Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2020

Băn khoăn 1

Băn khoăn 1
PHẦN THỨ NHẤT 
CHƯƠNG 1
Cảnh rời trường Cao đẳng trở về nhà, lòng hớn hở, trí thảnh thơi: chàng vừa đến xem bảng và không thấy có tên mình trong số người được vào vấn đáp kỳ thi tốt nghiệp trường Luật. Chàng sung sướng, nghĩ thầm: "Hú vía! Thực là hú vía! Nếu đỗ thì mình chẳng biết đời mình sẽ ra sao, sẽ xoay về ngả nào".
Luôn mấy hôm nay, Cảnh lo lắng. Vì chẳng hiểu sao bài vở kỳ này chàng làm khá cả, vẫn biết chàng học chơi học bời và đọc sách luật như đọc tiểu thuyết thì những bài thi của chàng cũng không lấy gì làm sán lạn được. Nhưng nói chi sán lạng? Chỉ có đỗ với rớt, mà những bài thi đều đầy đủ thì chàng có thể đỗ lắm, và chàng đã hối hận tự nhủ: "Sao mình không làm như những kỳ trước?" Những kỳ trước chàng đã định bụng thi để hỏng. Lần thứ nhất, chàng ốm ngay vào hôm bắt đầu thi. Lần thứ hai, chàng bỏ trắng bài thi về môn "kinh tế học" mà chàng rất giỏi. Lần này chàng đã quả quyết sẽ hỏng nữa. Nhưng hôm thi tự nhiên chàng đâm ra thích viết, nhất là các đầu bài, chàng lại thấy hay hay, ngộ ngộ... Hôm nay chàng đến Cao đẳng lòng băn khoăn, áy náy, lo sợ, hầu như người đi nghe tuyên cái án của mình mà tòa lưu lại từ phiên trước. Thì cái án đã tuyên: chàng được vô can. Nghĩa là chàng đã trượt.
Cảnh xuất thân ở một gia đình đã hai đời cự phú. Ông nội chàng trước kia là một nông phu cần cù và thông minh, thứ thông minh khôn ngoan, lừa lọc, của trời phú cho đám dân quê để họ có thể sống, hay hơn thế, trở nên giàu có lớn. Chính nhờ về cái thông minh đặc biệt ấy mà ông ta đã từ địa vị nông phu lần lần đi tới địa vị lý trưởng, chánh tổng, bá hộ, rồi hàn lâm, và đã gây cái vốn hầu không có gì dần dần thành một tư bản hàng nghìn, hàng vạn, hàng chục vạn. Ông ta đã theo đủ nghề: làm ruộng, cấy rẽ, cho vay lãi, làm hàng sáo, buôn sợi, buôn bông, gá bạc, buôn thuốc phiện, cả thuốc phiện lậu, và sau hết trưng thầu việc vệ sinh ở Phủ Lý. Không một công chuyện gì, không một dịp nào có thể kiếm lợi được mà ông ta lại chịu bỏ qua dù công việc ấy bọn người chung quanh khinh là bần tiện, là nhơ nhớp.
Ông ta cầu cạnh để lấy lòng và cung phụng những nơi quyền quý, những quan địa phương. Tuy vậy, cũng không phải ông ta cốt dựa thế dựa thần bề trên để đè nén, hà hiếp dân quê. Đè nén, hà hiếp, đó là những tiếng không những không bao giờ ông ta nói đến, mà người trong làng, người hàng tổng, hàng huyện cũng không mấy khi đem ra dùng để trỏ những hành vi của ông ta. Đối với ông ta, câu tục ngữ: "Mật ngọt chết ruồi" có nhẽ gần gũi hơn và thường được công việc hàng ngày của ông diễn đạt, chứng thực mật ngọt lắm, ruồi cứ việc đậu vào mà ăn, không ai xua đuổi, ăn kỳ cho đến khi nặng bụng, không cất cánh bay lên được, người ta sẽ để cho nó tự do mà chết dí trong đĩa mật. Những đĩa mật đây là những thửa ruộng mầu mỡ, béo bở. Ai muốn đem cầm đợ cho ông hàn, thì, tuy đã có hàng trăm mẫu rồi, ông vẫn vui lòng nhận và giúp đỡ cho họ món tiền khá lớn, ít ra cũng bằng nửa giá ruộng đợ. Ông lại chỉ lấy lãi chút đỉnh thôi, khiến kẻ cần tiền không bao giờ tưởng có ngày mất ruộng. Nhưng ngày ấy thế nào cũng tới mà tới rất gấp.
Ông hàn làm việc khôn ngoan đến nỗi trong vòng có hai ba mươi năm mà ruộng đất của ông rải rác trong khắp hàng tổng, hàng huyện. Còn ở làng ông ta và ở những làng lân cận, thì quá nửa tư điền đã thuộc quyền sở hữu của ông rồi. Lúc ông ta qua đời, số ruộng nương đem chia cho ba con trai và hai con gái trên ngàn mẫu hầu hết là thượng đẳng điền. Thanh Đức là biệt hiệu của Thiện, con út ông hàn Na. Thiện không như cha và hai anh chỉ sinh trưởng và dựng cơ nghiệp ở vùng thôn quê. Tin vào óc thông minh mẫn tiệp và có ý quả quyết, mạo hiểm, ông ta muốn bay nhảy cao hơn và xa hơn, ầm ỹ hơn nhiều. Trái với người cha, suốt đời chỉ theo đuổi những việc dễ dàng, chắc chắn để mà ngồi thu lấy lãi, người con luôn luôn nghĩ tới kinh doanh, những công việc khó khăn, nguy hiểm đến tính mệnh mình nữa.
Có thể nói được rằng đời Thanh Đức hoàn toàn là một đời kinh doanh: ông ta không bỏ qua một ngày nào, một giờ nào không theo đuổi công việc nọ kia, cả những khi ông ta nhàn rỗi. Nhàn rỗi chỉ là cái trạng thái bề ngoài, thực ra không mấy lúc tâm trí ông ta thư thái. Đi nghỉ mát, ông ta cũng nghĩ tìm cơ hội và lợi dụng những sự may mắn xảy đến. Trong câu chuyện phiếm, một ý hay nảy ra, bất ngờ, rồi chẳng bao lâu, có khi ngay vài hôm sau trở nên một công nghiệp, một thương nghiệp vĩ đại, có tổ chức vững vàng và chu đáo. Ông ta có con mắt rất tinh đời, bất cứ việc gì thoáng qua cũng thấy tận gốc tận ngọn, thấy hết những chỗ lợi, chỗ hại, với cả những chi tiết phức tạp, ngoắt ngoéo ở trong. Và khi xét đã tới lúc thì ông ta nhằm trúng đích mạnh bạo, quả quyết tiến công ngay, không để chậm một ngày, không phí mất một giờ một phút. Đức tính này hầu như một lương năng, chẳng khác lương năng con tò vò đoán không bao giờ sai nơi huyệt vi tế ở gáy con nhện để châm vào đó một nhát kim, chỉ một nhát mà thôi, khiến cái mồi sống kia mê sảng hẳn chứ không chết và sẽ trở nên cái tài sản quý báu dành lại cho lũ tò vò con sau này.
Nhờ về kinh nghiệm, đức tính ấy một ngày một phát triển, bành trướng mãi ra, nhưng nó đã nảy nở ngay ra từ thời Thiện mười tám, mười chín tuổi, thời còn sống trong đại gia đình: chàng đã trông thấy rõ ràng mọi việc, mọi việc hơn thiệt trong các công cuộc xa gần. Những công cuộc mà cha và anh theo đuổi, chàng có chí làm to hơn. Chàng biết ở các thành phố lớn, ở những vùng đồi núi trung du và thượng du kia người ta đương hăm hở làm giàu. Và mỗi lần những ông cụ bạn cha chàng về chơi, lại như mang đến cho chàng thêm một chút thèm muốn, thêm một chút hy vọng, thèm muốn hy vọng cái đời sống trong tiền rừng bạc biển. Cái đời phú quý mênh mang hầu như huyền ảo nó ám ảnh, thôi miên, quyến rũ tuổi thanh xuân cường tráng.
Thiện nhìn, nghĩ, tìm. Thị hiếu bừng bừng nung đốt tâm trí.
Con tò vò mới phá tổ bay ra nhăm nhăm chờ dịp châm nhát kim thứ nhất trúng huyệt vi tế trên đầu con nhện béo mập đang ẩn núp đâu đó.
Dịp ấy đã tới.
Một ngày Thiện bỏ nhà ra đi, ra đi với một số tiền lớn lấy ở tủ sắt của cha, và để lại một bức thơ xin lỗi, lời lẽ thống thiết. Liền ba năm Thiện không về thăm quê. Năm thứ tư chàng nổi tiếng là một nhà thầu khoán lớn. Và từ đó chàng mở mang ngày một thêm to tát, trong khắp các ngành ngọn công, thương. Chàng thầu làm nhà, làm đường, làm cầu, làm mỏ, chàng chạy ô-tô vận tải, khai khẩn đồn điền, đứng đại lý rượu, đại lý dầu, buôn sơn, buôn bông, buôn tơ, buôn hàng ngoại quốc, xuất cảng gạo, ngô và các đồ nội hóa; không một việc gì có lãi lớn và có thể làm được mà chàng lại bỏ qua không làm.
Cảnh ra đời giữa thời cha bắt đầu mê mải làm giàu. Những ngày thơ ấu của Cảnh toàn là những ngày tươi đẹp, sung sướng, nưng niu. Cảnh là đứa con trai mong đợi đã lâu, hai người con sanh trước chàng đều là gái. Sự nuông chiều của cha mẹ đối với cậu con một càng tăng mãi lên khi hai đứa em theo liền lại là gái. Nói sự nuông chiều của người mẹ là đúng hơn, vì người cha tuy rất có lòng thương, nhưng suốt ngày, suốt tháng, bận bịu công kia việc nọ, ít khi có thời giờ nhàn rỗi để âu yếm con. Không những thế đối với con, ông Thiện là một sự bí mật và một sự khủng khiếp nữa. Những lúc thấy cha băn khoăn, lo lắng, đi đứng không yên, bóp trán thở dài, Cảnh thường cố tìm hiểu những ý nghĩ thầm kín của cha. Cảnh đoán lờ mờ rằng cha đương buồn bực điều gì. Kỳ thực ông Thiện chỉ xoay sở mưu kế để được toàn thắng trong một công việc lớn. Cảnh sợ hãi nhất cái giấc ngủ trưa ngắn ngủi của cha. Chỉ vào quãng độ hơn nửa giờ thôi, nhưng nửa giờ ấy phải hoàn toàn yên lặng. Một tiếng thét, một câu hỏi lớn, một tiếng guốc mạnh đủ đánh thức ông Thiện dậy. Lúc bấy giờ thì phải biết, kẻ phạm lỗi bất cứ là ai, dù là Cảnh hay mẹ Cảnh đi nữa, cũng sẽ bị mắng tàn tệ. Một lần hai em gái Cảnh đánh nhau, ông Thiện dậy giựt phắt cái phất trần vụt lấy vụt để vào mông đít hai đứa trẻ khốn nạn. Cảnh sợ hãi cắm đầu chạy trốn biệt.
Nhưng sau khi vợ chết thì tính nết người cha thay đổi hẳn, hay ít ra cũng thay đổi hẳn đối với các con. Gắt gỏng, ông trở nên dịu dàng, âm thầm, ông trở nên hay nói. Có lần ông bế Cảnh vào lòng kể truyện cổ tích cho nghe, điều mà không bao giờ ông làm khi còn sinh thời vợ. Cái chết của người đàn bà đã làm nảy nở một chút tình cảm trong lòng ông. Tuy ông vẫn tha thiết với công việc, nhưng có nhiều lúc ông ngồi thừ ra suy nghĩ, mà đây không phải suy nghĩ kinh doanh, đây chỉ là mơ mộng vơ vẩn. Hình như ông thương yêu vợ hơn lên, thương yêu linh hồn người quá cố, và hình như tới nay ông mới nhớ đến nhà vợ. Đó là một gia đình quý tộc. Ông hàn Na ngỏ lời cầu thân. Tức thì tất cả các ông chú, ông bác, bà cô, bà dì nhao nhao lên phản đối, cản trở việc nhân duyên. Chỉ một mình ông Phủ, ông bố vợ, quả quyết ưng ý gả và người con gái cũng quả quyết ưng lấy Thiện làm chồng. Kể thì Thiện cũng đẹp trai và thông minh, nhưng hai điều kiện ấy không đáng kể, khi người ta là con một nhà "trọc phú" mà lại muốn làm rể một nhà quan xuất thân khoa bảng.
Cảnh thấy mất mẹ là mất một phần lớn trong tình yêu, tuy Cảnh được hai chị và hai em chiều chuộng, sự chiều chuộng êm ấm của những cô gái sớm mồ côi mẹ.
Tiếp theo một thời kỳ hỗn độn, bừa bãi của người cha, tới một thời kỳ lạ lùng đối với lòng bỡ ngỡ của Cảnh. Ấy là nói hỗn độn bừa bãi trong sự sống hàng ngày, chứ trong việc làm ăn của ông Thiện, thì sự ngăn nắp, sự trật tự, sự phát đạt cùng sự kinh nghiệm vẫn một ngày một tăng tiến. Cảnh bắt đầu sống gần những sự mà trí ngây thơ của mình chưa từng bao giờ tưởng tượng tới: Thỉnh thoảng ông Thiện lại đưa về một người con gái rồi đùa bỡn ầm ỹ với người ấy ở phòng bên cạnh, sát tường với phòng các con. Vú già mỉm cười ranh mãnh bảo Cảnh rằng đó là nhân tình, còn nhân tình nghĩa là gì Cảnh đành chỉ hiểu lờ mờ rằng có lẽ cũng như vợ, chứ không dám tò mò để biết hơn nữa.
Cái đời sống ấy cứ kéo dài hơn hai năm. Một đời nhiễu loạn, vô gia đình giáo dục, vô gia đình luân lý đi song song với một đời hoàn toàn có trật tự, có kinh nghiệm, có tổ chức về thương mại và kỹ nghệ. Nhưng Thiện cũng nhận ra, tuy hơi muộn, rằng đời sống sẽ có ảnh hưởng tai hại, nguy hiểm tới đàn con, nhất là tới hai cô con gái đầu lòng, đã mười lăm mười sáu tuổi. Ông ta thấy cần phải thi hành ngay: ông ta liền đưa gia đình lên Hà Nội, nhờ vợ chồng một người chị vợ hiện buôn tơ lụa trông coi giúp. Còn ông ta thì vẫn ở nơi tỉnh ly để đeo đuổi công việc đang tiến hành.
Sự thay đổi chỉ riêng có đối với một mình ông Thiện. Còn đối với người bản tỉnh thì nào có gì gọi là thay đổi. Năm ấy Ngọc và Dung cùng đỗ bằng Sơ học Pháp Việt. Ông Thiện lấy cớ để hai con gái lớn ra Hà Nội theo học trường Đồng Khánh và tiện thể cho tất cả các con nhỏ cùng đi một chuyến. Ông ta vẫn săn sóc đến học vấn của các con, và sự đắc thắng của chúng trên con đường trí thức, ông ta thấy cũng cần như sự đắc thắng của mình trên đường công thương. Ông ta thường ân hận rằng thuở bé không được cha mẹ cho học nhiều Pháp văn; và chút ít Hán tự lãnh nạp được, ông ta thấy thiếu thốn quá đỗi cho cái đời hoạt động của ông ta. Vì thế ông ta nuôi thầy dạy thêm và mua sách xem cho rộng kiến thức. Nay chữ Pháp, và chữ Hán của ông cũng đủ tạm dùng trong sự giao thiệp thương mại. Ông ta muốn lũ con sau này đều trở nên những bực trí thức lỗi lạc với những bằng cấp Cao đẳng rực rỡ. Ông ta lấy làm bực tức khổ sở bị người đời liệt vào hạng trọc phú. Vậy phải tỏ cho thiên hạ biết rằng ông ta phú chớ không trọc và nếu ngày nay con ông ta đắc thắng trong phạm vi học vấn thì trước kia ông ta cũng có thể đắc thắng rõ ràng.
Ông ta thường nói chuyện với bạn đồng nghiệp của ông ta rằng trong họ ông ngày xưa cũng có khoa bảng, và ông tổ ngũ đại của ông ta đã đậu tiến sĩ làm quan đến học bộ Thượng thư triều Cảnh Hưng. Ông ta đem cái quá khứ vẻ vang đó ra khuyến khích các con. Cảnh bẩm tính thông minh. Đó là kết quả của những bản tính mẫn cán, cần cù khôn ngoan bên ngoại đã di truyền từ mấy đời nay. Lại thêm thấy cha mong mỏi về tương lai sự học của mình, Cảnh càng hết sức chăm chỉ cố gắng, từ lớp sáu, đến lớp triết học trường trung học Albert Sarraut, năm nào Cảnh cũng đứng đầu và khi tốt nghiệp đỗ bình hạng. Chàng đem cái trí ganh đua vào Cao đẳng và luôn hai năm chàng đậu xong hai phần cử nhân luật.
Nhưng sang năm thứ ba, một hôm như chợt lởn vờn trong đầu chàng câu hỏi: "Học để làm gì? Và đỗ để làm gì?" Rồi câu hỏi trở nên ám ảnh ròng rã hàng tháng, ám ảnh kỳ cho tới khi nảy ra câu trả lời mới thôi. Câu trả lời ấy là: "Học chẳng để làm gì ráo. Đỗ cũng chẳng ích lợi gì cho chàng, cho tương lai của chàng". Rồi chàng lý luận ầm ĩ trong nguyên tắc, quan niệm, ý nghĩa của sự sống, của đời mình. Luận lý cho tới lúc đến một kết cục chán nản, đau đớn. Sống không mục đích, đời là vô vị.
Chàng đem những tư tưởng hắc ám của chàng ra chất vấn bạn và những người chàng phục là có nhiều kinh nghiệm về cuộc đời, thì người ta trả lời chàng rằng phần nhiều trong bọn thanh niên trí thức đến cái tuổi hăm ba hăm bốn thường phải trải qua một thời kỳ khủng hoảng như thế. Rồi cũng qua đi không hề gì, cần nhất là phải biết thế và cố gắng lại cho cái thời kỳ ấy qua đi. Câu trả lời đã làm cho chàng rùng mình lo sợ vì một dạo chàng đã lờ mờ cảm thấy rằng đợi chờ cái thời kỳ ấy đi qua cũng không phải một việc dễ dàng, và cái ý nghĩ tự sát nhiều lần lởn vởn trong óc chàng. Chàng không rõ nó đến từ đâu, phát sinh ra do một nguyên cớ xa hay gần nào. Một điều chắc chắn là không phải do một sự thất vọng. Nó đến như gặp thời tiết, một bông hoa độc nở ra. Để quên nó đi, để xa lánh nó, chàng cho chỉ có một cách là dấn thân vào những cuộc chơi bời phóng đãng. Và những gương xấu của cha hiện ra, tự vẽ ra, rõ rệt; những thị hiếu thiên riêng hẳn về một phía, một chiều và lâu nay vẫn ngủ ở khu tiềm giác trong lòng chàng. Một đôi khi chàng tỉnh ngộ, nhưng lại tự dối ngay, để tự tha thứ rằng chơi để qua cái thời kỳ khủng hoảng của tuổi thanh xuân, và càng chơi càng chán nản càng thấy cần phải chơi.
Một sự đã cứu chàng thoát chết. Ấy là lòng yêu bạn. Chàng không thể vắng bạn, không thể sống xa bạn. Chết đi chàng chỉ thương nhớ bọn anh em còn ở lại trên trần. Và chính cũng vì đám bạn thân mà chàng giải quyết xong cái vấn đề học và thi: chàng rất cần ở mãi Hà Nội để gần bạn bè. Muốn thế chỉ có một cách là theo học Cao đẳng mãi mãi, và vì thế, đã hai năm chàng cố ý thi trượt và năm nay chàng vui mừng, sung sướng được hỏng thi.
CHƯƠNG 2
Cảnh đi vòng ra lối bờ sông. Lòng chàng buồn buồn. Chàng hơi lấy làm lạ. Chàng mong mỏi thi hỏng, thì bây giờ chàng đã được như ý sở nguyện. Vậy sao chàng lại buồn?
Cảnh tự hỏi thế và thấy khó trả lời quá. Chàng hình như cảm thấy mình thất vọng điều gì. Thất vọng vì hỏng thi? Cảnh bật lên tiếng cười. Nhưng dù chàng cười, cái thất vọng vẩn vơ vẫn không nao núng. Gần như đứng vững lại mà thách thức chàng, mà trang nghiêm nhìn thẳng vào mặt chàng. Lần đầu tiên Cảnh thấy áy náy sau một cuộc dự thi. Cái ý tưởng thất bại như mỗi lúc một thêm rõ rệt. Chàng cho rằng có lẽ đó là một ảnh hưởng, một sức mạnh của tập quán. Chàng đã quen từ lâu với sự đắc thắng với cái ý nghĩ thi để đỗ. Bỗng chàng đăm đăm nhớ tới cái diện mạo phớn phở của Song, một người bạn đồng học mà ban nãy chàng gặp ở cửa trường nhưng không lưu ý tới cái cười kiêu hãnh, tự phụ của hắn, chàng lại thấy vẽ ra trước mắt, vui vẻ nghĩ thầm: "À ra thế, ra vì hắn ta mà mình sinh ra khó chịu, buồn phiền, chỉ có thế. Mình cứ tưởng vì một cớ sâu xa gì... ừ có thế chứ!"
Cảnh tưởng như đã giải quyết xong một vấn đề và tâm trí trở lại bình tĩnh. Nhưng không, lòng chàng vẫn như nước thủy triều đương dâng. Chàng cáu kỉnh tự hỏi: "Hay ta ghen tức với Song?" Không, không bao giờ Cảnh ghen tức với Song là vì Song lên mặt đứng đắn, đạo đức thường nhìn chàng bằng cặp mắt lạnh lùng như để thầm trách, thầm khinh bỉ cái đời phóng đãng của chàng. Mọi lần Cảnh bỏ qua không thèm nghĩ tới. Sao lần này chàng lại để tâm? "Vì mình hỏng thi? Vô lý! Nếu mình muốn đỗ thì đã đỗ tự bao giờ. Mình có cần gì ganh tị với cái anh chàng ‘hủ nho’ với cái anh chàng như ‘thư sinh’ ấy". Lâu nay Cảnh vẫn gọi Song là "hủ nho" là "thư sinh" vì thấy Song chẳng biết chơi bời gì, chỉ cắm đầu học và xem sách. Chàng đùa bảo các bạn: "Học như thế có khác gì tự tử" về phần Song thì Song cho Cảnh là sống một đời vô lý tưởng. Nghe người ta đem câu ấy thuật lại, Cảnh chỉ cười và đáp lại vắn tắt: "Hừ lý tưởng!"
Sự thực là trước khi sống cái đời chơi bời, bừa bãi, liều lĩnh hiện thời, Cảnh đã cố tìm lấy một lý tưởng để phụng sự, tìm một cách rời rạc, lười biếng, với một ý định thiên lệch và cố chấp. Và cố nhiên chàng thấy rằng có một tư tưởng nào đích đáng cho thiếu niên. Để khỏi nghĩ ngợi miên man, Cảnh vừa đi vừa huýt sáo một điệu tango. Tự nhiên chàng nhớ đến Nguyên, cô bạn xinh xắn mà chàng mới làm quen ở một trà thất. "Con bé thế nào cũng sẽ khổ với mình!" Chàng vui sướng cười thầm. Hành hạ tình nhân bằng đủ mọi cách, đó là lối tiêu khiển lý thú nhất của Cảnh. "Việc làm trước hết của mình là cướp cô ả ở trong tay anh chàng bảnh trai. Vì nếu không thì cô ả đã không phải tình nhân của mình mất, cái lý rất giản dị và dễ hiểu... Việc ấy mình sẽ thi hành ngay tối nay". Cảnh mở ví đếm tiền: "Còn gần năm trăm, binh lực tạm đủ để tấn công và chiến thắng... Thằng cha nghe chừng cũng vững chãi... Nếu phải dùng đến quả đấm càng hay". Cảnh nắm hai tay, đấm móc không khí hai cái, rồi nhoẻn miệng cười, tự phụ có một sức mạnh đáng kể. Sức mạnh ấy chàng có là nhờ về sự luyện tập thân thể, và sự ham thích các môn thể thao, ngày chàng còn là một thiếu niên siêng năng, chăm chỉ, sống có điều độ và quy tắc. Nhiều khi ngồi nghĩ lại, chàng cũng tự nhận thấy rằng chính thời kỳ thứ nhất đã sửa soạn cho thời kỳ thứ hai, và hỗn loạn đã do cái trật tự mà nảy nở ra. Chàng nhớ tới cái thuyết "tương phản tương sinh" của Platon, mà chàng đã đọc bốn, năm năm về trước khi còn theo lớp triết học.
"Ngày ấy mình ngốc thực! Chỉ suốt ngày chúi mũi vào quyển sách. Ngoài ra không biết trời đất là gì nữa". Chàng như xấu hổ về cái tuổi khờ dại ấy, cứ nghĩ đến là thấy nóng cả mặt. Một chuyện tình mà chàng thường kể cho bạn nghe, với một giọng phù phiếm và khôi hài, nhưng mỗi khi tự thầm kể cho một mình mình nghe, chàng lại thẹn muớt mồ hôi. Khi người ta tự thú với người ta thì bao giờ người ta cũng thành thực hơn. Vì câu chuyện đã không xảy ra như những lời chàng thuật lại với bạn: Người thiếu nữ xinh đẹp và con nhà ấy quả có tha thiết hiến thân cho chàng. Nhưng nói rằng vì không muốn làm hại một đời con gái ngây thơ mà chàng đã giữ được không phạm tội lỗi là nói khoác. Sự thực, thời ấy chính chàng còn ngây thơ hơn người con gái: chàng bẽn lẽn, rụt rè, và nhất là trong trắng quá. Cách đây mấy tháng, chàng đã gặp người đàn bà - ngày nay là một bà tham - và chàng bảo bà ta: "Nếu ngày ấy tôi không can đảm thì có lẽ ngày nay chúng ta không dám nhìn mặt nhau đấy nhỉ?" Người kia chỉ mỉm cười, cái mỉm cười tinh ranh và chế nhạo nữa. Tự nhiên chàng thấy mình đóng vai anh hùng rơm, và đóng một cách vụng về, vì trong sự giao thiệp với đàn bà, chàng đã rạng rỡ ra nhiều, và chàng đã hiểu rằng về tâm lý ái tình họ hơn mình, họ đáng là thầy mình. Lừa dối, giấu diếm họ sao nổi!
- Cảnh! Cảnh!
Nghe tiếng gọi, Cảnh quay sang bên đường ngơ ngác nhìn. Thì ra chàng đã về đến phố nhà rồi, một phố mới mở ở vùng hồ Bảy Mẫu.
- Cảnh! Thế nào?
Cảnh ngẩng nhìn lên. Bản tựa lan can trên hiên gác cúi xuống vẫy, và nhắc lại câu hỏi:
- Thế nào?
Cảnh mở rộng hai hàm răng, đáp lại:
- Vẫn như thường, cám ơn.
- Người ta hỏi tin tức kia mà.
- Tin tức gì thế? Nếu là tin tức về việc lấy vợ thì chưa có gì đâu.
- Không, tin tức đại đăng khoa chứ không phải tin tức tiểu đăng khoa.
Bấy giờ Cảnh mới chợt nhớ lại rằng mình đi xem kết quả kỳ thi luật về.
Cái cười càng rộng và theo liền câu trả lời ngắn ngủi:
- Trượt!
Bản tưởng nên an ủi một câu, nhưng chẳng biết nói sao cho xuôi. Chàng ấp úng:
- Trượt! Vô lý!
Cảnh vẫn vui vẻ:
- Có lý lắm chứ! Vì chính tôi bảo anh rằng tôi trượt.
- Vậy lên đây đã!
- Xuống đây thì có. Lại tôi chơi đi.
Nhà Bản ở cách nhà Cảnh một quãng ngắn. Oanh đứng cổng chờ tin, vẻ mặt băn khoăn lo lắng. Nàng yên lặng nhìn anh, hai má hơi tái. Cảnh hiểu thấu nỗi khổ tâm của em, của cô em út yêu mến, nên không dám kéo dài sự mong đợi. Chàng đến gần khẽ nói:
- Anh lại hỏng em ạ.
Cô em gái cười buồn, đáp:
- Em không lạ, vì anh định tâm thi hỏng kia mà!
Cảnh thấy hối hận:
- Có lẽ anh định tâm thật đấy. Nhưng nếu anh biết trước rằng sẽ làm phiền lòng em đến bực này, thì anh đỗ quách cho rảnh.
Cả ba cùng cười. Và Oanh âu yếm bảo anh:
- Còn kỳ thi Octobre nữa. Anh lo gì!...
- Được! Em sẽ thân đến trường thi em kèm anh.
- Nhưng bây giờ thì em đi sửa soạn bữa trà năm giờ cho anh đã.
- Anh Bản ở chơi xơi nước với chúng tôi nhé. Dự tiệc trà mừng hỏng thi.
Oanh hỏi:
- Em bày bàn ở vườn như mọi lần nhé?
- Ở vườn em ạ. Rồi em viết giấy mời anh Thứ, anh Phú, anh Đoan vân vân, nghĩa là anh để em muốn mời ai tùy ý.
Oanh giọng làm nũng:
- Em chỉ muốn chả mời ai cả.
- Cũng tùy em. Anh nghĩ sao, anh Bản?
Bản nhìn Oanh mỉm cười:
- Tôi đồng ý với cô Oanh.
Oanh hậm hực:
- Vậy để không đồng ý với anh, em sẽ mời tất cả các anh ấy đến.
Bản nhìn Oanh, vẻ mặt oán trách. Tuy chàng chưa ngỏ lời hỏi Oanh làm vợ, nhưng hai người có chiều thân mật, và như đã thầm hứa hẹn với nhau rồi. Bản hiện đương học năm thứ năm trường Thuốc và chỉ đợi thi xong bác sĩ là sẽ cùng Oanh lập gia đình. Oanh không đẹp lắm, nhưng có duyên và nhất là rất ngoan ngoãn dễ thương. Cái học vấn của nàng đã không làm cho nàng trở nên một cô "thông thái" khó chịu.
Làm theo như Cảnh mọi ngày, Oanh viết thư vào một tờ giấy lớn dưới kê bảng tên những người bạn mời đến dự, rồi đưa lần lượt đến từng người, ai nhận lời thì ký vào bên, ai không nhận lời cũng ghi vào một câu xin lỗi. Viết xong, Oanh đưa cho Cảnh xem lại.
- Em không nói đến mừng anh lại trượt?
Oanh nhìn trách móc:
- Em không thích đùa như thế đâu. Các anh người lớn mà tính trẻ con quá.
Cảnh cười:
- Trời ơi, em tôi mới hai mươi tuổi đầu mà đã đạo mạo như một bà giáo già rồi! Có phải không Bản?
Bản chừng để báo thù lại Oanh, đáp liền:
- Chính thế?
Oanh trang nghiêm:
- Chứ sao! Người ta hai mươi tuổi trở đi là già rồi, phải đứng đắn mới được.
- Vậy lão giáo già cho đưa ngay thư đi thôi. Rồi đi sửa soạn cho anh thì vừa, vì đã hơn bốn giờ, chẳng còn sớm sủa gì đâu.
Oanh cười the thé bảo anh:
- Anh xoàng quá, trong giấy có mời thầy mà anh đọc lại hai ba lượt vẫn chưa lưu ý tới.
Cảnh chau mày:
- Mời thầy?
- Vâng, mời thầy. Thầy lên đồn điền Phú Lưu về. Coi bộ thầy vui vẻ lắm, sung sướng lắm, như trẻ hẳn đi mười lăm tuổi. Anh có biết tại sao không?
- Anh còn biết tại sao! Với lại thầy cũng chưa già gì cho lắm, mới năm mươi tuổi đầu.
- Em thì em biết tại sao thầy trẻ hẳn đi như thế.
Oanh liếc nhìn Bản, và khi thấy Bản đang chăm chứ xem một tập truyện ngắn của Somerset Maugham, nàng đi lại gần anh, khẽ nói:
- Vì thầy sắp lấy vợ.
Cảnh thét lên cười. Chàng bảo Bản:
- Bản ơi! Có biết Oanh vừa báo tin gì với tôi không?
Bản ngửng lên ngơ ngác nhìn Cảnh vẫn cười:
- Bản ạ, Oanh mách tôi rằng thầy tôi sắp tục huyền. Anh có biết không, thầy tôi góa từ năm tôi lên mười. Năm nay tôi hăm nhăm nghĩa là đã mười lăm năm nay rồi. Nếu tục huyền thì tục huyền ngay lúc băm nhăm băm sáu, chứ ai lại chờ đến năm mươi chẵn mới làm cái việc vô lý ấy, phải không anh.
Oanh bực tức:
- Có anh vô lý thì có, ai lại câu chuyện như thế mà réo ầm lên.
Cảnh gắt lại:
- Câu chuyện như thế nào? Với lại chuyện như thế ấy có đâu mà sợ.
- Không có? Không có thì sao em lại nói rằng có. Em nói láo em bịa ra.
Oanh láu lỉnh:
- Thôi vậy! Em tưởng anh biết điều thì em thuật câu chuyên cho anh nghe, nhưng anh đã cứng cổ như thế thì đừng hòng!
Cảnh lạnh lùng:
- Nào ai hòng nghe!
Bản đương tìm cách để hòa giải hai anh em thì có còi ô-tô ở cổng. Oanh chạy ra, nói:
- Thầy đã về!
Cảnh nghe tiếng âu yếm và dịu dàng như tiếng hát:
- Bonjour papa!
Chàng nhìn Bản mỉm cười:
- Anh có tin câu chuyện của Oanh không?
Bản nhìn ra phía cổng đáp:
- Không có lửa sao có khói!
- Nghĩa là anh tin rằng thầy tôi tục huyền.
- Có thể... Cụ trông còn tráng kiện lắm.
Cảnh gắt với bạn:
- Anh luận lý cám hấp quá... anh nói thế có khác gì tôi bảo anh: "Anh sắp chết đuối vì anh không biết bơi". Sự thực thì tuy anh không biết bơi mà anh vẫn không chết đuối như trăm nghìn vạn mớ bọn không biết bơi như các anh. Thầy tôi cũng vậy, tuy rằng tráng kiện, nhưng vẫn không tục huyền như trăm nghìn vạn mớ các ông góa tráng kiện khác. Nếu anh muốn nói đến một sự cần thiết cho bọn đàn ông tráng kiện, thì sự cần thiết ấy, thầy tôi đã có, hiện đang có và sẽ có mãi cho tới ngày không thể ham được nữa. Như thế thì còn tục huyền làm gì cho bận.
Bản đã suỵt luôn hai ba lần, vì nghe tiếng giày lạo xạo trên lối đi rải sỏi trong vườn, chàng biết rằng ông Thiện đang lại gần. Nhưng Cảnh vẫn bị lôi kéo trong sự biện luận liều lĩnh.
Bản phải kêu lên: "Kìa cụ đã ra!"
Chàng mới ngừng lại.
Đi trước Oanh, một người đàn ông lực lưỡng mặc short màu sáng, mạnh mẽ bước tới, giơ cánh tay rắn chắc ra nói:
- Con! Cậu Bản ngồi chơi!
Hai người thiếu niên cùng chào: "Lạy thầy! Lạy cụ ạ?" Quả như Oanh đã nói, Cảnh nhận thấy trên diện mạo cha sự vui mừng, sự sung sướng bồng bột rạng rỡ, và chàng nghĩ thầm: "Không thể không tin được rằng mới có một sự biến cải lớn trong đời cha". Cặp mắt sáng như sáng thêm lên, những nét dăn trên trán như giãn phăng ra. Da dẻ hồng hào, đôi má phình phình. Nhờ về bộ ria Hoa Kỳ và hàm răng trắng bóng vì mới sửa lại ở một nhà trồng răng, cái cười rất có duyên, hầu như cái cười của vai kép nhất trên màn ảnh. Nhưng Cảnh lưu ý nhất đến mớ tóc đen và lốm đốm bạc, cái đầu như nhỏ thon đi trên tấm thân vạm vỡ, nở nang.
Cảnh mỉm cười nói:
- Oanh bảo thầy trẻ ra, quả thực trẻ ra.
Ông Thiện không giấu nổi vui sướng:
- Thế à? Kể thì độ này thầy cũng thấy trong người khỏe mạnh.
Rồi ngượng ngùng trước ba cặp mắt tò mò, ông Thiện đổi ngay sang chuyện khác:
- Thầy báo cho hai con biết một tin mừng. Thầy tậu một cái villa ở Sầm Sơn.
Oanh vỗ tay reo:
- Ô! Thế thì thích quá nhỉ! Chúng ta vào Sầm Sơn đi, anh Cảnh nhé, anh Bản nhé?
Ông Thiện tươi cười kể:
- Thầy lên đồn điền về có người rủ vào Sầm Sơn, thầy đi liền. Thầy ở Hôtel Tây. Một buổi chiều đi chơi mát thấy cái villa có treo biển bán, thầy vào xem ưng ý. Giữa lúc ấy người chủ nhà đến với người thầu khoán để bàn về việc xây cái giậu xi-măng. Thế là thầy hỏi mua. Và chỉ trả một tiếng là xong. Người ta đòi vạn rưỡi thầy trả vạn hai. Hiện giấy má mua bán, thầy đã giao cho quản lý văn khế làm và xong cả rồi, không có một điều gì ngán trở, chỉ còn thiếu một chữ ký của con nữa. Vậy con nhớ làm, tám giờ sáng mai lại Notaire nhé. Con biết đấy chứ, ở phố Tràng Tiền ấy mà...
- Vâng con biết, nhưng sao lại phải...?
Ông Thiện mỉm cười:
- Vì cái villa đứng tên con... Thầy mua là mua cho các con, chứ thầy thích gì nghỉ mát, mà cũng chẳng có thì giờ nghỉ mát.
Cảnh cảm động nhìn cha:
- Con thực chả xứng đáng được thầy mua cho cái nhà ấy một tí nào. Vì con lại vừa trượt kỳ thi cử nhân luật một lần nữa.
Ông Thiện như chợt nhớ ra:
- Thế à? Nhưng không hề gì! Còn có một phần nữa, thi xong lúc nào hay lúc ấy... Ừ phải, con nên vào Sầm Sơn mà nghỉ và học ôn lại để thi kỳ thi tháng mười này, cậu Bản cũng vào học với em cho vui, cả Oanh nữa nhé?
Oanh láu lỉnh:
- Vâng, con xin vào để kèm anh con học.
Ông Thiện cười vui vẻ như không lưu ý một chút nào tới sự hỏng thi của con. Cảnh cũng nhận thấy thế. Và chàng tò mò ngắm cha, tự hỏi: "Ông có tục huyền thực chăng?"
Lúc đó một người hầu gái đem khăn trắng ra trải trên chiếc bàn mây vuông rộng rồi bày những chiếc đĩa trắng sáng viền chỉ vàng, và những dao, đĩa, thìa cà phê toàn bằng bạc.
Ông Thiện đứng dậy nói:
- Các con mời bạn uống nước trà phải không? Vậy thầy lên gác thay quần áo đi chơi để các con được tự do.
Oanh vừa giúp người hầu gái bày bàn vừa đáp:
- Chúng con có mời cả thầy nữa đấy.
- Vậy thầy xin kiếu, vì thầy bận chút việc.
Rồi ông đưa tay ra bắt tay Bản:
- Cậu ngồi với các em nhé, tôi xin lỗi.
Ông đi được một lát thì bọn Thứ, Chí, Đoàn, Liên lục tục kéo đến. Thấy một bàn đầy những bánh ngọt và bích quy, Liên hỏi:
- Làm gì mà tiệc to thế này?
Cảnh không trả lời câu hỏi, chỉ đăm đăm nhìn Liên và tấm tắc khen:
- Lạ thực? Liên đẹp hẳn ra, tại sao thế Đoan?
Liên ghé tai Cảnh nói thầm:
- Tại em yêu anh.
Cảnh cười ngây thơ:
- Thực à?
Đoan hỏi:
- Liên bảo gì anh thế?
- Liên bảo Liên yêu anh.
Thứ tinh quái hỏi:
- Anh nào?
Liên đáp:
- Rõ hỏi ngớ ngẩn! Còn anh nào vào đây nữa.
Cảnh cười tự phụ và tự ái. Không bao giờ chàng tin ở sức mạnh của chàng bằng lúc này. Chàng cảm thấy rằng chàng đã yêu ai, đã nhất định yêu ai thì người ấy khó lòng mà cưỡng lại được. Và chàng tính toán.
"Cuỗm Liên của Đoan chơi. Không, không cuỗm. Được một con tình nhân mà mất thằng bạn chẳng bõ. Không cuỗm, chỉ cắm đôi sừng lên trán nó tiện hơn, im lặng hơn, thú vị hơn, và nhân đạo hơn" và chàng quả quyết trong ý định.
- Đáng lẽ tôi mời các anh và Liên vào Sầm Sơn ngay tối hôm nay, nhưng tám giờ sáng mai còn phải đến phòng Quản lý văn khế. Vậy chín giờ sáng mai khởi hành nhé? Bảy kẻ chất lên cái Ford của papa còn rộng chán.
Oanh ngắt lời:
- Nhỡ thầy cần xe?
Cảnh bảo em:
- Thầy còn trên gác, em lên hỏi thầy xem.
Oanh đi ngay. Sáu người ngồi yên lặng, mong ngóng tin tức, trước những chén trà bốc khói thơm. Ba phút sau, Oanh chạy trở về, tay giơ lên chùm chìa khóa, và cất tiếng nói từ đằng xa:
- Thầy bảo được, thầy dùng chiếc Mathis cũng đủ chán. Đây chìa khóa villa, thầy giao lại cho cậu chủ nhân.
Ai nấy vỗ tay hoan hô:
- Bravo! Petit papa! 1
Cảnh trỏ các đĩa bánh ngọt nói:
- Mais, attaquons! 1
Oanh nâng chén nói:
- A la Santé de papa! 1
Tất cả thét:
- A la Santé de papa!
Rồi tiệc trà bắt đầu trong tiếng cười nói nô đùa ầm ỹ.
Chú thích:
1 Hoan nghinh ông bố nhỏ!
2 Nhưng xung phong đi chứ!
3 Chúc ông bố trường thọ.
CHƯƠNG 3
Liên nằm đườn trên ghế mây dài, hút thuốc lá thơm và uể oải đọc một tờ tuần báo mới xuất bản. Bỗng nàng bảo mọi người:
- Ồ chiếu lại phim Chicago! Em phải đi mới được.
Phim ấy Cảnh đã coi rồi, và cũng không thích lắm. Nhưng đương tìm cách để đi chơi với Liên đêm nay, chàng liền hưởng ứng cái "ý hay" của nàng!
- Thế à! Phim ấy đẹp lắm kia đấy, tôi cũng phải đi xem mới được. Vậy tối nay tôi lại đón anh chị cùng đi nhé?
- Xi-nê nào thế?
Liên đọc lại quảng cáo và cười nói:
- Xin lỗi anh, đây là mục chiếu bóng ở Hải Phòng.
Cảnh nghiễm nhiên đáp:
- Ở Hải Phòng thì đi Hải Phòng chứ sao?
- Ừ phải đây, đi Hải Phòng ăn cơm chiều, rồi xem xi-nê. Đi cả nhé?
Chí đáp:
- Tôi xin kiếu, vì bận.
Liên cười:
- Về phần em thì cố nhiên là em nhận lời.
- Còn anh Đoan, anh Thứ cũng cố nhiên nhận lời nốt chứ?
Thứ trả lời vắn tắt:
- Cố nhiên.
Còn Đoan thì nhe hàm răng trắng và đều ra cười một cách rất ngây thơ. Đó là câu trả lời lặng lẽ của chàng. Không bao giờ chàng có can đảm từ chối Liên được, dù những điều Liên yêu cầu ngộ nghĩnh đến đâu mặc lòng. Chẳng thế mà một dạo chàng đã để Liên dựa vào diễn kịch để sống chung lẫn lộn với một bọn thiếu niên kịch sĩ, dù trong thâm tâm chàng rất ghét kịch. Chàng chỉ sợ làm phật lòng Liên và hễ Liên hơi buồn phiền là chàng đã lo rằng con chim xanh sắp sửa xổ lồng bay đi lang thang một vài tuần lễ.
Trong đám đi lại chơi bời, Cảnh và Đoan là đôi bạn thân nhất có lẽ vì hợp tính, cái tính nhẹ dạ, chỉ biết có hiện tại, và nghĩ tới thỏa lòng vật dục, nhưng nhất là vì hai người cùng ở trong một giai cấp xã hội, cái giai cấp trưởng giả mới của buổi giao thời.
Ông Quản, sinh ra Đoan, xuất thân làm thư ký cho một hãng buôn, sau dần dần thạo việc, đứng quản lý cho một cửa hàng sắt.
Bỗng xảy ra trận Âu chiến năm 1914. Giá sắt cao vọt lên. Tức thì nhờ lưng vốn người, và nhận được lòng tín nhiệm của khắp nơi quen biết, ông Quản ra kinh doanh, tự mở một cửa hiệu bán sắt. Và chỉ trong vòng một năm đã gây nên một tư sản lớn.
Chiến tranh kéo dài. Và trong thời kỳ chiến tranh, hàng gì, vật liệu gì giá cũng lên rầm rầm. Ông Quản liền mở rộng phạm vi thương mại, và không buôn bán một thứ sắt nữa. Bất cứ buôn gì, quý hồ có lãi. Bất cứ buôn bằng cách nào quý hồ trôi chảy. Bất cứ với thứ khí giới nào, quý hồ công hiệu. Đó cũng là một cuộc chiến tranh mà ông hăng hái lăn sả vào, nguy hiểm chẳng kém cuộc bắn giết bằng súng đạn tàu bè, máy bay mà kẻ khác đang liều mạng, xông pha. Chăm chỉ khôn khéo, can đảm, táo bạo, lừa lọc, gian trá, đó hoàn toàn là những đức tính cần cho bọn chiến sĩ trên thương mại nhất thời ấy, và chiến lược của họ chỉ có một: Đầu cơ.
Chiến tranh kết thúc. Ông Quản thầm reo: "Thắng trận!" Sau bốn năm gian lao, vào sinh ra tử, ông ta đã kiếm được món lời gần trăm vạn.
Ông Quản có bốn con trai. Người nào cũng theo học bực trung đẳng, và hai người lại được sang Pháp nữa. Nhưng trừ một mình Đoan, ai nấy đều phá ngang ra kinh doanh thương mại, mặc dù ông Quản bắt buộc phải đi theo cho tới tận đích. Đích nghĩa là cái bằng tiến sĩ, thạc sĩ hay kỹ sư, bác sĩ.
Đoan là con út, người con không phải thông minh nhất. Ông Quản cho con học không có mục đích gì khác là để con tóm được mảnh bằng cao. Nếu nhờ được được mảnh bằng ấy con ông xuất chính được càng hay, càng danh giá cho ông, bằng không thì nhà ông cũng đủ đẹp đẽ trong phạm vi gia đình, trong thế giới học vấn mà ông khao khát thèm muốn, tuy đã hoàn toàn nhờ về những cái rất xa nền học vấn, trái ngược hẳn với nền học vấn mà ông có cái cơ nghiệp vĩ đại kia. Như thế, ông còn có mục đích khi bỏ tiền nghìn bạc vạn ra cho con đi học. Đến như Đoan thật không có mục đích gì. Không nói thời ít tuổi, lúc được cha vận động xin cho học trường trung học Albert Sarraut, trường cao quý nhất, theo ý nghĩ ông Quản. Một nhà tai mắt như ông mà không cho được con vào học trường ấy thì đó là một sự hổ thẹn, một sự mất danh giá đối với bọn trưởng giả. Mãi lúc con đậu tú tài văn chương và triết học, ông mới biết rằng con ông đã theo đuổi riêng về văn khoa. Mà Đoan cũng không hiểu tại sao mình đã bỏ khoa học và chọn văn chương. Sự thực thì chàng chẳng kén chọn gì cả. Ngẫu nhiên mà chàng lần lần theo học tới bực tú tài. Tới đây, Đoan đã lớn tuổi và đã biết chọn lấy môn mình thích hay hợp với tương lai của mình.
Chàng chọn trường thuốc. Không phải vì chàng sính làm bác sĩ, nhưng vì thấy vào trường ấy được học lâu năm nhất: "Đỗ ra cũng chả làm trò trống gì, học đấy được mỗi điều sung sướng là chưa cần phải vội nghĩ đến lúc ra, sáu bảy năm còn chán".
Nhưng sáu bảy năm cũng qua, dù qua một cách chậm chạp, và Đoan có lòng tự ái hơn Cảnh, nên không thể chịu được cái nhục hỏng thi và chàng muốn thi cho xong để còn sang Pháp trình bày luận đề bác sĩ.
Rồi sau hai năm thỏa mãn ở Paris chàng trở về nước.
Việc thứ nhất của ông Quản là về làng ăn khao linh đình, việc thứ hai là xuất vốn cho con mở bệnh viện. Có con mắt kinh doanh ông không chịu bỏ lỡ một dịp kiếm tiền. Ông biết cái nghề ấy lời lắm, nhất là con ông lại "Tốt nghiệp tại trường Đại học Paris". Hàng chữ mà bác sĩ không quên nêu trên danh thiếp và cái biển đồng sáng láng treo ở trước cửa bệnh viện.
Song tới đây, cái mục đích là người ta muốn chàng đạt tới thì Đoan đã đạt tới rồi. Chàng đã đậu bác sĩ làm vẻ vang cho thân, cho nhà, và nói huênh hoang hơn cho nước. Như thế chàng cũng đã mệt nhọc lắm, nay phải để cho chàng nghỉ ngơi, phải để cho chàng hưởng lạc thú ở đời mà bấy lâu vì việc học chàng đã phải ép lòng hờ hững. Bắt chàng ra kinh doanh sau gần hai muoi năm đèn sách thì thực bất công, thực tàn nhẫn đối với nhân tài trong nước.
Ngặt một nỗi nếu không làm gì cả thì cha lại không bỏ vốn ra, thành thử không tiền chàng cũng chẳng có thể hưởng một chút lạc thứ gì. Chàng đành phải "nhúng tay vào việc". Đó là một cách nói, sự thực, chàng chỉ sửa sang một bệnh viện thực lộng lẫy có đủ hết các khí cụ tối tân. Thế thôi, còn chữa bệnh là việc phụ. Đối với bệnh nhân, chàng cố giữ một vẻ mặt lạnh lùng, khinh khỉnh, tuy bản tánh chàng rất dễ dàng và vui vẻ.
Chàng làm thế nào để cho người ta bảo nhau không đến chàng nữa. Mời chàng đi chữa bệnh ban đêm thì bao giờ chàng cũng thoái thác. Chẳng bao lâu chàng được như ý nguyện làm một ông thầy thuốc không người ốm, hay một ông thầy thuốc tốt chỉ chữa cho bạn bè và các cô xinh đẹp, vì chàng không có can đảm từ chối một người đẹp bao giờ.
Cảnh gặp Đoan cũng do một sự ngẫu nhiên. Hôm ấy, đi chơi khuya gặp mưa chàng đương đứng ẩn dưới mái hiên một nơi bệnh viện để chờ gọi xe. Giữa lúc ấy Đoan về, bấm chuông và trông thấy chàng liền hỏi:
- Ông đến nhờ tôi đi chữa bệnh?
Cảnh đáp:
- Phải... Chính tôi đến chữa bệnh?
Đoan chau mày:
- Sao ông đến khuya thế?
Cảnh cười:
- Vì mãi khuya tôi mới có bệnh.
- Bệnh gì?
- Một bệnh nặng lắm.
Người nhà ra mở cửa. Bất đắc dĩ Đoan phải mời Cảnh vào phòng khách. Chàng hỏi rằng:
- Mắc bệnh gì mà đến chữa một cách quá cần kíp như thế.
Cảnh tò mò nhìn ông thầy thuốc kém lễ phép, và chàng thong thả, trang nghiêm đáp:
- Tôi mắc bệnh lạ lắm. Hễ cứ ăn no quá là y như bụng ậm ạch khó chịu, nhưng chỉ độ hai giờ sau lại như thường, như không mắc bệnh gì cả, cho đến khi đói lại muốn ăn mà ăn rất khỏe.
Cảnh tưởng trêu tức ông thầy thuốc đáng ghét, nhưng Đoan không tỏ chút bực mình. Hơn nữa chàng như chăm chú lắng tai nghe lời kể bệnh, rồi thản nhiên lấy giấy bút kê đơn. Cảnh cố giữ mới không phá lên cười. Chàng mến thích ngay ông thầy thuốc ngộ nghĩnh, và chàng đùa bỡn hỏi:
- Bệnh liệu có nặng không?
Đoan vừa viết vừa trả lời:
- Cũng nặng nhưng không nặng lắm.
Rồi đưa đơn thuốc cho Cảnh:
- Tôi phải nộp ông bao nhiêu?
Đoan đáp vắn tắt:
- Năm đồng.
Cảnh mở ví lấy tiền. Nhưng Đoan gọi:
- Không vội. Trả sau cũng được. Bây giờ thì mời ông về nhà đi ngủ.
Cảnh lắng tai nghe mưa rào:
- Tôi nằm lại ở bệnh viện để tiện chữa có được không?
- Được.
Đoan bấm chuông, gọi một cô khán hộ, giao Cảnh cho cô, rồi hấp tấp bước lên gác. Đó là một thiếu nữ chừng hai mươi tuổi, có duyên hay nói chuyện. Nhờ thế, không cần hỏi, Cảnh cũng biết bệnh viện độ này vắng quá và "quan đốc" nhà giàu lắm. Cảnh bắt chuyện rồi hỏi một cách rất tự nhiên xem cô khán hộ có thể kiếm đâu ra được một chai bia, làm cô ta bật buồn cười đáp: "Đây không phải là hàng rượu, dù là rượu bia đi nữa". Cảnh bảo cô khán hộ lên gác hỏi quan đốc và nếu được phép thì bảo đi mua ngay cho nửa tá. Chàng kinh ngạc xiết bao khi thấy cô khán hộ trở lại, tay cầm cốc rượu, tay cầm chai bia rót dở. Rồi một lát sau chính Đoan tới gọi lấy cốc để cùng uống với Cảnh. Thế là ông thầy thuốc và người ốm bắt đầu làm quen nhau, để chẳng bao lâu trở nên một đôi bạn thân vào bậc nhất.
Có điều này hơi cảm động và đáng tức cười trong tình bằng hữu của hai người là người nọ thấy người kia chơi bời quá độ, họ cũng khuyên can lẫn nhau nên bớt chút thì giờ ham chơi mà nghĩ tới công việc. Đoan bảo Cảnh: "Cố đỗ cho xong cái phần thứ ba cử nhân luật đi, rồi ra làm thầy cãi". Cảnh bảo Đoan: "Anh chả nên bỏ phí cái bệnh viện đẹp đẽ của anh. Phải tổ chức lại mới được". Một sự lạ, chính nhờ ở bọn nhẹ dạ mà bệnh viện của Đoan vẫn lời, mà Đoan đã có người giúp việc, nhưng kỳ thực người ấy làm hết các việc trong khi Đoan chỉ nghĩ đến chơi bời thỏa thích.
Trong bọn tình nhân, Đoan yêu nhất Liên, yêu đến nỗi bị Liên áp chế, bảo sao nghe vậy. Rồi chẳng lâu Liên một mình chiếm lấy anh tình nhân sẵn tiền và hai người chung sống với nhau như vợ chồng chính thức. Có khác đôi chút là thỉnh thoảng Liên lại bỏ nhà đi lang thang một dạo. Lúc về Đoan cũng chẳng hỏi đã đi đâu, mà đi với ai. Chàng chỉ yêu hơn trước mà thôi. Anh em thường chế giễu chàng. Cho chàng là si là ngốc. Chàng chỉ cười và đáp: "Liên yêu tôi hơn hết cả bọn tình nhân của Liên, cũng như tôi yêu Liên nhất trong đám tình nhân của tôi. Một chứng cớ rõ rệt là Liên không ở với ai lâu bằng ở với tôi, hơn thế, Liên chỉ có thể sống ở bên cạnh tôi lâu mà không chán hẳn".
Sự thực thì, trừ Cảnh ra, không một người bạn thân nào của Đoan mà lại không là tình nhân của Liên. Cảnh cố giữ lòng đoan chính đối với nhan sắc, cái lẳng lơ quyến rũ kia, nhưng lần lần chàng thấy cũng sắp sa ngã nốt. Chàng cho đó là số mệnh và đành nhắm mắt vâng theo, chứ không còn thể chống sao nổi số mệnh. "Nếu không thì mình đã không đi Hải Phòng tối hôm nay với Liên và Đoan". Chàng luận lý như thế.
"Muốn thì được!" Cảnh thường nói. Mà khi người ta giàu như Cảnh thì người ta lại càng dễ được cái người ta muốn. Vì thế mà ngay đêm hôm ấy Cảnh đã trở nên tình nhân người yêu của bạn. Khi đã phạm tội, hai người ngỏ với nhau những ý riêng của mình, rồi ôm nhau cười ngất. Liên bảo Cảnh:
- Đối với bọn chúng ta chả còn cái gì chúng ta cho là thiêng liêng nữa.
Cảnh lạnh lùng:
- Rõ em khéo nói kiểu cách!... Và ở cái thời khoa học này, đến thần thánh cũng đã mất hết thiêng liêng đối với lòng tín ngưỡng thành kính của người đời, thì còn cái gì đáng gọi là thiêng liêng nữa. Họa chăng chỉ có cái tính xác thịt, cái thú vui hiện tại đáng gọi là thiêng liêng cho một cái gì.
Cảnh trở về nhà giữa lúc Oanh vừa ngủ dậy. Nhác trông thấy em chàng mỉm cười mệt mỏi. Nhưng chàng chợt nhớ lại câu chuyện đã làm, chàng băn khoăn từng lúc trong khi ngồi xem chiếu bóng ở Hải Phòng. Chàng lại gần em hỏi sẽ:
- À Oanh, câu chuyện ấy có thực à?
Oanh chau mày, cắn môi nghĩ ngợi:
- Câu chuyện gì kia anh?
- Câu chuyện papa lấy vợ ấy mà!
- Lại chả thật! Em có nói dối bao giờ đâu. Hình như cô ta là con gái một người đàn bà góa, vợ kế một ông Án.
Cảnh mỉm cười ngờ vực:
- Cô ta? Vậy cô ta trẻ lắm sao?
- Hình như trẻ, trẻ lắm, đâu hăm mốt, hăm hai chi đó... mà hình như đẹp lắm thì phải.
Sau một cái ngáp, Cảnh bật cười:
- Đẹp! Đẹp như cô D... hay cô M... của thầy là cùng chứ gì.
Oanh giọng trách móc:
- Anh dở hơi quá! Các cô ấy khác, đằng này hoàn thầy lấy vợ kia mà.
- Ô! Khác quái gì!... Vả lại chẳng nhẽ thầy lấy cô ta vì gia tài, vì món hồi môn của cô ta? Thầy giàu có tới ngoài trăm vạn, thầy còn cần gì tiền hồi môn.
Oanh vội gạt:
- Không phải thế. Nhưng thầy không thể vì yêu người ta mà lấy người ta được ư?... Sao lại cứ phải vì tiền? Vả lại việc này nhất định không phải vì tiền rồi. Bà Án trước kia nghe đâu cũng vào bực giàu nhất vùng Thái Bình. Nhưng góa chồng đã hơn mười năm nay, bà ta chỉ ngồi mà ăn tiêu. Người ta nói bà ăn tiêu đế vương lắm. Tiệc tùng luôn luôn, đãi tiệc ấy, mỗi bữa như thế tốn tới bạc nghìn chứ có phải ít đâu. Anh tính giàu như thầy đã dễ dám hoang phí đến thế.
- Ấy là em mới nói hình như đó thôi.
- Không, việc này chắc chắn có, vì chính người làng bà ta kể với em.
- Nhưng bà bao nhiêu tuổi?
- Đâu vào khoảng bốn nhăm bốn sáu.
Cảnh cười nói:
- Vậy sao thầy không lấy quách bà ta mà lại lấy con bà ta?
- Chuyện anh cám hấp chết đi ấy. Người ta là cụ lớn ai lại đi tái giá.
- Dễ thầy không là một cụ lớn đây hẳn. Thời buổi này cụ lớn bằng gì cho bằng cụ lớn tiền! Em phải biết rằng vì tiền mà thầy có thể lấy được con bà ta thì sao vì tiền thầy lại không thể lấy được bà ta; thích tiêu tiền, thích phá của, vậy thầy còn thừa của để cho bà ta phá sướng tay.
- Chính! Gả con gái cho thầy, bà ta cũng mong được thế.
Rồi chàng vội vàng lên gác. Bỗng chàng dừng lại trên cầu thang cúi xuống hỏi:
- Nhất định vào Sầm Sơn chứ?
- Nhất định.
- Vậy em sắm sửa cho người vào trước dọn dẹp. Rồi chiều chúng mình sẽ vào.
- Sao hôm qua anh bảo chín giờ sáng hôm nay?
- Nhưng anh buồn ngủ lắm.
Dứt lời Cảnh uể oải bước lên gác.
CHƯƠNG 4
Mãi gần chín giờ tối, chiếc xe Ford mới tới Sầm Sơn, nhưng đã nhớ dừng lại ở Ninh Bình để gọi điện thoại đặt một tiệc sáu người ăn tại khách sạn Reynaud. Vì thế khi tới bàn ăn đã sẵn sàng.
Nhưng Cảnh cũng lái xe rẽ qua nhà để dặn người coi vườn sáng hôm sau đi đóng ngay một cái bàn ping pong. Chàng đem theo vào đủ cả lưới, bóng và bốn cái vợt cao su. Không phải chàng thích môn thể thao nhẹ nhàng ấy, nhưng vì đã nghỉ mát ở biển nhiều lần, chàng biết rằng mỗi cái bàn ping pong là một nơi hội họp của phái đẹp.
Bây giờ vào thượng tuần tháng bảy, thì đông đúc náo nhiệt nhất của Sầm Sơn. Những trang phục tắm biển hợp thời, những thiếu nữ xinh đẹp có tấm thân nở nang, những bà mẹ giàu sang có con gái kén chồng thường đợi đến tháng ấy mới vào nghỉ mát. Vào sớm quá, Sầm Sơn còn vắng, phí tiền đi.
Trong khi ngồi ăn ở khách sạn, Cảnh chợt có những ý tưởng về Sầm Sơn, và chàng cười khoái lạc. Sao chàng cảm thấy yêu đời thế! Mà khi người yêu đời bồng bột thì người ta chỉ nghĩ đến mình, hay ít ra nghĩ đến mình hơn mọi người, mọi vật, người ta trở nên một trung tâm điểm vòng quanh đó, những người khác, những ngoại vật chạy lượn như người và vật cắt bằng giấy ở đèn kéo quân. Chàng là một nhân vật dễ yêu quá: "Đến mình còn phải tự yêu mình thì ai mà chống lại, không yêu mình được?" Chàng điểm lại từng người bạn, từng người tình, nhớ lại tính nết họ, tính tình họ đối với chàng, đó là tình yêu, đó là bông hoa quý mà đời đã dành cho chàng.
Cảnh còn không yêu đời sao được! Có họa chăng là một kẻ bạc bẽo đối với người đời, đối với đời; mỗi khi thoảng nghĩ tới cái năm chán nản muốn chết, chàng lại mỉm cười tự thương hại cho mình. Thời kỳ ấy đã xa lắc, trong màn sương ảm đạm của quá khứ. Sự thực, thời kỳ ấy chưa qua được hai năm. Nhưng lòng chàng đã qua một cuộc thí nghiệm của trường đời, và chàng đã tỉnh ngộ. Sinh ra ở đời để mà sung sướng để mà thỏa mãn, chớ không phải để khổ sở, để than phiền, hay để theo đuổi một mục đích viển vông nào.
Cảnh mơ mộng trong hương thơm ngây ngất của cốc cà phê pha rhum. Đắm mắt nhìn Liên, chàng mỉm cười vơ vẩn, cái mỉm cười đầy thân mến. Bản đứng dậy nói:
- Hơn mười một giờ rồi, về ngủ để mai đi tắm sớm.
Cảnh không nghe thấy lời bạn. Nhưng chàng cũng đứng dậy theo và dang rộng hai cánh tay chàng mê man như nói một mình: "Đời vui quá, mình sung sướng quá! Sung sướng có thể chết được!"
Liên cười:
- Chỉ dại dột! Có khổ sở mới chết chứ sung sướng thì chết sao được?
Thứ, giọng trang nghiêm:
- Sung sướng chết được lắm chứ, vì lẽ rất giản dị này: khổ sở quá chết được thì sung sướng quá cũng chết được. Cũng như người ta có thể chết đói và chết no, no quá chết bội thực.
Oanh ghé tai nói thầm bảo Bản:
- Anh Thứ ví von rất hay, còn có thể nào nhạt hơn được nữa không?
Cái cười nịnh của Bản dù ầm ỹ vẫn không giấu nổi sự miễn cưỡng sự cố gắng. Thứ hỏi:
- Cô Oanh bảo thầm anh cái gì mà anh thích chí thế?
- Oanh bảo anh tỷ dụ đến ngộ nghĩnh.
Sợ Thứ ngờ vực và tức giận, Oanh phỉnh chàng một câu:
- À anh Thứ, tôi quên chưa hỏi anh, tác phẩm đương soạn của anh tên là gì?
Thứ cười nở nang mày mặt. Bất cứ một câu gì có đá động đến cái đời văn chương của chàng cũng đã làm cho chàng sung sướng, nhất là khi câu ấy lại thốt ra ở một cái miệng mỹ nhân. Chàng đáp:
- Tác phẩm của tôi gần viết xong rồi, mà tôi vẫn chưa tìm được cho nó một cái tên đích đáng. Tôi định đặt "sống mà yêu" nhưng nghe như chưa được ổn.
Cảnh uống cạn nốt cà phê, rồi trịnh trọng bảo Thứ:
- Chưa được ổn thật, lộn ngược lên là "yêu mà sống" mới đúng hay "yêu để sống, yêu để sống", không yêu thì người ta đến tự tử mất. Phải không Liên?
Chợt thấy mình có lỗi với bạn, Cảnh tiếp luôn:
- Có phải không Đoan?
Đoan giọng buồn ngủ:
- May ra thì phải. Nhưng về thôi, đã khuya rồi.
Cảnh gọi bồi trả tiền, rồi cùng em gái và đám bạn ra về.
Việc thứ nhất của Cảnh sáng hôm sau là tổ chức ở Sầm Sơn cho thực đầy đủ. Chàng hầu như nghĩ sẵn một bản chương trình để cứ thế mà theo. Chàng khổ sở nhất là khi phải sống tạm bợ trong sự mất trật tự, sống vài ngày ở một nơi xa lạ cũng như sống cả một đời dài đăng đẵng. Đó là một nhược điểm của chàng và có lẽ của tất cả những người sống cô độc trong giàu sang. Cái trật tự nông nổi ấy trong cái bề bộn, cái liều lĩnh mông mênh của một đời thực tế, có khác gì ở giữa cảnh sa mạc rộng hàng nghìn dặm trơ trụi, khô khan, ngổn ngang đống gò cát trắng, một nơi mậu lâm chu vi không hơn vài trăm thước, trong đó có bóng cây, có nước suối, có cỏ xanh để người ta nghỉ chân, giải khát, và lấy làm khoan khoái.
Giờ nào làm việc gì, Cảnh định nhất nhất sẽ theo thực đúng. Chàng nghĩ trước cả đến những cuộc đi chơi gần và xa, và những người sẽ mời cùng đi.
Buổi sáng thứ nhất ấy, chàng không đi tắm, ở nhà cùng em gái sai bảo người dọn dẹp, trang hoàng. Chàng cho đi mua cả hoa sen trắng cắm lọ. Lúc bốn người bạn ở bãi biển trở về, thấy nhà cửa khác hẳn và như sáng thêm ra, đều lấy làm kinh ngạc. Thứ khen:
- Có Oanh bài trí có mỹ thuật lắm?
Oanh nhìn anh, cười:
- Đó là tài anh Cảnh, em có can dự gì vào mà anh khen.
Liên quay ra hỏi Cảnh:
- Anh đem cả lọ cổ, bát cổ vào đấy à?
- Vâng, đem vào để khỏi nhớ Hà Nội. Tôi phải cái đi đâu cũng cứ tương tư Hà Nội. Ngày ngày ngắm thấy cách bài trí quen mắt ở Hà Nội thì mình cứ tưởng tượng chưa rời xa nơi cổ đế đô.
- Anh tương tư người hay tương tư cảnh đấy?
- Cả cảnh lẫn người.
- Nhưng nhất là người, phải không?
- Tôi không phân biệt cảnh với người. Mỗi cảnh phải hoạt động do một thứ người đẹp riêng cho cảnh, cũng như những người đẹp ấy được cảnh chung quanh làm tôn sắc đẹp lên. Vì thế ở ngay Hà Nội người đẹp cũng chia ra nhiều hạng. Có người chỉ đẹp trong khi dạo mát quanh hồ Hoàn Kiếm, hay trên đường cổ Ngư, lại nhiều cô có nhan sắc ăn nhịp nhàng với da màu đen tươi của các ông Ấn Độ bán vải ở phố Hàng Đào. Ngắm họ ngồi trên giường mua vải bên cạnh cái cười đằm thắm của cặp môi dày, tôi thấy họ lộng lẫy bội phần. Vậy...
Liên cướp lời:
- Đốt anh đi! Chúng tôi chẳng chia gì hết, chỉ bàn về cái đẹp, về các hạng người đẹp.
Đoan nằm dài trên ghế vải gấp quyển sách lại, bảo Cảnh.
- Được, chiều nay ra bãi biển ngắm cái đẹp nước mặn. Bây giờ thì tôi xin báo cho các anh biết trước rằng có lẽ tôi sẽ phải rời các anh.
Cảnh vội hỏi:
- Anh về Hà Nội à?
- Không, ở đây nhưng không ở chung với các anh.
Liên giảng nghĩa:
- Đoan bảo em rằng "bà trẻ" hiện nghỉ mát ở Sầm Sơn.
Bà trẻ là một người đàn bà Huế, lấy lẽ ông Quản đã gần hai muơi năm nay, ngay thời mẹ Đoan còn sống; năm ấy ông Quản vào Huế xem lễ Nam Giao được một ông bạn ở kinh đô giới thiệu với một ông trong hoàng tộc. Ông này có nột cô công tằng tôn nữ vừa tới tuần cập kê. Ông Quản bỏ một số tiền lớn ra cưới làm vợ. Cưới rồi để ở Huế. Bà trẻ có một cô con gái mười bảy tuổi, hiện đương theo học năm thứ ba trường Đồng Khánh Huế. Người em khác mẹ ấy, Đoan chỉ gặp mặt có một lần khi Lan Hương - tên nàng - theo mẹ ra Bắc đưa đám bà Quản. Thời ấy Lan Hương mới mười hai tuổi nhưng đã nhiều hứa hẹn sẽ trở nên một thiếu nữ xinh đẹp.
- Anh cứ ở đây với chúng tôi cũng được chứ gì.
Đoan thản nhiên đáp:
- Kể thì cũng được. Nhưng đã trót hứa với thầy tôi rằng tôi sẽ lại đằng ấy. Ban nãy tôi ra nhà bưu chính gặp giữa lúc thầy tôi gọi điện thoại và dặn lại đằng ấy ở với "dì" và "em" cho vui.
Cảnh toan hỏi "em trai hay em gái?" nhưng giữ ngay lại vì thấy câu ấy có vẻ lỗ mãng đối với người bạn thân. Tình nhân bạn có thể đùa bỡn được; còn đùa bỡn em gái bạn là một điều rất kiêng kỵ đối với Cảnh và đám bạn nhẹ dạ của chàng. Tuy vậy, Cảnh vẫn nóng lòng muốn biết người ấy là trai hay gái, và chàng tìm cách hỏi loanh quanh:
- Cụ có bà hai mà tôi không biết đấy.
- Bà ta ở luôn trong Huế, thỉnh thoảng mới ra Bắc chơi vài tuần lễ, hay một hai tháng rồi lại vào Huế.
- Ra một mình?
- Thường ra một mình. Chỉ có một lần ra với em Lan Hương.
Tự nhiên Cảnh mỉm cười. Chàng đã biết một phần những điều muốn biết. Lan Hương hẳn là con gái, và không là em Đoan còn là ai vào đấy. Chàng còn hy vọng vẩn vơ nữa. Cái tên Lan Hương hình như hứa hẹn nhiều lắm. Một người có cái tên đẹp ấy không thể xấu được. Nhưng trí nhớ chàng phản đối lại ngay. Một lần, chàng đã bị lừa vì cái tên, một cái tên rất đẹp, như Bạch Ngọc, Bạch Tuyết gì đó. Hôm ấy chàng đến chơi một người bạn văn sĩ. Bạn đưa cho xem thơ của một người bạn nữ sĩ gởi tới nhờ sửa giùm và nếu có thể, cho đăng báo hộ, văn xoàng, nhưng chữ và tên rất đẹp, nhất lại được một mùi nước hoa quý giá phảng phất làm tòn lên nhiều lắm. Cảnh không ngờ gì nữa. Bạch Ngọc hẳn phải đẹp. Thế là chàng chép ngay lấy địa chỉ, rồi lần mò đi tìm xem mặt. Chàng đạt được ước muốn, nhưng thất vọng: nữ sĩ là một pho nhan sắc quá tầm thường; cứng nhắc trong bộ y phục lố lăng.
Cảnh ôn lại chuyện cũ và nghĩ thầm: "Biết đâu Lan Hương lại không là một cô ma mút". Và chàng hỏi Đoan để dò thêm:
- Hình như các thiếu nữ Huế thích đặt những tên kêu như Lan Hương chẳng hạn. Ở ngoài Bắc ít lâu nay các cô cũng đã lây cái "mốt" ấy. Đã thấy nào Mai Hương, Ngọc Lan, Bạch Cúc. Trước kia những tên đẹp ấy chỉ sản xuất ở miền Trung Kỳ. Thiết tưởng đặt những tên đẹp để đánh lừa người ta cũng là có tội đối với bạn nam như chúng mình.
Thứ cười tiếp:
- Rồi ra chính phủ phải đánh thuế thực nặng những cái tên đẹp ấy.
Cảnh thêm:
- Nhất là khi người mang cái tên đẹp lại không đẹp một tý nào!
Nhưng chàng vẫn không biết thêm về Lan Hương, em gái bọn. Chàng chợt nghĩ ra một cách rất thần hiệu, và hỏi Đoan:
- Cô Lan Hương còn đi học chứ?
- Phải, em đương đi học.
- Tại trường cao đẳng tiểu học?
- Vâng, trường Đồng Khánh.
- Lớp mấy.
- Tôi cũng không biết nữa.
Câu chuyện chung quy vẫn không đưa đi tới đâu hết. "Thôi, rồi thế nào mình chẳng gặp mặt. Mình cứ yên trí rằng Lan Hương xấu để khỏi thất vọng, nếu cô ta xấu thực. Mà nếu đẹp thì càng hay, chẳng thiệt gì".
Vì thế mới bốn giờ chiều, chàng đã cùng Bản, Thứ và Đoan ra bãi biển, hy vọng rằng Lan Hương có thói quen đi tắm sớm. Nhưng đi dạo theo suốt làn nước, chàng chỉ thấy loáng thoáng vài tốp hai ba thiếu nữ mặc maillot (áo tắm) choàng peignoir ( loại áo choàng sau khi tắm xong) màu vàng màu xanh, đầu đội nón đang đi hóng gió mát: Cảnh nhận xét từng người và đoán chắc không có Lan Hương trong đó.
Bỗng Cảnh lưu ý đến một thiếu nữ trông như quen quen. Chàng chợt nhớ ra. Đó là cô Trang ở phố Mới. Chàng không ngờ một người ở Hà Nội chàng thấy xoàng như thế, ra đến bờ biển lại nổi bật như kia. Không những Trang có tấm thân nở nang cân đối, tầm vóc thon thon, cả đến diện mạo Trang cũng không kém diện mạo nhiều cô mà chàng thoáng nhìn cho là đẹp. Thì ra cái nước da trắng có thể làm sai lạc sự thẩm mỹ của người ta. Nhưng ở đây màu nâu, màu bánh mật không bị coi thường, trái lại còn được người ta ao ước nữa, nên mắt thẩm mỹ mới chịu côag bình mà nhận xét từng phần, từng nét của toàn thể tấm thân.
Cảnh vừa ngắm các thiếu nữ vừa nghĩ liên miên. Có tiếng cười đùa và tiếng gọi tên chàng. Chàng quay nhìn ra phía biển và nhận ngay được Liên đương cùng Oanh vùng vẫy ở đằng xa. Chàng liền đi tới, bơi crawl ra tận ngoài khơi rồi bơi ngửa vào bờ.
Chàng đứng bên Liên thở. Lâu nay không bơi lội, ham chơi bời, nên chàng rất chóng mệt. Tuy vậy chàng cũng lấy làm tự phụ cho tài của mình, và liếc nhìn chung quanh chàng thấy bao nhiêu con mắt mỹ nhân để vào chàng. Và chàng nghĩ thầm: "Giá trong bọn ấy có Lan Hương..." Chàng phải tức cười cho chàng, vì chàng chưa biết Lan Hương bao nhiêu tuổi và xấu hay đẹp. Nhưng lạ? Hình như có tâm linh báo cho chàng biết trước Lan Hương đẹp lắm.
Oanh lại đến gần mỉm cười nói:
- Trang ở phố Mới, anh có quen không?
- Không, biết vậy thôi. Em quen à?
- Vâng, Trang muốn anh dạy bơi, nhưng sợ anh từ chối.
- Khi nào anh lại từ chối cô Trang, bạn em. Vậy em nói với cô Trang rằng anh xin sẵn lòng.
Một lát sau, Oanh đưa Trang và hai thiếu nữ nữa đến giới thiệu từng người với anh:
- Chị Trang, chị Chuyên và chị Cần. Chị Chuyên và chị Cần cũng nhờ anh dạy bơi đấy.
Nhìn hai cặp má bầu bầu và hai tấm thân béo tốt, Cảnh biết rằng Chuyên và Cần là hai chị em. Chàng cảm thấy ngay khó chịu, và nặng nề công việc uốn nắn hai quả bóng tròn ấy. Nhưng đã nhận lời dạy Trang, chẳng lẽ chàng lại từ chối hai cô.
Trang đã biết bơi ngửa, Cảnh dạy nàng tập crawl, bảo nàng nằm sấp, duỗi thẳng tay về phía trước, rồi đỡ ngay bụng cho nàng đập chân. Mỗi lúc nghỉ, Trang lại nhoẻn một nụ cười để cảm ơn Cảnh, Cảnh thấy thú thú và hai ba lần bắt đầu lại bài học. Chàng chăm dạy Trang đến nỗi suýt bỏ rơi Cần và Chuyên đứng bên lên nhìn. Chàng quay lại hỏi:
- Hai cô đã biết bơi chưa?
Chuyên đáp:
- Chưa?
- Đã biết nằm nổi trên mặt nước chưa?
- Cũng chưa.
- "Dễ lắm, xin các cô cứ nằm ngửa ra, nằm đưỡn ra. Xin lỗi hai cô", Cảnh vội thêm vì thấy hai thiếu nữ ra chiều e thẹn, "nhưng chính thế, phải nằm đuỡn ra, chân tay rất mềm mại thì tự nhiên thân thể nổi. Đây này, hai cô coi".
Cảnh nằm ngửa nhìn trời và tiếp luôn:
- Có khó gì đâu?
Nhưng Chuyên và Cần động bắt chước làm theo là chìm lỉm. Cảnh phải đỡ thì hai cô mới nằm thăng bằng được. Rồi khi chàng bỏ tay ra, chân hai cô lại từ từ chìm để lôi cái đầu nặng theo xuống.
Chàng chán nản, và thấy công việc chẳng có thú vị gì. Lúc đó gặp Thứ từ ngoài khơi bơi vào, chàng giữ lại giới thiệu rồi giao cho dạy hai cô.
Chàng thoáng nghe có người nói đến tên Lan Hương. Nhìn lên bờ chàng thấy Đoan đương đứng nói chuyện với một thiếu nữ vấn tóc trần, mặc áo màu da trời, trông có vẻ thuớt tha mềm mại. Đoan chắc là Lan Hương, chàng vội vàng từ biệt bọn Trang và hấp tấp đi lên bờ, lại gần Đoan; Đoan giới thiệu:
- Anh Cảnh, bạn thân của anh, Lan Hương em gái tôi.
Lan Hương sẽ ngả đầu đáp lại cái chào của Cảnh. Rồi như tiếp theo một câu trước:
- Vậy tắm xong anh về ngay nhé, má em mong đợi anh lắm đấy.
Nàng chào Cảnh một lần nữa. Đoạn nàng đi thẳng, Cảnh ngây người đứng nhìn theo.
Bỗng nàng quay lại nói:
- A! Em đợi anh đến xơi cơm đấy nhé!
Không đợi câu trả lời, nàng thoăn thoắt bước trên cát khô.
Trong khi bối rối, Cảnh chỉ nhận thấy Lan Hương đẹp, đẹp lắm, một thứ đẹp tình tứ, âm thầm, yêu đương và bí mật, nhất là bí mật: bí mật như ẩn ở cái miệng nhỏ có vẻ mệt nhọc và ít nói, ở cặp mắt trong sáng to và sâu ẩn hàng mi dài và cong lên. Cổ nhân ví mắt mỹ nhân với nước mùa thu. Nay mắt Lan Hương quả đã chứng thực cho sự so sánh ấy, mắt nàng chứa cả trời và nước mùa thu ở trong. Bất giác chàng cất tiếng ngâm câu Kiều.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Đoan bật cười bảo bạn:
- Anh sính thơ thế!
- Anh có thấy mắt Lan Hương cùng một sắc với nước mùa thu không?
- Không, vì tôi không có tâm hồn thi sĩ như anh.
Đoan có vẻ không bằng lòng vì cho rằng bạn đặt Lan Hương ngang hàng với bọn gái đẹp dễ dàng. Chàng giơ tay bắt tay Cảnh:
- Tôi xin về trước, thay quần áo để đến villa Lan Hương.
- Villa ấy tên là Lan Hương, ừ phải có villa Lan Hương, thế mà tôi không để ý tới.
Đoan bắt tay Cảnh một lần nữa, rồi đi thẳng lên phía đường. Cảnh cảm thấy mình ghen với bạn, tuy biết bạn và Lan Hương là anh em. Chàng hằn học đi ven làn nước, như đi tìm người để sinh sự, vượt qua một bọn năm sáu người đứng nói chuyện, chàng thoáng nghe thấy mấy câu bình phẩm về mình: "Con ông Thanh Đức đấy... Chơi bán trời không văn tự... nhà ấy thì tha hồ mà phá, chả bao giờ hết được của..."
Cách đó một quãng, một thiếu niên đi giữa hai thiếu nữ. Hắn phơi nắng da đã đen rám và những bắp thịt nổi trên khắp thân thể. Hai thiếu nữ chừng thích nghe chuyện hắn lắm và thỉnh thoảng lại phá lên cười vui vẻ. Một câu lọt vào tai Cảnh: "Giá ông bố nhường cho con hiện chưa vợ". Cảnh chợt nhớ lại việc tục huyền của cha, và tin chắc rằng họ nói cạnh mình. Chàng quay ngoắt lại, tiến đến trước mặt bọn kia, sừng sộ:
- Anh nói tôi phải không?
Thiếu niên mỉm cười lạnh lùng và khinh bỉ:
- Anh có cái gì đặc sắc khiến tôi phải nói đến không đã?
- Cái này.
Một quả đấm trúng quai hàm làm cho người vừa đáp lại lảo đảo. Nhờ có hai thiếu nữ can thiệp và phân trần, hai người đàn ông hầm hừ xa lánh nhau. Cảnh đi thẳng về nhà.
CHƯƠNG 5
Tắm nước ngọt xong, Cảnh ra hiên ngồi trên một chiếc ghế mây, gác hai chân lên bàn, trước một cốc nước đá pha rhum. Chàng đã quên việc lôi thôi vừa xảy ra ở ngoài bãi biển. Quên cả việc dạy bơi và Trang với nét mặt đều đặn, tấm thân rắn chắc. Quên hết để chỉ nhớ đến Lan Hương có đôi mắt sáng như trời và như nước mùa thu, và chàng có cảm giác rùng rợn như hôn đôi mắt ấy. Môi chàng phảng phất buồn buồn vì hàng lông mi dài. Rồi cái hôn tưởng tượng ám ảnh chàng không dứt. Chàng nghĩ: "Thế nào cũng phải hôn cho bằng được đôi mắt lạ lùng ấy mới nghe!" Lương tâm chàng phản đối liền: "Bậy, đó là em gái Đoan," và chàng gắt lại: "Hừ! Đoan thì tử tế quái gì!" Cảnh có ngay dã tâm chiếm được Lan Hương rồi tuyệt giao với Đoan thì tuyệt giao.
Chàng cô nặn ra hết cả những nết xấu mà Đoan có thể có. Trước hết, Đoan si ngốc, ai lại để tình nhân lừa dối dễ dàng như lừa dối một thằng mù! Đoan lại gàn dở, tán gái bằng những lời chẳng ăn nhịp vào đâu. Sau hết một nết xấu không thể tha thư được, Đoan chẳng có một tý khiếu thẩm mỹ nào, bài trí trang hoàng các phòng chẳng còn ra sao nữa: lủng cà lủng củng những chậu sứ, bát cổ đôn Tàu, men xanh men đỏ loè loẹt trông thật là chướng mắt. "Một người như thế phỏng..."
Cảnh không dám nghĩ tiếp. Chàng thấy chàng xúc phạm đến tình bằng hữu mà chàng cho là thiêng liêng, nghĩa là chàng tự xúc phạm tới chàng, tới lòng tự ái của chàng. Mà duyên cớ bởi vì đâu? Chỉ vì một thiếu nữ mà thiếu nữ ấy lại chính là em người bạn.
Thì tại sao mình không cứ yêu bạn... và em bạn? Chàng thấy cả một thiên tiểu thuyết tình dàn ra với những cảnh âu yếm, cảm động! Dưới ánh trăng trong, Lan Hương, Đoan và chàng đi dạo bãi cát, nói những câu chuyện không đâu, Lan Hương kêu mỏi chân, chàng đưa đến ngồi nghỉ trên một cái mảng.Lan Hương một bên, Đoan một bên, chàng ngồi giữa. Lan Hương quay ra nhìn làn nước sáng, hơi thở thơm tho mơn trớn má chàng như một cái hôn nhẹ.
Rồi trong tiếng sóng reo, Lan Hương cất giọng hát, hát chỉ đủ cho chàng nghe, hát bài "hò đò" mà chàng đã thưởng thức trong một khoang thuyền lửng lờ trên mặt nước sông Hương.
"Thế rồi đi đến đâu?" Cảnh vội phá giấc mộng vàng, đi đến chỗ lập gia đình. Chàng thấy đó là một sự vô lý cùng cực, "Mình mà lấy vợ để đêm đi chơi về khuya bà ấy mắng vào mặt cho mà nghe". Cả một đời gia đình, chàng chỉ nghe thấy một hình ảnh ấy, là vì chàng đã ngẫu nhiên mục kích và dự thính một cuộc vợ chồng cãi lộn sau một buổi đi xem chiếu bóng về.
- Ồ! Nếu mình lấy vợ thì lấy đã lâu rồi!
Cảnh nhớ một năm ở Đồ Sơn, chàng đã đi sâu vào đường tình cảm, suýt nữa thì không trở lại được nữa. Sau chàng phải quả quyết, cái quả quyết chàng vụt có trong một phút, nhưng vững chắc không có một sức mạnh gì lay chuyển nổi... Chàng đã trang nghiêm bảo thiếu nữ: "Tôi nhất định theo chủ nghĩa độc thân suốt đời". Rồi từ đấy, chàng cố lánh mặt. Vậy thì với Lan Hương chàng cũng có thể yêu một cách lý tưởng như thế một dạo rồi lại xa lánh, cố quên người yêu đi. Xưa nay chàng vẫn chia tình yêu của chàng ra làm phần xác thịt và phần tinh thần, cả hai phần cũng vẫn đầy đủ.
Thế thì còn cần gì phải lấy vợ. Đừng nói lấy vợ vội, bây giờ một cô tình nhân cứ đẻ ra cho chàng một đứa con thôi, chàng cũng sẽ thấy đời là cái ngục tối rồi. "Nhưng không, đời phải luôn luôn là một vườn thượng uyển đầy hoa và chim". Và Cảnh sung sướng cầm cốc nước uống cạn như để chấm câu tư tưởng xán lạn.
Tiếng Liên và Oanh vừa đi vừa nói chuyện ở lối cổng. Thấy Cảnh, Oanh phàn nàn ngay:
- Anh làm khổ em!
Cảnh nói:
- Anh xin lỗi em, nhưng anh đã làm điều gì phật lòng em đấy nhỉ?
- Ai lại anh đi anh đánh người ta, làm huyên náo cả ngoài bãi biển lên.
Cảnh nhớ tới anh chàng và hai thiếu nữ:
- À! Chỉ có thế. Em làm anh hết hồn.
- Lại còn chỉ có thế! Vô cớ anh đấm vào mặt người ta!
Cảnh chau mày:
- Vô cớ! Nó nói xấu anh, nó nói xấu cả nhà mình mà em bảo vô cớ. Nhưng rồi sau ra sao?
- Người ta viện chứng cớ định lên cẩm thưa anh. Em phải can thiệp xin lỗi người ta, người ta mới thôi.
Cảnh mỉm cười:
- Em xin lỗi người ta... vậy anh xin lỗi lại em nhé!
Chàng nghĩ: "Cái sức mạnh của phụ nữ! Chỉ một cái nhìn của họ đủ làm nổi phong ba nhưng cũng chỉ một lời của họ đủ dẹp yên sóng gió". Và chàng bảo Oanh:
- Oanh đã xin lỗi mà hắn không tha thứ cho anh họa chăng hắn là người rừng.
Chàng phá lên cười làm Liên cũng cười theo.
Oanh sung sướng đỏ mặt vì câu nịnh khéo của anh:
- Anh chỉ được cái pha trò.
- Nếu ở đời chỉ toàn những thiếu nữ như hai quả bóng tròn anh dạy nằm thăng bằng trên mặt nước ban nãy thì trật tự mất hết, mà hòa bình không còn. Phải không cô Liên?
Liên đáp:
- Anh nói thì bao giờ chẳng phải. Nhưng việc anh đã tạm thu xếp xong. Còn việc em nhờ anh thu xếp hộ. Đây này, bây giờ hình như Đoan đến đàng bà dì ghẻ và cô em gái Huế. Vậy anh bảo em nên xử trí ra sao? Đến đấy cùng ở với Đoan nghiễm nhiên như người vợ chính thức, hay cứ ở đây với các anh?
Cảnh chưa hết tức giận Đoan, và nay bao nhiêu tâm tình đã bị Lan Hương chiếm đoạt, nên đứng trước Liên chàng thấy dửng dưng và chàng tàn nhẫn đáp:
- Đó là việc riêng của anh Đoan và của Liên. Phải tự xử lấy chứ!
- Nếu thế thì em còn hỏi anh làm gì?
- Phải, đừng hỏi là hơn.
Liên ngồi phịch xuống ghế, mở một hộp thuốc lá thơm lấy một điếu đánh diêm hút.
Cảnh hỏi:
- Liên có uống một cốc rhum trước khi đi tắm nước ngọt không?
Liên cười:
- Ý chừng anh giục em đi tắm nước ngọt có phải không?
Nàng vứt điếu thuốc lá ra vườn, rồi vào nhà trong.
Oanh cũng theo vào.
Ngồi một mình, Cảnh lại theo đuổi những ý nghĩ bỏ dở: "Thôi cứ để mặc kệ số mệnh là hơn hết. Nếu số mình với Lan Hương phải ràng buộc với nhau thì mình cũng đành chịu. Chứ biết sao".
Có người gọi cổng. Cảnh đứng dậy nhìn ra. Một người đầy tớ gái giơ ra một phong thư và nói:
- Có thư của quan đốc con gửi cho quan cử. Có phải đây là nhà quan cử không ạ?
- Ai bảo chị thế? Đây là nhà tôi, nhưng cứ đưa thư đây.
Cảnh chạy ra cổng đỡ lấy phong thư.
- Bẩm quan, quan con dặn đợi thư trả lời.
Cảnh mỉm cười:
- Chị ở đây phải không?
- Dạ.
Cảnh thì thầm: "Thảo nào!" Rồi mở thư ra nhẩm đọc xong chàng mỉm cười vui sướng bảo đứa tớ gái:
- Chị về nói chúng tôi xin đến ngay nhé.
Oanh và Liên mặc áo pyjama ra hiên, thấy Cảnh nằm dài trên ghế mây nhìn trần huýt sáo. Liên hỏi:
- Đã khoái chí điều gì thế kia?
Cảnh bảo Liên:
- Thu xếp xong rồi.
- Thu xếp cái gì thế?
- Cái việc của Liên ấy mà.
Liên ngơ ngác:
- Việc của em?
- Ừ, cái việc ban nãy Liên không biết xử ra sao ấy mà... Nghĩa là Liên chưa biết nên ở đây hay ở đàng kia ấy mà?
- Vậy sao?
- Đây này đọc mà xem.
Liên cầm thư đọc:
"Chiều nay mời tất cả lại đằng này ăn cơm. Không một ai được từ chối đấy".
Tái bút: "Cần nhất là các anh phải coi Liên như người vợ chính thức của tôi. Tôi đã trót nói với bà trẻ thế rồi".
Liên không giấu nổi sung sướng. Má nàng bừng đỏ. Mắt nàng âu yếm nhìn Cảnh. Sự yêu đương làm nàng thẹn thùng bẽn lẽn. Nhưng Cảnh không để ý đến. Chàng chỉ nghĩ tới một Lan Hương.
- Lan Hương độ mười bảy mười tám là cùng.
Liên giọng đắc thắng:
- Phải độ ngần ấy là cùng. Một cô nữ học sinh, một cô em bé bỏng.
Nàng hỏi Cảnh:
- Chẳng rõ tuổi ấy thì đã biết gì chưa nhỉ?
Cảnh giọng hơi gắt:
- Biết gì?
- Biết ái tình là gì chưa?
- Rõ hỏi lẩn thẩn! Nhưng đi trang điểm để còn đến villa Lan Hương. Không thấy Oanh đi sửa soạn rồi đấy à?
Liên cười tàn ác:
- Người cần sửa soạn trang điểm nhất có lẽ là anh.
Cảnh hơi khó chịu, lặng thinh quay đi.
Chàng vào phòng riêng thay quần áo. Chàng suy nghĩ ba phút chọn một bộ y phục vừa ý; nhưng rồi sau chàng lại quả quyết mặc bộ short thường và đi dép da. Đứng trước gương tủ, chàng tự ngắm nghía, mỉm cười, vì thấy mình trẻ và đẹp, điều mà chàng nghĩ đến luôn nhưng không lần nào thật lưu ý đến bằng lần này. Lần này chàng cho trẻ và đẹp không những đối với phụ nữ là những điều kiện không có không được, mà đối với nam nhi cũng cần thiết cho đời sống sung sướng, cho cả đời sống bình thường. Tư tưởng ấy thành hình bằng tiếng Pháp khiến chàng ngờ đã đọc ở một quyển sách nào, của Anatole France, thích một phần vì văn đẹp, nhưng nhất vì Anatole France là một nhà văn hoài nghi, không tin đời có một thứ gì đáng kể, đáng tha thiết, ngoài sắc đẹp, ái tình và nhục dục. Cảnh tự nhận mình và bọn mình là tín đồ của Anatole France, theo cái tôn giáo khoái lạc nhưng vô tôn giáo.
Nghe có tiếng Bản và Thứ ở trên, Cảnh đi ra, óc đầy những tư tưởng đẹp của Anatole France. Chàng bảo hai bạn:
- Chuyến này về Hà Nội phải mua thêm cho đủ hết tác phẩm của Anatole France mới được... Thanh niên không biết yêu Anatole France là một thanh niên vất đi.
Thứ cười:
- Một dạo đã có một thanh niên Kiều, nay lại muốn có một thanh niên Anatole France.
Liên ở phòng bên ra, ngắt đứt câu chuyện:
- Thôi xin các anh đừng giở văn chương ra nửa, chối tai lắm. Anh Bản và anh Thứ vào tắm nước ngọt mau rồi còn đi.
Bản hỏi:
- Đi đâu?
- Vậy ra anh chưa biết gì. Bà trẻ nhà em mời các anh và chị Oanh đến xơi cơm chiều.
Bản ngơ ngác:
- Bà trẻ nhà chị.
Thứ thêm:
- Chị Liên mà có bà trẻ?
Cảnh giảng nghĩa:
- Bà trẻ anh Đoan, tức là vợ lẽ cụ Quản ấy mà.
Thứ mỉm cười:
- À! Ra thế!
Cảnh hai tay vịn vai Bản và Thứ ghé tai nói thì thầm:
- Đoan dặn phải coi như Liên là vợ anh ấy vì anh ấy đã trót nói thế với bà trẻ.
Bản và Thứ cũng bật cười:
- Chỉ sợ giấu đầu rồi lại hở đuôi thôi.
- Vậy đi tắm nước ngọt, gần sáu giờ ruỡi rồi, chẳng còn sớm gì đâu.
Liên bĩu môi bực tức nghĩ thầm:
- Anh chàng chỉ nóng ruột gặp mặt cô ả.
Sự thực, từ lúc nhác thấy Lan Hương, Cảnh không còn lưu ý gì tới Liên nữa. Không một chút tình cảm lộ ra trên nét mặt chàng, khi đôi mắt đắm đuối của Liên nhìn thẳng vào mắt chàng. Liên bực tức nghĩ thầm: "Bọn đàn ông họ bạc tình hết!... Mình phải làm phúc bảo cho cô em có thân thì lo. Đụng vào những ông tướng này chẳng vỡ cũng sứt mẻ!"
Lát sau, năm người cùng đi đến biệt thự Lan Hương. Thứ hỏi:
- Không biết Đoan kêu bà trẻ là gì nhỉ?
Liên đáp:
- Là bà trẻ chứ còn là gì nữa.
- Chẳng lẽ lại nói: "Thưa bà trẻ, tôi thế này, thưa bà trẻ tôi thế nọ" ư?
- À! Nói với bà ấy thì phải: "Thưa bà" thôi chứ.
Oanh cãi:
- Thưa dì chứ lị.
Bản mỉm cười nhìn nàng:
- Thời buổi này còn ai gọi dì ghẻ bằng dì nữa. Một là người ta kêu là bà, hai là người ta gọi là chị!
Đoan đứng đón ở cổng biệt thự. Chàng khe khẽ dặn lại một lần nữa:
- Nhớ đấy nhé, coi Liên là vợ mới cưới của tôi nhé. Bà ấy giờ lại có tính đạo đức khó chịu. Nếu bà ấy biết Liên là tình nhân của tôi...
- Thì có lẽ bà ấy đuổi em đi chăng? Có phải thế thì để em ở lại đằng anh Cảnh.
Liên hậm hực thêm luôn. Đoan chữa:
- Không phải thế... Nhưng anh nhận em là vợ càng hay và dễ xử cho em chứ sao!
Nhưng bà trẻ đã đứng trên sân hiên vịn lan can nói ra:
- Chào các ông, xin mời các ông vào chơi.
- Không dám, lạy bà ạ.
Cảnh nhìn lên. Đó là một người đàn bà khoảng bốn mươi mặt trông còn tươi tốt, chưa mang mấy chút dấu vết tàn phá của thời gian. Người đàn bà ấy khi tuổi trẻ, hẳn phải xinh đẹp dịu dàng. Nay tuy má có hơi phinh phình sệ xuống, thân thể có hơi phì nộn nặng nề bà vẫn giữ được điệu tha thướt dễ yêu của một cô gái Huế.
Nhất là đôi mắt phượng trước kia chắc sáng và trong y như đôi mắt của Lan Hương ngày nay. Bà cũng vấn tóc trần như Lan Hương lúc ban chiều.
Cảnh không thấy lẫn những sợi tóc bạc mà có lẽ bà đã để người hầu nhổ đi rất cẩn thận.
Bà quay vào phía trong, gọi:
- Em Hương! Có khách.
Lan Hương khoan thai bước ra, nghiêng đầu chào, rồi từ từ bước xuống vườn, đi ra cổng. Đoan giới thiệu với em:
- Anh Cảnh, anh Bản, anh Thứ bạn của anh, cô Oanh, em của anh Cảnh, còn đây là chị Đoan.
Lan Hương cúi đầu chào từng người sau mỗi lời giới thiệu. Đến lượt Liên, nàng mỉm cười một cách bí mật, khiến Liên không hiểu nàng có ý nghĩ gì về mình. Mọi người lên sân hiên, Đoan đi liền bên Lan Hương, vẻ mặt rạng rỡ, tự phụ là sung sướng có một cô em gái đẹp. Cảnh không tưởng tới tình anh em của hai người. Chàng chỉ thấy Lan Hương đẹp và Đoan bạn chàng có diễm phúc được thân mật với nàng hơn mình, vì thế, chàng bực tức ghen ghét với bạn, và sư bực tức ghen ghét lộ trên mặt chàng, nhất chàng lại nhận thấy Lan Hương như không lưu ý tới chàng, hơn thế, như không biết rằng có một người tên là Cảnh đã khiến được tất cả các thiếu nữ ngoài bãi biển phải cảm động, hồi hộp. Chàng sinh ra ngờ vực cái sức quyến rũ của chàng. Ở hiên, bên cửa ra vào, đặt một cái mắc có gương. Cảnh đứng lại vài giây liếc nhìn bóng mình: chàng thấy chàng dữ tợn quá.
- Các ông cứ ngồi chơi ngoài sân hiên cho mát.
Lan Hương tiếp luôn lời mẹ:
- Dạ, ngồi ngoài terrasse cho mát.
Nàng vặn hai ngọn đèn điện trong hai quả bóng mờ trên lan can. Một làn ánh sáng dịu tỏa ra. Lan Hương đứng xây lưng vào một chiếc bóng đèn. Một đường tia sáng bọc lấy cái đầu vấn tóc, và đánh bóng mờ khuôn mặt đều đặn. Cảnh so sánh nàng với một bức tranh ảnh tôn giáo, và cảm động làm chàng lặng lẽ một hồi lâu trong khi mọi ngươi nói chuyện.
Ai nấy đã ngồi. Cảnh vẫn đứng sững như gắn chân xuống nền xi-măng.
- Kìa mời ông ngồi xơi nước.
Cảnh không nghe thấy lời chào của bà trẻ. Lan Hương ngửng lên thấy Cảnh nhìn trừng trừng thì bẽn lẽn nói:
- Má em mời ông xơi nước.
- Tôi không dám xin mời bà, mời cô.
Chợt nhận thấy mình vẫn đứng vịn tay vào thành ghế, với một dáng bộ buồn cười, chàng vội ngồi xuống nâng chén nước đưa lên môi.
- Thế nào? Anh Cảnh nghĩ sao? Xin cho biết tôn ý.
Câu chuyện đương ở trong phạm vi việc học của phụ nữ. Nhân Thứ hỏi Lan Hương về niên học của nàng, nàng đáp đương ở năm thứ tư thì xin nghỉ, và nàng học cốt để biết, chứ không cốt để đậu bằng nọ bằng kia, mà học gần hết bốn năm cao đẳng tiểu học rồi thì cung như đậu xong bằng thành chung. Bản muốn được lòng ý trung nhân liền cãi rằng Lan Hương nghĩ thế là sai vì thi đậu không phải chỉ cốt để được bằng nọ bằng kia, mà còn để xem học lực của mình đã tới trình độ bằng ấy chưa, và chàng đã tiếp:
- Như cô Oanh chẳng hạn, có phải cô thích được gọi là cô tú đâu, cô chỉ cốt biết chắc rằng trình độ học vấn của mình đã tới mực trung học, thế thôi.
Cảnh đã không nghe thấy một tiếng trong câu chuyện giữa lúc chàng mơ màng nhìn Lan Hương. Nhưng vì thói quen xã giao chàng nghĩ ngay ra được một câu trả lời mập mờ:
- Và chẳng có ý kiến gì về vấn đề ấy cả!
Và chàng nhìn Liên như để cầu cứu. Lan Hương cúi xuống chén nước mỉm cười. Cảnh thấy tất cả sự chế nhạo của một thiếu nữ trong cái mỉm cười bí mật ấy. Sự thực, nàng chỉ cười vì bẽn lẽn, vì thấy có mình trong câu chuyện mà nàng không thích người ta bàn đến mình. Cảnh bỗng trở nên táo bạo: một luồng tư tưởng bất chính vừa chạy qua tâm trí chàng. Chàng đăm đăm nhìn Lan Hương và nói:
- Nếu hỏi ý kiến tôi về Lan Hương thì tôi quả quyết trả lời rằng cô đẹp lắm, đẹp lắm lắm, đẹp dịu dàng, đẹp âm thầm, đẹp huyền ảo.
Cái mỉm cười của Lan Hưang vừa ngừng lại, người ta chỉ thấy trên nét mặt nàng một sự nghiêm trang lạnh lùng. Oanh lo lắng cho sự thật thà của người anh yêu mến liền đỡ lời:
- Ban nãy em quên không giới thiệu với chị rằng anh em là một thi sĩ.
Ai nấy phá lên cười và Lan Hương cũng mỉm cười theo, cười không phải vì câu nói đùa nhưng vì ngượng ngùng. Cái bẽn lẽn, cái ngượng ngùng của Lan Hương, Cảnh vì mất hết sáng suốt chỉ cho là sự ít lời, sự khinh khỉnh đối với chàng, đối với một mình chàng: chàng đã quen thấy mình là trung tâm điểm của những cuộc hội họp, trong đó có phụ nữ.
Chàng sắp sửa thốt ra những câu quá sỗ sàng thì may cho chàng người nhà ra mời vào phòng ăn.
CHƯƠNG 6
Qua năm ngày rồi mà Cảnh không đi xa hơn một bước trên con đường quyến rũ. Lan Hương vẫn điềm nhiên, lãnh đạm. Hơn thế, Lan Hương vẫn như không biết có sự quyến rũ, không biết có sự nguy hiểm quanh mình. Tựa như con chim sơn ca xinh xắn bình tĩnh đứng hót trên đám cỏ xanh tươi, không màng tới con rắn độc đang ngấm ngầm lướt thân dưới cỏ.
Cảnh thì không lý luận nữa, không xét xem như trước rằng nên đem thứ ái tình nào để đối đãi với Lan Hương; ái tình chân thật và lâu dài hay ái tình tạm bợ và ích kỷ. Chàng chỉ mê man yêu và mê man thất vọng đến nỗi vì lười biếng, và nhất là thói quen đắc thắng dễ dàng, chàng đã toan bỏ không theo đuổi Lan Hương nữa, như người đi săn chán nản giữa rừng bỏ một con hươu quý. Chàng nhu nhược tự an ủi: "Chà! Ở đời thiếu gì! Chán vạn cô còn đẹp hơn Lan Hương". Lòng tự ái của chàng bị xúc phạm thì chàng báo thù lại bằng lãnh đạm. Bằng sự khinh bỉ nữa.
Thế nào chàng cũng phải báo thù, và chàng nghĩ ra rất nhiều cách để toại nguyện, cũng như trước kia, chàng tìm cách toại lòng yêu.
Nhưng sáng nay gặp Lan Hương một mình đi từ trên núi xuống, bao ý định tàn ác của Cảnh tiêu tán hết, khác nào làn sương u ám tan đi dưới ánh nắng mặt trời mọc. Chàng cất mũ nghiêng đầu chào. Lan Hương ngả đầu đáp lễ.
- Thưa cô, tôi xin đưa hầu cô về nhà.
- D...ạ.
Tiếng dạ Cảnh nghe như có ý từ chối. Nhưng dịu dàng biết bao! Chàng lại gần sát Lan Hương thì thầm:
- Thưa cô, hình như cô giận tôi lắm.
Lan Hương im lặng trong mấy giây như để nghĩ ngợi kỹ càng rồi nhìn thẳng đáp:
- Thưa không... ông làm gì mà tôi phải giận ông?
- Vì những câu chuyện tôi thuật trước mặt cô... Có lẽ cô cho tôi là tồi... khiếm lễ.
Sự thực, những câu chuyện ấy cũng có phần dữ dội, những câu chuyện mà lúc cao hứng Cảnh đã thuật lại để làm duyên làm dáng với đám phụ nữ. Chính chàng nay cũng nhận thấy mình đã quá táo bạo, quá trắng trợn. Và hơn nữa, không phải chàng không có thâm ý, không có tà tâm. Chàng nhớ nhất sự vô lễ đối với phụ nữ. Hôm ấy, Liên, trước mặt mọi người, nói với Đoan rằng buổi trưa ở ngoài bãi biển có một anh nhìn nàng một cách quá chú ý rồi hắn ta tới gần tán tỉnh: nàng sợ quá, vì bấy giờ bãi biển vắng ngắt mà người kia mắt long lên sòng sọc và cứ sấn mãi lại như có ý muốn ôm chầm lấy nàng; nàng cuống quýt giả vờ tập thể thao cắm đầu chạy miết lên phía đường.
Để mọi người bàn luận chán về vấn đề kính trọng phụ nữ, về sự vô giáo dục của một số ít đàn ông, và khi ai nấy đã trút hết lòng tức giận của mình ra rồi, Cảnh mới thong thả nói:
- Những tư tưởng sáo ấy sai lầm và giả đạo đức ráo. Tôi thì tôi cho rằng cái mà các anh cho là vô lễ đối với đàn bà chỉ là sự trân trọng tuyệt đích đối với họ, vì không có sự tôn sùng nào làm cảm động đàn bà, làm họ tự phụ, làm cho họ sung sướng bằng cách tỏ cho họ thấy mình thèm muốn họ.
Rồi chàng thuật lại câu chuyện Anatole France đã kể cho một người đàn bà quý phái nghe: "Một nàng công chúa Y Pha Nho vào thế kỷ 17 bảo một người bạn rằng một người đàn ông may mắn được gặp nàng ở một mình trong một căn phòng vắng mà ôm nghiến lấy nàng thì nàng sẽ cho đó là một sự xúc phạm lớn đối với nàng và nàng sẽ đâm chết tươi. Tiếc rằng người nàng hầu cứ luôn luôn ở bên cạnh công chúa, khiến công chúa chưa thí nghiệm kịp được sự tôn sùng đặc biệt và tột đích của đàn ông đối với nàng". Câu chuyện đã làm bọn phụ nữ ngượng ngùng im lặng. Nhưng nay nhớ lại, Cảnh còn lấy làm vui thú rằng đã trêu tức được Lan Hương, vì hôm ấy cũng như hôm trước, Lan Hương chỉ đáp lại chàng bằng những lời cứng cỏi, cộc lốc, trong khi nàng nói chuyện rất đậm đà với Bản. Có lẽ vì Bản là ý trung nhân của Oanh mà nàng vừa quen đã bắt đầu yêu mến thân mật ngay. Cũng có lẽ nàng có một ý kiến riêng gì đó. Dẫu sao nàng đã làm cho Cảnh cáu kỉnh và đã kể câu chuyện mà nàng cho là dâm đãng kia.
- Thưa cô, người ta thường nói muốn sống sung sướng cần phải biết quên, cần phải dễ quên. Tôi xem ra cô dễ quên lắm, vậy hẳn là cô sung sướng.
Lan Hương dừng lại ở giữa đường dốc và nhìn qua cành phi lao ra làn nước biển xa. Mơ mộng nàng đáp:
- Cái đó cũng tùy.
Cảnh không hiểu nghĩa câu trả lời. Chàng không rõ Lan Hương muốn nói: tùy từng việc, tùy từng trường hợp hay tùy từng người. Nhưng hỏi lại thì chàng cho là không tiện. Chàng chưa thấy mình rụt rè như thế bên cạnh một thiếu nữ bao giờ, và chàng bực tức tự giận.
Yên lặng kéo dài. Cảnh khó chịu, hỏi cho có chuyện:
- Cô còn ở trong này lâu?
Trái với sự ước đoán của chàng, Lan Hương trả lời rất cặn kẽ. Nàng nói đã nhỏ lại đặc giọng Huế, khiến Cảnh khó khăn mới theo được chuyện. Nhưng chàng sung sướng vì phải luôn luôn ghé gần vào mặt nàng để cố hiểu. Dầu sao chàng cũng nhận được đại ý: Lan Hương sẽ cùng mẹ ở hẳn Sầm Sơn vì nay nàng không bận học nữa. Nàng không thích ở Huế vì Huế buồn lắm, nhất là xa Hà Nội quá. Nàng rất thích Hà Nội vì thấy Hà Nội đẹp lắm, tuy lần cuối cùng ra Hà Nội nàng mới mười hai tuổi. Nàng vẫn còn nhớ những cảnh đẹp của Hà Nội, nhất là hồ Hoàn Kiếm, hồ Tây, Gô-đa, chợ Đồng Xuân; ở Sầm Sơn nàng sẽ ra chơi Hà Nội được luôn, sẽ có nhiều dịp để ra Hà Nội, ra thám cha nàng, ra xem hội chợ, ra dự chợ phiên, ra xem các phòng triển lãm.
Cảnh đã toan cứ im lặng mãi để uống những lời nói êm dịu, thơm tho của nàng. Nhưng bỗng nàng ngừng lại, rồi hỏi Cảnh:
- Thưa ông, Hà Nội bây giờ có thay đổi nhiều không?
- Thưa có, so với sáu năm trước, khi cô ra chơi, thì Hà Nội ngày nay khác hẳn. Biết bao nhiêu nhà kiểu mới mọc lên như nấm. Nhưng chỉ ở hai đầu thành phố mà thôi. Còn hồ Hoàn Kiếm và nhà Gô-đa của cô vẫn như xưa, nhất là hồ Hoàn Kiếm thì bao giờ cũng đẹp, cũng đầy những thiếu nữ xinh tươi, sáng chiều dạo mát quanh hồ...
Lan Hương mỉm cười ngắt lời:
- Nghe nói ông và anh Đoan em quen biết nhiều các cô gái Hà Thành lắm, quen biết thân mật nữa.
Nàng đã gợi lòng tự ái của Cảnh. Chàng sung sướng đỏ mặt. Và chàng ngập ngừng hỏi lại:
- Ai bảo cô thế?
Nàng như nói lảng:
- Anh Đoan em thì tệ quá. Ai lại thân danh ông thầy thuốc, trách nhiệm nặng nề trong tay mà chỉ nghĩ đến chơi bời thỏa mãn, có thể cho thế là có tội với xã hội được.
Cảnh kinh ngạc nhìn Lan Hương:
- Cô đạo đức lắm nhỉ!
- Không phải em đạo đức, nhưng thấy đám thanh niên sống không mục đích hay với mục đích độc nhất là sự chơi bời phóng đãng thì em ghê sợ... cho họ quá, và tiếc cho họ nữa... Những bực thanh niên trí thức như anh Đoan em mà chịu làm việc, làm việc với lòng tín ngưỡng thì... hay biết bao, có ích cho đồng bào biết bao!
Cảnh cho Lan Hương hơi khó chịu. Nhưng liếc nhìn người đẹp đẹp một cách nũng nịu, chàng không thể giận được. Và chàng trả lời đánh trống lảng:
- Anh Đoan chẳng làm việc mà lại là chủ một bệnh viện lớn.
- Làm chủ không phải là làm việc. Còn ông, ông đã nghĩ làm công việc gì chưa?
Lần này thì Cảnh giận thật. Chàng chau mày nghĩ thầm: "Tôi làm gì thì dễ phải nhờ cô dạy bảo chăng?" Và chàng cáu kỉnh đáp:
- Cô hỏi tôi định làm gì à? Thưa cô, tôi định lấy vợ.
Lan Hương thản nhiên như không biết rằng Cảnh nói xược:
- Đối với anh Đoan em thì lấy vợ cũng là một việc khó.
Cảnh mỉm cười:
- Anh Đoan đã có vợ rồi là gì?
Lan Hương cũng mỉm cười:
- Thế gọi là vợ sao được?
Rồi như chợt nhớ ra điều gì, nàng nhìn ra biển nói:
- Em xin lỗi ông, em phải đi đằng này có chút việc.
Nàng trang nghiêm ngả đầu chào. Cảnh đáp lễ rồi đứng lại ngơ ngác nhìn nàng rẽ ra phía biển. Chàng lẩm bẩm nói một mình:
"Kiểu cách và kiêu hãnh". Lòng hiếu sắc của chàng thì thầm tiếp liền: "Nhưng mà đẹp".
Cảnh lững thững trở về nhà, Oanh, Thứ và Bản ngồi ở hiên nói chuyện. Thoáng nghe thấy mấy mẩu câu "bẽn lẽn, dịu dàng... ngây thơ đấy chứ?" Cảnh tiến vào cười mát nói:
- Phải, ngây thơ ăn người.
Oanh hỏi:
- Anh bảo ai cơ?
- Bảo tất cả các thiếu nữ ngây thơ chứ bảo ai!
- Cả em?
- Em không ngây thơ, vì em thẳng thắn, không kiểu cách, không đạo đức giả, không đoan trinh rởm, không...
Cảnh ngừng lại, không tìm được chữ tàn tệ hơn. Oanh hỏi:
- Gì nữa?... Không biết anh tức tối ai thế?
Cảnh ném mũ lên trên mắc. Chiếc mũ dạ rơi, chàng cũng không buồn nhặt, lại ngồi phịch xuống ghế, hằn học nói:
- Chẳng tức ai cả, nhưng mai về Hà Nội.
- Mai về Hà Nội? Tại sao thế?
- Tại chán Sầm Sơn, năm hôm rồi còn gì mà chẳng chán!
Oanh cười:
- Thế mà em cứ tưởng ai chán thì chán chứ anh không thể chán Sầm Sơn được đấy.
- Sao anh lại không thể chán Sầm Sơn được?
- Vì ở Sầm Sơn có một người lưu ý đến anh một cách rất cảm động.
Cảnh mỉm cười, hy vọng:
- Người ấy là ai thế em?
- Là ai, anh thừa biết lại còn vờ hỏi.
- Anh không biết thực đấy mà.
Cảnh vừa trả lời, vừa ra cúi nhặt mũ treo lên mắc. Sự sung sướng đột nhiên và bồng bột làm chàng hối hận rằng mình đã có những ngôn ngữ và cử chỉ cáu kỉnh vô lý. Oanh đứng dậy đi ra vườn, cốt không để Bản và Thứ nghe được câu chuyện kín của anh. Cảnh theo em ra, hỏi:
- Lan Hương, phải không em?
- Chứ còn ai vào đấy nữa!
- Lan Hương có nói gì về anh không?
- Lan Hương có nói nhiều lắm. Chẳng hạn Lan Hương bảo anh cần phải lấy vợ ngay.
Cảnh cười:
- Bậy.
- Thực đấy mà, Lan Hương bảo anh đương cần phải có một người đàn bà kèm bên cạnh, hoặc một người đàn bà yêu anh sâu xa, nghĩa là một người mẹ, hoặc một người đàn bà âu yếm và thành thực thương anh, nghĩa là một người vợ, vì hiện anh đang ốm, ốm nặng phải hết sức chăm nom, săn sóc, anh mới khỏi được.
Cảnh vờ trang nghiêm:
- Không có thì anh chết?
- Tệ hơn thế, anh sẽ truy lạc.
- Lan Hương bảo em thế?
- Lan Hương còn bảo... Nhưng thôi để anh được yên thân mà về Hà Nội.
Cảnh cười ngượng nghịu:
- Em cứ nói: Có lẽ anh chưa về Hà Nội đâu.
- Thực nhé! Vậy Lan Hương bảo một trí thức và một tâm hồn không tầm thường, khi đã xuống thì xuống không biết đến đâu là cùng.
- Nghĩa là Lan Hương cho rằng anh có một trí thức và một tâm hồn không tầm thường!
Thứ đứng tựa lan can, nói lớn:
- Chuyện gì mà bí mật thế, cô Oanh?
Oanh bảo Cảnh:
- Thôi đi vào, không họ lại ngờ vực anh.
Và nàng chạy về chỗ cũ. Cảnh thong thả đi theo vào, lòng bất mãn, vì chàng còn khao khát nghe em nói đến Lan Hương. Luôn mấy hôm chàng thường gọi chuyện Lan Hương. Thà nghe người ta gièm pha Lan Hương còn hơn là lúc nào cũng lặng lẽ âm thầm, đầy Lan Hương trong lòng, mà không được ai trò chuyện. Bản thực thà hỏi Cảnh:
- Anh về Hà Nội?
Cảnh cố làm ra vẻ tự nhiên:
- Vâng, tôi định mai về, nhưng cũng chưa lấy gì làm chắc.
- Anh về thì chúng tôi xin cũng về.
- Thế thì tôi không về vội, để các anh ở lại chơi. Phải không, em Oanh?
- Phải lắm. Vậy mời anh ngồi chơi xơi nước mà nghe một câu chuyện triết lý của nhà văn Lê Thứ; nếu anh Thứ không còn nhớ, chỗ nào ngừng lại, em sẽ nhắc. Hình như anh nói những đức tính bẽn lẽn ngây thơ cũng chỉ là một thứ vỏ dày để bọc lấy cái tôi.... Rồi gì nữa?
Thứ mỉm cười:
- Vâng chính thế. Anatole France nói...
Cảnh vội reo:
- Anatole France vạn tuế! Nhưng bây giờ, trời đẹp lắm. Và tôi sung sướng quá. Tôi chắc em Oanh và các anh cũng cùng một cảm tưởng như tôi. Vậy xin anh Thứ hãy tạm gác Anatole France của anh lại mà ra bãi biển, chúng ta cùng nhau tắm ánh nắng và thở không khí trong sạch.
Tiếp liền, chàng cất giọng ca huyên thuyên chẳng theo một nhạc điệu nào:
"Cùng nhau ta tắm ánh mặt trời.
Hô hấp làn không khí thảnh thơi".
Và khoác hai vai bạn dìu ra đường.
Oanh theo sau lắc đầu lẩm bẩm:
- Đến dễ buồn nản! Cũng đến dễ vui sướng!
CHƯƠNG 7
Sau bốn tháng, biết bao sự thay đổi trong đời thể chất cũng như trong đời tinh thần của Cảnh. Hai sự rõ rệt nhất là hai cái kết quả bất ngờ. Một là Cảnh sắp lấy vợ và vị hôn thê của chàng là Lan Hương. Hai là Cảnh đã thi đậu xong bằng cử nhân. Chàng hầu như thề suốt đời theo chủ nghĩa độc thân, thì nay chàng lập gia đình. Chàng nhất định làm sinh viên mãi mãi thì nay chàng đã tốt nghiệp và từ giã trường Luật.
Nhưng sự thay đổi lớn nhất là sự thay đổi tính tình. Lười biếng bề bộn, Cảnh trở nên chăm chỉ, ngăn nắp. Nhẹ dạ, chàng trở nên thận trọng, trang nghiêm, và chàng cho ngay rằng ái tình đã dấy một cuộc cách mệnh quyết liệt trong người chàng. Từ nay với một tâm hồn mới, chàng sẽ sống một đời mới cùng một người vợ yêu mến với đàn con ngoan ngoãn, nết na mà sau này, chàng sẽ có và sẽ đem hết cả kinh nghiệm ra nuôi nấng, dạy dỗ. Đời phải đâu chỉ có một mục đích chơi bời ồ ạt như chàng vẫn tưởng. Cảnh cảm thấy mình sung sướng hơn trước nhiều. Trước kia chàng cũng sung sướng nhưng đó là sự sung sướng huyên náo, không một chút trật tự, trái hẳn với sự sung sướng bình tĩnh, có nghĩa lý, có suy xét, nhất là không bợn vẩn đục của cuộc đời giả dối.
Có được những tính tình trong trẻo ấy và cái quan niệm lành mạnh ấy về đời sống, vẫn biết đó là công của ái tình. Nhưng chí khí không phải đã không dự vào một phần lớn, chí khí tiềm tàng chưa mất hẳn.
Khi thấy không quyến rũ Lan Hương được bằng sự trẻ trai, bằng sự xa hoa và lịch thiệp, Cảnh đã đổi chiến lược, đem ái tình lãng mạn thay vào ái tình vật chất. Chàng nghĩ thầm:
"Dẫu đi đường nào rồi cũng đến chỗ kết cục, là cuộc gặp gỡ của bao cặp môi, của hai xác thịt".
Và chàng bắt đầu thi hành cái chương trình giảo quyệt của chàng: viết cho Lan Hương những bức thư đi từ sự kính trọng lễ phép tới sự yêu đương nồng nàn. Lan Hương đáp lại bằng những lời trước còn lãnh đạm, sau dần dần trở nên thân mật tuy vẫn đoan chính và có khi đạo đức nữa, điều mà thoạt tiên Cảnh không thể tha thức cho Lan Hương được. "Ai lại mới mười tám tuổi đầu mà đi thuyết đạo đức bao giờ!" Song những bức phúc thư của chàng lại có những lời đạo đức gấp bội. Đọc lại thư trước khi gửi đi, chàng cười lớn nghĩ thầm: "Cần gì đạo đức hay giả đạo đức, quý hồ được Lan Hương".
Chính sự đùa nghịch ấy, chính cái mưu cơ ấy đã đưa Cảnh đến một kết quả bất ngờ: chàng đã thành thực yêu Lan Hương, yêu một tâm hồn đẹp đẽ như chàng đã yêu một thân thể đẹp đẽ. Rồi để tỏ với Lan Hương rằng mình không phải là người như Lan Hương tưởng lầm, chàng đã quả quyết trở lại với đời sống thanh khiết và có trật tự mấy năm trước.
Nhớ lại những tháng vừa qua, Cảnh còn tưởng đó là một giấc mộng: xưa nay chàng vẫn có thói quen chiêm bao như thế: hễ ban ngày chàng làm một điều xấu, một điều ác thì ngay đêm hôm ấy, trong một giấc chiêm bao trái ngược, chàng trở nên một người phi thường, chuyên làm điều thiện. Một lần chàng lừa dối một thiếu nữ ngây thơ quá tin những lời khéo léo của chàng, tức thì chàng mộng thấy mình vì muốn cứu thoát một thiếu nữ mà phải đánh nhau với mười tên du đãng; kết cuộc chàng thắng và đem được người bị nạn đến trả cha mẹ nàng.
Cảnh cho đó là việc làm của tiềm giác. Nhưng lần này, chẳng lẽ những việc xảy ra trong bốn tháng vừa qua đều đã do tiềm giác chỉ huy, và chẳng lẽ mình mộng liên miên như thế, và như thế mãi. Cảnh chợt như tỉnh trong một giây và lo lắng nghĩ thầm:
"Nếu Lan Hương đã không cương quyết, nếu Lan Hương đã dễ dàng... thì... trời ơi!"
Chàng không dám nghĩ tiếp, sợ xúc phạm đến người yêu đáng kính. Tâm trí chàng rời Lan Hương ra để tự giải phẫu bản năng của chàng, và chàng tự phụ kết luận: "Chẳng lẽ bản ngã mình lại kém cỏi đến nỗi một sự kích thích của ngoại vật đã có thể biến cải được. Không, quyết không, sao ta lại không có thể có một căn bản tốt đẹp, một chí khí vững vàng; chính thế, chính nhờ về chí mạnh mẽ mà ta đã thành công được trong cuộc cách mệnh khó khăn của tâm hồn ta".
Để chứng thực điều đó, Cảnh nhớ lại buổi đi thăm trại thanh niên. Đêm hôm trước chàng thức suốt sáng, lòng băn khoăn ngờ vực, khổ sở. Chàng ngờ vực tất cả những hành vi và những ý định tốt đẹp của chàng. Chàng tự cho mình là giả dối, hơn thế, là tự lừa dối mình. Người ta chỉ thành thực khi nào người ta vâng theo mệnh lệnh của xác thịt. Người ta tự kìm lại? Không, người ta không thể thành thực tự kìm lại bao giờ. Người ta giả dối. Mà giả dối như thế để làm gì? Để rồi tự phụ rằng mình đã làm nổi một việc phi thường. Thì bao nhiêu sự phi thường chỉ toàn là những sự giả dối cả. Giả dối như thế để ăn mày lấy một tiếng khen, của người và của chính mình. Mình tự khen mình tức mình đã giả dối, lừa đảo mình.
Trong phút ấy, Cảnh thấy rõ rệt rằng giả dối để được tiếng khen không bằng cứ để bản ngã tự phô diễn ra, nó xấu thì tự nhiên nó xấu, mà nó tốt thì tự nhiên nó tốt, che đậy mà làm gì? Và Cảnh cho ở đời không có cái gì tốt và xấu, chẳng qua chỉ ở sự xét đoán cố hữu và sai lầm của loài người từ mấy nghìn năm nay. Cảnh nhẩm lại những tư tưởng của Lão Tử, nhất là nhớ lại từng trang của Anatole France và sau hết quay về với tình nhục dục của con người.
Vì sao lại cho nó là xấu xa. - Chàng thầm luận lý - nó là căn bản của vạn vật, nó là điều kiện cốt yếu của nhân loại; không có nó thì loài người đã bị tiêu diệt từ lâu rồi. Sao lại bài xích nó, coi nó là xấu xa. Không, trái lại, nó rất đẹp đẽ, và ở đời chỉ có nó là thật, là ái tình chân thật, là ái tình như Anatole France đã nói.
Thì ra chỉ vì sự giả dối mà chàng đã sống xa cái đời "thực tế" của chàng, sống xa cái tính nhục thể trong bấy lâu nay. Chàng chợt nghĩ tới câu cách ngôn Âu Tây khuyên người ta nên luôn luôn "bắt con vật phải câm mồm".
Chàng thấy việc ấy rất khó khăn. Khi người ta khát thì người ta phải uống. Sao, khi con vật nó đòi thỏa mãn, người ta lại không cho nó thỏa mãn?
Ý nghĩ ấy làm Cảnh rùng mình tưởng tới cái di sản tinh thần của chàng. Ông chàng thủa xưa lấy tới sáu vợ và ngoài sáu mươi tuổi còn say mê một cô gái quê mười tám. Cha chàng thì có một vợ thôi, và tuy góa lúc còn trẻ mà vẫn không tục huyền nhưng đó là những cớ của một đời sống khoái lạc. Không tục huyền không phải là không đi sâu vào con đường tình dục. Trái lại thế; vậy thì luồng máu phóng đãng đương cháy, đương bồng bột chảy trong huyết quản của mình, ngừng lại làm gì, mà ngừng lại sao được?
Nghĩ đến cha, Cảnh cảm thấy mình yêu cha lắm, vẫn biết cha có hai cái tính cách biệt hẳn nhau, trái ngược hẳn nhau, có thể nói cha là hai người không giống nhau một chút nào; một người làm giàu và một người chơi bời. Nhưng Cảnh chỉ biết có người sau mà không bao giờ gần người trước. Thoáng thấy cha bàn bạc, gắt gỏng bọn làm công, hay tính toán tiền nong với bọn khách hàng là Cảnh lảng xa ngay; cũng có lần Cảnh giúp đở cha hay nhân dịp đi Sầm Sơn nghỉ mát, chàng rẽ vào một vùng xem hộ cha cái đồn điền dạm bán. Thế thôi! Chàng tịnh không tha thiết để ý đến công việc làm ăn của cha bao giờ. Chỉ một lần vì thấy cứ phải chìa tay xin cha từng chục từng trăm để tiêu vặt, chàng với em gái yêu cầu cha chia của cho các con để được sống riêng, sống một cách tự do hơn. Người cha cười bảo con trai:
- Để chờ khi nào anh có vợ đã. Nay thì tôi cứ cho anh mỗi tháng một trăm, tùy ý muốn tiêu gì thì tiêu mà không tiêu thì để dành cũng được. Tiền ấy tôi sẽ trừ vào phần gia tài của anh sau này.
Cảnh cho thế cũng tiện, và đã ba năm nay chàng sống với số tiền tháng ấy, không kể những món tiêu lớn bất thường mà chàng xin cha.
Đó là người cha căn cơ, cần kiệm mà chàng thấy hơi bủn xỉn vì đã từng mè nheo với chàng vài ba chục bạc. Chàng cho cử chỉ ấy không thể tha thứ được, nhất là khi người ta lại thu lợi đồng niên có tới ba, bốn vạn, và gần đây, nhờ về sự đầu cơ, lãi tới vài chục vạn trong vòng dăm sáu tháng. Cảnh cũng không oán trách cha: Chàng chưa hề bị thiếu thốn bao giờ.
Đó là điều chính, ngoài ra, không có chi đáng kể.
Cảnh thấy mình nghĩ lan man xa quá, lại quay về với sự băn khoăn đã nhóm lên và đã âm ỷ cháy, sự băn khoăn của quãng đời quá khứ, hồi chàng muốn tự sát, nay bỗng trở về với chàng, trong một đêm mất ngủ, sự băn khoăn về ý nghĩa đời người. Nếu sống, chỉ là sống, chỉ là thỏa mãn tình dục, thì việc làm mà chàng đương tự bắt buộc theo đuổi không phải là sống. Và chàng cảm thấy toàn thể chất bồng bột nổi lên, và hình ảnh Lan Hương mờ dần trong ký ức.
Chính sau một đêm huyên náo ấy - sự huyên náo của lòng chàng đã che lấp sự huyên náo của biển cả, nước trào dâng, - chính sau một đêm dữ dội ấy, chàng nhớ tới câu hỏi của Lan Hương: "Anh đi xem trại thanh niên chưa?" Cái trại thanh niên mà chàng đã nghe nhiều người nói đến, và chàng đã hầu quên nhãng, chợt gợi tính tò mò của chàng trong khi chàng đương băn khoăn về đời sống của mình và có lẽ đương thực hành một cuộc thí nghiệm. Hay đó lại cũng là một sự khoa trương, một sự giả dối.
Cảnh muốn gặp mặt bọn họ ngay, muốn nói chuyện với họ để biết ý tưởng và quan niệm của họ về cuộc đời, và xem họ có quả thực là hạng người chí khí như những lời đồn đại không. Buổi sáng hôm ấy trời mát; nhưng vì đêm trước không chợp mắt nên Cảnh ra đi với lòng chán nản và chân tay mỏi mệt. Chàng phải đem hết ý chí ra mới thắng nổi được lòng do dự và tới được đích sau hơn hai giờ cuốc bộ.
Bọn cắm trại tất cả hai mươi người, hai mươi tấm thân hùng tráng đầy những bắp thịt rắn chắc dưới lớp da rám nắng màu nâu già, hai mươi pho tượng đồng mắt cua. Người đoàn trưởng, Cảnh mới quen biết trong kỳ thi luật hồi tháng bảy vừa rồi, đến bắt tay Cảnh, dắt chàng đi xem bảy cái lều vải căng thẳng một dãy trên bãi cỏ, dưới bóng rặng phi lao, rồi đưa chàng tới trường luyện tập thân thể. Trường mới lập được có một tuần lễ thành một trường tập có đủ các khí cụ tự các học viên chế tạo ra để luyện tập thân thể và có một con đường giải cát chạy vòng quanh ngăn từng đoạn bởi những ụ đất, những hào nước, những hàng rào bằng gỗ, để các lực sĩ nhảy qua. Lần lượt mỗi người chạy một vòng, và trong số, có bốn năm người không vượt qua được một vài hàng rào chắn ngang.
Lòng tự phụ của Cảnh bị kích thích, và tuy còn mệt mỏi, chàng cũng nỗ lực chạy hết một vòng. Khi chàng dừng lại, mặt chàng tái mét, chân chàng run lẩy bẩy, và chàng nằm sóng soài ra đất thở hổn hển.
Lúc rời trường tập về trại, Tuyên - tên người đoàn trưởng - đi bên Cảnh và bảo chàng: "Luyện thân thể là việc phụ, việc chính là luyện chí khí. Tập trôi lọt được hết các môn thể thao phỏng có khó khăn gì, ai rồi cũng tới được. Nhưng ít người có thể bắt thân thể, tự bắt mình phải luôn luôn làm việc theo mệnh lệnh khắc nghiệt của mình, mà mình đã tuyên lên như một lời thề. Sống chỉ là tuân theo mệnh lệnh của chính mình hay bạn mình. Sống chỉ là thi hành một chương trình mà chính mình hay bạn mình đã vạch sẵn".
Cảnh mỉm cười hỏi: "Còn sống theo lòng dục vọng, sống theo sự ham muốn của xác thịt".
Tuyên dõng dạc và trang nghiêm trả lời:
- Thế không phải là sống, thế là chết, là đi tới truy lạc, đi tới chỗ diệt vong của thân mình, và của nòi giống.
Chính để chống lại sự sống giả dối ấy, sự sống lười biếng và ích kỷ của bọn chỉ nghĩ tận hưởng khoái lạc, mà chúng tôi họp nhau lại để sống dưới kỷ luật nghiêm khắc, trong những công việc nặng nề.
Chiều hôm ấy, Cảnh từ biệt bọn cắm trại trở về nhà, trí giác ngộ, lòng sung sướng.
Chàng bắt đầu nhận định sáng suốt và tự nhủ thầm: "Phải, nếu sống theo dục vọng thì có khác gì sống như con vật. Sự sống của con người phải cao hơn thế một bậc".
Chính cuộc thám trại thanh niên đã rèn luyện chí khí Cảnh và đã giúp một phần vào sự biến cải tâm hồn chàng. Sự biến cải ấy, ái tình của Lan Hương chỉ gợi ra, nhưng nếu không có một chí khí mãnh liệt thì chàng từ giã sao được cái đời truy lạc mà chàng đã dấn thân vào khá sâu; thì chàng phá sao nổi cái vỏ dầy những dục vọng, những ích kỷ nó bọc kín mít lấy cái tôi rỗng tuếch, cái tôi nghèo nàn; thì bao giờ tâm hồn chàng thoát ra được ngoài vòng cương tỏa mà thênh thang bay lên không trung gõ cùng một nhịp, ca cùng một điệu với thiên nhiên. Ôi! Điệu ca khải hoàn! Ý nghĩ ấy làm Cảnh vui sướng và bồng bột yêu đời, cái đời mới vừa bắt đầu ở ngoài và ở trong chàng, một đời thanh cao đáng sống, và lòng chàng rung động, xao xuyến về sự biết ơn. Chàng cảm ơn bọn thanh niên, cảm ơn Lan Hương, tự cám ơn mình.
Cảnh thấy người nhẹ nhõm như dương cánh bay lên thinh không, và chàng tự hứa ngay hôm sau sẽ bắt đầu một chương trình "sống" nghiêm khắc hơn nữa. "Bây giờ thì viết cho Lan Hương một bức thơ để đánh dấu cái phút sung sướng này".
Cảnh lấy giấy bút viết:
"Hà Nội, ngày...
Em Lan Hương yêu quý.
Anh đã tìm thấy lẽ sống của anh! Lẽ sống của anh là em..."
Vừa viết đến đây thì có tiếng chuông điện gọi cổng. Tưởng cha về, Cảnh ra cửa sổ nhìn xuống. Trong ánh đèn ngoài đường, chàng nhận thấy một người đầu trần, mặc áo quần trắng dài và có vẻ vội vàng hấp tấp lắm, vì có chừng vài chục giây đã bấm tới ba hồi chuông.
Cảnh yên lặng đứng chờ đợi, tim đập hơi mạnh và mau, lạ lùng quá! Chàng đoán như có việc gì quan hệ sắp xảy ra cho chàng. Một lát, người đày tớ thong thả đi ra cổng, sỏi kêu ràc rạo dưới bước chân uể oải. Người lạ hình như sốt ruột lắm, cất tiếng gọi: "Mau tôi nhờ một tý, cậu!"
Cảnh mong đầy tớ mở cổng đưa người kia lên, nhưng chàng thất vọng khi thấy nó quay vào một mình. Chàng gắt gỏng thét lớn:
- Tý? Sao mày không mở cổng cho người ta?
Tý luống cuống đáp:
- Con định hỏi xem cậu có tiếp không đã.
- Có, đưa ngay người ta lên đây.
Một lúc sau, người lạ theo Tý lên gác, vào phòng; Cảnh nhớn nhác hỏi:
- Có việc gì thế... ông?
Người kia mỉm cười, khiến Cảnh hơi yên lòng:
- Thưa ông, ông là ông Cảnh, ông Nguyễn văn Cảnh?
- Phải, chính tôi, ông muốn hỏi gì tôi?
- Vậy mời ông đi ngay, ông Lộc cho tìm ông.
Cảnh ngơ ngác:
- Ông Lộc! Ông Lộc! Tôi chỉ quen có ông Trí Lộc. Nhưng ông ấy qua đời rồi.
- Vâng chính đấy, chúng tôi có biết ông đâu. Chúng tôi phụ đồng chén kiều ông Lộc lên. Ông ấy bảo tìm ông đến nói chuyện ngay, lại cho biết cả phố và số nhà ông ở. Vì thế tôi mới đến được đây.
Cảnh cố nhịn cười hỏi:
- Đến ngay bây giờ?
- Vâng xin ông đến ngay cho, vì ông Trí Lộc có vẻ khẩn khoản mời ông lắm.
Cảnh nhìn đồng hồ. Gần mười giờ khuya. Người kia lại thúc giục:
- Ông đi ngay chẳng trời sắp mưa.
Thực vậy, từ nãy Cảnh đã nghe từng hồi tiếng sấm kéo dài ầm ỹ.
Chàng thấy sự mời đi dự phụ đồng đột ngột, hay hay, bí mật nữa, lặng mở cửa phòng cùng người lạ đi ra phố.
CHƯƠNG 8
Đi được một quãng xa, Cảnh mới kịp hỏi người khách lạ:
- Nhưng ông là ai đã.
Người kia ngập ngừng:
- Tôi đấy à?... Tôi có nói tên, ông cũng không biết được...
- Ông ở tận đâu?
- Tôi ở phố Quan Thánh.
- Tận phố Quan Thánh. Sao ông không bảo ngay để tôi đánh ô-tô đi cho mau.
- Vậy mời ông đi xe cho chóng.
Rồi người lạ gọi hai cái xe kéo.
Chàng nghĩ thầm: "Y như chuyện trinh thám... Biết đâu người lạ mặt này lại không đưa ta đến một cái bẫy chuột?"
Như để yên lòng áy náy của Cảnh, người lạ quay sang nói:
- Mời ông đi đột ngột thế này, nhất chúng tôi lại chưa quen biết ông, thực là không phải với ông lắm. Xin ông tha lỗi cho.
Cảnh vẫn lặng thinh. Người kia lại nói:
- Chỉ tại cái ông Lộc. Với lại cũng lại Hảo nữa.
Cảnh chẳng buồn hỏi Hảo là ai.
- Thực làm phiền ông quá. Hảo giục tôi đi ngay. Đây này, ông coi tôi có kịp mặc quần áo đâu.
Cảnh mỉm cười nghĩ thầm: "Chẳng mặc quần áo thì để trần truồng!" Ý chừng để tỏ với Cảnh mình không phải hạng người mà chàng có thể đoán lầm theo y phục lôi thôi, người ấy tiếp:
- Thưa ông, tôi là giáo sư một trường tư thục.
Rồi sau khi bảo xe đỗ, chàng trỏ một tòa nhà gác có vườn cây bọc, bảo Cảnh:
- Đến nơi rồi. Ông coi! Có xa mấy đâu!
- Từ đầu thành phố tới cuối thành phố lại còn bảo không xa mấy!
Tới cổng, hai cánh sắt hé mở. Cảnh theo người lạ đi vào một lối hai bên trồng toàn hoa xác pháo. Chàng hơi kinh ngạc hỏi:
- Nhà ông đây?
- Vâng, tôi ở đây với cô tôi. Nhà này là nhà cô tôi. Trước vẫn cho người Tây thuê. Từ ngày cô tôi lên ở Hà Nội mới lấy lại.
Tiếng cười ầm ỹ từ phòng khách bay ra.
Qua cửa sổ lớn mở rộng. Cảnh thấy lố nhố năm, sáu người, hoặc đứng hoặc ngồi, ai nấy như chú ý vào câu chuyện một người đương kể.
Trong số người đứng có hai thiếu nữ vận áo màu trắng. Cảnh rướn nhìn. Hai thiếu nữ cùng quay lưng ra phía cửa sổ, một vấn tóc và một búi tóc.
Vòng qua một hàng hiên ăn ra cái sân cao vuông rộng, lót gạch hoa, và có giàn cây leo, hai người tới cửa phòng, người lạ tiến thẳng vào. Còn Cảnh đứng đợi phía ngoài bức rèm ren vuông, đăm đăm nhìn thẳng vào sau gáy thiếu nữ vấn tóc.
- Cô Hảo! Ông ấy đã đến.
Thiếu nữ quay lại. Những người ngồi đứng cả dậy, Cảnh giật mình. Cảm giác đầu tiên của chàng là mỹ nhân có quen biết chàng. Chàng nghĩ thầm: "Quái! Người này ta đã gặp ở đâu một lần". Nhưng chưa kịp nhận kỹ hơn thì người ấy tiến ra phía cửa, lễ phép chắp hai tay vào ngực, cúi đầu chào "Cái chào mới dễ yêu!" Cảnh thầm bình phẩm.
- Thưa ông, lời thứ nhất của tôi là một lời xin lỗi. Tôi mời ông đến chơi mà không quen biết ông một tí nào, lại mời một cách quá ư đường đột và... khiếm lễ.
Cảnh lơ đãng nghe những lời trầm trầm, nhè nhẹ trong khi mắt chàng đi đi lại lại từ khuôn mặt trái xoan tới cái thân hình vừa tha thuớt vừa nở nang trong y phục xa tanh trắng.
Cái nhìn thẳng thắn của cặp mắt to, sáng và hơi xếch qua mi dài, trong cái quầng xanh dưới đôi mày bán nguyệt như mỉm cười với chàng. Và cái cười của cặp môi chúm chím như xoắn lấy chàng. Một điểm kín mà thoạt tiên chàng nhận thấy trên khuôn mặt rạng rỡ như bông hoa vừa nở ra ấy là đôi gò má hơi cao, nhưng nhìn kỹ thì trái lại, đó là một điểm đẹp. Mắt ấy, miệng ấy, phải có gò má ấy, nếu không sẽ không được người ta lưu ý.
Tóm lại, Cảnh thấy tất cả các thứ đều ăn điệu nhịp nhậng như một bài âm nhạc tuyệt diệu: diện mạo cũng như thân thể và dáng điệu.
Thấy ông khách lặng yên nhìn mình, thiếu nữ lại nói tiếp:
- Xin lỗi ông một lần nữa, và xin mời ông vào chơi.
Cảnh như bừng tỉnh một giấc mộng, lịch thiệp đáp:
- Thưa cô, một người đẹp không bao giờ có lỗi, nhất là đối với bọn đàn ông chúng tôi. Một mệnh lệnh của mỹ nhân ban ra phải được bọn bầy tôi trung thành vâng theo răm rắp. Vậy tôi ước ao sẽ được là một trong đám cận thần của đức hoàng hậu nhan sắc.
Một tiếng cười vui thú đáp lại, và một bàn tay thân mật đưa ra, một bàn tay mát dịu trong bàn tay nóng bừng của Cảnh. Thiếu nữ khẽ nói:
- Ông sao thế? Ông sốt?
Cảnh mỉm cười nồng nàn, đáp vắn tắt:
- Không ạ.
- Tôi xin giới thiệu ông...
Cảnh bấy giờ như mới chợt nhớ ra rằng ở trong phòng, ngoài thiếu nữ ra, còn có nhiều người khác. Chàng đưa mắt nhìn một vòng. Toàn những người lạ mà hình như chàng đã gặp nhiều lần trên hè phố hay ở những nơi hội họp nào đó.
- Chị Thúy Nga, bạn tôi...
Thúy Nga là một thiếu nữ nhỏ nhắn, không đẹp nhưng cũng không xấu, vẻ mặt dễ dàng, nết na, phục tòng.
- Anh Hoàng văn Giáp, thi sĩ... tác giả "Tâm hồn tôi". Anh Nguyễn Luyện, nhà tiểu thuyết trứ danh... Anh Trần Đình Kiên địa chủ... Còn đây là giáo sư Vũ văn Hoằng người anh con cô con cậu ngoan ngoãn của tôi mà tôi rất cám ơn đã đi mời được ông giúp tôi.
Đôi bên bắt tay xin giới thiệu vì chưa có hân hạnh được quen biết một ai ở đây. Cảnh tự giới thiệu:
- Tôi là Nguyễn văn Cảnh, vô nghề nghiệp.
- Và tôi, Đặng thị Hảo cũng vô nghề nghiệp.
Cảnh gán cho mấy tiếng "cũng vô nghệ nghiệp" của Hảo một ý nghĩa thân mật, hơn thế, một ý nghĩa ám muội. Ngay lúc mới thoạt gặp mặt nàng, Cảnh đã nghĩ đến tội lỗi rồi. Và chàng cảm thấy sâu xa, trong cùng tận thâm tâm, rằng hai người vừa hứa hẹn với nhau âm mưu một việc thầm kín.
Thiếu nữ quay đi như để tránh cái nhìn tò mò của Cảnh:
- À, mà chưa nói cho ông biết tại sao chúng ta mời ông đến nhỉ.
Hoằng đáp liền:
- Đã, anh đã nói với ông rằng ông Lộc mời ông.
Hảo cười vui vẻ:
- Anh nói thế thì ông Cảnh hiểu sao được. Thưa ông thế này. Chả ông Lộc có họ với anh Luyện. Ban nãy anh Luyện kiều ông Lộc lên, thế rồi ông Lộc bảo tìm ông đến nói chuyện.
Cảnh đáp:
- Thưa cô, tôi có quen biết ông Lộc. Ngày ông ấy mất tôi cũng đi đưa đám. Nhưng tôi thực không ngờ vì thế mà tôi được hân hạnh ông gọi đến ra mắt cô hôm nay.
- Vậy lại xin sang phòng bên.
Phòng bên là phòng khách riêng của Hảo, nhỏ chỉ bằng một phần tư phòng khách chính và bài trí ngược hẳn. Một đàng tham bác lẫn Tây, Tàu, Nhật và An Nam: bên bộ tủ chè, sập gụ khảm, bên một bộ salon gỗ trắc kiểu Louis XV. Trên tường đĩa cổ treo nhan nhản cùng với đôi kiếm và đôi quất vỏ khảm xà cừ; dưới đất, sát chân tường đặt ngổn ngang những chậu, thống, đòn và chóe đời Minh Thanh Hóa, Gia Tinh và đời Thanh Khang Hy, Càn Long. Hai bên sập và đứng đối nhau một tủ rượu kiểu Nhật và một cái giá gỗ giả trúc, kiểu Tàu. Trong tủ và trên giá bầy rất nhiều những vật báu: ngọc, ngà và sứ. Giữa nhà, treo trên tủ chè bức ảnh phóng đại một vị quan già vận trào phục. Sau hết, ở ngay cửa vào, đặt ngang một cái giá lộ bộ với đủ các đồ binh khí thời xưa: chùy, phủ, việt, kích, thương, bát xà mâu, thanh long đao.
Còn một đàng thì hoàn toàn bài trí theo Âu Mỹ: ghế dựa gỗ lát đánh bóng, thấp rộng và có nệm lò xo; thảm Ba Tư cổ; trên tường treo bức vẽ chính Hảo đứng bên bình hoa sen. Ở một góc phòng, một cái lọ men xanh với những hoa lai-ơn màu trắng. Tất cả mọi vật đều dịu dàng và nhịp nhàng dưới làn ánh sáng tản mạn của những ngọn đèn điện ẩn khuất trong tường.
Thấy Cảnh chăm chú nhìn căn phòng đẹp của mình, Hảo không giữ nổi lòng tự phụ, mỉm cười bảo chàng:
- Đó là công trình của họa sĩ Hoài Giang. Cả bức hình cũng vậy, còn bức phong cảnh thì người ta cho. Nhưng chúng ta bắt đầu thôi.
Hảo ngồi xuống một chiếc ghế và đặt tay lên một cái bàn vuông thấp.
- Bây giờ em ngồi đồng.
Mãi bấy giờ Cảnh mới kịp nhìn thấy ở trên bàn một tờ giấy bìa có đầy những chữ hoa viết trong những khuyên tròn; phía dưới và chính giữa một cái khuyên tròn to hơn, trên úp một cái chén trắng nhỏ có quai, nối liền với một cái khuyên tròn tương tự ở phía trên bằng một cái gạch kẻ đỏ chia tờ giấy bìa ra làm hai phần bằng nhau. Một gạch đỏ nửa kẻ ngang trên nét gạch kia như nét ngang chữ T mà hai đầu có hai cái khuyên tròn bọc lấy hai chữ "có" và "không".
Hảo nhìn xuống tờ giấy bìa mỉm cười và nhẹ nhàng đặt ngón tay trỏ lên trên chén. Trong khi ấy Hoằng đánh diêm châm ba nén hương nhỏ cắm vào cái lọ bé xíu, cái lọ dùng để cắm bàn chải móng tay. Cảnh ngắm vẻ mặt bình tĩnh và tươi sáng của Hảo qua sợi khói uốn éo cất lên và chàng mơ màng đứng trước tượng đức Phật Quan Âm. Lời nói của Luyện càng làm tăng cảm tưởng ảo huyền ấy, vì Cảnh nghe Luyện hỏi: "Hồn có truyền bảo điều gì không ạ?"
Tức thì ngón tay trỏ của Hảo đưa chiếc chén trắng đi ngược lên, theo đường gạch đỏ rồi rẽ sang bên hữu đến chữ "có" thì ngừng lại.
- A, hồn bảo có. Vậy xin hồn nói chuyện đi.
Hồn nói:
- Ông Cảnh bạn thân của tôi, tôi xin chào bạn đã quá bộ đến chơi.
Lần này là lần đầu Cảnh được dự một buổi phụ đồng chén. Chàng vẫn nghe đồn ở Hà Thành có nhiều người thích chơi và ham mê lối phụ ấy lắm, họ ham mê như các cụ ta thời xưa ham mê phụ đồng tiên vậy.
Chàng không tin, nhưng chàng thấy trò chơi hay, có nhiều thú vị nhất câu nói đầu tiên của cô đồng xinh đẹp lại có một ý nghĩa âu yếm quá đỗi, như xui giục chàng lợi dụng ngay cái cách nói chuyện nửa kín nửa ngỏ ấy, chàng trả lời liền:
- Bạn yêu dấu của tôi ơi! Nếu quả thật bạn hiện ở thế giới bên kia thì tôi rất ao ước được theo bạn sang đó, vì tôi thương nhớ bạn không nguôi.
Kiên bàn:
- Muốn thử xem hồn có nhập vào đồng không thì ông thử hỏi một câu gì đó mà chỉ ông với hồn hiểu thôi, nếu hồn trả lời đúng thì tức là cách phụ có hiệu nghiệm.
Cảnh mỉm cười nghĩ thầm: "Chả cần thử cũng biết chẳng có hiệu nghiệm gì. Vì nếu quả thực hồn nhập vào đồng thì sao mắt đồng còn phải nhìn đến bảng chữ và tay đồng còn phải lò dò tìm chỗ để dừng. Mà cái trán kia thì chắc làm việc lung lắm!" Nhưng chàng cũng hỏi:
- Câu mà tôi nói kín với bạn một đêm trăng trên đường Cổ Ngư hôm rằm tháng hai năm kia, bạn còn nhớ không?
Hồn trả lời:
- Quên sao được còn nhớ lắm chứ?
Cảnh nói tiếp:
- Hồn thử nhắc lại xem.
Hồn đáp:
- Không tiện nhắc lại. Nếu nhắc lại được thì đã không còn là câu chuyện kín.
Ai nấy phá lên cười.
Một mình Cảnh lặng im, vì sung sướng quá. Nhưng đồng đã thăng. Hảo đứng dậy nói:
- Thôi tôi trả chỗ anh Luyện. Không có lý gì anh triệu ông Cảnh đến mà tôi lại đi ngồi đồng.
Luyện cãi:
- Ông Lộc triệu đấy chứ có phải tôi triệu đâu.
- Nhưng ông Lộc lại nhập vào anh thì anh phải ngồi đồng luôn mới được.
Cảnh đăm đăm nhìn Luyện, cố tìm hiểu:
- Sao người này lại biết mình. Mà nhất là sao lại gọi tên mình ra!
Luyện muốn trêu chàng chăng? Chàng không thể tin được rằng Lộc cho tìm chàng đến. Hay lại chuyện âm mưu gì đây!
Có tiếng đóng cửa sổ. Mọi người quay ra.
Hảo hỏi:
- Làm gì thế Nhài?
Người đầy tớ đáp:
- Thưa cô, con đóng cái cửa, chẳng mưa hắt.
- Mưa à?
Bây giờ ai nấy mới để ý nghe tiếng mưa rào rào đổ xuống mái nhà.
CHƯƠNG 9
Giữa lúc ấy còi ô-tô rú lên ở cổng, rồi người tài xế chạy vào nói:
- Bà lớn đã về, cô lấy cho hai cái áo tơi đưa ra xe để đón bà lớn vào.
Một lát sau có tiếng huyên náo bên phòng khách lớn. Cả bọn liền kéo sang. Bỗng Cảnh kinh ngạc kêu:
- Kìa thầy!
Thanh Đức đi cùng với chủ nhân vừa vào cũng sửng sốt:
- Con! Con đến đây bao giờ?
Không thấy con trả lời, ông lại hỏi:
- Con quen...
Rồi ông ngập ngừng im lặng. Cảnh nói giọng tự nhiên:
- Bẩm thầy không, con không quen. Ban nãy ông này - Cảnh trỏ Hoằng - tìm đến... Lần đầu con đến đây.
Ông Thiện căm tức nhìn Hoằng, Hảo phân trần:
- Không phải đâu. Đầu đuôi thế này, ông Thanh Đức ạ, chả chúng tôi phụ đồng chén, anh Luyện ngồi đồng, hồn ông Lộc ấp vào và cho mời ông Cảnh đến nói chuyện. Tôi mới nhờ ông Hoằng đi tìm ông Cảnh.
Thanh Đức mỉa mai nhìn ông Luyện.
Ông vẫn thừa biết Luyện thầm yêu Hảo và đấy chỉ là một mưu sâu của nhà văn nham hiểm để tỏ với Hảo rằng ông đã có một thằng con lớn tuổi hơn nàng, và ông tự phụ nghĩ tiếp: "Ai ta còn sợ chứ anh văn sĩ tép này thì ta coi vào đâu. Không thèm so sánh tiền của vội, đến cái tráng kiện tôi cũng không kém ngài, dù ngài chỉ bằng nửa tuổi tôi". Tự nhiên ông đứng thẳng lên, ép bụng thở phồng ngực.
Quả thực Luyện đã có tâm ấy; tối hôm nay chàng đã bày ra cuộc phụ đồng chén, và chính chàng đã mượn hồn ông Lộc để tìm đến Cảnh. Nhưng khi thấy Hảo và Cảnh như bắt đầu có tình với nhau thì chàng hối hận ngay. Chàng chỉ có một chủ ý là đem cha con Thanh Đức ra làm trò cười trong lúc hai người chạm trán nhau ở trước mặt Hảo.
Chàng có ngờ đâu rằng người con lại sẽ có thể trở nên một tình địch nguy hiểm gấp mười, gấp trăm. Nhưng cái ý hay của chàng vẫn làm cho chàng sung sướng trong chốc lát: chàng đã cho kẻ tình địch già một cái "đá móc khá đau".
Thấy ai nấy ngây người nhìn hai cha con Thanh Đức, và cả mẹ cũng như im lìm hẳn vì nỗi bất ngờ, Hảo cố lấy giọng vui vẻ hỏi:
- Lạ! Hai người là...
Ông Thiện tiếp luôn:
- Là cha con.
- Thực à! Thế mà trông như anh em ấy nhỉ!
Câu bình phẩm mở cờ trong lòng Thanh Đức. Và ông đắc thắng nhìn Luyện. Rồi ông quay ra nói với bà Án:
- Xin bà lớn lên gác nghỉ, dễ hơn mười hai giờ rồi. Tôi cũng xin phép về thôi.
Hảo đon đả mời:
- Ấy, ông ở chơi xơi nước đã, nếm thử xem trà mạn mới ướp sen năm nay có ngon không, ở lại nhé?
Và nàng mỉm cười đứng chờ.
- Vâng thì ở lại.
- Ừ có thế chứ. Từ chối thì tôi giận ngay.
Nàng âu yếm nũng nịu từ lời nói cho chí bộ dạng trong khi Thanh Đức đứng sát cạnh nàng ghé gần tai nàng thì thầm trò chuyện. Mắt ông sáng lên, mặt ông đỏ lên. Hình như chuyện phim hôm nay đã làm ông trẻ hẳn lại vài chục tuổi. Cảnh đứng sững nhìn Hảo, tự nghĩ:
"Người ta đồn cha ta tục huyền, vậy dễ thường người này chăng? Phải... kêu người mẹ là bà lớn, đích thị bà Án và con gái bà ta rồi!... Sao lại vô lý thế này!" Và chàng chẳng hiểu mình cho điều gì là vô lý.
Ông Thiện nói rất cao giọng sau cái nhìn lãnh đạm và kín đáo của Hảo.
- Rõ đáng tiếc cho cô! Một phim hay quá mà cô không chịu đi coi. Có phải không, bà lớn nhỉ, phim hay lắm.
- Nhưng hơi bậy.
Bà Án vừa mỏi mệt vừa khó chịu, vì bà yên trí rằng con trai Thanh Đức đã từ lâu là một người bạn của Hảo, mà Hảo vẫn giấu diếm bà, nay nhân dịp đi vắng chàng mới đến chơi. Bà không vui bảo con:
- Con cũng đi ngủ thôi, khuya rồi.
Hảo cười đáp:
- Mẹ cứ đi nghỉ trước để mặc con. Con đưa mẹ lên gác nhé?
Rồi nàng quay lại nói với mọi người:
- Xin phép các anh, em đưa mẹ em lên phòng ngủ. Em sẽ xin xuống ngay bây giờ.
Nàng dìu mẹ lên thang, vừa đi vừa nói chuyện.
Thấy mọi người vẫn đứng, Thanh Đức giơ tay nói:
- Mời các ông ngồi chơi.
Một lát, Hảo vào phòng tay cầm một hộp bích quy đưa cho Giáp:
- Thi sĩ mở hộp nhé?
Hoàng văn Giáp một người đẫy đà, tóc dài và uốn quăn, rơi từng món xuống trán xuống tai khiến chàng có vẻ ngây thơ và mơ mộng.
- Xin phụng mạng.
Trong khi Giáp loay hoay mở hộp bánh, Hảo quay ra hỏi Cảnh:
- Ông có biết thi sĩ Hoàng văn Giáp không nhỉ?
Cảnh ngần ngừ một giây:
- Không... nhưng tôi có biết tiếng.
Luyện mỉm cười:
- Phải, tiếng thi sĩ còn ai không biết.
Thi sĩ nổi tiếng nhất vì những bài thơ tặng Bạch Ngọc, mà Bạch Ngọc thì không một người Hà Thành nào không biết là mỹ nhân.
Nhà địa chủ thấp béo mà từ nãy không ai lưu ý tới, có vẻ thành thực nói:
- Xin thi sĩ tha lỗi cho, chứ thơ của các ngài tôi chẳng hiểu mô tê chi hết. Có bài tôi đọc đến ba lượt mà vẫn không rõ các ngài muốn nói gì.
Hảo cười:
- Vì ông không thích thơ đấy.
Hoằng chêm:
- Vâng có thể. Ông chủ đồn điền chỉ thích văn xuôi. Nhất là thứ văn xuôi đem phơi khô cho vào cối.
Ai nấy cười vui thú. Kiên giọng nhạt nhẽo:
- Các ngài cứ chế nhạo nhà nông chúng tôi, nhưng thiết tưởng có thực mới vực được đạo chứ. Và tôi nói tôi không hiểu thơ của các ngài, chứ có phải tôi không hiểu thơ đâu. Chẳng hạn thơ của các cụ Tam Nguyên, Tú Xương thì sao tôi lại không hiểu?
Thanh Đức vẫn còn vẻ hằn học ban nãy, tiếp luôn:
- Ngài nói chí lý lắm. Dù thơ hay văn gì đi nữa thì ý nghĩa cũng phải sáng sủa; có đâu lại tối mò mò, đọc như những câu thai ấy.
Thi sĩ ngừng tay mở hộp bánh, ngửng lên mát mẻ:
- Thưa cụ, thí dụ tối mò mò như bài thơ nào chẳng hạn?
- Tôi chẳng nhớ một bài thơ nào, cả đến tên bài thơ cũng vậy, nhưng quả thực tôi đã đọc qua.
- Và cụ chẳng hiểu gì hết.
- Hiểu thì cũng hiểu. Nhưng hay ở chỗ nào thì tìm mãi không thấy. Sao các ngài không viết giản dị như các cụ ta. Giản dị mà vẫn hay chứ. Thực tôi chưa thấy một thi sĩ mới nào viết được những câu tình tứ tuy giản dị như câu ca dao này chẳng hạn:
Ai về sông Đông tỉnh Xuân Cầu, để thương để nhớ để sầu cho ai.
Hay câu này nữa:
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng nước mắt nỉ non,
Cò ơi, ở lại nuôi con,
Để anh đi tráy nước non Cao Bằng.
Bốn câu sau thì thực là cả một tập thơ, một tập thơ tình âu yếm biết bao!
Luyện mỉa mai chêm luôn:
- Mà ai ai cũng hiểu, rõ ràng, minh bạch biết bao!
Thanh Đức được thể:
- Có phải không, chứ đâu lại như những câu thơ của các thi sĩ hiện thời. Mà hay ho gì cho cam.
Giáp ngừng tay mở hộp, mỉm cười nói:
- Nhưng các ông có hiểu thơ là gì không đã? Làm thơ có phải là kể lể hay than vãn hay triết lý đâu. Thơ là âm nhạc và chỉ là âm nhạc, cũng như tranh là màu và chỉ là màu. Tìm ở trong những ý tưởng thứ tự, ngăn nắp như câu chuyện đàn bà thì có khác chi tìm một đầu đề luân lý giáo khoa trong một bức họa.
- Vậy lấy cây đàn bầu ra mà gảy, còn làm thơ làm gì, và hình cầu vồng in trên nền da trời còn đẹp hơn môt bức tranh.
- Chính thế. Riêng tôi, tôi cho chỉ có họa sĩ Hồng Hải là vẽ đẹp. Vẽ, phải vẽ những người đẹp như thế chứ. Nhiều họa sĩ khác hình như chỉ chọn người xấu để vẽ. Đến hôm nào mời các ngài về ấp tôi mà xem, bày toàn tranh Hồng Hải. Phòng khách cứ sáng rực lên vì cảnh các mỹ nữ mặc áo màu tuơi sáng.
Thanh Đức chừng như không muốn kéo dài mãi câu chuyện, nên làm thinh ngồi cười mát.
Cảnh yên lặng lảng ra phía cửa sổ đứng nhìn mưa từ nãy. Không ai để ý tới chàng, trừ Hảo ra. Nàng đương bứt rứt về cuộc gặp gỡ của hai cha con mà nàng chưa rõ thái độ đối với nhau sẽ như thế nào. Vì thế, nàng lơ đãng nói chuyện và luôn luôn tự thầm hỏi: "Sự gặp mặt ngẫu nhiên hay chính Luyện đã xếp đặt? Ông Thiện đến chơi nhà này đã nữa năm nay, mà không thấy nói chuyện gia đình nhất là không thấy đả động tới người con này? Hai cha con liệu có hòa thuận với nhau không?"
Nàng nhìn theo Cảnh, và nàng như đọc được trên vẻ mặt người con sự phật ý trong cuộc gặp gỡ đột ngột.
Giáp đã mở xong hộp bánh. Hảo quay ra phía cửa sổ gọi:
- Ông Cảnh, mời ông vào xơi nước.
- Cám ơn cô.
Cảnh quay vào.
- Ông khó chịu về trời mưa phải không?
- Cũng không khó chịu lắm.
Giáp nhắc đến câu thơ cổ:
- Vũ vô kiềm tỏa năng lưu khách.
Ông Thiện như chưa hết cáu kỉnh đối với Giáp, nhà đại biểu trong cuộc hội họp này của các thi sĩ hiện thời mà ông cho là đã thổi mơ màng vào tâm hồn các cô thiếu nữ:
- Câu ấy ngày xưa có lẽ đúng đấy, chứ bây giờ thì chẳng còn nghĩa lý gì. Đã có áo tơi và xe ô-tô. Vậy uống nước xong, tôi sẽ đưa các ông ai về nhà nấy, mưa kiềm tỏa nổi sao được. Vả cô Hảo đã mệt lắm rồi, phải để cô đi nghỉ chứ.
Ông thân mật hỏi Hảo:
- Phải không cô Hảo?
Hảo tỉnh táo vui vẻ:
- Thưa ông, chưa ạ, em thì em thức suốt đêm cũng được.
Rồi nàng cầm hộp bích-quy mời từng người. Đến Cảnh, nàng rón một chiếc đưa cho chàng và tươi cười nói:
- Ông xơi chiếc bánh giấy thấm này.
Cảnh đáp sẽ:
- Cám ơn cô.
Câu chuyện đã rời rạc. Kiên phàn nàn:
- Giời nóng như tháng sáu tháng bảy. Trận mưa rào kia thì có khác gì một trận mưa hè không?
Thanh Đức tiếp:
- Mưa xuống thế này cũng hơi dễ chịu.
Câu nói nhiễm vẻ hậm hực, tựa hồ lòng ông đương không dễ chịu một chút nào.
- Chị Thúy Nga, mời chị xơi đi chứ.
Mọi người đều nhìn cả vẻ phía thiếu nữ ngồi khuất sau hàng ghế mà từ nãy hình như không một ai còn nhớ rằng có mặt trong phòng khách.
Thanh Đức hỏi nàng một câu vớ vẩn:
- Cô đã buồn ngủ chưa?
- Chưa ạ.
Nàng trả lời vắn tắt, một cách lạnh lùng. Nàng vẫn không ưa Thanh Đức, nhất từ ngày nàng nghe có tin đồn ông hỏi Hảo làm vợ. Nàng chơi thân với Hảo, yêu mến Hảo. Nàng không muốn bạn nàng lấy một người năm mươi tuổi. Đó chỉ là những lời đồn, chứ Hảo cũng chưa tỏ ý bằng lòng, hơn thế, chưa một lần nào nàng bàn tán hay đá động đến việc ấy, dù Nga gợi chuyện ra. Chẳng qua Nga chỉ đoán phỏng như mọi người vi thấy Thanh Đức loay hoay săn sóc chung quanh Hảo và bà Án.
Rồi lần lần, khi thấy chuyện hôn nhân của hai người trong bốn năm tháng nay đứng mãi một chỗ, không tiến cũng không lui, nàng sinh ra ngờ vực mà không tin nữa.
Nhưng dầu sao, nàng cũng không thể tha thức được người mà nàng cho rằng đã đem cái tài sản kếch xù ra để định quyến rũ bạn nàng.
- Kìa, mời ông Cảnh xơi nước, chẳng nguội.
- Cám ơn cô, tôi vẫn uống.
Hảo không thể rời hẳn được cái ý nghĩ "một thảm kịch đã từng xảy ra giữa hai cha con" này. Nàng đã đem hết thông minh ra suy xét tâm lý hai người. Nàng thấy họ phải cố gắng mới không để ý nhau. Hơn thế, họ như đứng hai vai trong một vở kịch. Thanh Đức mọi khi láu lắm, nay bỗng giữ gìn lời nói. Còn Cảnh lúc này khác hẳn lúc mới đến, khác hẳn như hai người vậy. Lạ nhất là thái độ đối với nàng: một khối than hồng nhúng vội vào chậu nước lạnh. Nàng dò ý tứ, quay sang bên cạnh hỏi nhỏ ông Thanh Đức:
- Ông Cảnh hình như học Cao đẳng?
Nàng đả động vào lòng tự phụ của người cha. Thanh Đức trả lời cho cả mọi người nghe rõ.
- Cảnh vừa đậu xong bằng cử nhân Luật.
Hảo nhìn Cảnh mỉm cười như để tán dương chàng:
- Vậy ông sẽ thi tri huyện chứ?
- Không.
Rồi chẳng hiểu nghĩ sao, Cảnh chữa:
- Nhưng nếu cần phải thi, thì cũng thi.
Hảo tự hỏi: "Cần phải thi? Sao lại cần phải thi?"
Thanh Đức cười ha hả, và như giải thích câu nói tối nghĩa của con:
- Phải, nếu vợ nó thúc giục.
Luyện hỏi:
- Sao cụ không thúc giục ông Cảnh ra thi tri huyện.
Thanh Đức giọng thành thật đáp:
- Không, tôi có thúc giục các con tôi bao giờ đâu? Tôi để các con tự do muốn làm gì thì làm.
Ngừng một giây, ông lại tiếp:
- Cũng như các con tôi không bao giờ nhìn đến việc tôi làm cả. Cha có tự do cha, con có tự do con.
Rồi thích chí về câu nói ấy, ông cất tiếng cười lớn. Giáp như chưa quên những lời Thanh Đức phê bình thơ ban nãy, mát mẻ hỏi:
- Thế nào ông Cảnh, ông để cụ được hoàn toàn tự do hành động?
Cảnh không đáp, trân trân nhìn Giáp. Hảo nhận thấy vẻ mặt lạnh lùng và dữ tợn của Cảnh, liền cắt đứt câu chuyện bằng cách đứng dậy cầm hộp bánh đi mời một vòng; đến Cảnh nàng mời khẽ:
- Mời ông cứ chiếu cố.
Cảnh vẫn giữ vẻ trang nghiêm lãnh đạm:
- Cám ơn cô, tôi xin đủ.
Nàng mỉm cười khẩn khoản:
- Một chiếc nữa thôi mà, lần cuối cùng.
Cảnh nhặt vội lấy chiếc bánh nói:
- Cám ơn cô.
Uống cạn chén nước thứ ba, ông Thiện quả quyết đứng dậy bảo Cảnh:
- Bây giờ đi về thôi chứ.
Cảnh đáp khẽ:
- Vâng.
Rồi cũng đứng dậy. Ông Thiện quay ra nói với mọi người:
- Tôi xin đưa các ông ai về nhà nấy... Cả cô nữa.
Thúy Nga lạnh lùng:
- Cám ơn cụ tôi ở lại đây với chị Hảo.
- Vậy mời các ngài ra xe...
Ông cúi chào Hảo, nói tiếp:
- Cô đi nghỉ chẳng khuya rồi.
- Chưa khuya đâu ạ.
Thanh Đức nhìn đồng hồ bày trên tủ trà:
- Hơn hai giờ rồi còn chưa khuya.
Hảo nói dối một câu thông thường:
- Đồng hồ nhanh đấy ạ.
Nhưng bọn khách vẫn tiến ra hiên, rồi dừng lại ở đó đứng nhìn như lắng tai nghe mưa. Hảo bàn:
- Nhà có một ô và một dù vậy đi làm ba chuyến... Anh bếp! Cầm ô che ông ra xe rồi lại mang ô trở lại đón ông khác nhé.
- Tôi thì tôi đã có waterproof (loại kh ông thấm nước)
Cảnh vừa nói vừa rảo bước đi dưới mưa. Hảo kêu:
- Ấy! Ướt hết. Kìa anh bếp, chạy ra che cho ông.
Nhưng người bếp giương được ô thì Cảnh đã ra gần tới cổng: Thanh Đức lấy địa vị là chủ ô-tô đi sau hết mọi người. Lúc còn đứng lại một mình với Hảo ông khẽ bảo nàng:
- Việc đồn điền xong rồi.
Hảo đáp rụt rè:
- Thế à?
- Tôi đã nói với cụ trả trước ít nhiều hay không trả trước cũng được. Trả dần cũng được Cái đồn điền ấy của tôi đồng niên thu hơn một vạn. Ăn tiêu thuế má rồi cũng để ra được bốn năm nghìn là ít. Vậy số tiền để ra ấy cụ có thể trả dần tôi, mấy chốc mà hết nợ.
- Như thế thiệt thòi cho ông.
- Ồ! Có làm gì cái đó. Chỗ thân tình với nhau thì làm gì một chút nhỏ mọn. Cụ thích ở đồn điền mà tôi thì có những ba cái, để lại cho cụ một là phải lắm rồi...
Hảo nhìn trời mưa:
- Giá có đủ tiền mà trả ông ngay một chuyến...
- Trả trước trả sau cũng thế. Trả sau thì tôi có tiền để dành chứ sao.
- Nhỡ sau túng bấn không trả được.
Thanh Đức cười vui vẻ, sung sướng:
- Cô đến hay lo xa. Nhưng cô yên tâm, không trả được thì chịu lại... chịu mãi cũng được.
Ông toan nói thêm: "Chịu lại mãi mãi càng hay" thì người nhà đem ô đến, ông đành phải cúi chào từ biệt Hảo, để ra xe.
CHƯƠNG 10
Trong khi xe đưa mọi người ai về nhà nấy, Cảnh không nói một lời và hình như không nghĩ ngợi gì, mắt luôn luôn nhìn thẳng vào cái ánh sáng động đậy của ngọn đèn nhỏ báo dầu. Chàng ngồi bên tài xế. Chàng có chủ ý chiếm chỗ ấy ngay lúc đứng ở hiên nhà Hảo, nên chàng đã đi ra xe trước hết mọi người. Ngồi đấy, chàng tránh được những cuộc nói chuyện trong xe với những ngươi mà chàng không ưa.
Xe đi qua những phố nào, Cảnh cũng không biết nữa. Một nỗi buồn mênh mông và sâu thẳm. Mênh mông nên chàng không biết nó đã bắt đầu từ đâu và sẽ lan rộng tới đâu, sâu thẳm như không bao giờ sẽ lắng tới đáy để chàng được bình tĩnh...
Lửa than hồng không trông thấy ngọn nhưng đã nóng đến tột bực cho tới khi than tàn thành tro, nguội dần rồi lạnh hẳn...
Chàng cảm thấy sự phá phách lặng lẽ đương tiến. Và chàng đành chịu để cho lòng tan nát. Chống cự lại làm gì! Chống cự lại sao được? Đó là định mệnh. Chỉ có một việc phục tòng...
Cảnh như lịm dần...
- Bẩm cậu xuống... Mưa ngớt rồi...
Cảnh quay lại ngơ ngác nhìn người tài xế:
- Sao?
- Thưa cậu về đến nhà rồi. Cụ đã vào.
- À về đến nhà rồi?
- Vâng.
- Tôi lại cứ tưởng còn đưa các ông ấy về nhà các ông ấy.
Cảnh mở cửa nhảy ra ngoài.
- Vậy anh đánh xe vào garage nhé.
- Vâng.
Tiếng giày lộp cộp trên phòng ngủ, tiếng mở cửa sổ. Cảnh trầm ngâm bước lên thang gác. Bỗng chàng lẩm bẩm: "Vô lý".
Vào phòng, chàng ngồi phịch xuống chiếc ghế nệm đặt trước cái bàn giấy nhỏ. Vì thói quen và như không có định kiến chàng đưa tay ra bấm điện. Ánh sáng xanh dịu, và lòng chàng dịu đi đôi chút. Chàng nhìn thấy bức thư bỏ dở, chận dưới khối thạch anh thủy tinh. Chàng tò mò nhẩm đọc:
"Anh đã tìm thấy lẽ sống của anh. Lẽ sống của anh là em".
Chàng vụt cảm thấy máu trong huyết quản bắt đầu chạy mạnh, tim hồi hộp đập mau. Một luồng sáng rạng rỡ bừng lên trong tâm hồn chàng, và chàng cầm bút viết tiếp, viết thật mau, mau đến nỗi tay chàng cuống líu lại.
"Anh đã tìm thấy lẽ sống của anh. Lẽ sống của anh là em. Phải là em, chỉ là em. Anh nhận thấy ngay từ phút, ngay từ giây đầu tiên mới gặp em. Em cũng đã nhận thấy thế, phải không. Em đã đọc thấy ở cặp mắt anh lẽ sống của anh là em phải không em?
Từ nay anh sẽ hết băn khoăn, vì anh đã tìm thấy lẹ sống của anh. Sao anh tìm thấy chậm thế? Vô lý quá, sao mãi nay mới gặp em là phải, là vừa, là đúng ngày giờ. Mệnh định xếp đặt như thế, chúng ta tránh sao được mệnh định?
Từ nay anh sẽ là hết thấy cái gì em muốn anh là... anh sẽ là một vật... một vật trong tay em... anh sẽ là cái chén mà em sai khiến đưa đi theo ý muốn của em trên cái bàn phụ ban nãy..."
Cảnh ngừng lại, và chàng như chợt tỉnh giấc mơ, chàng nhớn nhác đưa mắt nhìn hết những hàng chữ vừa viết. Rồi chàng nghĩ ngợi, chàng vò nát xé nhỏ vứt vào giỏ giấy vụn dưới gầm bàn, miệng lẩm bẩm:
- Vô lý! Vô lý!
- Anh chưa ngủ?
Cảnh giật mình quay đầu lại. Oanh đứng sững giữa khung cửa vào phòng, mà Cảnh đã đãng trí bỏ ngỏ.
- Chưa. Mấy giờ rồi nhỉ?
- Hơn ba giờ.
- Mới thế?
- Lại còn mới thế gì nữa. Khuya lắm rồi. Anh đi ngủ thôi chứ.
- Em chưa ngủ?
- Em vừa thức giấc thấy phòng anh sáng, em tưởng anh ngủ quên không tắt đèn.
- Anh cũng vừa về... Anh cùng về với thầy.
- Mưa phải không anh?
- Ừ mưa... Mưa to quá.
Oanh lại gần anh m ỉm cười:
- Nhưng giờ tạnh rồi. Anh mặc paraverse làm gì, nhất là trời lại không rét.
Cảnh cúi nhìn, ngớ ngẩn:
- Ờ nhỉ!
Chàng dứng dậy cởi áo tơi mưa, vắt lên lưng tựa ghế và như nói một mình:
- Anh đã gặp mặt cô ta.
Oanh suy nghĩ tìm tòi, rồi hỏi:
- Cô nào ấy nhỉ?
- Cô ấy... ấy mà... Cô Hảo ấy mà, nhưng anh không tin...
Oanh bật cười, vì không hiểu anh nói ai, và định nói gì. Nhưng nàng cũng trả lời khôi hài:
- Anh không tin à? Em cũng không tin.
Cảnh, vẻ mặt rạng rỡ, sung sướng:
- Phải không em, tin sao được? Anh chắc chắn rằng đó là câu chuyện bịa đặt, hoàn toàn bịa đật. Chẳng qua người ta thấy thầy hay đi lại chơi bời ở đấy, nên người ta... Phỏng đoán như thế.
Oanh kêu:
- À.
- Có phải không em? Chả bà Án thích tổ tôm... và... hình như cả mạt chược; thầy cũng thích tổ tôm và mạt chược, em đã biết đấy. Cả cô con gái nữa, phải, cô Hảo nữa... Em chưa gặp Hảo nhỉ?
- Chưa. Cô ta có đẹp không anh?
- Cũng... đẹp... đẹp... Có thể cho là đẹp lắm.
Oanh mỉm cười:
- Đẹp bằng chị Lan Hương nhé?
Cái tên Lan Hương làm cho Cảnh khó chịu. Chàng chau mày bảo em:
- Em đến hay so sánh, chẳng hạn em bảo anh con mèo đẹp hơn hay con chó đẹp hơn, thì anh trả lời sao được. Con mèo có cái đẹp của con mèo... con chó có cái đẹp của con chó...
Oanh cười to:
- Nghĩa là không con nào đẹp hơn con nào, nhưng cũng đẹp cả. Nhưng anh vì hai mỹ nhân. Cô kia em không biết thế nào, chứ chị Lan Hương thì em chắc sẽ giận anh lắm nếu câu so sánh của anh đến tai chị.
Cảnh lặng thinh, tần ngần nhìn qua ngọn cây lộc vừng trong ánh đèn cửa sổ.
- Vô lý!
- Anh bảo em vô lý?
- Không.
Việc hôn nhân của cha vẫn theo đuổi ám ảnh chàng, việc mà chàng cho là vô lý hết sức.
- Bà Án cũng chưa già, em ạ... Chỉ vào khoảng bốn nhăm bốn sáu là cùng.
- Nghĩa là còn kém tuổi thầy đấy... Nhưng em chắc thầy định lấy... Hảo. Em không tin mà cũng không ngờ. Em chỉ biết ở ngoài người ta đồn dữ lắm, người ta bảo sang năm thầy sẽ cưới cô ta, và món dẫn cưới là một cái đồn điền Bắc Giang.
Cảnh cười chua chát:
- Nếu chỉ là cái đồn điền Bắc Giang, thì rẻ quá, Hảo đáng giá hơn thế... Anh thì anh cho cả cái cơ nghiệp của thầy vị tất đã xứng với Hảo.
Oanh vẻ mặt kinh ngạc đăm đăm nhìn anh:
- Cô ta đẹp đến thế cơ à?
Cảnh cười vui vẻ, làm như mình đã khôi hài. Kỳ thực chàng nói theo ý nghĩ sâu xa của chàng. Oanh cũng cười:
- Thiết tưởng giá đáng nghìn vàng là cùng. Mà nghìn vàng là nghìn lạng vàng thì cũng tới sáu bảy vạn bạc thôi. Xuýt xoát giá cái đồn điền Bắc Giang của thầy đấy.
Cảnh vẫn cười:
- Nếu vậy thì không phải thầy đào mỏ mà chính họ đào mỏ.
- Bên gái đào mỏ bên trai! Một sự mới lạ trong làng đào mỏ. Nói thế còn nhẹ... nói bán thì mới đúng.
Cảnh sửng sốt:
- Bán? Bán con? Vô lý!
- Ừ nhỉ, anh nhỉ! Bán con thì bị tội. Sao bán con gái cho người ta làm vợ lại không bị tội?
Cảnh thở dài:
- Em chỉ bậy! Vô lý! Chả khi nào lại có câu chuyện gả bán vô lý ấy!
Oanh chau mày.
Nãy giờ Cảnh luôn miệng nhắc hai tiếng "vô lý" coi bộ anh chỉ sợ đó là câu chuyện có lý, hay hơn thế, một câu chuyện có thực.
- Thiết tưởng muốn biết có thực hay không có thưc chả gì hơn là anh hỏi thẳng thầy.
Cảnh kêu:
- Hỏi thẳng thầy? Ai lại đi hỏi thầy câu chuyện ấy?
- Hỏi khéo thì vẫn được.
- Nhưng anh vụng... với lại... không tiện.
Bốn tiếng sau cùng thốt ra tự tiềm giác của Cảnh.
Buông lời Cảnh thấy trong đó những ý nghĩa thầm kín mênh mông. Hầu như những lời tự thú, những lời thú tội. Chàng như hiểu ngầm rằng nếu là người khác, nếu không phải là Hảo, thì chẳng có gì bất tiện cả, và chàng kinh hoàng thấy mắt Oanh lặng lẽ nhìn thẳng vào mắt mình.
Có tiếng giày ở hiên. Hai anh em cùng lặng lẽ nhìn ra phía cửa. Ông Thiện mặc bộ pyjama lụa viền xanh đứng ngó vào phòng nói:
- Các con chưa ngủ à? Hơn ba giờ, khuya lắm rồi.
Oanh đáp:
- Bẩm con cũng vừa thức dậy.
Nàng nhìn anh như để bảo: "Thế nào, có hỏi thẳng thầy không?"
- Thầy chưa nghỉ?
Ông Thiện không trả lời câu hỏi của Oanh.
- Quái! Đầu tháng một tây rồi mà trời vẫn oi.
- Bẩm có lẽ sắp bão.
- Chả cứ! Năm ngoái cũng nóng hết tháng một, thỉnh thoảng mới xen vào một vài ngày lạnh... Nhưng các con đi ngủ thôi. Thức khuya mệt quá. Thầy cũng đi nghỉ đây.
Ông Thiện thủng thẳng đi vào phòng. Cảnh vẫn ngồi nguyên chỗ, không nhúc nhích không nghĩ ngợi; tiếng ông Thiện ở phòng bên vọng sang:
- Đi ngủ thôi, các con!
- Vâng, mời thầy đi ngủ.
- Ừ, thầy đi nghỉ đây. Thầy tính phác qua số thước khối cái đê bao bờ ở khu ruộng hồi Đồng Nam, mà thấy cũng to công lắm, Oanh ạ.
Oanh giọng trách móc:
- Thầy để mai hãy hay. Bây giờ khuya lắm rồi mà thầy còn làm việc thế có mệt không.
- Ừ, xong rồi đây!
Oanh mỉm cười thì thầm bảo anh:
- Muốn gì thì gì, thầy cũng không quên được công việc.
Rồi ra khép cửa đi sang phòng riêng.
Cảnh cầm quả nắm bấm tắt đèn, lên giường nằm. Chân chàng đạp mạnh vào cái chắn đồng ở cuối giường, chàng mới nhớ ra rằng chưa tháo giày, chưa thay quần áo, liền với tay ra ngoài màn bấm ngọn đèn ngủ. Một làn ánh sáng đỏ nhuộm hồng mọi vật trong gian phòng sơn đỏ.
Thay xong quần áo ngủ, Cảnh lại lên giường và để vậy ngọn đèn đỏ. Một lúc lâu, bỗng chàng thốt ra một tiếng thở dài: "Vô lý!" Cảnh chợt lưu ý tới sự nhận xét rất đúng của Oanh. "Quả thực mình luôn miệng nói ‘vô lý’ vì trí mình luôn luôn nghĩ tới hai chữ ấy". Chàng mỉm cười! "Nhưng việc ấy nếu có thì xảy ra tối hôm nay. Ừ? Sao họ phụ đồng chén ở nhà Hảo? Sao Hảo lại là người ấy? Không. Không thể thế được. Vô lý quá!" Cảnh cố nhớ lại cử chỉ ngôn ngữ của cha.
Chàng đã quan sát cha, từ lời nói cho chí sự yên lặng. Không có gì tỏ rằng cha say mê - say mê biểu lộ ra ngoài hay say mê ngấm ngầm bên trong. Cha bình tĩnh lắm, bình tĩnh quá, bình tĩnh có thể ngồi nhận được số thước con đê dài có tới hai cây số. Đó quyết nhiên không phải triệu chứng của yêu thương đắm đuối. "Trái ngược hẳn với mình, mình yên lặng nhưng không bình tĩnh một tí nào".
Cảnh bật cười to. Chàng vừa tìm ra và thấy không hợp lý được. Chàng cho rằng ông Thiện yêu người mẹ, nhưng người ta thấy ông lui tới nhà ấy liền gán cho ông yêu người con. Chàng còn lạ gì dư luận người mình; họ yên trí rằng là vợ góa một ông quan thì không thể tái giá được. Chứ sự thực thì ông cụ yêu bà mẹ, phải, rõ rệt lắm, đôi uyên ương già rủ nhau đi xem chiếu bóng...
Nếu yêu Hảo thì thế nào chả mời cho bằng được Hảo cùng đi. Có bao giờ lại để Hảo ở nhà mà phụ đồng chén với một bọn trai trẻ. Phải, rõ rệt lắm... Lúc về, vẻ ông cụ thản nhiên, bình tĩnh, không lộ một chút tính ghen... Cả trong ngôn ngữ nữa... Có, trong ngôn ngữ thì có, ông cụ hình như chỉ ghét riêng hai anh chàng văn sĩ và thi sĩ. Một người là... Luyện, phải rồi, còn một người là... gì quên bẵng mất... tên thi sĩ là... là... Cảnh nằm yên lặng để cố tìm cho ra tên thi sĩ, và chàng lẩn thẩn gợi ra hết các tên bắt đầu từ chữ a đi mãi tới chữ y vẫn không thấy tên Hoàng văn Giáp trở lại trong ký ức. Chàng định thôi, nhưng sự tìm tòi ấy đã làm chàng nhãng câu chuyện khích bác giữa ông Thiện và nhà văn, để nhớ đến mỗi một điều mà chàng đã tin chắc: cha chàng không yêu Hảo, không say mê Hảo, sẽ không lấy Hảo, như người ta đồn đại.
Chàng dừng lại ở ý nghĩ sung sướng ấy, mà ngủ thiếp đi.
Khái Hưng
Theo https://isach.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đoàn Văn Cừ với hội xuân và những phiên chợ tết Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam ...