình yêu tuyệt đối. Này "Con Người Cô Độc", trong đời này chẳng có gì là tuyệt đối cả. Tuyệt đối chỉ là trò chơi chữ nghĩa của những triết gia, học giả, hay những kẻ mơ mộng, vô công rỗi nghề mà thôi. Tuy nhiên vì anh đã muốn nên hôm nay em sẽ dạy cho anh một bài học về tình yêu tuyệt đối để không bao giờ anh có thể quên được…"
Trước khi tôi kịp phản ứng, Nefer đã đứng phắt dậy nói với gã nô lệ da đen:
- Kể từ nay, người này tuyệt đối không bao giờ được đặt chân đến đây nữa.
Tôi ngạc nhiên kêu lớn:
- Ô hay! Tại sao lại như thế?
Nhưng cánh cửa to lớn đã đóng sập lại một cách phũ phàng.
Đời sống thường có những thay đổi bất ngờ. Người hôm trước là bạn, hôm sau có thể là thù, và người trước là kẻ thù thì sau có thể đổi thành bạn. Trường hợp của tôi cũng thế. Không bao giờ tôi ngờ tình bạn giữa tôi và Horemheb có thể thay đổi, chỉ vì một người đàn bà.
Sau nhiều ngày lang thang trước cửa nhà Nefer nhưng không được đáp ứng, tôi đành bắt chước Horemheb mượn hơi men để giải sầu. Chẳng mấy chốc tôi đã trở thành một kẻ lang thang trà đình tửu quán, say sưa và nói năng lảm nhảm. Hôm đó tôi tìm đến một quán rượu để giải khuây, mặc dù trong túi chẳng còn một đồng xu nào nữa. Người chủ quán đã biết tình trạng tài chánh của tôi nên chỉ nhìn tôi bằng ánh mắt khinh bỉ. Trong lúc tôi đang tìm cách thuyết phục hắn bán rượu chịu thì một gã lái buôn quần áo sang trọng, cùng một đoàn tùy tùng bước đến.
Gã này hỏi tôi:
- Tôi muốn đi tìm một người, phiền ông chỉ giùm.
- Tôi không biết, xin ông đi ra chỗ khác.
Gã lái buôn nhìn ngắm tôi từ đầu đến chân rồi thản nhiên:
- Tôi cần gặp một người bạn để thương lượng công việc buôn bán nhưng người ta nói rằng hắn đang ở biệt thự của cô Nefer, phiền ông chỉ giùm…
Vừa nghe đến đó tôi đã giật mình và trong thoáng giây, đầu óc tôi làm việc thật nhanh. Tôi trả lời ngay:
- Tôi biết chỗ nhưng rất khó tìm. Có lẽ tôi phải đưa ông đến đó mới được.
Gã lái buôn mừng rỡ cám ơn rối rít. Tôi đưa hắn đến biệt thự của Nefer. Khi cánh cửa vừa mở, tôi đã nhanh chân lẩn vào đoàn tùy tùng của hắn nên người giữ cửa không thấy. Cảnh vật bên trong vẫn như xưa, những đoàn thiếu nữ xinh đẹp, những người lái buôn sang trọng, những bàn tiệc đầy sơn hào hải vị cùng những điệu nhạc dồn dập kỳ lạ. Tôi không thấy Nefer trên chiếc ghế quen thuộc, có lẽ nàng đang bận tiếp khách. Vừa nghĩ đến đó, đầu óc tôi đã nóng ran lên, tôi phải cố gắng lắm mới bình tĩnh bước ra phía sau vườn.
Căn phòng của Nefer nằm sát khu vườn với những chậu hoa tươi bầy chung quanh. Tôi tiến đến nhìn vào cửa sổ và bất ngờ chứng kiến một cảnh tượng mà không bao giờ tôi có thể quên được. Tôi thấy Nefer đang quấn quít trong vòng tay lực lưỡng của một người đàn ông có thân hình rắn chắc như một lực sĩ. Người đàn ông đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là Horemheb, người bạn chí thân của tôi.
Đầu óc tôi trở nên quay cuồng. Tôi cố trấn tĩnh nhưng tim tôi đập liên hồi. Tôi dụi mắt, tưởng mình đang mơ nhưng không, tôi đang tỉnh táo hơn bao giờ hết. Tại sao lại có thể như thế được? Trong thoáng chốc, cơn ghen ở đâu nổi lên khiến tôi không còn bình tĩnh nữa. Tôi gầm lên một tiếng, xông thẳng vào phòng. Horemheb giật mình buông Nefer ra nhưng trước khi hắn kịp đứng dậy, tôi đã xông đến chụp lấy cổ hắn. Horemheb là tay võ nghệ tuyệt luân, chỉ một thoáng hắn đã thoát khỏi tay tôi: 
- Cái gì thế Sinuhe?
- Thằng khốn nạn! Tao phải giết mày!
Tôi xông vào đấm đá túi bụi nhưng Horemheb đã xoay mình tránh được những quả đấm của tôi.
- Này Sinuhe, mày hãy bình tĩnh nghe tao nói đã…
- Thằng khốn kiếp! Đồ vong ân bội nghĩa! Tao phải giết mày… 
Tôi điên cuồng chụp lấy cái ghế gần đó ném thẳng vào Horemheb nhưng hắn cũng tránh được.
- Khoan đã… Mày hãy nghe tao nói đây… Nhưng tôi không còn nghe thấy gì hết. Cơn giận làm đầu óc tôi trở nên tê liệt. Tôi xông đến, tiện tay vớ được cái gì thì đập phá cái đó. Horemheb lắc đầu co cẳng chạy ra vườn rồi mất hút trong lùm cây rậm rập. Tôi quay qua Nefer:
- Con khốn nạn! Mày đã phụ lòng ta… Khuôn mặt Nefer trở nên xanh xám, có lẽ cô vừa bực tức vừa ngạc nhiên nên không phản ứng gì được. Tôi gầm lên một tiếng lớn rồi xông đến nhưng Nefer đã quay mình chạy ra vườn. Được vài bước, cô trượt chân ngã nhào xuống đất. Tôi nhảy đến chụp lấy chiếc cổ thon của Nefer bóp mạnh nhưng lúc đó đám gia nhân nghe tiếng động đã ùa đến. Gã nô lệ da đen đưa tay nhấc bổng tôi lên khỏi mặt đất. Một trận mưa đấm đá trút lên thân thể tôi nhưng tôi không còn thấy đau đớn mà vẫn tiếp tục gầm rú như một con thú điên.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình đang nằm trong một bụi cây ven đường, thân thể đầy máu. Lần đầu tiên trong đời, lòng tôi dâng lên một mối căm hờn kỳ lạ. Tôi nghĩ đến Nefer và nụ cười nửa lạnh lùng, nửa quyến rũ. Tôi nghĩ đến Horemheb và dáng dấp hiên ngang với nụ cười ngạo nghễ mà thấy trong lòng tràn lên một sự đau xót chưa từng thấy. Trong cơn cuồng nộ, tôi thét lớn: "Tao thề sẽ giết cả hai đứa chúng mày!" Sau một lúc gào thét chửi rủa, tôi đứng dậy thu xếp hành trang trở về Thebes.
Khi tôi trở lại căn nhà cũ ở Thebes thì nó không còn là nhà của tôi nữa. Một người lạ mặt cho biết họ đã mua căn nhà này từ một gã lái buôn trên Memphis. Tôi đứng nhìn căn nhà thân yêu đã lọt vào tay người khác mà lòng đau như cắt. Sau cùng tôi đành kéo lê tấm thân tiều tụy đi trên đường phố mà chẳng biết mình đi đâu cho đến khi nghe tiếng gọi rối rít của Kepta:
- Ông chủ! Phải ông chủ đó không?
- Kepta! Ngươi đấy ư?
- Thưa y sĩ, chính tôi đây.
- Kepta, ta rất mừng đã gặp lại ngươi. Căn nhà của ta…
Kepta gật đầu than dài:
- Y sĩ ơi, tôi biết chuyện đó nhưng… ông bà… ông bà thân sinh của y sĩ…
Tôi hốt hoảng:
- Cái gì? Ngươi nói gì?
- Hôm trước ông bà thân sinh ra y sĩ đi xa trở về. Ôi chao, khó nói quá!
- Cha mẹ ta đã trở về hay sao? Người ở đâu?
Kepta im lặng nhìn tôi. Con mắt duy nhất của hắn đảo qua đảo lại về phía sau. Lúc đó tôi mới thấy Kepta đang kéo một chiếc xe nhỏ. Một cảm giác kỳ lạ nổi lên khiến tôi rùng mình sởn gai ốc. Tôi vội bước đến nhìn thì thấy trong xe có hai xác chết đã được bó chiếu cẩn thận. Tôi mở ra xem và thấy đó là xác cha mẹ tôi.
- Kepta! Tại sao lại như thế này?
- Còn làm sao nữa! Hai ông bà đi xa trở về thấy căn nhà hương hỏa đã bị bán mất. Hỏi thăm thì biết y sĩ mang tất cả dụng cụ hành nghề, thuốc men ra chợ bán để bao một cô gái nào đó trên Memphis. Khắp thành Thebes, người ta đã nói rất nhiều về y sĩ, nào là y sĩ bỏ nghề lương y để vào làm việc trong triều rồi theo các quan đi đến những chỗ ăn chơi xa xỉ. Nào là y sĩ tiêu tiền như nước, toàn giao thiệp với những thiếu nữ đến từ Babylon. Nghe nói y sĩ chỉ chữa cho người giàu, không thèm tiếp bệnh nhân nghèo. Ôi chao, đủ mọi lời đồn chẳng tốt đẹp gì. Nghe được thế, ông bà thân sinh ra y sĩ chỉ biết khóc. Bao hy vọng ở y sĩ đều tan thành mây khói nên ông bà đành đến đền thờ Amun-Ra cầu nguyện…
Tôi nắm chặt lấy vai Kepta hét lớn:
- Rồi sao nữa? Tại sao cha mẹ ta chết? Kepta đưa tay chùi con mắt duy nhất:
- Còn sao nữa! Khi tuyệt vọng, người y sĩ nào chẳng biết sử dụng độc dược. Hôm sau các tu sĩ thấy xác hai người nằm đó nên định quăng xuống sông cho cá sấu ăn, nhưng thằng nô lệ này thấy tội nghiệp quá, xin lãnh về chôn cất. Nếu y sĩ còn nghĩ đến công ơn dưỡng dục sinh thành thì hãy tẩm liệm hai cụ cho tử tế, thằng nô lệ này chỉ xin được hai tấm chiếu rách đó thôi…
Tôi đứng sững không nói được tiếng nào. Tất cả mọi sự đều sụp đổ tan tành. Cơn đau làm cho tôi không còn khóc được nữa. Tôi đứng nhìn xác cha mẹ mình mà trong đầu chỉ một ý nghĩ duy nhất là trả thù. Người Ai Cập tin rằng sau khi chết, thể xác tan rã nhưng sự sống vẫn tiếp diễn tại những cõi giới khác bên kia cửa tử, tùy theo sự phán xét của thần Osiris. Do đó chết không phải chấm dứt mà là sự thay đổi, chuyển hóa từ cõi này đến cõi khác, từ trạng thái này đến trạng thái kia mà thôi. Truyền thống Ai Cập quan niệm rằng con người gồm có tám thể (Bodies), mỗi thể có một nhiệm vụ đặc biệt, tương ứng với những cõi giới khác nhau.
Thể thứ nhất là Xác (Khat), tương ứng với cõi trần và là "căn nhà" của những thể khác.
Thể thứ hai là Phách (Ka), có nhiệm vụ như cây cầu liên lạc giữa thể Xác với những thể kia. Thể Phách chứa đựng kiến thức của con người, nó có thể hoạt động riêng biệt và thường mang hình dáng của thể xác. Sau khi chết, thể Phách thường quanh quẩn trong mồ và có thể hưởng thụ những đồ vật cúng tế nên người Ai Cập gọi hương hoa, đồ vật chôn cất theo người chết là sở hữu của thể Phách.
Thể thứ ba là thể Vía (Khu), hiện hữu dưới trạng thái những chất hơi nên có thể thay đổi hình dạng thành các đốm sáng hay các hình ảnh mập mờ. Thể Vía chứa đựng tình cảm và tương ứng với cõi Trung giới.
Thể thứ tư là Hồn (Ba) hay là phần tinh thần của con người và tương ứng với cõi Thượng giới. Khi sống, Hồn cư ngụ trong trái tim, sau khi chết nó tiềm ẩn trong thể Phách một thời gian trước khi siêu thoát lên cõi Thượng giới.
Thể thứ năm là Sinh (Ab) hay sự sống. Thiếu thể này người ta không thể sống được vì nó liên hệ đến việc vận chuyển năng lượng vũ trụ đến các thể. Người Ai Cập coi Sinh như năng lực của Hồn vì nó là trung tâm liên lạc giữa các cõi giới. 
Thể thứ sáu là Thân (Sakhem), một thể đặc biệt chỉ phát triển ở những người có đời sống tinh thần rất cao, đây công phu tu luyện. Đối với người thường, thể này không phát triển bao nhiêu. Chữ Sekhem còn có nghĩa là "đã hoàn toàn tự chủ" và thường được đồng hóa với chữ quyền năng. Thân thường được coi như tương ứng với cõi Thiên giới.
Thể thứ bảy là Ký (Khaibit), có nhiệm vụ lưu trữ, gìn giữ tất cả kinh nghiệm có tính cách tổng quan cũng như các ràng buộc giữa các cá nhân với nhau.
Thể thứ tám là Danh (Ren), chỉ lưu trữ kinh nghiệm riêng biệt có tính cách cá nhân và định hướng cho sự phát triển riêng của từng cá nhân.
Người Ai Cập tin rằng đời sống ở cõi trần liên quan đến thể xác, nhưng sau khi thể xác chết đi, các thể kia phát động và con người tiếp tục sống ở những cõi giới tương ứng, tùy theo sự phán xét, định công luận tội của thần Osiris. Trong cuộc phán xét này, thể Phách (Ka) và Danh (Ren) giữ vai trò quan trọng vì nó tiêu biểu cho cá tính, kinh nghiệm và danh tánh của cá nhân. Mất danh tánh, họ sẽ trở thành đồ vật vô tri như bàn ghế, gỗ đá; mất cá tính, họ sẽ trở thành loài vật hạ đẳng, không còn cá tính riêng biệt nữa mà có một cá tính chung, như loài kiến, loài ong hay loài sâu bọ.
Để tìm cách bảo vệ Phách và Danh, họ phát minh ra nghệ thuật ướp xác vì thể xác vốn là nơi các thể kia cư ngụ. Các nghi thức ướp xác, tẩm liệm và chôn cất tại các ngôi mộ kiến trúc đặc biệt, liên hệ đến vị trí các bầu tinh tú, còn có một ẩn nghĩa huyền bí nên việc ướp xác đã được các giáo sĩ ấn định chỉ dành riêng cho vua chúa, một số rất ít người trong hoàng tộc, hay các giáo sĩ có chức tước quan trọng mà thôi. Vì mẹ tôi là một quận chúa và cha tôi là người có đời sống trong sạch, xứng đáng được an táng bên cạnh những vua chúa và quan lớn trong triều, nên tôi quyết định ướp xác và chôn cất cha mẹ tôi trong thung lũng dành riêng cho các gia đình hoàng tộc. Tôi bèn tìm đến trường Khoa Học Của Sự Chết để xin giúp đỡ.
Đó là nột hang đá nằm sâu trong vùng đồi núi hoang vu, rất ít ai dám bén mảng đến. Người ta kể rằng các giáo sĩ giao thiệp với cõi âm này có thể sai khiến các động lực vô hình vật chết những kẻ tò mò tìm đến như chơi. Ngay các vua chúa đầy oai phong cũng kiêng nể vùng này và chỉ sai nô lệ liên lạc với các giáo sĩ mỗi khi có việc chôn cất mà thôi.
Ombo, vị trưởng lão chỉ huy trường Khoa Học Của Sự Chết, là một người có khuôn mặt lạnh lùng như thây ma:
- Ngươi đến đây làm gì?
- Tôi muốn nhờ ông ướp xác cho cha mẹ tôi.
- Việc gì ngươi phải đích thân mang xác đến đây? Tại sao không gọi nô lệ?
- Tôi không có tiền mướn nô lệ.
- Nếu không có tiền mướn nô lệ thì làm sao ngươi có thể trả công ướp xác cho chúng ta được?
- Đúng thế, tôi không có đồng nào dính túi cả.
Ombo lạnh lùng lắc đầu:
- Ngươi hãy cút đi ngay. Ta không tiếp những kẻ nghèo kiết xác như ngươi. - Nhưng tôi sẵn sàng làm việc ở đây để trả thay tiền công.
Gã giáo sĩ có khuôn mặt như thây ma cười nhạt:
- Thằng ngu xuẩn kia! Ngay những nô lệ nghèo đói nhất cũng chẳng dám đến đây làm việc. Chỉ những tù nhân lãnh án tử hình, những kẻ không còn một hy vọng gì trên đời này nữa, mới làm những việc này. Ngươi nên biết chúng ta chuyên mổ xẻ xác chết, làm việc với ma, giao du với quỷ, khiến mọi người chỉ mới nghe nói đã sợ hãi mất hồn rồi…
- Tôi đã chán mọi sự trên đời rồi nên không còn sợ hãi một điều gì nữa.
- Ha ha ha… Thì ra ngươi là một kẻ tuyệt vọng, nhưng ngươi có thể làm gì?
- Tôi là y sĩ giải phẫu xuất thân từ Abydos. Tôi có thể mổ xác khéo hơn tất cả những nhân viên thiện nghệ của ông.
Ombo ngạc nhiên nhìn tôi không chớp mắt:
- Ta không ngờ một kẻ tốt nghiệp trường Khoa Học Của Sự Sống mà lại hết muốn sống! Phải chăng ngươi muốn đến đây để học về nghệ thuật chết? Được lắm, nếu ngươi làm việc tại đây trong vòng một năm thì chúng ta sẽ ướp xác cho cha mẹ ngươi. Từ đó tôi trở thành kẻ chuyên mổ xác người. Đối với xã hội bên ngoài, tôi là kẻ đã chết, không ai biết tôi ở đâu hay làm gì nhưng với tôi, ngoài việc ướp xác, tôi đã dành thì giờ còn lại để duyệt xét lại các căn bản giá trị mà tôi vẫn tin tưởng khi xưa. Tôi nghĩ đến đời sống đầy những tranh dành, thù hận vừa qua và tự hỏi, phải chăng muốn sống còn, con người phải tranh đấu, giành giật như thế?
Tôi nghĩ đến Akhenaten với chủ trương cải cách của ông và tự hỏi liệu một Pharaoh nhiều lý tưởng như ông có thể giữ vững ngôi vị trong cái thế giới đầy những mưu mô phản trắc này?
Tôi nghĩ đến tình bạn giữa tôi và Horemheb, hiển nhiên hắn biết rõ cảm tình của tôi với Nefer nhưng tại sao hắn lại làm như thế? Một kẻ hào hoa như hắn thì thiếu gì phụ nữ, tại sao hắn phải tranh giành Nefer với tôi? Phải chăng danh vọng và quyền lực đã biến hắn thành một con người khác?
Tôi nghĩ đến lý tưởng phụng sự người nghèo của cha mẹ tôi rồi tự hỏi người ta đã đạt được gì khi lý tưởng chẳng còn chút giá trị gì trong cái thế giới điên đảo, quay cuồng hiện nay!
Tôi suy nghĩ về những điều mà tôi vẫn theo đuổi và tự hỏi nó sẽ giúp gì cho tôi trong phần đời còn lại? Ngày trước tôi là một thanh niên ngây thơ nhiều lý tưởng, nhưng sự đau khổ và lòng thù hận đã dần dần biến đổi tôi thành một người khác.
Thời gian lạnh lùng trôi qua. Đời sống trong hang đá đầy xác người không giản dị như tôi nghĩ. Ngay cả những tử tội, những kẻ không còn hy vọng gì trên đời cũng không chịu nổi công việc ghê rợn nơi đây. Nhiều kẻ sau một thời gian làm việc đã trở nên điên loạn; kẻ khác tìm cách trốn khỏi đây nhưng lòng thù hận đã nuôi sống tôi trong khung cảnh "địa ngục" này. Tôi thản nhiên làm việc, bất chấp mọi khó nhọc, và nhủ thầm sau khi chôn cất cha mẹ tôi xong, tôi sẽ trở về để rửa hận.
Một đêm nọ, tôi đang ngồi suy nghĩ vẩn vơ thì Ombo ở đâu bước đến:
- "Này Sinuhe, từ lâu nay chúng ta vẫn theo dõi ngươi. Ta rất hài lòng thấy ngươi đã làm trọn vẹn những điều được giao phó. Không mấy ai có thể làm được như ngươi. Không những ngươi mổ xác đã giỏi mà còn ướp xác thiện nghệ nữa. Khả năng ướp xác, tẩm liệm của ngươi đáng được gọi là một công trình nghệ thuật. Chúng ta, những giáo sĩ của trường Khoa Học Của Sự Chết, đã quyết định mở cho ngươi một cánh cửa mà rất ít khi nào được mở.
Này Sinuhe, Khoa Học Của Sự Chết là một khoa học bí truyền, chúng ta kén chọn học trò rất kỹ nhưng chúng ta sẵn sàng thu nhận ngươi. Chúng ta cho phép ngươi học hỏi, nghiên cứu môn học này. Tuy ngươi đã từng học về Khoa Học Của Sự Sống, nhưng môn Khoa Học Của Sự Chết lại khác hẳn vì đối tượng của nó là cái thế giới bên kia, cái thế giới vô hình với các chủng loại lạ lùng và các kiến thức huyền bí rất ít ai biết. Đây là một đặc ân cho ngươi đó, vậy ngươi nghĩ sao?"
- Nhưng… nhưng tôi chưa biết gì về môn học này cả.
Ombo im lặng nhìn tôi một lúc rồi thong thả giải thích:
- "Này Sinuhe, đa số con người từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đều không ý thức gì về sự sống cũng như ý nghĩa thật sự của nó. Với họ, khoảng thời gian trước khi ra đời là một cái gì mơ hồ và diễn biến sau khi chết cũng là một cái gì không rõ rệt. Mặc dù con người bao gồm tám thể với những giác quan đặc biệt nhưng phần lớn chỉ biết sử dụng giác quan của thể Xác mà thôi nên họ đã mất đi cơ hội tìm hiểu thêm về những cõi giới khác. Họ không hề ý thức về cái khả năng siêu việt sẵn có, vẫn tiềm ẩn trong mọi cá nhân, mà chỉ biết sống một cách giới hạn, què quặt trong cái thế giới thu hẹp của cõi trần. Không những thế, họ còn sống một cách thờ ơ, mặc cho số phận lôi cuốn chứ không chịu tìm hiểu thêm về ý nghĩa của sự sống.
Tóm lại, con người chẳng biết trước khi sinh ra mình ở đâu, khi sống cũng chẳng ý thức mình sống với mục đích gì, và khi chết cũng chẳng biết mình đi về đâu.
Từ ngàn xưa, thánh Thoth đã dạy cho con người cách sống trọn vẹn bằng cách phát triển khả năng tự chủ để kiểm soát các thể kia và học hỏi, kinh nghiệm các cõi giới qua việc phát triển những giác quan đặc biệt. Vào thời hoàng kim, học trò của Thoth đã du hành khắp các cõi, di chuyển quanh vũ trụ và học hỏi rất nhiều. Nhờ thế, họ đã góp phần xây dựng một nền văn minh huy hoàng với những Kim Tự Tháp hùng vĩ, những đền đài nguy nga, những thạch trụ đặc biệt. Họ đã phát minh ra những bộ môn khoa học như Thiên văn, Kiến trúc, Toán học v.v…
Theo thời gian những lời dạy bảo của thánh sư Thoth đã được học trò của ông chia ra hai phần riêng biệt là Công Truyền hay Khoa Học Của Sự Sống, đề cập đến sự phát triển cá nhân và nghiên cứu các thể cấu tạo nên con người, và Bí Truyền hay Khoa Học Của Sự Chết, chuyên nghiên cứu các cõi giới và chủng loại vô hình. Vì tính cách công truyền nên Khoa Học Của Sự Sống lại được phân chia, sắp đặt thành các bộ môn khoa học thực tiễn như Y học, Dược học, Tâm học, Sinh học v.v… Các giáo sĩ của ngành này đã phổ thông hóa những căn bản giáo lý của Thoth thành những lý thuyết khoa học để giảng dạy cho học trò mặc dù tinh hoa của nó vẫn được cất kỹ và chỉ dạy riêng cho giới giáo sĩ mà thôi. Vì tính cách bí truyền, Khoa Học Của Sự Chết hoạt động giới hạn và thu nhận học trò rất cẩn thận nên ít ai biết gì về môn học vày. Phần lớn chỉ biết ngành này nghiên cứu các phương pháp chôn cất, tẩm liệm mặc dù đó chỉ là một phần rất nhỏ của ngành học này."
Ombo nhìn tôi như quan sát rồi tiếp tục:
- "Này Sinuhe, sở dĩ môn phái của chúng ta kén chọn học trò rất kỹ vì kiến thức này có thể bị sử dụng với mục đích sai lầm, đưa đến những hậu quả ghê gớm. Trong lịch sử môn phái, đã có những người dùng kiến thức này vào các mục đích ích kỷ, hại nhân, sử dụng tà thuật, biến khoa học này thành một pháp môn phù thủy. Ngươi nên biết, khi xưa khoa ướp xác chỉ áp dụng cho những bậc thánh vương, những giáo sĩ có công phu tu hành rất cao để những luồng từ điện thiêng liêng phát xuất từ xác thân của các ngài được tồn tại lâu bền, ban rải ân huệ cho thế gian. Ngoài ra những xác ướp đó còn là những chứng tích để cho con cháu biết đến tổ tiên, biết đến công phu tu hành, dựng nước của tiền nhân mà noi gương.
Tuy nhiên vào khoảng nguyên đại thứ hai, đã có những rạn nứt trong hàng ngũ học trò của Thoth và đưa đến sự tranh chấp lớn lao mà người sau gọi là sự tranh chấp giữa hai phe Bạch đạo và Hắc đạo; hay Chánh và Tà. Các giáo sĩ thuộc phe Hắc đạo đã sử dụng các động lực vô hình hay âm binh để giúp họ phát triển và bành trướng ảnh hưởng. Vào thời buổi hôn ám, việc sử dụng tà thuật rất thịnh hành, đưa Ai Cập vào một giai đoạn hết sức đen tối, xấu xa. Xã hội lúc đó bị phân hóa thành hai giai cấp: thống trị và bị trị. Kẻ thống trị sử dụng quyền năng, tà thuật và các lực lượng ma quái để kiểm soát, cai trị những kẻ khác. Kẻ bị trị thì sống khổ sở, bị áp bức, bóc lột, đánh đập như thú vật. Để duy trì ảnh hưởng tà môn này, các giáo sĩ ra lệnh cho ướp xác mình, biến nó thành một trung tâm thần lực của tà môn, hay nói một cách khác, sử dụng xác ướp đó như cây cầu liên lạc giữa cõi vô hình và hữu hình. Từ cõi âm, họ vẫn có thể ảnh hưởng đến những người sống, khuyến khích tiếp tục duy trì con đường tà muội mà họ đã khởi xướng. Vì lý do đó, Khoa Học Của Sự Chết đã bị mang tiếng rất nhiều mặc dù không phải giáo sĩ nào của môn phái này cũng tôn thờ ma quỉ hay làm những điều xằng bậy.
Để tránh những sai lầm đáng tiếc, những giáo sĩ còn sót lại đã đặt ra các tiêu chuẩn tuyển chọn học trò hết sức kỹ lưỡng và kiến thức của ngành này được giữ gìn cẩn thận hơn xưa. Chúng ta đã tỏ ra lạnh nhạt khi ngươi đến đây vì không muốn những kẻ lạ mặt, tò mò làm rộn sự nghiên cứu của chúng ta. Theo truyền thống, chúng ta sinh sống bằng việc ướp xác, chôn cất người chết, nhưng thật ra đây chỉ là một việc rất nhỏ, không đáng kể trong chương trình tu học và nghiên cứu của chúng ta."
Ombo chỉ lên bầu trời với muôn ngàn tinh tú lấp lánh:
- "Này Sinuhe, hãy nhìn lên bầu trời! Ngươi đừng tưởng vùng không gian bao la vô tận kia trống rỗng mà lầm. Thực ra nó giống như một đại dương với biết bao cõi giới và muôn ngàn sinh vật. Nếu biển cả có các loài thủy tộc thì không gian kia cũng có những sinh vật vô hình mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Nếu có loài cá sống ở biển, ở ao hồ hay sông rạch, thì không gian kia cũng có những chủng loại khác nhau cư trú trong các cõi giới riêng biệt. Nếu loài thủy tộc có các sinh hoạt riêng rẽ, có loài hiền lành có loài nguy hiểm thì không gian kia cũng có những loài vật sinh hoạt như thế, có loài hiền lành, có loài hung dữ và có loài còn thù nghịch với loài người nữa. Nếu có loài cá sống gần mặt nước, có loài cá sống ở dưới đáy sâu, có loài cá thích ẩn trong hang, có loài cá thích vượt sóng đi xa ngàn dặm thì trong không gian bao la kia cũng có những chủng loại thích hợp với các rung động thanh tao, nhẹ nhàng và có loài chỉ thích hợp với các rung động thô bạo, nặng nề. Có loài ít khi hoạt động và cũng có loài tích cực đi khắp đó đây."
- Nhưng làm sao ông biết được những điều ấy?
Ombo thản nhiên:
- "Tùy ngươi, tin hay không tin cũng không sao vì chỉ khi nào chính ngươi phát triển khả năng "nhìn thấy" cõi vô hình như chúng ta thì ngươi mới có thể hiểu được điều ta nói. Này Sinuhe, mọi sinh vật trong vũ trụ, vô hình cũng như hữu hình, đều sống trong những môi trường thích hợp riêng với nó. Loài cá sống và thở dưới nước, loài chim bay trên trời và loài người sống ở dưới đất. Ngoài ra còn có những loài sống trên những vùng núi rất cao, không khí rất loãng và có những loài sống dưới hang sâu, không khí dày đặc. Đối với một số sinh vật thì sự sống tùy thuộc vào ánh sáng mặt trời, nhưng cũng có loài sự sống chỉ xảy ra trong bóng tối.
Tóm lại, sự sống trên trái đất này được phân phối thật khéo léo khiến cho mọi loài đều sinh hoạt thích ứng với mọi hoàn cảnh. Điều này có thể đưa đến một kết luận rằng trong thiên nhiên, không có một phần nào bỏ trống một cách vô ích. Mỗi loài, mỗi vật đều được cung ứng những hoàn cảnh đặc biệt và môi trường thích nghi, cần thiết cho sự sinh hoạt của chúng."
- Phải chăng điều này cũng áp dụng cho cõi giới bên kia?
Ombo gật đầu:
- Đúng thế. Trong vũ trụ có nhiều cõi, hữu hình cũng như vô hình và định luật thiên nhiên đã định rằng cõi vô hình cũng phải có sự sống như cõi hữu hình. Do đó các chủng loại vô hình cũng được cung ứng những điều kiện sinh hoạt cần thiết, thích nghi riêng với chúng. Hiển nhiên cũng như cõi hữu hình, cõi vô hình có những môi trường riêng biệt và điều kiện sinh hoạt khác nhau. Nếu cõi hữu hình có hàng triệu sinh vật thì cõi vô hình cũng phải có hàng triệu sinh vật tương tự sống rải rác khắp nơi trong vũ trụ.
- Nhưng làm sao ông biết được các cõi này?
Ombo thản nhiên:
- Này Sinuhe, kiến thức là những điều đã được người xưa nghiên cứu và truyền lại cho hậu thế, nhưng nếu người sau không chịu nghiên cứu, học hỏi thêm thì đó chỉ là những tin tưởng suông mà thôi. Là kẻ nghiên cứu cõi vô hình, hiển nhiên chúng ta có khả năng đến tận nơi để học hỏi. Chúng ta biết khi sống con người đã không suy nghĩ, hành động giống như nhau thì khi chết họ cũng không thể đến cùng một nơi được. Tùy theo sự phán xét của Osiris, mỗi vong linh sẽ đến những cảnh giới và môi trường sinh hoạt thích hợp. Đó chính là định luật về sự tương quan giữa sự sống và sự chết. Khi sống ra sao thì khi chết cũng sẽ như thế. Khi sống lương thiện thì sẽ đến cõi giới lành và khi sống hung ác thì sẽ đến những cõi giới xấu xa. Nhờ nghiên cứu về các cõi giới vô hình và các chủng loại tại đây mà chúng ta hiểu rõ những ảnh hưởng của các cõi này đối với sinh hoạt của loài người như thế nào.
Tôi chăm chú nhìn vị giáo sư chỉ huy trường Khoa Học Của Sự Chết. Những điều ông ta nói tuy hợp lý nhưng tôi vẫn chưa tin được. Trí suy luận của tôi chưa thể chấp nhận những điều lạ lùng, vượt ngoài khả năng hiểu biết này.
- Theo như ông nói thì phải chăng có sự liên hệ mật thiết giữa cõi sống và cõi chết; hay cõi hữu hình và cõi vô hình?
- Dĩ nhiên là như thế.
- Nhưng tại sao tôi không nghe ai nói về những điều này?
Ombo lạnh lùng:
- Đa số con người vốn ngu dốt lại ngạo mạn. Họ chỉ tin tưởng vào các giác quan thô thiển của thể Xác chứ không biết cách phát triển các giác quan khác để học hỏi thêm. Vũ trụ là một môi trường mà trong đó sự sống biểu hiện chứ không phải là một khoảng không gian trống rỗng vô ích. Nếu mỗi chiếc lá, mỗi giọt nước đều có các loại sâu bọ hay sinh vật sống bám vào trong đó thì làm sao vũ trụ bao la kia lại chỉ là một khoảng trống rỗng, không có sinh vật nào? Không lẽ vũ trụ lại không bằng một giọt nước hay chiếc lá sao? Môn phái của chúng ta nghiên cứu sự chuyển hóa thay đổi của các thể qua những cõi giới trong vũ trụ và ảnh hưởng của các thể này đối với các sinh vật vô hình thuộc các cõi giới kia vì chúng và loài người có những tương quan rất đặc biệt.
- Các sinh vật vô hình này hoạt động ra sao?
- Sở dĩ ta gọi là "cõi vô hình" vì mắt, một giác quan của thể Xác không thể nhìn thấy được chúng, nhưng với những kẻ biết sử dụng giác quan của các thể kia thì chúng không "vô hình" chút nào. Trong vũ trụ có rất nhiều cõi giới, mỗi cõi có hàng triệu sinh vật, cấu tạo bằng những vật chất khác với vật chất của cõi trần. Có loài mong manh như sương khói, có loài nặng nề như đất đá. Có loài tốt lành, khôn ngoan và có loài gian manh, bất hảo. Có loài không thích gần loài người nhưng cũng có loài thù nghịch với loài người. Mỗi loài thích hợp với một cõi giới tùy theo những rung động riêng biệt của chúng. Một kẻ có kiến thức về các cõi này phải biết quan sát, học hỏi từ cõi thanh cao đến cỏi thấp hèn. Mỗi cõi đều có các sinh vật với những tôn ti trật tự riêng nhưng tất cả đều chịu ảnh hưởng của những định luật thiên nhiên.
- Nhưng biết đâu đó chỉ là một lý thuyết trừu tượng?
- Không, đây không phải là một lý thuyết. Các danh sư trong môn phái của chúng ta đã nghiên cứu các cõi này cả ngàn năm nay và chính bản thân ta cũng đích thân đến đó nghiên cứu. Môn học sở trường của ta là kiến thức về Tinh Linh của Tứ Đại (Đất, Nước, Gió, Lửa).
- Tinh Linh (Madan) là cái gì? - Đó là một loài sinh vật khác với loài người, có nhiệm vụ điều khiển, trông coi một nguyên tố (Đại) trong vũ trụ như Đất, Nước, Gió, Lửa. Chúng không có hình dáng nhất định mà cấu tạo bởi những yếu tố riêng nên có thể thay hình đổi dạng, biến hóa trong các cõi giới, khoác lấy những hình dáng vật chất, sử dụng các năng lực huyền bí, tạo ra các hiện tượng vật chất nếu cần. Một pháp sư có thể kêu gọi sự trợ giúp của các Tinh Linh này vào việc tạo ra các hiện tượng huyền bí…
- Việc kêu gọi này như thế nào?
- "Một trong những định luật quan trọng của vũ trụ là định luật về sự quân bình tuyệt đối. Ngươi nên biết rằng vũ trụ là một môi trường hết sức quân bình nên bất cứ một sự thay đổi nào cũng tạo ra những tác động ngược lại để tái lập trạng thái quân bình lúc đầu. Căn bản của yếu tố quân bình này gồm có bốn nguyên tố hay Tứ Đại. Nếu một trong những yếu tố này thay đổi thì nó sẽ làm mất đi sự quân bình và ảnh hưởng đến những yếu tố kia khiến chúng thay đổi theo để tái lập sự quân bình. Sự thay đổi này sẽ tạo ra những hiện tượng vật chất trong thiên nhiên.
Thí dụ khi yếu tố Phong phát khởi thì nó sẽ tạo những áp lực trong môi trường vật chất mà ta gọi là gió. Một pháp sư của môn Khoa Học Của Sự Chết phải có kiến thức thật rõ rệt về các cõi giới bên kia cửa tử; phải nắm vững từng chi tiết về các điều kiện cần thiết của sự quân bình tuyệt đối cũng như các công thức liên quan đến bốn nguyên tố căn bản (Tứ Đại). Do đó vị pháp sư có thể triệu tập các Tinh Linh đến những nơi chốn cần thiết để tạo ra những hiện tượng vật chất. Y có thể hô phong hoán vũ bằng cách sai khiến các Tinh Linh chi phối yếu tố Phong và Thủy để tạo ra mưa gió hay sấm sét. Dĩ nhiên muốn sở hữu những kiến thức này, pháp sư phải học hỏi, rèn luyện và tuân theo các phương pháp tu luyện đặc biệt…"
- Như vậy ông sẵn sàng chỉ dạy cho tôi những kiến thức ấy?
Ombo im lặng nhìn tôi một lúc trước khi nói tiếp:
- "Trước khi học hỏi, ngươi cần một giai đoạn chuẩn bị rồi trải qua các thử thách mà rất ít ai có thể vượt qua. Chỉ khi nào vượt qua được các thử thách này, ngươi mới được truyền dạy các phương pháp bí truyền, nhờ thế giác quan của ngươi sẽ trở nên bén nhạy hơn, tinh thần của ngươi sẽ mạnh mẽ hơn, và có thể giao tiếp với các cõi giới vô hình mà không bị ảnh hưởng. Đây không phải là một quyền năng như nhiều người vẫn nghĩ, mà là một kiến thức đặc biệt để nghiên cứu vũ trụ qua các giác quan thần bí.
Này Sinuhe, chúng ta là những khoa học gia chứ không phải là thầy phù thủy. Đây là điều quan trọng mà ngươi phải ghi nhớ cho kỹ. Tất cả những sự kiện xảy ra trong thiên nhiên đều tuân theo những định luật riêng. Một khoa học gia nghiên cứu, học hỏi những định luật này để hiểu biết vũ trụ. Một thầy phù thủy dựa vào kiến thức này để làm một điều gì đó, thường có tính cách cá nhân, và đó là sự khác biệt giữa khoa học và tà môn. Cả hai đều biết rõ những nghi thức thỉnh cầu hay kêu gọi, và nắm vững các yếu tố căn bản chi phối thiên nhiên nhưng mục đích việc làm thì khác nhau rất xa."
Ombo im lặng suy nghĩ một lúc rồi thong thả nói tiếp:
- Ngươi nên biết thế giới bên kia là một vùng cấm địa mà mỗi bước đi đều chứa đầy nguy hiểm. Một kẻ tò mò, vô ý có thể làm thức động những quyền năng mà y không thể kiềm chế. Một kẻ thiếu ý thức có thể làm khơi dậy các động lực bí mật mà chỉ các bậc đạo sư dày công tu luyện mới có thể kiểm soát và chỉ huy. Chỉ một lầm lẫn, bất cẩn nhỏ có thể làm xáo trộn trật tự thiên nhiên, gây ra các hậu quả lớn lao, không thể lường. Sự xáo trộn này sẽ tạo cơ hội cho những sinh vật bất hảo của các cõi giới bên kìa xâm nhập vào những kẻ táo bạo ấy, lợi dụng họ. Thiếu kiến thức về những sinh vật này, họ sẽ để cho chúng hướng dẫn sai lạc và sẽ trở nên nô lệ cho chúng.
- Điều ấy xảy ra như thế nào?
- Trong thiên nhiên có rất nhiều cõi giới khác nhau và các sinh vật tùy theo sự rung động mà thích hợp với một cõi nào đó. Các vong linh khi từ trần cũng tùy theo sự rung động của các thể mà danh từ huyền bí gọi là sự phán xét của Osiris, để thích hợp với cõi giới tương ứng. Tuy nhiên nếu người chết có một ý chí mạnh mẽ, nhất định không thích hợp với cảnh giới tương ứng thì y sẽ rơi vào trạng thái không sống mà cũng không chết. Đây là trạng thái mà các thể thanh cao bị tê liệt và các thể thấp như thể Phách hay thể Vía không tan rã mà quanh quẩn trong mồ, gần xác thân. Vào lúc tối trời, nó có thể xuất hiện quanh các nấm mồ mà người sống gọi là hồn ma. Tuy nhiên theo thời gian, sự luyến tiếc, ham muốn phai nhạt, tiêu hao đi thì các thể này cũng tan biến dần và đó là điều tự nhiên. Trường hợp đặc biệt là có những kẻ khi còn sống đã giao thiệp với các sinh vật cõi âm, làm nô lệ cho ma quỉ và các mãnh lực bất hảo để thực hiện các điều tà muội thì khi chết, họ sẽ trở thành một trung tâm liên lạc giữa cõi âm và cõi trần mà danh từ của chúng ta gọi là "sứ giả của cõi âm" hay một loài quỉ sống.
- Ông muốn nói đến một loài ác quỉ nào đó chăng?
- "Chính thế. Phần lớn họ là các giáo sĩ thực hành tà thuật, những người đi ngược với các định luật thiên nhiên. Khi còn sống họ có nhiều tham vọng và thường chủ trương những tà thuyết ích kỷ hại nhân, lôi kéo nhân loại vào các con đường sa đọa, xấu xa. Họ sử dụng tà thuật, kêu gọi sự trợ giúp của các động lực bất hảo trong thiên nhiên nên có khả năng hấp dẫn, thôi miên rất mạnh. Họ có thể lôi cuốn hay sai bảo người khác theo mình làm những việc xấu xa, ghê gớm. Sau khi chết họ vẫn muốn duy trì ảnh hưởng nên tìm cách bảo vệ thể xác qua việc ướp xác để nhờ đó mà các thể của họ có chỗ cư ngụ, tiếp tục gây ảnh hưởng lên những người sống.
Ác quỷ hay sứ giả cõi âm là những người có đời sống song đôi: một cái xác ướp trong mồ và một thể vía hoạt động khắp nơi để tiếp tục ảnh hưởng lên đầu óc tín đồ hay những kẻ tin tưởng theo chủ thuyết của họ. Họ sẽ tiếp tục xúi giục con người thù ghét nhau, chia rẽ nhau, chém giết nhau và cổ súy chiến tranh vì những việc này sẽ gây thêm căm thù, oán ghét, bạo động là những lực làm gia tăng sức mạnh của họ. Ngoài ra, có chém giết là có đổ máu và tạo cơ hội cho họ rút lấy sinh lực từ máu của những người đó, hòng nuôi sống cái xác thân trong mồ cũng như các động lực bất hảo xuất phát từ các cõi giới ghê gớm bên kia."
- Thế còn những sinh vật vô hình khác?
- "Có hàng trăm, hàng ngàn sinh vật khác nhau nhưng ta chuyên nghiên cứu về các giống Tinh Linh (Madan) nên có thể kể cho ngươi nghe về một vài loài như Tinh Linh hành Hỏa (Shudala Madan). Loài này thường sống gần chỗ chôn xác người hay nghĩa địa. Vì thuộc hành Hỏa nên chúng có thể giúp các pháp sư đi vào lửa mà không cháy, dẫm lên than hồng hay chế ngự được các đám cháy.
Tinh Linh hành Thổ (Shala Madan) thường sống dưới mặt đất. Chúng có thể giúp cho pháp sư làm một hạt giống mọc thành cây, đơm hoa kết trái chỉ trong khoảnh khắc. Tinh Linh hành Thủy (Kumli Madan) thường sống quanh các nơi ẩm ướt, như suối hay sông ngòi và có thể làm mưa gió hay tiết lộ các điều sẽ xảy ra trong tương lai. Khoa Chiêm Thủy, bói toán kiết hung bằng cách nhìn xuống nước, thấy những hình ảnh lờ mờ hiện ra cũng là do sự phụ giúp của các Tinh Linh loài này.
Tinh Linh hành Phong (Poruthu Madan) là loài Tinh Linh có sức mạnh vô cùng, chúng có thể nhấc bổng người lên khỏi mặt đất hay giúp pháp sư dùng thuật khinh thân, đi nhanh như gió và khuất phục các thú dữ. Ngoài ra còn có Tinh Linh Ảo giác (Diakka Madan), một loài sinh vật thích đóng trò, giả mạo thành những nhân vật này nọ. Vì không có trí thông minh nên chúng thường tìm cách bám víu vào ký ức của con người để tìm lạc thú trong đó. Chúng có thể biết được các sự kiện tiềm ẩn trong ký ức mà người ta đã quên mất từ lâu, mang ra làm điều giả trá, lừa phỉnh. Đối với chúng, lời cầu nguyện thiết tha hay lời đùa cợt đều không khác nhau vì chúng không đủ thông minh để biết đến sự công bình, lòng vị tha, bác ái. Chúng cũng không có quan niệm rõ rệt gì về tình yêu hay thù hận mà chỉ thích mang những ước ao thầm kín của con người ra hứa hẹn quàng xiên để tìm lấy thích thú nhất thời. Điều bất ngờ nhất là chính loài Tinh Linh này lại thường được nhiều người tin tưởng, thờ cúng như các thần linh địa phương.
Đó là sơ lược về các chủng loại vô hình mà ta đã nghiên cứu từ nhiều năm nay. Ta biết ngươi là kẻ ham chuộng kiến thức và có khả năng học hỏi nên ta sẵn sàng hướng dẫn ngươi về những điều ta biết."
Từ đó tôi bắt đầu học hỏi thêm về căn bản của môn Khoa Học Của Sự Chết với các giáo sĩ tại đây. Mặc dù việc học rất giới hạn nhưng tôi cũng biết rằng kiến thức của môn phái này được xây dựng trên những sự hiểu biết hết sức uyên bác về định luật thiên nhiên. Các bậc đạo trưởng ngày xưa trong phái này đã ra công nghiên cứu tường tận về đặc tính cũng như khả năng của mọi loài trong vũ trụ, từ khoáng vật, thực vật đến các sinh vật ở nhiều cõi giới cũng như sự tương quan của chúng trong vũ trụ. Là người ham học hỏi, tôi đã cố công trau dồi kiến thức căn bản này nhưng đôi khi tôi cũng không khỏi nghĩ về những vết thương lòng.
Một hôm trưởng lão Ombo đến gặp tôi:
- "Này Sinuhe, ngươi quả hết sức siêng năng, không phụ lòng dạy bảo của chúng ta. Hiện nay đã đến thời hạn một năm của ngươi. Chúng ta đã ướp xác và làm các nghi thức tẩm liệm cho cha mẹ người rồi nên ngươi có thể đem xác song thân đi chôn cất cho đúng nguyện vọng khi xưa. Ta rất mừng vì chỉ một thời gian ngắn, ngươi đã nắm được căn bản môn phái chúng ta. Ngươi nên nhớ rằng kiến thức này vốn có tính cách thiêng liêng vì nó đưa đến việc tham dự vào những định luật tối cao, điều khiển tất cả mọi sự trong vũ trụ. Kiến thức này vốn có từ ngàn xưa, có lẽ từ khi loài người xuất hiện trên trái đất nhưng trải qua thời gian, qua công phu nghiên cứu của các bậc đạo gia thời cổ mà nó được đúc kết thành một hệ thống khoa học cao siêu mặc dù căn bản của nó thật ra rất giản dị. Trong môn phái của chúng ta, ý chí là bí quyết của tất cả mọi sự. Ý chí là một cái gì tế nhị, khôn ngoan, vô hình nhưng mạnh mẽ, ngự trị trên tất cả mọi vật chất bất động, vô tri. Khi con người muốn cử động, một ý định phát ra, thế là chân tay của hắn lập tức cử động. Cũng như thế, một kẻ biết tập trung ý chí sẽ có thể sai khiến người khác hay tạo ra hiện tượng vật chất nào đó."
- Nhưng việc sai khiến chân tay cử động khác xa với việc tạo ra các hiện tượng vật chất hay sai khiến người khác chứ!
- "Không đâu! Mọi việc đều bắt nguồn từ việc sử dụng ý chí. Vấn đề khác nhau là sự tập trung và việc sử dụng một cách ý thức hay vô thức mà thôi. Nếu ta lấy một mảnh vải cọ xát vào miếng hổ phách, ta có thể làm miếng hổ phách thu hút các vật nhẹ và thanh hơn nó. Điều này phải giải thích thế nào? Phải chăng ta đã khích động các yếu tố tiềm ẩn bên trong miếng hổ phách khiến nó có thể thu hút các chất khác, thanh nhẹ hơn? Hiện tượng thu hút này là gì nếu không phải là sự hấp dẫn của các vật chất. Nếu quan sát hiện tượng thiên nhiên, ngươi sẽ thấy một con rắn có thể thôi miên một con ếch khiến nó sợ hãi đứng yên cho con rắn ăn thịt, một con cọp cũng có thể thôi miên một con nai và đó là những hành động hữu thức của ý chí hay kết quả của một tư tưởng được tập trung.
Một tư tưởng hay ý chí khi tập trung sẽ có sức mạnh không thể diễn tả, có thể làm những chuyện hết sức lạ lùng, bất ngờ. Dĩ nhiên chỉ những người công phu tu luyện mới làm được việc này vì hầu hết con người không biết gì về sức mạnh của ý chí nên họ để đầu óc mông lung, thiếu tự chủ nên rất dễ bị ảnh hưởng hoặc sai khiến. Do đó căn bản đầu tiên của môn phái chúng ta là việc tập tánh tự chủ, làm chủ thân lẫn tâm, làm chủ tất cả mọi thể bằng sức mạnh của ý chí."
Ombo im lặng nhìn tôi rồi nói tiếp:
- "Tất cả mọi vật trong thiên nhiên đều tiềm ẩn bên trong nó một sự sống thiêng liêng, dù nhỏ nhặt hay tế vi thể nào. Mỗi sinh vật có thể thay đổi hình hài, sắc tướng và trải qua những cõi giới vô hình cũng như hữu hình nhưng cái sự sống thiêng liêng này thì không bao giờ đổi thay cả. Vì cùng chung một sự sống nên các vật chất đều tương quan và thu hút lẫn nhau. Nếu ngươi theo dõi sự phát triển của muôn loài thì ngươi sẽ thấy cái nguyên lý của sự sống này phát triển mỗi lúc một tinh vi, phức rạp và hoàn hảo hơn. Đối với cõi hữu hình, con người là sinh vật có tổ chức hoàn bị nhất vì trong mọi yếu tố vật chất cũng như tinh thần (ý chí) đều phát triển mạnh mẽ và trọn vẹn. Do đó khả năng kiểm soát của con người rất cao, y có thể sử dụng sức mạnh của ý chí để kiểm soát và làm chủ các yếu tố vật chất. Các bậc đạo trưởng trong môn phái chúng ta là những người đã làm chủ được tư tưởng của mình và thoát ly khỏi các kiềm tỏa của vật chất. Một ý chí quyết định là yếu tố khởi đầu của tất cả mọi tác động mầu nhiệm trong thiên nhiên.
Này Sinuhe, muốn bước vào con đường của môn phái chúng ta, ngươi cần nhớ kỹ nguyên tắc sau đây: Ngươi phải cương quyết giải tỏa ý chí ra khỏi vòng kiềm tỏa, vây hãm, lệ thuộc của các yếu tố vật chất và vận dụng ý chí để kiểm soát tất cả mọi hành động của mình.
Hôm nay là ngày huấn luyện cuối vì từ nay ngươi sẽ lên đường và sẽ gặp nhiều thử thách. Chỉ khi nào ngươi vượt qua được những thử thách này thì ngươi mới có thể trở lại đây học hỏi thêm về các kiến thức huyền bí của môn phái chúng ta."
Ombo nhìn tôi chăm chú rất lâu rồi chỉ lên tường, nơi có hình vẽ một con rắn đang quấn quanh biểu tượng "Tau" (tượng trưng cho sự sống):
- "Này Sinuhe, trước khi ngươi lên đường, ta có vài lời nhắn nhủ riêng với ngươi. Hãy nhìn con rắn kia, nó tượng trưng cho các mãnh lực của vật chất mà bất cứ người nào trong môn phái này đều phải tìm cách tự giải thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa của nó và điều khiển nó. Trước khi nhập môn, ngươi sẽ phải trải qua nhiều thử thách của con rắn ma quái ấy. Có lúc nó sẽ nói với ngươi: "Ta sẽ ban cho ngươi tất cả những gì ngươi muốn, nếu ngươi chịu khuất phục ta". Ngươi sẽ phải đáp lại bằng tất cả sức mạnh của ý chí rằng: "Ta không bao giờ chịu khuất phục mày, mà chính mày sẽ phải nằm mọp dưới chân ta. Mày không thể cho ta một thứ gì cả, mà chính ta sẽ sai khiến mày làm những gì ta muốn vì ta là chủ của mày". Nếu ngươi không thoát khỏi mãnh lực cám dỗ của con rắn ma quái đó, ngươi sẽ đi lạc vào tà đạo như bao người trước đã đi, và rồi ngươi sẽ không thể thoát ra khỏi ảnh hưởng ghê gớm của mãnh lực đó. Do đó ta khuyên ngươi hãy thận trọng..."
Ombo đắm chìm trong im lặng. Lần đầu tiên tôi thấy khuôn mặt lạnh lùng như thây ma của ông một vẻ ưu ái khó tả. Ông rút trong túi ra một chiếc huy hiệu nhỏ:
- "Ta trao cho ngươi chiếc huy hiệu này. Nó là biểu hiệu của môn phái chúng ta. Nhờ nó mà ngươi có thể đến nơi chôn cất trong thung lũng mộ vua mà không người nào có thể đến đó được. Nhờ nó mà ngươi sẽ nhận được sự giúp đỡ đặc biệt của những huynh đệ trong môn phái chúng ta.
Này Sinuhe, kể từ nay ngươi sẽ bắt đầu một cuộc hành trình đầy gay go, nhiều thử thách nhưng ta tin rằng ngươi có thể vượt qua được. Từ nhiều thế kỷ nay, kể từ khi học trò của Thoth phân chia những lời dạy bảo của ông thành hai môn phái riêng biệt, mới có một trường hợp đặc biệt hãn hữu như thế này. Ta rất vui mừng vì ngươi là kẻ duy nhất đã thụ giáo kiến thức của phái Khoa Học Của Sự Sống, rồi lại có dịp học hỏi thêm về kiến thức của phái Khoa Học Của Sự Chết. Mặc dù ngươi chưa được chỉ dẫn tường tận về tinh hoa của cả hai môn phái, nhưng theo sự suy luận của ta, đây chỉ là vấn đề thời gian. Ta hy vọng ngươi sẽ vượt qua được những khó khăn, thử thách rồi tiếp tục học hỏi với các danh sư của môn Khoa Học Của Sự Sống, và sau đó đến đây học thêm các kiến thức huyền môn với chúng ta. Chúng ta tin rằng ngươi có một sứ mạng quan trọng là phục hồi toàn bộ kiến thức của Thoth để dạy bảo cho các thế hệ sau. Ta mong ngươi sẽ hoàn tất sứ mạng cao cả này, phục hồi nền minh triết thiêng liêng của Thoth, hướng dẫn nhân loại sống đúng với các định luật thiên nhiên. Biết đâu qua sự dạy bảo của ngươi mà tương lai nhân loại chẳng sáng sủa, tốt đẹp hơn."
CHƯƠNG 7
Đó là một đêm tối trời, vầng trăng lưỡi liềm tỏa ánh sáng mờ nhạt xuống thung lũng mộ vua, khu nghĩa trang dành riêng cho Pharaoh và những người trong hoàng tộc. Đây là vùng cấm địa, được canh gác cẩn thận và bất cứ ai lai vãng trái phép đều bị xử tử hình. Tuy nhiên dù không canh gác cũng chẳng mấy ai dám bén mảng tới vì mọi người đều biết những ngôi mộ trong nghĩa trang này chẳng những được chôn giấu, che đậy kỹ lưỡng mà còn có những động lực vô hình bảo vệ, ai đụng chạm đến sẽ bị trừng phạt hết sức nặng nề.
Nhờ có phù hiệu và giấy tờ chứng minh của trường Khoa Học Của Sự Chết nên các binh sĩ canh gác đã để tôi qua các trạm canh một cách dễ dàng. Theo lời chỉ dẫn, tôi mang xác ướp cha mẹ tôi đến khu nghĩa trang của dòng họ Oka. Đây là một khu đất rộng, chính giữa có trồng một thạch trụ khắc ghi công trạng của những người trong họ. Phần lớn những ngôi mộ đều được chôn sâu dưới lòng đất và dĩ nhiên không ai biết chỗ nào, nhưng nhờ được chỉ dẫn, tôi tìm một miếng đất trống và khởi công đào sới. Trong lúc đang chuẩn bị hạ huyệt thì bỗng có tiếng động ở đâu vang lên rồi từ hốc đá gần đó, một bóng đen xuất hiện. Tuy đã làm việc tại trường Khoa Học Của Sự Chết quen mổ xẻ thây ma, xác chết nhưng tôi cũng không khỏi hoảng hốt. Phải chăng đó là một vong linh hay các ma quỉ giữ mồ?
Tôi lùi lại quát lớn:
- Ngươi là ai?
Bóng đen cũng hỏi lại:
- Ngươi là ai?
Tôi thở phào nhẹ nhõm:
- Thì ra ngươi không phải là ma quỉ hay vong linh giữ mồ.
Bóng đen chăm chú nhìn tôi rồi lặp lại câu hỏi:
- Ngươi là ai?
- Tôi là Sinuhe, y sĩ tại thành Thebes.
- Sinuhe ư? Phải chăng ngươi là con của y sĩ Sen Moot?
- Đúng thế.
Bóng đen thong thả bước về phía tôi. Dưới ánh trăng lờ mờ, tôi nhận ra đó là một ông già, quần áo rách rưới. Ông lão chăm chú nhìn tôi rồi trầm giọng:
- Ta biết cha ngươi là người lương thiện. Ngày xưa ta bị thương và được cha ngươi cứu chữa… Nhưng ngươi làm gì ở đây với hai cái xác ướp kia?
- Đó là xác cha mẹ tôi và tôi muốn chôn cất hai người tại đây.
- Tại sao ngươi muốn chôn tại nghĩa trang dành riêng cho hoàng tộc này?
- Đây là khu đất của dòng họ Oka, mẹ tôi là người thuộc dòng họ này. Tôi hy vọng nhờ được ướp xác và chôn cất tại đây, cha mẹ tôi sẽ được hưởng một đời sống tốt đẹp hơn ở cõi giới bên kia…
Ông lão cười khảy:
- Thì ra ngươi tin là có đời sống ở thế giới bên kia.
- Tôi không tin gì hết nhưng cha mẹ tôi thì tin như vậy. Khi xưa cha mẹ tôi thường sống theo các kỷ luật nhất định, mong sẽ được hưởng những điều tốt đẹp ở thế giới bên kia. Tiếc thay tôi không làm được như thế, tôi đã phụ lòng tin tưởng của cha mẹ tôi nên đành ướp xác hai người mang đến đây chôn cất, mong có thể đền đáp được chút gì.
Ông lão cười gằn:
- Trò đời vẫn chẳng thay đổi bao nhiêu. Khi cha mẹ còn sống thì chẳng lo hầu hạ, phụng dưỡng; nhưng lúc chết thì con cái nào cũng lo ướp xác, tổ chức chôn cất ma chay linh đình. Ha ha… ngươi tin rằng nhờ được chôn cất trong thung lũng mộ vua này thì cha mẹ ngươi sẽ được hưởng những đồ cúng tế, những lễ vật mà người ta dâng cúng cho các vua chúa sao?
- Có thể như thế.
Ông lão ngửa cổ cười sằng sặc:
- Ngươi lầm rồi! Người chết chẳng thể hưởng cái gì hết vì nếu có các lễ vật dâng cúng thì nó chỉ lọt vào chiếc bụng rỗng của chúng ta mà thôi.
- Thì ra ông là kẻ chuyên đào mồ mả, trộm lễ vật của người chết.
- Đúng thế. Ta là Ansara, thủ lãnh của những kẻ chuyên trộm cướp mồ mả nơi đây. Tôi tỏ vẻ khó chịu:
- Không lẽ trên đời này chẳng có nghề nghiệp gì khá hơn sao mà ông phải tranh giành cả đồ cúng tế với người chết?
Ông lão nổi giận:
- Thằng kia, nếu tao không chịu ơn cha mày khi xưa thì có lẽ mày đã bỏ mạng rồi! Không kẻ nào dám ăn nói hỗn hào với Ansara này như vậy. Mày biết gì về chúng ta mà dám lên giọng dạy đời như thế?
Tôi cũng tức giận, định lên tiếng cãi lại nhưng thấy trong giọng điệu hằn học của ông lão phảng phất một điều gì bi phẫn nên ngưng lại, không nói gì. Ansara cũng chăm chú nhìn tôi như chờ đợi phản ứng nhưng không thấy tôi nói gì thì im lặng.
Một lúc sau ông thở dài:
- "Nếu ngươi biết rằng ngày trước chúng ta cũng là những kẻ lương thiện. Chúng ta là những nông dân, chỉ biết cày sâu cuốc bẫm, cho đến khi Pharaoh gây chiến tranh, bắt trai tráng phải nhập ngũ. Chúng ta từ giã gia đình ra đi, hy vọng cuộc chiến sẽ chấm dứt sớm, nhưng nào ngờ hết cuộc chiến với người Hitites lại đến chiến tranh với Nubia, rồi Syria và Babylon để thỏa mãn giấc mộng mở mang lãnh thổ của Pharaoh. Sau mấy chục năm chinh chiến, bao nhiêu máu dân lành đã đổ, bao nhiêu sinh mạng đã mất, bao nhiêu thế hệ đã mang xương máu ra hy sinh cho tham vọng của Pharaoh, cho đến khi ông ta già yếu, lâm bệnh thì chiến tranh mới chấm dứt.
Khi chúng ta trở về quê cũ thì hầu hết ruộng nương, nhà cửa, vườn tược, đất đai đều đã lọt vào tay các quan lớn trong triều, phần thưởng của Pharaoh ban cho tướng lãnh có công. Các binh sĩ như chúng ta chẳng được gì ngoài tấm thân tàn phế bệnh hoạn. Vì chiến tranh kéo dài quá lâu, làng xóm tan hoang, gia đình ly tán, chẳng ai tìm được họ hàng thân thuộc nữa. Đám thương phế binh già như chúng ta không nơi nương tựa, không nghề sinh sống, lang thang rày đây mai đó kiếm ăn. Sau cùng chúng ta đành phải hành nghề trộm mả này."
Ansara ngửa cổ lên trời cười sằng sặc:
 - Ha ha ha… Khi xưa các văn quan võ tướng đã cướp nhà cửa, ruộng vườn, đất đai của chúng ta thì ngày nay chúng ta cũng đào xới mồ mả, cướp lại những đồ vật chôn cất theo thây ma của chúng. Này Sinuhe, ngươi còn trẻ, chưa nếm mùi chinh chiến nên không thể nào hiểu được những điều ta nói đâu. Chỉ những kẻ đã từng trải chiến tranh như chúng ta mới hiểu rõ hậu quả tàn khốc của nó. Chiến tranh không những phá hoại tất cả mọi tiềm lực quốc gia mà còn làm hư hỏng con người nữa. Ta hy vọng Pharaoh sẽ không dẫm vào vết xe cũ, không gây chiến tranh, không nuôi thù hận, vì nếu có tiếp tục đường lối cũ thì tương lai Ai Cập sẽ không thể nào khá được…
Tôi ngậm ngùi nhìn ông già trong bộ quần áo rách nát:
- Nhưng hẳn ông cũng biết việc đào mồ mả rất nguy hiểm.
- Tại sao ngươi lại quan tâm đến chúng ta như vậy? Kẻ chuyên đào mồ, ăn trộm đồ quý trong mồ như chúng ta hẳn nhiên phải biết rõ những cạm bẫy trong mồ chứ…
- Nhưng còn những xác ướp giữ mồ…
- Ai sợ xác ướp chứ chúng ta không sợ chút nào. Chúng ta đã có võ khí riêng.
- Nhưng làm sao ông có thể đối phó với các động lực vô hình?
Ansara nhìn tôi ngạc nhiên:
- "Ta không ngờ ngươi cũng biết về các động lực ma quái đó. Với những kẻ đã không còn sợ chết thì xác ướp giữ mồ kia chẳng thể làm gì được. Dù các pháp sư phép thuật có cao cường đến đâu thì cũng phải dựa vào các xác ướp làm môi giới cho động lực cõi âm tác oai tác quái. Chúng ta chỉ việc đốt cháy các xác ướp này thì sự liên lạc với cõi âm phải chấm dứt ngay.
Ha ha ha… điều này giản dị chứ có khó khăn gì! Chúng ta đào đường hầm vào trong mồ, dùng lửa đốt cháy mọi thứ, từ các ký hiệu, bùa chú, đến các xác ướp để trừ sạch các động lực ma quái trước khi vơ vét mọi thứ chôn theo trong mồ. Các ảnh hưởng cõi âm dù ghê gớm đến đâu cũng phải dựa vào xác ướp làm trung gian. Mất đi thứ này chúng trở nên vô hiệu nên bọn trộm mồ mả như chúng ta mặc tình thao túng. Này Sinuhe, bất kỳ ảnh hưởng của cõi âm nào cũng kỵ lửa. Chỉ cần một mồi lửa là những ảnh hưởng ma quái đều tiêu tan ra tro bụi hết…
Ha ha ha… những vua chúa tàn bạo, những giáo sĩ tà đạo đầy tham vọng cứ nghĩ rằng khi ra lệnh ướp xác để cho các động lực vô hình từ cõi âm sử dụng thì họ có thể kéo dài ảnh hưởng ma quái này mãi mãi, nhưng họ đã lầm rất lớn. Dù các ngôi mộ được canh gác kỹ lưỡng, dù dân chúng chẳng ai dám bén mảng đến, dù con cháu họ có ngày đêm tế lễ, dâng cúng lễ vật thì họ cũng chẳng thể tác oai tác quái gì nữa vì họ không bao giờ ngờ các xác ướp trung gian đã bị chúng ta đốt cháy rụi từ lâu. Có bao giờ ngờ được rằng có những kẻ chẳng sợ chết, chẳng sợ ma quỉ, sẵn sàng đào mồ phá mả, đốt sạch xác ướp và bùa chú ma quái kia để trộm đồ quý.
Ha ha ha… trên đời này chẳng có gì tồn tại mãi với thời gian, chỉ có cát bụi mới thực sự vĩnh viễn mà thôi…"
Ansara ngưng nói nhìn về cuối chân trời rồi gật đầu:
- Trời đã gần sáng rồi. Để ta giúp ngươi một tay chôn cất song thân ngươi cho tử tế rồi ngươi hãy rời khỏi chỗ này ngay kẻo quân lính bắt được hỏi lôi thôi thì phiền lắm.
Nói xong Ansara nhặt một cái cuốc gần đó phụ giúp tôi chôn cất. Sau khi chôn xong, tôi định nhặt vài hòn đá gần đó để đánh dấu thì Ansara đã lắc đầu:
- Ngươi mất công đánh dấu làm gì, trước sau tất cả rồi cũng trở về với cát bụi. Này Sinuhe, ngươi hãy nhìn cho kỹ, có hàng trăm Pharaoh được chôn cất trong thung lũng này nhưng ngươi đã thấy gì ngoài bãi cát mênh mông bát ngát kia? Dù ngươi có quyền uy tột đỉnh thế nào đi nữa nhưng khi nằm xuống thì cũng chỉ là cái xác khô mà thôi. Dù họ có bỏ ra bao nhiêu năm xây dựng sự nghiệp, mở mang lãnh thổ, kiến tạo những lâu đài đồ sộ, những lăng tẩm vĩ đại nhưng khi chết thì cũng nằm trong cái hố không đầy ba thước. Dù họ có chinh phục được bao nhiêu quốc gia, thôn tính được bao nhiêu đất đai, xưng hùng xưng bá thế nào thì cuối cùng vẫn chỉ là một nắm xương tàn, không giá trị bằng một hạt cát trong sa mạc. Hạt cát ít ra cũng biết mình là cát bụi nên khiêm tốn nằm yên nhưng con người thì cứ mải miết, lăng xăng với những ước vọng viễn vông, chẳng ý thức được đời người vài chục năm có là mấy so với cát bụi đã hiện hữu nơi đây hàng ngàn năm rồi. Có lẽ những hạt cát đều bật cười trước sự ngu xuẩn của con người. Ha ha ha… Chúng cười cho sự điên rồ của con người, không biết thân phận mình bé nhỏ mong manh như thế nào mà còn đòi bất tử. Ha ha ha…
Ansara thong thả bước đi nhưng tiếng cười của lão vẫn rền vang trong sa mạc. Tôi im lặng nhìn theo bóng ông lão khuất dần trong bóng đêm.
Trời bắt đầu sáng, một vài tia nắng xuất hiện trên nền trời. Tôi trở về Thebes với một tâm trạng khó tả. Đã hơn một năm nay, tôi mới trở lại thành phố thân yêu này. Những đường phố quen thuộc từ từ hiện ra trước mắt tôi. Bên bờ giếng, một thiếu nữ đang múc nước. Vài đứa trẻ chạy nhảy quanh đó. Phiên chợ sớm đã họp. Tôi nghe rõ tiếng người cười nói và chào mời vang vang vọng lại. Khi tôi vừa đến bên giếng thì người thiếu nữ múc nước chợt ngẩng mặt lên nhìn và hoảng hốt kêu lớn:
- Sinuhe đấy ư? Anh… anh làm gì ở đây? Tôi nhận ra Meryt, người thiếu nữ bán rượu năm xưa:
- Chào cô Meryt.
Meryt cuống quít:
- Em tưởng… em tưởng… anh đã chết rồi! - Không, tôi vẫn còn sống… Tại sao cô lại hoảng hốt như thế?
Meryt không trả lời, dáo dác ngó quanh rồi đưa tay lên miệng ra hiệu cho tôi đừng nói. Tôi đang ngạc nhiên thì Meryt đã kéo tấm khăn choàng đầu trùm ngay lên mặt tôi rồi ghé sát vào tai tôi nói nhỏ:
- Anh đừng nói gì hết… Hãy đi theo em ngay.
- Tại sao?
Meryt kéo tay tôi rảo bước qua mấy con đường nhỏ đến một quán rượu. Khi tôi vừa bước vào thì thấy Kepta đang cắm cúi lau chùi sàn nhà. Hắn ngửng lên thấy tôi thì cuống quít la lớn:
- Ông chủ… phải ông chủ đó không?
- Kepta, ngươi làm gì ở đây?
Gã nô lệ ôm chầm lấy tôi mừng rỡ:
- Từ lúc ông chủ đem xác hai cụ đi chôn rồi không trở về, tôi tưởng ông chủ đã chết theo hai cụ rồi.
- Không, ta vẫn còn sống đây… Tại sao ngươi hoảng hốt thế? 
Kepta đưa tay lên chùi con mắt duy nhất rồi hỏi:
- Không lẽ… không lẽ ông chủ không biết gì sao? Pharaoh Akhenaten… giận ông chủ lắm đó.
- Tại sao?
Kepta vội vã giải thích:
- Đúng vào lúc ông chủ bỏ đi thì hoàng tử Teay bị sưng màng óc. Hoàng đế Akhenaten chỉ có một con trai duy nhất nên ngài quý hoàng tử vô cùng. Khi hoàng tử lâm bệnh, ngài cho gọi ông chủ đến cứu chữa. Các quan ngự y đều nói rằng ông chủ là người mổ sọ tài giỏi nhất và có thể chữa cho hoàng tử nên Pharaoh đợi ông chủ mãi. Hoàng tử mắc bệnh ít lâu rồi qua đời mà ông chủ vẫn biệt vô âm tín nên một số quan triều cho rằng ông chủ đã mưu mô với phe chống đối nên lánh mặt không chịu cứu chữa, để cho dòng họ Amenophis phải tuyệt tự. Khắp nước người ta đã bàn tán việc này rất sôi nổi. Sau cùng các quan triều yêu cầu hoàng đế phải trừng trị ông chủ thật nặng nề để làm gương và án tử hình đã ban hành từ mấy tháng nay rồi.
Tôi bàng hoàng không ngờ:
- Nhưng… nhưng không lẽ… Horemheb cũng tin như vậy sao?
- Lúc đầu Horemheb bị nghi ngờ là đã che chở cho ông chủ. Sau này chính Pharaoh ra lệnh cho Horemheb phải tìm cho được ông chủ bằng bất cứ giá nào. Hắn đích thân đốc thúc quân sĩ khám xét khắp nơi. Hiện nay Horemheb đang treo giải thưởng cho ai bắt được ông chủ.
Tôi căm giận gầm lên:
- Horemheb, thằng khốn kiếp! Ta không ngờ ngươi lại thay lòng đổi dạ nhanh như thế!
Đến lúc đó Meryt mới lên tiếng:
- Sinuhe, có lẽ anh cần rời khỏi Ai Cập ngay. Nếu để Horemheb bắt được, chắc anh phải chết.
Một lần nữa tôi cảm thấy mọi sự đều sụp đổ tan tành. Tôi chán chường:
- Ta không sợ chết. Sống chết đối với ta không có nghĩa gì nữa.
- Sinuhe, tại sao anh lại nói thế?
- Ta đã được học về sự chết nên không còn sợ chết nữa.
Meryt chăm chú nhìn tôi một lúc rồi nghiêm nghị:
- Này Sinuhe, có thật đó là kiến thức về sự chết hay chỉ là sự thất vọng đối với đời sống?
Câu nói của Meryt như gáo nước lạnh dội lên đầu khiến tôi giật mình. Cả một dĩ vãng đầy đau khổ tưởng đã chìm sâu lại hiện lên rõ rệt. Meryt tiếp tục:
- Phải chăng anh vẫn còn đau khổ vì người đàn bà Babylon kia nên chỉ muốn tìm lấy cái chết?
Câu nói của Meryt đã đụng chạm đến vết thương mà bao lâu nay tôi vẫn cố quên. Hình ảnh Nefer và Horemheb lại hiện ra trong trí khiến tôi gầm lên:
- Meryt, cô nói đúng đấy! Đứa con gái khốn nạn kia đã phản bội ta… ta thề sẽ băm nó ra trăm mảnh rồi quăng cho cá sấu… Ôi đàn bà! Đàn bà chúng mày chỉ toàn là đồ xấu xa, phản bội…
Meryt ôn tồn lắc đầu:
- Anh nghĩ tất cả mọi người phụ nữ đều xấu xa như thế sao?
Tôi biết mình lỡ lời nên ngập ngừng bào chữa:
- Tôi… tôi không… không có ý nói cô. Meryt nhẹ nhàng:
- Em biết anh không có ý vơ đũa cả nắm như thế.
Tôi bối rối chữa thẹn:
- Cô là người tốt… chứ không như đứa con gái khốn nạn thành Babylon kia. Nhưng tại sao cô lại đối xử tử tế với tôi như vậy? Tôi là một kẻ khốn cùng, đã mất hết danh dự, tài sản, danh vọng, sự nghiệp… Hiện nay tôi còn là kẻ đang bị truy nã nữa, thế tại sao cô lại giúp tôi?
Meryt im lặng cúi đầu vân vê tà áo. Kepta vội đỡ lời:
- Khi ông chủ bỏ đi mất tích, thằng nô lệ này không nơi nương tựa, lang thang đầu đường xó chợ. May thay có Meryt thương tình cho tá túc…
- Tại sao cô làm thế?
Meryt cúi đầu nói nhỏ: - Tại vì em biết… y sĩ… là người tốt…
Đến lúc đó tôi mới hiểu được cảm tình của Meryt dành cho tôi. Tôi nhớ khi xưa có lần bị Horemheb và bạn bè ép uống rượu, chính Meryt đã can thiệp và bênh vực tôi. Sau này khi tôi trở về Thebes, cô đã theo tôi về tận đây nhưng tôi vẫn vô tình không để ý.
Tôi im lặng nhìn Meryt một lúc rồi nói thật chậm:
- Này Meryt, tôi cám ơn cô đã đối xử rất tốt với chúng tôi. Tôi là kẻ xấu xa, hèn hạ thật không xứng đáng với cô…
- Anh, đừng nói thế.
- Tôi là kẻ đang mang án tử hình, một kẻ đã phụ lòng tất cả những người yêu thương tôi. Cha mẹ tôi đã chết, nhà cửa tôi đã mất, sự nghiệp của tôi cũng không ra gì, danh dự của tôi đã bị đứa con gái thành Babylon chà đạp. Hoàng đế Akhenaten vì tin tưởng ở tôi nên con trai ông đã chết. Hiện nay tôi chỉ mang lại bất hạnh cho những ai gần tôi.
- Có lẽ anh đã bị người ta lừa gạt…
- Không, chẳng ai lừa gạt tôi cả. Tôi đã làm thì tôi phải lãnh chịu hậu quả.
- Không. Anh đừng nói thế. Lúc này hoàng đế đang giận dữ, triều đình đang xáo trộn. Horemheb cũng bị nghi ngờ che giấu anh nên phải treo giải thưởng để bắt anh mà thôi. Lúc này anh xuất hiện chẳng ích lợi gì, nhưng theo thời gian mọi sự sẽ thay đổi và…
- Không, tôi đã chán ngấy cuộc sống tại Ai Cập rồi. Cha mẹ tôi là người tốt nhưng họ đâu được gì ngoài cái chết thê thảm. Tôi muốn sống theo lý tưởng của cha mẹ tôi nhưng kết quả là mất hết danh dự, nhà cửa, tài sản. Ngay cả người bạn thân nhất cũng phản bội tôi. Hoàng đế Akhenaten thì lên án tử hình tôi. Không, tôi đã chán ngấy cái xứ khốn nạn này rồi. Tôi không thể tiếp tục kéo dài cuộc sống như thế này nữa. Kepta gật đầu:
- Ông chủ nói đúng đó. Xứ này không biết đến tài nghệ của ông chủ thì ông chủ qua xứ khác lập nghiệp. Với tài nghệ của ông chủ thì sống chỗ nào chẳng được.
Tôi đồng ý:
- Từ nay thằng Sinuhe này sẽ không còn dính dáng gì đến Ai Cập nữa.
Meryt lắc đầu:
- Sinuhe, anh nên bình tĩnh lại. Chuyện đâu còn đó, lúc này anh cần lánh mặt một thời gian rồi từ từ mọi việc sẽ tự nó giải quyết. - Không, tôi không còn muốn sống ở đây nữa.
Kepta gật đầu nói nhỏ:
- Thưa ông chủ, lúc này việc buôn bán tại Palistine đang phát đạt. Người Do Thái chúng tôi kiếm ăn rất khá nhưng xứ chúng tôi không có nhiều y sĩ giỏi. Nếu ông chủ qua đó làm ăn thì chắc chắn sẽ kiếm được khá lắm…
- Phải đấy, ngươi thu xếp cho ta đi Palestine ngay.
Kepta vội vã bỏ đi. Meryt im lặng nhìn tôi một lúc rồi òa lên khóc. Tôi nắm chặt lấy tay cô gái:
- Meryt, tôi hiểu rõ tình cảm của cô dành cho tôi, nhưng tôi mong cô hãy quên tôi đi. Cô còn trẻ, cuộc đời còn tươi sáng…
Meryt tiếp tục thút thít khóc cho đến khi Kepta trở lại:
- Thưa ông chủ, tôi đã thu xếp xong. Lúc này có thuyền buôn đi dọc trên sông Nile đến Beda, thằng nô lệ này đã đút lót tiền bạc cho chủ thuyền nên hắn không hỏi han chi cả. Chúng ta cần lên đường ngay.
- Ngươi làm gì có tiền để làm chuyện đó? Kepta hấp háy con mắt duy nhất nhìn tôi rồi cười xòa:
- Thì tiền của ông chủ chứ còn của ai nữa… Thằng nô lệ này vẫn giữ giùm cho ông chủ số tiền bệnh nhân bỏ trong rương trước phòng khám bệnh. Có lẽ ông chủ quên rồi chăng?
Từ đó tôi và Kepta bắt đầu cuộc sống mới tại Palestine…
Tôi đi bỏ lại phía sau mảnh đất chôn nhau cắt rốn cũng như quãng đời thanh niên ngây thơ, vô tư và đầy lạc quan. Trong thời gian đầu, chúng tôi bám theo những nhóm người Do Thái chuyên buôn bán, trao đổi hàng hóa quanh sa mạc Palestine. Vì buồn chán, không tha thiết gì đến đời sống nữa nên tôi thường mượn rượu giải khuây. Nhờ Kepta còn giữ được chút tiền bạc nên chúng tôi không gặp khó khăn gì mấy, nhưng khi số tiền này cạn dần thì chúng tôi bắt đầu nếm cảnh nghèo túng đói khát. Đến lúc tiền bạc hết sạch thì chúng tôi trở thành những kẻ hành khất, tá túc dưới các mái hiên nhà hay các ốc đảo ngoài sa mạc. Được nuôi dưỡng và giáo dục trong hoàn cảnh thanh bần nên việc ăn uống, ngủ nghỉ đối với tôi không quan trọng mấy, nhưng sự kiện đang ở địa vị một y sĩ được trọng đãi, kính nể nhất thành Thebes bỗng trở nên kẻ hành khất hạ lưu, cặn bã xã hội, bị mọi người khinh miệt là điều tôi không chịu nổi. Đã thế, còn phải sống chung đụng với những thành phần bất hảo, trộm cắp, du đãng, vô gia cư, vô nghề nghiệp, những kẻ đầy thói hư tật xấu là một khổ tâm lớn cho tôi.
Theo thời gian, khi sự đau khổ dần dần giảm bớt thì tôi bắt đầu sử dụng khả năng chữa bệnh để kiếm sống. Chúng tôi đi quanh các làng mạc trong vùng để chữa bệnh. Palestine là miền sa mạc hoang vu, sỏi đá khô cằn, dân cư thưa thớt nên người bản xứ không mấy ai có dịp tiếp xúc với các y sĩ chuyên môn như tôi. Đối với họ, những căn bệnh thông thường cũng là cả một vấn đề nên chỉ ít lâu sau, tôi đã trở nên một người nổi tiếng, có thể chữa được nhiều chứng bệnh.
Chúng tôi tiếp tục đi qua rất nhiều làng mạc, thôn xóm. Càng đi xa tôi càng trở nên nổi tiếng. Dọc đường tôi đã chứng kiến nhiều cảnh bất công, những sự bóc lột, những nỗi đau khổ triền miên của con người gây ra cho con người nhưng trái tim của tôi đã khô héo và không còn xúc động nữa. Thời gian sống đói khổ, lam lũ với những kẻ hạ lưu trong xã hội đã dạy cho tôi một bài học về giá trị của đồng tiền. Tôi nghe theo lời khuyên của Kepta, chỉ chữa cho những bệnh nhân giàu có vì họ có thể trả cho tôi những số tiền lớn. Đối với những kẻ nghèo đói, tôi chẳng thèm để ý đến họ làm chi. Họ sống cũng thế mà chết đi thì xã hội lại giảm bớt được một miệng phải nuôi mà thôi.
Khi rời Ai Cập, tôi và Kepta chỉ có mảnh áo trên lưng nhưng vài năm sau, chúng tôi đã mặc những y phục sang trọng nhất, di chuyển với đoàn tùy tùng hầu hạ đông đảo. Tại các thành phố lớn, người ta đã phải mang kiệu đến rước tôi đi chữa bệnh. Tôi cho Kepta đến điều tra trước, xem xét gia cư, điền sản bệnh nhân và thảo luận giá cả trước khi chữa bệnh. Ở đâu cũng thế, khi đã mắc bệnh, người ta sẵn sàng làm mọi thứ để được chữa khỏi và tôi đã lợi dụng tình trạng này tối đa. Có những bệnh nhân bị tôi cố tình kéo dài thời gian, chờ bệnh nặng lên, đến lúc thập tử nhất sinh mới bắt đầu cứu chữa và khi đó đòi hỏi gì họ cũng sẵn sàng dâng hiến. Nhiều người phải trao trọn sản nghiệp cho tôi để thoát cơn bệnh ngặt nghèo. Có người phải mang vợ con ra cầm cố, làm nô lệ cho tôi để được cứu sống.
Theo thời gian, tôi đã làm chủ vô số tài sản từ Babylon đến Syria. Khắp nơi, thành phố nào cũng có nhà cửa, dinh thự của tôi. Từ khi hành nghề trở lại và thành một y sĩ nổi tiếng, tôi chỉ giao thiệp với giai cấp thượng lưu, quý phái, những người có quyền thế, địa vị trong xã hội. Người ta cần quen biết tôi để phòng khi bệnh hoạn yếu đau và tôi cũng cần quen biết họ, những kẻ có thế lực, để được bảo đảm về an ninh.
Cuộc sống cứ thế tuần tự trôi, chẳng mấy chốc tôi đã rời Ai Cập được hơn mười năm. Ngày ra đi tôi là một thanh niên yếu đuối, non nớt nhưng hiện nay tôi đã trở thành một người trung niên trưởng thành, từng trải mùi đời. Cuộc sống tiện nghi vật chất cũng khiến tôi nguôi ngoai phần nào cái quá khứ cay đắng tại Ai Cập. Tuy nhiên có những buổi chiều, khi ánh nắng sa mạc hắt lên khung cửa, nỗi buồn xa xứ lại dấy lên trong lòng tôi. Mỗi khi hình ảnh Horemheb và Nefer hiện lên thì các nô lệ xinh đẹp, các tiệc tùng xa hoa lộng lẫy thế nào cũng không làm sao xóa mờ được hình ảnh đó.
Một hôm tôi đang ngủ thì Kepta đẩy cửa bước vào:
- Thưa y sĩ, có một bệnh nhân đang cần chữa trị gấp.
Tôi khó chịu gắt ầm lên: - Ngươi không thấy ta đang ngủ đây sao? Hãy để hôm khác…
- Nhưng đây là trường hợp khẩn cấp không thể chờ được…
Tôi định lên tiếng quát tháo nhưng thấy Kepta giơ tay ra hiệu nên ngưng lại. Hiển nhiên đây phải là một thân chủ rất "xộp" nên Kepta mới dám phá giấc ngủ của tôi như thế.
Khi tôi bước vào phòng khám bệnh thì thấy một nhóm người đang bao quanh một bệnh nhân mặc quân phục Ai Cập, thân thể đầy máu. Tôi khám xét vết thương và giật mình khi thấy bệnh nhân bị một vét chém rất nặng, xuyên qua cả bộ giáp trụ. Trong cuộc đời làm y sĩ, tôi chưa bao giờ nhìn thấy vết chém nào nặng như thế.
- Làm sao mà người bị thương như thế?
Bệnh nhân ú ớ như không hiểu tôi nói gì. Kepta lên tiếng:
- Người này là Hitites chứ không phải Ai Cập.
- Nhưng tại sao y lại mặc giáp trụ Ai Cập. Kepta chưa kịp trả lời thì một người đứng gần đó đã lạnh lùng lên tiếng:
- Đó là việc của chúng ta, ngươi hãy khám vết thương này xem có thể chữa được không?
Tôi cúi xuống xem xét rất kỹ. Đây quả là vết thương trí mạng. Bệnh nhân bị vật gì chém xuyên qua bộ giáp trụ kiên cố, đâm thẳng vào các cơ quan nội tạng. Càng khám tôi càng bàng hoàng vì các cơ quan bên trong đều bị hư hỏng, thịt xương nát bấy, không thể cứu chữa gì được.
- Vết chém này quá nặng, tôi nghĩ y khó có thể sống được qua hôm nay.
- Ngươi hãy xem xét cho thật kỹ đi.
Tuy cảm thấy khó chịu về thái độ trịch thượng của người lạ mặt nhưng theo thói quen nghề nghiệp, tôi vẫn cố gắng xem xét một lần nữa. Điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả là bộ giáp trụ kiên cố bằng kim khí đã bị vật gì đó chém xuyên qua như người ta cắt một miếng bánh.
Tôi lên tiếng:
- Tôi đã từng chữa rất nhiều người bị thương vì đâm chém nhưng chưa bao giờ thấy vết thương nào nặng như thế này. Đã thế, bộ giáp trụ kiên cố cũng bị hư hỏng, hiển nhiên người này đã bị một vật gì rất sắc bén đâm trúng.
Nhóm người lạ nhìn nhau, không giấu được vẻ đắc chí. Người cầm đầu có khuôn mặt lạnh lùng gật đầu:
- Khá lắm! Ngươi quả có con mắt tinh đời đó, nhưng chúng ta chỉ muốn biết vết thương nặng như thế này có thể cứu chữa được không?
- Tôi đã xem rất kỹ, nội tạng của y bị thương nặng lắm, không thể chữa được.
- Một y sĩ nổi tiếng như ngươi mà cũng không thể chữa được sao?
- Tôi biết rõ khả năng của tôi, vết thương này quá nặng tôi không thể nào chữa nổi. - Nếu vậy, các y sĩ khác thì sao?
Kepta vội vã lên tiếng:
- Ai cũng biết trong vùng này, ông chủ tôi là y sĩ giỏi nhất. Nếu chủ tôi đã tuyên bố không thể cứu chữa thì tôi cam đoan các lang băm quanh vùng chẳng dám mó tay vào đâu!
Nhóm người lạ mặt đưa mắt nhìn nhau khoái chí. Hiển nhiên họ chẳng quan tâm gì đến bệnh nhân mà chỉ muốn biết hậu quả của vết thương kia ra sao mà thôi. Người có khuôn mặt lạnh lùng rút ra một túi tiền vàng lớn đưa cho Kepta:
- Tốt lắm! Đây là phần thưởng cho việc khám bệnh của ông.
- Nhưng tôi đâu cứu được bệnh nhân?
- Điều ấy không quan trọng. Phiền hai ông chôn cất bệnh nhân giùm.
Nó xong họ kéo nhau bỏ đi một cách thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra.
Tuy nhiên vài hôm sau nhóm người này trở lại với vẻ căng thẳng rõ rệt. Người cầm đầu lên tiếng:
- Chúng tôi muốn nhờ y sĩ đi khám bệnh cho một người.
Kepta lên tiếng:
- Ông chủ tôi không tiếp bệnh nhân bất ngờ như thế. Tôi phải đến trước thu xếp mọi việc đã…
Người cầm đầu nhếch miệng cười:
- Ngươi đừng lo, chúng ta sẵn sàng trả công cho chủ ngươi xứng đáng.
Kepta cương quyết lắc đầu:
- Nhưng tôi phải đến đó xem xét…
Người cầm đầu lạnh lùng nói:
- Ngươi nghĩ rằng chúng ta không biết việc ngươi đi điều tra gia cảnh bệnh nhân để định giá trước khi chủ ngươi chữa bệnh hay sao?
Người nô lệ chột mắt của tôi thản nhiên:
- Đó là cách làm việc của chúng tôi, nếu không thích các ông cứ đi tìm y sĩ khác.
- Quanh đây mấy trăm dặm không có y sĩ nào giỏi cả.
Kepta đắc chí:
- Nếu biết thế, hẳn các ông cũng biết phương cách làm việc của chúng tôi.
Người cầm đầu gằn giọng:
- Nếu chủ ngươi có thể chữa được cho người này thì chúng ta sẵn sàng trả công cho các ngươi cả một rương vàng. Từ trước đến nay ta chắc chưa ai dám trả món tiền lớn như thế đâu!
Kepta há hốc miệng nói không ra lời. Con mắt duy nhất của hắn đảo qua đảo lại như tính toán vì một rương vàng quả là một tài sản rất lớn, chỉ bậc vua chúa mới có thể sở hữu mà thôi. Tôi cũng im lặng vì cảm thấy hình như có điều gì không ổn.
Quả nhiên người cầm đầu nói tiếp:
- Chúng ta sẵn sàng đặt trước một số tiền lớn để y sĩ theo chúng ta lên đường ngay. - Nhưng các ông muốn đi đâu?
- Ta không thể nói được, xin y sĩ lên đường ngay cho.
Nói xong hắn phất tay một cái, một kẻ tùy tùng vội vã đặt lên bàn một hũ đựng đầy ngọc. Kepta trố mắt xuýt xoa:
- Được lắm! Được lắm! Nhưng tôi và ông chủ tôi không bao giờ rời nhau. Để tôi thu xếp dụng cụ lên đường.
Chúng tôi theo đoàn người vượt sa mạc đến một thung lũng rộng lớn, chung quanh có nhiều quân sĩ canh gác cẩn thận. Thì ra đó là chỗ đóng quân của người Hitites. Chúng tôi được đưa đến một căn lều lớn, bệnh nhân là một người dáng dấp hiên ngang, oai vệ. Ông ta ngồi trên một chiếc ghế lớn, bên cạnh đặt một thanh kiếm hình thù kỳ dị. Vừa nhìn thấy thanh kiếm, tôi đã giật mình, hẳn đây là một vũ khí đã chém nát bộ giáp trụ của người sĩ quan Hitites hôm trước. Bệnh nhân chăm chú nhìn tôi như dò xét rồi ra hiệu cho tôi bước đến khám bệnh.
Tôi thong thả chẩn bệnh rất kỹ rồi lên tiếng: - Ông bị một cái bướu trong đầu, cái bướu này đè lên óc khiến cho tay trái của ông không cử động được nữa. Nếu không cứu chữa, chỉ ít lâu nữa toàn thân ông sẽ bị bại liệt…
Bệnh nhân kinh ngạc, không ngờ chỉ mới một khám xét mà tôi đã nói trúng bệnh trạng của ông ta như thế. Nhóm người chung quanh cũng ngạc nhiên không kém. Người sĩ quan có khuôn mặt lạnh lùng, gật đầu:
- Nếu đã chẩn bệnh chính xác như thế hẳn y sĩ có thể chữa được cho hoàng đế của chúng tôi?
Thì ra bệnh nhân chính là hoàng đế xứ Hitites, thảo nào ông ta sẵn sàng trả thù lao chữa bệnh cao như thế! Tôi im lặng suy nghĩ rồi nói:
- Dĩ nhiên tôi có thể chữa được, nhưng tôi sợ rằng ông sẽ không dám để cho tôi chữa…
- Tại sao?
- Việc chữa trị đòi hỏi tôi phải mổ sọ ông ra, cắt cái bướu đi rồi ráp mảnh sọ lại như cũ. Đây là một phương pháp đặc biệt mà rất ít y sĩ dám đảm nhận và chẳng ai có thể bảo đảm…
Tôi chưa dứt lời thì nhón người đứng quanh đó đã hầm hầm rút võ khí ra. Người nào cũng cầm những cây kiếm hình thù kỳ dị, y hệt như thanh kiếm đặt trên bàn.
- Quả nhiên chúng ta đoán không sai, ngươi hẳn là tay sai của hoàng đế Ai Cập trà trộn đến đây để ám sát chủ nhân chúng ta…
- Ngươi phải chết…
Trong lúc tôi chưa kịp phản ứng thì một người dáng dấp bé nhỏ vẫn đứng yên lặng trong góc lều bước ra nói lớn:
- Các ngươi chớ hàm hồ! Người y sĩ này nói rất đúng vì chính ta đã đích thân chẩn bệnh cho hoàng đế và biết phải chữa như thế…
Nói xong ông quay ra chăm chú nhìn tôi rất lâu rồi ôn tồn nói: 
- Ta chính là quan ngự y cho hoàng đế xứ Hitites. Ta biết việc mổ sọ người là một phương pháp đặc biệt của trường Khoa Học Của Sự Sống và rất ít ai được truyền dạy. Theo sự tìm hiểu của ta thì chỉ có Sen Moot, y sĩ thủ khoa của trường này biết cách mổ sọ nhưng ông này đã chết từ lâu rồi. Hiện nay chỉ có người con trai của ông, đang làm chức ngự y cho hoàng đế Ai Cập biết phương pháp này thôi. Ngươi có liên quan gì đến người y sĩ tên Sinuhe đó không?
- Tôi chính là Sinuhe đây.
Toàn thể mọi người đều giật mình. Người sĩ quan chỉ huy hầm hầm:
- Thì ra thế! Ta biết là phải có những âm mưu ám muội…
Bất ngờ hoàng đế Hitites bật cười lớn:
- Ha ha ha… Quan ngự y của hoàng đế Ai Cập lại đến chữa cho vua xứ Hitites trước khi hai bên khởi binh giao tranh! Không những thế, hắn còn đề nghị một phương pháp chữa bệnh lạ lùng là mổ sọ người. Ha ha ha… thảo nào các tướng sĩ của ta nghi ngờ cũng phải. Này Sinuhe, ngươi giải thích thế nào đây?
Tôi lạnh lùng:
- Khi xưa tôi là quan ngự y cho hoàng đế Akhenaten nhưng hiện nay tôi không còn dính dáng gì đến Ai Cập nữa cả. Nếu các ông có thiêu rụi Ai Cập thì cũng chẳng ăn nhằm gì đến tôi nữa. Tôi là y sĩ chữa bịnh lấy tiền và các ông sẵn sàng trả cho tôi một số tiền lớn. Nên nhớ chính các ông đã mời tôi đến đây chứ không phải tôi tự ý tìm đến. Các ông có muốn tôi chữa hay không? Quan ngự y tò mò:
- Ta nghe nói ngươi bị hoàng đế Ai Cập kết án tử hình…
- Đúng thế! Tôi là kẻ có tội nên phải trốn đi biệt xứ. Hiện nay tôi không có quê hương, không trung thành với vua chúa nào hết. Tôi chỉ biết có tiền bạc mà thôi và sẵn sàng làm mọi sự. Việc chữa trị tùy các ông quyết định…
Hoàng đế xứ Hitites gật đầu:
- Ngươi nói đúng đó, hiện nay có lẽ ngươi là kẻ duy nhất có thể chữa bệnh cho ta, nhưng ngươi cần biết rằng nếu ta chết thì quân sĩ của ta cũng không để cho ngươi yên đâu.
- Tôi biết rõ điều này.
- Được lắm! Nếu ta khỏi bệnh thì ta sẽ cho ngươi bất cứ món gì ngươi muốn.
Gã chỉ huy có khuôn mặt lạnh lùng lên tiếng:
- Xin hoàng đế hãy nghĩ lại nếu như tên y sĩ này có âm mưu… 
- Các ngươi yên tâm, nếu ta không chữa thì sẽ bị tê liệt toàn thân. Ta thà chết còn hơn sống tàn phế như thế. Chết ngoài trận mạc hay chết dưới tay tên y sĩ này cũng thế thôi… Này Sinuhe, ngươi khởi sự đi.
- Tôi sẽ cho ông uống một thang thuốc mê trước khi tôi mổ sọ.
- Hà tất phải như thế, hãy mang rượu cho ta uống là được rồi. 
Mổ sọ người không phải việc tầm thường. Hầu hết mọi bệnh nhân đều được uống thuốc mê để khỏi đau đớn sợ hãi nhưng vị vua này đã làm tôi kinh ngạc. Tôi ra hiệu cho Kepta chuẩn bị dụng cụ và thuốc men. Mọi người quây quần quanh đó xem xét. Cuộc giải phẫu kéo dài đến nửa đêm mới xong.
Tôi băng bó vết thương cho hoàng đế Hitites rồi nói:
- Tôi đã cắt bỏ hoàn toàn cái bướu đó. Khoảng sáng mai, hoàng đế sẽ tỉnh lại.
Gã chỉ huy nhếch miệng cười:
- Xin y sĩ hãy ra bên ngoài nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Khi nào hoàng đế khỏe mạnh, chúng tôi sẽ cho người đưa y sĩ trở về. 
Tôi hiểu ý hắn nên ra hiệu cho Kepta bước ra căn lều gần đó. Đó là một căn lều trang hoàng giản dị, sạch sẽ, chung quanh có quân sĩ canh phòng cẩn thận. Vì mệt mỏi nên tôi đặt mình xuống giường là ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ tôi thấy hình ảnh Horemheb và Nefer hiện ra nhưng lần này tôi thấy mình đang cầm thanh kiếm hình thù kỳ dị kia. Tôi vừa vung kiếm lên, đầu Nefer đã rời khỏi cổ. Horemheb quay lưng bỏ chạy nhưng tôi đã xông đến, lưỡi kiếm sắc bén chém xuyên qua bộ giáp trụ bằng kim khí, cắm ngập vào lưng Horemheb. Hắn ngã gục xuống. Tôi thong thả bước đến chém bồi thêm một nhát nữa. Lưỡi gươm xuyên qua bộ giáp trụ của hắn, máu phun ra có vòi. Horemheb giơ hai tay ra như van xin nhưng một lần nữa, tôi vung kiếm chém rụng cả hai tay hắn:
- Sinuhe, sao bạn lại làm thế? - Ai bạn bè gì với mày? Đồ vong ân bội nghĩa!
Tôi giơ kiếm đâm thẳng vào ngực hắn. Horemheb kêu lớn:
- Sinuhe… Sinuhe… Xin bạn đừng làm thế…
Tôi sung sướng bật lên một tràng cười sảng khoái và cười mãi không thôi, nhưng không hiểu sao tiếng cười của tôi bỗng trở thành tiếng khóc. Tôi hốt hoảng, rõ ràng mình đang cười nhưng lại nghe ra tiếng khóc, rồi cả thế giới như quay cuồng, đảo lộn. Quanh tôi đầy những âm thanh cuồng nộ, kỳ lạ.
Tôi giật mình tỉnh dậy, bên ngoài trời chưa sáng hẳn. Văng vẳng đâu đây hình như vẫn còn những tiếng gầm thét cuồng nộ. Tôi muốn ngồi dậy nhưng đầu óc còn choáng váng quay cuồng bởi hình ảnh của giấc mơ vừa qua. Chưa bao giờ tôi sợ hãi như vậy. Phải chăng tôi là một kẻ hung bạo và tàn ác? Từ lâu nay tôi muốn rửa hận, nhưng khi thấy mình làm việc này, dù chỉ trong giấc mơ, tôi lại thấy đó không phải là điều mình thực sự mong muốn. Tuy lòng ghen tức thúc đẩy tôi phải trả thù nhưng vẫn có một cái gì khác, tiềm ẩn, không cho phép tôi làm thế. Hơn mười năm nay, tôi đã sống trong đau khổ, chán chường vì chưa quên được chuyện cũ nhưng hiện nay hình như có một cái gì đó đang nhen nhúm, thay đổi xảy ra trong tôi.
Tôi ngồi dậy bước ra khỏi lều. Mặt trời đã mọc ở cuối chân trời, những tia sáng chói chan nhảy múa trên cồn cát sa mạc khiến tôi nghĩ đến hoàng đế Akhenaten. Hình ảnh con người trầm tĩnh với chủ trương cải cách lạ lùng kia tự nhiên hiện ra trước mắt tôi. Vừa lên ngôi ông đã gặp khó khăn bởi cuộc phản loạn, nhưng ông đã khắc phục được nó, biết tha thứ cho những kẻ âm mưu tạo phản trong triều để thiết lập một trật tự mới. Liệu ông có thành công trong việc thay đổi những truyền thống cổ xưa hay không, vẫn còn là một nghi vấn.
Tôi chợt nghĩ đến thanh gươm kỳ lạ và gã Hitites mặc giáp trụ Ai Cập bị chém trọng thương kia. Phải chăng người Hitites đang thí nghiệm một vũ khí mới lạ, cực kỳ sắc bén để chuẩn bị chiến tranh với Ai Cập? Vừa nghĩ đến thân thể bị chém nát bét của gã, tôi chợt nảy sinh ý nghĩ, biết đâu Horemheb cũng sẽ lâm số phận như thế! Tự nhiên tôi đâm ra hoảng hốt. Hình ảnh Horemheb trong bộ quân phục oai nghiêm hiện ra trước mắt tôi nhưng lần này tôi không thấy ghen tức nữa mà thực sự lo ngại cho hắn. Tôi không ưa Horemheb vì hắn đã cướp mất Nefer của tôi, nhưng tôi cũng không muốn thấy hắn chết thảm dưới lưỡi gươm kỳ lạ kia. Hình ảnh Nefer trong vòng tay của Horemheb một lần nữa lại hiện ra nhưng không hiểu sao lần này tôi cảm thấy bình tĩnh lạ thường. Tự nhiên tôi nhủ thầm, có lẽ Horemheb xứng đáng với Nefer hơn. Hắn là người từng trải, có kinh nghiệm, hào hoa phong nhã, trong khi tôi chỉ là một thanh niên ngây thơ, khờ dại trên tình trường. Đây là lần đầu tôi thấy mình không có ý định so sánh như trước mà biết chấp nhận rằng tôi và Horemheb khác nhau rất xa.
Tự nhiên tôi thấy trong lòng nhẹ hẳn đi như vừa trút được một gánh nặng. Tôi tự nhủ không lẽ chỉ vì một người con gái tầm thường mà tôi lại để mất đi một người bạn thâm giao như Horemheb hay sao? Khi vừa nghĩ đến đó, bất chợt những kỷ niệm thời thơ ấu hiện ra trong trí tôi. Đã lâu lắm rồi tôi mới thấy mình có thể suy nghĩ một cách thanh thản như thế và ý thức rằng mình đã lãng phí thời gian cho một chuyện ghen tương hết sức vô lý.
Tôi nghĩ đến cuộc chiến tranh giữa người Hitites và Ai Cập sắp xảy ra, tự hỏi liệu một Pharaoh như Akhenaten sẽ phải đối phó thế nào khi quốc gia bị đe dọa? Một lần nữa, những câu nói sáng suốt, đầy minh triết của ông lại vang lên trong tâm trí tôi. Hình ảnh con người trẻ tuổi vừa lên ngôi Pharaoh, ngay trong buổi thiết triều lần đầu đã xóa bỏ mối hận thù để xây dựng một thể chế mới, khác hẳn các truyền thống xưa. Lòng quảng đại và can đảm của ông đã chinh phục tôi và tôi tự nhủ sẽ phải làm gì để xứng đáng với sự đãi ngộ của vị Pharaoh này.
Chiều hôm sau, viên sĩ quan chỉ huy có nét mặt lạnh lùng đến gặp tôi;
- Hoàng đế của chúng tôi cho mời y sĩ đến. Giọng điệu của gã này đã có vẻ tử tế, bớt hống hách. Chúng tôi theo chân hắn bước vào căn lều của hoàng đế Hitites. Ông ta vẫn ngồi trên chiếc ghế quen thuộc, chung quanh có đông tướng sĩ hầu cận. Nét mặt mọi người vui mừng thấy rõ.
Vừa thấy tôi, hoàng đế Hitites đã nói ngay:
- Này Sinuhe, ngươi thật giỏi. Ta thấy trong mình hết sức dễ chịu, chân tay ta đã cử động được bình thường rồi.
- Xin hoàng đế hãy cẩn thận, ngài cần tĩnh dưỡng khoảng một tuần cho vết thương hoàn toàn bình phục đã.
- Được lắm, ta sẽ nghe theo lời khuyên của ngươi. Vậy ngươi muốn ta trả công như thế nào đây?
Tôi không do dự, chỉ ngay vào thanh gươm kỳ lạ để gần đó:
- Tôi chỉ xin hoàng đế ban cho tôi một thanh gươm như thế kia là được rồi.
Toàn thể sĩ quan đứng quanh đó đều giật mình. Gã chỉ huy quát lớn:
- Không được! Đó là bí mật quân sự của chúng ta.
Hoàng đế Hitites xua tay ra hiệu cho mọi người im lặng rồi ôn tồn hỏi:
- Tại sao ngươi lại muốn lấy thanh gươm đó?
- Đó là việc riêng của tôi.
Hoàng đế Hitites nhìn tôi như dò xét rồi hỏi:
- Phải chăng ngươi muốn mang thanh gươm này về Ai Cập để báo động cho Pharaoh Akhenaten? Tuy là kẻ tội phạm nhưng dù sao ngươi cũng là người Ai Cập, hiển nhiên ngươi không muốn thấy binh sĩ xứ ngươi bị tàn sát dưới lưỡi gươm sắc bén này chứ gì?
Tôi không trả lời nhưng im lặng là xác nhận nên nhóm tướng sĩ quanh đó đã ồn ào phản đối.
Hoàng đế Hitites phất tay ra hiệu cho họ im lặng rồi nói:
- Trong vòng mười ngày nữa, chúng ta sẽ tấn công Ai Cập và lúc đó lưỡi gươm này sẽ chẳng còn gì là bí mật. Dù biết, người Ai Cập cũng không thể xoay trở kịp và trước sau phần thắng sẽ về tay chúng ta. Này Sinuhe, trong bao năm qua, người Ai Cập và Hitites vẫn tàn sát lẫn nhau. Có khi chúng ta thắng và có khi người Ai Cập thắng, nhưng lần này phần thắng chắc chắn sẽ về tay chúng ta vì chúng ta có võ khí cực kỳ sắc bén có thể chém nát giáp trụ của người Ai Cập.
Hoàng đế Hitites chỉ vào thanh gươm để gần đó:
- Ta đã hứa thì sẽ giữ lời. Ngươi hãy cầm cây gươm này về Ai Cập và nói rõ cho Akhenaten biết rằng nội trong vòng một tuần nữa, chúng ta sẽ kéo quân vào Memphis…
- Ông tin rằng lần này quân đội Hitites sẽ thắng?
- Hiển nhiên phải thế! Quân lực chúng ta thiện chiến không kém Ai Cập và chúng ta có vũ khí sắc bén hơn.
- Tại sao ông nghĩ rằng với vũ khí đó, ông sẽ chinh phục được Ai Cập? Hoàng đế Hitites ngạc nhiên nhìn tôi rồi hỏi:
- Ngươi còn muốn nói gì nữa?
- Pharaoh Akhenaten vẫn nói rằng: "kẻ nào chỉ khăng khăng đòi tiêu diệt người khác thì không thể tiến bộ được. Một hoàng đế chỉ nghĩ đến chiến tranh thì luôn luôn sợ hãi, bất an và không thể cai trị quốc gia hữu hiệu được. Một quốc gia chỉ chuẩn bị cho chiến tranh thì không thể tiến bộ về các phương diện khác. Do đó thay vì xuất quân đánh nam, dẹp bắc để bành trướng thế lực, Pharaoh Akhenaten đã cho người đi thương thuyết hòa bình với các quốc gia lân cận…
- "Đúng thế, chúng ta đã ký kết hòa ước với Ai Cập nhưng đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Khi xưa chúng ta chưa đủ sức chống cự với các đạo binh hùng mạnh của Ai Cập, nhưng hiện nay thì khác. Người Hitites đã có những đạo quân thiện chiến với vũ khí sắc bén hơn xưa và Ai Cập ngày nay không còn là Ai Cập khi xưa nữa. Ha ha ha… Pharaoh của ngươi chỉ là một thằng khùng, không những y đã ra lệnh giải giới các lực lượng quân sự mà còn đòi cải tổ cả tôn giáo nữa.
Hiện nay Ai Cập là một xứ đầy xáo trộn, giới quý tộc thì bất mãn, giới giáo sĩ thì hoang mang và dân chúng chỉ lo thờ cúng chiếc đĩa tròn tượng trưng cho Thái Dương mà thôi. Nếu lúc này không lợi dụng cơ hội tấn công ngay thì còn đợi đến lúc nào nữa?"
Các binh sĩ đứng quanh đó cười ầm lên. Tôi thản nhiên lên tiếng:
- Khi Akhenaten vừa lên ngôi Pharaoh thì các tướng sĩ của ông đã đưa kế hoạch tấn công xứ Hitites ngay để diệt trừ hậu họa nhưng tôi nhớ rõ nhà vua đã nói: "Các ông muốn đánh xứ Hitites vì nếu không, họ cũng mang quân xâm phạm lãnh thổ ta. Hiển nhiên người Hitites muốn mang quân đánh chúng ta vì nếu họ không ra tay trước, có lẽ chúng ta cũng xâm lăng xứ họ. Cái vòng luẩn quẩn của chiến tranh cứ thế tiếp diễn, chẳng ai chịu nhường ai. Kẻ thắng thì vinh quanh, người thua thì nhục nhằn và thù hận. Cứ thế kéo dài từ đời này đến đời khác, biết bao giờ chấm dứt? Tuy nhiên thắng bại, được thua chỉ như thời tiết, đến rồi đi. Lần này quân ta thắng, lần khác quân ta thua, rốt cuộc chỉ có dân chúng là chịu thiệt thòi. Là người lãnh đạo quốc gia, ta quyết định phải chấm dứt cái vòng luẩn quẩn này. Ta sẵn sàng bỏ qua mọi sự, dù phải chịu nhiều thử thách. Các ông đừng cho rằng ta hèn nhát mà phải chịu đựng. Lúc này binh lực nước ta hùng cường nhưng ta sẽ không gây chiến vì muốn cho người Hitites hiểu lòng ta. Khi họ hiểu ta, họ sẽ từ bỏ giấc mộng xâm lăng và rồi mọi sự sẽ đổi khác."
Hoàng đế xứ Hitites im lặng suy nghĩ rồi hỏi:
- Phải chăng vì thế mà Akhenaten đã gửi tặng ta một chiếc dĩa vàng tượng trưng cho vầng thái dương?
- Đó là chủ trương bày tỏ thiện chí của Pharaoh.
Hoàng đế xứ Hitites nghiến răng quát lớn: - Người Hitites chúng ta không hơi sức đâu để ý đến chiếc đĩa vàng đó mà cần trả hận, mối hận đã bị Ai Cập làm nhục, phải được trả bằng máu.
Các sĩ quan quanh đó đều vung tay reo hò hăng hái. Tôi thản nhiên nói:
- "Dù cho các ông chiếm được Memphis, rửa được mối hận khi xưa nhưng sau đó các ông sẽ làm gì? Chiến thắng bằng quân sự không khó khăn lắm, nhưng cai trị một xứ như Ai Cập không dễ chút nào. Ngày trước người Ai Cập đã đánh phá xứ Hitites nhiều lần và đặt nền móng cai trị nhưng chỉ ít lâu sau, người Hitites lại nổi lên giành độc lập. Ngày nay dù người Hitites có chiếm Ai Cập nhưng ít lâu nữa cũng sẽ có những cuộc nổi dậy.
Người Ai Cập chẳng thể cai trị Hitites cũng như người Hitites chẳng thể cai trị Ai Cập. Nếu các ông tiếp tục trả hận bằng máu thì tôi e rằng chẳng bao lâu nữa, dân chúng cả hai quốc gia đều kiệt quệ sinh lực và tương lai chưa biết thế nào."
Hoàng đế Hitites im lặng suy nghĩ một lúc rồi chỉ vào thanh gươm:
- Ngươi hãy cầm cây gươm đó về Ai Cập và nói rõ cho Pharaoh của ngươi biết rằng nếu không muốn đổ máu vô ích, ông ta có thể đến đây xin quy hàng. Ta sẽ án binh bất động trong vòng một tuần, nếu Akhenaten không đến hàng ta sẽ khởi binh ngay.
Ông quay qua các tướng sĩ, ra lệnh:
- Các ngươi hãy chuẩn bị tấn công trong vòng một tuần. Sirah đâu, ngươi hãy cho quân sĩ hộ tống y sĩ Sinuhe trở về Ai Cập. Tôi im lặng cầm lấy thanh gươm bước ra cửa. Kepta đi theo nhăn nhó:
- Ông chủ ơi, mình đang sung sướng nơi đây, trở về Ai Cập làm chi cho khổ! Ai chém giết mặc ai, miễn là chúng ta được lợi lạc thì thôi. Dù ai làm hoàng đế thì cũng đâu ăn nhập gì đến chúng ta! Miễn khi đau ốm họ đến nhờ chúng ta chữa bệnh là được rồi!
Tôi im lặng không nói gì. Kepta vừa đi vừa lải nhải than:
- Ông chủ ơi, tại sao ông chủ lại dính dáng vào những việc rắc rối làm gì! Ông về Ai Cập rủi gặp chuyện không may thì bao nhiêu nhà cửa, dinh thự tại Palestine này để cho ai ở đây?
CHƯƠNG 8
Thật khó có thể diễn tả cảm tưởng của tôi khi trở lại Ai Cập. Quanh cảnh Memphis không khác xưa bao nhiêu, phố xá vẫn đông đúc náo nhiệt, các phiên chợ vẫn họp, người mua bàn ồn ào tấp nập nhưng tôi thấy chung quanh cung điện có rất nhiều binh sĩ bố trí canh phòng cẩn thận như đề phòng một chuyện gì. Tôi bước vào đại điện, nơi Pharaoh thiết triều nhưng lúc đó triều đình không họp mà chỉ có một số tướng sĩ đang bao quanh một tấm bản đồ lớn, vẽ những chỗ đóng quân và các vị trí trọng yếu.
Một vị tướng đang sang sảng ra lệnh cho tướng sĩ phải điều động quân đội ra sao, cho bố trí phòng thủ như thế nào. Phải chăng họ cũng đã biết người Hitites đang chuẩn bị tấn công? 
Tôi bước đến gần và nhận ra viên tướng nọ chẳng phải ai xa lạ mà chính là Horemheb. Nhìn thấy tôi, hắn ngẩn người ra một lúc như không tin ở mắt mình:
- Sinuhe? Phải Sinuhe đấy không?
- Chính tao đây.
Horemheb bước đến trước mặt tôi ngỡ ngàng trong giây lát rồi nói nhỏ:
- Sinuhe, chắc hẳn mày cũng biết việc Pharaoh đã tuyên án tử hình…
- Dĩ nhiên tao biết.
Horemheb bối rối, ngập ngừng nhìn quanh rồi hỏi nhỏ:
- Nếu đã biết thế thì mày trở về đây làm gì? Thì ra hắn vẫn còn lo cho tôi, nhưng tôi thản nhiên:
- Tao cần báo tin về việc người Hitites đang chuẩn bị tấn công Ai Cập.
Horemheb tỏ ra bình tĩnh:
- Tao biết! Các thám tử của tao đã báo cáo đầy đủ.
- Nếu vậy hẳn quân sĩ Ai Cập đã chuẩn bị sẵn sàng để đối phó?
- Dĩ nhiên rồi.
- Tốt lắm! Hẳn thám tử của mày biết rõ về sự chênh lệch vũ khí giữa hai bên?
- Mày nói cái gì chênh lệch, tao không hiểu?
Thì ra Horemheb chưa biết bí mật của người Hitites. Tôi chỉ tay vào thanh gươm đeo bên hông của Horemheb:
- Mày hãy rút gươm ra đi.
- Cái gì? Mày nói gì?
Tôi rút thanh gươm của người Hitites ra rồi nhìn thẳng vào mặt Horemheb nói lớn:
- Mày chém thử vào lưỡi gươm của ta thì biết.
Horemheb nhíu mày:
- Sinuhe, mày không đùa đấy chứ? Có bao giờ mày sử dụng gươm đâu?
- Mày cứ thứ xem.
Horemheb rút gươm ra nhưng vẫn e ngại: - Sinuhe, hãy cẩn thận! Tao không thích đùa đâu!
Hiển nhiên Horemheb không có ý hại tôi. Tôi nói khích:
- Mày cứ ra tay đi, tao sẵn sàng đây! Horemheb vung kiếm chém thẳng vào lưỡi gươm của tôi nhưng vì hắn cố ý nới tay nên khi hai lưỡi gươm vừa chạm nhau, hắn đã rút tay lại, do đó lưỡi gươm của hắn chỉ bị mẻ một miếng. Tôi bật cười:
- Này Horemheb, không lẽ mày lại yếu đến thế hay sao? Horemheb vung tay ra, lần này hắn chém khá mạnh. Sau một tiếng kêu chát chúa, lưỡi gươm của hắn gẫy lìa. Horemheb giật mình lùi lại nhìn thanh gươm gẫy rồi chăm chăm nhìn vào lưỡi gươm của tôi. Tôi bèn xoay gươm lại, chìa cán ra đưa cho hắn:
- Mày hãy lấy thanh gươm này chém thử vào một bộ giáp trụ xem sao.
Horemheb vội vã cầm lấy thanh gươm rồi quay qua viên sĩ quan hầu cận, ra lệnh cho người này cởi bỏ bộ giáp trụ bằng sắt trên người ra. Hắn vung kiếm chém mạnh vào đó. Lưỡi gươm xuyên thẳng qua bộ áo giáp như cắt một miếng bánh. Toàn thể tướng sĩ quanh đó đều giật mình. Horemheb quay qua hỏi tôi:
- Sinuhe, mày lấy cây gươm này ở đâu ra vậy?
- Đó là vũ khí mới của người Hitites. Trong bao năm nay, họ đã bí mật rèn những thanh gươm sắc như thế này để chuẩn bị chiến tranh.
Mọi người trong phòng đều im lặng, không ai dám thốt lên câu nào.
Horemheb suy nghĩ một lúc rồi cười nhạt tuyên bố:
- Này Sinuhe, việc này tao không thể quyết định được mà phải trình với Pharaoh để xin chỉ thị. Mày hãy theo tao lên đường đi Tel El Amarna ngay.
Horemheb vội ra lệnh thắng một cỗ xe song mã để lên đường. Đây là lần thứ hai tôi và Horemheb cưỡi xe ngựa như thế này. Nhớ lại kỷ niệm lần đầu cưỡi xe ngựa đi săn sư tử, tôi không khỏi cảm khái. Horemheb im lặng không nói gì nhưng khi xe vừa đi được một quãng xa thì hắn bật lên một tràng cười sảng khoái:
- Này Sinuhe, mày có nhớ khi xưa tao với mày đi săn sư tử không?
- Dĩ nhiên tao nhớ chứ.
- Thấm thoát đã hơn mười năm rồi nhỉ, biết bao chuyện đổi thay…
- Đúng thế.
Horemheb quay qua nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Này Sinuhe, tao chắc mày giận tao vô cùng? - Tại sao mày lại hỏi thế?
Horemheb im lặng một lúc như hồi tưởng chuyện xưa rồi thong thả:
- Nếu khi đó mày bình tĩnh hơn thì mọi việc đã không xảy ra một cách đáng tiếc như vậy. Suốt mười năm nay tao vẫn mong có dịp để giải thích với mày về nguyên nhân việc ấy.
"Hôm ấy tao đang huấn luyện quân sĩ luyện tập võ nghệ thì công chúa Baketamon ở đâu bước đến.
- Này Horemheb, ta muốn nhờ ngươi một việc.
- Xin tuân lệnh công chúa.
- Ngươi đã biết ta nhờ việc gì đâu mà nhanh nhảu thế?
- Thưa công chúa, một quân nhân chuyên nghiệp lúc nào cũng phải sẵn sàng.
Công chúa Baketamon bật cười ha hả:
- Thôi đi, cái gì mà quân nhân chuyên nghiệp… Con nhà đi bán hàng rong ngoài chợ thì đúng hơn.
Tao giận run lên, thì ra lý lịch hèn hạ mà tao giấu kỹ đã bị đám thám tử triều đình truy lùng ra được. Tao đành gượng cười:
- Công chúa quả có mắt tinh đời. Xin ngài ban chỉ thị.
- Ta rất quan tâm về tình trạng hiện nay của Sinuhe. Ta biết hắn đang say mê một cô gái giang hồ và ta muốn ngươi giúp hắn thoát khỏi cạm bẫy của đứa con gái thành Babylon kia.
- Tưởng gì chứ chuyện đó thì quá dễ. Công chúa chỉ cần hạ lệnh quăng con điếm đó vào hầm sư tử là xong.
- Không được. Nếu ta giết nó thì Sinuhe sẽ đau khổ và oán hận ta suốt đời. Một kẻ si tình như hắn có thể liều lĩnh chết theo con điếm đó không chừng.
- Công chúa quả biết rõ tâm lý đàn ông. Hiển nhiên một kẻ hiền lành như Sinuhe có thể hành động ngu xuẩn như thế. Tuy nhiên kẻ này chỉ biết dụng kiếm chứ không biết làm gì khác.
- Nhưng… nhưng hắn là bạn của ngươi.
- Horemheb này không thích can thiệp vào đời tư người khác. 
Công chúa Baketamon nổi giận:
- Nhưng đây là lệnh của ta.
- Nếu công chúa ra lệnh, kẻ này sẽ chém đầu đứa con gái giang hồ kia ngay, nhưng hậu quả ra sao thì Horemheb này không chịu trách nhiệm.
Công chúa Baketamon lạnh lùng:
- Ngươi đúng là kẻ chỉ biết dùng võ lực chứ không biết dùng mưu. Ta muốn Sinuhe hoàn toàn quên hẳn đứa con gái giang hồ kia và ngươi phải làm chuyện đó cho ta. Ta muốn ngươi dùng tất cả khả năng để quyến rũ đứa con gái giang hồ kia trước mặt Sinuhe, cho hắn thấy rằng con bé đó chỉ là một đứa hèn hạ, dơ bẩn, không xứng đáng với hắn.
Tao không hiểu sao một công chúa quyền quí lại chú ý đến tên y sĩ quèn như mày. Tuy nhiên tao biết Baketamon là người lẳng lơ, có nhân tình khắp nơi nên biết đâu mày chẳng tốt số, lọt vào mắt xanh của cô ả.
Tao suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Nếu thế, xin công chúa hãy cởi xâu chuỗi ngọc trên cổ kia đưa cho kẻ này.
- Chưa xong việc mà ngươi đã đòi thưởng công hay sao?
- Hiện nay đám quân sĩ của kẻ này đang nhìn thấy chúng ta nói chuyện. Họ không hiểu tại sao công chúa lại đến gặp thằng bán bánh vừa được thăng chức chỉ huy ngự lâm như thế này. Nếu công chúa trao cho kẻ này xâu chuỗi ngọc thì họ sẽ nghĩ công chúa và kẻ này có tình ý chi đó. Chỉ có món quà đặc biệt như thế, Horemheb này mới có thể gặp đứa con gái Babylon được.
Công chúa Baketamon gật đầu khen ngợi: - Hay lắm! Ngươi quả là đa mưu. Ta không ngờ chỉ thoáng giây mà ngươi đã nghĩ ra mưu mẹo như thế…
- Cám ơn công chúa đã khen… thằng con nhà bán hàng rong này.
Hiển nhiên chỉ vài hôm sau, dư luận đã đồn tao và công chúa có tình ý với nhau và công chúa đã tặng tao xâu chuỗi ngọc. Tao cho đàn em phao đồn tin này khắp các trà đình tửu quán rồi đến tìm Nefer. Trước đó tao cho một đàn em giả làm lái buôn đến gặp mày và dàn xếp cho mày lọt vào biệt thự đó. Hiển nhiên với món quà đặc biệt như chuỗi ngọc của công chúa, Nefer không ngần ngại tiếp tao và đúng như tao đã dự tính, mày bắt gặp tụi tao rồi nổi cơn ghen…"
Tôi im lặng, mồ hôi toát đầy áo. Horemheb tiếp tục:
- Này Sinuhe, chúng ta là bạn tâm giao từ nhỏ. Dù thằng Horemheb này có tồi bại thế nào thì cũng không thể tranh giành một đứa con gái với bạn của nó được. Lúc đó tao muốn giải thích nhưng mày đâu có nghe. Mày điên cuồng xông đến đấm đá tao túi bụi. Nếu bình tĩnh hơn thì mày phải tự hỏi tại sao một kẻ võ nghệ cao cường như tao lại cắm đầu bỏ chạy như thế? Mày biết rõ thằng Horemheb này có bao giờ sợ ai đến nỗi phải bỏ chạy thục mang như thế đâu? Tuy nhiên tao cũng không trách mày được, tao biết đàn ông khi ghen tuông sẽ hành động như thế nào. Hiển nhiên khi tao bỏ chạy thì mày trút cơn giận lên Nefer, mày xông đến bóp cổ nó và bị đám gia nhân đánh cho một trận thừa chết thiếu sống. Này Sinuhe, lúc đó tao vẫn ẩn núp gần đó để ngầm bảo vệ mày. Tao đã chứng kiến cảnh mày bị quăng ra đường và nghe mày khóc lóc, chửi mắng, thề thốt, nguyền rủa lung tung. Mày thề sẽ không bao giờ nhìn mặt bất cứ một đứa đàn bà nào nữa. Tao mừng thầm vì mày đã tỉnh ngộ, sau đó tao thấy mày thất thểu bỏ về Thebes…
Tôi im lặng nhưng trong lòng vô cùng xúc động. Quả thật tôi đã ghen với Horemheb một cách vô lý và không đủ sáng suốt để phân tích mọi việc. Dĩ nhiên khi si mê, người ta thường mù quáng nhưng điều đáng tiếc là tôi đã để một việc ghen tức tầm thường như vậy chi phối mình trong bao năm qua.
Tôi quay qua Horemheb nói nhỏ:
- Tao rất tiếc… quả thật… tao không ngờ sự việc lại như vậy…
- Không đâu! Chính tao là đứa có lỗi vì đã đưa mày đến gặp Nefer. Tao không ngờ một việc nhỏ lại gây hậu quả lớn đến thế! Sau đó mày bỏ đi biệt tích, tao đã cho người tìm kiếm khắp nơi mà không thấy… Tôi đưa tay nắm chặt lấy tay Horemheb. Hắn cũng xiết chặt tay tôi. Chưa khi nào tình bạn giữa chúng tôi lại đằm thắm như vậy.
Horemheb lên tiếng:
- Tao rất mừng khi thấy mày vẫn bình an trở về. Tao mong rằng với tin tức quan trọng về thanh gươm của người Hitites, Pharaoh sẽ xóa bỏ tội lỗi cho mày. Ngoài ra tao cũng phải cám ơn mày rất nhiều, vì nếu không, kẻ lãnh ấn tiên phong cầm quân ra trận chính là tao và hiển nhiên sẽ là nạn nhân đầu tiên của cây gươm này. Tôi cảm động nắm chặt tay Horemheb:
- Này Horemheb, khi xưa chúng mình đã thề trước mặt thần Osiris là coi nhau như anh em ruột thịt, vậy mà hơn mười năm nay tao đã nghĩ lầm về mày, tao rất hối hận.
Horemheb lắc đầu:
- Tao không thể trách mày được. Đáng lẽ tao phải biết rằng mày chưa hề có kinh nghiệm về chuyện tình ái. Này Sinuhe, tao đã thề sẽ bảo vệ mày thì dù gặp khó khăn thế nào tao cũng cố gắng hết lòng. Khi Pharaoh tuyên án tử hình mày, tao vô cùng lo sợ và không biết phải làm gì. May thay chẳng ai biết mày trốn ở đâu… Thật ra chuyện này cũng chỉ vì đám giáo sĩ thờ thần Amun…
- Tại sao các giáo sĩ lại dính vào việc này? - "Hẳn mày cũng biết Pharaoh Akhenaten chủ trương cải cách xã hội và tôn giáo. Điều này đụng chạm đến quyền lợi nhiều người, nhất là giới giáo sĩ mà tiêu biểu là giáo sĩ phái Amun tại Thebes. Từ trước đến nay, nhóm này vẫn được các Pharaoh tin dùng nên họ có nhiều quyền lợi đáng kể. Từ khi lên ngôi Pharaoh, Akhenaten chủ trương tôn sùng Thái Dương, biểu tượng bằng chiếc dĩa tròn chứ không tin vào giáo điều của phái Amun nên nhóm giáo sĩ này hết sức bất mãn.
Akhenaten cho rằng con người có thể trực tiếp học hỏi các chân lý trong vũ trụ, tượng trưng qua ngôi Thái Dương, mà không cần phải nhờ đến sự trung gian của các giáo sĩ. Do đó thay vì tôn thờ ánh sáng (Amun) xuất phát từ vầng Thái Dương, con người có thể tiếp xúc thẳng với vầng Thái Dương qua biểu tượng là chiếc dĩa tròn. Điều này hoàn toàn khác với chủ trương của các giáo sĩ phái Amun vốn cho rằng chỉ riêng giới giáo sĩ mới có thể giao tiếp với chân lý qua các thần linh trung gian, tiêu biểu bằng Ánh Sáng (Amun) xuất phát từ vầng Thái Dương, chứ không thể trực tiếp đến thẳng với Thái Dương được.
Sự khác biệt về căn bản này đã tạo ra nhiều cuộc tranh chấp trong triều.
Khi hoàng tử Teay bị bệnh, phe giáo sĩ muốn Pharaoh Akhenaten thân hành mang lễ vật đến đền thờ Amun tại Thebes, cầu xin cho hoàng tử khỏi bệnh. Nhưng Akhenaten cho rằng việc chữa bệnh là thẩm quyền của giới y sĩ chứ không phải của giáo sĩ. Thay vì cầu xin thần quyền Amun, ông lại đề cao khoa học và chủ trương để các y sĩ chữa bệnh cho hoàng tử. Là quan ngự y của Pharaoh, mày vô tình bị kẹt vào vòng tranh chấp này. Pharaoh Akhenaten tin vào khả năng chữa bệnh của mày nên cho người đi kiếm, không ngờ tìm mãi mà mày vẫn biệt vô âm tín.
Vài hôm sau, bệnh tình hoàng tử trở nên trầm trọng và sau cùng thì việc phải đến đã đến. Cái chết của hoàng tử Teay là một thất bại lớn của Akhenaten, ông vừa mất con vừa mất mặt với triều đình. Hiển nhiên nhóm giáo sĩ thờ thần Amun đã khai thác triệt để việc này và cho rằng các thần linh đã trừng phạt Pharaoh. Để giữ thể diện cho Pharaoh, một số quan triều đã trút trách nhiệm lên này vì lúc hoàng tử đang đau nặng mà quan ngự y lại vắng mặt thì còn ra thể thống gì nữa. Bất đắc dĩ, Pharaoh đành phải tuyên án tử hình như thế…" Horemheb im lặng một lúc rồi nói tiếp:
- "Hiện nay uy tín của Pharaoh bị giảm sút rất nhiều. Việc cải cách xã hội của ông khiến giới quí tộc bất mãn. Việc thay đổi tôn giáo, đi ngược truyền thống cố hữu đã khiến giới giáo sĩ khó chịu và họ bắt đầu liên kết với nhau. Mấy năm nay lại bị các thiên tai như hạn hán, mất mùa xảy ra khắp nơi nên giới giáo sĩ đổ lỗi tại Pharaoh không chịu dâng cúng lễ vật cho Amun nên Ai Cập bị trừng phạt như thế.
Khi xưa dân chúng thấy việc cải cách của Akhenaten đem lại cho họ sự thoải mái, tự do nên ai cũng tin tưởng, nhưng mấy năm nay mùa màng thất thu, nạn hạn hán kéo dài thì họ đâm ra hoang mang, sợ hãi. Qua sự đồn đãi của giới giáo sĩ, một số đã bắt đầu nghi ngờ tài lãnh đạo và chủ trương cải cách của Akhenaten. Tình hình Ai Cập lúc này không yên ổn như xưa, dân chúng đói khổ vì thiên tai, quan lại bất mãn vì mất quyền lợi, các giáo sĩ mất ảnh hưởng, phao vu những tin thất thiệt nên xã hội bắt đầu rối loạn, mất an ninh."
Horemheb dừng ngựa, chỉ tay về phía trước:
- Hãy nhìn kìa! Đó là Tel El Amarna, thủ đô mới của Ai Cập. Pharaoh Akhenaten đã chán cảnh Memphis với những đền thờ Amun nên ông cho dời đô về đây và xây cất đền thờ Aten…
Trên sa mạc hoang vu, một thành phố nguy nga tráng lệ được xây cất với những đền đài, lăng tẩm, các cột trụ bằng đá hàng hàng lớp lớp. Chiếc xe ngựa dừng lại trước cửa một ngôi đền lớn, kiến trúc hùng vĩ. Toán binh sĩ giữ cửa vội vã bước ra nghênh đón.
Horemheb hất hàm hỏi:
- Pharaoh đang ở đâu?
- Ngài đang chuẩn bị hành lễ trước đền Aten.
- Các ngươi hãy đưa chúng ta đến đó ngay.
Toán lính vội vã mở đường. Horemheb và tôi theo sau. Đó là một đền thờ với những cột trụ bằng đá to lớn đang được xây cất dở dang, chính giữa ngôi đền làm một bàn thờ lộ thiên, trên đặt tấm bia đá lớn khắc hình ngôi Thái Dương, tiêu biểu bằng chiếc dĩa tròn. Pharaoh Akhenaten và hoàng hậu Nefertiti đang đứng trước đó, chuẩn bị hành lễ. Nghe tiếng động, ông quay lại thấy chúng tôi bèn ra hiệu cho chúng tôi đến gần.
Horemheb lo lắng:
- Mày hãy đứng yên tại đây để tao nói chuyện với Pharaoh trước. Nếu thấy ngài vẫn còn giận thì tao sẽ giả bộ bắt giam mày rồi đưa mày đi chỗ khác.
Horemheb bước thẳng đến trước mặt Pharaoh Akhenaten. Tôi giữ ý, đứng yên tại chỗ. Đã lâu không gặp Akhenaten, tôi thấy ông khắc khổ, già nua hơn trước rất nhiều. Horemheb quì xuống báo cáo mọi việc, hắn còn rút thanh gươm kỳ lạ của người Hitites đưa cho Pharaoh xem. Akhenaten không để ý đến thanh gươm mà quay lại vẫy tay ra hiệu gọi tôi đến gần: - Này Sinuhe, đã lâu lắm không gặp ngươi, không ngờ ngươi lại lưu lạc đến tận xứ Palestine…
- Kính thưa Pharaoh, kẻ có tội này…
- Khoan đã, ta nghe nói ngươi đã mang được thanh gươm của người Hitites về đây. Công lao này quả không nhỏ. Nhưng làm sao người Hitites lại để cho ngươi mang một thanh gươm quí như thế này về Ai Cập?
Tôi bèn đem hết mọi việc ra kể lại cho Pharaoh nghe. Akhenaten im lặng suy nghĩ rồi lắc đầu:
- Ta đã cho sứ giả mang nhiều phẩm vật qua tặng cho quốc vương xứ Hitites để hàn gắn việc cũ nhưng không ngờ họ vẫn chưa quên được mối thù xưa…
Horemheb vội vã xen vào:
- Kính thưa Pharaoh, hiện nay tình thế cấp bách, xin ngài ban chỉ thị để kẻ này chuẩn bị đối phó. Nếu người Hitites đã có những vũ khí sắc bén như vậy thì chúng ta không thể sử dụng các chiến thuật cũ được nữa mà phải dùng cách khác. Trong lúc này, quân sĩ đang cấp tốc sản xuất cung tên để tấn công trước…
- Tại sao ngươi lại muốn tấn công trước? - Thưa Pharaoh. Kẻ này muốn lợi dụng lúc đêm khuya sử dụng tên lửa để tấn công trước khi quân sĩ Hitites kịp mặc giáp trụ. Chỉ có cách đó mới mong tránh được tổn thất…
Tôi giật mình khâm phục khả năng phối trí thần tốc của Horemheb. Trong một thời gian ngắn, hắn đã nghĩ ra cách sử dụng hỏa công để đối phó với những thanh kiếm sắc bén của người Hitites kia. Pharaoh Akhenaten lắc đầu:
- Ta không muốn như vậy, chúng ta phải tránh sự giết chóc…
Horemheb quỳ mọp xuống năn nỉ:
- Hiện nay quân lực Hitites rất hùng mạnh, lại có vũ khí sắc bén, nếu để họ tấn công trước thì chúng ta sẽ thua mãi. Theo kẻ này, chỉ có cách ra tay trước, dùng tên lửa đốt cháy doanh trại của họ. Khi lính Hitites hoảng hốt, chưa kịp mặc giáp trụ thì kẻ này sẽ cho quân sĩ dùng cung nỏ, tấn công từ xa để tránh tổn thất. Mặt khác xin Pharaoh ra lệnh cho các tướng lãnh điều động quân sĩ vượt sa mạc, tấn công thẳng vào kinh đô của người Hitites. Họ dốc toàn lực ra đánh chúng ta, ắt phải bỏ trống kinh đô nên chúng ta cần chiếm thượng phong tấn công vào xứ họ trước. Thấy kinh đô nguy ngập, họ phải rút quân về cứu viện thì chúng ta sẽ hai mặt giáp công và có cơ hội đoạt phần thắng…
Akhenaten lắc đầu:
- Không được! Ta không muốn có sự giết chóc như thế. Ngươi hãy thu xếp để ta đến gặp hoàng đế xứ Hitites.
Horemheb sửng sốt:
- Tại sao lại thế? Thằng lính này thà chết chứ không bao giờ chịu nhục để Pharaoh phải đầu hàng như vậy.
Akhenaten nghiêm giọng:
- Ai bảo ta sẽ đầu hàng? Ta có cách giải quyết riêng của ta. Các ngươi hãy cho sứ giả đến nói với hoàng đế xứ Hitites rằng ta muốn gặp riêng ông ta để nói chuyện.
Tôi vội vã lên tiếng:
- Thưa Pharaoh, kẻ này đã nói hết lời nhưng người Hitites quyết gây chiến… Akhenaten mỉm cười ôn tồn nói:
- Việc ưu tiên của ta hiện nay là tránh sự giết chóc vô ích này. 
Horemheb lắc đầu:
- Xin Pharaoh nghĩ lại, nếu không ra tay trước, người Hitites sẽ tràn vào lãnh thổ chúng ta và như thế số người Ai Cập chết vì vũ khí lợi hại của họ không phải là ít.
- Ta muốn bảo vệ sinh mạng dân chúng cả hai xứ chứ không riêng cho Ai Cập. Do đó ta muốn gặp vua xứ Hitites để thảo luận việc đem lại hòa bình cho toàn miền này. Ý ta đã quyết, các ngươi chớ nhiều lời. Akhenaten quay qua tôi:
- Này Sinuhe, ngươi đã có dịp tiếp xúc với vua xứ Hitites nên có thể thu xếp cho ta gặp ông ta càng sớm càng tốt. Bây giờ các ngươi hãy lui ra để ta còn làm lễ dâng hương cho Aten.
Vừa bước ra khỏi ngôi đền. Horemheb khó chịu:
- Tình thế cấp bách như thế mà Pharaoh cứ lo cúng lễ Aten thì có khác gì đám giáo sĩ lúc nào cũng chỉ biết cầu xin thần Amun, rốt cuộc chỉ có đám binh sĩ như tao là lãnh mọi hậu quả.
Chúng tôi vừa ra đến cổng thành thì từ xa một đoàn quân sĩ ở đâu kéo đến, dẫn đầu là một viên tướng mặc giáp trụ oai nghiêm: Tể tướng Smenkere. Ông dừng ngựa trước mặt Horemheb:
- Ta vừa nhận được tin mật báo của ngươi nên thân hành đem toàn bộ binh mã đến đây. Ngươi đã lấy được chỉ thị của Pharaoh chưa?
Horemheb kể lại mọi sự cho Smenkere. Viên tướng già lắc đầu than:
- Nếu lúc này không tấn công ngay thì còn đợi đến bao giờ? Này Horemheb, kế hoạch của ngươi tuy táo bạo nhưng ta thấy có thể thi hành được. Ta sẽ mang quân sĩ vòng qua sa mạc để tấn công kinh đô của người Hitites nếu ngươi có thể cầm chân họ tại đây trong ít hôm.
Horemheb gật đầu nói nhỏ:
- Tể tướng cứ theo kế hoạch mà thi hành. Một mặt chúng ta thu xếp cho Pharaoh gặp vua xứ Hitites nói chuyện, nếu việc thương thuyết không thành, chúng ta sẽ tấn công ngay.
Smenkere quay qua nghiêm khắc nhìn tôi:
- Này Sinuhe, khi xưa ta đã khuyên ngươi hãy chuyên tâm lo việc tinh thần như cha mẹ ngươi. Tại sao ngươi lại dính vào những việc phiền toái như thế này? Horemheb ngạc nhiên:
- Kính thưa Tể tướng, Sinuhe có công đã mang về được bí mật quân sự của người Hitites…
Smenkere cắt ngang:
- Ta không muốn Sinuhe dính dáng vào việc triều chính trong lúc này. Đây là lệnh của ta…
- Nhưng Pharaoh muốn Sinuhe thu xếp… Smenkere trừng mắt gạt đi:
- Ta không muốn Sinuhe dính vào những việc đó. Hãy tìm người khác…
Smenkere chăm chú nhìn tôi rồi lạnh lùng nói:
- Này Sinuhe, ngươi cần ý thức rõ rệt về con đường mà ngươi đang theo đuổi. Ngươi có thể làm một vị quan triều như chúng ta, hưởng những vui sướng vật chất cũng như những phiền toái, lo sợ, hoặc đi theo con đường lý tưởng như cha mẹ ngươi, sống thoải mái về tinh thần và chấp nhận những thử thách mà con đường này đòi hỏi. Ngươi không thể có thái độ nửa chừng được vì không những nó đem đến cho ngươi những đau khổ, dằn vặt mà còn mang sự bất hạnh cho những người chung quanh nữa.
Tôi biết Smenkere muốn nói đến cái chết bi thương của cha mẹ tôi nên im lặng cúi đầu không nói gì. Viên tướng già quay qua nói với Horemheb:
- Thôi ta lên đường đây! Ngươi khéo cầm cự với bọn Hitites. Nếu không có tin tức gì, ta sẽ theo đúng kế hoạch tấn công xứ Hitites.
Smenkere vung tay ra lệnh, đoàn quân vội vã lên đường. Horemheb lẩm bẩm:
- Smenkere xứng đáng là một vị anh hùng. Vì đã có lệnh của Smenkere nên Horemheb cho người liên lạc, giàn xếp cuộc tiếp xúc giữa Akhenaten và quốc vương xứ Hitites. Phần tôi được lệnh tạm trú trong doanh trại gần đó chờ kết quả. Vài hôm sau, vào lúc nửa khuya tôi đang ngủ thì Horemheb ở đâu hốt hoảng chạy vào:
- Sinuhe! Mày cần phải đi với tao ngay!
- Chuyện gì vậy?
Horemheb không trả lời mà vội vã kéo tôi lên xe ngựa phóng nhanh ra sa mạc. Xe đi được một quãng ngắn hắn mới giải thích:
- Pharaoh đang trên đường đi gặp vua xứ Hitites, bất ngờ lại lên cơn động kinh như hôm nào…
- Mày nói gì?
- Akhenaten đang lên cơn động kinh, các y sĩ điều trị cho biết ngài cần tĩnh dưỡng nên tao muốn nhờ mày đến xem xét.
Chúng tôi đến căn lều dựng tạm trong một ốc đảo, chung quanh có quân sĩ canh phòng cẩn thận. Horemheb tức tốc đưa tôi vào trong. Akhenaten đang nằm bất động trên tấm da sư tử, mặt xanh như tàu lá, chân tay co quắp, miệng sùi bọt mép. Mấy viên ngự y đang cắm cúi săn sóc cho ông. Tôi vội cúi xuống chẩn bệnh rồi nói ngay:
- Quan ngự y nói đúng. Pharaoh không thể di chuyển được, phải tĩnh dưỡng tại đây ít hôm. Lần này ngài bị nặng hơn lần trước… Horemheb lo lắng nhìn vầng trăng lưỡi liềm lơ lửng trên nền trời:
- Đã đến thời điểm gặp gỡ… Nếu Pharaoh không đến thì…
Chưa lúc nào tôi cảm thấy tình trạng lại nghiêm trọng như vậy. Dĩ nhiên nếu Akhenaten không đến điểm hẹn thì cuộc chiến sẽ xảy ra ngay.
Horemheb nghiến răng:
- Mày hãy ở đây trông nom Pharaoh, tao phải về Memphis điều động binh sĩ.
- Lúc này đã muộn, việc điều động binh sĩ cần thời giờ. Mày hãy để tao đến gặp vua xứ Hitites, tao sẽ…
Horemheb lắc đầu:
- Tể tướng Smenkere đã dặn tao đừng để mày dính dáng vào những việc thị phi.
- Đây là việc bất ngờ, dù đã có kế hoạch từ trước để hai mặt giáp công nhưng Smenkere có đi suốt ngày đêm cũng phải mất vài hôm nữa mới đến được xứ Hitites trong khi quân đội Hitites đóng cách đây vài chục dặm. Nếu chiến tranh xảy ra thì chắc chắn phần thắng sẽ về tay người Hitites trong lúc này. Mày hãy để tao đến đó thuyết phục, kéo dài thời gian để mày kịp chuẩn bị.
Horemheb lẩm bẩm:
- Nếu biết thế tao đã tấn công trước từ đêm qua, ít ra cũng có cơ hội gây tổn thất cho chúng.
- Hiện nay đã đến lúc nguy ngập, mày hãy để tao đến gặp vua xứ Hitites. Dù sao tao cũng đã quen biết trước…
Horemheb không nói gì nhưng tôi biết hắn đang đắn đo suy nghĩ. Sau cùng hắn xiết chặt tay tôi:
- Được rồi, mày hãy cố gắng kéo dài thời gian, tao về Memphis chuẩn bị ứng chiến. Nếu mày có mệnh hệ gì thì tao thề sẽ không để cho bọn Hitites yên.
Khi tôi đến địa điểm hẹn thì vua xứ Hitites cùng một nhóm quân sĩ đang chờ sẵn. Ông lẳng lặng nhìn tôi một lúc rồi hỏi:
- Sinuhe, ngươi đến đây làm gì?
- Tôi mang một thông điệp của Pharaoh Akhenaten cho ông.
- Akhenaten không đến ư?
Sirah, vị sĩ quan có vẻ mặt lạnh lùng tỏ ra thận trọng:
- Thưa hoàng đế, nếu Akhenaten không đích thân đến đây mà chỉ cho tên y sĩ này thay thế thì hạ thần e ngại có âm mưu gì. Xin hoàng đế ban chỉ thị để hạ thần tấn công Ai Cập ngay.
Các vị tướng lãnh khác cũng nhao nhao lên:
- Đúng thế! Nếu Akhenaten không đích thân đến xin hàng, chúng ta hãy tấn công ngay.
Hoàng đế Hitites bình tĩnh phất tay ra hiệu im lặng rồi nói:
- Ta chắc Akhenaten không chịu đầu hàng mà chỉ muốn kéo dài thời gian để chuẩn bị một kế hoạch khác. Tuy nhiên ta đã dự tính trước điều này. Chắc hẳn họ cho quân sĩ đi vòng qua sa mạc để đánh úp Hitites… Tôi giật mình, không ngờ vua Hitites lại đoán trước được âm mưu của Horemheb như vậy. Hoàng đế Hitites chăm chú nhìn tôi rồi lạnh lùng:
- Hiển nhiên họ sẽ phải sử dụng một lực lượng quân sự khác vì cần lực lượng quân đội ở Memphis để đối phó và cầm chân chúng ta tại đây. Theo ta thì có lẽ tướng Smenkere, vị chỉ huy miền nam Ai Cập sẽ làm việc đó. Này Sinuhe, ngươi thấy ta nói có đúng không?
Tôi đang bối rối chưa biết xử trí ra sao thì vua xứ Hitites đã cười lớn:
- Sinuhe, ngươi chỉ là một y sĩ, không thể làm sứ giả ngoại giao được. Chỉ nhìn thái độ của ngươi, ta đã biết rằng ta suy đoán không sai. Này Sinuhe, nếu ngươi không có ơn cứu mạng ta thì giờ này ngươi đã chết! Akhenaten thật là một thằng ngu… Đám tướng lãnh đứng quanh đó cười ầm lên. Vua xứ Hitites lạnh lùng:
- Smenkere kéo quân lên miền bắc ắt hẳn miền nam phải bỏ trống và giờ này có lẽ hoàng đế xứ Nubia đã lợi dụng cơ hội tấn công vào Ai Cập rồi.
Tôi hoảng hốt rụng rời chân tay. Từ trước đến nay Ai Cập vẫn lo ngại người xứ Nubia hơn cả nên dù đã làm đến chức tể tướng, Smenkere vẫn nắm giữ binh quyền miền nam để phòng bị người Nubia đánh úp. Lần này ông kéo toàn bộ lực lượng quân đội lên miền bắc để tấn công xứ Hitites nhưng lại bị vua xứ này tương kế tựu kế, âm mưu với người Nubia để hai mặt giáp công Ai Cập.
Hoàng đế Hitites cười lớn:
- Nếu Smenkere kéo quân đánh Hitites thì phải đi qua thung lũng Nethkha và làm mồi cho phục binh của ta đang chờ sẵn mà thôi. Ha ha ha… với võ khí sắc bén của chúng ta thì thắng bại ra sao chắc ngươi cũng đã rõ. Này Sinuhe, ngươi chỉ là một con chốt thí mà Akhenaten sử dụng để kéo dài thêm thời gian nhưng điều này không có nghĩa gì với ta hết vì ta đã dự tính trước. Ha ha ha…
Tôi luống cuống chưa biết phải xử trí ra sao thì bỗng nghe tiếng quân sĩ canh phòng quát lớn:
- Ai đó? Ngươi là ai?
Hoàng đế Hitites giật mình đặt tay lên đốc kiếm. Các tướng sĩ quanh đó đều đồng loạt rút phắt gươm ra. Tôi quay lại thấy dưới ánh trăng mờ nhạt, một toán người đang hộ vệ một người thân hình cao lớn, khoác áo choàng trắng đang cưỡi ngựa thong thả đi đến: Pharaoh Akhenaten. Tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao một người đang bị động kinh, mê sảng như ông lại có thể đến đây được.
Tôi kêu lớn:
- Pharaoh, sao ngài lại đến đây? Akhenaten ôn tồn xua tay:
- Sinuhe, ngươi đã làm xong bổn phận, bây giờ đến lượt ta nói chuyện với vua xứ Hitites.
Một bầu không khí kỳ lạ bao trùm khắp sa mạc. Các tướng lãnh Hitites vội vã chia nhau ra canh chừng như sợ có âm mưu gì, nhưng họ không thấy ai ngoài Akhenaten và vài người hầu cận. Pharaoh Akhenaten thản nhiên bước xuống ngựa. Hai vị vua im lặng nhìn nhau như dò xét.
Hoàng đế xứ Hitites nói:
- Ta không ngờ ông lại đến. Phải chăng ông đã chấp thuận điều kiện của ta? Akhenaten ôn tồn:
- Khi xưa ta đã cho sứ giả mang rất nhiều phẩm vật tặng ngươi để bày tỏ thiện chí nhưng có lẽ ngươi không hiểu ý ta.
- Mối thù giữa Hitites và Ai Cập không thể bỏ qua bằng những phẩm vật tầm thường đó được. Hiện nay chúng ta đang chiếm phần thắng…
Akhenaten lắc đầu:
- Ngươi quá tự tin về kế hoạch của mình nhưng liệu ngươi có nắm chắc phần thắng không?
Hoàng đế Hitites ngạc nhiên nhưng vẫn nói cứng:
- Hiển nhiên là ta nắm phần thắng vì ta đã đoán trước âm mưu của ngươi và có kế hoạch đối phó.
Akhenaten nhẹ nhàng: - Nếu ta là ngươi, chẳng bao giờ ta lại tin một người nhiều tham vọng như Maati cả.
Câu nói dường như vô tình của Akhenaten khiến hoàng đế Hitites giật mình như bị một cái gì đánh trúng. Ông đằng hắng mấy tiếng nhưng không thốt nên lời. Sirah, viên sĩ quan hầu cận, lật đật lên tiếng:
- Hoàng đế… hoàng đế… giao trách nhiệm trông coi thủ đô cho Maati ư?
Các tướng lãnh nhìn nhau ngơ ngác. Vua xứ Hitites đằng hắng:
- Ta… ta đã phái tướng Heru ra tiếp viện cho nhóm phục binh ở thung lũng Nethkha… Dĩ nhiên Maati… Maati… sẽ trông coi thủ đô.
Akhenaten thong thả lên tiếng:
- Nếu ngươi biết Maati đã liên lạc với vua xứ Nubia và cuộc tấn công vào miền nam Ai Cập sẽ không xảy ra như ngươi dự định. Hoàng đế Nubia không phải là người thiếu mưu trí, y chẳng dại gì tấn công Ai Cập trước để người Hitites hưởng lợi. Theo ta biết thì y sẽ án binh bất động để chờ cơ hội…
Một lần nữa tôi thấy nét mặt của vua xứ Hitites nhăn nhó hơn bao giờ hết. Ông nắm chặt lấy đốc kiếm như để giữ bình tĩnh. Các tướng lãnh yên lặng nhìn ông nhưng nét mặt mọi người đều căng thẳng.
Akhenaten tiếp tục:
- Ngươi nghĩ rằng một tướng lãnh đầy kinh nghiệm như Smenkere lại dẫn quân đi vào thung lũng Nethkha mà không cho người đi do thám trước hay sao? Nếu ngươi biết Smenkere đã được Maati thông báo về nhóm phục binh của tướng Heru vì hắn cần lợi dụng quân đội Ai Cập để diệt trừ Heru. Nếu Heru chết, quyền hành xứ Hitites sẽ thuộc về tay Maati và y sẽ ra lệnh rút quân về để Smenkere có thể tập trung quân lực quay về giải cứu Ai Cập. Tóm lại, hiện nay các ngươi mới là những kẻ đang ở tình trạng khó xử, tiến cũng không xong và lui cũng không được.
Vua xứ Hitites gầm lên một tiếng rồi quay qua một sĩ quan hầu cận, ra lệnh:
- Tamas, ngươi hãy cho người đi xem tình hình thế nào rồi báo cáo ngay cho ta.
Vị sĩ quan lập tức lên ngựa phóng đi. Vua Hitites phất tay ra lệnh cho quân sĩ bao vây lấy tôi và vua Akhenaten vào giữa.
Ông ta nghiến răng:
- Này Akhenaten, nếu thế ngươi sẽ phải chết trước.
Pharaoh Akhenaten vẫn bình tĩnh:
- Tại sao ngươi cứ khăng khăng đòi giết người này hay giết người khác như vậy? Phải chăng chỉ có giết chóc mới giải quyết được mọi sự? Kẻ thù của người đâu phải là người ngoài mà chính là người bên trong xứ của ngươi đó. Bao năm qua, ngươi chỉ lo chiến tranh với Ai Cập mà xao lãng kẻ nghịch bên trong.
Vua xứ Hitites im lặng, hiển nhiên câu nói của Akhenaten đã tác động rất lớn vào tâm lý ông ta. Akhenaten tiếp tục:
- Ngươi rời thủ đô vào sa mạc để huấn luyện quân sĩ nên đâu biết việc gì xảy ra trong cung của ngươi. Các tướng lãnh trung thành với ngươi cũng thế, họ đã rời xa vợ con để theo ngươi rèn binh luyện kiếm nhưng họ có biết tình trạng gia đình, vợ con của họ lưu lại thủ đô như thế nào không?
Câu nói của Akhenaten đã làm các tướng lãnh Hitites hung hãn đứng quanh đó rung động. Bao năm qua họ chỉ nuôi mộng chiêu tập binh mã để tấn công Ai Cập mà xao lãng bổn phận với gia đình. Vẻ mặt mọi người tự nhiên dịu đi.
Akhenaten quay qua tôi, nói một cách nhẹ nhàng:
- "Này Sinuhe, ta chủ trương cải cách xã hội và tôn giáo Ai Cập vì thấy vết xe cũ đã mang lại quá nhiều đau khổ cho người dân xứ này. Tổ tiên của ta chỉ lo mở mang bờ cõi bằng chiến tranh mà không biết đào luyện, trau dồi phẩm cách cho con người. Cha ta trọn đời chỉ lo chiến đấu với người Hitites và Nubia vì lúc nào cũng sợ họ xâm lăng và hiển nhiên người Nubia và Hitites cũng lo Ai Cập xâm phạm bờ cõi.
Tất cả đều mắc vào cái vòng luẩn quẩn của sự sợ hãi vô cớ này. Chính sự sợ hãi đã đem lại thù hận và hận thù cứ thế tăng lên do các cuộc chiến tranh kéo dài từ năm này qua năm khác.
Rốt cuộc mọi người đều chỉ biết giết chóc chứ không biết thương yêu, chỉ biết sử dụng võ khí chứ không biết trau dồi phẩm hạnh. Khi con người sa đọa đến mức này thì xã hội đã rối loạn sẽ rối loạn thêm, do đó ta muốn cắt đứt cái vòng luẩn quẩn ấy. Dĩ nhiên đa số không hiểu được lòng ta, không thể tin rằng Pharaoh của Ai Cập lại muốn rời xa truyền thống cũ. Ta đã cho sứ giả đi khắp nơi giảng dạy cách sống mới nhưng phần lớn chưa tin rằng ta có thiện chí thực sự. Này Sinuhe, con đường ta đang đi là con đường rất khó vì nó đòi hỏi một sự nhẫn nại rất lớn nhưng ta thấy ngoài nó ra, không còn giải pháp nào khác. Trong nhiều năm qua, ta tiếc không có ngươi ở bên cạnh để chia sẻ với ta những thay đổi mà ta cho thi hành…"
Akhenaten ngưng nói, quay qua hoàng đế Hitites:
- Ông và ta đều là những người lãnh trọng trách lịch sử. Ông có bổn phận với quốc gia của ông và sứ mạng của ông là làm thế nào để quốc gia trở nên thịnh vượng, phú cường. Một sự thịnh vượng được xây dựng trên sự hiểu biết đúng đắn chứ không phải trên xương máu đồng loại. Con đường của ta đang theo đuổi không những phải tránh sự giết chóc mà còn tránh những tư tưởng hận thù xấu xa, những quyết định nóng nảy hấp tấp nữa.
Hoàng đế Hitites đang trầm ngâm suy nghĩ thì có tiếng vó ngựa dồn dập rồi Tamas, viên tùy tùng được sai đi xem xét tình hình đã dẫn về một nhóm người.
Akhenaten thong thả lên tiếng:
- Này hoàng đế Hitites, đây chính là giây phút quyết định của ông đó!
Tamas đưa một người mặc quân phục rách nát, dính đầy máu đến trước mặt vua xứ Hitites. Người này vừa khóc vừa báo cáo:
- Kính thưa hoàng đế, Maati làm phản, tự xưng làm vua. Hắn triệu hồi binh sĩ phòng thủ tại thung lũng Nethkha… Tướng Heru đã bị giết. Hiện nay quân đội Ai Cập đã vượt qua thung lũng Nethkha mà không gặp một sự kháng cự nào. Maati còn cho người đến gặp Tể tướng Smenkere xin thương thuyết đầu hàng nữa…
Hoàng đế Hitites tức giận gầm lên một tiếng lớn. Các tướng lãnh đứng quanh đó nhốn nháo, xôn xao bàn tán. Sirah, viên tướng chỉ huy vội lên tiếng:
- Tình thế cấp bách, xin hoàng đế cho phép hạ thần dẫn quân trở về giải cứu thủ đô và trị tội thằng phản phúc Maati kia.
Hoàng đế Hitites lắc đầu:
- Không được, nếu trở về ngươi sẽ phải đương đầu với Smenkere trước. Dù có võ khí sắc bén nhưng chưa chắc ngươi đã chiếm được phần thắng. Trong lúc này, phân tán lực lượng quân sự sẽ chỉ làm mồi cho người Ai Cập.
Sirah giơ tay chỉ vào Akhenaten:
- Nếu chúng ta giữ Pharaoh của họ làm con tin thì họ đâu dám làm gì.
Các tướng lãnh quanh đó đều gật đầu đồng ý. Hoàng đế xứ Hitites suy nghĩ một lúc rồi quay qua phía Akhenaten, đổi giọng:
- Trong tình thế hiện tại, liệu chúng ta có thể thỏa thuận một giải pháp tốt đẹp cho cả hai bên không? Pharaoh Akhenaten mỉm cười lắc đầu:
- Trước đây không lâu, khi nắm chắc phần thắng trong tay, ông chỉ muốn tấn công Ai Cập để rửa hận; nhưng lúc này ông lại sẵn sàng thỏa hiệp với Ai Cập khi nội bộ triều chính của ông gặp khó khăn. Nếu Hitites và Ai Cập vẫn còn thù hận nhau thì mọi thỏa hiệp chỉ là những giai đoạn nhất thời chứ không phải vĩnh viễn. Ta không thể chấp thuận một giải pháp như thế được. Hoàng đế Hitites tức giận:
- Ông nên nhớ rằng số phận của ông nằm trong tay ta và chỉ cần một lệnh nhỏ, quân sĩ của ta sẽ băm ông nát ra trăm mảnh. Akhenaten điềm nhiên:
- Hiển nhiên ta biết thế, nhưng nếu ta chết thì chỉ nội ngày mai, khi lực lượng quân sự của Smenkere và Horemheb hai mặt cùng giáp công thì các ông cũng khó bảo toàn tính mạng. Dù có võ khí sắc bén nhưng thiếu viện binh của người Nubia và Hitites, liệu các ông có thể chống cự một sức mạnh quân đội đông đảo như thế không? Nếu ta chết, Ai Cập sẽ có một Pharaoh khác và có lẽ người đó sẽ không để cho xứ Hitites của ông được yên. Rốt cuộc chúng ta vẫn tiếp tục đi theo vết xe cũ, gây chiến tranh và gia tăng hận thù giữa hai nước… Hoàng đế Hitites im lặng đặt tay lên chuôi kiếm, nửa muốn rút ra nhưng nửa lại ngập ngừng. Pharaoh Akhenaten im lặng quan sát đối thủ. Không khí trở nên căng thẳng, mọi người đều nín thở theo dõi. Chỉ một quyết định sẽ có máu đổ, đầu rơi và chiến tranh sẽ xảy ra.
Bất chợt Pharaoh Akhenaten khoan thai nói:
- "Ta biết mối thù giữa Ai Cập và Hitites kéo dài đã nhiều năm, khó có thể giải quyết ngay trong chốc lát, nhưng ta vẫn muốn chứng tỏ thiện chí của ta.
Này hoàng đế Hitites. Ta biết ông có một con trai mà ông rất thương yêu. Ông muốn mở mang bờ cõi để sau này con ông có thể cai trị một miền đất rộng lớn nên ông không quản công lao khó nhọc chiêu tập binh mã, vừa để phát triển bờ cõi cho con ông sau này, vừa để trả mối hận đã bị Ai Cập xâm lăng khi xưa. Những chuyện đã xảy ra trong quá khứ, ta không thay đổi được nhưng hiện nay ta vẫn có thể làm những việc để dân chúng cả hai nước có một tương lai tốt đẹp hơn.
Này hoàng đế xứ Hitites, ta muốn đề nghị với ông một giải pháp để nối tình giao hảo giữa hai nước một cách lâu dài. Ta vốn không có con trai nối dõi mà chỉ có con gái nên ta đề nghị một cuộc hôn nhân giữa hai bên. Ông và ta kết tình thông gia, giao hảo tốt đẹp. Con trai ông làm rể ta, dĩ nhiên sau này sẽ lên ngôi Pharaoh cai trị khắp miền này mà không phải tốn một sinh mạng nào. Người Ai Cập và người Hitites sẽ vĩnh viễn không gây chiến tranh, không gây hận thù nữa… Ông nghĩ thế nào?"
Toàn thể mọi người đều giật mình, không ai ngờ Akhenaten lại đưa ra một giải pháp táo bạo như thế. Hoàng đế Hitites xúc động run bắn người, bàn tay đặt trên đốc kiếm của ông từ từ rút về. Không bao giờ ông ngờ kẻ thù của mình lại có thiện chí đến thế. Ai Cập là một cường quốc rộng lớn thịnh vượng, trong khi Hitites chỉ là một tiểu quốc bé nhỏ nằm ngoài sa mạc, nếu con ông lên ngôi Pharaoh thì nó sẽ cai trị khắp miền này.
Pharaoh Akhenaten bình tĩnh nói tiếp:
- Nếu ông với ta thông gia với nhau thì hiển nhiên xứ Hitites cũng là của con rể ta, không lẽ một Pharaoh Ai Cập như ta lại để cho một tên phản thần như Maati tung hoành hay sao? Này vua xứ Hitites, nếu chúng ta không làm những việc mà không ai dám làm để nối lại tình giao hảo giữa hai xứ thì ai sẽ làm việc này và đến bao giờ sự thù hận mới hàn gắn cho được?
 Hoàng đế Hitites run giọng:
- Pharaoh… Pharaoh… ngài không nói đùa đấy chứ?
Pharaoh Akhenaten oai nghiêm giơ cao chiếc vương ấn:
- Trước mắt đấng tối cao biểu hiện qua tượng trưng của Aten, ta thề sẽ giữ đúng những điều ta vừa hứa với ông.
Hoàng đế Hitites vội vã chắp tay lại:
- Pharaoh… Akhenaten… Ngài thật cao cả… kẻ này… kẻ này…
Ông chưa dứt lời thì quân sĩ Hitites đã hò hét báo động ầm lên. Mặc dù trời chưa sáng hẳn nhưng người ta có thể nhìn thấy từ phía chân trời xa, một đoàn quân Ai Cập đang rầm rộ kéo đến. Pharaoh Akhenaten quay qua một kẻ tùy tùng:
- Ngươi hãy đến nói cho Horemheb biết rằng ta và hoàng đế Hitites đang nói chuyện với nhau, các ngươi chớ làm rộn. Sau khi kẻ tùy tùng vừa đi khỏi, Pharaoh Akhenaten quay qua nói với vua xứ Hitites: - Ý ông thế nào?
Hoàng đế Hitites vội vã đưa cây gươm còn nguyên trong vỏ ra:
- Đây là thanh gươm quý mà tôi vẫn mong có dịp được rửa bằng máu của ngài. Hiện nay tôi xin trao cho ngài làm tin để bày tỏ thiện chí của tôi.
Akhenaten đón lấy thanh gươm hình thù lạ lùng kia, oai nghiêm nói:
- Quân sĩ đâu, mang rượu ra đây! Ta và hoàng đế Hitites sẽ uống rượu để kết tình thông gia.
Trước vò rượu lớn, Akhenaten rút gươm ra cắt nhẹ lên cánh tay mình để máu chảy xuống vò rượu rồi nói:
- Hoàng đế Hitites, ông vẫn mong thanh gươm của ông sẽ nhuộm máu ta thì hôm nay ta giúp ông hoàn tất ý nguyện đó. Tuy nhiên ta mong máu của ta đổ ra để cho máu của dân chúng hai nước không phải chảy nữa…
Hoàng đế Hitites cảm động đỡ lấy thanh gươm, trích máu trên tay mình:
- Pharaoh Akhenaten, ngày nào tôi còn sống thì không bao giờ xứ Hitites lại gây chiến với Ai Cập nữa.
Hai vị vua cùng nâng chén uống và cười ha hả. Tôi đứng sững người mà trong lòng vô cùng xúc động. Một lần nữa, sự can đảm và đức độ của Akhenaten đã hoàn toàn chinh phục tôi. Pharaoh Akhenaten quay qua các tướng lãnh Hitites đứng gần đó:
- Ta biết các ông đều là những bầy tôi trung thành của vua Hitites, nhưng hiện nay chúng ta không còn là kẻ thù nữa. Ta nghĩ đã đến lúc các ông nên trở về nhà để săn sóc, nuôi dạy con cái nên người.
Hoàng đế xứ Hitites tiếp lời:
- Các ngươi hãy nghe cho rõ, từ nay Ai Cập và Hitites không bao giờ gây chiến tranh với nhau nữa. Chúng ta hãy trở về nước trừng trị tên phản phúc Maati.
Toàn thể tướng sĩ Hitites đồng loạt giơ tay hưởng ứng. Pharaoh Akhenaten ra lệnh cho một kẻ tùy tùng:
- Ngươi hãy đi theo hoàng đế Hitites để thông báo cho tể tướng Smenkere biết rõ quyết định của ta.
Hoàng đế Hitites và tướng sĩ vội vã kéo quân lên đường. Pharaoh Akhenaten im lặng nhìn theo đoàn người từ từ khuất xa rồi thong thả nói:
- Trời sắp sáng rồi, ta phải chuẩn bị chiêm ngưỡng sự huy hoàng của vầng Thái Dương và biết rằng ta vừa làm đúng sứ mạng cao cả của người lãnh đạo quốc gia là tránh cho dân chúng khỏi nạn binh đao. Này Sinuhe, ngươi có biết tại sao lại có chiến tranh không?
Tôi rụt rè trả lời:
- Tại vì có những kẻ xấu xa, tham lam, không biết sống thuận theo lẽ phải. Pharaoh Akhenaten lắc đầu:
- "Không hẳn thế đâu. Trên thế giới này, những kẻ gây ra chiến tranh không phải vì họ xấu hay họ làm trái lẽ phải mà chỉ vì họ không đồng ý kiến hoặc quan niệm với nhau mà thôi. Là người, ai cũng có ý kiến riêng và người nào cũng có lý trong việc làm của họ. Dù người khác cho rằng ý kiến đó sai nhưng đối với họ, điều họ làm chính là lẽ phải. Chỉ vì bất đồng ý kiến mà con người gây gỗ nhau vì cái gì đúng với người này chưa chắc đã đúng với người khác. Do đó các quan niệm như phải trái, đúng sai. Tốt xấu chỉ có giá trị tương đối, chịu ảnh hưởng của không gian và thời gian. Điều hôm nay đúng thì ngày mai có thể sai; quan niệm ấy tại nơi này thì hữu lý nhưng ở nơi khác lại vô lý. Một người hiểu biết phải vượt lên trên sự phân biệt đó và không bao giờ bắt ai phải tuân theo ý kiến của mình. Chỉ có những kẻ thiếu hiểu biết mới điên rồ đòi mọi người phải đồng ý với mình."
- Nhưng nếu thế thì chúng ta phải giải quyết như thế nào?
- Việc duy nhất để giải quyết sự bất đồng ý kiến, dị biệt tư tưởng là tình thương. Tình thương đưa đến sự chấp nhận những khác biệt này thì hận thù mới có thể chấm dứt được. Thiếu tình thương là thiếu hiểu biết và khi đã không hiểu biết thì con người không thể cảm thông được với nhau mà chỉ thấy những khác biệt, sai trái. Chính quan niệm về sự khác biệt này làm nảy sinh sự bất đồng rồi đưa đến thù hận, chiến tranh. Để giải quyết nó, người ta cần biết thay đổi chính mình chứ không thể đòi hỏi người khác phải thay đổi được. Sự thay đổi chính mình là một sức mạnh hết sức lớn lao, một quyền năng phi thường mà chính ngươi đã từng kinh nghiệm.
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa Pharaoh… kẻ này… kẻ này đâu đã… biết gì về việc thay đổi chính mình… - Sao ngươi mau quên thế? Vì ghen tuông với Horemheb mà ngươi đã bỏ đi thật xa, đến tận xứ Palestine hoang vu… Không lẽ ngươi quên rồi sao? Này Sinuhe, chỉ một việc nhỏ bé, tầm thường như thế đã khiến ngươi căm hận thì làm sao ngươi có thể làm được những việc lớn lao, cao cả? Sự thù hận đã làm ngươi mù quáng, ngu xuẩn và hậu quả là ngươi đã phải sống trong dằn vặt khổ đau suốt bao năm qua.
Tôi giật mình không ngờ Pharaoh cũng biết việc này. Phải chăng Horemheb đã kể lại cho ông?
Có lẽ hiểu ý tôi nên Akhenaten cười lớn:
- "Horemheb là kẻ không thích nói nhiều. Hắn vẫn ăn năn về việc để cho ngươi sa ngã thì đời nào lại kể chuyện xấu xa này ra cho ta. Tuy nhiên ta vẫn biết và còn biết nhiều hơn thế nữa.
Này Sinuhe, tuy ngươi được giáo dục cẩn thận nhưng vì thiếu kinh nghiệm nên không vượt qua được thử thách vừa qua. May thay, vì có lương tâm nên ngươi biết dẹp bỏ lòng ghen tuông nhỏ bé để nghĩ đến quyền lợi chung, không ngại nguy hiểm trở về Ai Cập để báo động về hiểm họa Hitites. Chính vì thế mà ngươi mới được chứng kiến sự kiện lịch sử hôm nay, còn nếu không thì có lẽ ngươi vẫn sống trong đau khổ mãi mãi và chẳng bao giờ có thể trở về Ai Cập được.
Này Sinuhe, việc xảy ra vừa qua chỉ là một thử thách nhỏ trên con đường mà ngươi muốn theo đuổi. Ngươi nên biết mỗi thử thách trong cuộc đời là một bài học mà ngươi cần học hỏi, một kinh nghiệm mà ngươi cần phải biết. Con đường ngươi đi còn dài và nhiều thử thách nhưng ta mừng cho ngươi đã kinh nghiệm được sự mầu nhiệm của việc thay đổi chính mình."
Một lần nữa tôi ngạc nhiên về sự hiểu biết lạ lùng của Akhenaten. Tôi muốn nói nhưng nghĩ sao lại thôi.
Akhenaten chăm chú nhìn tôi rồi nói tiếp:
- Ngươi đã được cha mẹ dạy dỗ để đi theo đường đạo nhưng có lẽ ngươi chưa ý thức rõ rệt gì về nó nên đã bỏ qua nhiều cơ hội học hỏi. Ngươi cần biết rằng đây là một con đường rất khó khăn và nhiều thử thách. Nếu đường đời đầy chông gai bão tố thì đường đạo còn hiểm trở gấp trăm lần; nhưng thử thách có lớn thì sự thành công mới huy hoàng và chỉ có những kẻ được trui rèn trong đau khổ mới vượt qua được những thử thách này và xứng đáng nhận lãnh trách nhiệm lịch sử…
Pharaoh chưa nói hết thì nhóm quân sĩ Ai Cập do Horemheb dẫn đầu đã kéo đến. Horemheb dừng ngựa trước mặt Akhenaten:
- Kính thưa Pharaoh, hạ thần nghĩ rằng ngài đang nghỉ ngơi ở ốc đảo nên mạo muội trở về Memphis điều động binh sĩ mà không biết ngài đã đến gặp vua xứ Hitites… May thay… may thay… ngài vẫn vô sự…
Pharaoh Akhenaten phất tay ra hiệu:
- Đủ rồi, ngươi không cần phải nói nhiều. Hãy đưa ta về cung nghỉ ngơi.
Horemheb cúi đầu tuân mệnh và ra lệnh cho binh sĩ đưa Pharaoh trở về cung. Dọc đường hắn hỏi tôi chi tiết buổi tiếp xúc giữa hai vị vua và ngỏ ý tiếc đã không được chứng kiến cuộc gặp gỡ lịch sử đó. Sau khi đưa Pharaoh vào cung,
Horemheb dẫn tôi đến một căn nhà rộng rãi, nguy nga gần đó:
- Đây là nhà riêng của tao, mày hãy tạm nghỉ ở đây ít hôm. Tao cần đi kiểm soát hàng ngũ quân sĩ và gặp tể tướng Smenkere rồi sẽ trở về.
Mika Waltari
Nguyên Phong dịch
Theo https://thuvienhoasen.org/

 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đoàn Văn Cừ với hội xuân và những phiên chợ tết Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam ...