Louis Pasteur (1822 - 1895)
Vị ân nhân của nhân loại
Sáng ngày thứ Hai, 6 tháng 7 năm 1885, em trai 9 tuổi tên là
Joseph Meister cùng với mẹ tới phòng thí nghiệm của Giáo Sư Louis Pasteur. Em
Joseph đã bị một con chó dại trong làng cắn 14 vết vào tay, đùi và chân. Nếu
không được chữa trị đúng cách, em trai này sẽ chết trong vài tuần lễ.
Em Joseph không phải là người đầu tiên bị chó dại cắn. Kể từ
năm 1885 trở về trước, không hề có một phương thuốc nào chữa trị bệnh chó dại cả.
Các bác sĩ thời đó chỉ biết dùng một loại axít mạnh đổ vào vết thương nhưng
cách chữa này không hiệu quả. Mẹ của em Joseph được khuyên nên đưa em trai này
về thành phố Paris, cách xa hàng trăm dậm.
Tại phòng thí nghiệm, Giáo Sư Pasteur lắng nghe kể về bệnh
trạng của em Joseph. Hai vị bác sĩ điều trị trình bày cho Giáo Sư biết em trai
Joseph chắc chắn sẽ chết vì nhiễm độc và sau mỗi giờ trôi qua, chất độc vẫn lan
tràn qua cơ thể của em. Em Joseph cần được điều trị gấp.
Gần đây, nhà bác học Pasteur mới thử cách điều trị bệnh dại.
Ông đã chích một liều độc chất của bệnh dại được làm cho yếu đi vào các con chó
khỏe mạnh và các con vật này không cho thấy dấu hiệu bị bệnh dại. Rồi qua nhiều
tuần lễ, Giáo Sư Pasteur dùng các liều độc chất mạnh hơn và các con chó thí
nghiệm không những có thể qua khỏi liều bệnh dại mạnh nhất mà còn có thể không
mắc bệnh dại khi bị chó dại khác cắn.
Điều khám phá của Giáo Sư Pasteur cho thấy rằng có thể phòng
ngừa cho một người trước khi bị chó dại cắn, nhưng sau khi người đó đã bị nhiễm
độc vì bệnh dại, thì cách điều trị kể trên có còn hữu hiệu không? Trước sự việc
em Joseph Meister đã bị chó dại cắn, cách chữa trị này liệu sẽ giúp ích cho em
nhỏ hay sẽ giết em nhỏ này? Chính các vị phụ tá của Giáo Sư Pasteur cũng cho rằng
phương pháp chữa trị bằng cách chích liều độc chất quá nguy hiểm nhưng cuối
cùng, Giáo Sư Pasteur quyết định rằng đó là cách duy nhất dùng để cứu sống em
Joseph.
Chiều ngày 6-7-1885, em Joseph Meister nhận mũi chích đầu
tiên. Trong 10 ngày kế tiếp, em nhận thêm mỗi ngày một liều chích với độ mạnh của
độc chất tăng dần và nhà khoa học Pasteur đã để em Joseph nghỉ ngơi tại một nơi
tiện nghi. Mỗi ngày, ông quan sát cẩn thận em này để nhận biết từng dấu hiệu của
bệnh dại và cuối cùng, các vết thương đã lành, em Joseph Meister thoát khỏi chứng
điên dại do chó dại truyền qua. Giáo Sư Pasteur đã tin rằng nếu em Joseph
Meister không được miễn dịch bằng phương pháp chích ngừa kể trên thì các lần
chích độc chất sau này càng làm sớm phát hiện bệnh dại.
Sau trường hợp của em Meister, tới em chăn cừu thuộc miền
Jura tên là Jean Baptiste Jupille. Em Jean này đã bị chó dại cắn do bảo vệ các
em nhỏ khác. Sáu ngày sau, vào ngày 20-8-1885, em thứ hai này cũng nhận được
thuốc chích của nhà khoa học Pasteur và kết quả rất tốt đẹp.
Tin tức về cách chữa trị bệnh chó dại đã được loan đi khắp
nơi và rất nhiều nạn nhân đã tới phòng thí nghiệm của Giáo Sư Louis Pasteur. Tới
năm 1886, 2,500 người đã được tiêm chích vì bệnh chó dại. Thế nhưng vẫn có nhiều
người chỉ trích nhà bác học Pasteur vì cũng có một số người bị chết, dù rằng đã
được chích ngừa. Nguyên do tử vong vì những người này đã tới quá trễ phòng thí
nghiệm của nhà bác học Pasteur.
Cách chữa trị bệnh chó dại của nhà bác học Pasteur đã cứu sống
được 99.5 phần trăm nạn nhân khiến cho Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp phải cử ra một
ủy ban cứu xét và theo đề nghị của ủy ban này, phải tạo ra các ngân khoản tư để
lập nên một viện nghiên cứu gọi tên là Viện Pasteur và Viện này đã được khánh
thành vào ngày 14-11-1888 tại thủ đô Paris.
2. Thuở thiếu thời của Louis Pasteur
Tuổi trẻ của Louis Pasteur đã không cho thấy các dấu hiệu của
một nhà khoa học, một nhà khảo cứu tìm hiểu về các bí ẩn căn bản của đời sống
con người. Khi lên 13 tuổi, Louis Pasteur là một cậu bé có tài về hội họa với
các bức chân dung bà mẹ và các người chị, các bức vẽ giòng sông chảy gần nhà.
Louis Pasteur ra đời vào ngày 27-12-1822 tại Dôle, một tỉnh nhỏ nằm bên giòng
sông Doubs, trong một căn nhà nhỏ trên đường “Các thợ thuộc da” (Rue des
Tanneurs). Cha của Louis là ông Jean Pasteur, trước kia là một trung sĩ trong đạo
quân của Hoàng Đế Napoléon Bonaparte, nay làm thợ thuộc da. Năm 1827, ông Jean
Pasteur đem gia đình dọn qua tỉnh Arbois và căn nhà mới ở gần giòng sông
Cuisance và sau nhà là một hố lớn để ngâm các bộ da bò và da cừu.
Trong thời gian theo bậc trung học, Louis Pasteur đã không tỏ
ra là một học sinh xuất sắc nhưng lại là một con người kiên nhẫn với thói quen
làm việc cần mẫn. Hai năm trước khi tốt nghiệp trung học, Louis Pasteur được
ông hiệu trưởng Romanet khuyên nên thi vào Trường Cao Đẳng Sư Phạm (Ecole
Normale Supérieure), một ngôi trường danh tiếng chuyên đào tạo các giáo sư về
Khoa Học, Lịch Sử, Văn Chương và Nghệ Thuật.
Mùa thu năm 1838, khi 15 tuổi, Louis Pasteur đã cùng với người
bạn tên là Jules, lên xe ngựa để đi Paris, cách Arbois 250 dậm (400 km). Sống
trong một ký túc xá tại Paris, Louis cảm thấy quá nhớ nhà nên một tháng sau,
ông Jean Pasteur phải lên Paris, đón con trở về. Louis Pasteur tiếp tục học
trung học tại Arbois rồi theo Đại Học Besancon cách nhà 25 dậm (40 km). Vào thời
gian này, cậu Louis nổi tiếng về vẽ chân dung nhưng cậu vẫn không quên ước mơ
thi vào Trường Cao Đẳng Sư Phạm.
Tháng 8 năm 1842, Louis Pasteur tốt nghiệp đại học Besancon với
các hạng ưu về vật lý, toán học và tiếng La Tinh rồi thi đậu vào Trường Cao Đẳng
kể trên, với hạng 15 trên tổng số 22 sinh viên được tuyển chọn trên toàn nước
Pháp. Louis đã không vừa lòng với kết quả này nên đã từ chối, không theo học và
đây là một điều khác biệt với các sinh viên cùng lứa tuổi. Năm sau, 1943, trong
kỳ dự tuyển lần thứ hai, Louis Pasteur đứng hạng 4, theo học phân khoa Khoa Học
để sau này trở nên một giáo sư về Vật Lý và Hóa Học.
Vào thời kỳ này, Paris là nơi cung cấp các cơ hội học hành tốt
đẹp nhất cho giới thanh niên, và các sinh viên ưa thích các bài giảng của Jean
Baptiste Dumas, một Giáo sư Hóa Học danh tiếng. Louis Pasteur đã viết thư về
cho gia đình, cho biết: “rất đông sinh viên tới nghe các buổi diễn giảng của
Giáo Sư Dumas. Giảng đường rất lớn mà luôn luôn hết chỗ. Chúng tôi phải đến trước
nửa giờ để chiếm chỗ ngồi tốt, như thể trong rạp hát…”. Ngoài Giáo Sư Dumas,
các sinh viên còn mến phục các nhà khoa học khác như nhà vật lý Jean Baptist
Biot, nhà hóa học Antoine Jerome Balard…
Năm 1845, Louis Pasteur là một trong bốn sinh viên tốt nghiệp
và các giáo sư giảng dạy đã ghi chú về Pasteur như sau: “… sẽ trở nên một giáo
sư xuất sắc”. Sau đó Louis Pasteur chỉ xin được một việc làm tại phòng thí nghiệm
của Giáo Sư Balard và bắt đầu nghiên cứu về bản chất của các tinh thể
(crystals).
Vào đầu thế kỷ 19, giáo sư Biot đã khám phá thấy rằng các
tinh thể của vật chất có đặc tính làm lệch tia sáng chiếu đến, và có loại làm lệch
qua bên phải, lại có loại làm lệch qua bên trái. Louis Pasteur bắt đầu khảo sát
một loạt các hợp chất gọi là axít tartaric và các muối tartrate. Có hai loại
tinh thể axít tartaric được tạo thành bên trong thùng rượu nho khi nước nho lên
men, thế nhưng đã có một bí ẩn vì một loại dung dịch axít kể trên làm lệch ánh
sáng trong khi loại thứ hai không có đặc tính đó. Sau cả ngàn lần quan sát qua
kính hiển vi, Louis Pasteur đã nhận ra rằng trong số các mặt nhỏ của hai loại
tinh thể axít tartaric, chỉ có một mặt nhỏ khác nhau về độ dốc. Khám phá mới của
Louis Pasteur đã là căn bản cho một thứ hóa học mới của thời kỳ bấy giờ, đó là
“ngành hóa học ba chiều” (stereo chemistry).
Tháng 1 năm 1849, sau khi tốt nghiệp văn bằng Tiến Sĩ Khoa Học,
Louis Pasteur nhận chức vụ giảng sư về hóa học tại trường Đại Học Đường
Strassbourg và vào tuổi 26, Louis Pasteur quen cô Marie Laurent, ái nữ của vị
viện trưởng đại học. Họ cử hành hôn lễ vào ngày 29-5-1848 và từ đây, bà Marie
đã lo lắng mọi công việc gia đình, để chồng chuyên tâm nghiên cứu Khoa Học. Tại
Strassbourg, 3 trong 5 người con đã ra đời: cô gái Jeanne sinh năm 1850 rồi một
năm sau là người con trai Jean Baptiste và hai năm sau nữa là cô gái Cécile.
3. Nghiên cứu vi trùng
Vào tháng 9 năm 1954, Louis Pasteur được Bộ Trưởng Giáo Dục
Pháp bổ nhiệm làm Giáo Sư Hóa Học và Khoa Trưởng Khoa Học tại Đại Học Lille.
Đây là một ngôi trường mới được thành lập tại trung tâm kỹ nghệ rất giàu có thuộc
miền bắc của nước Pháp. Louis Pasteur với tuổi 32, đã được giao trọng trách là
giáo dục các sinh viên làm sao đáp ứng được các nhu cầu thực tế của địa phương.
Giáo Sư Pasteur đã khởi đầu một quan niệm giáo dục rất tiến bộ đối với thời bấy
giờ, đó là lập ra các lớp học buổi tối dành cho các công nhân trẻ của thành phố
kỹ nghệ, đồng thời ông cũng dẫn các sinh viên ban ngày đi thăm viếng các nông
trại và các nhà máy lớn. Pasteur đã từng nói: “không có hai loại Khoa Học mà chỉ
có Khoa Học và các áp dụng của Khoa Học. Hai thứ này liên kết với nhau như trái
cây mọc ra từ cành cây”.
Tại vùng Lille, có rất nhiều nhà máy nấu rượu. Người ta đã
cho men vào nước nho và sau tiến trình lên men, nước nho trở thành rượu chát.
Nhưng vào thời kỳ đó, không ai biết rõ tại sao đã có những biến đổi này. Các
nhà khoa học chỉ nói về tiến trình lên men là “lạ lùng và còn bí ẩn”.
Vào một ngày mùa hè năm 1856, ông Bigo là chủ của một lò nấu
rượu đã tới trường đại học, thăm viếng Giáo Sư Pasteur. Ông Bigo đã trình bầy rằng
một dung dịch củ cải đường thường được chuyển thành rượu nhưng lần này, nó đã
trở thành dấm chua. Các nhà sản xuất rượu khác cũng báo cáo cùng một trở ngại
và đây là một điều xấu cho nền kỹ nghệ trong vùng bởi vì sự lên men dấm đã gây
thiệt hại hàng ngàn quan tiền trong một ngày. Không ai biết rõ nguyên do đã
sinh ra sự lên men rượu, tại sao rượu trở thành dấm chua. Ông Bigo hi vọng rằng
vị Giáo Sư Pasteur dạy người con trai của ông, sẽ cho các lời khuyên. Vì vậy
Louis Pasteur đã tới thăm nhà máy nấu rượu và đã lấy các mẫu dung dịch của cả
loại tốt lẫn loại đã bị hư hỏng.
Qua kính hiển vi, Louis Pasteur nhận thấy rằng các tế bào men
rượu (ferments) ở dạng hình tròn rất nhỏ, nhưng trong dung dịch bị hư hỏng, các
tế bào tròn đó đã bị các tế bào hình que lấn át. Louis Pasteur gọi các tế bào
men rượu là “wee germs” (vi trùng) (sau này được gọi là các vi sinh vật =
microorganisms). Ông nhớ lại công trình khảo cứu của nhà khoa học Charles
Cagniard-Latour theo đó các tế bào men rượu đã sinh sản bằng cách mọc mầm
(budding). Pasteur đặt giả thuyết rằng nếu các tế bào này sinh sản được thì
chúng có sự sống và đã sống nhờ đường trong dung dịch củ cải đường và biến dung
dịch này thành rượu. Louis Pasteur đã cấy men trong nhiều loại dung dịch đường
và đã nhìn thấy qua kính hiển vi các tế bào men rượu sinh sôi nẩy nở, ngay cả
trong một môi trường nhân tạo thiếu khí oxygen, quan niệm này trở thành “hiệu ứng
Pasteur” (the Pasteur effect).
Khi nghiên cứu về dung dịch sữa là thứ dễ bị hư hỏng, Louis
Pasteur cũng thấy sữa trở thành chua khi có nhiều loại tế bào hình que, loại đã
thấy trong dung dịch củ cải đường bị hư hỏng của ông Bigo. Do sự khám phá của
mình, Giáo Sư Pasteur đã khuyên các nhà nấu rượu nên dùng kính hiển vi để khám
xét các thùng rượu đang lên men.
Năm 1857, sau hai năm khảo cứu về dung chất củ cải đường, ông
Pasteur phổ biến một báo cáo về sự lên men theo đó có hai loại men, một loại có
ích đã biến dung dịch củ cải đường thành rượu và một loại có hại, hình que, chỉ
dài bằng 0.001 mm. Báo cáo về sự lên men do các vi sinh vật gây nên, đã tạo ra
một cơn bão phản đối trong giới khoa học vì một số nhà khoa học thời đó tin rằng
sự lên men là do phản ứng giữa các chất thành phần. Nhiều nhân viên của Hàn Lâm
Viện cũng không chấp nhận các chứng cớ nêu ra. Tuy thế, Giáo Sư Louis Pasteur vẫn
tiếp tục nghiên cứu.
Cuối năm 1857, Louis Pasteur được gọi về Trường Cao Đẳng Sư
Phạm tại thủ đô Paris và làm giám đốc khảo cứu khoa học. Vào thời gian này,
Louis Pasteur đã gặp các khó khăn mà các nhà khoa học đương thời cùng phải chịu
đựng: phòng khảo cứu không được trang bị đầy đủ dụng cụ, không có ngân khoản và
các tiện nghi khác. Ông Pasteur phải dùng tiền riêng của mình để biến đổi hai
phòng trên lầu của nhà trường thành một nơi khảo cứu. Louis Pasteur tìm cách
bác bỏ lý thuyết về sự sinh sản tức thời (spontaneous generation). Ông tin rằng
trong không khí có các vi trùng, vì vậy ông đã nghĩ ra một cách thí nghiệm theo
đó dung dịch nước đường được đun sôi và chứa trong hai bình thủy tinh khác
nhau, một bình được gắn kín còn bình kia để mở ra không khí. Sau vài ngày, dung
dịch trong bình thông với không khí đã bị hư hỏng, trái với dung dịch kia.
Louis Pasteur cũng làm thí nghiệm với các loại dung dịch khác như sữa, nước
canh… và đã chứng minh được rằng vi trùng từ bên ngoài không khí xâm nhập vào
các dung dịch. Nhưng các nhà khoa học phản đối vẫn cho rằng việc gắn kín bình
đã làm ngưng lại sự sinh sản tức thời.
Ông Pasteur bèn nghĩ thêm một cách khác, dùng tới loại bình
chứa dung dịch có cổ dài uốn theo hình chữ S nhờ đó dung dịch bên trong vẫn tiếp
xúc với không khí mà không bị bụi chứa vi trung xâm nhập. Louis Pasteur còn khảo
sát ảnh hưởng của không khí có chứa vi trùng tại nhiều địa điểm như trong hầm
rượu, trên đồi miền Arbois và trên miền núi cao Mont Blanc. Chính vào thời kỳ
ông Pasteur bận tâm khảo cứu thì người con gái đầu lòng của ông tên là Jeanne mắc
bệnh sốt thương hàn và qua đời vào tháng 9 năm 1859.
Tháng 11 năm 1860, Giáo Sư Louis Pasteur báo cáo trước Hàn
Lâm Viện Khoa Học Pháp về các kết quả thí nghiệm của mình theo đó, bụi trong
không khí là nguyên do làm hư hỏng các dung dịch. Louis Pasteur đã nghĩ ra một
phuong pháp làm sạch vi trùng mà ngày nay được gọi là cách khử trùng Pasteur
(pasteurization). Nhờ phương pháp này, các thực phẩm có thể lưu trữ được lâu
hơn và được chuyên chở mà không bị hư thối.
Ngày 8-12-1862, Louis Pasteur được bầu vào Hàn Lâm Viện Khoa
Học, một danh dự cao quý nhất của các nhà khoa học người Pháp. Các công trình nghiên
cứu của ông Pasteur đã mở đường cho nhiều sinh viên và nhà khoa học khác tìm kiếm
các vi trùng tại các phạm vi khác nhau.
4. Nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm
Do yêu cầu của Bộ Trưởng Canh Nông, Giáo Sư Dumas đã khẩn khoản
nhờ ông Louis Pasteur xuống miền Nam nước Pháp để nghiên cứu về bệnh tầm, một bệnh
dịch đang tàn phá nền kỹ nghệ tơ lụa của địa phương. Miễn cưỡng phải nhận lời,
nhà khoa học Pasteur đã ra đi cùng với người học trò giỏi nhất là Emile Duclaux
và vài sinh viên khác. Nhóm nhà nghiên cứu này cư ngụ tại làng Alais.
Louis Pasteur đã tìm đọc tất cả các tài liệu viết về con tầm,
cách nuôi tầm cũng như dùng kính hiển vi để quan sát các mầm bệnh đã giết hại
loài tầm. Ông đã làm việc không ngừng trong khi hoàn cảnh gia đình của ông gặp
các bất hạnh liên tục: ông Jean Pasteur qua đời rồi tới lượt người con gái
Camille, 2 tuổi, thiệt mạng vào tháng 9-1865 vì bệnh sốt thương hàn. 10 tháng
sau tới lượt người con gái Cécile, 13 tuổi, cũng chết vì bệnh sốt kể trên. Do bị
căng thẳng và buồn phiền, ông Pasteur đã bị tai biến mạch máu não vào đêm
19-10-1868. Nhiều người đã tưởng nhà bác học qua đời, thế nhưng chỉ 3 tháng
sau, mặc dù bị liệt một phần thân thể, Giáo Sư Pasteur vẫn trở lại với các công
trình nghiên cứu.
Năm 1870, Louis Pasteur cho phổ biến một báo cáo về bệnh tầm
do một loại vi trùng ký sinh. Ông đã chỉ dẫn cách tìm ra các con tầm mắc bệnh
và cách dùng loại trứng tầm tốt để tạo nên các con tầm khỏe mạnh, và phương
pháp này đã được các nhà chăn nuôi khắp châu Âu xử dụng. Cũng vào năm này, bùng
nổ cuộc chiến tranh giữa nước Pháp và nước Phổ khiến cho ông Pasteur phải rời
khỏi thành phố Paris. Ông trở lại nơi này vào cuối năm 1871, khi chiến tranh chấm
dứt với các bệnh viện tràn ngập các binh sĩ bị thương. Nhà bác học Pasteur vì vậy
đã nghiên cứu các vết thương và đã khuyên các bác sĩ phải chú tâm về vấn đề vệ
sinh khi chữa trị bệnh nhân.
Mấy năm về trước tại xứ Tô Cách Lan, Giáo Sư về khoa Giải Phẫu
Joseph Lister của Đại Học Đường Edinburgh, đã đọc các luận chứng của Louis
Pasteur về vi trùng rồi tìm hiểu nguyên do các bệnh nhân bị nhiễm trùng. Từ năm
1867, ông Joseph Lister đã dùng dung dịch axít carbolic để khử trùng các dụng cụ
y khoa, các vết thương và các bàn tay của bác sĩ giải phẫu nhờ đó đã làm giảm số
tử vong của các bệnh nhân được 97 phần trăm. Năm 1874, trong bức thư gửi cho
Louis Pasteur, Joseph Lister xác nhận rằng nhờ lý thuyết về vi trùng của nhà
bác học người Pháp mà ông đã thực hiện được hệ thống diệt trùng (antiseptic
system).
Louis Pasteur không phải là một bác sĩ y khoa nhưng các khảo
cứu của ông về vi trùng, về các bệnh truyền nhiễm đã khiến cho nhà bác học được
bầu vào Hàn Lâm Viện Y Học của nước Pháp vào năm 1873. Nhà bác học Pasteur lại
có các phụ tá trẻ tuổi tài giỏi: bác sĩ Jules-Francois Joubert, bác sĩ Emile
Roux và bác sĩ Charles Chamberland… và phòng nghiên cứu của ông vẫn tìm kiếm
nhiều phương pháp kiểm soát các vi trùng gây bệnh.
Sau 20 năm nghiên cứu, các khám phá về vi trùng và bệnh truyền
nhiễm của Louis Pasteur đã được phổ biến qua tác phẩm “Lý thuyết về vi trùng và
áp dụng trong Y Khoa và Giải Phẫu” (The Germ Theory and its Application to
Medicine and Surgery). Tác phẩm này cắt nghĩa sự lây lan của các bệnh truyền
nhiễm và từ nay, các nhà khoa học bắt đầu tìm hiểu về các bệnh dịch như đậu
mùa, dịch tả…
Vào thời kỳ đó, tại miền đông của nước Phổ có bác sĩ Robert
Koch đang tìm hiểu nguyên nhân gây ra bệnh than, một thứ bệnh giết hại rất nhiều
cừu và các gia súc khác. Tháng 4 năm 1876, bác sĩ Kock đã dùng kính hiển vi,
tìm ra loại vi trùng gây bệnh than, được đặt tên là “bacillus anthracis”. Như vậy
bác sĩ Koch đã chứng minh lý thuyết về vi trùng của nhà bác học Pasteur.
Năm 1878, Louis Pasteur khởi đầu nghiên cứu vi trùng gây ra bệnh
dịch tả gà (chicken cholera). Nhà bác học đã nuôi vi trùng trong nước dùng gà
(chicken broth) rồi dùng các liều độc chất từ yếu đến mạnh chích dần vào các
con gà và đã thấy cơ thể gà chống cự được sự xâm nhập của vi trùng. Louis
Pasteur đã gọi phương pháp này là chủng ngừa (vaccination) và ngày nay, kỹ thuật
miễn dịch (technique of immunization) của nhà bác học vẫn còn được xử dụng.
Luôn luôn nhà bác học Pasteur muốn chia xẻ các khảo cứu và
khám phá của mình với các nhà khoa học khác. Năm 1881, Louis Pasteur thuyết
trình về phép chủng ngừa trước Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp thế nhưng, ông vẫn gặp
các nghi ngờ và chống đối. Một số người thắc mắc làm sao một nhà hóa học lại hiểu
rõ về các bệnh tật của súc vật. Viên chủ nhiệm tạp chí Thú Y (the Veterinary
Journal) đề nghị một công cuộc thử nghiệm công khai về thuốc chủng ngừa bệnh
than (anthrax vaccine). Louis Pasteur nhận lời.
Vào ngày 31-5-1881 tại nông trại Pouilly-le-Fort thuộc vùng
Melun gần thủ đô Paris, các nông gia, các bác sĩ thú y, các nhà khoa học và
nhân viên chính phủ đã chứng kiến Louis Pasteur cùng các cộng sự viên là Roux,
Chamberland và Louis Thuillier chích ngừa nhóm 1 gồm 25 con cừu bằng các liều
thuốc chủng từ yếu đến mạnh, còn nhóm thứ 2 cũng gồm 25 con cừu, được nuôi
riêng để kiểm chứng. Sau đó, cả 50 con cừu đều được chích bằng liều vi trùng bệnh
than cực mạnh. Kết quả là 25 con cừu của nhóm 2 đã chết và nhóm 1 đã được chủng
ngừa không bị ảnh hưởng. Sự thành công thực là rực rỡ. Như vậy nhà bác học
Pasteur đã khám phá ra một thứ võ khí hữu hiệu để chống lại một số bệnh truyền
nhiễm.
Tới cuối thập niên 1870, Louis Pasteur lại nghiên cứu về bệnh
chó dại (rabies). Đây là một trong các bệnh khủng khiếp của nhân loại với hình ảnh
các con chó điên, miệng sùi bọt, tấn công các người qua đường. Bằng các phương
pháp tương tự khảo cứu về bệnh dịch tả gà, nhà bác học Pasteur đã không tìm ra
được vi trùng bệnh chó dại trong máu của các con chó và thỏ mắc bệnh.
Vào thời kỳ đó, các nhà khoa học như Pasteur chưa biết rằng
các bệnh như bệnh than, bệnh dịch tả gà là do vi trùng (bacteria) nên có thể nhận
ra qua kính hiển vi, còn nguyên nhân gây nên bệnh chó dại là các vi khuẩn
(virus), chỉ nhìn thấy được bằng các kính hiển vi cực mạnh mà các nhà khoa học
thuộc cuối thế kỷ 19 chưa có. Thế nhưng, do thấy người mắc bệnh chó dại bị co
giật, Louis Pasteur đã cho rằng bộ óc và hành tủy (medulla oblongata) là nơi
trú ẩn của các vi trùng bệnh chó dại. Nhà bác học Pasteur sau đó đã tìm ra loại
thuốc chủng nhưng chưa có cơ hội áp dụng, cho tới ngày 6-7-1885, liều thuốc chủng
đầu tiên của Louis Pasteur đã cứu sống em Joseph Meister.
5. Di sản của nhà bác học Louis Pasteur
Vào năm 1888, một ủy ban khoa học độc lập đã trắc nghiệm thuốc
chủng ngừa bệnh chó dại của Louis Pasteur và xác nhận thứ thuốc này an toàn. Một
nhân viên trong ủy ban đã viết: “chúng tôi tin tưởng vào giá trị của khám phá
do ông Louis Pasteur, và khám phá này còn có thể áp dụng cho các bệnh tật
khác”.
Sau đó, Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp cổ động một chương trình
gây quỹ để thành lập một viện nghiên cứu. Mọi người trên toàn thế giới đã gửi tới
các đóng góp. Ngày 14-11-1888, Viện Pasteur được mở cửa để phục vụ cho sức khỏe
công cộng và nhà bác học Pasteur đã mời nhiều nhà khoa học thuộc các bộ môn
khác cùng nhau nghiên cứu. 15 bác sĩ và khoa học gia đã cộng tác với Viện
Pasteur. Giáo Sư Pasteur cũng huấn luyện một số nhà khảo cứu trẻ, đáng kể là
bác sĩ Roux và bác sĩ Alexandre Yersin đã tìm ra độc tố và cách chữa trị bệnh yết
hầu (diphtheria), một căn bệnh đã giết hại hàng ngàn trẻ em mỗi năm, và một vị
phụ tá xuất sắc nhất của Louis Pasteur là Elie Metchnikov đã phát hiện ra các
cách cơ thể chống lại vi trùng, rồi nghiên cứu về tính miễn nhiễm.
Ngày 27-12-1892, các nhà khoa học thuộc nhiều quốc gia đã họp
mặt tại đại giảng đường của trường đại học Sorbonne ở Paris để kỷ niệm lần sinh
nhật thứ 70 của Louis Pasteur. Nhà bác học Pasteur vì bị liệt nửa người bên
trái, được tổng thống Pháp Sadi Carnot dìu vào hội trường. Rất nhiều nhân vật lừng
danh trên thế giới đã lên tiếng ca ngợi ông Louis Pasteur, kể cả Giáo Sư Joseph
Lister. Vì không đủ sức khỏe, nhà bác học Pasteur đã không đọc nổi bài diễn văn
và người con trai của ông phải đọc thay ông. Sau đó các người ngưỡng mộ đến viếng
thăm căn phòng thí nghiệm mà nhà bác học đã làm việc trong 6 năm cuối đời,
trong số này có ông Charles Chappuis, người bạn cũ 50 năm và hiện là viện trưởng
danh dự của Hàn lâm viện Dijion.
Vào tháng 4 năm 1895, Louis Pasteur được đưa tới thăm phòng
thí nghiệm của bác sĩ Roux và được mời coi qua kính hiển vi thứ vi trùng của bệnh
dịch “plague bacillus” mới được tìm thấy một năm về trước và nhà bác học
Pasteur đã phải thốt lên: “A! thì ra còn quá nhiều việc phải làm”.
Ngày 28-9-1895, nhà bác học Louis Pasteur qua đời, linh cữu
được quàn tại giáo đường mà ngày nay là nhà bảo tàng của viện Pasteur ở thủ đô
Paris. Vào buổi tang lễ, một số công trình nghiên cứu của Louis Pasteur đã được
trình bày trước dân chúng, gồm các tác phẩm: “Hóa học phân tử bất đối xứng”
(Molecular dissymmetry, 1848), “Sự lên men“(Fermentations, 1857), “Về sự sinh sản
tự nhiên”(Spontaneous generation, 1862), “Các khảo sát về rượu nho” (Studies of
wine, 1863), “Các bệnh của loài tầm”(Silk worms diseases, 1865), “Các khảo sát
về rượu bia” (Studies of beer, 1871), “Các bệnh truyền nhiễm” (Infectious
diseases, 1877), “Thuốc chủng ngừa” (Vaccines, 1880), “Ngừa bệnh chó dại”
(Prevention of rabies, 1885)…
Theo phương pháp khảo sát của Louis Pasteur, các nhà khoa học
của phòng nghiên cứu của bác sĩ Robert Koch đã tìm ra độc tố của vi trùng bệnh
uốn ván (tetanus toxin) vào năm 1890 rồi qua đầu thế kỷ 20, nhiều liều thuốc chủng
ngừa hữu hiệu đã được khai triển để trị các bệnh đậu mùa, lao phổi, sốt vàng
da, tê liệt (poliomyelitis), dịch tả, sởi, thương hàn, ho gà, cúm, dịch hạch…
Các khảo cứu khoa học của Louis Pasteur đã là căn bản dùng cho hơn 100 phát
minh của các viện Pasteur và kể từ năm 1900, 8 khoa học gia của các viện
Pasteur đã đoạt được các giải thưởng Nobel lừng danh về sinh học và y học.
Nhà bác học Louis Pasteur đã từng nói với các người cộng tác:
“Các bạn đã mang lại cho tôi niềm vui sâu đậm nhất của một người có niềm tin
không lay chuyển được, đó là khoa học và hòa bình sẽ chiến thắng sự ngu dốt và
chiến tranh… và tương lai sẽ thuộc về những ai làm lợi ích nhiều nhất cho nhân
loại đang đau khổ”.
Louis Pasteur là một nhà nghiên cứu khéo léo với trí tò mò
không giới hạn, có thiên tài về quan sát, đã tận tụy suốt đời cho các công
trình khảo cứu để bảo vệ kỹ nghệ và khoa học. Louis Pasteur là một nhà bác học
thực hiện được bốn lý tưởng: Niềm tin, hy vọng, lòng bác ái và khoa học (Faith,
Hope, Charity and Science). Do các công trình khảo cứu và các kết quả hữu ích
dùng cho canh nông, kỹ nghệ và y khoa, Louis Pasteur xứng đáng được người đời
sau ca ngợi là Vị ân nhân của nhân loại.
30/6/2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét