Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Trương Đăng Quế - Cuộc đời và sự nghiệp 2

Trương Đăng Quế
Cuộc đời và sự nghiệp 2
6. TÁC PHẨM
Hà Tông Quyền cùng Trương Đăng Quế được cử biên tập sách Ngự chế tiễu bình lưỡng kỳ nghịch phỉ phương lược. Khi sách làm xong cho khắc in 153 quyển (142 quyển chính biên, 8 quyển phụ biên, 2 quyển thơ, 1 quyển mục lục).
Năm 1835, Minh Mệnh năm thứ 16, sung Trương Đăng Quế làm Tổng tài Thực lục sở (cơ quan viết sử). Tả phó Đô ngự sử viện Đô sát Phan Bá Đạt làm phó Tổng tài.
Tác phẩm của ông hiện còn lưu lại:
1. Thiệu Trị văn quy (Quy tắc làm văn thời Thiệu Trị)
Ngoài ra, ông còn sáng tác thơ văn, bút ký...
Theo Giáo sư Trần Nghĩa, nguyên viện trưởng viện Nghiên cứu Hán Nôm, thì tác phẩm của Trương Đăng Quế còn lại tại kho lưu trữ của Viện Hán Nôm gồm:
2. Quảng Khê văn tập ký hiệu A.3045
3. Trương Quảng Khê văn tập - VH. 1142.
4. Trương Quảng Khê tiên sinh tập A. 777.
5. Sứ trình vạn lý tập A. 2769.
6. Duyệt Giáp Thìn khoa Điện thí văn VH. 78.
7. Về Diệu Liên thi tập VH. 685.
8. Nhật Bản kiến văn tiểu lục A.1164.
Ông còn tham gia chủ trì hoặc biên tập các sách:
9. Đại Nam liệt truyện tiền biên. VHv. 172
10. Đại Nam thực lục tiền biên. VHv. 1320/1-4
11. Đại Nam thực lục chính biên. A. 2772/1-67
12. Hoàng Nguyễn thực lục tiền biên. VHv. 140.
13. Hoàng Nguyễn thực lục hậu chính biên. VHv. 141
TỔNG LUẬN VỀ TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ.
TỪ MỘT CUỘC ĐỜI KỲ LẠ
Nếu triều Nguyễn quá nặng về vấn đề lý lịch thì chắc chắn đã không có nhân vật Trương Đăng Quế. Nhà Nguyễn sẽ mất đi một đại thần trụ cột, một Binh bộ thượng thư tài năng, một Thái sư đầu triều tận tụy, một nhà kinh tế lỗi lạc, một nhà lãnh đạo tài kiêm văn võ trong công cuộc trấn Tây, bình Nam, định Bắc, vươn ra biển Đông mà sự nghiệp lẫy lừng của ông còn tác động đến tận ngày nay, chưa nói ảnh hưởng còn lâu dài về sau này nữa. Ông cũng là người có sách lược chống Pháp, có thể nói là thực tế hơn hết. Văn học Việt Nam cũng sẽ không có các tác phẩm kinh điển như Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam liệt truyện... và thi phẩm Trương Quảng Khê Tiên sinh tập. Nói chung, đó sẽ là một tổn thất to lớn về mọi mặt của đất nước vì Trương Đăng Quế xuất thân từ một gia đình quan chức lớn triều Tây Sơn, kẻ thù của triều Nguyễn.
Vậy mà, trong cái chế độ phong kiến ấy, Trương Đăng Quế đã hiên ngang bước vào lịch sử, với những công nghiệp phi thường. Chúng tôi cho rằng đây chính là nét kỳ lạ và độc đáo nhất của cuộc đời ông, một đặc điểm mãi còn mang tính thời sự, mặc dù sự việc diễn ra đã gần hai trăm năm qua.
Trương Đăng Quế là con trai của Trương Đăng Phác, Tri phủ Quảng Ngãi, dưới thời Tây Sơn, một chức vụ tương đương chức tỉnh trưởng của thời sau này. Chú của ông là Đô đốc Trương Đăng Đồ và thím ông là nữ Đô đốc Huỳnh Thị Cúc, đều là tướng lĩnh Tây Sơn, đã tử tiết khi đánh nhau với quân Nguyễn Ánh tại thành Sơn Tây.
Như vậy, đối với triều Nguyễn thời Gia Long, ông là người có lý lịch hết sức đen tối, một thành phần nguy hiểm, và lẽ ra không thể được nhận bất cứ chức vụ nào trong bộ máy nhà nước Gia Long, một triều đình từng tỏ ra thù hận Tây Sơn cực độ, và đã có một cuộc báo thù kinh thiên động địa mà lịch sử còn ghi nhớ.
Thế nhưng, từ một cậu bé mồ côi, được anh chị nuôi cho ăn học, ông cũng đã được đi thi, và đỗ cử nhân khoa thi Hương năm 1819, niên hiệu Gia Long thứ 17, sau đó được bổ nhiệm vào một chức vụ nhỏ ở bộ Lễ. Từ đây, ông bắt đầu sự nghiệp và lần lượt trải qua các chức vụ từ thấp đến cao.
Chỉ một năm sau khi vào triều, năm 1920, Minh Mệnh nguyên niên, với sự chứng minh được chân tài thực học của mình, ông được bổ nhiệm làm Đông Cung bạn độc, tức là người cùng đọc sách và giảng giải nghĩa lý trong sách cho các hoàng tử, trong đó có Hoàng thái tử Miên Tông, sau này là vua Thiệu Trị. Năm đó ông 27 tuổi.
Năm 1830, niên hiệu Minh Mệnh thứ 11, Trương Đăng Quế 37 tuổi, được cử làm Tả thị lang bộ Công, rồi chuyển qua làm Tả thị lang bộ Lễ, làm việc ở Nội các. Sau đó ông được cử làm Tả tham tri bộ Hộ.
Năm 1832, ông được thăng chức thượng thư bộ Binh, lãnh ấn Đô sát viện, chính thức bước vào hàng ngũ quan lại cao cấp của triều đình. Năm đó ông mới 39 tuổi, và mới ra làm quan được13 năm.
Năm 1834, niên hiệu Minh Mệnh thứ 15, vua quyết định thành lập Cơ mật viện, phụ trách các vấn đề quân quốc trọng sự. Cơ mật viện có năm thành viên gồm Vua và bốn vị đại thần: Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế, Lại bộ Thượng thư Nguyễn Kim Bảng, Tả Phó Đô ngự sử Đô sát viện Phan Bá Đạt và Đại Lý tự khanh bộ Hình Phan Thanh Giản. Với tư cách là thành viên Cơ mật viện, Trương Đăng Quế đã trở thành một trong tứ trụ triều đình
Năm 1836, Trương Đăng Quế được thăng Hiệp Biện Đại học sĩ, Tòng Nhất phẩm. Sau đó kiêm nhiệm bộ Lễ, bộ Công, rồi kiêm quản Khâm thiên giám. Ông trở thành nhân vật hàng đầu Nội các khi mới 43 tuổi, khi chỉ trải qua 17 năm làm quan.
Năm 1840, Trương Đăng Quế là người duy nhất được Vua Minh Mệnh thác cô, phò tá Hoàng thái Tử Miên Tông lên ngôi. Sau khi vua Minh Mệnh băng hà, ông trở thành phụ chính đại thần triều vua Thiệu Trị.
Năm 1841, Thiệu Trị nguyên niên, phụ chính đại thần Trương Đăng Quế được phong Văn Minh điện Đại học sĩ, Binh bộ Thượng thư sung Cơ mật viện.
Năm 1847, trước khi băng hà, vua Thiệu Trị đã uỷ thác cho tứ trụ đại thần Trương Đăng Quế, Nguyễn Tri Phương, Vũ Văn Giải và Lâm Duy Thiếp cùng phò tá Tự Đức lên ngôi.
Năm 1847, Tự Đức nguyên niên, Trương Đăng Quế được thăng Cần Cánh điện đại học sĩ, tước Tuy Thạnh quận công. Cần biết thêm một điều: nhà Nguyễn có quy định không phong chức thừa tướng, cũng không phong vương cho người ngoài hoàng tộc, cho nên những phẩm hàm mà Trương Đăng Quế được phong là cực phẩm, chỉ đứng sau vua.
Con đường hoạn lộ của ông rất thênh thang, đã khiến người ta phải đặt ra dấu hỏi, phải chăng triều đình nhà Nguyễn, hoặc là không quan tâm đến vấn đề lý lịch của các quan, hoặc là đã bị bịt mắt, không hề biết đến cái Iý lịch man khai, hết sức “đen tối” của ông?
Câu hỏi này đã có câu trả lời. Thực ra, như mọi triều đại phong kiến khác, triều đình nhà Nguyễn rất quan tâm đến vấn đề lý lịch của các quan lại. Bộ Lễ là cơ quan điều tra, sưu tầm, nghiên cứu lý lịch ba đời của các quan, dĩ nhiên nắm rõ hoàn toàn nhân thân Trương Đăng Quế. Bằng chứng là vào năm 1838, với mục đích tưởng thưởng các công trạng to lớn của Trương Đăng Quế vì công lao Kinh lược Nam Kỳ và dẹp loạn ở Thanh Hoá, vua Minh Mệnh muốn sắc phong cho tổ tiên của Hiệp Biện Đại học sĩ Trương Đăng Quế. Khi đình thần thảo luận, thì bộ Lễ đã đưa ra vấn đề lý lịch ba đời của ông. Theo hồ sơ giám sát của bộ Lễ, cha và chú của Trương Đăng Quế làm quan to cho Tây Sơn, ông nội của Trương Đăng Quế từng được vua Tây Sơn phong tặng chức tước, nhờ công lao của các con mình. Vậy mà nay lại đặt ra vấn đề phong tước của triều Nguyễn cho những kẻ từng nhận chức tước của “ngụy”, thì quả là một sự kiện lớn, một ngoại lệ, một việc chưa từng xảy ra.
Thử xem, triều đình đã giải quyết thế nào?
Tất nhiên, có thể hủy bỏ hoàn toàn việc phong tặng. Nhưng làm vậy thì rõ ràng là chưa chiếu cố đến những công trạng lớn lao mà Trương Đăng Quế đã đóng góp cho đất nước và chưa thể hiện được mong muốn của Hoàng thượng. Song nếu cứ nhắm mắt tấn phong, thì chắc chắn là sẽ vấp phải sự đàn hặc của Ngự sử đài.
Bộ Lại đã đề xuất một cách dè dặt, cố đẩy quả bóng quyết định về phía nhà vua: “Hai đời cha và ông nội của Trương Đăng Quế đã nhận tước phong của ngụy, nhưng ông nội của Trương Đăng Quế, thì chưa từng làm quan cho ngụy, vậy có được phong hay không, xin tâu rõ và chờ Chỉ của Hoàng Thượng”.
Vua Minh Mệnh cũng tỏ ra lúng túng không kém, đành yêu cầu bộ Lại bàn kỹ với bộ Lễ, tham khảo luật lệ cổ của các vương triều trước đây, kể cả luật lệ Trung Quốc là nhà Minh, nhà Thanh, rồi đề xuất giải pháp hợp lý. Sau khi nghiên cứu, có lẽ đã tìm ra một vài trường hợp tương tự trong lịch sử cổ kim, bộ Lễ và bộ Lại thống nhất đề xuất phong tặng phẩm tước cho ông nội của Trương Đăng Quế. Đề xuất này được vua Minh Mệnh chuẩn y.
Điều này có một ý nghĩa đặc biệt. Nó chứng tỏ là mặc dù mang trên mình một lý lịch hết sức “đen tối”, nhưng bằng sự dứt khoát tư tưởng, một lòng một dạ ra sức phục vụ đất nước, cộng với tài năng đặc biệt, Trương Đăng Quế đã hoàn toàn chinh phục cả triều đình, nhất là đã chinh phục được vua Minh Mệnh.
Triều đại Minh Mệnh có lẽ là triều đại cường thịnh nhất của đất nước ta. Lúc đó biên giới Việt Nam mở rộng toàn cõi Đông Dương, bao gồm cả Ai Lao và Chân Lạp. Hoàng đế Minh Mệnh là một vị vua anh minh, mẫn tiệp và hết sức cương nghị. Vậy mà vị hoàng đế này đã phải khâm phục và yêu quý tài năng, đức độ cùng các cống hiến to lớn của Trương Đăng Quế. Vậy tài năng, đức độ và cống hiến của Trương Đăng Quế đã được thể hiện ra sao? Chúng tôi sẽ trở lại đề tài này trong phần nói về sự nghiệp lẫy lừng của Trương Đăng Quế.
 Cuộc đời ông, với những trường đoạn đầy biến ảo, không khác gì chuyện hoang đường. Mới năm trước, còn là một thư sinh mồ côi, nghèo khổ, mang trên mình cái lý lịch “chết người” đối với triều đại mới, năm sau ông đã được ra vào nơi cung cấm, trở thành Đông Cung bạn độc. Rồi từng bước thăng tiến theo thời gian, ông trở thành một vị quan lớn đầu triều, phẩm hàm ngang các bậc vương gia, quyền uy vang dậy khắp tám cõi. Được hai đời Tiên Đế kế tục nhau uỷ thác con côi, ông là vị phụ chính đại thần được vua Tự Đức tôn làm Trọng phụ.
VỚI NGHI ÁN TÀY ĐÌNH
Điều kỳ lạ tiếp theo của cuộc đời Trương Đăng Quế, chính là lúc quyền uy, danh vọng của ông đang ở tột đỉnh, thì ông lại nhất quyết từ giã triều đình. Điều gì đã khiến cho một con người lúc nào cũng coi việc phục vụ đất nước, phục vụ cái vương triều mà mình đã suốt đời cúc cung tận tụy, để đi đến quyết đình, muốn rũ áo từ quan, trở về với vùng quê nghèo khổ? Mà đó không phải là một ý muốn nhất thời, hoặc một kiểu hợm mình để được níu kéo. Ngược lại, nó thể hiện một ý chí mãnh liệt, được lặp đi lặp lại nhiều lần: Trong mười ba năm sau cùng của hoạn lộ, ông đã có đến sáu lần dâng sớ xin về hưu.
Muốn hiểu được phần nào tâm sự của ông, phải theo dõi quá trình lên ngôi của vua Tự Đức. Vua Tự Đức huý là Hồng Nhậm, vốn không phải là con trưởng. Con trưởng của vua Thiệu Trị chính là hoàng tử Hồng Bảo, bị vua cha Thiệu Trị chê là người phẩm hạnh kém cỏi, đam mê trụy lạc, không đủ tư cách làm vua. Khi lâm chung, vua Thiệu Trị thác cô cho tứ trụ đại thần mà đứng đầu là Trương Đăng Quế, phò tá Hồng Nhậm lên ngôi. Việc phế trưởng lập thứ ở bất cứ vương triều nào, cũng đều gây ra những hậu quả nhất định. Không được nối ngôi, Hồng Bảo tỏ ra căm giận, cùng phe cánh tiến hành bạo loạn lật đổ. Hậu quả tất yếu là nồi da xáo thịt, vô cùng thảm khốc. Cuộc binh biến thất bại, toàn bộ những kẻ âm mưu đều bị gia hình. Như vậy Trương Đăng Quế chính là người đứng mũi chịu sào về mọi diễn biến của tấn bi kịch cung đình thời Tự Đức. Phải chăng trong thâm tâm, ông cũng đã hết sức đau lòng, khi phải cáng đáng cái vai trò lịch sử hết sức cay đắng: vừa phải bảo vệ ngai vàng và sự ổn định cho Hồng Nhậm theo lời thác cô của Tiên Đế, vừa phải tiêu diệt chính những người thân của vua. Và chính trong bối cảnh đó, những lời đồn đại trong dân gian về nhân thân của vua Tự Đức, đã được phe chống đối tung ra. Luận điểm chính của những tin đồn này như sau:
1. Vua Tự Đức không phải là con của vua Thiệu Trị, mà là con riêng của Trương Đăng Quế, do tư thông với Thái hậu Từ Dũ sinh ra.
2. Cũng còn có một lời đồn đại khác, cho rằng Trương Đăng Quế đã dùng thủ đoạn tráo ấu chúa, đưa con ruột của mình là Trương Quang Đản vào cung thế chỗ cho hoàng nhi Hồng Nhậm, khi vợ ông và thái hậu Từ Dũ sinh con cùng ngày.
Cả hai luận điểm này, đều đã được tác giả Quốc Thái bác bỏ một cách hùng hồn trong bài báo: Vua Tự Đức là con ai? Luận điểm của tác giả Quốc Thái là rất thuyết phục:
- Trương Đăng Quế không thể nào tư thông với một vương phi trước thời điểm vua Tự Đức sinh ra năm 1829, vì một lẽ rất đơn giản: Trước năm 1829, Trương Đăng Quế chỉ giữ một chức quan nhỏ, năm 1830 mới được gia phong làm Tả thị lang bộ Công, cũng chỉ là một quan chức trung bình. Một viên quan nhỏ thì không thể nào lại đóng vai quyền thần, vào ra cung cấm như vào ra chính nhà mình để tư thông với một vương phi mới mười sáu tuổi, trong một cung đình mà kỷ cương chặt chẽ như cung đình của hoàng triều Minh Mệnh.
- Việc tráo đổi ấu chúa thì càng hoang đường một cách lố bịch: Vua Tự Đức sinh năm 1829, Trương Quang Đán sinh năm 1833, điều này có nghĩa là khi vua Tự Đức ra đời, Trương Quang Đán chưa có mặt trên cõi đời.
Mặt khác, ta có thể thấy được thủ đoạn và ý đồ chính trị của các tin đồn trên kia. Đó là dùng một mũi tên có thể bắn trúng hai con chim. Thứ nhất, hạ bệ uy tín chính trị của vua Tự Đức đối với bàn dân thiên hạ. Một người không phải giọt máu của vương triều, mà chỉ là sản phẩm của một cuộc thông dâm hèn hạ, hoặc tráo đổi gian xảo, thì không thể nào đủ tư cách làm vua, mà chỉ là một kẻ tiếm vị, chà đạp lên đạo lý, trở thành kẻ thù chung của thiên hạ.
Thứ hai, triệt hạ chỗ dựa về tinh thần của cả triều đình, khi kẻ trọng thần đứng đầu trăm quan, được Tiên Đế thác cô, lại dính líu vào một vụ án buôn vua bẩn thỉu.
Ở đây chúng ta sẽ xem xét vấn đề ở những khía cạnh khác với tác giả Quốc Thái. Đó là xem xét nhân cách những người liên quan.
- Nhân cách của một bà Hoàng thái hậu.
Theo chính sử Hoàng Triều Đại Nam thực lục, đức Hoàng thái hậu Từ Dũ, nhũ danh Phạm Thị Hằng là con gái của quan Lễ bộ thượng thư, Cần Chánh điện Đại học sĩ Phạm Đăng Hưng, là một người phụ nữ khiêm cung, có đức hạnh, chăm lo việc quản lý nội cung vô cùng chu đáo và dạy con rất nghiêm. Con bà, vua Tự Đức, cũng là một người con cực kỳ hiếu kính. Chính sử còn ghi lại, mặc dù đã lên ngôi, nhưng khi vua Tự Đức phạm lỗi, đi săn bắn trong rừng gặp nước lụt, không kịp về trong ngày giỗ Tiên Đế Thiệu Trị, đã biết lỗi nên dâng roi cho Thái hậu, và xin nằm xuống chịu đòn. Hàng trăm năm sau, người dân Việt vẫn còn ngưỡng mộ đức độ của bà, thể hiện bằng các công trình văn hoá xã hội mang tên Từ Dũ. Việc cố tình gán ghép một người phụ nữ có nhân cách cao như vậy vào tội lăng loàn, thông dâm, ngoại tình, chỉ làm lộ ra thêm những động cơ đê hèn của kẻ gán ghép mà thôi.
- Nhân cách của một vi đại thần đầu triều.
Bên Trung Quốc, đã từng có một câu chuyện buôn vua xảy ra dưới thời chiến quốc, được ghi lại tỉ mỉ dưới ngòi bút Tư Mã Thiên.
Đối chiếu hai con người Lã Bất Vi và Trương Đăng Quế, ta thấy rõ hai nhân cách gần như hoàn toàn trái ngược. Lã Bất Vi xuất thân là một con buôn, tìm cách đưa dòng máu của mình trở thành kẻ nối dõi Tần Vương, để đạt ngôi Tể tướng, với mục đích mưu cầu sự giàu sang sung sướng cho bản thân mình. Lã Bất Vi đã cố sống cố chết bám lấy vương triều Tần để thụ hưởng giàu sang và quyền lực, cho đến khi bị chính con ruột của mình giết chết bởi những hành vi đồi bại của mình.
Còn Trương Đăng Quế thì sao? Xuất thân từ một người học trò mồ côi, nghèo khổ, lý lịch có vấn đề, chỉ bằng chân tài thực học ông đã bước vào hoạn lộ. Cũng chính từ tài năng bẩm sinh kết hợp với sự cúc cung tận tụy của mình, ông có được sự tin phục của cả ba đời vua, và hai lần được Tiên Đế thác cô. Sự trọng thị mà vua Tự Đức dành cho ông là hoàn toàn dễ hiểu và vô cùng xứng đáng. Thế nhưng trên đỉnh cao quyền lực và sự vàng son ấy, ông lại nhất quyết rời bỏ triều đình. Đó là điều mà những người cỡ Lã Bất Vi không thể nào làm được.
Từ năm 1850 đến năm 1863, ông đã sáu lần dâng sớ xin về hưu, năm lần sớ của ông bị vua và triều đình bác bỏ. Nỗi đau đến từ những tranh chấp cung đình có thể chỉ là một phần trong tâm sự của ông. Ông muốn rời bỏ triều đình cũng còn vì một nỗi đau khác, nỗi đau cuối đời của một nhà chính trị và quân sự, nhìn thấy cái cơ đồ mà mình đã đem hết tinh lực cả đời vun đắp, lại sắp sửa rơi vào tay ngoại bang.
Lá sớ thứ sáu dâng vua năm ông đã bảy mươi mốt tuổi, vừa qua tuổi cổ lai hy, được vua miễn cưỡng chấp thuận. Đó cũng là thời điểm mà quân Pháp vừa thôn tính ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, và triều đình phải ký hoà ước Nhâm Tuất, công nhận quyền cai trị của thực dân Pháp. Tháng ba năm 1863, ông từ giã kinh đô, quay lại miền quê xứ Quảng, vẫn với căn nhà tranh, như bốn mươi ba năm trước, ngày ông cất bước lên đường.
Chỉ hơn một năm sau đó, Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định, người bạn chiến đấu chống Pháp cùng chí hướng, mà ông từng ám trợ khi còn ở triều đình, đã sa cơ tuẫn tiết. Bảy tháng sau, ông cũng từ trần trong gian nhà tranh vách đất của tổ phụ năm xưa.
Vua Tự Đức ra lệnh bãi triều ba ngày - một hình thức quốc tang thời đó - và thực hiện di chiếu của Tiên đế, khi mãn tang, đưa ông vào thờ ở Thế Miếu.
Tác giả Ưng Trình đã viết về Trương Đăng Quế như sau:
“Tiên sinh làm Tể tướng hai mươi năm. Cung hàm đến chức Thái sư. Tước phong đến Quận công. Điện hàm đến Cần Chánh. Thế mà ngày về hưu, tại làng chỉ có một nóc nhà tranh. Trước cửa nhà, tiên sinh để một cặp câu đối:
“Cố quận tự liên vô biệt nghiệp,
Thử sinh nguyên dĩ hứa vi thần”
Dịch: 
“Quê nhà không có cơ đồ sẵn,
Giúp nước đâu màng chút lợi riêng.”
Đó chính là nhân cách cao vời của Trương Đăng Quế.
Người xưa thường nói “Khi đậy nắp quan tàì, mới có thể luận định về một con người” (Cái quan định luận). Nhân cách của ông tỏa sáng, nên sự ra đi của ông đã tạo ra bao xúc động lòng người, nhất là trong lòng kẻ sĩ. Vua Tự Đức từng có câu thơ tỏ lòng ngưỡng mộ đối với các danh sĩ đương thời:
“Văn như Siêu, Quát, vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy, thất thịnh Đường”.
Một trong bốn đại danh sĩ đó chính là Tuy Lý Vương, tác giả bài văn bia “Thần Đạo Bi”, khắc trên bia mộ của Trương Đăng Quế, tại làng Mỹ Khê, Quảng Ngãi, trong đó có câu:
“Cầu chi thiên cổ, duyệt sở hãn kiến”
Nghĩa là: “Tìm cả nghìn xưa, cũng không thấy có người được như vậy”.
Phải chăng đó chính là sự đánh giá đúng mực về cuộc đời kỳ lạ của Trương Đăng Quế?
ĐẾN SỰ NGHIỆP LẪY LỪNG
Trương Đăng Quế đã chứng tỏ là một người tài kiêm văn võ trong công cuộc trấn Tây, bình Nam, định Bắc, vươn ra biển Đông mà sự nghiệp lẫy lừng của ông còn tác động cho đến ngày nay, nếu không nói là còn ảnh hưởng lâu dài về sau này. Ông cũng là người có sách lược chống Pháp có thể gọi là thực tế hơn so với những cùng thời với ông.
Tuy nhiên, trước khi nói đến sự nghiệp của một con người, nhất là khi người đó là một con người đa diện, đã từng giữ những vai trò quan trọng trong một giai đoạn lịch sử của đất nước, chắc chắn ta phải quan tâm đến quan điểm chính trị trước tiên. Bởi lẽ quan điểm chính trị của một con người đóng vai trò quan trọng như Trương Đăng Quế ảnh hưởng quyết định đến sự nghiệp của người ấy và quyết định sự nghiệp của người ấy thường tác động đến cả xã hội thời bấy giờ, nếu chưa muốn nói là tác động đến cả chiều hướng phát triển của đất nước và lịch sử.
QUAN ĐIỂM CHÍNH TRỊ CỦA TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ.
Xuyên suốt cuộc đời làm quan của Trương Đăng Quế, trải qua ba đời vua Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức, dấu ấn về ông để lại là vô cùng rõ nét. Dấu ấn này sở dĩ có được, mặc dù ông mang trên mình một lý lịch không thích hợp với triều đình mới, là nhờ ông đã có một quan điểm và lập trường chính trị dứt khoát ngay từ buổi đầu bước chân vào chốn quan trường.
Trước sau, suốt đời ông một lòng một dạ phụng sự triều đình nhà Nguyễn: Đây là điểm mấu chốt và cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp chính trị của ông. Là con của một viên quan tri phủ triều Tây Sơn, cháu của một tướng lĩnh Tây Sơn, đã tử tiết vì triều đình cũ, song tư tưởng chính trị của ông rất dứt khoát. Ông không hề tỏ ra tiếc nuối hay mong muốn phục hồi triều đại cũ, và nói theo ngôn ngữ thời thượng, ông là người đã cương quyết mà ngày nay thuật ngữ chính trị gọi là “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”. Sử liệu và cả thơ văn của ông để lại đều không có một bằng chứng nào cho thấy ông từng mơ màng về cái chế độ mà cha và chú ông đã hết lòng phụng sự. Ông luôn chứng tỏ sự dứt khoát của một con người lúc nào cũng một lòng một dạ với triều đình mới, và đặc biệt ông luôn nặng lòng với những người dân thấp cổ bé miệng, ngay cả những người thuộc dân tộc ít người. Về phương diện này, ông có thể đại biểu cho tầng lớp Nho học, đã thấm nhuần tư tưởng Mạnh Tử: “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Dòng tư tưởng này cho rằng đất nước là của nhân dân, chứ không phải của riêng triều đại nào, do đó phục vụ triều đại nào không quan trọng bằng việc phục vụ ai và phục vụ thế nào. Mặt khác, ông cũng đã ý thức rất rõ về sự kết thúc vĩnh viễn vai trò lịch sử của nhà Tây Sơn, một triều đại từng có những khoảnh khắc rực rỡ hào quang với những chiến công lừng lẫy, song lại dung chứa nhiều nhược điểm nội tại hết sức trầm trọng. Ông muốn làm một kẻ sĩ thức thời, như đã từng thấm nhuần tư tưởng Nho gia: “Thức thời thế dĩ vi tuấn kiệt”.
Chính nhờ sự dứt khoát tư tưởng như thế, cộng với một năng lực đặc biệt không chỉ về phương diện văn chương, mà trong quá trình làm quan của ông, từ một chức quan nhỏ (Hành tẩu bộ Lễ), chỉ trong vòng hơn mười năm, ông đã tạo được sự chú ý của vua Minh Mệnh, để được để bạt vào Nội các, rồi trở thành Thượng thư bộ Binh. Ở cương vị mới này, ông đã có điều kiện để đóng góp về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế và văn hoá. Thành tích xuất sắc trên cả hai phương diện văn trị và võ công, đã biến ông thành cánh tay đắc lực của hoàng đế Minh Mệnh, và là chỗ dựa của cả hai triều vua kế tục Minh Mệnh là Thiệu Trị và Tự Đức.
Công cuộc trấn Tây, bình Nam, định Bắc, vươn ra biển Đông của Trương Đăng Quế cụ thể như sau:
TRẤN TÂY: DẸP LOẠN CỨU DÂN, VẠCH SÁCH LƯỢC TRẤN TÂY THÀNH.
Về chính trị, triều đại Minh Mệnh được coi là thời cực thịnh của nhà Nguyễn, thế đứng chính trị đã trở nên vững chắc và biên giới quốc gia mở rộng hết cõi Đông Dương. Tuy nhiên, thời gian trị vì của Minh Mệnh cũng ghi dấu nhiều biến loạn nhất. Trong các biến loạn dưới thời Minh Mệnh, thì những biến cố nghiêm trọng đều xảy ra đúng vào giai đoạn Trương Đăng Quế được cử làm Thượng thư bộ Binh, sung Cơ mật viện đại thần, tức là đang chấp chưởng binh quyền để đối phó với thù trong giặc ngoài và cũng là nhân vật chính chịu trách nhiệm trước vua và triều đình về sự an nguy của đất nước.
Năm 1832, Trương Đăng Quế được gia phong Thượng Thư Bộ Binh, kiêm lãnh ấn Đô Sát viện, thì cũng chính năm đó, Lê Văn Khôi nổi lên chiếm thành Phiên An (tức Gia Định thành), giết Bố chính Bạch Xuân Nguyên, và đem quân đánh chiếm các vùng phụ cận, quyết tâm lập riêng một cõi biên thùy, chống lại triều đình nhà Nguyễn. Lê Văn Khôi đã tranh thủ được sự ủng hộ của các thừa sai Thiên Chúa giáo và một số lượng lớn giáo dân, nên thanh thế mỗi ngày một trở nên hùng mạnh. Trong khi đó, ở phía Tây Thanh Hoá, dư đảng của Lê Duy Lương, mà sau này là Lê Duy Hiển vẫn ngấm ngầm liên kết với các châu huyện miền núi âm mưu nổi dậy. Mặt khác, quân Xiêm nắm được tình hình nội bộ của nước ta, biết chắc triều đình Huế đang bối rối trong việc đối phó với Lê Văn Khôi, đã đem quân đánh chiếm Nam Vang, thách thức uy quyền Đại Việt. Vua Chân Lạp phải chạy sang cầu cứu nước ta.
Là Thượng thư bộ Binh, tức bộ trưởng Quốc phòng ngày nay, Trương Đăng Quế đã chứng tỏ khả năng vận trù quyết sách, ngồi trong tướng phủ, điều binh ngoài ngàn dặm để ứng phó với các biến loạn, vãn hồi kỷ cương trật tự cho đất nước. Dưới sự cắt đặt của triều đình, do Thượng thư bộ Binh cầm trịch, các tướng lãnh Nguyễn Xuân, Phạm Hữu Tâm tập trung đối phó với Lê Văn Khôi. Trương Minh Giảng, Lê Đại Cương được giao giải quyết vấn đề Chân Lạp. Cả hai tập đoàn quân này đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Quân Xiêm bị đuổi chạy khỏi đất Chân Lạp, vua Chân Lạp tiếp tục thần phục nước ta. Đến năm 1835, sau ba năm làm chủ thành Phiên An, loạn đảng Lê Văn Khôi đã hoàn toàn bị dẹp tan.
Từ sau việc quân Xiêm thừa cơ hội triều đình Huế bận đối phó với Lê Văn Khôi, tập kích Nam Vang với hy vọng tranh giành quyền cai trị của Đại Việt, Trương Đăng Quế đã vạch ra sách lược bình Tây, còn gọi là thế trận Trấn tây thành.
Ông ra lệnh thành lập ba căn cứ quân sự mà thành phần chủ chốt là biền binh Việt ở Nam Vang, Battambang và Tây Ninh, để phòng thủ và cứu ứng lẫn nhau. Các vị trí khác đi sâu vào lãnh thổ Chân Lạp như Tonlesap, Banon, Lovea, Kamport, Poipet thì ông cho quân Việt Nam kết hợp với quân đội Chân Lạp để thành lập các đơn vị trú phòng. Đồng thời, ông ra lệnh tăng cường vũ trang cho các đơn vị quân đội Chân Lạp. Ông chủ trương xây dựng Hà Tiên, Châu Đốc và An Giang thành khu hậu cần, với việc cắt đặt Tổng đốc An Giang, Hà Tiên chịu trách nhiệm chính trong việc tiếp ứng cho quân Việt đóng ở Chân Lạp. Mặt khác, ông tìm cách thanh lọc hàng ngũ vua quan Chân Lạp, người nào trung thành với Đại Việt khi quân Xiêm tấn chiếm thì được trọng thưởng. Những kẻ thân Xiêm thì bị sa thải và trừng phạt. Yêu cầu vua Chân Lạp tuyệt giao với Xiêm. Đích thân Trương Đăng Quế đã lặn lội khắp Nam Kỳ lục tỉnh và Chân Lạp để nắm vững tình hình. Phan Thanh Giản từng tỏ ra khâm phục về những hiểu biết sắc sảo của Trương Đăng Quế đối với vùng đất Chân Lạp và thủy Chân Lạp tức Nam Kỳ lục tỉnh:
“Vả lại, tiên sinh từng trải, nắm vững vùng đất lục tỉnh Nam Kỳ như lòng bàn tay, nhìn xa trông rộng, xác định những nơi hiểm yếu, tâu xin cho xây dựng thành trì ở Tây Ninh. là điều mà tôi tuy là người gốc Nam Bộ, thật tình cũng chưa từng nghĩ đến”. (Phan Thanh Giản - Tựa Trương Quảng Khê Tiên sinh tập, tr. 18).
Khi kinh lý Nam Vang, ông đã lưu lại bài thơ viết từ lầu Trấn Tây, với hai câu kết nói lên ý chí hào hùng:
Đăng lâm trực dục cùng du mục
Vạn lý giang sơn nhất vọng thu
Dịch nghĩa:
Lên cao đưa mắt nhìn toàn cõi
Vạn lý thu về nước Việt đây.
BÌNH NAM: VÀO NAM KINH LƯỢC, BÌNH ỔN DÂN SINH Ở LỤC TỈNH NAM KỲ
Vùng thủy Chân Lạp, từ khi trở thành lục tỉnh Nam Kỳ, thuộc về giang sơn Đại Việt, việc cai trị vẫn chưa đi vào nề nếp. Ruộng đất vẫn chưa có địa bạ, do đó tình trạng tự do lấn chiếm, khai thác trở nên bừa bãi, cường hào ác bá nổi lên khắp nơi. Ý thức được nguy cơ dẫn tới hỗn loạn, năm 1836, vua Minh Mệnh cử Binh bộ Thượng thư Trương Đăng Quế và Lại bộ Thượng thư Nguyễn Kim Bảng làm Kinh lược sứ sáu tỉnh Nam Kỳ.Tuy nhiên, Nguyễn Kim Bảng khi vào đến Nam Kỳ đã lâm trọng bệnh và qua đời bốn tháng sau đó, Trấn tây đại tướng quân Trương Minh Giảng được đề cử thay thế. Nhiệm vụ trọng tâm của đoàn Kinh lược là hoàn thành việc đo đạc để thành lập sổ địa bạ và đinh bạ cho vùng lục tỉnh.
Đây là một công tác vô cùng khó khăn, bởi lẽ ruộng đất lục tỉnh Nam Kỳ hết sức rộng lớn và dân tình thì phức tạp mọi mặt. Chế độ tự do khai hoang đã sản sinh một tầng lớp cường hào, theo kiểu mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, tha hồ lấn chiếm ruộng đất và ức hiếp dân đen. Chúng cấu kết với một số quan lại kém phẩm chất để tha hồ chiếm đoạt vơ vét. Như vậy việc Kinh lược không chỉ đơn thuần giải quyết nhiệm vụ vua giao là hoàn thành sổ địa bạ và sổ đinh cho vùng đất rộng lớn này, mà còn phải kết hợp giải quyết nhiều nhiệm vụ chính trị phức tạp.
Về mặt kỹ thuật, việc đo đạc ruộng đất cần đến toán pháp. Thế nhưng cái học từ chương đã sản sinh một tầng lớp thư lại chỉ sính văn chương. Để có thể hoàn thành nhiệm vụ, đoàn Kinh lược của Trương Đăng Quế đã phải mở các lớp tập huấn về toán pháp và kỹ thuật đo đạc.
Một khối lượng công việc khổng lồ như thế, với những phương tiện di chuyển thô sơ chỉ có đi bộ, đi ngựa hoặc thuyền, vậy mà chỉ mất có 5 tháng, đoàn Kinh lược đã hoàn thành nhiệm vụ, đo đạc và thiết kế xong địa bạ và đinh bạ cho 6 tỉnh Nam Kỳ. Nếu liên hệ với việc cấp sổ đỏ cho người dân ngày nay đã kéo dài từ thập niên này qua thập niên khác, chúng ta không thể nào không thán phục cái kỳ tích về địa chính vô tiền khoáng hậu của đoàn Kinh lược Trương Đăng Quế, thực hiện tại Nam Kỳ lục tỉnh từ tháng 2 đến tháng 7 năm 1836. Chính người Pháp sau này, khi cai trị Nam Kỳ cũng tỏ ra kinh ngạc về mức độ chính xác của sổ địa bạ được lập bởi đoàn Kinh lược Trương Đăng Quế, đã chính thức đưa vào sử dụng.
Nhờ sự thành công của chuyến Kinh lược thần tốc này, triều đình đã giải quyết được một số vấn đề gốc rễ:
- Ruộng đất đã có cương vực, địa giới rõ ràng, kẻ mạnh không thể bá chiếm, kẻ yếu được chính quyền bảo hộ quyền tư hữu. Thuế má phân minh, giải quyết được việc bao chiếm ruộng đất rồi trốn thuế. Nhờ vậy tuy mức thuế đã được khoan giảm, mà tổng thu của triều đình lại tăng đến ba lần so với trước đây.
- Loại trừ được những quan lại tham ô biến chất, câu kết với bọn cường hào để bá chiếm những đất đai mà người dân đã bỏ công khai hoang. Người nông dân nghèo thấp cổ bé miệng đã được nhà nước và pháp luật bảo vệ quyền tư hữu, phấn khởi dốc sức khai hoang, khiến cho diện tích trồng trọt mỗi ngày thêm gia tăng với tốc độ nhanh chóng.
- Phổ biến chính sách khuyến nông, đặt ra luật lệ thưởng phạt phân minh đối với quan lại địa phương theo mức tăng giảm ruộng đất canh tác. Nhờ đó diện tích sản xuất tăng nhanh và bền vững, giải quyết được vấn đề lương thực cho cả nước.
Một đóng góp quan trọng nữa là nhờ thành công của đoàn Kinh lược Trương Đăng Quế mà lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã hoàn thành được bản địa đồ chi tiết rõ ràng nhất, đó là bản "ĐẠI NAM THỐNG NHẤT TOÀN ĐỒ", một bản địa đồ có ghi rõ hải phận bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
ĐỊNH BẮC, RA BẮC ĐIỀU BINH,
BÌNH ĐỊNH TÂY THANH HOÁ.
Dưới sự cắt đặt của Thượng thư bộ Binh, Cơ mật viện Đại thần Trương Đăng Quế, đến cuối năm 1835, các đạo quân phía nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bình tây và dẹp yên loạn đảng Lê Văn Khôi.
Duy có mối hiểm họa Lê Duy Hiển ở miền Tây Thanh Hoá vẫn còn là nỗi lo lớn của triều đình. Cuộc khởi loạn phát triển rất mạnh, triều đình đã điều động quan quân tám tỉnh: Thanh Hoá, Hưng Hoá, Ninh Bình, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, cùng các danh tướng Tạ Quang Cự, Phạm văn Điển, Lê Văn Đức, Hà Duy Phiên mà vẫn không cải thiện được tình hình. Vua Minh Mệnh hết sức lo lắng, mặc dù biết rõ Trương Đăng Quế vừa Kinh lược sáu tỉnh Nam Kỳ mới về, vẫn còn mỏi mệt, vẫn quyết định điều ông làm Kinh lược sứ, với hy vọng là việc trực tiếp điều hành sách lược của ông, sẽ giúp quân triều đình giành lại thế chủ động. Ngày hai mươi hai tháng chạp năm 1836, chỉ còn một tuần lễ nữa là Tết Nguyên Đán, Trương Đăng Quế, với tư cách Thượng thư bộ Binh, Cơ mật viện Đại thần giữ quyền Kinh lược sứ, lại đích thân ra Thanh Hoá, trực tiếp đối đầu cùng quân giặc.
Trương Đăng Quế, một mặt điều động các cánh quân thít chặt vòng vây, một mặt tâu xin với vua mở ra chính sách chiêu an để lôi kéo những người miễn cưỡng hoặc bị thúc ép theo giặc. Khi thấy hàng ngũ giặc đã nao núng vì có nhiều người bỏ trốn, Trương Đăng Quế lệnh cho các cánh quân của Đề đốc Tôn Thất Bật, Lãnh binh Thanh Hoá Nguyễn Văn Kỳ, Phó Kinh lược sứ Nguyễn Văn Giai và Kinh lược Tạ Quang Cự hợp đồng tiến đánh. Giặc tan rã phải rút vào vùng rừng núi hiểm trở.
Trương Đăng Quế lại tâu vua, kết hợp chính sách chiêu an cùng chính sách bình định: quân tướng giặc ra hàng được tha tội, ai hướng dẫn quan quân lùng bắt giặc, sẽ được trọng thưởng, thành lập xã thôn ở vùng thượng du, cử ra lý trưởng, làm sổ đinh sổ điền, dùng người thượng du để cai trị người thượng du, tạo ra thế sâu rễ bền gốc. Vua Minh Mệnh y tấu và ban khen sự nhìn xa trông rộng của Trương Đăng Quế.
Thế là trong vòng ba tháng,Trương Đăng Quế vừa đánh tan quân giặc, vừa thiết lập nền móng cai trị ở một vùng thượng du rộng lớn ở phía tây Thanh Hóa.
VƯƠN RA BIỂN ĐÔNG, XÁC LẬP CHỦ QUYỀN
ĐẠI NAM Ở BIỂN ĐÔNG
Một đóng góp quan trọng nữa là nhờ thành công của đoàn Kinh lược Trương Đăng Quế mà lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã hoàn thành được bản địa đồ chi tiết rõ ràng nhất, đó là bản "ĐẠI NAM THỐNG NHẤT TOÀN ĐỒ", một bản địa đồ có ghi rõ hải phận bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Côn Đảo. Thời bấy giờ Hoàng Sa, Trường Sa là hai quần đảo có rất nhiều đảo nhỏ, chưa có người ở. Còn Côn Đảo thì rất hoang vu, mặc dù đất đai phong phú. Trương Đăng Quế đã công cán bằng thuyền ra tận các đảo, và nhận thức được tầm quan trọng về vị trí xung yếu của các đảo này trên biển Đông, ông tâu xin vua Minh Mệnh, hàng năm đưa quân ra đồn trú tuần tra vùng biển Vạn Lý Trường Sa (tức Trường Sa, Hoàng Sa ngày nay), và trấn giữ Côn Đảo. Nhờ vị trí đẹp, đất đai màu mỡ, Côn Đảo trở thành hòn đảo thu hút di dân và nhanh chóng trở nên trù phú.
Ngày nay, Côn Đảo đã trở thành đảo Ngọc, còn khi tranh chấp về chủ quyền của các quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa, Việt Nam đã đưa ra các chứng tích về việc quân đội triều Nguyễn từng đồn trú trên các hòn đảo lớn của hai quần đảo này. Đây là những bằng chứng hết sức thuyết phục, không thể tranh cãi, bởi lẽ sự đồn trú của quân đội Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã trở thành một quá trình liên tục từ thời Minh Mệnh đến thời thuộc Pháp và Mỹ ngụy.
SÁCH LƯỢC CHỐNG PHÁP THỰC TẾ, TRI KỶ TRI BỈ.
Khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha bắt đầu cuộc tấn công trực diện vào Việt Nam, bằng cuộc nổ súng vào thành phố Đà Nẵng năm 1858, thì Trương Đăng Quế đang giữ vai trò gì ở triều đình? Từ năm 1850, ông đã nhiều lần dâng sớ xin nghỉ hưu, song vua Tự Đức cùng đình thần không chấp nhận. Ông vẫn giữ vai trò Thượng thư bộ Binh, Cơ mật viện đại thần đến năm 1855.
Là người phụ trách việc quân, ông thừa biết dã tâm của thực dân Pháp, và đã tiên lượng trước sau gì triều đình cũng phải đối phó với sự xâm lược trực tiếp của bọn Tây dương. Sách lược mà Trương Đăng Quế đưa ra để đối phó với giặc Pháp, ngay từ thời Thiệu Trị, đã rất rõ nét, đó là sách lược vừa đánh vừa đàm. Đây là chiến lược được xây dựng trên cơ sở tri kỷ tri bỉ của Binh pháp Tôn Tử. Ai cũng có thể thấy rõ, xét về tương quan lực lượng, triều đình Huế không phải là địch thủ của thực dân Pháp với trang bị và vũ khí hiện đại. Trong tình hình như thế, khi quân Pháp chưa lộ rõ dã tâm xâm chiếm nước ta, triều đình đã có một đối sách mềm dẻo, đó là nhượng bộ những gì chúng đòi hỏi mà không phương hại đến quốc thể. Chẳng hạn, năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), thuyền buôn Pháp đến xin thông thương và truyền đạo Gia Tô. Khi vua hỏi ý triều thần, Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản đồng tâu xin cho phép thông thương, nhưng phải tăng cường phòng bị các nơi hiểm yếu, nhất là ở ven biển, để đề phòng biến cố. Với chiến lược này, triều đình Huế đã có một thời gian yên ổn để lo việc phòng bị. Nếu biết tranh thủ thời cơ, tìm cách canh tân đất nước, tiếp cận với khoa học kỹ thuật phương tây, thì khả năng tránh được sự thôn tính của thực dân Pháp, giống như Nhật Bản đã làm, là điều hoàn toàn có thể.
Khi liên quân Pháp -Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng 1858, và sau đó xâm chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thì Trương Đăng Quế không còn là Thượng thư bộ Binh. Vai trò của ông ở triều đình lúc đó chỉ là vai trò của một lão thần được vua Tự Đức ưu ái giữ lại làm tư vấn. Đối với việc quân Pháp liên kết với quân Chân Lạp để nổi dậy chống Việt Nam năm 1860, ông đề ra sách lược cử Nguyễn Tri Phương tấn công để dẹp yên Chân Lạp, sau đó mới dồn sức đánh Pháp. Vua Tự Đức nghe theo. Tuy nhiên, Nguyễn Tri Phương, với tư cách Tổng thống quân vụ đại thần, đã chần chừ không thực hiện kế hoạch. Sau khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ rơi vào tay quân Pháp, và hòa ước Nhâm Tuất được ký kết, triều đình quyết định thuyên chuyển Trương Định về Phú Yên. Nhân dân ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường nổi lên chống Pháp, tôn Trương Định làm Bình Tây Đại Nguyên Soái, mở đầu phong trào chống Pháp ở Nam Bộ. Phó Đô Đốc Hải quân Pháp Bonard đã có một bức thư gửi bộ Ngoại giao Pháp, trong đó hằn học kết án Trương Đăng Quế cầm đầu phe chủ chiến ở triều đình, ngấm ngầm ám trợ Trương Định, cung cấp khí giới quân nhu và cả ấn tín để Bình Tây Đại nguyên soái đánh Pháp. Điều này là có thật và dễ hiểu khi cả hai người, Trương Đăng Quế và Trương Định, đều là những người cùng một quê hương xứ Quảng, hai nhà chỉ cách nhau có một cánh đồng và cùng một ý chí là chống Pháp cứu nước. Chỉ tiếc là cuộc kháng chiến của Trương Định quá ngắn ngủi vì bị phản bội, và ông phải tử tiết năm 1864. Năm tháng sau Trương Đăng Quế cũng vĩnh biệt cõi đời.
Có lẽ, nỗi đau cuối đời lớn nhất của ông là phải rời bỏ cuộc chơi, trong khi tình hình đất nước đang dần dần đi vào ngõ cụt. Ông đã đến với cuộc đời này, đã cống hiến trọn vẹn tâm lực của mình để phục vụ đất nước và xây dựng triều đình nhà Nguyễn. Khi ông còn đang chấp chưởng binh quyền, thì mặc dù đã hiện diện nguy cơ xâm lược đến từ giặc Pháp, song đất nước vẫn bình yên, uy quyền quốc gia vẫn được tôn trọng, thậm chí bờ cõi còn được mở rộng khắp Đông Dương. Vậy mà ngày ông về hưu, thì một phần lãnh thổ quốc gia đã bị xâm chiếm thô bạo, trong khi triều đình hoàn toàn bất lực. Với tầm nhìn sắc sảo của một nhà chính trị và quân sự lỗi lạc, ông thừa biết điều gì sẽ xảy ra trong một tương lai rất gần. Những người bạn chiến đấu của ông như Trương Định, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, mỗi người một kiểu, đã, đang và sẽ phải dùng cái chết của mình để đền nợ nước. Ông còn có thể làm gì được cho đất nước và nhân dân của mình trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng, khi mình đã là một người chuẩn bị đi về thế giới bên kia!
TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ VÀ SỰ NGHIỆP VĂN HÓA
“Văn hóa là những gì còn lại, sau khi người ta đã quên tất cả”, câu nói của một nhà văn Pháp nổi tiếng, đã diễn tả cái nội hàm cơ bản nhất của từ văn hóa.
Những gì Trương Đăng Quế để lại, tự bản thân nó đã là một di sản văn hoá, từ cách tiếp cận cuộc đời, hành xử với tha nhân, đạo đức trong cuộc sống riêng tư, cho đến những công nghiệp to lớn về chính trị, quân sự, kinh tế và giáo dục. Đó là chưa tính đến di sản văn học với nhiều tác phẩm giá trị mà tiêu biểu là Trương Quảng Khê Tiên sinh tập, do Tùng Thiện vương Miên Thẩm sưu khảo, cho khắc mộc bản và in ra vào năm Tự Đức thứ mười (1857)
Ông làm thơ như người ta tham dự một trò chơi trên con đường đời mà ông đã đi qua. Thơ ông có đủ các sắc màu lung linh của cuộc sống, từ những rung động trước phong cảnh tươi đẹp của mọi miền đất nước, đến tình cảm thắm thiết đối với quê hương và những người thân yêu ruột thịt. Từ những ưu tư về bản thân hay thời cuộc, đến sự thán phục hay phê phán về những nhân vật lịch sử của mọi triều đại. Ông đặt tên cho tập thơ của mình là “Học văn dư tập”, (khi san định Miên Thẩm đặt thêm tên tạp thơ này là “Trương Quảng Khê tiên sinh tập”) với sự khiêm tốn chân thành của kẻ sĩ, chỉ học văn sau khi thực hành chu toàn cái đạo làm người. (Sách Luận ngữ – thiên Học nhi có câu: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực tắc dĩ học văn”(Người quân tử ở nhà thì giữ chữ hiếu, ra ngoài biết tôn trọng người khác, thương yêu mọi người, gần gũi bà con họ hàng, làm được những điều ấy, mới nói đến chuyện học văn).
Hầu hết di cảo của Trương Đăng Quế đều được viết bằng chữ Hán, kể cả thơ. Đây là một điều mà chúng ta phải mở ra một dấu ngoặc. Nếu so sánh về mức độ đồ sộ thì tác phẩm của Trương Đăng Quế không thua kém bất cứ nhà thơ Việt Nam nào ở thế kỷ mười chín. Song, chúng ta có thể cảm nhận rằng, sự hiểu biết và đánh giá của người đời sau đối với thơ ông, là hết sức hạn chế. Nguyên nhân cơ bản là trong thời buổi suy tàn của Hán học, chỉ có các tác phẩm viết bằng văn Nôm, mới có cơ may được xem xét và thẩm định đúng với giá trị đáng có. Điển hình là ai cũng biết Truyện Kiều của Nguyễn Du, song các tác phẩm chữ Hán của thiên tài này, liệu có mấy người biết đến? Một vấn đề liên quan sâu sắc đến việc thẩm định văn học chính là việc dịch thơ. Việc dịch thơ đòi hỏi, bên cạnh khả năng dịch thuật ngôn ngữ, người dịch phải có một tâm hồn đồng điệu, cùng rung cảm với tác giả về mỗi thể tài, và nhất là trình độ diễn đạt ngôn ngữ phải tương xứng với ý đồ của tác giả. Điều này thật không dễ dàng. Nếu không có Đoàn Thị Điểm, chắc chắn đến thế kỷ hai mươi, đã không còn mấy người biết đến Chinh Phụ Ngâm và Đặng Trần Côn.
Về phương pháp, như Trương Đăng Quế viết trong Lời Nói Đầu của tác phẩm “Học văn dư tập”, tình yêu đối với thơ đã có trong ông từ thuở còn thơ ấu, rồi dần dà theo năm tháng, cùng với việc hấp thu kiến thức trên đường học vấn, ông có cơ hội tìm hiểu các phép tắc, tiêu chuẩn của các tác gia, để cuối cùng ông kết luận: “… Tôi nhận ra rằng, chung quy không ngoài hai chữ tánh linh. Cho nên làm thơ, nói cho cùng là không nên nương tựa vào cửa nhà người khác. Ý nảy ra là viết liền, chưa nói chi đến chỗ cao sâu, nhưng được cái cốt cách riêng…”.
Thực ra, để đi đến kết luận này, ông đã trải qua một quá trình không đơn giản. Ông đã phải: “… Kẻ xướng người hoạ, cùng nhau đẽo gọt mài dũa, truy tìm tận gốc, chắt lọc cho ra cái cốt lõi. Nhờ đó mà sành sỏi thơ văn của các danh gia qua các triều đại; từ thời Tấn, Ngụy, lưỡng Hán trở về trước, tôi đều ghi chép cẩn thận, không để sót một bài nào”. (Thơ Trương Đăng Quế, Lời nói đầu, tr. 11).
 Ngày nay, người ta gọi phương pháp của Trương Đăng Quế thuộc trường phái thơ Tự nhiên chủ nghĩa (Naturalism). Vì tự nhiên nên có thể lột tả được xúc cảm và tâm hồn của người thơ qua từng dữ kiện. Trương Đăng Quế gọi đó là tánh linh, là cốt cách. Còn văn học đương đại gọi đó là bản sắc.
Thật kỳ lạ, một vấn đề còn đang được tranh luận như là một trong các trào lưu văn học đương đại, thì thực tế đã được hình thành và phát triển trong tác phẩm của một nhà Nho thế kỷ thứ mười chín.
 Lương Khê Phan Thanh Giản, vị Tiến sĩ khai khoa của đất Nam Kỳ, từng nhận xét về cái cốt cách nhà thơ của Trương Đăng Quế: “Tại kinh đô, ai cũng bảo rằng tiên sinh là bậc đáng kính, đứng đầu giới tao nhã. Trong những cuộc tương hội của giới mũ áo nơi văn đàn, thì tiên sinh lúc nào cũng làm.người chủ trì”. (Lương Khê Phan Thanh Giản, Thơ Trương Đăng Quế, Tựa, tr.9).
Song có lẽ người hiểu rõ nhất tâm hồn, cốt cách thơ Trương Đăng Quế trong số những người đồng thời với ông, không ai khác hơn là Tùng Thiện vương Miên Thẩm. Vị Hoàng thân này là một đại danh sĩ của đất đế đô, có mặt trong nhóm bốn người mà Tự Đức từng có thơ ca ngợi:
Văn như Siêu, Quát, vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường
Tùng Thiện vương đã dõi theo dấu chân thơ của Trương Đăng Quế, hiểu rõ ngọn ngành tâm hồn nghệ sĩ thấp thoáng bên trong cái vỏ ngoài của một đường quan hết lòng vì sự nghiệp của triều đình. Có như vậy, Tùng Thiện vương mới cảm thụ được những ý thơ tự nhiên không gọt dũa của Trương Đăng Quế:
“Chưa từng gọt chữ, dũa câu, mà uyển chuyển tựa đường bay viên đạn. Lời lẽ nào trung nào hiếu, ý tưởng đủ cả chung cả riêng.”
Miên Thẩm, Thơ Trương Đăng Quế, tr. 558
Tùng Thiện vương thực tình khâm phục cái cốt cách thanh cao trong thơ Trương Đăng Quế, bao quát trong những điều đơn giản bình thường là những ý tứ sâu xa:
“Trong cái nhỏ mà nhìn thấy cái vô biên, như giấu quả núi to trong hạt cải mầm nhỏ xíu; kiếm chút nhàn trong công việc bận rộn, làm thơ văn chép đầy trên giấy hoa đàm. Hà Tông Quyền liếc xem mà quên bước. Phan Thanh Giản nhác thấy hoá ngẩn ngơ.”
Miên Thẩm, Thơ Trương Đăng Quế, tr. 558
Người đời sau không ai không ngạc nhiên về sự đa tài của Trương Đăng Quế. Xuất thân bằng con đường khoa bảng Nho học, việc ông đảm đương các chức trách của triều đình cần đến khả năng văn học, là điều bình thường. Ngay cả việc trở thành giám khảo hoặc chủ khảo của các kỳ thi Hội, thi Đình, hoặc đứng đầu Quốc sử quán, cũng vẫn chỉ thể hiện tài năng, và uy tín văn học của ông. Song bên cạnh khả năng văn học, ông lại tỏ ra xuất sắc trong lĩnh vực chính trị và quân sự khi đảm đương trọng trách Thượng thư bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần, chưa kể đến khả năng kinh tế thể hiện trong chuyến Kinh lược Nam Kỳ, giải quyết nhiều vấn đề dân sinh phức tạp. Ở ông, người ta khám phá ra một con người có năng lực toàn diện.
Bên cạnh những tài năng gần như phi thường đó nơi Trương Đăng Quế, người ta còn nhận ra một tâm hồn nhân hậu, gần gũi với nhân dân, với những suy nghĩ cao đẹp về đất nước, về con người. Ông lo cho cuộc sống những người dân thường sau cơn binh lửa, ông lo cho đám trẻ thuộc dân tộc ít người ở miền tây Thanh Hoá không có điều kiện để học hành, ông lo cho những đứa cháu ở quê, ông khóc thương một người chị họ… Ông quyết tâm từ bỏ kinh kỳ, với lầu son gác tía, để quay về căn nhà tranh mà tổ phụ đã để lại ở quê hương.
Ông đã trở thành một con người mang đậm tính nhân văn, xứng đáng có một chỗ đứng trong tâm hồn người dân, và trong lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ, NHỮNG GÌ CÒN LẠI
Chúng tôi lặp lại, “Văn hoá là những gì còn lại, sau khi người ta đã quên tất cả”, câu nói của một nhà văn Pháp nổi tiếng, đã diễn đạt cái nội hàm cơ bản nhất của khái niệm văn hoá.
Những gì Trương Đăng Quế để lại, tự bản thân nó đã là một di sản văn hoá, từ cách tiếp cận cuộc đời, hành xử với tha nhân, giữ gìn đạo đức trong cuộc sống riêng tư, cho đến những công nghiệp to lớn về chính trị, quân sự, kinh tế và giáo dục. Đó là chưa tính đến di sản văn học với nhiều tác phẩm giá trị mà tiêu biểu là Trương Quảng Khê Tiên sinh tập, do Tùng Thiện vương Miên Thẩm sưu khảo, cho khắc mộc bản và in ra vào năm Tự Đức thứ mười (1857)
Thoạt tiên, ông tự đặt tên cho tập thơ của mình là “Học văn dư tập”, với một sự khiêm tốn chân thành nhưng các tác phẩm của ông là cả một công trình hết sức đồ sộ. Ngoài những tác phẩm mà ông đảm trách vai trò Tổng tài, chủ biên, chịu trách nhiệm về chất lượng và khối lượng, hiện còn lưu lại như Thiệu Trị văn quy, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam thực lục tiền biên, thì Trương Quảng Khê tiên sinh tập, có lẽ là một trong rất ít tác phẩm thuộc dạng sáng tác văn học, được khắc mộc bản để in ra vào thế kỷ mười chín. Đây cũng là một tác phẩm đồ sộ với 244 bài thơ, diễn tả bao nhiêu cảm xúc tâm hồn khi đối diện với những tình huống khác nhau.
Ông làm thơ như người ta thở và sống, sống một cách hết mình cái cuộc đới mà tạo hóa đã ban cho. Thơ ông có đủ các sắc màu lung linh của từng trường đoạn mà ông đã trải qua trong suốt cuộc đời. Từ những rung động tính tế trước phong cảnh tươi đẹp của đất nước, đến tình yêu thắm thiết đối với nơi cắt rún chôn nhau, tình cảm nồng đượm với những người thân thuộc, nỗi trăn trở về cuộc đời, về thân phận, suy nghĩ về các danh nhân lịch sử, nhưng không quên những người dân đen khốn khổ, cho chí những vấn đề quốc gia đại sự, đều được thể hiện trong thơ của ông.
Thăm núi Dục Thuý, một danh thắng ở Ninh Bình, ông lưu luyến khi chia tay:
Nam lai tuấn tiểu thiên phong trổ
Bắc cố di man nhất thủy hoành
Minh phát đô trung hoài thủ vọng
Đài ngân tạch sắc hữu dư phong
Dục Thúy sơn ngẫu đề
Dịch:        
Mặt Nam lởm chởm cao phong nhọn
Hướng bắc, mênh mông nước thẫm xanh
Từ giã lên đường còn ngoảnh lại
Nhớ hoài sắc đá vết rêu xanh.
Ở Trương Đăng Quế, tính cách của một con người mơ mộng, lãng mạn bộc lộ khá rõ, và sẽ không ai ngạc nhiên về điều này, bởi lẽ đó là những thuộc tính gần như cố hữu ở mỗi nhà thơ. Ông rung động với cảnh sắc thiên nhiên của mùa thu đầy gợi cảm, nhưng tánh linh của nhà thơ khiến ông liên tưởng đến cái cảnh tiệc vui đã tàn:
Phong phiêu quế thụ hương thiên đạm
Sương nhiễm phong lâm diệp tận hồng
Nhất khúc nghê thường ca vũ tán
Quảng hàn sầu tịch cánh thù đồng
Thu trung cảm sự
Dịch:          
Gió xao cây quế hương thơm nhẹ
Sương thấm rừng phong lá rực hồng
Xong khúc nghê thường trăng cũng vắng
Quảng hàn lạnh giá có buồn không?
Từ đó, ông ưu tư về thân phận, suy nghĩ đến thân thế cuộc đời, với nỗi bâng khuâng:
Tài tình bán vị công thi lụy
Thân địa thường ưu báo quốc khinh
Luyến luyến thâm tri ban cát xả
Vãn liên hồ thượng bất thăng tình
Thu nhật thư hoài
Dịch:    
Tâm tình xin gửi cho thi phú
Thân thế lo đền nợ núi sông
Bao mối thâm tình đâu bỏ được
Bên hồ sen muộn một bầu không
Ông nặng lòng với miền quê đất Quảng, một thôn xóm nghèo ở làng Mỹ Khê, nằm ven bờ biển. Ông đang đảm đương trọng trách ở triều đình, nhưng lúc nào cũng canh cánh trong lòng niềm hoài vọng về cái xóm thôn mộc mạc đó. Cũng là điều lạ, vì thói thường, khi từ chỗ bần hàn, một bước lên quan, người ta có xu thế lãng quên quá khứ. Ở Trương Đăng Quế thì ngược lại. Đôi khi ông tự trách mình là đã quá đa cảm, và tự chấp nhận, coi đó như một cá tính không thay đổi được nơi con người ông. Một làn gió thoảng, một ánh trăng soi cũng đủ dấy lên trong ông, cồn cào nỗi nhớ:
Thi tồn cổ điệu đa canh cải
Tài cộng cao thu sảo liễm sàng
Chỉ nhất cá tình phong vị đắc
Tắc tiêu minh nguyệt chiếu phần hương
Ngẫu vịnh
Dịch:     
Thơ dù cổ điệu bao canh cải
Tài dẫu cao xa cứ nhún nhường
Chỉ mỗi tâm tình không đổi được
Đêm qua trăng rọi nhớ quê hương
Nỗi nhớ càng như được nhân lên, khi ông tiễn người bạn cũ về quê, còn mình thì phải ở lại kinh thành. Nhìn cánh buồm của con thuyền chở người bạn xa dần, lòng ông cảm thấy nôn nao:
Thiên hải khan như tiếp
Phàm tường vọng dĩ vi
Vô nhân sinh vũ hán
Nhiễu hướng cố viên phi
Tống cố nhân hoàn lý
Dịch:
Biển tiếp trời trải rộng
Cánh buồm như nhỏ đi
Ước gì mọc đôi cánh
Bay về quê tức thì.
Lần phụng mệnh vua đi Kinh lược Nam Kỳ, thuyền đi ngang Quảng Ngãi. Do làng ông ở ven biển, nên thuyền gần như đi sát bìa làng. Thế nhưng vì công vụ, ông không thể ghé thuyền thăm quê. Nỗi xúc động vì thương nhớ quê hương lại trào lên trong ông:
Không hoài tang tử kính
Trùng xương thử miêu ca
Khởi lập thuyền đầu vọng
Dao thôn ẩn bệ la
Thuyền quá Quảng Ngãi cố hương
Dịch:          
Quê nhà thương biết mấy
Xóm thôn giờ thế nào
Đầu thuyền xa chỉ thấy
Quê mình dưới tàng cao.
Đối với người thân yêu ruột thịt, tình cảm của ông vô cùng thắm thiết. Ông hiểu được sự hy sinh, chịu đựng thầm lặng của người vợ trẻ, khi tiễn chồng lai kinh: không muốn chồng phải nặng lòng khi ly biệt, nên cố giữ vẻ bình thản, song cuối cùng cũng không giữ được những giọt lệ lăn tròn trên đôi má:
Khản khản tôn tiền khuyến miễn từ
Doanh doanh song kiểm lệ thâu thùy
Lâm hành cố tác hồi thân tỵ
Bất nhẫn tương khan đáo biệt thì
Biệt nội
Dịch:         
Nói cứng khăng khăng: chẳng có gì
Yêu kiều đôi má lệ hoen mi
Lên đường cố tránh gây bi lụy
Sao khỏi buồn thương lúc biệt ly.
Với người chị mà ông yêu kính, tình cảm của ông giống như dành cho một người bạn tương tri, hơn là dành cho một người bà con ruột thịt:
Đối tửu tâm tiền túy
Tá bôi vị nhẫn khuynh
Kim thần hướng tỷ biệt
Minh nhật trục nhân hành
Biệt tỷ
Dịch:
Chưa uống lòng đã say
Nâng ly bụng không đành
Sáng nay tạm biệt chị
Ngày mai em lên đường
Cuối năm, ngồi ngẫm nghĩ đến những thăng trầm của cuộc đời, nỗi u hoài lại đến trong ông, thì người ông nhắc đến đầu tiên cũng chính là người chị mà ông cho là rất hiểu mình:
Cốt nhục tương tri duy hữu tỷ
Cung thương thuộc hạ, cánh hà nhân
Hàn song tận nhật thương trì mộ
Thu khứ đông lai hốt hựu xuân
Tuế vãn thư hoài
Dịch:         
Tương tri ruột thịt còn bà chị
Đắc ý trên đời mấy bạn thân?
Ngày hết bên song chiều xuống chậm
Thu qua đông đến lại sang xuân.
Mặc dù đã chọn lựa và chấp nhận con đường làm quan, song từ trong tâm thức, vẫn hiện diện nơi ông cái tâm lý bất an, băn khoăn về chính con đường mình đã chọn. Bởi vậy, ông luôn tự coi mình như một kẻ lạc loài, vị khách phong trần đã dấn thân vào hoạn lộ một cách bất đắc dĩ:
Dư huy ẩn cao thụ
Sa thảo gian thanh bạch
Cố ngã du thần trung
Phong trần thượng vi khách
Giang hồ hoài cựu du
Dịch:
Ánh chiều đọng tàng cây
Bãi cát màu thanh bạch
Bơi trong bể hoạn này
Ta vẫn phong trần khách
Đôi khi tâm trạng bất an ấy lại bùng nổ, để đến nỗi ông phải tự dằn vặt mình:
Ngã kim cánh hà sự
Nhật tịch đồ doanh doanh
Khởi vi thăng đấu lụy
Lưu hận thử thân danh
Xuân nhật thư hoài
Dịch:
Cớ sao ta cứ mãi
Ngày đêm ra vào cung
Lụy vì thăng đấu phong?
Để hận cái thân danh.
Mặc dù mang một tâm trạng bất an, hoài nghi về con đường mình đã chọn, song khi làm việc công thì ông tỏ ra là người hết sức tận tuỵ và liêm khiết:
Tam quân thượng đới yên lam địa
Nhất kỷ ninh khai yến lạc trường
Đoan ngọ
Dịch:
Ba quân còn chịu bao lam chướng
Đâu thể mình ta tiệc tỉnh say
Đi thanh sát chiến trường, chứng kiến cảnh đầu rơi máu chảy, dân chúng lầm than vì thảm họa chiến tranh, ông thương xót người dân và binh lính phải gánh chịu đau thương mất mát chỉ bởi tham vọng mưu bá đồ vương của một số người:
Vô mệnh tương sanh tao kiếp số
Hữu chinh tướng sĩ trệ phong ai
Dịch:
Vô cớ dân lành mang kiếp nạn
Bao phen tướng sĩ chịu phong sương
Sau cuộc chiến, ông một lòng một dạ muốn khôi phục cuộc sống bình thường, để người dân yên tâm làm ăn:
Thương sanh binh tiễn hậu
Điều tể phí trù duy
Khâm mạng Kinh lược Nam Kỳ
Dịch:
Nhân dân sau binh lửa
Cần sớm được an vi.
Trong vai trò của một vị đường quan đang đảm đương chức trách của triều đình giao phó, ông tận tâm tận lực theo tinh thần của một nhà Nho đầy trách nhiệm, lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân, như danh sĩ Phạm Trọng Yêm, đời Tống, từng viết: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”
Bình tố giảng minh văn chánh ngũ
Tiên ưu hậu lạc niệm thường tồn
Tập thiện đường bái biệt
Dịch:
Nguyện ý thánh hiền đem thực hiện
Trước lo sau hưởng, có quên đâu.
Hầu hết di cảo của Trương Đăng Quế đều được viết bằng chữ Hán, kể cả thơ. Đây là điều mà chúng ta cần phải mở ra một dấu ngoặc. Nếu so sánh về mức độ đồ sộ thì tác phẩm thơ văn của Trương Đăng Quế không thua kém bất cứ danh sĩ Việt Nam nào ở thế kỷ mười chín. Song, chúng ta có thể cảm nhận rằng, sự hiểu biết và đánh giá của người đời sau đối với thơ văn ông, thì lại hết sức hạn chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản là trong thời buổi suy tàn của Hán học, chỉ có các tác phẩm viết bằng văn Nôm, mới có cơ may được xem xét và thẩm định đúng với giá trị đáng có. Một thí dụ điển hình là, ai cũng biết Truyện Kiều của Nguyễn Du, song đối với các tác phẩm chữ Hán của thiên tài này, liệu có mấy người biết đến? Một vấn đề khác liên quan sâu sắc đến việc thẩm định văn học chính là việc dịch thơ. Việc dịch thơ đòi hỏi, bên cạnh khả năng dịch thuật, người dịch phải có một tâm hồn đồng điệu, cùng rung cảm với tác giả về mỗi thể tài, và nhất là trình độ diễn đạt ngôn ngữ phải tương xứng với ý đồ của tác giả. Điều này thật không dễ dàng. Nếu không có Đoàn Thị Điểm, chắc chắn đến thế kỷ hai mươi, đã không còn mấy người biết đến Chinh phụ ngâm khúc và Đặng Trần Côn.
Về phương pháp, như Trương Đăng Quế viết trong Lời Nói Đầu của “Học văn dư tập”, tình yêu đối với thơ đã có trong ông từ thuở còn thơ ấu, rồi dần dà theo năm tháng, cùng với việc hấp thu kiến thức trên đường học vấn, ông có cơ hội tìm hiểu các phép tắc, tiêu chuẩn của các tác gia. Với những đồng liêu, mà phần lớn xuất thân từ giới khoa bảng, ông cùng họ miệt mài trong các trường văn trận bút:
“... Kẻ xướng người hoạ, cùng nhau đẽo gọt mài dũa, truy tìm tận gốc, chắt lọc cho ra cái cốt lõi. Nhờ đó mà sành sỏi thơ văn của các danh gia qua các triều đại; từ thời Tấn, Ngụy, lưỡng Hán trở về trước, tôi đều cẩn thận, không để sót một bài nào”
Trương Đăng Quế, Thơ Trương Đăng Quế,
Lời nói đầu, tr. 11
Thế nhưng, sau khi đắm mình vào các dòng văn học cổ điển, nghiên cứu những thủ pháp của các danh gia, thì cuối cùng ông lại đưa ra một kết luận khá bất ngờ:
“… Tôi nhận ra rằng, chung quy không ngoài hai chữ tánh linh. Cho nên làm thơ, nói cho cùng là không nên nương tựa vào cửa nhà người khác. Ý nảy ra là viết liền, chưa nói chi đến chỗ cao sâu, nhưng có được cái cốt cách riêng…”
Có thể coi đó là tuyên ngôn của một trường phái thơ mà ngày nay, người ta gọi là trường phái Tự nhiên chủ nghĩa (Naturalism). Vì tự nhiên, nên có thể lột tả được xúc cảm và tâm hồn của người thơ qua từng dữ kiện. Trương Đăng Quế gọi đó là tánh linh, là cốt cách. Còn trường phái thơ Tự nhiên ngày nay thì gọi đó là bản sắc,
Tuy nhiên, cái tự nhiên của thơ Trương Đăng Quế không phải là cái tự nhiên mộc mạc và thô ráp. Ngược lại nó là cái tự nhiên đã kinh qua sự rèn dũa từ các trường văn trận bút, kinh qua sự tắm gội trong các dòng văn học bậc thầy, do đó nó có được sự tự nhiên thuần thục và vô cùng sang trọng.
Thật kỳ lạ, là một trong những trào lưu văn học đương đại, trong khi phương pháp của trường phái Tự nhiên, vẫn còn là một vấn đề đang được tranh luận, thì thực tế đã được hình thành và phát triển một cách dung dị, tự nhiên, trong các tác phẩm của một nhà Nho thế kỷ thứ Mười chín.
Lương Khê Phan Thanh Giản, vị tiến sĩ khai khoa của đất Nam Kỳ, từng nhận xét về cái cốt cách nhà thơ của Trương Đăng Quế:
“Tại kinh đô, ai cũng bảo rằng tiên sinh là bậc đáng kính, đứng đầu giới tao nhã.Trong những cuộc tương hội của giới mũ áo nơi văn đàn, thì tiên sinh lúc nào cũng làm người chủ trì”.
Lương Khê Phan Thanh Giản,
Thơ Trương Đăng Quế, tr. 9
Song có lẽ, người hiểu rõ nhất tâm hồn, cốt cách thơ Trương Đăng Quế trong số những người đồng thời với ông, không ai khác hơn là Tùng Thiện vương Miên Thẩm. Vị Hoàng thân này là một đại danh sĩ của đất đế đô, có mặt trong nhóm bốn người mà Tự Đức từng có thơ ca ngợi. Tùng Thiện vương đã dõi theo dấu chân thơ của Trương Đăng Quế, hiểu rõ ngọn ngành tâm hồn nghệ sĩ thấp thoáng bên trong cái vỏ ngoài của một vị đại quan hết lòng vì sự nghiệp của triều đình. Có như vậy, Tùng Thiện vương mới cảm thụ được những ý thơ tự nhiên không hề gọt dũa của Trương Đăng Quế:
“Chưa từng gọt chữ, dũa câu, mà uyển chuyển tựa đường bay viên đạn. Lời lẽ nào trung nào hiếu, ý tưởng đủ cả chung, cả riêng.”
Miên Thẩm, Thơ Trương Đăng Quế, Lời tựa, tr. 10
Tùng Thiện vương thực tình khâm phục cái cốt cách thanh cao của thơ Trương Đăng Quế, bao quát trong những điều đơn giản bình thường là những ý tứ sâu xa:
“Trong cái nhỏ mà nhìn thấy cái vô biên, như giấu quả núi to trong hạt cải mầm nhỏ xíu; kiếm chút nhàn trong công việc bận rộn, làm thơ văn chép đầy trên giấy hoa đàm. Hà Tôn Quyền liếc xem mà quên bước, Phan Thanh Giản nhác thấy hóa ngẩn ngơ”.
Miên Thẩm, Thơ Trương Đăng Quế, tr. 555
Không chỉ có những người đồng thời cảm phục ông. Người đời sau có lẽ không ai không ngạc nhiên về sự đa tài và đa diện của Trương Đăng Quế. Xuất thân bằng con đường khoa bảng Nho học, việc ông đảm đương các chức trách của triều đình cần đến khả năng văn học, là điều bình thường. Ngay cả việc trở thành giám khảo hoặc chủ khảo của các kỳ thi Hội, thi Đình, hoặc đứng đầu Quốc tử giám và Quốc sử quán, cũng vẫn chỉ thể hiện tài năng và uy tín văn học của ông. Song bên cạnh khả năng văn học, ông lại tỏ ra xuất sắc trong lĩnh vực chính trị và quân sự khi đảm đương trọng trách Thượng thư bộ Binh sung Cơ mật viện đại thần, chưa kể đến khả năng kinh tế thể hiện trong chuyến Kinh lược Nam Kỳ, giải quyết nhiều vấn đề dân sinh phức tạp. Ở ông, người ta khám phá ra một con người có năng lực toàn diện.
Một nhân vật lịch sử lao tâm khổ tứ, lăn lộn vất vả với công cuộc tấn Tây, bình Nam, định Bắc, vươn mình ra biển đông thành công như Trương Đăng Quế thất hiếm có. Bên cạnh những tài năng phi thường đó, người ta còn nhận ra nơi Trương Đăng Quế, một tâm hồn nhân hậu, gần gũi với nhân dân, với những suy nghĩ cao đẹp về đất nước, về con người. Ông xót xa cho cuộc sống những người dân thường sau cơn binh lửa, ông lo cho đám trẻ thuộc dân tộc ít người ở miền tây Thanh Hoá không có điều kiện để học hành, ông thương xót cho những đứa cháu ruột thịt của mình ở quê nghèo xứ Quảng, ông khóc những tài năng thanh xuân phải sớm lìa bỏ cõi đời, ông thương những người chiến sĩ trấn giữ nơi biên thùy xa xôi đến bỏ cả ngày Tết vui vẻ nơi kinh thành. Ở đỉnh cao quyền lực và danh vọng, ông lại quyết tâm từ bỏ kinh kỳ, từ bỏ lầu son gác tía, để quay về căn nhà tranh mà tổ phụ đã để lại ở quê hương.
Ông đã trở thành một con người, mà hành trang của cả cuộc đời, xét trên nhiều khía cạnh, đều thể hiện một tâm hồn thấm đẫm tính nhân văn, xứng đáng có một chỗ đứng trong lòng người dân, và trong lịch sử.
PHỤ LỤC
QUẢNG NGÃI ANH HÙNG VÀ VĂN HIẾN
Vũ Khiêu - Giáo sư, Anh hùng lao động
Tôi xin nêu lên ở đây thái độ gắn bó với quê hương qua hai nhân vật điển hình: Trương Đăng Quế thời xưa và Phạm Văn Đồng thời nay.
Về Trương Đăng Quế, tôi đã đọc hết 244 bài thơ trong Học Văn dư tập của ông. Thơ ông rất sâu sắc về nội dung, chặt chẽ về hình thức, tràn đầy tình yêu Tổ quốc và đạo lý làm người, đặc biệt là từ tấm lòng của ông với quê hương Quảng Ngãi.
Tôi rất xúc động, khi đọc bài thơ Thuyền qua Quảng Ngãi cố hương của ông. Trên đường đi kinh lý Nam Kỳ, thuyền ông đi sát quê hương mà ông vì công vụ bề bộn, không thể dừng lại thăm quê hương ông được. Ông ra đứng ở đầu thuyền, nhìn về quê nhà với tấm lòng dào dạt thương nhớ.
THUYỀN QUA QUÊ NHÀ QUẢNG NGÃI
Gió xuân, cánh chim biển
Thoáng chốc, vượt sóng trào
Thuyền nhắm hướng quê trẩy
Du tử lòng nôn nao.
Quê nhà thương biết mấy!
Xóm thôn giờ thế nào?
Đầu thuyền, xa chỉ thấy
Quê mình dưới tàng cao
Tiêu biểu cho tình cảm quê hương còn có nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng, người con ưu tú của Quảng Ngãi, người học trò kiệt xuất của Bác Hồ, nhà lãnh đạo được toàn dân yêu quý. Hàng trăm bài ngợi ca ông đã được in trong sách báo. Ở đây, tôi chỉ muốn tìm hiểu ông đã gắn bó sâu sắc với quê hương như thế nào?
Ông sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương Quảng Ngãi. Trên đường cách mạng, ông đã quan tâm giác ngộ các tầng lớp nhân dân đặc biệt là thế hệ trẻ. Ông góp phần xây dựng cơ sở Đảng, rèn luyện những thế hệ trung thành với Tổ quốc và chiến đấu kiên cường trong sự nghiệp cách mạng.
Hồi ký của các cán bộ Quảng Ngãi viết về ông đều nhắc đến những ngày ông về thăm quê, cũng như những ngày cán bộ và đồng bào từ quê hương ra thăm ông. Mỗi lần gặp gỡ là một lần ông tìm hiểu tỉ mỉ về tình hình mọi mặt của quê hương, đồng thời góp ý kiến cặn kẽ với từng cán bộ, về từng nhiệm vụ.
Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn và phát huy văn hóa Dân tộc, Văn hiến Quảng Ngãi, truyền thống và hiện đại, tr. 36
ĐẤT THIÊNG NGƯỜI TÀI VÀ NHỮNG TRỚ TRÊU CỦA LỊCH SỬ
Giáo sư Trường Lưu
Biểu trưng núi Ấn sông Trà càng làm cho vùng đất Quảng Ngãi thêm thi vị, khi nó được đặt trong tổng thể phong cảnh hữu tình mà Nguyễn Cư Trinh đã sáng tác: vịnh Quảng Ngãi thập cảnh lưu truyền mãi cho đến hôm nay.
Như câu nói của nhà phê bình vĩ đại Nga Bielinski: “Thiên nhiên bao giờ cũng là bầu vú sữa nuôi sống tâm hồn con người, nhưng đồng thời thiên nhiên cũng cũng là khúc hát trữ tình muôn đời của thơ ca, nghệ thuật”. Thực ra, hầu như không một danh nhân chí sĩ nào trong các phong trào yêu nước xưa nay mà tấm lòng không nặng nợ với núi sông, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, cả chiều rộng lẫn chiều sâu trong tâm thức dân tộc. Hai chữ “sơn hà” trong câu thơ của Lý Thường Kiệt đã nói lên ý nghĩa này.
Những ai vốn quần tụ trên mảnh đất này theo các giai đoạn biến động của lịch sử và những ai sinh thành trên mảnh đất này rồi tỏa ra các vùng đất khác, đều biết phát huy nghĩa khí và sĩ khí của một vùng văn hiến trong sự xây dựng non sông đất nước.
Nhưng điều băn khoăn ở đây là lịch sử không công bằng với ai, khi nhìn lại bao nhiêu danh nhân, hào kiệt vào loại nổi bật của Quảng Ngãi cho đến nay vẫn còn mờ nhạt trong sử sách hiện đại và trong lòng người. Vẫn biết lịch sử thường trớ trêu, gây ra những nhận thức vòng vèo, cũng xin nêu ra đây một số trường hợp cần suy nghĩ:
1. Bùi Tá Hán là một trung thần của triều Lê trung hưng, giữ chức Tổng trấn thừa tuyên Quảng Nam, trước Nguyễn Hoàng (Thừa tuyên Quảng Nam rộng lớn bao gồm vùng đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cả bây giờ). Bùi Tá Hán là người đặt viên đá đầu tiên ổn định và phát triển nông nghiệp và nông thôn, mở mang đường sá, chợ búa và trường học. Ông mang trọng trách của người xây dựng cuộc sống nơi vùng đất địa đầu của Tổ quốc về phía Nam. Ông có công lớn trong việc ngăn chặn quân Chiêm luôn quấy phá đòi đất, tiêu diệt thổ phỉ, nội gián vừa chăm lo công cuộc an dân, đoàn kết Kinh Thượng, tạo bước ngoặc lớn cho sự ổn định lâu dài. Danh tướng Bùi Tá Hán đã trở thành danh thần trong các sắc phong của thời Tây Sơn và triều Nguyễn. Nhiều nơi ở Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên có đền thờ ông, nhưng đền thờ chính là ở Quảng Ngãi, đã được cấp bằng di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Nhưng việc nghiên cứu công nghiệp đề cao ông vẫn còn bỏ dở.
2. Trương Đăng Quế làm quan cả ba triều Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức và đều giữ trọng trách cao nhất của triều đình, góp phần quyết định tạo dựng phương lược triều Nguyễn. Ông từng đôi lần làm chủ khảo thi Hội ở Kinh đô và nhiều năm làm Tổng tài Quốc sử quán triều Nguyễn, chủ biên nhiều bộ sách lớn còn giá trị cho đến hiện nay. Ngoài ra, riêng ông đã đóng góp cho đời sau sáu trước tác lịch sử và văn chương, tiêu biểu là bộ Trương Quảng Khê tiên sinh tập (tức Học Văn dư tập) đồ sộ. Phan Thanh Giản, tiến sĩ khai khoa của Nam Kỳ lục tỉnh và các danh sĩ hoàng tộc Miên Thẩm, Mai Am đều hết lời ca ngợi tài năng và trình độ học vấn uyên bác sắc sảo của ông. Ở thành phố Hồ Chí Minh đã có đường phố mang tên Trương Đăng Quế, vì ông có công to trong việc lập địa bạ Nam Kỳ lục tỉnh, tạo điều kiện cho nhân dân khai hoang lập ấp.
Hội thảo về Trương Đăng Quế, 1994, bản vi tính.
Trích: ĐẠI NAM NHẤT THỐNG CHÍ
Trương Đăng Quế: người huyện Bình Sơn, đỗ Hương tiến đời Gia Long. Đăng Quế là người khai hoa Hương tiến ở Quảng Ngãi. Đầu đời Minh Mệnh sung Đông cung bạn độc, sau thăng chức Binh bộ Thượng thư sung cơ mật đại thần, năm thứ 14 gia Thái tử Thiếu bảo, năm thứ 15 sung Kinh lược đại sứ đi khám đạc ruộng đất ở 6 tỉnh Nam Kỳ, thăng Hiệp biện Đại học sĩ, vẫn giữ công việc bộ Binh, năm thứ 17 sung Kinh lược đại thần ở Thanh Hóa, đánh tan thổ phỉ, khi trở về vẫn giữ chức cũ, năm thứ 20 tấn phong tước Tuy Thạnh Nam, năm thứ 21 (năm Thiệu Trị thứ 1) là cố mệnh sung phụ chính, vì có công giúp rập, thăng thự Văn Minh điện Đại học sĩ, gia Thái Bảo, quản lý bộ Binh kiêm Cơ mật viện, lại kiêm Tổng tài Quốc sử quán, tấn phong Tuy Thạnh tử, lại xét thấy Đăng Quế có nhiều công trù hoạch về việc bình định Trấn Tây, khi đúc súng để biểu dương công lao, tên Trương Đăng Quế được khắc vào khẩu súng Bảo đại định công là khẩu súng đứng hàng thứ nhất. Ngày tháng 9 năm thứ 7, năm Tự Đức thứ 1 là cố mệnh lương thần sung phụ chính, thăng Cần chính điện Đại học sĩ, tấn tước Quận Công, sung giảng quan ở Kinh diên, sau đó vì già yếu, cố xin nghỉ, về quê chết, thọ 73 tuổi. Đăng Quế trải thờ bốn triều, hơn 40 năm giữ việc cơ yếu, được tặng Thái sư, cho thụy là Văn Lương, thờ ở Thế miếu. Có tập thơ Học văn dư tập.
Trích: TỪ ĐIỂN NHÂN VẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM
Nguyễn Quang Thắng - Nguyễn Bá Thế
Danh thần đời Tự Đức, tự Duyên Phương, hiệu Đoan Trai, Quảng Khê. Quê làng Mỹ Khê, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Ông là người cầm đầu phe chủ chiến dưới đời Tự Đức, cương quyết đánh Pháp đến cùng. Năm Kỷ Mão 1819 ông đỗ Hương cống (Cử nhân) đời Minh Mệnh. Ông làm đến thượng thư bộ Binh, sung Cơ mật viện đại thần rồi thăng Hiệp biện Đại học sĩ. Đời Triệu Trị, từng làm phụ chánh đại thần, Văn Minh điện Đại học sĩ. Sang đời Tự Đức, ông thăng Cần chánh điện Đại học sĩ, tước Quận công.
Ngoài ra, ông từng được cử làm chủ khảo thi Hội, từng làm Tổng tài biên soạn Đại Nam liệt truyện và Đại Nam thực lục tiền biên. Cuối đời Thiệu Trị, dư luận cho rằng ông là nhân vật góp phần quyết định trong việc phế Hồng Bảo, lập Hồng Nhậm (Tự Đức).
Ông sáng tác văn học rất nhiều, Tùng Thiện vương Miên Thẩm và Mai Am Nguyễn Thị Trinh Thận, Lương Khê Phan Thanh Giản rất quý mến ông về tài học.
Trích: QUỐC SỬ TẠP LỤC
Nguyễn Thiệu Lâu
Ở Thế miếu, tại Huế, Trương Đăng Quế, được thờ, tòng tự, từ năm 1868. Trương Đăng Quế mất tháng hai, năm Ất Sửu (1865). Về tiểu sử Trương Đăng Quế, tôi tra cứu không thấy tài liệu về công trạng.
Thế miếu là nhà thờ trong Nội (nội thành). Ở trước sân có chín cái đỉnh đúc năm Ất Vị (1835), tức là năm thứ mười sáu đời vua Minh Mệnh. Nhà thờ này thờ những vị có công to với nhà Nguyễn.
Ai khảo cứu lịch sử, tới Thế miếu, vào nhà thờ, xem các bài vị, ra sân, nhìn chín cái đỉnh… rồi tra cứu các sách…
Sách của ta còn lại, ít lắm…
Người khảo cứu bâng khuâng…
Về Trương Đăng Quế, tôi chỉ biết một vài chi tiết và một bài thơ của vua Tự Đức mà tôi xin sao lục ra sau đây.
Năm Ất Vị (1847), tháng chín, vua Thiệu Trị băng tại cung Cần Chánh.
Trước khi băng, Ngài có đòi mấy vị Thần vào chầu.
Tôi chép đúng sử như sau này (tài liệu này rất quý):
“Ngài se, đòi cố mạng lương thần Trương Đăng Quế và các đại thần Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Thiếp vào chầu”.
Ngài truyền đuổi mấy người tả hữu rồi ban rằng:
“Ta nối nghiệp lớn đã bảy năm nay, ngày đêm lo lắng, không dám thong thả vui chơi, mấy lâu se mình, hôm nay mệt lắm. Ta lo nghiệp lớn, tổ tông phó thác cho ta, nên ta phải lựa người nối nghiệp để yên xã tắc. Trong mấy người con ta, Hồng Bảo tuy lớn nhưng vì thứ xuất mà lại ngu độn, ít học, chỉ ham vui chơi, nối nghiệp không đặng; con thứ hai là Phước Tuy Công, thông minh, ham học, giống in như ta, đáng nối ngôi làm vua. Hôm trước ta đã phê vào tờ di chiếu để lại trong Long đồng. Các người phải kính nơi đó. Đừng trái mệnh ta!”.
Long đồng là cái ống chạm rồng, trong đó có tờ di chiếu của vua Thiệu Trị.
Sử chép rằng:
“Các Đại thần kêu khóc lạy, vâng mạng, rồi lui ra …”.
Đến ngày Quý Mão, ngài băng. Liền ngày ấy, các hoàng thân và các quan văn võ hội đồng tuyên đọc tờ di chiếu tại điện Cần Chánh.
Hoàng tử thứ hai là Phước Tuy Công- Hồng Nhậm, khóc lạy vâng mạng. Ngày Kỷ Sửu, Phước Tuy Công- Hồng Nhậm lên ngồi ở điện Thái Hòa đặt niên hiệu là Tự Đức. Bấy giờ mới 18 tuổi.
Trương Đăng Quế được vua Thiệu Trị đặt vào chức Cố mạng lương thần, chắc đã phải có tài, có đức, và có tuổi.
Trương Đăng Quế về hưu vào năm Quý Hợi, 1863. Vậy suốt mười sáu năm, các công việc ở Triều đình, một phần lớn là do Trương Đăng Quế quyết định, vì Võ Văn Giải và Nguyễn Tri Phương phải nay đây mai đó, đánh Đông dẹp Bắc.
Một ông vua còn trẻ, một vị cố mạng lão thành.
Khi Trương Đăng Quế về hưu, vua Tự Đức ba mươi ba tuổi, đã trưởng thành rồi.
Tôi đọc sử, thấy chép như sau này:
“Năm Canh Thân (1860), tháng bảy, Trương Đăng Quế dâng sớ xin về hưu trí.
Ngài chuẩn cho, lấy nguyên hàm thượng thư Binh bộ, sung Cơ mật viện đại thần, Kính diên giảng quan. Hễ bộ, viện có việc gì lớn phải tới trình Trương Đăng Quế duyệt trước, thự tôn rồi mới tâu, nhưng cho ở nhà tư dưỡng bệnh, hoặc mười ngày, hoặc năm ngày một lần vào chầu. Nếu có việc chính sự lớn cũng dự nghị. Ngài lại cho phép được đi võng đến ngoài cửa Nhật tinh, Nguyệt anh để tiện tới chầu cho khỏi mệt nhọc”.
Vậy vua Tự Đức đã rất ưu đãi Trương Đăng Quế. Phải chăng vì Trương Đăng Quế tài giỏi? Nhưng ở trong tờ di chiếu của vua Thiệu Trị, có mười sáu chữ răn, dạy. Trong mười sáu chữ đó có hai chữ “ thần hiền”.
Khi Trương Đăng Quế về hưu thời như thế nào?
Tôi sao ra đây một đoạn sử trích trong bộ Quốc triều Chánh biên:
“Trương Đăng Quế về hưu, Ngài ban cho một bài thơ và sâm, quế, vàng, lụa các hạng. Khi về, ngài khiến đình thần làm tiệc đưa; lại cho lúc về nhà rồi, mỗi năm được lãnh bán bổng lộc (một nửa lương). Quan tỉnh sở tại phải thường tới thăm hỏi.
Ngài lại dạy Trương Đăng Quế từ rày biết điều gì, hay là nghĩ ra điều gì mà quan hệ về việc lợi hại lớn trong nước, cho phép phát trạm tâu lên”.
Trương Đăng Quế có tâu ngài năm điều, sử ghi sơ sài như sau này:
1. Dùng người giỏi giúp việc chính trị.
2. Lo ngài chưa có Hoàng tử.
3. Các Tri huyện nhiều người chưa thuộc việc.
4. Tiền của Nhà nước chưa đủ dùng.
5. Nên tùy thời định ngạch quân lính lại.
Vua Tự Đức đều xem cả các bản điều trần.
Rồi khi Trương Đăng Quế về hưu, tôi không biết ở làng nào. Vua Tự Đức ban cho một bài thơ bằng chữ Hán.
Trương Đăng Quế về hưu được độ hai mươi ba tháng thời mất. (tôi tính theo sử).
Sử ghi như sau này:
“Tháng hai năm Ất Sửu (1865), Cần Chánh điện Đại Học sĩ, Tuy Thạnh Quận Công, Trí sĩ, Trương Đăng Quế mất.”
Ngài bãi triều ba ngày, tăng hàm Thái sư, cấp thêm tiền lụa, sai đem rượu thượng phương và bài thơ (chép ở Thi sơ tập) tới nhà ban tế, dựng bia ở phần mộ, khắc mười một chữ “Lưỡng triều cố mạng lương thần, Trương Văn Lương chi mộ”. Và Vua Tự Đức truyền chỉ là chờ hết tang sẽ tuân lời tiên đế cho tòng tự tại Thế miếu.
Vua Tự Đức đối xử với Trương Đăng Quế đã rất có nghĩa. Sự nghiệp Trương Đăng Quế đã như thế nào?
Tôi tra cứu lịch sử, tôi không thấy chép gì mấy.Tôi viết bài này, mong rằng một sử gia sẽ cho ta biết công trạng của Trương Đăng Quế.
Vị này đã là một vị quan trọng trong lịch sử nước ta, nhưng tiếc thay, tài liệu mà tôi đã thu thập được ít ỏi quá.
Phạm Trung Việt
THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
Theo gia phả còn lưu, dòng họ Trương nguyên ở xã Phước Long huyện Thạch Hà, phủ Hà Ba (tức Hà Thanh), Hà Tĩnh.
Thủy tổ là Trương Đăng Nhất và con là Trương Đăng Trưởng ứng nghĩa vào Nam (1624), thời chúa Sãi Thụy Quận Công Nguyễn Phúc Nguyên.
Đến Quảng Ngãi, gia đình định cư tại xã Mỹ Khê Tây, tổng Bình Châu, huyện Bình Sơn (nay thuộc huyện Sơn Tịnh).
Trương Đăng Nhất khi chết được chôn tại Bàu Cò, làng Tư Cung Bắc, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.
Có lời đồn đoán cho rằng vua Tự Đức là con trai Trương Đăng Quế, nhưng theo lời ông Trương Quang Trợ, giáo học, trưởng nam một phái dòng họ Trương, người đang còn giữ gia phả thì quả quyết đó là vì thấy vua Tự Đức tôn kính như bậc cha mẹ (Trương Đăng Quế từng là thầy của vua và nhiều hoàng thân, vừa là cố mạng lương thần do di chiếu của vua Thiệu Trị).
Trương Đăng Quế tự Duyên Phương, bút hiệu Quảng Khê, là con thứ 5 của Trương Đăng Phác, sinh ngày 01 tháng 11 năm Quý Sửu (1793) tại làng Mỹ Khê Tây, huyện Bình Sơn.
Tướng mạo Trương Đăng Quế khôi ngô, tính tình khoan hòa, thận trọng, nếp sống thanh bạch, chí khí hiên ngang, lòng trung hậu, yêu nước chân thành.
Thuở thư sinh, ông học giỏi, năm 27 tuổi đậu Hương cống (cử nhân) khoa Kỷ Mão (1819) triều Gia Long thứ 18, Trương Đăng Quế là người khai khoa cho tỉnh Quảng Ngãi. Tuy chỉ đậu cử nhân, nhưng Trương Đăng Quế học rộng, thông suốt kinh sách, thơ văn lỗi lạc, có lưu lại tác phẩm “Học văn dư tập”.
Gia phả họ Trương có kể lại giai thoại trên đường ra Huế dự kỳ thi Hương, ngang qua đèo Hải Vân, Trương Đăng Quế đã ngẫu ngâm:
“Quát mục đông minh duy hữu hải
Hồi đầu, nam nhạc cánh vô sơn”.
(Trước mắt nhìn chỉ thấy biển là rộng hơn tất cả. Quay đầu xem các núi ở phía Nam không có núi nào cao bằng núi ở Hải Vân).
Trương Đăng Quế làm quan 3 triều (Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức) về hưu tháng 3 năm Quý Hợi, mất ngày 12 năm Ất Sửu (1865) tại nguyên quán Mỹ Khê Tây, Quảng Ngãi, hưởng thọ 73 tuổi, tước Cần chánh điện Đại học sĩ, Tuy Thạnh Quận công.
- Trương Đăng Quế và việc chống Pháp:
Trương Đăng Quế đã đứng về phe chống đối hòa ước Nhâm Tuất (5.8.1862), đã bác bỏ lời đề nghị của khâm sai Nguyễn Bá Nghi, kiên quyết chống Pháp dù có tin đồn Chí Hòa và thành Mỹ Tho bị thất thủ. Khoảng tháng giêng Tân Dậu (1861), người đã gián tiếp, ngấm ngầm ủng hộ các lực lượng kháng chiến chống Pháp do Bình Tây Đại nguyên soái Trương Công Định cầm đầu.
- Trương Đăng Quế và vua Minh Mệnh:
Có thể nghĩ rằng vua Minh Mệnh đã biết sử dụng đúng khả năng của Trương Đăng Quế, sớm trọng dụng ông trong chức bạn độc, hết lời khen ngợi tài văn học của Trương Đăng Quế làm chủ sát hạch giáo chức các tỉnh, Độc quyển Điện thí, chủ khảo trường thi Hội 1833, 1838, Tổng tài Quốc sử quán.
Sau khi đọc hết lời tâu của Trương Đăng Quế về sách lược miền thượng du Thanh Hóa. Vua Minh Mệnh đã khen Trương Đăng Quế là một vị đại thần mưu lược và có độ lượng.
Chính Trương Đăng Quế đã chứng tỏ tài năng và đức độ qua những trách nhiệm đã được giao phó.
Vua Minh Mệnh đã di chiếu cử Trương Đăng Quế sung Phụ chánh Đại thần để tiếp tục giúp vua Thiệu Trị.
- Trương Đăng Quế và vua Thiệu Trị:
Lúc lên ngôi, vua Thiệu Trị cho thăng Văn Minh điện Đại học sĩ, gia hàm Thái bảo, Quản lý bộ Binh kiêm Cơ mật viện, tấn phong Tuy Thạnh tử.
Vua làm một bài thơ 8 câu, sai Thị vệ đem tận nhà ban thăm bày tỏ ý ưu đãi đại thần. Năm Thiệu Trị thứ 6 (Bính Ngọ, 1846) Trương Đăng Quế lâm bệnh, vua Thiệu Trị phán với Huỳnh Thế Mỹ:
“Là người trung thành thì biết thương vua, muốn thương vua thì trước hết phải bảo thân mình. Trương Đăng Quế ngày đêm lo âu, Trẫm vẫn biết, nên thể theo ý, Trẫm đã cho khanh ấy an dưỡng”.
Vua lại cho Trương Đăng Trụ, con trưởng của Trương Đăng Quế sánh duyên với con gái thứ tư của vua Minh Mệnh, tức là An Mỹ công chúa. Tháng 5 Bính ngọ (1846) vua tấn phong Trương Đăng Quế tước bá, khen ông hiền lương, trung chánh, đặc ân cho một cái bài ngọc khắc 4 chữ: “Cố mạng lương thần” bốn chót sừng có hình thú bằng vàng, lại ủy nhiệm Trương Đăng Quế chức Tổng tài để tu chỉnh tập văn quy của vua Thiệu Trị. Tháng 9 năm 1947, trong di chiếu phong Dực Tông lên ngôi, vua Thiệu Trị có viết:
“Trương Thái Bảo giúp Trẫm trị nước đã nhiều năm, nước thịnh, văn thị, võ thành, đem lòng trung yêu nước giúp Trẫm thì cũng phải đem lòng ấy giúp thị quân”.
Trước khi băng hà, vua Thiệu Trị có đòi cố mạng lương thần Trương Đăng Quế và các đại thần Vũ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Thiếp đến bên giường trối trăn.
- Trương Đăng Quế và vua Tự Đức:
Tự Đức lên ngôi khi ngài mới 18 tuổi. Cho nên thời vua Tự đức, có ông vua trẻ và các vị cố mạng lão thành
Năm Tự đức nguyên niên (1848), Trương Đăng Quế được thăng Cần Chánh điện Đại học sĩ, tấn tước Quận công, sung Kinh diên giảng quan.
Nhà vua rất ưu đãi Trương Đăng Quế. Sau giờ giảng sách, ông thường được mời ở lại uống trà. Vua hết lòng tín nhiệm vị cố mạng lương thần này, sáu lần vị Đại thần này xin về hưu nhưng vua vẫn giữ lại để chung lo việc nước.
Năm 1852 quân Pháp đánh đồn Gia Định, quan quân ta lên đóng ở Biên Hòa. Để quyết định chiến hay hòa, vua Tự Đức phái Thượng thư bộ Binh Nguyễn Bá Nghi sung chức Khâm sai đại thần vào Biên Hòa để quan sát. Nguyễn Bá Nghi tâu:
“Sự thế Nam Kỳ chỉ có hòa mới được, chẳng thế sanh nhiều trở ngại khác”.
Sớ này vua Tự đức giao cho Trương Đăng Quế xem, ông đã tâu:
“Người Pháp muốn ở Gia Định, lại toan lấy Định Tường, Biên Hòa. Hòa cuộc không xong, trừ việc vừa đánh vừa giữ thế thì không có chuyện khác được”.
 Vậy là Trương Đăng Quế cùng một ý kiến với Nguyễn Tri Phương chủ trương phải kháng chiến lâu dài
Năm thứ 6 Tự Đức (Quý sửu, 1853), Trương Đăng Quế xin về thăm phần mộ tiên linh, vua ban 2 bài thơ.
Ngày Trương Đăng Quế về hưu (tháng 3 Quý Hợi 1863), Tự Đức năm thứ 16, vua ban các thứ dưỡng lão và khiến đình thần làm lễ tiễn đưa.
Vua Tự Đức đã tỏ lòng mến mộ, luyến tiếc và ca ngợi tài đức của Trương Đăng Quế:
“Xưa nay được một người tôi già có tài, có đức, ít có. Trẫm cũng biết người khanh bệnh yếu, e khó kiếm người thay. Vì có tài, bất luận già trẻ, ưa nhau xin chớ phụ nhau. Nay đã đến ngày tiễn biệt nhau, gắng giữ cho tròn cái chí cao thượng. Tiếc mãi người lão thành. Khanh về cũng nhớ ta, không phải là an cảnh già mà quên được đâu, huống chi cơ trời không nhất định, ta cũng hay đau…”.
Sau khi Trương Đăng Quế về hưu, vua Tự Đức có ban cho bài thơ chữ Hán.
Vua Tự Đức còn bảo Trương Đăng Quế, từ ngày về hưu có biết được gì hay, nghĩ điều gì quan hệ về việc lợi hại trong nước, cho phép phát tạm tâu lên.
Năm thứ 18 Tự Đức (Ất Sửu, 1865) Trương Đăng Quế đau nặng, vua sai đem sâm ban tặng, sai đình thần hỏi nếu có điều gì bổ ích thì ghi đem về kinh.
Ngày 15 tháng 2 năm Ất Sửu (1865), triều vua Tự Đức thứ 18, Trương Đăng Quế từ trần, thọ 73 tuổi.
Vua Tự Đức tặng bài thơ đại ý:
“Một người tôi hiền đã thác rồi, làm sao mà người trong nước khỏi kinh ngạc. Thần hồn của người đã về trên non cao, không mấy đời tái sinh lại nữa. Đối với đời thì người gồm 4 chữ: Phước, Lộc, Danh, Thọ ghi trên minh tinh không thể hết. Đối với Triều đình thì lưỡng triều cố mạng ghi để trong Quốc sử…, người về vườn không bao nhiêu mà phải lo lắng đến nhiệm vụ, người muốn dốc hết lòng trung mà bị bệnh nên không hết tấc dạ, chắc rằng người có âu lo nơi chín suối, mấy cây sổ trước mộ cảm động mà khuynh hướng theo người…”.
Vua sai tỉnh thần mang rượu tới nhà ban tế, tuyển thợ xây mộ, bia đề:
“Lưỡng triều cố mạng lương thần Trương Văn Lương chi mộ”.
Mộ Trương Đăng Quế tọa lạc tại ấp Mỹ Khê trên khoảnh đất rộng 1 mẫu rưỡi, chung quanh có trồng dương liễu, sát mộ bia có 10 cây thông, 4 trụ 4 bản, thành ngoài dày 1 thước 30, thành trong chạm trỗ kỳ công, trước mộ có nhà bia, nơi có bài văn bia Thần đạo chạm trên đá của Tuy Lý vương. Vua truyền chờ hết tang tuân lời tiên đế cho tòng tự ở Thế miếu.
Trích: ĐỊA CHÍ VĂN HÓA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Giáo sư Trần Văn Giàu (chủ biên)
Thâu hồi thành Phiên An được mấy tháng thì qua đầu năm 1836, Minh Mệnh cử đại thần Trương Đăng Quế đi Kinh lý Nam Kỳ. Ngày 24-2 (1836), Quế đến Sài Gòn với 3 nhiệm vụ chính:
- Duyệt số dân và tuyển chọn quân (duyệt tuyển).
- Đo lại ruộng đất và lập địa bạ (đạc điền).
- Giải quyết tại chỗ một số vấn đề khẩn trương khác.
… Cuộc kinh lý 1836 đã giải quyết những việc như duyệt dân, tuyển lính, thanh lọc hàng ngũ quan lại, xếp đặt thể lệ chuyển vận đường sông chia cắt lại đơn vị hành chánh, xếp đặt lính tráng, bố phòng những đồn bảo trọng yếu, định lệ thưởng phạt trong việc khai hoang lập ấp v.v… Song kết quả đáng kể hơn hết là lập được “Đinh bạ” và “Địa bạ” cho mỗi thôn xã ở Nam Kỳ, đối với nhà nước thì đỡ tình trạng trốn xâu lậu thuế, hay lẫn vào bưng biền để tụ tập khởi loạn, đối với xã hội thì bờ cõi đã đúng, kẻ giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản.
Cách làm sổ bộ đó khá chính xác, sau này người Pháp thuộc địa cũng thán phục nhất là địa bạ, có trường hợp đến đầu thế kỷ 20, họ vẫn lấy đó làm căn cứ để giải quyết các vụ tranh chấp ruộng đất.
Kết quả cụ thể của cuộc kinh lý 1836, là tạm thời làm chậm tình trạng phân hóa giai cấp ở nông thôn, mỗi xã thôn đều có địa phận canh tác để sinh sống, mỗi nông dân đều có quyền trưng khẩn đất hoang làm ruộng.
Đạt được kết quả đó cũng nhờ ở hoàn cảnh Nam Kỳ khi ấy còn rộng, dân còn thưa, diện tích canh tác rộng thêm thì sản ngạch lúa gạo càng nhiều thêm, số lúa gạo dư thừa trở thành hàng hóa tất sẽ làm cho các thị trấn nhất là Sài Gòn càng thêm sầm uất và mở mang.
Công tác duyệt tuyển và đạc điền nổi tiếng đó chỉ tiến hành trong 5 tháng là hoàn tất.
Trích: CHẾ ĐỘ CÔNG ĐIỀN CÔNG THỔ TRONG LỊCH SỬ KHẨN HOANG LẬP ẤP Ở NAM KỲ LỤC TỈNH
Nguyễn Đình Đầu
Gia Long chết, Minh Mệnh kế vị làm vua từ 1820 đến 1840. Khi mới lên ngôi, Minh Mệnh tiếp tục chính sách cai trị của Gia Long đối với Gia Định từ năm 1808 đã được nâng lên làm Gia Định thành, tương đương như Bắc thành, để cai quản chung cả vùng. Ngay năm 1820, Minh Mệnh cử Lê Văn Duyệt làm tổng trấn với quyền hành rất lớn. Lê Văn Duyệt nguyên là võ tướng, tác phong và cách cai trị rất nghiêm khắc. Ngoài nước thì quân Xiêm ngại Duyệt nên không dám xâm phạm Cao Miên, trong nước thì bọn “yên hùng tứ chiếng”, “trộm cướp tay chơi” sợ Duyệt nên ít hó hé. Tuy nhiên đây là một chính sách cai trị có tính tản quyền và phần nào “địa phương tự trị”.
Năm 1832, Lê Văn Duyệt chết. Chỉ vài tháng sau, Minh Mệnh chấm dứt chế độ tản quyền, ra lệnh:
“Từ Quảng Nam đến Gia Định mỗi hạt đặt chức: đốc, phủ, bố, án và lãnh binh. Còn nguyên trước đặt các chức Tổng trấn, các tào và trấn thủ, tham hiệp đều bãi”.
Nam Bộ chia ra thành sáu tỉnh. Song vừa được mấy tháng, Lê Văn Khôi đã nổi lên chiếm Gia Định và nhiều nơi khác, dân nghèo theo rất đông. Năm 1935, quân triều đình mới lấy lại được thành, hồi đó còn gọi là thành Phiên An.
Sau những biến cố đó, Minh Mệnh đem áp dụng chế độ công điền công thổ vào Nam Kỳ. Không hiểu vì tình hình bắt buộc hay do xu hướng tinh thần mà Minh Mệnh làm vậy. Hoặc vì cả hai lý do. Chúng ta biết rằng Gia Long thì thực tế còn Minh Mệnh thì lý thuyết hơn. Minh Mệnh thiên về chính sách bình quân, muốn trở lại một xã hội nông nghiệp thuần túy, ghét dân mại nghiệp (nghĩa là người buôn bán), không chịu để cho Nam Kỳ ở riêng một khoảnh, theo riêng một chế độ, chế độ mạnh được yếu thua, thì Nam Kỳ sẽ đầy dẫy dân nghèo và trộm cướp, rồi loạn lớn. Phải chăng bởi tình hình đó, do lập luận đó, Minh Mệnh đã làm ngược lại Gia Long tức là đã đem áp đặt triệt để chế độ công điền công thổ vào Nam Kỳ, coi đó vừa là giải pháp kinh tế, xã hội vừa là giải pháp chính trị để “yên dân”.
a. Đạc điền và lập chế độ công điền công thổ.
Trước khi cử đoàn kinh lý, Minh Mệnh tuyên bố lý do: “Nhân dân sáu tỉnh Nam Kỳ từ lâu được nhờ ơn huệ sâu dày của các thánh (tức các chúa Nguyễn)… Vài mươi năm gần đây vì những người được chuyên quyền trọng trấn như Hoàng Công Lý và Lê Văn Duyệt chỉ biết tham lam quê kệch để mưu việc riêng, quen thói kiêu căng mà xúc phạm người trên. Việc cai trị và phép tắc làm quan ngày một bỏ mất, phong tục nhân dân và lề thói nhân sĩ dần dần kiêu căng xa xỉ. Tệ hại dần chứa, lâu ngày thành quen nếp, gây tai họa biến loạn: Lê Văn Khôi giữ thành làm phản gieo họa đến dân đen. Giặc Xiêm nhòm được kẽ hở kéo đến xâm lấn, làm cho tai vạ lan rộng biên thùy… Nay phái Kinh lược sứ đi đến sáu tỉnh thay trẫm kinh lý một phen”.
Đoàn Kinh lược này có nhiều nhiệm vụ, song việc đạc điền lập địa bộ là quan trọng hơn cả. Vì từ trước đến nay, các làng ở Nam Kỳ chưa có địa bạ, việc đo đạc ruộng đất chưa hề làm. Ai muốn làm ruộng đâu cũng được, chiếm hữu tự do, khai thuế đại khái, không có sổ sách ghi chép cẩn thận những kẻ cường hào ác bá xâm chiếm hết đất đai. Lần hồi, xảy ra nhiều vụ kiện tụng tranh chấp ruộng đất liên miên, không căn cứ vào đâu mà phân xử. Do đó, trong chỉ thị cho đoàn Kinh lược trước khi lên đường có nói rõ:
“Phàm tất cả mọi việc quân dân, hễ điều hại nên bỏ, điều lợi nên làm, thì chuẩn cho lần lượt tâu lên mà làm. Mà việc ranh giới ruộng đất lại càng trọng yếu. Xưa nay ruộng đất đều có ghi rõ mẫu, sào, thước, tấc, đó là phép thường, không thay đổi. Các tỉnh trong khắp nước đều như thế cả, há có lý nào sáu tỉnh Nam Kỳ lại khác, riêng theo nếp cũ hay sao? Trong sổ ruộng ít thấy ghi rõ mẫu, sào và hạng bậc đẳng điền, mà cứ tính là một dãy, một thửa, có đến 8, 9 phần 10. Như vậy không những hầu như quê mùa, không phải là qui chế thống nhất, mà ranh giới không rõ ràng, lại để sinh ra mối tệ. Nếu xảy ra án kiện tranh giành thì đông tây tứ chi lờ mờ, không lấy đâu chứng cứ; quan lại giảo quyệt, cường hào điêu toa càng dễ xoay xở, thì lấy gì mà xử án dứt khoát và dập tắt tranh giành. Thực có nhiều điều bất tiện. Trước giờ còn cứ rập theo, chưa kịp đề ra việc này. Nay sự biên đã yên, thì việc này phải nên kinh lý làm trước”.
Phái đoàn Kinh lược “đạc điền” Nam Kỳ năm 1836 rất quan trọng, cầm đầu phái đoàn là những trọng thần có uy tín nhất triều đình lúc đó: “Binh bộ thượng thư Cơ mật đại thần Trương Đăng Quế và Lại bộ thượng thư Nguyễn Kim Bảng (sung làm Kinh lược đại sứ; thự Lễ bộ hữu thị lang Tôn Thất Bạch và thự Thông chính sứ Nguyễn Đắc Trí sung làm phó sứ; nhằm giờ lành ngày 18 tháng 2, mang cờ và bài đem theo các viên dịch tùy biện, do đường thủy đi”. Thuyền đi 6 ngày đã đến Gia Định. Vừa tới Cần Giờ đã có sẵn 200 biền binh dưới quyền, một quản cơ và 4 suất đội “đến nghênh tiếp, làm thuộc hạ để sai phái”. Nguyễn Kim Bảng đến Gia Định bỗng ngã bệnh, Trấn Tây tướng quân Trương Minh Giảng thay làm Kinh lược đại sứ.
Đoàn Kinh lược phân công nhau như sau: phó sứ Tôn Thất Bạch và Nguyễn Đức Trí thì đi Biên Hòa, Định Tường để khám đạc. Trương Đăng Quế ở lại Gia Định năm ba ngày xếp đặt việc chung rồi cũng lên đường đi Vĩnh Long, An Giang. Như vậy là một nửa phụ trách miền Đông và một nửa phụ trách miền Tây.
Trương Đăng Quế tâu ngay về triều:
“Hạt này, sau nạn binh lửa, dân mới được yên ổn sum họp. Về việc tuyển lính, những kẻ ngu lười, yên thói cũ, lúc mới thì hoang mang sợ hãi, đến khi được các phủ huyện theo lời dụ, dẫn bảo, bấy giờ mới hơi yên ổn. Quan tỉnh hiện đương gọi và tuyển lính. Duy về việc đạc ruộng, nhân dân sở tại ít người biết toán phép, không khỏi một phen phải tốn công chỉ bảo cho nhiều người tập quen để sẽ lần lượt tiến hành. Thần đã sai giáo thụ (học quan ở phủ), huấn đạo (học quan ở huyện) hiệp với các viên phủ huyện cùng làm, ngõ hầu mới mong xong sớm được”.
Minh Mệnh phê bảo:
“Đừng để lời phao đồn làm mê hoặc!”.
Việc duyệt tuyển và đạc điền toàn bộ sáu tỉnh Nam Kỳ thế tất làm hoang mang lúc đầu và xáo trộn mọi sinh hoạt, dù cho đoàn Kinh lược đã vào làm việc khi sau Tết chưa phải ngày mùa. Như trong tờ tâu của quan tỉnh Gia Định gởi về có nói:
“Năm ngoái, thuê mướn dân phu ở tỉnh hạt và ở Vĩnh Long, Định Tường để san bằng thân thành Phiên An cũ, và lấp các hào rãnh; đến nay công việc mới được quá nửa. Bây giờ có việc tuyển lính và đạc ruộng, dân các tỉnh gián hoặc có người phải đăng lính, có người phải nêu nhận ruộng đất, vậy xin hãy tạm thả cho họ về; chờ khi vãn việc sẽ tiếp tục làm”.
Vua y cho.
Vì theo thể lệ hồi đó, mỗi kỳ duyệt tuyển nghĩa là duyệt dân tuyển lính thì toàn thể dân đinh do thôn trưởng hướng dẫn phải kéo nhau đến trường duyệt tuyển ở tỉnh để quan khâm sai từ kinh tới và quan tỉnh điểm danh, xem sức khỏe và tầm vóc của mỗi người để định đoạt cả việc tuyển quân lẫn mức thuế. Còn việc khám ruộng và đạc điền thì tất cả lại phải kéo nhau tới hiện trường. Việc đo khám và định hạng ruộng đất cũng làm công khai như việc duyệt tuyển vậy. Bao giờ cũng phải có mặt của kinh phái, tỉnh phủ huyện, tổng xã và đương sự. Mọi sự khiếu nại có thể đưa ra ngay tại hiện trường. Sự thỏa thuận chung là cần thiết.
Nhân xin nói qua nội dung của sổ địa bạ. Địa bạ khác nào như tấm địa đồ của làng. Theo đó ghi từng thửa ruộng, mảnh đất với diện tích bao nhiêu mẫu sào thước tấc, tọa lạc tại đâu, giáp giới tứ cận thế nào, thuộc quyền sở hữu của ai, vì đâu mà có, trồng loại cây gì, làm nhà, để mồ mả hay hoang phế. Ruộng lúa thì thuộc đẳng điền nào, và nếu cộng điền cộng thổ thì phải ghi riêng. Theo nguyên tắc, làng nào cũng phải có địa bạ vì ngay khi xin lập làng mới đã phải có địa bạ kèm theo. Rồi khi tính thuế, người ta sẽ căn cứ vào địa bạ để làm ra điền bạ. Trong điền bạ còn phải ghi rõ cả số lúa, số tiền thuế tính riêng từng thửa ruộng đất rồi cộng chung cho cả làng. Nhưng ở Nam Kỳ vì pháp luật còn lỏng lẻo nên các sổ đinh điền chưa được phân minh. Phái đoàn Kinh lược 1836 thực hiện lần đầu ở Nam Kỳ những sổ bạ đó theo đúng qui cách chung của toàn quốc… Đồng thời các đạc điền quan cũng dùng những thước đã được định chuẩn mệnh danh là quan điền xích để đo khám ruộng đất co giản tùy tiện theo thỏa thuận từng địa phương, có khi chỉ giữa một số người với nhau.
Các nhân viên tùy biện của đoàn Kinh lược lần này gồm đa số là đạc điền quan, những người biết đo đạc, tính toán, định phương hướng, vẽ địa đồ. Họ cũng là những người đã quen việc lập sổ địa bạ theo cung cách chung của cả nước… Trong địa bạ của mỗi làng hầu như bao giờ cũng có những mục riêng dành cho công điền công thổ. Vậy trong tình hình bê bối về chiếm hữu ruộng đất ở Nam Kỳ mà có lẽ triều đình đã nắm được phần nào, các đạc điền quan phải biết giải quyết và đối phó trước mỗi trường hợp tranh chấp hoặc rắc rối. Riêng đối với mục công điền công thổ, thì sẽ tính sao đây? Có nên theo tục lệ truyền thống của cả nước và xã thôn mà định đoạt khắp lục tỉnh Nam Kỳ? Chắc trước khi phái bộ lên đường, triều đình đã hội bàn, tìm ra phương hướng rồi chỉ thị cho đạc điền quan cách giải quyết đối với mục công điền công thổ.
Chúng ta chưa tìm thấy tư liệu về sự quyết định thiết lập chế độ công điền công thổ ở Nam Kỳ qua những cuộc tranh biện ở triều đình hay chỉ thị áp dụng nói trên, nhưng qua những bản trẩn tấu và thành tích kinh lý trình bày sau đây, chúng ta có thể khẳng định rằng chế độ công điền công thổ đã được thiết lập tại Nam Kỳ nhân cuộc kinh lý năm 1836.
Chúng ta hãy trở lại với cuộc kinh lý này. Mới ở Nam Kỳ được 2 tháng, Trương Đăng Quế đã tâu báo về kinh:
“Lính mới tuyển ở Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường đã gần đủ số. Còn việc đạc ruộng đã làm thử ở chỗ gần, thấy dân tình cũng có một vài người không vui, nhưng phần đông đều muốn đo đạc. Vì Nam Kỳ chứa chất tệ hại đã lâu, cường hào cậy mạnh bá chiếm, người nghèo không đất cắm dùi. Có kẻ biệt xã chiếm ruộng đất xã khác, mà người xã sở tại lại phải tá ngụ để cày cấy và ở. Có nơi ruộng có một thửa, tô thuế nguyên trưng không quá 3, 4 hộc, nay đã chia làm 6, 7 thửa bán cho người khác, mà các người mua ấy đều phải nộp thóc gấp bội cho chủ nguyên trưng thu riêng, lại còn nhiều nỗi sách nhiễu không kể xiết! Nay khám đạc lại thì mọi người cứ chiếm phần mình cày, cấy, nộp thuế, không bị cường hào ức hiếp. Ngoài ra, đất bỏ không có ra sức khai khẩn cày cấy thì dân thường cũng được chia lợi. Cho nên người thích muốn đạc ruộng thì nhiều… Thế thì việc đạc ruộng cũng là điều người muốn làm, chứ không phải là làm đau khổ dân”.
Như vậy, về mặt dư luận, tình hình thuận lợi hơn trước như về kỹ thuật, sứ bộ còn gặp khó khăn vì số đạc điền quan kinh phái thì ít mà người địa phương thì chưa quen việc đo tính và lập địa bạ. Vả lại, số xã thôn phường ấp ở lục tỉnh khi đó đã lên tới khoảng 1.700 đơn vị (chúng tôi phỏng đoán giữa hai con số 1.489 của Gia Định thành thông chí và 2.063 của Đại Nam nhất thống chí, do chúng tôi cộng lại), đây là một số lượng công tác rất lớn. Ngoài ra, có những thửa ruộng trước chỉ đóng thuế ba bốn hộc thóc nhưng tới lúc hạ thước đo thì đi nửa ngày mới hết chỗ cấy cày. Đo được những thửa ruộng như vậy cũng rất vất vả. Nên tờ tấu trình nói thêm:
“Duy từ quan lại ở tỉnh đến các tổng lý, không một ai am tường về địa phận đông tây, về phân số mẫu sào và những cách nêu ruộng, ghi nhận, tính, đo! Bọn thần đã chỉ bảo hai ba lần cho đến khi họ thông thuộc được, kể cũng rất gian khổ. Trong các số ruộng đem đạc có chỗ nguyên trưng là ruộng, mà nay thành ra vườn tược, nhà ở, có chỗ có cày cấy thực mà không có sổ; có chỗ ở xã khác mà ghi vào bán xã; có chỗ trưng là một thửa mà nay chia làm mấy chục thửa, chuyển bán cho người ta rồi; có chỗ trước gọi là một thửa, mà dài rộng quanh co đi đến nữa ngày đường mới hết chỗ cày cấy thực! Sự tình dường ấy không phải kể một nơi mà đủ cả được. Cho nên có đo đạc, tất phải kê cứu, nên không tránh khỏi kéo dài ”.
Minh Mệnh được tin báo, rất mừng, liền thưởng thăng cấp và tiền bạc cho cả phái bộ lẫn quan lại địa phương, đồng thời chỉ thị cho gửi thêm đạc điền quan vào Nam Kỳ phụ giúp cho việc kinh lý.
Phái bộ kinh lý làm việc khẩn trương và cũng rất nghiêm túc, như khi “có tên nhũng lại ở tỉnh Định Tường là Tống Hữu Tài nhân đưa qui thức đạc điền, sách nhiễu lấy tiền của dân. Việc phát giác, bọn Giảng liền đem chém để làm gương răn”. Cho nên phái bộ kinh lý chỉ mất đúng năm tháng (18 tháng 2 đến 18 tháng 7) đã hoàn thành công tác đạc điền cho khắp Nam Kỳ lục tỉnh, một công tác hết sức phức tạp và vĩ đại, một công tác mà chính thực dân Pháp sau này phải thán phục. Họ cho rằng chỉ có những nước có trình độ văn minh cao mới thực hiện được công trình đạc điền kinh lý chính xác như vậy, và các bản địa bạ 1836 đó vẫn có giá trị pháp lý và làm căn cứ cho các công cuộc kinh lý trắc địa sau này.
b. Công điền công thổ trong địa bạ 1936.
Sau khi hoàn tất việc kinh lý, Trương Đăng Quế, Tôn Thất Bạch, Nguyễn Đắc Trí đi đường trạm về kinh phục mệnh, còn Trương Minh Giảng lại về thành Trấn Tây (tức Nam Vang) giữ chức. Trước hết, họ đệ trình bản sách ghi rõ mục ruộng đất:
“Trước ruộng đất nộp thuế là linh 20.197 sở, 13 dây, 8 khoảnh và hơn 3.464 mẫu”.
Nay đạc thành các hạng ruộng đất là hơn 650.075 mẫu. Lại nguyên ruộng trước có linh 65 sở, nay khám ra thành 1.017 khâu ao cá”.
Tiếc rằng chúng ta chưa tìm ra “bản sách ghi số mục ruộng đất” hơn 630.075 mẫu, để biết được số lượng công thổ tổng cộng của cả Nam Kỳ là bao nhiêu. Tuy nhiên, bản kết toán kinh lý còn có nhiều điều khoản liên quan đến công điền công thổ trong “14 điều khoản châm chước bàn định nên làm để tâu lên”. Sự kiện này chứng tỏ đoàn Kinh lược đã dụng ý thiết lập chế độ công điền công thổ tại đây, và số lượng công điền công thổ của mỗi làng nếu cộng chung lại chắc đã lên tới mức đáng kể.
Trong 14 “điều khoản” áp dụng để lập địa bạ, có 7 điều khoản trực tiếp nói tới công điền công thổ còn 7 điều khoản nữa thì không. Nhưng muốn hiểu thêm chế độ công điền công thổ, ta cũng nên biết tới quan niệm của người xưa về cách cư trú, chiếm ruộng đất, nên chúng tôi trích lại toàn văn cả 14 điều khoản và chỉ nhấn mạnh trên những điều liên quan đến công điền công thổ:
“1. Trước trong sổ nộp thuế là ruộng, nay khám đạc là thổ; trước trong sổ nộp thuế là thổ, nay khám đạc là ruộng; trước hoang vu, nay hiện đã thực sự cày cấy, đều theo sự thực, khai vào các hạng. Gián hoặc trước trong sổ là ruộng thực, mà nay khám ra toàn trồng dâu, mía và cau, cũng có một hai phần tách ra, thì cũng theo thực sự, khai vào các hạng thổ đánh thuế.
2. Các hạng ruộng đất nộp thuế trước, gián hoặc có chỗ xây dựng miếu mạo, đền chùa và nơi để mồ mả, thì tách chiêu đạc biên vào sổ.
3. Những đất dân cư, chỗ nào là đất hoang và gò đồng, trong sổ không ghi người nào trước đã nộp thuế thì liệt làm hạng đất dân cư (dân cư thổ) miễn thuế; nếu có chủ khai nhận, thì cho dân đánh giá, nộp thuế theo hạng đất công.
4. Trong số trước là thực trưng, nay khám ra còn một hai chỗ hoang vu thì căn cứ vào ruộng thực canh, đã đạc thành mẫu thành sào, trước bạ; còn thì liệt vào hạng lưu hoang, đều do quan địa phương sức dân khai khẩn cày cấy thành ruộng, cho làm hạng công điền, bắt nộp thuế.
5. Các hạng ruộng đất của các xã thôn trước đã nộp thuế, có lệ thuế trong điền bạ ở thôn này, mà ruộng đất tọa lạc ở thôn khác, và điền bạ theo tỉnh này, mà ruộng đất lại tọa lạc ở tỉnh khác, nay cho trả về số địa bạ của tỉnh và thôn mà ruộng đất đã tọa lạc ở đó.
6. Ruộng đất thực canh, ở trong sổ khai là cả thôn ấy cùng cày cấy, “bốn thôn đồng canh”, thì cho là hạng ruộng đất công. Gián hoặc có những chủ ruộng trốn đi hoặc chết, mà không có con cái, thì giao cho dân sở tại nhận cày cấy, nộp thuế theo hạng ruộng đất công.
7. Ở ngoài phụ quách thành Phiên An cũ, trừ ra những nơi đặt làm thành mới Gia Định và những chỗ liệu để làm quán xá, quan trại, thủy trường, còn thì đạc được hơn 400 mẫu, cho dân phụ cận lập sổ địa bạ, nộp thuế theo hạng công thổ.
8. Một thửa đất, thành cũ Định Tường, trước đạc được hơn 40 mẫu, cho dân sở tại cày cấy, nộp thuế theo hạng công điền.
9. Gia Định có 3 thửa ruộng bỏ hoang, trước cấp cho đội An Lương khai khẩn cày cấy đã thành ruộng, nay đạc được 14 mẫu linh, cho dân nhận lãnh canh tác, nộp thuế theo hạng ruộng công.
10. Ở Hà Tiên có 3 thửa quan điền, trước không phải nộp thuế, cấp cho cơ Hà Tiên cày cấy; nay đạc thành ruộng được 75 mẫu linh, vẫn để cho lính cơ, nộp thuế theo hạng quan điền.
11. Ở Định Tường, trước kia Tôn Thất Chương để lại 2 thửa ruộng cỏ, từ trước vẫn cho người tá canh, nửa vời, các điền hộ chuyền tay nhau bán đi; nay khám ra là 50 thửa, mà dấu tích tá canh hãy còn rõ ràng thì có 6 thửa đạc được 398 mẫu linh, vẫn giao cho chủ trước. Còn 44 thửa, đạc thành 359 mẫu linh, thì cho nhân dân lãnh nộp thuế, liệt vào hạng ruộng công.
12. Nhân dân xã nào đã trốn tránh tan tác, địa phận của họ không ai đứng nhận đo đạc thì sức cho tổng trưởng sở tại gọi những xã thôn bên cạnh nhóm lại tiếp nhận, khám đạc, rồi căn cứ vào sổ ruộng đất, lập thành sổ địa bạ, cho người tá canh nộp thuế; đợi khi dân ấy về, lại cho nhận ruộng cày cấy và cư trú.
13. Thôn xã nào trước không có địa phận, lại không có ruộng đất nộp thuế ở đâu, duy có mua được một hai thửa ruộng đất ở thôn khác để ngụ cư mà hiện có số dân và ngạch lính, thì cho tách lấy chỗ ruộng đất đã mua ấy làm địa phận, xây dựng địa bạ. Gián hoặc có một hai xã thôn, trước không có địa phận, cũng không có ruộng đã mua và đóng thuế, mà chỉ ở nhờ ruộng đất người khác, hiện nay đã thành làng xóm thì cũng cho xắn lấy số ruộng đã ở nhờ đó là địa phận mình. Nếu thôn xã nào ở tản mác, không có thành thôn xóm, thì do quan địa phương xét xem trong hạt, những nơi rừng rú gò đồng bỏ hoang mà có thể cày cấy, cư trú được thì cho họ lập ấp, làm sổ địa bạ, để họ được yên cư.
14. Các hạng ruộng đất, trước ở trong đó, gián hoặc có chỗ trước bạ hai lần hoặc có chỗ bỏ hoang mà không rõ tọa lạc nơi đâu, nay xét ra quả thực là đúng, thì đều cho miễn trừ”.
Những điều khoản trên đây rất súc tích và cụ thể, nếu nghiên cứu kỹ có thể hiểu được những khái niệm của người xưa về địa phận xã, an cư lạc nghiệp, lập ấp mới, sổ địa bạ, đồn điền, quan điền và đặc biệt nơi đây là nguồn gốc của công điền công thổ. Tới nay, hầu như tư liệu này chưa được khai thác đúng mức.
Sau khi đọc xong bản tấu trình các điều khoản trên, Minh Mệnh nói với Nội các:
“Lục tỉnh Nam Kỳ, bấy nay những xứ sở bờ mốc ruộng đất đều lộn xộn. Nay Kinh lược đại thần thân đi xem xét tại chỗ, bàn kỹ từng khoản, đều được ổn thỏa hợp lý, chuẩn cho thi hành như lời đã bàn…
Vậy truyền chỉ cho đốc, phủ, bố, án ở các tỉnh chuyển sức cho các phủ huyện chiếu theo những xã thôn thuộc hạt phải lấy sổ ruộng mới đạc làm chuẩn đích, lập rõ giới hạn, hoặc dùng nêu gõ, hoặc chôn mốc đá, ghi dấu rõ ràng, để trong chỗ làng mạc cứ theo đấy, cùng sống yên ổn”.
Cuộc kinh lý năm 1836 đã giải quyết nhiều việc như duyệt dân tuyển lính, thanh lọc hàng ngũ quan lại, xếp đặt thể lệ chuyển vận đường sông, chia cắt lại đơn vị hành chánh, cắt đặt lính tráng bố phòng những đồn bảo trọng yếu, định lệ thưởng phạt trong việc khai hoang lập ấp,… nhưng kết quả đáng kể hơn cả chính là việc lập địa bạ làm cho “bờ cõi đã đúng, kẻ giàu không được bán chiếm, người nghèo đều có tư sản”. Triều đình Huế đã hãnh diện và hài lòng về chuyện kinh lý này, nên Trương Minh Giảng được thăng chức Đông các đại học sĩ, Trấn Tây tướng quân lãnh tổng đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên); Trương Đăng Quế được thăng Hiệp Biện Đại học sĩ lãnh thượng thư bộ Binh, sung Cơ mật viện đại thần; Tôn Thất Bạch, Nguyễn Đức Trí cùng các tùy viên khác cũng được thăng chức hoặc khen thưởng (như vậy Trương Minh Giảng được thăng tới tòng nhất phẩm). Quan lại và lý dịch địa phương cũng được khen thưởng nhiều ít tùy công lao. Ngoài ra, triều đình còn định lệ thưởng phạt cho quan lại và lý lịch tùy theo mức độ khai hoang hoặc để hoang nhàn ruộng đất.
Địa bạ 1836 đã làm cho “kẻ giàu không được bá chiếm, người nghèo đều có tư sản”, đã thiết lập chế độ công điền công thổ ở Nam Kỳ. Nhưng cái “tư sản” có của người nghèo còn quá nhỏ, nên nhà nước quân chủ đương thời đã tìm biện pháp nới rộng thêm phạm vi của công điền công thổ ngõ hầu đem quân cấp cho dân nghèo.
MỘT QUAN NIỆM VỀ PHƯƠNG PHÁP ĐỌC SỬ
(Trích) Ưng Trình
Về Thực Lục, chúng ta đã đọc truyện bà Từ Dũ, truyện tên Đoàn Hữu Trưng, và đã phê bình; nay chúng ta muốn nhận thức sự nghiệp của một nhà đại nho, suốt đời đã chịu hy sinh, trước lợi quyền của dân của nước.
Truyện về Trương Đăng Quế, Tuy Lý Vương có tâu với vua Tự Đức rằng:
“Triều Minh Mệnh, chúng tôi theo học với Thân Văn Quyền, sau chúng tôi có thọ nghiệp với Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản. Tối hậu, chúng tôi chỉ chuyện học anh tôi là Miên Thẩm. Bốn nhà này, chưa bàn đến văn thơ, chỉ xét về tư cách làm người, thì mỗi việc làm, mỗi lời nói đều là thước ngọc khuôn vàng; còn về học thức thì rất uyên thâm, từ xưa đến nay, chúng tôi chưa thấy một nhà nho nào như thế ”.
Những lời trên này, có đăng trong tập văn Vỹ Dã, quyển nhất. Vậy thì về Trương Đăng Quế, Tuy Lý vương đã nhận thức phê bình.
Cũng trong tập văn Vỹ Dã, quyển bốn, Tuy Lý vương có làm bài “Thần đạo bi”, trò kể sự nghiệp của thầy, chạm vào bia; nay chúng ta không phê bình gì thêm, chỉ lấy vài đoạn trong bia, cũng đủ.
Tiên sinh người làng Mỹ Khê, phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Từ thuở nhỏ, về văn học, tiên sinh đã nổi tiếng đầu cả miền Nam. Khoa Kỹ Mão (1819) ra Huế thi, khi đi qua Hải Vân quan, thơ tiên sinh có câu, đến nay vẫn còn truyền tụng:
“Cử đầu sơ nhật thượng.
Hồi thủ chúng sơn đê”.
(Nhìn lên vùng ánh sáng, Ngó xuống dãy non xanh). Vùng ánh sáng là tượng trưng có chúa anh minh; dãy non xanh, là nói bạn thanh niên, căn bản tương lai của nước.
Tiên sinh đậu Cử nhân khoa ấy, đến năm thứ 14 triều Minh Mệnh, (1833), tiên sinh đã làm đến Thượng thư Bộ Binh. Về chính trị và kinh tế, tiên sinh là nhân vật duy nhất của thời đại; ngoài Bắc có giặc, vua nhờ tiên sinh ra, trong Nam có bọn phiến loạn ở Cao Miên sang, vua cũng nhờ tiên sinh đối phó.
Đến tháng chạp năm thứ 21 (1840), vua Minh Mệnh vời tiên sinh đến một bên Ngự tháp; lúc ấy tiên sinh tuân mạng, tuyên bố giữa Tôn nhân và Đình thần rằng:
“Hoàng đế ban: Miên Tông Hoàng trưởng tử sẽ nối ngôi”.
Tiên sinh đóng vai Cố mạng Lương thần được vững vàng, là nhờ đã có sẵn uy tín.
Suốt 7 năm triều Thiệu Trị, tiên sinh cầm cán nước, điều khiển cả các cơ quan, từ Bắc đến Nam, lúc ấy nhà nước đương tuyển cán bộ chính trị trong bọn nhà Nho, có ba khoa Điện thí, tức là chọn hạng Tiến sĩ xuất thân, thì tiên sinh làm chức Độc quyển, nghĩa là chấm quyền thế vua, duy tiên sinh là người được giới sĩ phu đều tôn lên bậc thầy, bậc sơn đẩu.
Tháng 9 năm Đinh Vị (1847), vua trao cho tiên sinh bản Di chiếu nhờ phò Hoàng nhị tử Hồng Nhậm kế thống; vậy tiên sinh chịu chức Cố mạng lần thứ hai, vua Tự Đức lên ngôi, mời thêm Nguyễn Tri Phương, Vũ Văn Giải, Lâm Duy Nghĩa, đồng sung Phụ chính.
Năm 1855, tiên sinh soạn xong pho Hội điền, năm 1856, tiên sinh tu chính pho Việt sử; ngoài ra, về chính trị, về văn hóa, nhà nước kiến thiết những cơ quan gì, vua cũng phải nhờ tay tiên sinh tổ chức. Tuy tiên sinh có vạn việc, song khi nào cũng ung dung; người ta đã hình dung tiên sinh bằng một câu thơ:
“Ưu dân như hữu bệnh,
Kiến khách tợ vô quan!”
(Lo cho dân, như dân đương mắc bệnh; khi tiếp khách, thì như người không có một chức vụ gì).
Tiên sinh làm Tể tướng hơn 20 năm. Cung hàm đến Thái sư. Tước phong đến Quận Công, Điện hàm đến Cần Chánh, thế mà ngày tiên sinh về hưu, tại làng chỉ có một nóc nhà tranh, tiên sinh có đề trước cửa ngõ một câu đối rằng:
“Cố quận tự liên vô biệt nghiệp
Thử sinh nguyên dĩ hứa vi thần!”
(Về làng chẳng có cơ đồ sẵn; Giúp nước không màng lợi lộc riêng).
Tiên sinh vẫn tự hào, thường nói với con cháu rằng:
“Nếu muốn có lầu đài, thì ngày xưa ta đã đi làm nghề khác!”.
Dân tộc Việt Nam chúng ta may có Trương tiên sinh đại biểu, trên cõi Đông Nam Á, chúng ta có thể hãnh diện với người. Cả đời công, cả đời tư, tiên sinh tự giữ được hoàn toàn, trong nước cũng như trong nhà, không ai dị nghị gì được nữa.
Tiên sinh có để lại một tập thơ, một tập văn, tác giả tựa đề là “Học văn dư tập”   tác giả cho biết:
“… Ban đầu, tìm hiểu các phép tắc, các tiêu chuẩn của tác gia, rồi bàn luận phân tích, tôi nhận ra rằng, chung qui không ngoài hai chữ tánh linh”.
Mất năm Ất Sửu (1865), năm thứ 18 triều Tự Đức, tiên sinh hưởng thọ 73 tuổi. Cái quan định luận, trong bài Thần Đạo bi, Tuy Lý Vương, vừa là Hoàng tử, vừa là Hoàng đệ, vừa là Hoàng thúc, đã chứng kiến suốt đời, mới dám viết câu:
“Tìm cả ngàn xưa, chưa từng thấy có người như thế ”.
(Cầu chi thiên cổ, duyệt sở hãn kiến).
Trong sách Lữ Khôn có câu: “Ngôn ngữ chi ác, mạc đại ư tạo vu”. Có tổn hại đến danh giá của người đồng thời, hay là người thiên cổ.
Trích: CÔNG VĂN CỦA HẢI QUÂN PHÓ ĐÔ ĐỐC BONARD GỬI THƯỢNG THƯ BỘ NGOẠI GIAO PHÁP.
(EXTRAIT DE LA LETTRE DU AMIRAL BONARD AU MINISTRE DES AFFAIRES ETRANGERES)
Saigon, le 14 Janvier 1863
“… La dernière campagne de 1861, en enlevant les principales forteresses au roi d’Annam, en amenant la destruction de ses armées régulière ainsi que la conclusion et la signature d’ untraité, a complètement changé la face de la guerre, car il ne faut dissimuler que la paix écrite n’ a jamais été loyalement exécutée par la Cour de Hué.
Voyant qu’il ne pouvait résister à une guerre régulière, le Gouvernement Annamite a organisé, ouvertement avant la paix, clandestinement et sourdement après cette époque, sur la surface de la Cochinchine, une insurrection permanente qui a été repoussée partout mais n’a nulle part été dominée, faute de moyens suffisants: c’est un feu qui couve dans la cendre, prête à se rallumer, c’est une cause imminente de ruine, si l’on continue à n’ employer que des demi - moyens pour dominer la situation.
… Il y a à la tête des affaires de Hué et parmi les familles et les hommes influents, deux opinions en présence: le parti des gens sensés, voyant que la continuation de cette guerre ne tend qu’ à ruiner et à désorganiser la Cochinchine, même celle qui est restée sous l’autorité de Hué et à la tête duquel est Phan Thanh Gian, l’un des Ambassadeurs qui, en concluant et en signant le traité de paix, a fait pour ainsi dire la part du fau afin de rétablir l’ordre et la prospérité dans le reste du royaume d’ Annam.
L’autre parti, aveuglé par sa haine pour les Européens à la tête duquel figure le Ministre du Commerce actuel Truong, chargé des relations avec les étrangers, ne quence d’une lutte prolongée et au moyen de laquelle ils espèrent nous lasser, sans s’inquiéter des pertes et des sacrifices.
En ce moment, ce parti semble prendre le dessus: la vie de Phan Thanh Gian est fortement menacée: Je ne m’ étonnerais pas, quoiqu’il soit encore gouverneur des provinces du sud, de le voir obligé de chercher un refuge sur notre territoire.
Le parti hostile à la France se divise en plusieurs catégories, don’t les tendances commencent à se manifester clairrement par leurs actes et proclamations.
Tous s’entendent contre nous, sinon dans le but qu’ils se proposent, du moins pour nous forcer à quitter la Cochinchine.
Quan Dinh, chef de l’insurrection de Go Cong, quoique désavoué publiquement par le Vice Roi de Vinh Long, qui l’a sommé plusieurs fois d’avoir à se retirer pour que le traité de paix fut exécuté, s’y est refusé formellement: il est donc, en apparence en état de rebellion, même le Gouverment de Hué qui lui a donné publiquement des ordres auxquels il a désobéi, mais il est soutenu clandestinement et on lui fait parvenir des armes, des munitions et même des titres et des cachets.
(ASIE, tome 28,Archives du Ministère des Affaires Etrangères Paris)
Dịch:
Saigon, 14 tháng giêng năm 1863
“… Quân đội chính quy của vua An Nam bị đánh tan, các thành trì trọng yếu bị chiếm cứ, đầu mối việc ký kết một hòa ước, chiến dịch cuối cùng 1861 đã làm thay đổi hẳn bộ mặt chiến tranh, vì chẳng nên giấu giếm làm gì thái độ của triều đình Huế không bao giờ chịu thi hành nghiêm chỉnh hòa ước đã ký.
Nhận thấy không thể đương đầu với cuộc chiến chính thức, trước khi hòa bình lập lại, chính phủ An Nam đã tổ chức công khai nhưng bí ẩn và thầm lặng sau ngày ấy, một cuộc khởi nghĩa thường trực trên khắp đất Nam Kỳ. Dầu mọi nơi đều bị đẩy lui, nhưng vì thiếu phương tiện, chúng ta không thể nào dập tắt nổi cuộc khởi nghĩa này, trạng thái rối ren chẳng khác nào khói lửa cháy ngầm vùi kín dưới lớp tro, sẵn sàng bùng lên. Đó là một nguyên nhân gây đổ nát khó tránh được nếu người ta cứ tiếp tục chế ngự tình thế bằng những biện pháp nửa vời.
“… Hiện có hai dư luận đối lập chi phối tình huống chính sự ở Huế giữa các dòng họ và những nhân vật quyền uy: một phe gồm những người thức thời nhận định rằng nếu chiến tranh cứ tiếp tục kéo dài thì chỉ gây đổ nát và rối ren trật tự ở Nam Kỳ, kể cả vùng đất còn thuộc triều đình Huế kiểm soát. Đứng đầu phe này là Phan Thanh Giản, một trong các sứ giả thương nghị và ký hòa ước, đã chịu hy sinh để lập lại nền trật tự và thịnh vượng trên phần đất còn lại của vương quốc An Nam.
Phe kia, mù quáng vì sẵn lòng thù ghét người Tây phương tiêu biểu là Trương Đăng Quế đương kim Thượng thư Bộ thương mại giữ trọng trách giao thiệp với người ngoại quốc. Họ chẳng chịu cân nhắc những nguy khốn gây ra bởi cuộc chiến trường kỳ, mà còn hy vọng dùng phương tiện quấy rối khiến chúng ta mỏi mệt chán nản chẳng cần e ngại bao tổn thiệt và hy sinh.
Hiện thời, phe này dường như lấn át phe kia. Mạng sống của Phan Thanh Giản bị đe dọa nguy kịch. Mặc dù ông ta còn làm Kinh lược sứ các tỉnh miền Nam, tôi, vẫn sẽ không ngạc nhiên khi thấy ông phải xin lánh nạn trong lãnh địa của chúng ta.
Phe thù nghịch với Pháp chia thành nhiều nhóm mà xu hướng của họ bắt đầu được minh chứng rõ ràng qua lắm hành động và tuyên ngôn.
Họ nhất quyết chống lại chúng ta, nếu không nhằm mục đích định sẵn, thì ít ra cũng buộc chúng ta phải rời khỏi Nam Kỳ.
Quản Định cầm đầu cuộc khởi nghĩa Gò Công. Mặc dù Kinh lược sứ Vĩnh Long đã chính thức công kích hành động này và nhiều phen khuyên ông ta rút lui để tiện thi hành hòa ước; ông ta đã nhất quyết cự tuyệt. Như vậy, bề ngoài ông ta ở vào thế phản nghịch, chống lại mệnh lệnh của triều đình Huế ban ra, nhưng sự thật ông ta được khích lệ ngấm ngầm và được cung cấp khí giới quân nhu, luôn cả chức tước và ấn tín nữa”.
Tạp chí Á châu tập 28, văn khổ Bộ Ngoại giao PARIS
Người dịch: Trương Quang Gia
VUA TỰ ĐỨC LÀ CON AI?
Quốc Thái
Đã nhiều năm qua, một số sách báo tạp chí trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều nghi vấn xung quanh nguồn gốc tông tộc của vua Tự Đức. tuy khác nhau ở các chi tiết, nhưng chúng đều thống nhất với nhau ở một số điểm: Tự Đức không phải là con trai của vua Thiệu Trị.
“Dư luận đương thời cho rằng Trương Quang Đản (con Trương Đăng Quế) là con vua Thiệu Trị, còn Tự Đức mới là con của Trương Đăng Quế tư thông với bà Từ Dũ” (Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 1991).
Ông Paul Gally, một giáo sĩ Thiên Chúa giáo, viết ngày 15-1-1852:
“Ông Quế, vị Thượng thư đầy quyền lực ở triều đình đã cướp ngôi của Hồng Bảo để dành cho con rể của ông là Tự Đức”.(YOSHIHARU TSUBOI - Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa - Ban KHXH thành ủy TP. Hồ Chí Minh, 1990).
“Theo lời truyền khẩu, vua Tự Đức là con Trương Đăng Quế thông dâm bà Từ Dũ”. (Giặc chày vôi - Nguyễn Quang, tạp chí Phổ Thông số 32, Sàigòn, 15/4/1960).
“Tương truyền rằng Hồng Nhậm (sau này là vua Tự Đức) là con Trương Đăng Quế, lúc bấy giờ là một quyền thần rất có thế lực tại triều, lại là chồng của một bà công chúa em vua Thiệu Trị, nên xuất nhập bất cấm ở cung điện nhà vua. Nhân dịp vợ vua Thiệu Trị là Hoàng Thái hậu Từ Dũ và vợ Quế cùng sinh con trai nhằm một ngày, Quế lợi dụng sự bất cấm nói trên để đem con trai mình tên là Trương Quang Đản vào nội (giấu trong tay áo thụng), đánh lộn sòng với con trai vua Thiệu Trị. Trong hàng nội giám và thị nữ trong cung, có người hay chuyện nhưng không ai dám hé hôi vì sợ Quế hãm hại. Có lẽ cũng là một duyên cớ cho Đoàn Hữu Trưng vịn vào đó để mưu lật đổ vua Tự Đức và lập con Hồng Bảo là Ưng Đạo lên ngôi”. (Hoàng Trọng Thược, Tinh thần trào phúng thi ca xứ Huế, 1973).
Vua Tự Đức sinh ngày hai mươi lăm tháng tám, năm Kỷ Sửu (22-9-1829) thuộc niên hiệu Minh Mệnh thứ 10. Lúc đó, Hoàng Thái hậu Từ Dũ độ 15 - 16 tuổi. Vua Thiệu Trị còn đang là Hoàng Trưởng tử, 23 tuổi, đang độ cường tráng thanh xuân, khí huyết phương cương, tràn trề nhựa sống, thương yêu bà Từ Dũ hết mực, và tương lai sẽ lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Thế thì bà còn ước muốn cái gì trên đời này nữa mà lại đi thông với một ông quan đáng tuổi cha mình (năm 1829 Trương Đăng Quế 36 tuổi)? Trong thời điểm đó, Trương Đăng Quế còn là ông quan bình thường, chưa có địa vị và tên tuổi gì đáng kể tại triều đình Huế.
Vua Tự Đức sinh ra trong thời kỳ vàng son cực thịnh, đỉnh cao nhất của các vị vua triều Nguyễn. Theo Quốc triều chính biên, Việt Nam sử lược và tư liệu của các sử gia cũng như giáo sĩ thừa sai của Tây phương thì Minh Mệnh là một ông vua chuyên chế, thông minh, cực kỳ nghiêm khắc; rất siêng năng cần mẫn, thận trọng nghiêm túc tối đa trong công việc triều chính và sử dụng nhân sự, việc gì cũng xem xét đến.
Các sử gia Tây phương đã thừa nhận thời kỳ Minh Mệnh là thời kỳ “quân chủ pháp trị”; kỷ luật nghiêm minh, trật tự qui củ, thưởng phạt đâu ra đó. Dù là hoàng thân quốc thích, nếu vô phận sự cũng không được lạm bàn việc triều chính; tham quan ô lại, dù là đại thần cũng bị thẳng tay trừng trị. Điển hình là việc nhà vua ra lệnh chặt tay Nguyễn Đức Tuyên, một viên quan tư vụ nội vụ ăn bớt nhựa thơm công quĩ. Tháng tư năm Đinh Hợi (1827), Minh Mệnh đã cho thi hành tức khắc án tử hình viên Chánh án Nam Định là Phạm Thanh và thư ký là Bùi Khắc Khan, can tội tham nhũng (bị chém ngang lưng), tịch thu gia sản phát cho dân nghèo. Tri phủ Nguyễn Công Túy tham tàn phải tội chết. Tri phủ Phạm Thọ, tri huyện Đại An Nguyễn Văn Nghiêm lại làm điều tác tệ, đều bị cách chức cả.
Về mặt xã hội, Minh Mệnh tự soạn và ban hành “Thập điều huấn dịch” để răn đe quan lại và cải hóa dân chúng. Trong 10 điều đó có 3 điều quan trọng hơn cả. Đó là:
Điều 1: Đôn nhân luân: Trọng tam cương ngũ thường.
Điều 8: Giới dân thắc: Răn giữ những điều dâm dục gian tà.
Điều 9: Thận pháp thủ: Cẩn thận mà giữ pháp luật cho nghiêm minh.
Vậy thì, sống trong môi trường và xã hội đương thời, dưới bàn tay khắc nghiệt “sắt máu” của một ông vua chuyên chế như Minh Mệnh, cho dù tình yêu không phân giai cấp và tuổi tác, dù là bị “tiếng sét ái tình”, thử hỏi liệu bà Từ Dũ, một cô gái xuân xanh (con gái quan đại thần Lễ bộ Thượng thư Phạm Đăng Hưng) lúc vào cung làm vợ vua Thiệu Trị mới 14 tuổi, và ông quan cực kỳ khôn ngoan Trương Đăng Quế kia có dám cả gan phiêu lưu mạo hiểm, vượt Tử cấm thành, qua mặt quan quân, thái giám và tam cung lục viện, để vuốt râu và giỡn mặt với “ông kẹ” Minh Mệnh luôn sẵn sàng ban phát “ân huệ” tru di tam tộc kia không? Đây là điều rất nhiều người lầm, cứ tưởng Tự Đức sinh ra trong thời điểm Thiệu Trị đang làm vua, mà Thiệu Trị lại là người thuần hòa nhu nhược, khiến Trương Đăng Quế dễ dàng qua mặt lộng hành.
Khi vào cung làm vợ vua Thiệu Trị, bà Từ Dũ như chim chích vào rừng. Bà được chính tay đức Thuận Thiên Cao hoàng hậu tuyển chọn cho Thiệu Trị, người cháu “đích tôn” được bà chăm sóc nuôi nấng dạy dỗ từ trong trứng nước. Lúc ấy Thiệu Trị đã chính thức là Đông Cung Thái tử. Vậy thì, tuy không nói ra, ai cũng biết bà Từ Dũ lúc ấy là cái đích “được” giám sát và chiếu cố thường xuyên trong cung cấm dưới con mắt của Cao hoàng hậu và toàn thể thái giám, cung nga thể nữ…
Về phần Trương Đăng Quế, trong các cựu thần nhà Nguyễn, ông là một danh thần được trọng dụng suốt 3 triều đại Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Sở dĩ Minh Mệnh đã ưu đãi trọng dụng ông vì ông đã tỏ ra là một bầy tôi lương đống, đã được thử lửa thử vàng nhiều lần về khả năng, đạo đức trên các phương diện hành chính, quân sự, văn học trong suốt 21 năm trị vì thiên hạ của vua Minh Mệnh. Chính các sử gia Tây phương, các tướng tá đô đốc xâm lược và các giáo sĩ thừa sai đương thời cũng công nhận tài ba lỗi lạc trải qua triều vua và suốt mấy chục năm làm quan liên tục đã đưa ông Quế lên tột đỉnh vinh quang.
Về nguồn gốc, Trương Đăng Quế là con thứ Trương Đăng Phác, một viên quan dưới triều Tây Sơn. Bản thân ông Quế đậu Cử nhân năm 1819 triều Gia Long. Việc ông Quế được đi thi rồi được ra làm quan là một ân huệ đặc biệt nằm trong chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” của vua Gia Long. Ông Quế là người cực kỳ khôn ngoan, tính tình điềm đạm, cẩn mật, thận trọng, đâu có dại khờ ấu trĩ, đi làm cái việc phiêu lưu mạo hiểm kia.
Một ông vua thông minh, quả cảm và chuyên chế như Minh Mệnh chẳng lẽ lại nhầm lẫn trong việc “chọn mặt gửi vàng”? Cho rằng Minh Mệnh nhầm, chứ chẳng lẽ hai đời vua kế vị là Thiệu Trị và Tự Đức cũng nhầm sao?
Triều đình Huế dưới ba triều đại Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức, có các đại thần thanh liêm trung nghĩa như Nguyễn Tri Phương, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ, Phan Thanh Giản, Võ Trọng Bình, Võ Xuân Cẩn, Vũ Văn Giải… Đó là những khuôn mặt uy tín gạo cội, Trương Đăng Quế làm sao qua mặt và bịp bợm họ được? Ngoại trừ đức vua, họ đâu có ngán ai? Vào thời điểm Tự Đức ra đời, địa vị của Trương Đăng Quế so sánh với các tay tổ đại thần kia thì chưa thấm vào đâu cả. Chẳng lẽ từ vua Minh Mệnh là bá chủ cái triều đình được mệnh danh là “quân chủ pháp trị”, xuống đến vua Thiệu Trị là chồng bà Từ Dũ, và toàn thể quan lớn, quan bé, cho đến các ngự sử đều là bù nhìn câm điếc cả sao?
Những nghi vấn của ông Hoàng Trọng Thược cũng không có căn cứ, bởi lẽ Trương Đăng Quế không có bà vợ nào là công chúa em vua Thiệu Trị. Người lấy công chúa con vua Thiệu Trị là Trương Quang Trụ, con trưởng ông Quế, ông Quế có một bà vợ là Quận Chúa, cô họ vua Gia Long, thuộc dòng tôn thất chúa Nguyễn (chứ không phải công chúa). Trương Quang Đản sinh năm Nhâm Thìn (1833), Tự Đức sinh năm Kỷ Sửu (1829). Thời gian cách xa 4 năm, một người lên 4, một người mới sinh thì ông Quế làm cách nào bỏ vô tay áo thụng để “đánh lộn sòng” (cả hai ông Tự Đức và Trương Quang Đản đều sinh ra trong thời kỳ Minh Mệnh làm vua chứ không phải Thiệu Trị)? Bộ Trương Đăng Quế muốn giỡn mặt tử thần?
Vậy tại sao lại có những dư luận ác ý đương thời gán ghép cho Hoàng thái hậu Từ Dũ, vua Tự Đức và ông Trương Đăng Quế?
Khách quan mà nhận xét, dù sao ông Trương Đăng Quế cũng chỉ là người, không phải thần thánh. Trong nhiều năm ở tột đỉnh quyền uy, dù cho ông có tốt, có trung hậu thanh liêm trong sạch đến đâu, tất không thể tránh khỏi những điều nhầm lẫn do ông vô tình sơ sót, hoặc do thuộc cấp bưng bít che đậy, có thể gây ra ác cảm thù oán với nhiều người.
Triều đại Tự Đức là thời kỳ loạn lạc. Khi lên ngôi Tự Đức mới có 18 tuổi, còn quá trẻ so với một trọng trách lớn lao như vậy. Trong thời gian phụ chính cho Tự Đức, nhiều công việc trọng đại của triều đình do ông Quế quyết định. Tự Đức đã đối xử với ông quá ư đặc biệt, tránh sao cho khỏi sự suy bì ganh tị.
Mặt khác, việc Tự Đức lên ngôi là một “biến cố cung đình”. Vì là trưởng nam mà không được truyền ngôi, nên An Phong Công Hồng Bảo uất ức căm thù, ngấm ngầm liên kết với một phe triều thần và tôn thất để âm mưu phản loạn, chiếm lại ngai vàng.
“… Giữa Hồng Bảo và ông Trương Đăng Quế có một mối thù bất cộng đái thiên. Hồng Bảo thường hay nói rằng, ông bị truất ngôi là tại ông Quế, ông không tiếc gì chiếc ngai vàng để lại cho em, nhưng ông chỉ muốn làm vua một ngày để mổ ruột ông Quế cho hả giận” (trích thư của giáo sĩ Pháp Paul Gally, đề ngày 15-01-1852, đã đăng trong tạp chí Les Annales de la Propagation de la Foi, tập XXV 1853, các trang từ 35 - 38).
Công bằng mà nói, việc oán thù giữa ông Trương Đăng Quế và Hồng Bảo không phải là không có lý. Với danh vị Cố mạng Lương thần, Phụ chính đại thần, dĩ nhiên, khi Thiệu Trị lập di chiếu truyền ngôi cho Tự Đức, chắc chắn có ý kiến của ông Quế. Dưới con mắt của vua Thiệu Trị và ông Quế lúc đó, Hồng Bảo tuy lớn nhưng là con người phóng đãng, cờ bạc rượu chè, ăn chơi trụy lạc, đến nỗi khi vua Thiệu Trị sắp băng hà, các hoàng tử túc trực, chầu hầu bên cạnh, chỉ có Hồng Bảo vắng mặt vì đang ở ca lâu (theo Đại Nam thực lục).
Năm 1864 nổ ra vụ phản loạn của Hồng Tập (cháu nội Minh Mệnh), tiếp đến năm 1866 là vụ phản loạn giặc “Chày vôi” của anh em Đoàn Hữu Trưng âm mưu đưa Ưng Đạo lên ngôi (hai cuộc phản loạn này đều bị dập tắt nhanh chóng và tất cả những người trong cuộc đều bị tử hình).
Những dư luận xấu xa nhằm hạ uy tín của vua Tự Đức và cựu thần Trương Đăng Quế, chắc cũng từ những xung đột và mâu thuẫn trong nội bộ triều thần nhà Nguyễn mà phát sinh ra cả.
ĐÔI ĐIỀU HIỂU BIẾT VỀ TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ
Minh Tú
Trương Đăng Quế trước hết là một nhà yêu nước, ông chống Pháp đến cùng. Trong giai đoạn chống Pháp ông là người đầu tiên đề ra chiến lược vừa đánh vừa đàm, trong điều kiện đất nước ta lúc bấy giờ phải kháng chiến lâu dài thì mới thắng lợi.
Gần đây nhất được đọc bài Vua Tự Đức là con ai của nhà tác giả Quốc Thái trong Bán nguyệt san Thế Giới Mới số 37 - tháng 9-1992. Đây là một bài nhận định khá sâu sắc và chính xác của một nhà sử học có trách nhiệm, ông nhận định:
“Sở dĩ Minh Mệnh đã ưu đãi trọng dụng ông Trương Đăng Quế vì ông đã tỏ ra một bầy tôi lương đống, đã được thử lửa thử vàng nhiều lần về khả năng, đạo đức trên các phương diện hành chính, quân sự, văn học trong suốt 21 năm trị vì thiên hạ của vua Minh Mệnh. Chính các sử gia Tây phương, các tướng tá đô đốc xâm lược và các giáo sĩ thừa sai đương thời cũng công nhận tài ba lỗi lạc trải ba triều vua và suốt mấy chục năm làm quan liên tục đã đưa ông Quế lên tột đỉnh vinh quang”. (Bán nguyệt san Thế Giới Mới, tr. 17)
Năm 1851, quân Pháp bắt đầu đánh đồn Gia Định, quân ta chạy lên đóng tại Biên Hòa. Để giải quyết đánh hay hòa, Vua Tự Đức phái Nguyễn Bá Nghi sung chức Khâm sai Đại Thần vào Biên Hòa để quan sát, Nguyễn Bá Nghi viết sớ tâu: “Sự thể Nam Kỳ”. Sớ này Vua Tự Đức giao cho ông Trương Đăng Quế xem, ông đã tâu:
“Người Pháp âm mưu chiếm nước ta, muốn chiếm Gia Định, rồi lại toan lấy Định Tường, sau đó lại Biên Hòa. Nếu ta hòa cũng không xong, trừ việc đánh vừa giữ - thế (ý nói đàm phán), không thể chuyển khác được”.
Như vậy ý của Trương Đăng Quế cùng với ý của Nguyễn Tri Phương chủ trương phải kháng chiến lâu dài.
Tháng 6 Kỷ Vị (1859) năm Tự Đức thứ 7, Pháp đem quân ra Đà Nẵng bắt buộc ta ba điều:
- Một là cắt đất cho chúng;
- Hai là thông thương buôn bán;
- Ba là được phép truyền đạo Thiên Chúa.
Vua Tự Đức hỏi viện Cơ mật, thì ý kiến trên của Trương Đăng Quế cũng rất thoáng và đúng đắn, khác với quan điểm của một số sử gia cho ông là người cố chấp bảo thủ.
Trước tình hình khẩn trương đất nước, để thực hiện chiến lược vừa đánh vừa đàm, với cương vị là Thái sư trong triều đình, ông tâu với vua Tự Đức: Một mặt xin cử ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp làm chánh phó phái đoàn thương thuyết với Pháp. Mặt khác thì bí mật cho người cung cấp vũ khí, quân nhu, chức tước và ấn tín cho Trương Định chống Pháp.
Người Pháp biết vấn đề này nên rất căm phẫn ông: Trong văn thư của hải quân Trung tướng Bonard gửi cho Bộ Ngoại giao Pháp ngày 14-1-1863 có đoạn:
“Phe thù nghịch với Pháp chia nhiều nhóm đã biểu thị rõ ràng xu hướng hành động và tuyên truyền. Họ đồng tình chống lại chúng ta vì mục đích: làm cho chúng ta phải rời bỏ đất Nam Kỳ.
Quản Định (Trương Định) cầm đầu cuộc khởi nghĩa ở Gò Công, mặc dù đã bị quan Kinh lược ở Vĩnh Long (Phan Thanh Giản) công khai không thừa nhận và nhiều phen khuyên y nên rút lui để thi hành hòa ước nhưng y đã khăng khăng cự tuyệt. Như vậy là bề ngoài y ở vào cái thế phiến loạn chống lại triều đình Huế, nhưng thực chất bên trong y vẫn được cổ võ ngấm ngầm và được cung cấp khí giới, quân nhu, chức tước và ấn tín nữa.
Những người cầm đầu cuộc kháng chiến ở Biên Hòa đã đưa ra một bản tuyên ngôn (đính theo văn thư này) hiển nhiên là họ theo quan điểm của phe kháng chiến do Thượng thư Trương Đăng Quế lãnh đạo”.
Asie-Archives du Ministère des Affaises Etrangère, Tập 28, Paris.
Người Pháp thực dân rất ghét và không thích ông Trương Đăng Quế vì ông đã chống lại họ đến cùng. Nhiều tài liệu của Pháp viết về ông với thái độ kính nể, nhưng đồng thời cũng có tên rất láo xược, nói xấu ông, gọi ông là “già Quế” (vieux Quou) trong lúc ông đường đường là vị Thái sư đứng đầu hai triều Thiệu Trị và Tự Đức. Trên ngực luôn luôn được phép mang thẻ bài ngọc do Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thiệu Trị) ban tặng có ghi chữ vàng “Cố mạng lương thần”. Vì vậy, dưới thời Pháp thuộc, thời Mỹ tất cả các con đường trong nước không có con đường nào - bọn chúng đặt tên ông - Đó là điều tất nhiên.
Nghiên cứu về cuộc kháng chiến của Trương Định ta cũng thấy rất rõ đứng đằng sau Trương Định là ai. Trương Định có thể chiến đấu lâu dài chống Pháp vì được nhân dân ủng hộ và một điều không thể thiếu là đã có một cái “dù” rất lớn che chở. Cái dù đó chính là Trương Đăng Quế, Thái sư tại triều đình.
Có một điều cần lưu tâm: Ông Trương Đăng Quế và Trương Định là người đồng hương, quê của hai ông – cách nhau một quảng đồng ba cây số. Tác giả văn Phạm Trung Việt người Quảng Ngãi có viết:
“Làng Tư Cung Nam ở Tả ngạn Trà Giang, giáp ranh làng Mỹ Khê của Trương Đăng Quế chính là nơi sinh trưởng của Trương Định (Nơi chào đời của Trương Định, tr. 113). Cha ông Trương Định là Trương Cầm, thời Minh Mệnh đã theo ông Trương Đăng Quế giúp trong việc đi Kinh lý Nam Kỳ năm 1836 được thành công. Nên sau đó được ông Trương Đăng Quế tâu với Vua Thiệu Trị phong cho ông chức Hữu thủy vệ úy tại Gia Định. Hai gia đình có quan hệ sâu xa từ đó”.
Nhưng tiếc thay: Chiến lược vừa đánh vừa đàm đầu tiên và đúng đắn này lại không thành công. Vì sự phản bội. Ông Trương Đăng Quế phải về hưu năm Quý Hợi (1863). Phe kháng chiến trong triều đình tan rã, Trương Định mất một chỗ dựa quan trọng, không thể cầm cự được lâu, đúng một năm sau, năm Giáp Tý (1864) ông Trương Định anh dũng hy sinh. Lại một năm sau, năm 1865 ông Trương Đăng Quế vì buồn rầu mà sanh bệnh cũng đi vào cõi vĩnh hằng. “Để lại một mái nhà tranh đơn sơ như lúc còn thư sinh sau 43 năm (1820 - 1863) làm quan đến chức tuyệt đỉnh của triều đình nhà Nguyễn”. (Ưng Trình “Tùng Thiện vương”, tr. 125).
Chiến lược vừa đánh vừa đàm là một chiến lược sáng tạo và đúng đắn. Nhờ chiến lược này, Đảng ta tiếp thu truyền thống của cha ông lãnh đạo thắng lợi ở hội nghị Genève năm 1954 và hội nghị Paris năm 1972. Đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và vai trò lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân quyết tâm kháng chiến đến cùng.
Còn chiến lược vừa đánh vừa đàm của Trương Đăng Quế trong giai đoạn ấy không được vua Tự Đức hoàn toàn nhất trí, thực hiện một cách rời rạc không quyết tâm. Tư tưởng sợ địch lan tràn trong quan lại triều Nguyễn đã mục nát. Mặc dù nhân dân Nam Kỳ giàu lòng yêu nước nhưng vẫn thất bại đó là điều tất yếu.
Vấn đề xây dựng Nam Kỳ và Sài Gòn ông Trương Đăng Quế là nhà tổ chức có kinh nghiệm và đầy tài năng.
Dưới thời Gia Long, Nam Kỳ chưa củng cố được gì, chiến tranh loạn lạc, tranh giành quyền lực, mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, biên giới không rõ ràng… Tất cả những điều trên cũng thấy rõ rất nhiều khó khăn trong việc cai trị của nhà Nguyễn tại Nam Kỳ. Và lòng dân khao khát hòa bình, mong muốn an cư lạc nghiệp. Đến thời Minh Mệnh là thời kỳ mới được chú ý củng cố, xây dựng từ cơ sở.
Đây là một nhiệm vụ quá khó khăn. Chỉ có năm tháng trời, với điều kiện giao thông chưa có gì, chỉ có đi bộ, đi ngựa và đi thuyền thế mà ông đã đi “cùng trời cuối đất”, khắp biên giới xây dựng được địa bạ và đinh bạ cho mỗi thôn xã ở Nam Kỳ. Ông làm quá giỏi, sau này người Pháp phải khen ngợi và thán phục.
Ông Phan Thanh Giản gốc là người Nam Kỳ cũng phải ca ngợi ông trong nhiệm vụ khó khăn này.
Trong cuốn sách “Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh” do nhà sử học nổi tiếng, Giáo sư Trần Văn Giàu làm chủ biên, xuất bản tháng 10-1987 tại thành phố Hồ Chí Minh, là một cuốn sách có giá trị lớn về lịch sử có ghi về công lao của ông Trương Đăng Quế trong việc chỉ huy lập Địa bạ Nam Kỳ.
Trong chuyến đi công cán bằng thuyền, thấy Côn Đảo đẹp, giàu có và lợi hại về phương tiện quân sự, kinh tế, ông tâu với vua Minh Mệnh lập đồn tại Côn Đảo, đưa quân và cho dân ra đảo khai hoang lập ấp giữ đảo. Ông có biết đâu biển hiện nay là cả một kho tàng quý giá của Tổ quốc.
Công lao này thật lớn lao, xứng đáng được nhân dân ghi nhớ.
Trương Đăng Quế còn là một nhà thơ nổi tiếng, bấy giờ với rất nhiều bài thơ hay được truyền tụng lúc ấy.
Khi nhận thấy vua Tự Đức hèn yếu, không thực hiện đúng chiến lược lâu dài, ông thấy trước cuộc kháng chiến sẽ thất bại. Tâm hồn ông không thoải mái, tâm trạng chán nản công danh. Ông đã bộc lộ trong mấy câu thơ trích bài:
XUÂN NHẬT THƯ HOÀI
Ngã kim cánh hà sự
Nhật tịch đồ dinh dinh
Khổ vì thăng đầu lụy
Lưu hận thù thân danh
Tạm dịch:
Ta nay sao cứ mãi
Sáng chiều ra vào cung
Lụy vì thăng đấu phỏng
Để hận cái thân danh.
Bận việc triều đình nhưng tâm hồn ông cũng rất lãng mạn, yêu sông Trà Khúc, con sông quê hương xứ sở của mình, cảm hứng viết lên câu thơ đẹp trong bài:
XUÂN GIANG KHÚC
Tạc dạ vũ thủy hạ
Xuân giang vi lãng sinh
Thiếp tâm hữu sở cảm
Duyên ngạn tự vi hành
Tạm dịch:
Đêm qua có mưa nhỏ
Dòng sông sóng gợn mờ
Lòng em xao xuyến nhớ
Ven sông bước bước hờ
Khi kinh lý Nam Kỳ, ông đi bằng thuyền từ Phú Xuân vào Nam. Qua Quảng Ngãi cố hương, ông xúc động làm thơ đầy tình cảm với những dòng tha thiết yêu quê hương:
THUYỀN QUÁ QUẢNG NGÃI CỐ HƯƠNG
Xuân phong tống chinh nghịch
Thuẫn tức vượt trùng ba
Lộ chỉ có hương qua
Tình huyền du tử da
Không hoài tang tứ kính
Trùng xướng thử miêu ca
Khởi lập thuyền đầu vọng
Dao thôn ẩn bệ la.
Dịch:
Gió xuân, cánh chim biển
Thoáng chốc, vượt sóng trào
Thuyền nhắm hướng quê trẩy
Du tử lòng nôn nao.
Quê nhà thương biết mấy!
Xóm thôn giờ thế nào?
Đầu thuyền, xa chỉ thấy
Quê mình dưới tàng cao
Tùng Thiện vương và Tuy Lý Vương, hai nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ, được ca ngợi:
Văn như Siêu Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường.
Hai ông vô cùng mến phục và đều là học trò của ông Trương Đăng Quế.
Trong cuốn Từ Điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản Khoa học xã hội năm 1992, trang 919 có nhận xét rõ về ông:
- Trương Đăng Quế là người cầm đầu phe chủ chiến dưới thời Tự Đức, cương quyết đánh Pháp đến cùng.
- Ông sáng tác văn học rất nhiều. Tùng Thiện vương Miên Thẩm và Mai Am Nguyễn Thị Trinh Thận, Lương Khê Phan Thanh Giản, người đỗ tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ rất kính phục và quý mến về tài văn học uyên thâm của ông.
Qua các sự kiện lịch sử trên, với tinh thần trở về với cội nguồn, chúng ta đứng trên quan điểm lịch sử, nghiên cứu thêm nhân vật này một cách khách quan và nghiêm túc.
Ông là người thật sự có công lao đóng góp lợi ích cho Tổ quốc, cho nhân dân, mặc dù ông Trương Đăng Quế đã phục vụ cho triều đình nhà Nguyễn trong suốt 43 năm trời.
Trương Quảng Khê tiên sinh thi tập
(Học văn dư tập)
Tác giả: Trương Đăng Quế
Bản dịch: Lê Sơn Phương Ngọc
Ý nghĩa “Học văn”
(của “Học văn dư tập”).
Sách Luận ngữ - thiên Học nhi có câu: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực tắc dĩ học văn” (Người quân tử ở nhà thì giữ chữ hiếu, ra ngoài biết tôn trọng người khác, cẩn thận mà tin thật, thương yêu mọi người, gần gũi người có đức nhân, làm được những điều ấy, còn dư sức thì dùng để học văn).
Theo Trương Đăng Quế, “Học văn” là hành chỉ của bậc sĩ quân tử, là đạo đức của nhà nho. Sống hiếu thuận, đối xử trung nghĩa, tín thật trước đã, tức là làm xong trách nhiệm theo đạo lý, rồi mới học văn. Nếu không hoàn thành trách nhiệm mà học văn, thì sẽ không được gì. Đức “Nhân” là gốc, văn học là ngọn, xét cho đến gốc ngọn, biết rõ việc trước sau, mới là có đạo đức.
“Người chưa được dư sức mà học văn thì làm mất cả bản chất, nhưng nếu dư sức mà không học văn thì có bản chất mà quê mùa, không thể xét được phép tắc của thánh hiền và không biết lẽ đương nhiên của sự lý, dễ dẫn đến sai lầm. (Chu Hy)
(diễn giải của ND)
Lời tựa (1)
của Lương Khê Phan Thanh Giản
Người thời Tống có câu: “Leo núi thì phải lên tới tận đỉnh, thăm một linh tích thì hỏi rõ lịch sử của linh tích”. Người leo núi mà không lên tới tận đỉnh, đi thăm một linh tích mà không hiểu rõ lịch sử của linh tích ấy thì nhất định về sau sẽ hối tiếc, huống chi đối với một công trình sáng tạo đồ sộ như sách nầy!
Tôi vinh hạnh có được cuốn Học văn dư tập của Duyên Phương Trương tiên sinh, vui thích đọc liền một hơi không rời tay. Tôi vốn là người sinh trưởng ở phương Nam, lại tiến thân muộn, chưa từng được hầu các bậc tiên sinh đại nhân. Do học vấn nông cạn, nên làm thơ chỉ tàm tạm, giao thiệp không ngoài một quận một huyện, tầm nhìn không quá một gò đồi một hang núi. Cho đến bây giờ cũng chưa từng được thăm viếng các danh lam thắng tích trong thiên hạ; chưa từng được gặp các nhân vật văn chương đỉnh cao của triều ta.
Khoa Ất Dậu, may đậu Hương tuyển, tôi mới có dịp đến kinh, được tiếp xúc với các bậc hiền sĩ, nhưng chưa học được chút gì cung cách tao nhã của các nhà đại công thần. Lúc bấy giờ, thì tiên sinh là người trên, người trước, làm quan ở kinh đô đã hơn mười năm rồi, danh tiếng nổi như cồn, không sách nào tiên sinh chưa đọc tới, lại đặc biệt sở trường thơ văn. Tại kinh đô, người ta đều bảo rằng tiên sinh là bậc đáng kính, đứng đầu giới tao nhã. Trong những cuộc tương hội của giới mũ áo nơi văn đàn, thì tiên sinh lúc nào cũng làm người chủ trì.
Tôi kính cẩn ngưỡng mộ tiên sinh, mong được ra mắt nơi long môn nhưng chưa có phúc phận. Về sau nhờ có người dìu dắt ra mắt tiên sinh được một lần, được lọt vào mắt xanh, song lúc bấy giờ, thú thật tôi vẫn chưa nhận đúng tài năng sắc sảo của tiên sinh. Chờ đến khi được làm việc ở Nội các cùng tiên sinh, có dịp gần gũi trao đổi, tôi mới thực sự nhận ra cái chí khí to lớn, cái sở học sâu rộng, cái tài năng kỳ diệu của tiên sinh.
Thời tiên sinh phụng mệnh vua, lo việc đạc điền phân định cương vực ở Nam Bộ quê tôi, một vùng đất mới, công việc đòi hỏi phải hết sức linh hoạt vì tất cả đều mới lạ, không thể cứ câu nệ lấy cách làm thông thường và sử dụng các loại dụng cụ đo đạc cũ mà thực hiẹn suôn sẻ được, lại còn phải quan tâm và đừng gây phiền hà cho dân, thế mà tiên sinh đã hoàn thành chỉ trong vòng có năm tháng! Vả lại, tiên sinh từng trải, nắm vững vùng đất Nam Kỳ lục tỉnh như lòng bàn tay, nhìn xa trông rộng, xác định những nơi hiểm yếu, tâu xin xây dựng thành trì ở Tây Ninh là điều mà tôi tuy là người gốc Nam Bộ, thật tình cũng chưa từng nghĩ tới.
Thông thường người ta chỉ nếm thử một miếng ăn là biết được đầu bếp nấu ăn ngon, thấy một cái vệt vằn đủ biết cái đẹp của bộ lông con báo gấm. Nếu không phải là người lo trước cái lo của dân, ngay ngáy ưu tư đến việc phòng bị bờ cõi đất nước, thì nhất định không thể làm được như vậy. Thế cho nên, hoàng thượng đã đặc biệt ưu đãi tiên sinh, ban ơn mưa móc lâu dài cho gia đình tiên sinh cũng là việc rất phải đạo mà thôi.
Nay kẻ đàn em nầy có thể vung tay tự phụ cho rằng mình đã biết thế nào là “chân diện mục núi Lư Sơn”. Nhân được đọc Học văn dư tập  thích quá mà viết mấy lời nầy, để làm lời tựa cho sách.
Minh Mệnh, năm thứ mười bảy (1836),một ngày sau tiết hàn thực
LƯƠNG KHÊ PHAN THANH GIẢN.
(Hàn Lâm viện Thừa chỉ sung hành tẩu Nội các)
Tùng Thiện vương Miên Thẩm
Người xưa bảo:
Nghiên cứu học tập lục kinh, quý ở việc đem ra thực hành; tập họp các chữ làm thành câu văn, cốt ở chỗ thể hiện được ý mình muốn nói. Lời tán trong thiên Cao Dao mô (1), thiên Ích Tắc (2) không tốn nhiều lời; Ngôn ngữ trong thiên Thiệu Cáo (3), thơ Chu Công (4) vốn vẫn mưu cầu thực tiễn. Còn trong thơ văn, mà thiếu cái tình với đấng quân phụ, thiếu tính ôn nhu trong việc dạy người, thì chẳng khác gì người thợ chỉ giỏi tô điểm vẽ vời, giàu lời mà cạn nghĩa, chuộng hình thức mà thiếu nội dung, thì chuyển tải ý tưởng cao xa làm sao được!
Thế cho nên,
Tài đại bút như Vương Tuân (5) nghĩ sâu xa như Quách Lộ, có thể điều khiển vạn cảnh khi ngồi trong xe; cổ xúy bát phong đưa vào luật. Thì sự nghiệp mới lẫy lừng đến như thế!
Do vậy,
Bằng việc biết người để luận thế, mới có thể quán thông đạo lý, sáng tạo văn chương. Trước đã không thẹn với Tang Văn Trọng (1) ở tôn chỉ lập ngôn; sau cũng xứng với Tào Tử Hoàn (2) trong việc kinh dinh đất nước. Tuy sưu tập thơ văn nhiều, mà thảy đều đạt chuẩn hết cả.
Đoan Trai tiên sinh Trương công, vốn là sao Chu Điểu (3); thuộc dòng họ vua Kim Thiên (4).
Thời niên thiếu,
Mơ mình hóa bướm, để được thưởng hoa thỏa thích; canh khuya chăm chỉ sách đèn như con tằm ăn lá dâu.
Lúc tiến thân,
Hết lòng trung, lo toan chức trách công; lại thuộc sách, nên được giảng kinh nơi cung học. Người khen là nhớ giỏi, hệt con nhà ba rương sách Hà Đông (5). Được hoàng đế tin yêu, như cháu chắt thuộc dòng hoàng tộc. Vua tôi cá nước, nhạn mệnh ra làm chức đại quan; học Trịnh Đàm(1), suốt ba năm không rời khỏi đô môn; giống Chu Xả (2), trải hai mươi năm dự bàn Viện Cơ mật.
Thật là, rạng rỡ nhà vàng, tin cẩn thẻ son; khác chi Tạ An (3) khi ở ẩn, có rất nhiều lời nói còn được lưu truyền; cũng như Vương Kiệm lúc còn nhỏ, đã gởi gắm chí mình trong thi phú. Quy mô đã khác, ý tượng bất phàm.
Bá Khuê (4) nổi tiếng, vì vốn là dòng dõi danh lưu; Vương Ngạc (5) lẫy lừng, ai không biết là người quý tướng. Thi văn tức là người, chẳng sai đâu vậy!
 Các nước phiên sử dụng nhạc khí Hán là công của Từ Si (6) sáng thể, thì việc quay thuyền tùy quận nhờ ở văn thư của Tạ Diêu (7) tài tình. Hãy nhìn xa mà lo răn mình, đừng quên thu thật. Xem Thố viên (8), liền phát sinh nhiều điều giáo hóa, biết Hạc cấm, chẳng ít lần hiến tặng các bài châm.
Mỗi sáng sớm, leo lên ngọn Lũng Thủ rong chơi nhàn tản, mỗi chiều tà, ra khỏi Đoan môn ngâm câu Thoái thực thơ xưa. Hoăc vịnh cổ, những áng văn của Nguyên, Bạch (1); hoặc cảm hoài làm thơ tặng cho Hà, Vương (2). Chưa từng gọt chữ dũa câu, mà uyển chuyển tựa đường bay viên đạn; lời lẽ toàn nào trung nào hiếu, ý tưởng đủ cả chung cả riêng. Cá sông Khúc luyện mĩ không hợp thời; sóng sông Yến lan tỏa đi xa vời vợi.
 Ra công ngừa nạn nơi phương Bắc; dốc sức khẩn đất ở phương nam. Múa ngọn giáo trên sông như Tào Tháo (3) sáng tác hành ca; Biến phép đạc điền của Quản tử (4) thành văn, thể thơ đoản vịnh. Trong cái nhỏ mà nhìn thấy cái vô biên, như giấu quả núi to trong hạt cải mầm nhỏ xíu; kiếm chút nhàn trong công việc bận rộn, làm thơ văn chép đầy trên giấy hoa đàm. Hà Tôn Quyền liếc xem mà quên bước; Phan Thanh Giản (5) nhác thấy hóa ngẩn ngơ. Khảo chứng hiền nhân đời trước, làm ra ba mươi sáu thiên cố sự, có lẽ chưa công bố; rong chơi trong rừng nghệ thuật, chọn lấy một trăm linh năm bậc tài hoa, đâu có lạ lùng gì!
Hái rau cần Phán Thủy, làm bài tụng Thung Dung. Chim phượng gáy trong thiên Quyền A (6), tiếng tên bay nơi bài Bạn Hoán.Thận trọng giữ chí khí nơi quan trường; xót thương những thân phận trái bầu trôi nỗi.
Điều hòa các phe Lạc, Thục (2), ngăn chặn phát sinh thói bè đảng kết phe; răn đe khuynh hướng Thân, Hàn (1), không đề cao thuyết hình danh của họ. Nuôi dưỡng thể khoan đại, không mang tiếng hung hăng. Lời tâu đầy phong nhã, lưu loát mà đúng pháp qui; nói rồi vẫn tiếp tục nghĩ suy, nên can gián khiến người ta tỉnh.
Trương Vĩ (2) về quê, chưa kịp họa bài thơ vua ban khi đi thăm mộ; Kinh công (3) bệnh suyễn, không trả công được cho người tặng sâm làm thuốc cho mình. Tình cảm tuy nồng ấm; văn chương vẫn chưa tròn.
Tiên sinh chắc phải nhiều trăn trở, mấy lần dâng biểu xin nghỉ hưu; nghẹn ngào cổ họng, qua những thiên phục tán ân cần; dao động trong lòng, từ các tác phẩm phát đô quyến luyến.
Nói năng châm chước, giữ nguyên lòng ưu ái của vua; việc rất khó chi, đến tiên sinh hóa ra lại dễ. Nếu không do tài học, há dễ tìm ra được nguồn cơn; ngoài hạng văn tôn, khó mà kiếm chút thảnh thơi cho được. Lòng trắng trong lo toan chính sự, thời giờ đâu dốc ý thơ văn.
Song le, lời Nhạc Quảng súc tích tư duy, văn Quý Na (1) không bao giờ nháp trước. Như Chung Hội (2) định chữ được chúa nhà Tấn khen là lạ; giống Nhi Khoan (3) tâu bày được vua nhà Hán cho là hay. Song đến giờ vẫn còn cất trong rương, đợi nhàn rỗi tiên sinh mới tính.
Miên Thẩm tôi,
Ngay từ thời còn nhỏ, đã nhiều năm được theo hầu học tập; tiên sinh chiếu cố, đã ra công trau vàng rất mất sức, chuốt ngọc rất tốn công; tiên sinh thương yêu, không ngần ngại lục tung trướng Mã, dốc cạn bầu Đường.
Miên Thẩm tôi,
Xin là miếng mồi dư của cá, sao chép biên tập thành sách; hái những hạt châu dưới cổ con ly long làm thành bốn quyển. Tuy những gì để lại của tiên sinh sẽ được ghi vào sử sách, song phần nhiều lời người quân tử vẫn thường bị quên đi. Sách này giữ lại tinh hoa của tiên sinh để cho người đời sau thưởng lãm, góp phần rao giảng những điều tốt lành của các bậc tiền liệt. Suy tôn cao lệ Bốc Thương (4), quả hợp với Biện Thi. Chỉ hiềm tuổi đời của vãn sinh chưa đủ để biểu dương tên tuổi Tả Tư với bài Tam Đô phú (5). Dám đâu nghĩa kết khó từ, hoặc trộm ví với áng văn đề tựa tuyệt phẩm của Vệ công (6) vậy.
Miên Thẩm
Chú thích:
(1) Thiên Cao Dao mô: thuộc sách Thượng Thư (Kinh Thư), có nghĩa là ghi lời ông Cao Dao (2255 - 2208 Tr. Công nguyên), làm quan lo về hình pháp thời nhà Ngu của vua Thuấn. Ông được ủy thác chấn hưng ngũ hình.
(2) Thiên Ích Tắc: thuộc sách Thượng Thư (Kinh Thư), nói về việc trị thủy của Ông Vũ thời vua Thuấn. Ông Ích giúp Ông Vũ kiếm cho dân các thức ăn tươi. Ông Tắc giúp Ông Vũ gieo các thứ thóc.
(3) Thiên Thiệu cáo: thuộc sách Thượng Thư (Kinh Thư), cáo là lời răn bảo người dưới được bổ nhiệm ra làm việc. Thiệu cáo là lời của ông Chu Công dặn ông Thiệu Công Thích trước khi ông Thiệu đi Lạc ấp xây dựng kinh đô.
(4) Chu Công: tức Chu Công Đán, em vua Vũ Vương nhà Chu, là người tài năng, đạo đức có công san định Kinh Dịch trước Khổng Tử cả ngàn năm.
(5) Vương Tuân, Quách Lộ: người tài đời nhà Tấn ở Trung Quốc.
(1) Tang Văn Trọng: còn có tên là Tang Tôn Thìn, làm quan đại phu nước Lỗ, được cho là người thông tuệ, ông cất riêng một ngôi nhà để nuôi một con rùa to, ý để xem bói toán.
(2) Tào Tử Hoàn: là con trưởng Tào Tháo, còn tên là Tào Phi, cướp ngôi nhà Hán, lên làm vua, cải cách toàn bộ thể chế lạc hậu của triều nhà Hán.
(3) Chu Điểu: còn gọi là Chu Tước, là chòm sao gồm 7 ngôi sao ở phương nam là: Tĩnh, Quý, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Sách “Tam phụ hoàng đồ” cho biết 4 chòm sao linh ở 4 phương trời là: Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ.
(4) Kim Thiên: là họ của vua Thiếu Hạo (2697-2513 tr, CN).
(5) Hà Đông: Vua Vũ Đế nhà Hán đi tuần đến Hà Đông, quên đem theo ba rương sách. Khi vua hỏi việc có liên quan đến nội dung sách, các quan đều bí, chỉ có Trương An Thế làm quan túc vệ, thuật sách làu làu.
(1) Trịnh Đàm: người đời Đường, làm chức Hàn lâm viện thị giảng học sĩ. Là người làm việc tận tụy mẫu mực, được thăng cấp Tế Tửu, kiêm Ngũ kinh bác sĩ trông coi nhà Thái học.
(2) Chu Xả: Người đời nhà Lương, tinh thông kinh sử, làm đến chức Thượng thư, một tay soạn định nghi lễ, dự cơ mật hơn hai mươi năm.
(3) Tạ An: Người đời nhà Tấn, tài giỏi nhưng đi ở ẩn. Sau Hoàn Ôn vời ra làm quan. Hoàn Ôn lại làm phản, ông cùng Vương Thản Chi hết lòng phò vua, nước mới yên. Ông lại đánh phá giặc Phù Kiên, giữ vững bờ cõi, được trọng vọng gọi là Tạ Thái phó.
(4) Vương Kiệm: Người thời Nam Tề, làm quan thời Tống Minh đế. Vương Kiệm thích học Lễ, giỏi Xuân Thu, nghị luận Nho giáo rành rẽ, áo mão xứng hợp lại chuộng kinh thuật. Tác phẩm có Cổ kim tang phục tạp ký, Văn tập.
(5) Vương Ngạc: Người đời Đường, có công dụ hàng Vương Quốc Lương, làm Thiệu Châu Thứ sử, rồi Giang châu Thứ sử, Hồng lô Tự khanh, Hà Đông Tiết độ sứ. Về sau còn được phong chức Kiểm hiệu Tư không đồng Trung thư môn hạ Bình chương sự.
(6) Từ Si: Người đời nhà Lương, lãm thông kinh sử, có công đề ra các phép tắc mới có hiệu quả.
(7) Tạ Diêu: Người đời Nam Tề, làm Tuyên thành Thái thú. Văn chương đẹp đẽ trong sáng. Giỏi thơ ngũ ngôn.
(8) Thố viên, Hạc cấm: Lương Hiếu vương rất thích xây dựng dinh thự, vườn tược, trồng nhiều cây cối, nuôi nhiều thú lạ, đặt tên là Thố viên, Hạc cấm.
(1) Nguyên Chẩn, Bạch Cư Dị: hai thi hào nổi tiếng thời nhà Đường.
(2) Hà Vương: tức Hà Yến và Vương Bột. Hà Yến người thời Tam quốc, có tài văn thơ, theo thuyết Lão Trang, khiến cho sĩ đại phu nước Ngụy bắt chước thành thời thượng. Vương Bột là tác giả bài phú nổi tiếng “Đằng vương các tự”. Là người sớm bộc lộ tài văn chương từ lúc còn rất trẻ.
(3) Đoản ca hành: Khi Tào Tháo kéo quân xuống Giang Đông, đóng trên sông Xích Bích, uy danh vang dội. Đang đêm đãi tiệc, uống rượu say, múa giáo ứng khẩu bài Đoản ca hành rất hay.
(4) Quản tử: tức Quản Trọng người thời Xuân Thu, có công canh tân nước Tề đưa Tề Hoàn công lên vai trò bá chủ chư hầu.
(5) Hà Tôn Quyền, Phan Thanh Giản: Hai viên quan nổi tiếng văn hay chữ tốt, làm chức quan to, thời vua Tự Đức.
(6) Thiên Quyền A: một thiên trong phần Đại Nhã (Kinh Thi). Thiệu Khang công đi theo vua Thành Vương dạo chơi nơi núi đồi, làm bài ca này. Thiên Quyền A có bài: “Phụng hoàng minh hỹ. Vu bỉ cao cương. Ngô đồng sinh hĩ, Vu bỉ triêu dương. Bổng hổng thê thê, ung dung giê giê”. (Chim phượng hoàng gáy, trên đỉnh núi cao kia, cây ngô đồng mọc lên, ở mặt phía đông trái núi kia. Cây ngô đồng mọc lên rậm rạp. Tiếng chim phượng hoàng kêu nghe dịu hòa).
(2) Lạc, Thục: Triều vua Triết tông nhà Tống. Triều thần chia làm 3 đảng: Lạc đảng do Trùng Di cầm đầu, Thục đảng do Tô Thức cầm đầu, Sóc đảng do Lưu Chi cầm đầu, nên rất rối loạn.
(1) Thân, Hàn: tức Thân Bất Hại và Hàn Phi chủ trương hình danh học, nên về sau thuyết hình danh còn gọi là thuyết Thân Hàn. Hình danh cũng gọi là hình tịch, tiêu biểu cho chế độ chuyên chế, áp dụng luật pháp trong trị nước.
(2) Trương Vĩ: Người đời nhà Đường, nhà giàu, thích tiệc tùng đãi khách. Khi làm quan thì quyền hành khuynh loát triều đình, được vua ban ân sủng khó ai sánh kịp.
(3) Nhạc Quảng: Người đời Tấn, tính tình phóng khoáng, kiến thức uyên thâm.
(1) Quý Na: Người đời Thanh, thông lãm kinh điển, tác phẩm Tùng vân văn sao.
(2) Chung Hội: Người thời Tam quốc.
(3) Nhi Khoan: Người đời Hán.
(4) Bốc Thương: tự Tử Hạ, người nước Vệ thời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử. Sau khi thầy mất, ông dạy học ở Tây Hà, được Ngụy Văn hầu trọng vọng xem như thầy.
(5) Tam Đô phú: bài phú do Tả Tư soạn viết về 3 kinh đô của 3 nước thời Tam quốc. Người ta đua nhau chép, khiến cho Lạc Dương thiếu giấy.
(6) Vệ công: tức Lý Tịnh thời nhà Đường, là người thông hiểu kinh sử lai có tài võ lược, được phong là Đại Quốc công. Đánh trận có công, được phong là Vệ Quốc công.
Vãn học MIÊN THẨM
Lời nói đầu (Tự tự)
Trương Đăng Quế
Lúc nhỏ, tôi thích làm thơ, song không có thầy dạy. Không đầu đuôi không quy cũ chi cả, gặp việc hứng thú, xúc cảnh sinh tình, tôi làm thơ cốt thể hiện cái tình thật của mình, chứ không mong lưu danh để tiếng.
Lớn lên, tôi theo đòi cái học cử nghiệp, đi du học ở kinh sư, rồi thi đỗ Hương tiến, được tuyển sung trực học, dần dần được tiếp xúc, làm quen với các quan trong triều. Rồi thì, hoặc những lúc rảnh rỗi sau giờ giảng dạy, hoặc những khi họp mặt tiệc tùng dưới mái nhà Nghiệp (1) hoặc những buổi cùng nhau chuốc chén trên dòng sông Khúc (2), hoặc tiễn đón người đi, hoặc gặp gỡ bạn bè, thì người xướng kẻ họa, cùng nhau đẽo gọt mài dũa, truy tìm tận gốc, chắt lọc cho ra cái cốt lõi. Nhờ đó mà sành sỏi thơ văn của các danh gia qua các triều đai; từ thời Tấn, Ngụy, lưỡng Hán trở về trước, tôi đều khảo sát cẩn thận, không để sót một bài nào.
Ban đầu, tìm hiểu các phép tắc, các tiêu chuẩn của tác gia, rồi bàn luận phân tích, tôi nhận ra rằng, chung quy không ngoài hai chữ tánh linh. Cho nên làm thơ, nói cho cùng là không nên nương tựa vào cửa nhà người khác. Ý nảy ra là viết liền, chưa nói chi đến chỗ cao sâu, nhưng được cốt cách riêng, phảng phất cái tinh thần chủ yếu của ba trăm thiên Kinh Thi vậy. Tuy nhiên, tùy lúc tùy nơi, khi làm khi bỏ, chỉ còn giữ lại một phần, viết trên các tấm phiếu cất giữ trong rương, chưa cho ai biết, cũng chưa từng đặt tên. Hai lần phụng mệnh đi công cán Nam Kỳ, Bắc kỳ, những khi hành trình nhàn hạ, cũng có lúc ngẫu hứng làm thơ đề vịnh, cho thư ký chép thành tập nhỏ. Ông Phan Mai Xuyên (1) làm việc ở Nội các, ngẫu nhiên đọc qua, cho rằng có nhiều bài hay, thích mà viết cho lời tựa. Nhưng tôi vẫn để đó, chưa vội vàng gì, rồi dần dần quên bẵng đi. Thời gian sau đó, ít có cơ hội cấu tứ, lúc rỗi tôi cũng làm đôi bài thơ ứng chế, nhưng cũng chẳng quan tâm khéo vụng, hay dở.
Tùng Thiện công, hoàng tử thứ mười triều vua trước, là người hiếu học, giỏi thơ, không sách nào không đọc tới, lại là người có chí phong nhã. Tôi thường bàn về thơ văn với ông, cũng như với ông Mai Xuyên, ít khi bàn với ai khác nữa. Riêng Tùng Thiện công có vẻ hợp tính tôi, nên những khi nhàn rỗi, chúng tôi thường bàn luận chuyện cổ kim, nhận định chuyện được mất, bàn về thể cách văn từ, cùng những điều lý thú, thảy đều mổ xẻ đến nơi đến chốn, quán triệt đến chỗ huyền vi.
Vả lại, Tùng Thiện công là người học rộng tài cao, là đại gia chốn kinh kỳ; mỗi lời, mỗi chữ đều được người ta chuyền nhau, ai cũng xem ông là tay cự phách. Suốt bao nhiêu năm qua trên đất nước nầy, chưa từng thấy có ai được như vậy. Tôi với Tùng Thiện công vốn biết nhau qua văn chương, rồi nhân trong một ngày nhàn hạ, cùng nhau bên song vân nơi trướng hồng xuân muộn, hỏi đến tác phẩm trước kia của tôi, rồi gia công biên tập, lược bỏ đi nhiều, chỉ giữ lại phần chính yếu, làm thành bốn quyển, cho khắc mộc bản để in ra.
Tôi lấy nhan đề là Học văn dư tập, có nghĩa là “dùng cái sức dư để học văn” (1).
Thế cho nên, viết mấy lời đầu sách nầy để thuật lại những sở đắc học thơ văn của đời mình là như thế, và như tôi đã nói từ đầu là không có ý mong truyền lại.
Tự Đức năm thứ mười, cuối xuân Đinh Tỵ.
DUYÊN PHƯƠNG THỊ
QUẢNG KHÊ TẨU TRƯƠNG ĐĂNG QUẾ
TRƯƠNG QUẢNG KHÊ TIÊN SINH THI TẬP
Quyển 1.
Biên tập: Miên Thẩm (Thận Minh)
THỂ NHẠC PHỦ
HẬN LẦU XANH
Hoa dương đương bắt mắt,
Hoa đào lại tốt tươi.
Nhan sắc thật ngắn ngủi!
Già lụ khụ liền thôi!
Ai cũng vậy cả.
Có tay ăn chơi tuổi còn trẻ,
Đây đó Tràng An khắp mọi vẻ
Hình dung phong thái thật dễ thương
Mà bạn đồng tâm đâu có dễ?
Lầu son gác tía, đời bông lông,
Ngập ngừng bao lời, không vẫn không
Mỗi tối chong đèn ngồi trước kiếng,
Tự cho nhan sắc vẫn tươi hồng.
Vấn tóc điểm tô đổi dung mạo
Gá với gió xuân đâu chịu lép!
Chàng xem có phải đẹp hơn hoa.
Ai chẳng thích chơi với hoa đẹp?
Lời bình: Tựa bài “Thanh lâu oán”, đối tượng chủ đề là các cô gái lầu xanh. Thế mà trong bài tác giả dùng các từ thiếu niên, du đãng tử… có vẻ như là tác giả đang nói về một chàng thanh niên. Lầm đấy! Ngay bài thơ tiếp sau đây tác giả dùng từ thiếu niên đối vối cô gái bị người tình ruồng bỏ khi nhan sắc không còn. Hơn nữa, trong văn học ngày xưa, chữ “tử” được dùng chỉ cho cả nam lẫn nữ, những người trẻ trung. Vả lại, trong câu 15, “giá dữ xuân phong…”, chữ “giá” bộ nữ, nghĩa là lấy chồng.
LỜI NGƯỜI PHỤ NỮ BỊ RUỒNG BỎ
Xưa thiếp đương xuân thì
Hai ta tình tương tri,
Thề trăm năm sum họp,
Vui sướng, còn nói chi!
Nay nhan sắc vừa suy,
Là lúc chàng bỏ đi.
Muốn nói mà không được,
Gặp nhau đâu dễ gì!
Chàng như tùng trên núi,
Một tấc chẳng du di,
Thiếp phận thuyền phiêu bạc
Trôi nổi, biết làm gì?
Đêm ngày mãi suy nghĩ.
Nỗi niềm cùng ai nhỉ?
Những tưởng bỏ mà đi
Đi đâu? nào biết chi.
Cách nhau đâu mấy dặm!
Mà như tận chân trời.
Chàng làm cao cố chấp,
Thiếp còn biết làm chi.
Lời bình: Thơ văn các cụ ngày xưa phần lớn sa vào các vấn đề to lớn, ít chú ý đến những thân phận nhỏ nhoi, đời thường như hai bài trên đây. Ít lắm, Đỗ Phủ có bài thơ nói về anh lính trở về quê sau chiến tranh, Tùng Thiện vương có bài thơ nói về người nông dân đi bán tre (Mại trúc diêu), đều là tuyệt tác cả. Thơ của Duyên Phương đúng như Tùng Thiện vương viết trong Lời tựa (2) “xót thương những thân phận trái bầu trôi nổi”.
MÙA XUÂN BÊN SÔNG
Đêm qua có mưa nhỏ
Lòng sông sóng gợn mờ
Lòng em xao xuyến bấy
Bên sông bước bước hờ. (Dịch giả không đề tên)
ĐƯỜNG PHỐ DÀI
Chàng phương phi tài giỏi,
Sao lại cứ ẩn danh!
Tuổi Giáp Thìn có phải?
Chàng thiếp cùng năm sanh.
LỜI RIÊNG
Yêu chàng, không cự chàng,
Chàng lại hay làm giặc
Mọi sự có thể chìu,
Nhưng chuyện ấy cấm ngặt
Bản dịch của Huỳnh Châu
THỂ TỨ NGÔN
RƯỢU
Có rượu có rượu.
Rót đi uống đi.
Mọi người say cả,
Ta tỉnh làm gì?
Mênh mang lòng ta.
Phiêu phiêu tấc dạ.
Ưu sầu uất kết.
Sao không gặp thì.
Ấu thơ côi cút,
Nương tựa nơi anh,
Một sớm dứt áo,
Ra đi cũng đành.
Buổi đầu gặp gỡ,
Không tiện tương tri
Người trong cõi thế,
Nhiều khổ sầu bi
Bồng Lai có chăng?
Đào nguyên thị phi?
Tri âm khó gặp,
Ta nào khác gì!
Bản dịch của Huỳnh Châu
NGŨ NGÔN CỔ PHONG
HỌA BÀI THƠ BÀN VỀ VIỆC LẤY VỢ CHO BẠCH LẠC THIÊN
Lấy vợ như thế nào?
Đạo lý ra làm sao?
Xưa lấy không cầu phú,
Nay không chọn nhà nghèo.
Chất cổ, ta mong muốn
Ý nay, phải bàn nhiều.
Con gái nhà phú quý
Chẳng ai không tự kiêu.
Con gái nhà nghèo khó,
Chẳng ai không hạ mình.
Hạ mình đâu hợp đạo,
Kiêu kỳ hợp đạo chăng?
Nghe ông tính lấy vợ,
Tôi góp ý thật lòng.
Lấy vợ nhà nghèo khó
Tránh vợ Chu Mãi Thần (1) y vợ nhà phú quý,
Phải như Hoàn Thiếu Quân (1).
DU HỌC Ở TRÀNG AN
Khi ta rời khỏi nhà,
Nói là đi du học,
Vợ may cho áo mới,
Chị nắm cơm đi đường
Từ biệt ai cũng dặn
Phải nhớ ngủ cho ngon.
Vạn dặm đất khách xa
Cực khổ một thân ta.
Đột nhiên trong một sớm
Dậy trong lòng chí lớn,
Uống toàn rượu Đỗ Khang (2)
Áo Thiên Tôn cho sang (3)
Bạn mới, trang hiệp khách
Cố tri là phú thương
Dạo chơi khắp thành thị
Vui suốt chẳng ngày nghỉ
Ý khí thật mênh mông
Mênh mông mà rỗng không
Than ôi! Ta lo lắm.
Hỏng vì đời lông bông.
ĐỂ LẠI CHO CHỊ
Phiền muộn nhiều sinh bệnh,
Chức cao dễ oán thù.
Thương thay bà chị họ,
Vì ta mà âu lo
Ngày ta mới ra đi
Chưa có chức tước gì
Mới thấy lòng chị qúi
Tốt xấu khó hợp hòa
Lòng mỗi người mỗi xa
Làm sao kết nhau được.
Bản dịch của Huỳnh Châu
GỞI BÁNH CHO CHÁU BÉ BỐN TUỔI
Xa nhà chưa trọn tháng,
Mãi nghĩ tới cháu tôi,
Gởi cho cháu ít bánh,
Nước mắt không ngừng rơi.
Cha cháu khổ vì nghèo,
Khuyên giải nghèo sao được!
Mẹ cháu mãi lo lắng,
Lấn bấn quá nên đau
Em cháu chưa đầy tuổi,
Nửa bước khó đi đâu.
Ta ở xa cháu lắm,
Nghĩ đến, càng thương thôi
Lời bình: Ngày xưa rất hiếm những bài thơ mến chị, thương cháu như thế. Những suy nghĩ ở đây lại rất chi tiết, rất đời thường, quả là lạ lắm.
GỞI BẠN
Tính vụng nên ít bạn,
Tương tri mình bác thôi
Từ dạo đi trấn nhậm,
Rời quê nhà, kinh sư,
Một mình thân đất khách,
Nhiều hôm chạnh nhớ người.
Cuộc đời quý an thích,
Bác thì chẳng ân cư
Việc tôi đâu được nhàn.
Khoác áo vào, mặc kệ!
Gió chiều se se mát
Mưa chiều rơi lâm thâm
Vợi trông về hướng bác.
Bãi triều chậm bước chân.
Thăm người nghèo vừa xong,
Cùng vợ con một lát,
Lòng vẫn nặng nỗi buồn.
Biết bạn lòng vẫn vậy
Dù xa tình chẳng thay
Xưa nay, đạo bạn hữu
Răn dạy mấy điều nầy,
Quyền quý ta chẳng thích,
Thường nhớ mình bạn đây.
CẢNH ĐI THUYỀN TỪ KINH ĐÔ VỀ QUÊ
Ở Tràng An đã lâu,
Se se gió bấc về,
Dậy trong lòng nỗi nhớ,
Lên thuyền về thăm quê.
Lữ hoài ai không khổ?
Thu hứng đâu đây thôi
Xa xa làn nước biếc,
Mênh mông, mặc thuyền trôi.
Nhấp nhô hoa sóng gợn,
Trời cao muôn vẻ thanh,
Ráng hồng tia nhấp nháy,
Cây xanh và sóng xanh.
Chiều tà biển thật đẹp,
Mây núi lại càng xinh
Gió len khe vách hẹp
Mưa rơi đâu bên chằm
Trên bờ trông buồm chạy,
Trên thuyền thấy đảo đi,
Quên hết đường dài ngắn,
Quên chuyện đời hưng suy.
Cứ bảo không lúc rỗi
Thì đây ngâm vịnh đi,
Trải lòng hay quá đỗi
Nào chuốc chén tương tri.
ĐỘI MƯA ĐI VÀO TRONG XÓM THĂM BẠN, NỬA ĐƯỜNG TRỜI TỐI BUỒN MÀ VỀ
Mưa dầm dề không dứt,
Thì cũng đi mà thôi!
Trong lòng nghe bứt rứt,
Bạn sống ra sao rồi?
Cổng nhà bạn cài then,
Bạn nằm không ánh đèn.
Buồn đường quan trắc trở,
Chuyện trò càng khó khăn!
Bóng tối sụp xuống rồi,
Lác đác hạt mưa rơi,
Tàng cây vương chút khói,
Vài ánh sao bên trời.
Càng nhắc càng thương quá,
Ngồi chơi đã lâu rồi.
Bần thần trở về nghỉ,
Ngoài trời mưa vẫn rơi.
SÁU BÀI TẠP HỨNG
I. 
Ngâm sẵn một bầu rượu,
Là ta riêng có ý,
Sáng chiều nhấp một tí,
Đủ cho người lơ mơ
Khi say thật thú vị
Quên hết mọi nỗi lo
Mình ta tỉnh làm gì?
Thiên hạ đều túy lúy.
II.
Suốt tuần mưa tầm tã,
Quanh vườn thật buồn bã
Trong lòng bao nỗi lo,
Gió thu thêm tơi tả
Suốt ngày quanh trong nhà
Rối bời trong lòng ta
Bên hiên vài khóm cúc,
Sóng cuộn ngoài biển xa.
III.
Bất cứ người thế nào
Ra đời phải tranh nhau
Ta một mình vò võ
Biết mưu mô gì đâu
Mấy lời nhắn thiên hạ
Ta vừa cuộc viễn du
Đến bên nguồn cực lạc
Xem nước chảy rì rào
Phú quý ta không ước
Làm tôi tớ được sao?
IV.
Sớm mai ra trước cổng
Muôn vẻ tươi phô bày
Anh đào xinh mấy đóa
Ngắt một cành hay hay.
Lên cao sầu vẫn sầu
Đường dài biết đi đâu
Chiều xuống quay về lại
Sương rơi ướt mái đầu.
V.
Xưa nằm mộng lên tiên
Nhẹ bước Bồng Lai đảo
Gặp gỡ bao nhiêu cô
Mắt sáng trưng diễm ảo
Áo lụa đỏ lộng lẫy
Đón mời thân thật đấy
Ôi! Tiên khác với trần
Lưu luyến làm chi vậy.
VI.
Người xưa trọng kết giao
Ngày nay sao cẩu thả
Ta vốn người quê mùa
Mở lời kém tao nhã
Tu hành ba mươi năm
Thang thuốc đây thuộc cả
Luyện được Thanh lương tán
Bao ưu phiền hết cả.
CẢM XÚC NGÀY XUÂN
Đất khách vui được mấy
Một mình, thoảng gió xuân
Sáng sớm đi thong thả
Xem sinh hoạt nhân dân
Lăn xăn người qua lại
Vui vẻ mặt tươi tỉnh
Riêng ta lòng ưu tư
Ngày một thêm chồng chất.
Vườn xưa ven đông nam
Cây cối mọc xanh tốt.
Anh ta còn ở nhà
Đôn đốc việc trồng trọt.
Cháu bé chơi bên cạnh
Hả hê đùa thật thích
Việc chi ta cứ mãi
Ngày đêm ra vào cung
Lụy vì thăng đấu phỏng?
Để hận cái thân danh.
HOÀI THU
Việc quan còn thư thả,
Ngồi không nghĩ vẩn vơ
Xem vết người đi trước
Cảm khái chuyện bây giờ
Giữa minh mông vũ trụ,
Trong vô tận việc đời
Tạo vật huyền hoặc quá.
Gió về mát lắm thôi
Tiếng ve ran cảnh vắng
Bên hè đôm đốm soi
Rảnh rơi cùng đêm vắng
Không thấy lòng xa xôi
ĐÊM MƯA NHỚ BẠN
Mưa gió mù trời đất
Cảnh viên đình hoang sơ
Leo lắt đèn đêm lạnh
Trống canh vọng bâng quơ
Trăng hạ tuần nhàn nhạt
Mặt nước hồ gợn mờ
Nhớ bạn mà không thấy
Lòng càng thêm chơ vơ.
BỐN THÚ NHÀN
1. Thú Đánh cá
Sông xanh sóng lăn tăn
Rạng đông mờ đất trời
Gõ chèo câu Thương lãng
Theo sóng thả thuyền trôi
Được cá thật vui thích
Ít nghĩ ngợi chuyện đời
Đổi cá lấy rượu uống
Đi về lòng thảnh thơi
2. Thú hái củi
Vừa sáng lên trên núi
Chiều đã về tới nhà
Rau dưa lòng thanh thản
Chẳng lo người ganh ta
Chân dẫm khắp nơi hiểm
Mắt nhìn bao vẻ xinh
Tự thấy ta sang quá
Thị phi gì với mình!
3. Thú làm ruộng
Chung sức nhau làm nông
Dậy sớm đi ra đồng
Hát vui cùng chim chóc
Cấy hái ngại công không
Ngũ cốc tùy loại đất
Cỏ dại nhổ sạch xong
Siêng năng, nghèo không sợ
Còn lo chi trong lòng.
4. Thú chăn thả
Vật đều có tính riêng
Phải biết rõ từng con
Sáng dắt ra đồng cỏ
Chiều gom về lại chuồng
Ngày nào cũng như thế
Đừng để lạc một con
Rong chơi cảnh rừng núi
Cười giỡn suốt ngày luôn.
NHỚ LẠI CUỘC ĐI CHƠI TRÊN SÔNG
Nhớ cuộc đi chơi trước
Lên thuyền xem cảnh sông
Sông chiều đẹp thích quá
Mặc sóng xuôi theo dòng.
Núi non hiện sắc lạ
Màu xanh mượt cánh đồng
Xa xa ghềnh đá xám
Bọt nước trắng như bông.
Ánh chiều đọng tàng cây
Bãi cát màu thanh bạch
Bơi trong bể hoạn nầy
Ta vẫn phong trần khách.
Lòng ta buồn mênh mông
Tình ý riêng trong lòng
Khi chưa tròn ơn trọng
Sớm chiều thêm bâng khuâng
TẾT ĐOAN NGỌ
Sống lâu ngày đất khách
Xuân đi tự bao giờ
Người bảo tết Đoan ngọ
Sáng dậy ra ngoại ô
Người lấn chen hối hả
Có cô gái hàng hoa
“Răng nỏ mua bông nợ
Ngày tháng mô có chờ?”
Ta cảm thấy ngường ngượng
Mua cô nàng chuỗi hoa
Hương thanh sực nức mũi
Xuân quả thật đã qua
Vấn vương quá bất ngờ
Hè nắng nôi khá rõ
Ta chẳng chút xôn xao
Quang cảnh thật ồn ã
Mua lễ cúng ông bà
Mời chào ta niềm nở:
Ngồi một chắc xụi lơ?
Phải sống răng cho sướng
Khắng túi moi tiền ra
Về treo trên giường ngủ
Rõ nhưng rồi tiệc hoa
Lần chuỗi hoa còn tủi…
Bản dịch Ngô Văn Lại
CHUỐC CHÉN TIỄN BẠN
Thuở làm việc cùng ông
Riêng ta hiểu ông nhất
Nay tiễn ông lên đường
Tặng ông khúc đàn cầm
Đàn khúc ca Thương ly
Tiếng đàn nghe sầu bi
Bạn tương tri ngày ấy
Quý tấm lòng tương tri
TẶNG CỐ NHÂN KHI TỪ BIỆT
Năm ngoái ta tạm biệt
Buồn biết mấy bạn ơi!
Năm nay ta gặp lại
Mừng nói chẳng thành lời
Gió lùa ngoài song cửa
Đừng vội đi gió ơi!
GHI CHÉP TRÊN ĐƯỜNG CÔNG CÁN
Cuối năm lệnh đi bắc,
Gió bấc thổi càng rét,
Chí trai nào sá gì!
Buông bút khoác nhung y.
Thư sinh chưa trận mạc,
Song từng quan nhà binh,
Mưu chước trong chinh chiến,
Thuật Tôn Ngô phải tinh.
Tướng sĩ ta dũng tiến,
Giặc cỏ chạy trốn tất,
Cơ bản việc đã xong,
Công bố chuyện được mất.
Thổ dân ai chưa hiểu,
Đầu phạm chưa bị gông,
Dùng kế vây chặt núi,
Thử hỏi thoát được không?
Phải tính kế lâu dài
Vừa chống lại vừa xây,
Nên mở đường nhân đạo,
Vỗ về dân ở đây.
Trong vòng có mươi hôm,
Lần lượt giặc ra hàng,
Hung hăng rồi cũng tỉnh,
Một sớm dẹp sạch xong.
Cấm tuyệt lính tham tàn,
Tránh làm khổ nhân dân,
Nhớ lúc ta vừa đến,
Kể sao xiết gian nan,
Đường quanh co, sông suối
Dốc núi chót vót cao.
Nắng mưa mái lá rừng,
Không một chỗ nằm ngủ
Bốn bên núi đựng đứng
Cây cối dàn kín bưng
Chướng khí tỏa ngùn ngụt
Có khi nắng vừa lên
Hốt nhiên nổi mưa gió
Trời đất tối như mực
Suốt đêm tiếng điêu đẩu (1)
Đốm lửa hồng lưa thưa
Ba tháng ròng từng trải
Tóc tai mọc bờm xờm
Thánh triều uy đức khắp
Tận xóm làng hoang vu
Khải hoàn ta rửa giáp,
Cầm bút ghi sự thực.
Chú thích:
(1) Mái Nghiệp: chỉ đài Đồng Tước do Tào Tháo cho xây ở tây nam thành Nghiệp, huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam, là nơi ăn uống vui chơi của danh sĩ, giai nhân.
(2) Sông Khúc: sông gần Lạc ấp, kinh đô nhà Thương, Chu Công, Tần Chiêu vương thường đi thuyền dạo chơi uống rượu trên sông Khúc.
(1) Phan Mai Xuyên: tức Phan Thanh Giản.
(1) Sức dư: Sách Luận ngữ - thiên Học nhi có câu: “Đệ tử nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực tắc dĩ học văn” (Người quân tử ở nhà thì giữ chữ hiếu, ra ngoài biết tôn trọng người khác, cẩn thận mà tin thật, thương yêu mọi người, gần gũi người có đức nhân, làm được những điều ấy, còn dư sức thì dùng để học văn).
Ở đây, Trương Đăng Quế nói đến đạo làm người của nhà Nho.
(1) Chu Mãi Thần: nhà nghèo ham học, bán củi độ nhật, tay lúc nào cũng cầm cuốn sách. Vợ ông không chịu được cảnh nghèo, bỏ đi lấy chồng khác. Sau ông được tiến cử với Hán Vũ Đế, lập công trạng, được phong chức Thái thú. Mãi Thần gặp lại vợ cũ, muốn giúp đỡ, nhưng người vợ xấu hổ, thắt cổ chết.
(1) Hoàn Thiếu Quân: Vợ của Bảo Tuyên, vốn con nhà khá giả. Ngày vu quy, nàng đem theo nhiều của hồi môn, ăn mặc sang trọng. Thấy chồng không vừa ý, nàng thay áo ngắn vải thô, theo về nhà chồng, hầu hạ cha mẹ chồng chu đáo rất mực. Ai cũng khen là dâu thảo.
(2) Đỗ Khang: Rượu Đỗ Khang ngon nổi tiếng. Tương truyền Lưu Linh uống rượu Đỗ Khang say suốt một năm mới tỉnh.
(3) Thiên Tôn: tức sao Chức Nữ. Ngoài chuyện tình với Tiêu Lang, Chức Nữ nổi tiếng may vá khéo tay. Ao Thiên Tôn do Chức Nữ may thì đẹp nhất.
(1) Điêu đẩu: cái chảo bằng gang, lính dùng  nấu cơm vừa dùng để gõ cầm canh
KHÓC HÀN LÂM TU SOẠN TRƯƠNG ĐĂNG TRINH - CON TRAI NGƯỜI ANH
Vỗ ghế lòng xót xa,
Nhớ cháu lúc sinh thời,
Cha mẹ tóc bạc cả,
Dưới gối cháu còn thơ.
Khăn gói ra kinh đô
Một tay giúp việc chú
Trải mấy năm chuyên cần
Nam bắc bao gian khổ.
Chăm học, nối nghiệp tổ,
Một khắc, sách không rời.
Xuân rồi đỗ Tiến sĩ
Biết sợ lòng ước mong!
Thiếu niên vào Hàn lâm
Tài năng vua chú ý,
Đã theo nghiệp thơ văn
Làm chức quan rất tốt
Ta già, cháu trai trẻ
Chính là lúc đua tài
Ôi! Ba mươi tuổi lẻ
Ước mong thường đơn sai
Vật tốt khó bền sao!
Hoa xuân dễ khô héo!
Thăm thẳm trời xanh cao
Đùa giỡn sao quá ác!
Cố hương ngàn vạn dặm
Quan san xa biết bao
Tuyền đài mờ mịt lắm,
Cháu đi về ra sao?
Cha mẹ già, con nhỏ
Đau khổ biết nhường nào
Nghĩ đến lòng chua xót
Trời xanh ơi! Tại sao?
Bản dịch của Huỳnh Châu
BÀI ỨNG CHẾ VIỆT SỬ.
Nước Việt từ Hồng Bàng,
Xưng hiệu Kinh Dương vương,
Vốn dòng Đế Nghi thị,
Lập quốc xứ Viêm bang.
Truyền được mười tám đời
Nhiều sự tích ly kỳ,
Dựng nước và giữ nước
Đậm đà tính sử thi.
An Dương vương Thục Phán,
Nối làm vua Văn Lang,
Sau vì mất cảnh giác,
Nước vào tay ngoại bang.
Trung Hoa lúc Tần loạn,
Thừa thế, vua Triệu Đà,
Thâu tóm toàn Bách Việt
Cai trị luôn nước ta.
Mới truyền được bốn đời,
Bị địch gài nội gián,
Nam Việt mất như chơi.
Nhân dân bao thống khổ,
Phò Trưng vương quật khởi,
Độc lập chẳng được lâu…..
Sĩ vương thời Tam quốc,
Trị nước thật là tốt,
Lập Văn hiến Nam giao,
Một phương tụ anh hào.
Rồi nhân Trung Quốc loạn,
Lơi lỏng ách thống trị,
Tiền, Hậu Lý Nam đế,
Đứng lên giành kinh kỳ.
Triệu Quang Phục tài giỏi,
Giữ nước mấy mươi thu,
Tùy, Đường lại xâm chiếm,
Dân ta khổ dãi dầu,
Phò các vua Mai, Phùng (1),
Ngô vương dẹp Nam Hán,
Mới giành độc lập xong.
Đến loạn Mười hai sứ,
Thi nhau mạnh cát cứ,
Dân biết tin vào ai?
Bao năm khổ dài dài.
Anh hùng Đinh Bộ Lĩnh,
Như xuống từ thiên đình,
Dẹp yên, lên thống lĩnh,
Hoa Lư lập đế kinh.
Đinh triều tuy không dài,
Nhưng triều đầu chính thống.
Lê Hoàn lại thay vai
Cầm quân đánh bại Tống
Song chính việc soán ngôi,
Khiến nhân tâm phân tán,
Lao dịch nhiều sinh oán,
Nghiệp Tiền Lê sớm tan.
Lý Công Uẩn ứng vận,
Tựa như Triệu Khuông Dẫn.
Dời đô về Đại La,
Dựng cơ đồ nước ta.
Thái Tông vừa nối nghiệp,
Ba vương em bất phục,
Lê Phụng Hiểu mạnh tay,
Đầu Vũ Đức liền bay, (1)
Phất cờ bình nội loạn,
Thảo phạt yên biên cảnh,
Bao dấu vết linh thiêng,
Ai còn mê chưa tin?
Thánh Tông giỏi trị nước,
Đem thái bình rộng khắp,
Nhân Tông kế thừa hay,
Dân giàu nước mạnh thay!
Lại để mẹ phải chết? (2)
Khiến bao người khóc vay.
Thời Thần, Anh, Cao, Huệ (3)
Liên tiếp gặp tai vạ,
Mấy ai như Hiến Thành,
Trước sau không đổi dạ
Nhưng vua lại cẩu thả,
Anh hùng nổi lên tranh,
Chiêu Hoàng chưa trưởng thành,
Dễ sa cơ mưu độc.
Thiếu bề tôi kiều mộc,
Vực dậy một cơ đồ,
Trao ngôi rẻ như cho,
Chấm dứt triều nhà Lý.
Trần Cảnh đạt đế vị,
Chuyện thật lạ xưa nay,
Nói Đế vương hữu mệnh,
Hay mưu Thủ Độ bày?
Triều Trần cai trị nước.
Thánh, Nhân thật hiền thay!
Văn hóa phát triển mạnh,
Uy vũ bình giặc Nguyên,
Công Nhật Duật, Quốc Tuấn.
Hàm, Bạch mãi lưu truyền.(1)
Anh Tông siêng việc nước,
Văn vật tiến một bước,
Minh Tông ham sách đèn,
Mù mờ việc trắng đen,
Đến hai vua Hiến, Dụ, (1)
Chánh lệnh càng rối thêm...
Nghệ Tông lo dẹp loạn,
Đâu ngờ chuyện thâm cung,
Cả tin vào ngoại thích, (2)
Rước mối họa vào thân.
Duệ Tông nhìn xa thật!
Hăng hái quá, hy sinh. (3)
Quý Ly nắm quyền tất,
Xoay chuyển lợi về mình
Lập Thiếu Đế ba tuổi,
Triều Trần mất rất nhanh.
Đại Ngu tên nước mới,
Tây Đô chưa hoàn thành,
Quân địch ào đánh tới,
Nước vào tay nhà Minh.
Định, Giản, Trùng Quang đế,
Khởi binh tụ bốn phương,
Nghe dèm, giết danh tướng,
Mất nghiệp, mấy ai thương!
Rốt cuộc, triều Lý Trần,
Nặng tôn sùng Phật thần,
Chất chứa nhiều nhược điểm,
Triều Trần lại phi luân. (1)
Ô hô! loạn đến thế,
Làm sao vững cương thường!
Minh thuộc hai mươi năm,
Nước ta thành bình địa.
Cờ Lam Sơn dấy nghĩa,
Chí lớn tụ bao người,
Trăm trận đuổi giặc dữ,
Mười năm thu về thôi.
Tạo lập cơ đồ mới,
Lê Thái Tổ sáng ngời,
Song công thần bị hại,
Khiến bao chuyện bất lợi,
Thái Tông lên ngôi trẻ, (1)
Biếng học lại ham chơi,
Bỏ ngoài tai, cố lão,
Lụy nữ sắc, qua đời.
Nhân Tông quá măng sữa (2)
Mẫu hậu nắm hết quyền,
Giặc leo tường tiếm vị (3)
Gây tội ác tày gang.
Các cựu thần mưu trí,
Bắt toàn bộ bọn gian
Phế Nghi Dân làm quan
Lập vua hiền nối nghiệp.
Thánh Tông, tay hào kiệt,
Đáng mặt vua anh tài!
Hùng mạnh nước Đại Việt,
Khởi từ Hồng Đức đây!
Những tôi hiền Thân, Đỗ, (1)
Lập Văn đàn đầu tiên,
Phát huy văn hóa Việt,
Sách Thiên Nam lưu truyền.
Duệ Tông giữ đế nghiệp, (2)
Đất nước vui thái bình,
Được mấy năm tốt đẹp,
Uy Mục làm tanh banh.  *
Bất nhân tên vua Quỉ!
Mầm mống mọi suy vi.
Đến vua Heo cai trị  *
Dâm bạo đâu kém gì, *
Dấn vào vết xe đổ,
Mấy lần mất kinh kỳ.
Thấy Chiêu Tông yếu đuối
Quyền gian mưu chiếm ngôi.
Cung Hoàng càng lôi thôi, (1)
Lòng dân thêm phân tán,
Họ Mạc nhân thời loạn,
Chấm dứt triều Lê sơ.
Nhờ triệu tổ Nguyễn ta,
Từ Ai Lao dấy nghĩa,
Phò lập Dụ hoàng đế,
Xây nền Lê trung hưng.
Vũ hoàng nắm thừa kế (2)
Đánh Mạc thế dằng co,
Tuấn hoàng lại nỗ lực, (3)
Triều Lê vững cơ đồ.
Nhưng quyền thần nắm tất,
Như họa luồn vô nhà,
Mười một đời Lê thất,
Nay vào tay Trịnh gia.
Lòng rặt mưu gian xảo
Khiển vua như chơi cờ
Nắm hết việc lớn nhỏ,
Ngôi vua chỉ làm vì,
Cung điện như nhà ngục,
Bắt giết nào kể chi,
Tội ác hơn Tháo, Ý, (1)
Tưởng mình hơn Chu, Y. (2)
Trịnh chúa loạn đến thế,
Nghĩa sĩ ai làm gì?
Giặc Tây Sơn nổi dậy,
Người Mãn Thanh dòm vào,
Bốn trăm năm như vậy,
Thế nước buồn làm sao!
Nên biết, ý trời cả!
Rồi đến thống nhất thôi.
BÀI ỨNG CHẾ VỀ CÁC BẬC THÁNH HIỀN NGÀY XƯA
Đào Uyên Minh thời Tấn,
Tài giỏi khó người sánh,
Sách nào cũng làu thông
Bỏ quan chức về không.
Chọn những bề tôi giỏi,
Ghi công lao đầy đủ,
Thời Toại Nhân khai mào,
Đến Ngụy Tấn anh hào,
Tứ trụ quan lớn nhất,
Tiếp sau còn chín chức.
Tám người dựng nhà Ngu,
Mười vị xây triều Chu.
Năm quan, Tấn bá chủ,
Tam kiệt lập triều Hán,
Giúp Quang Vũ trung hưng,
Bốn bảy người lập công.
Liên tiếp thời Ngụy Tấn,
Tứ hữu, Thất hiền đông.
Chọn mà không sợ sai,
Bát Nho, Tam Mặc phái.
Đấy, những hiền thánh xưa,
Đáng làm gương hậu đại.
Vua ta, siêng học hành,
Hiểu chuyện đủ ngọn ngành,
Tìm học gương vua giỏi,
Lo lắng việc chỉnh sửa.
Mượn chuyện thánh hiền xưa,
Chọn tôi hiền phò vua,
Đề bạt người trung thực,
Khen thưởng luôn nghiêm mật..
Thần thuộc lớp xưa rồi,
Tư chất thô mộc thôi
Tự thấy không xứng chức,
Tiến hiền, chưa đủ sức,
Nhọc lòng vua tin cậy,
Khép nép họa thơ nầy.
THỂ THẤT CỔ.
HỌA BÀI NGỰ CHẾ ĂN TRÁI
HỒNG LỆ CHI
(trái vải thiều)
Trái cây danh tiếng loại nào nhất?
Bồ đào, Thạch mật rất tuyệt kỳ,
Nghe đâu cây trồng tận Tây vực,
Nam phương thì có Hồng lệ chi.
Vải Thiều trái chín trong mùa hạ,
Ngậm vô hương thơm tỏa khắp cả,
Bao nhiêu nóng bức chợt tiêu đi
Giải khát sảng khoái mát tâm dạ
Hôm qua giảng sách được trên ban,
Một loại trái cây tươi sắc đỏ,
Trong đĩa pha lê rồng phun châu,
Lột lớp vỏ xinh ánh rực rỡ,
Ruột như tuyết trắng, nước thơm ngọt,
Hơn hết hương vị trăm quả ngon.
Thật đây quả quí Hồng lệ chi
Đông Pha khen nức mơ thành bệnh.
Nhớ lại chuyện cũ thời Minh Mệnh,
Mấy lần uống trà vườn Thiệu Phương
Theo vua rảo bước dạo quanh vườn,
Tự tay vua hái ân cần tặng,
Bao lần nhạn quà hoa quả tươi,
Giữ hạt giống quý nhớ khôn nguôi,
Trải ba triều vua ơn rất nặng
Cảm niệm chuyện cũ, lòng bối rối,
Ơn nước chưa xong, thân già rồi!
Sớm chiều lo lắng phận bề tôi.
BÀI ỨNG CHẾ NHÂN SÂM CA
Dược liệu thượng phẩm có nhân sâm,
Phục hồi suy nhược rất là nhanh,
Từ xưa là vật báu,
Ngày nay càng quý hung.
Nhân sâm chất tốt, tác dụng mạnh,
Đại bổ nguyên khí, tăng sức già,
Nhân sâm không phải thuốc đặc trị,
Nhưng có nhân sâm, bệnh mới qua.
Nhân sâm chủ đạo các vị thuốc,
Như quan Tể tướng coi triều vua,
Như ông nguyên soái bảo vệ nước.
Mới thực là đáng quý,
Ngày càng được tôn sùng.
Người bảo trên trời sao Sâm thiêng,
Thiên biến vạn hóa nên hình người,
Ẩn trong lòng đất,
Thật xa tới tận nơi thâm sơn cùng cốc,
Sinh sôi kết tụ bao tinh hoa đất trời.
Nhân sâm giúp sức kéo dài tuổi đời.
Thường nghe nói tới Mẫu Đơn đẹp,
Mỗi khi nhìn thấy ai không thích?
Thường nghe danh tiếng nấm Linh Chi,
Mỗi khi tìm được như điềm tốt,
Cũng chẳng thể sánh thuốc nhân sâm,
Khiến bậc già lão trẻ nhiều năm.
Ta được nhân sâm thật hy hữu,
Bữa ấy giảng sách việc vừa xong,
Trà lá bàn suông chuyện lắm bệnh,
Nghĩ mình ngâm mãi khúc Nam Sơn.
Vì sâm xưa nay tìm không có,
Phân biệt thật giả rất là khó.
Như gạo cứu trợ phát cho dân,
Người đói ăn cơm, hồng sắc xuân.
Cầu mong thánh chúa rộng ân đức,
Để mọi người già được sống lâu,
Vỗ bụng ca ngâm vui thái bình,
Thượng thọ chẳng cần sâm thêm sức.
TRƯƠNG QUẢNG KHÊ TIÊN SINH THI TẬP
Quyển 2
Biên tập: Miên Thẩm (Thận Minh)
THỂ NGŨ NGÔN LUẬT.
ĐÊM MÙA THU (1)
Từ phương nao gió nổi?
Bên song tiếng rì rào,
Việc công luôn bối rối,
Tình riêng nhạt làm sao!
Mây chê trăng còn tối,
Hoa khinh thu nghèo sao?
Ôi! Sài Tang xa lối (1)
Hoa cúc giờ thế nào?
ĐÊM MÙA THU (2)
Ý thơ vẫn còn đấy,
Ngoài trời mưa bay bay,
Xa quê, thu nhạt lạ!
Nhớ nhà, buồn lắm thay.
Ôi! Cách trở nhiều quá,
Tạm loanh quanh trong nhà.
Nhắn với Trùng dương khách, (1)
Nhớ người trồng cúc hoa (2).
Lời bình: Hai bài “Thu dạ”, chỉ một tâm tình. Làm một chức đại quan mà không vui, thích bỏ quách về làm dân như Đào Tiềm. Bài “Xuân nhật thư hoài” trên kia viết: “Lụy vì thăng đấu phỏng? Để hận cái thân danh”. Băn khoăn dằn vặt, bỏ về thì phụ lòng tin cậy của vua trước vận nước biết bao khó khăn. Phải công nhạn một điều, Đào Tiềm chỉ làm một viên quan nhỏ ở địa phương (Tri huyện Bành Trạch) từ quan dễ hơn nhiều. Trương Đăng Quế đang là quan nhất phẩm triều đình, lại được vua kính trọng tin cậy, bỏ về đâu có dễ như Đào Tiềm.
Chú thích:
(1) Mai Thúc Loan, Phùng Hưng (tức Mai Hắc đế và Bố Cái đại vương)
(1) Vũ Đức vương, Đông Chinh vương, Dực Thánh vương: Ba em của Thái tử Lý Phật Mã nổi loạn. Tướng Lê Phụng Hiểu chém bay đầu Vũ Đức vương, hai vương kia bỏ chạy, sau tự trói mình chịu tội được vua Thái Tông tha cho.
(2) Lý Càn Đức là con của thứ phi Ỷ Lan. Dương Hoàng hậu không con, xem Càn Đức như con. Khi Càn Đức lên ngôi, tức vua Nhân Tông nhà Lý, nghe lời dèm pha đày mẹ chính là hoàng thái hậu cùng 72 thị nữ vào ngục, rồi cho giết đi.
(3) Tức Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông.
(1) Tức Hàm Tử quan, Bạch Đằng giang.
(1) Tức Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông
(2) Tức Hồ Quý Ly, có hai người cô lấy vua Trần Minh Tông, sinh ra vua Trần
Nghệ Tông, Trần Hiến Tông. Quý Ly thâu tóm quyền hành, sau cướp ngôi.
(3) Trần Dụ Tông đích thân cầm quân đi đánh Chiêm Thành, bị bắt làm tù binh rồi bị giết.
(1) Triều Trần chỉ kết hôn trong họ Trần với nhau.
(1) Lê Thái Tông lên ngôi lúc 11 tuổi.
(2) Lê Nhân Tông lên ngôi lúc 3 tuổi.
(3) Lạng Sơn vương Nghi Dân vốn là thái tử, sau vì mẹ có tội nên bị truất. Nay thừa cơ, nửa đêm leo tường vào cung giết mẹ con Lê Nhân Tông, tự xưng làm vua. Tám tháng sau, các cố lão cựu thần nhà Lê lập mưu bắt trọn đảng gian, phế Nghi Dân xuống làm tước hầu, sau giết đi.
(1) (2)(3)  Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận cùng các nhân sĩ khác tham gia Tao Đàn “Nhị thập bát tú” mà vua Lê Thánh Tông làm nguyên súy,hai vị Thân, Đỗ làm phó nguyên súy. Để lại nhiều tác phẩm văn học có gia trị, trong đó có sách “Thiên Nam dư hạ tập”.
(2) * Lê Duệ Tông, tức Lê Hiến Tông, con vua Lê Thánh Tông, nối ngôi làm vua 7 năm thì mất, con lên ngôi là Lê Túc Tông làm vua 6 tháng thì mất. Hoàng tử Tuấn vốn là thái tử, mắc lỗi nên bị truất, bấy giờ mới lên làm vua, tức Lê Uy Mục, ham mê tửu sắc, giết hại đại thần, người đời gọi là vua Quỷ. Cháu vua Lê Thánh Tông tên là Oanh, đánh giết Lê Uy Mục, lên ngôi tức Lê Tương Dực, cũng dâm bạo lại ăn chơi xa xỉ, cho xây Cửu trùng đài, người ta gọi là vua Heo.
(1) Lê Cung Hoàng được Mạc Đăng Dung dựng lên, sau cướp ngôi.
(2) Vũ Hoàng tức Lê Trang Tông, vua đầu thời Lê trung hưng
(3) Tuấn Hoàng tức Lê Trung Tông, kế vị Lê Trang Tông
(1) Tào Tháo, Tư Mã Ý.
(2) Chu Công Đán. Y Doãn
(1) Sài Tang: là nơi Đào Tiềm thời Tấn về ở ẩn sau khi bỏ chức tri huyện Bành Trạch. Đào Tiềm trồng nhiều hoa cúc và chơi đàn, sống thanh bạch, là hình tượng điển hình của kẻ sĩ tài giỏi và thanh cao. Trong văn học sử Trung Quốc thì Tào Thực và Đào Tiềm là hai cây đại thụ khai nguồn cho dòng văn học trữ tình mà sau này nở rộ những bông hoa tuyệt mỹ: Đỗ Phủ, Lý Bạch, Sầm Tham, Lý Thương Ẩn… Ý tưởng hai câu cuối bài thơ nầy nhắc đến Đào Tiềm
(1) Trùng dương khách: là mặt trời.
(2) Người trồng hoa cúc: là Đào Tiềm
TIỄN BẠN Ở BẮC THÀNH, HẸN NHAU GẶP LẠI TẠI KINH ĐÔ
Hẹn nhau cùng đi thuyền,
Nay bác theo đường bộ,
Hành trình thiếu bầu bạn
Lênh đênh tôi một mình.
Thương mây treo đỉnh núi,
Biển buồn khi trăng lên,
Hẹn bác kinh thành đấy!
Ra bác cũng một mình!
TẠM BIỆT CHỊ
Chưa uống lòng đã say
Nâng ly bụng không đành
Sớm nay từ biệt chị
Ngày mai sẽ lâm hành
Hướng bấc gió mới nổi
Cuối thu trăng vừa sinh
Chỗ rẽ lòng đã dứt
Cần gì nghe vượng thanh
Bản dịch của Huỳnh Châu
Lời bình: Đây là bài thứ hai viết cho người chị. Bài Di tỷ khi lên đường đi du học ở kinh đô. Bài Biệt tỷ nầy có lẽ là khi đã thi đỗ, lên đường đi làm một chức quan nhỏ. Hình ảnh người chị chỉ thấp thoáng, nhưng thật sự tác giả lại toàn nói về người chị. Người phụ nữ Việt Nam đảm đang, quán xuyến cả trong hành vi xử thế của đàn ông. Bài này, chú ý các hình ảnh gió bấc se se, trăng còn non, hình ảnh của người mới bước vào đời. Cậu em tuy đỗ đạt, đi làm quan, người chị thấy em như con chim non mới ra ràng, mà trường đời thì đầy cạm bẫy. Người chị lo lắng dặn dò và người em cung kính hứa nghe lời. Tình chị em đằm thắm rất Việt Nam, nhưng chỉ thấy trong ca dao, mà rất hiếm trong thơ văn bác học.
GIẶT ÁO
Thu đến sầu quan ải,
Trống vắng phòng em đây,
Bần thần bên chày đá, (1)
Trăng xưa cũng hao gầy,
Tịch mịch sầu kéo sầu,
Tiếng chày vang nơi đâu?
Nghe truyền ngoài hải thú,
Nam chinh lại dãi dầu.
XA NHÀ
Vui sum họp được mấy!
Xa nhau ngàn dặm trường.
Mưa dầm dề suốt tháng,
Thêm rầu khách tha hương.
Dệt mộng, không thành mộng
Thơ văn, thốt đoạn trường,
Xưa nay thân đất khách,
Anh em, đừng nhớ thương!
TRĂNG NON
Lấp ló bên gờ mây,
Mong manh ánh trăng gầy,
Núi sẫm màu tịch mịch,
Nội cỏ lạnh lùng thay!
Vụt đâu đây cánh nhạn,
Tí tách giọt sương đêm
Nhớ nơi nao buồn vậy?
Đêm thảng thốt một mình.
UỐNG RƯỢU MỘT MÌNH
Rót rót thành một mình
Một mình tỉnh tỉnh say
Ngồi ngắm hoa thật thích,
Trăng tan lại u hoài,
Vui khi chơi đồ cổ,
Buồn lúc nhớ chuyện nay
Bên hoa thật thú vị
Nỗi lòng, ai có hay?
VỊNH HOA MẪU ĐƠN TRƯỚC THỀM
Giữa bao nhiêu hoa đẹp
Chăm chút riêng Mẫu Đơn?
Mẫu Đơn khoe phú quý
Chẳng hoa nào sang hơn.
Sắc đẹp tươi mái lá
Màu gấm rực cánh hoa
Rõ tình ta yêu quý
Mỉm cười cùng Mẫu Đơn
VỊNH HOA BỤT TRẮNG
Trong chòm xanh nền nã
Vươn lên rõ dáng thu
Đơn sơ và trang nhã
Chẳng chút phồn hoa nào.
Phải chăng khác cây cỏ,
Cũng buồn như khách sao?
Lòng ta u uất lắm
Nhìn hoa lòng nao nao.
TẾ THU VĂN MIẾU (1)
Đức giáo lưu thiên cổ
Tượng đài suốt xưa nay. (2)
Quan trường dường nguội lạnh
Miếu mạo càng thâm uyên
Thành tâm dâng cỗ cúng,
Kính cẩn lễ ơn thầy
Phò vua lo trị nước,
Lòng son, kẻ mọn nầy.
TIỄN CỬ NHÂN VŨ QUYỀN XỨ KINH BẮC ĐI LÀM TRI HUYỆN, NHÂN TIỆN GỞI LỜI THĂM ÔNG BẠN ĐỒNG NIÊN, HÀN LÂM VIỆN BIỆN TU NGUYỄN BÁ ĐỈNH.
Kinh Bắc, nhiều nhân kiệt,
Nhà bác lắm tuấn anh
Hàng cự tộc đương đại,
Hơn nửa chiếm khoa danh.
Lữ để, ta sơ ngộ, (1)
Ly đình, tôi tiễn hành. (2)
Chuyển lời thăm Bá Đỉnh
Tiền đồ được thông hanh.
TIỄN TRẦN BÁ LƯỢNG ĐI TÂN BÌNH
Nam Trung đâu tuyệt nhất? (1)
Tân Bình ai cũng khen (2)
Sĩ phong đầy hào khí
Con em tài thơ văn.
Nay may gặp ngày đẹp,
Cảnh tượng khác xưa nhiều,
Chẳng phải tốn công kiếm,
Đến đấy có bạn hiền.
TIỄN CỐ NHÂN VỀ QUÊ
Vào thu cảnh buồn thật!
Nén lòng đưa tiễn đây
Nơi nầy dễ thương quá
Bên sông cây mọc đầy
Biển tiếp trời trải rộng
Cánh buồm như nhỏ đi
Ước gì mọc đôi cánh
Bay về quê tức thì.
TIỄN ÔNG KIỂM SỰ NGUYỄN TÌNH PHONG ĐI BẮC THÀNH
Văn chương khi mạnh thế,
Ơn tri ngộ dồi dào,
Các vọng thành sơ chí
Tương vọng tình biệt ca,
Đời mấy ai tri kỷ?
Năm hết lòng nao nao
Bác xem, người đông vậy,
Giống đạo xưa đâu nào?
GỞI TÌNH PHONG NGUYỄN PHƯƠNG BÁ Ở HÀ NỘI
Thu sang, tối nhanh lắm
Đeo lò hương một mình (1)
Học cách pha trà mới
Chơi vẽ tranh cúc xinh
Trước đèn, chuông ngân mãi
Bên hoa, trăng lặng thinh
Nhờ nhạn mang lời nhắn
Hồ Tây, có nhớ mình?
SÁNG SỚM LẠNH
Kinh đô sao cô độc!
Sớm lạnh, lúc đông về
Tiếng gió dập ngoài cổng
Mái nhà mưa lê thê.
Tựa gối thèm ngủ tiếp,
Dựa lan can âm thầm,
Hoa mai chưa kịp nở,
Cuốn rèm, lại trầm ngâm.
MÙA XUÂN Ở KINH ĐÔ, CÙNG TRƯƠNG QUÝNH XUYÊN, TRƯƠNG LY CHI
Đất Tràng An tháng chạp
Khoa Kỷ Mão, đồng niên (1)
Tuổi thanh xuân phơi phới
Thi hứng, tứ triền miên
Ngoài trời mưa nhè nhẹ
Cầu son, liễu xanh viền
Gọi trẻ châm thêm rượu
Vui say ngày Hạnh viên (2).
HỌA THƠ PHÚ BÌNH CÔNG
Túi càn khôn vô tận
Xưa nay biết hết đâu!
Tao nhã thể riêng biệt
Văn chương khác càng sâu
Ngàn năm qua, phải biết
Một chữ chớ coi thường.
Chuyện San Thi còn đó (1)
Nhẫn nại thấy mà thương
MỪNG THƯỢNG THỌ XUÂN CÔNG
Thủy chung, xin bội phục,
Nhân dịp đến thăm nhà
Vui vầy vườn bóng rợp
Rôm rả chuyện gần xa
Hoa bay đẹp như tuyết
Bên song, dáng ngọc ngà
Trời khuya, trăng sáng lắm
Thêm thích tiếng đàn ca.
HOA CÚC NỞ TRƯỚC SÂN
Trước sân vài bụi cúc
Thu về trổ mấy hoa,
Chỉ vì lòng háo hức,
Nên thấy hoa muộn mà
Vốn là cây chịu lạnh
Sá gì gió mưa sa,
Mong bác hãy nhẫn nại,
Vững như tùng bách mà!
VUI XEM HOA NỞ
Cây cỏ sau bão dữ
Ba năm cảnh tiêu điều
Một sáng hoa rộ nở
Mọi chuyện khỏe đi nhiều.
Gió mưa công nhuần thấm
Tùng mai đẹp bao nhiêu
Ai cũng thương hoa nhỉ?
Cùng ta kết bạn hiền.
CHỜ BẠN
Hôm qua bác đã hứa
Sao giờ chưa tới chơi
Cầu kia trông vắng ngắt
Chim bay tận chân trời
Thờ ơ bên sách vở
Khép hờ cánh cổng thôi
Lờ lửng vầng trăng sáng
Thời gian đâu ngừng trôi.
ĐÊM NGỒI VỚI BẠN
Tôi vốn người cả nghĩ
Đâu ngờ bác quá lo
Phong trần bao nước mắt
Trăm năm một đời người
Trần thế nhiều mơ mộng
Thi tài đến khổ thôi
Gặp nhau cần chi nói
Ngồi chơi là đủ rồi.
THANH NINH GIANG ĐẠO
Sáng sớm mưa lây rây
Hùng vĩ thế núi nầy
Hai bờ cao chót vót
Giữa dòng sông nước đầy
Đường đời chưa mấy bước
Dân phong còn lạ thay
Mừng tình hình yên ổn
Cùng ai công tác đây?
NHẬN MỆNH VUA ĐI KINH LƯỢC NAM KỲ
Kế hoạch vừa xác định
Chỉnh đốn vùng Nam Kỳ
Thuyền đồng cỡi đầu sóng
Tàng lọng vén mây đi
Hoàng thân làm thơ tiễn
Xuân sang chớ trù trì
Nhân dân, sau binh hỏa
Cần sớm được an vi
THUYỀN QUA QUÊ NHÀ QUẢNG NGÃI
Gió xuân, cánh chim biển
Thoáng chốc, vượt sóng trào
Thuyền nhắm hướng quê trẩy
Du tử lòng nôn nao.
Quê nhà thương biết mấy!
Xóm thôn giờ thế nào?
Đầu thuyền, xa chỉ thấy
Quê mình dưới tàng cao
THĂM CHÙA BỬU PHONG
Chùa núi Bửu Phong đẹp
Nhân vui ghé lại thăm
Đất Phật vườn cảnh vắng
Rừng cây tỏa bóng râm
Vịn cấp lên cổ tháp
Nhìn sông xuôi âm thầm
Chan chứa tình lưu luyến
Xa xa kìa phố Nam.
ĐI KINH LƯỢC XỨ THANH
Trong Nam vừa về đến
Lệnh đi ngay xứ Thanh.
Sá gì chuyện sắp Tết,
Trời yên như thuận tình
Liên đêm thay ngựa trạm
Hoa bên đường tiếp nghinh
Thánh triều uy đức khắp
Không lâu sẽ yên bình.
GHI CHÉP TRÊN ĐƯỜNG ĐI QUA NGHỆ AN
Mới gặp một cô gái,
Ăn mặc sao lạ lùng
Tơ xanh thắt quanh bụng
Quần lửng sắc đen hung
Khó tả phần bên dưới
Lờ mờ lúc hoàng hôn
Nếu vẽ lông mày mỏng
Ai thèm Trác Văn Quân!
LẦN ĐẦU ĐẾN CHÂU LƯƠNG CHÁNH
Cứ ngỡ Bồng Lai đảo
Mà đây động sách dân (1)
Chót vót núi dựng đứng
Đường đi thiếu vết chân.
Cây to dư chỗ nghỉ
Ruộng phì đủ dưỡng thân
Tương lai mạnh tích tập
Vùng biên sẽ theo dần.
Ở LẠI ĂN TẾT Ở ĐỘNG KHƯƠNG CHÁNH, GỞI THƯ CHO PHÓ SỨ NGUYỄN TOẢN PHU
Chiến địa sang năm mới
Bụi vàng nhuộm hết râu
Cùng nhau lên xứ Thượng
Trưởng, phó gặp được đâu.
Đầy trời núi liền núi
Khắp đất vầu lại vầu (1)
Vỗ về dân là chính
Kế sách soạn đã lâu.
ĐI QUÂN THỨ ĐỘNG KHƯƠNG CHÁNH
Suốt đường, rừng heo hút
Bát ngát bầu không gian
Ba bề vây suối nước
Chập chùng núi giăng ngang
Cây tiếp trời xanh biếc
Mây điểm như thạch bàn
Đồn Ninh Lương mới lập
Là bia ghi khải hoàn.
GHÉ THUYỀN BẾN KIM SƠN
Ghé thuyền bên sườn dốc
Sông dài, cảnh đẹp thay!
Tiếng gió lùa khe núi
Trăng soi rộn ngàn cây
Thánh thót đồng hồ thúc (1)
Le re nước chảy đầy
Việc quân đang thúc dục
Tạm vui với cảnh nầy
TRỞ LẠI KIM SƠN
Danh thắng vùng châu Ái (1)
Kim Sơn đẹp làm sao!
Thuyền men sát chân núi
Mặt nước người lao xao
Tựa cửa ngâm “Ỷ thạch” (2)
“Bá trạo” tiếng hò cao (3)
Say ngắm quên trời tối
Trăng lên tự khi nào.
VỀ ĐẾN TRẠM THỌ MAI, GỞI THƯ CHO TOẢN PHU
Đến Thọ Mai rồi đấy
Lương Chánh bóng mờ xa
Cố nhân còn truy địch
Chốn núi rừng xông pha
Một màu cây cỏ lạnh
Nợ nước với tình nhà
Bao giờ tan bóng giặc
Khải hoàn rộn tiếng ca.
THÀNH NHÀ HỒ
Đi săn, theo vết thú
Lần tìm bên sườn non
Gặp thành to bằng đá
Thành nhà Hồ trống không.
Quả thật hao dân lực
Đâu phải của thần công!
Bảo làm theo Kinh Dịch
Để mang tiếng gian hùng.
MẮT THẤY
Chẳng phải giả sang quí
Kiều diễm khi còn thơ
Môi son tươi trái chín
Mi xanh mượt như mơ
Ăn mặc thật trang nhã
Khí sắc chút kiêu sa
Lời nào sau ánh mắt?
Tóc trái đào ngây thơ.
ĐÁP LỜI BẠN
Vưu vật truyền Kinh Bắc
Di trâm tưởng Hán Nam
Đăng Đồ đâu háo sắc
Tiểu Đổ chỉ bàn suông
Khi rầu ai tâm sự?
Niềm vui đâu được luôn
Cố nhân lời thăm hỏi
Xưa nay vẫn như thường.
ĐỀ TẶNG NGUYỄN THẬN TRAI TIÊN SINH ĐƯỢC VỀ HƯU
Cụ may được vua duyệt
Cho về sống thảnh thơi
Đừng lo công việc nữa
Nên lui gẫm chuyện đời
Mãi làm thầy hoàng tử
Con nhà thua thiệt thôi!
Vườn xưa trăng sáng lắm
Lòng tôi lại bồi hồi
NHÂN TẾT TRUNG THU GỞI ÔNG CHẾ PHỦ HỌ NGUYỄN- TỔNG ĐỐC SƠN HƯNG TUYÊN
Từ biệt chừng lâu lắm
Nay đà tết Trung Thu
Vùng ấy nhiều danh thắng
Biết bác vui nơi nào?
Treo đèn theo phong tục
Thưởng trăng trẻ nôn nao
Tiếc là mỹ nhân vắng
Cùng ai khúc Mạc sầu
NGẪU HỨNG
Gặp nhau chắc vui lắm
Xem ra vẫn khi nào
Cách bờ vang tiếng sóng
Hang sâu sắc trăng hao
Ruột sôi dường nước réo
Liếc mắt đẹp làm sao
Mây mù che kín hết
Nhớ bạn nói được nào
Chú thích:
(1) Chày đá: Cái chày bằng đá dùng để giặt áo thời xưa. Tây Thi gái nước Việt vốn là một cô gái dệt lụa. Lụa khi đã nhuộm xong, người ta đưa ra sông ngâm, rồi dùng chày đá đập xả cho sạch. Làng nhuộm thường ở bên dòng sông, mỗi sáng sớm, âm thanh đập xả của những cô gái nghề dệt vang âm cả một đoạn sông trong sương sớm như một bầy tiên, quang cảnh rất nên thơ. Người phụ nữ thời xưa cũng dùng chày giặt áo.
(1) Tế Văn miếu vào ngày Đinh tháng đầu mùa xuân, mùa thu.
(2) chỉ Khổng Tử
(1) Lữ để: Nhà khách, nơi cư ngụ của sứ bộ các nước, dinh, phủ của vương hầu. Ở đây có lẽ là nhà khách, nơi các người đỗ đạt cư ngụ chờ bổ nhiệm đi làm quan.
(2) Ly đình: Nơi tổ chức tiệc tùng đưa tiễn người đi.
(1) Nam Trung phủ tức Nam Bộ
(2) Tân Bình: huyện Tân Bình tức Sài Gòn Gia Định ngày nay
(1) Ngày xưa, mùa lạnh, các cụ thường đeo một cái lò than nhỏ bằng đồng, than có trộn hương liệu, vừa ấm ngực vừa thơm.
(1) Trương Đăng Quế: đỗ Hương cống năm Kỷ Mão (1819). Những người cùng thi đỗ một khoa, cũng gọi là bạn đồng môn hay đồng niên.
(2) Vườn Hạnh: Đức Khổng Tử ngồi dạy học dưới giàn hoa Hạnh, nên Hạnh viên ý chỉ chỗ học hành. Nhà Đường chiêu đãi các tân khoa Tiến sĩ nơi Hạnh viên (vườn Hạnh).
(1) San Thi: Khổng Tử san định ngũ kinh, Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch. Sưu tầm Kinh Thi nguyên có đến ba ngàn thiên, Khổng Tử chỉ chọn ra được ba trăm thiên
(1) Động sách của người miền Thượng du giáp nước Lào giống như làng thôn người Kinh. Châu Lương Chánh phía tây Thanh Hóa, thời Tây Sơn, Minh Mệnh thuộc nước ta, nay thuộc Lào.
(1) Vầu: thuộc họ tre, trúc.
(1) Ngày xưa, dùng cái gáo dùi thủng một lỗ nhỏ, đổ nước vào, cho nước chảy từng giọt, nước đầy thì cái thẻ khắc thời giờ nổi lên chỉ phân số nhiều hay ít để biết sớm hay muộn.
(1) Châu Ái tức Thanh Hóa
(2) Bài Ỷ thạch thơ Đường, tả cảnh núi sông xinh đẹp,
(3) Bá trạo, điệu hò đi đánh cá của dân thuyền chài.
3/12/2008
Nguồn: Trương Đăng Quế - Cuộc đời và sự nghiệp. Nhóm biên soạn: Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn - Nguyễn Văn ThanhNXB Văn học. 1-2009.
Theo https://www.trieuxuan.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm nhận ngàn đêm

Cảm nhận ngàn đêm MỘT Dân gian nói, hoàng hôn là lúc người dương và người âm có thể gặp nhau. Trong bộ phim nổi tiếng “Bao giờ cho đến Thá...