Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2020

Trương Đăng Quế - Cuộc đời và sự nghiệp 3

Trương Đăng Quế
Cuộc đời và sự nghiệp 3
KHÓC QUẢNG NINH CÔNG
Tuấn tú như cành vàng
Tư duy như cây ngọc
Tồng sao mệnh quá đoản
Từ giã đời sống thay
Cô nữ còn thơ ấu
ha mẹ già thêm cay
Than ôi thân hậu sự
Rơi lệ có bia này.
Bản dịch của Huỳnh Châu
ĐƯỢC CỬ GIẢNG DẠY Ở KINH DIÊN
Sách Đại học ghi tâm
Ngũ Kinh vốn uyên thâm
Luận bàn từng chi tiết
Giảng giải đạt tinh thần
Nhất là đọc Tứ thư
Tu tề đều rõ phân
Lòng vua nhiều lo lắng
Đình son lòng kính dâng
Bản dịch của Huỳnh Châu
TIỄN THƯƠNG SƠN CÔNG
Đức hạnh bá quan biết
Cung đình lại ưu tiên
Ủy thác dinh biệt nghiệp
An dưỡng lúc cao niên
Đạo học như nước chảy
Thi ca tiếp thánh hiền
Nhớ nhiều nhưng chẳng mộng
Xưng tụng Hiếu kinh thiên
Bản dịch của Huỳnh Châu
CÙNG CÁC QUAN ĐI THUYỀN
Sóng nhỏ gấp chèo thuyền
Mưa bay cách ngoài thềm
Lên đường thôi tương biệt
Quay đầu cảm khái thêm
Quân thân hai tâm niệm
Đi ở hai nỗi niềm
Đa tạ lòng lưu luyến
Gió xuân tiễn đưa thuyền
Bản dịch của Huỳnh Châu
HỌA BA BÀI THƠ NGỰ CHẾ VUI
TẾT NGUYÊN ĐÁN
* Bài 1
Đầu năm cho điềm tốt
Đồng hồ điểm ngày lành
Sương dày trời lạnh tợn
Gió hẩy cảnh trong xanh
Cung cấm màu tươi sáng
Phố xá khí thanh bình.
Cửu trùng ban đức khắp
Vui Tết với dân mình.
* Bài 2
Ba ngày đầu năm mới
Tươi sáng khắp muôn nhà
Bớt lạnh đèn cũng ít
Gió sớm tiễn xuân qua
Sân trước cây rợp bóng
Lối mòn nức hương hoa
Quẻ bói báo mùa tốt
Đàn ca khắp mọi nhà.
* Bài 3
Đầu năm thật yên ả
Vương đạo càng thêm dày
Vui ngắm hoàng cung đẹp
Gẫm mình còn kém thay
Cung đình sắc tươi tốt
Nhà giảng vẻ hanh thông
May có ngày vui Tết
Cùng nhau chúc tốt lành
HAI BÀI VỊNH SỬ ỨNG CHẾ.
1. Hán Cao Tổ (Lưu Bang)
Bậc vì dân trừ bạo
Tài ở chỗ dùng người
Lương, Bình lắm mưu trí (1)
Tín, Bố đáng bề tôi
Muốn nên cơ nghiệp lớn
Ban khen phải đúng nơi
Khúc “Đại Phong” khảng khái (2)
Chí lớn bốc ngời ngời.
2. Hán Chiêu Liệt (Lưu Bị)
Triều Hán vào hồi cuối
Nuôi chí cải mạng trời
Ba lần đến lều cỏ (3)
Hai phen cháy giếng khơi (4)
Họ Tào vừa soán đoạt (5)
Chương Vũ thừa mệnh trời (6)
Thật tiếc cơ nghiệp ngắn
Lưu gia đã hết thời.
THÁNG MƯỜI, THẤY MỘT ĐÓA HOA SEN NỞ TRONG AO NƠI LÀM VIỆC
Đang khi trời rét đậm
Cây cỏ thật xác xơ
Một đóa sen lại nở
Giữa mùa đông ai ngờ?
Son sắt tựa tùng bách
Trong sáng như bài thơ
Đừng lo ngày sắp hết
Tình ta thoảng hương mơ
KHÓC THƯƠNG CÔ EM HỌ
Mỗi mình anh ở lại.
Mới đó còn hai người,
Em theo chồng xuôi ngược,
Thật nữ Việt mười mươi
Thương chồng đâu xét nét (1)
Cúng giỗ tròn phận dâu (2)
Một sớm thành vĩnh quyết
Nhìn quanh, vạn nỗi sầu
THỂ NGŨ NGÔN BÀI LUẬT
ỨNG CHẾ PHỤ NỮ SIÊNG, LƯỜI
Đến như loài chim, cá
Siêng, lười đều có tên
Chim làm tổ chăm chỉ
Cá nhờ sóng đẩy lên
Phụ nữ kè bịch thuốc
Tiệc tùng suốt ngày đêm
Làm sao nghe chim giục! (1)
Dế rúc cũng đâu thèm (2)
Mặc kệ ai khinh ghét!
Lười thì làm chi nên?
Người là vật linh đấy.
Người vậy chỉ gây phiền.
ỨNG CHẾ THƠ VỊNH ĐỘNG NÚI
Chẳng mở mang kinh tế
Đóng trại nơi rừng sâu
Xế xế bên động núi
Dưới bóng tùng bách cao
Hoa rừng xuân rộ nở
Trăng thu rọi núi đồi
Ráng chiều ấm lều soái
Tiếng suối đàn không thôi
Giữa thiên nhiên hùng vĩ
Tâm hồn thật thảnh thơi.
Nhưng còn bao việc nước
Đâu thể bàn chuyện chơi.
ỨNG CHẾ THƠ VỊNH KIẾNG ĐEO MẮT
Chế luyện ra từ cát
Lại chẳng chút bụi nào
Hai tròng kính trong suốt
Bạn của người tuổi cao
Chữ hiện ra từng nét
Nước mắt thôi phập phào
Nhìn xem, đúng ảnh thật
Kè bên, dám quên nào!
Thấy cả vật dù nhỏ
Tinh tường chất lượng cao
Kiếng quý ơn trên tặng
Sủng ái biết dường bao!
PHỤNG HỌA THƠ VUA VÀO CUỐI XUÂN NHÂN NGÀY KHAI GIẢNG ĐIỆN KHÂM VĂN
Mùa xuân quang cảnh đẹp
Không khí vui thái bình
Nhân dân sống yên ổn
Hoa cỏ thảy tươi xinh
Cúng năm kịp lúa chín
Cai trị thuở yên bình
Ân trạch ban rộng khắp
Văn hóa sùng cao sinh
Tiếp nối gương cần mẫn
Giữ vững đạo tri hành
Xong Viên khâu hành lễ
Tâm Ngọc kính trong lành
Nghiêm túc giữ pháp độ
Đức khéo kết xa tinh
Đường ván mưa lấm tấm
Kinh diên hiện vẻ lành
Nắng rọi sáng rèm trúc
Gió nhẹ vờn qua song
Hương hoa đượm thềm bậc
Phòng ốc khí học hành
Trẻ nam sức chim hộc
Trẻ nữ vẻ chim loan
Lớp lớp người hoàng tộc
Hàng hàng chín phẩm quan
Chuyện trò thật rôm rả
Đối đáp rõ ngọn ngành
Huyền Dịch bởi hiếu thiện
Cẩn thận vì Tích Anh
Đào sâu nghĩa Kinh Dịch
Phân tích lý Xuân Thu
Đồng thanh thì tương ứng
Đồng khí thì tương cầu
Chan chứa tình vạn vật
Ngưỡng mộ đức ân sâu
Công tư việc rất nặng
Nghĩa lợi xét rạch ròi.
Học làm sáng đức sáng
Tập phong nhã hoài oanh
Lo toan theo hiền thánh
Khó nhọc trước dân mình
Rạng ngời đức sáng tụ
Dựa Huấn dịch phẩm bình (1)
Những ai vào giảng dạy
Phấn khích tự nhiên sinh.
Theo cách sư á thánh
Cống hiến lấy ý thành
Ngàn thu phỏng lối cổ
Hợp hòa ngũ vị canh
Vua, đức như Nghiêu, Thuấn
Tôi, ngưỡng mộ Khiết, Cao (2)
Luật vua vững cơ nghiệp
Tôi hiền, nước chắc nền
Quyền A, giọng sang quý (3)
Thiên Bảo, tiếng đồng thanh (4)
Yến ngon, nước trà nõn
Bao thư thái trong lòng
Trung phu, cho điềm tốt
Thảo luận chừng còn lâu
Đồng sức xây văn hóa
Là lo việc nhân dân
TRÊN ĐƯỜNG NGÀY TẾT
Việc quân, đi ngày Tết
Hấp tấp như dịch phu
Mừng xuân cùng tỉnh Nghệ
Nắng sớm, thiên lý cù (1)
Đầu năm, ngàn thứ mới
Xứ lạ, khác giọng sao!
Châu Ái, chiều nay đến
Suốt đường gió lao xao.
NGHE ÔNG SƯ BẢO HOÀNG VĂN DIỄN ĐƯỢC VỀ HƯU
Hơi dở chỗ ham rượu
Khỏe, ốm uống tự nhiên
Phò hai triều liêm khiết
Đến bảy mươi quy điền
Nhượng Phù Tôn tài trí (1)
Hơn Thạnh Liệt quan viên (2)
Ngàn sau công luận định
Mấy dòng góp di biên
THƠ THUYỀN CÂU
(Nhiều người đòi làm thơ vịnh thuyền câu, 
ngẫu nhiên tôi có mấy vần góp vui)
Một vùng sông nước rộng
Thuyền như chiếc lá trôi
Chèo lang thang vô định
Mênh mông với mây trời
Bềnh bồng sóng tiếp sóng
Đầy thuyền ánh trăng rơi
Ngâm bài ca Thương lãng
Quên hết chuyện trên đời.
ỨNG CHẾ ĐÀN KHÔNG DÂY
Thèm nghe Quảng Lăng tán
Sài Tang mỏi cánh bay (1)
Ném sầu trong chén rượu
Gởi hứng khúc cầm hay
Gần gũi cùng tố chất
Lánh xa cõi rộn này
Tự hội thật thú vị
Nhạc phổ phải chọn thôi
Lối cúc ngày về nghỉ (2)
Phục Hy đã bảo rồi
Lạc đạo nghí hy nhan
Ý thầm ai biết được
Cao tình bất khả phan
Tiếng thơm còn lưu mãi
Vinh dự vua đề ban
TRƯƠNG QUẢNG KHÊ TIÊN SINH THI TẬP
Quyển 3
Biên tập: MIÊN THẨM (THẬN MINH)
THẤT NGÔN LUẬT
CUỐI NĂM
Văn chương khoe mẽ chút hư danh
Nên nỗi một đời cực tấm thân
Hoa liễu kinh thành trông ủ rủ
Phong sương đất khách, tủi vô ngần
Tương tri họ tộc còn bà chị
Đắc ý trên đời mấy bạn thân?
Ngày hết, bên song, chiều xuống chậm
Thu qua đông lại, sắp sang xuân.
XUÂN THƯ TRAI
Gặp buổi tàn đông lại nhớ nhà
Đón mùa xuân đến mấy câu ca
Rau dưa nhẹ bụng qua ngày tháng
Phòng sách âm thầm nỗi khách xa
Tài kém dám từ quan chức nhỏ
Phận hèn đâu oán tướng môn nha
Rong chơi tùy lúc ta thong thả
Thắng cảnh nơi nào chịu bỏ qua?
THU CẢM
Sáu năm lữ thứ quá long đong
Vạn mối sầu đan lại rối bong
Trăng sáng thu về ôm khóm lá
Hồn quê thao thức dậy trong lòng
Tâm tình xin gởi cho thi phú
Thân thể lo đền nợ núi sông
Những mối thâm tri đâu bỏ được
Bên hồ sen muộn một bầu không
THU HOÀI
Trước sân trăng chiếu, ánh sương trong
Gió đẩy riềm hiên lạnh cả lòng
Mấy đóa cúc vàng khi vãn tiết
Đầy rừng lá úa chớm sang đông
Nhớ nhà mộng vượt thiên trùng hiểm
Ngóng bạn dài thêm nỗi ước mong
Muốn ghé sư ông bàn Diệu Đế (1)
Một bầu cây cỏ nước xanh trong
THƯ GỞI QUAN HUYỆN BÌNH SƠN VÕ SÚC PHONG
Dân phong ở đó cũng phồn hoa
Rừng núi ruộng đồng non nước ta
Nghe nói bác vào trong đất ấy
Quê tôi nên giới thiệu sơ qua
Trà Bồng sông cạn cá vờn nước
Hoa Ổ rừng thưa chim hót ca
Như thử dao trâu nơi ấp nhỏ (1)
Mong sao đàn hát khắp muôn nhà
KHÓC ANH RỂ, LỄ SANH BÙI
Anh em gần gũi mới đây thôi
Giờ đã ngàn thu cách biệt rồi
Lương mọn mấy đồng, cam lỗi phận
Nghĩa tình một sớm, hạt châu rơi
Đêm thu đất khách mưa dai dẳng
Mộ mới quê nhà gió thổi xuôi.
Cao nghĩa như anh đâu dễ gặp!
Lòng em thương nhớ mãi không nguôi
KHÓC QUAN TU SOAN NGUYỄN NGỮ
Bụng to bệnh trướng đã lâu ngày
Mệnh yểu nhân tài thật tiếc thay!
Chí nguyện tang bồng chưa thỏa được
Đau lòng đôi chữ viếng thăm đây
Xương Cốc biết mình không sống thọ (1)
Cánh Lăng mới rõ tệ phô bày (2)
Trên đời ví có trường sinh thuật
Đâu cảnh phong tao vắng thế nầy!
KHÓC PHƯƠNG BÁ NGUYỄN TÌNH PHONG Ở NINH BÌNH
Thư sinh, nào đã thạo việc quân
Nợ nước lo đền đâu tiếc thân
Mấy túi văn chương thôi trả đất
Một bầu chí khí chẳng cầm chân
Rừng phong biên tái hồn đâu nhỉ?
Có kẻ trời nam mộng lý thân
Bạn trẻ hy sinh hơn quá nửa
Lòng ta quạnh quẽ xót vô ngần
TẶNG BÙI VĂN LÝ VÀO NHÀ THÁI HỌC VÀ CÁC BẠN CŨ CÒN GIẢNG DẠY Ở ĐÓ
Hai thế kỷ qua dựng đắp nền
Rừng Nho càng lúc sáng hơn lên
Vua ban bổng lộc ơn tình nặng
Minh thế văn chương giữ thật bền
Rực rỡ Ngân Hà ánh Khuê, Bích (1)
Dặt dìu Sông Tứ âm quản huyền (2)
Nhắn lời tôi gởi thăm bạn cũ
Tận lực báo đền ơn đức trên.
TIỄN ÔNG LÝ LÂN CHI VỀ LÀM HIỆP LÝ TỈNH QUẢNG NGÃI.
Trông về quê cũ dạ bồi hồi
Mũ lọng dập diều xem cũng tươi
Cai trị giỏi giang, tài hợp cảnh
Bình an vô sự, gởi anh tôi
Dân phong thuần hậu xưa nay vậy
Ngay thẳng đừng lo tệ đãi bôi
Ở Bộ đã lâu rành chính sự
Nay ông về tỉnh quá hay rồi!
TIỄN ÔNG GIẢI NGUYÊN BÙI VĂN LÝ VỀ NHẬM CHỨC TRI HUYỆN MỘ ĐỨC
Chững chạc đường mây thuận mọi bề (1)
Bốn mươi tham chính vững tay nghề
Tranh khôi đoạt giáp, nghìn người thắng
Lãnh chức làm quan, trăm dặm nghe (2)
Mẹ yếu, ông còn lo phụng dưỡng
Nhà tôi, huyện ấy cũng nằm kề
Tiễn ông về đó, nôn nao lắm
Bao nỗi u hoài thương nhớ quê
Lời bình: Một chùm thơ nhắc đến quê nhà với những xúc cảm thật thà chất phác. Đối với quê nhà, Nguyễn Đăng Quế có mối nhớ thương sâu nặng, Tôi chưa thấy có ai nhắc đến quê hương nhiều như thế với cảm xúc trìu mến như thế. Những hình ảnh, sự vật bình thường mà trở thành châu báu trong lòng tác giả, yêu quí lắm. Quê mình chỉ là một vùng đất bình thường như bao vùng quê khác.
NHẬN HOA CÚC, CHIA TẶNG BẠN LÀM THƠ KỂ LẠI
Nếu gọi văn chương cũng ngọc châu,
Tràng an như tớ có nghèo đâu
Chia ông mấy bụi hoàng hoa cúc
Kỷ Mão đồng khoa bạn với nhau
Đã chín năm trời lưu chánh sắc
Chỉ ba ngõ cách có xa nào!
Nhắc ông đặt chỗ sương nhuần thấm
Đóa đóa tươi xinh rực sắc màu
TIỄN CHÂN THẦY NGUYỄN THẬN TRAI ĐI TRẤN NHẬM QUẢNG NAM
Vẫn nhớ xưa thầy chủ khảo thi
Ngày nay ra trấn có xa chi (1)
Phù dung nở trắng tươi cung điện
Dương liễu xòa che mát lối đi
Nặng nỗi việc dân nên nóng ruột
Luyến lưu kinh khuyết hóa trù trì
Hải Vân, đèo lớn thiên nhiên đẹp
Cảm xúc ngâm bài “Mộc hữu chi” (2)
Chú thích:
(1) Trương Lương, Trần Bình, Hàn Tin, Quý Bố, những đại công thần sáng nghiệp nhà Hán
(2) Đại Phong: là tên khúc hát hùng tráng thời đó.
(3) Lưu Bị tam cố thảo lư cầu Khổng Minh ra giúp nhà Hán.
(4) Hai lần bị nguy cấp phải trốn dưới giếng tránh hỏa công của địch
(5) Tào Phi soán ngôi nhà Hán lên làm vua lấy niên hiệu là Hoàng Sơ
(6) Lưu Bị lên ngôi lấy niên hiệu là Chương Vũ nối nghiệp nhà Hán, ngay sau khi Tào Phi soán ngôi nhà hán, lập nhà Ngụy, niên hiệu là Hoàng Sơ.
(1) Không xét nét ghen tuông khi chồng có thê thiếp.
(2) Phận dâu nặng việc nhà, mà quan trọng hơn cả là việc cúng giỗ tổ tiên ông bà ở nhà chồng.
(1) Thi cưu là loài chim bố cốc, khi lúa chín thì kéo đến ăn nên người ta nghe tiếng nó kêu như thể thúc giục nông dân đi gặt lúa.
(2) Tất suất là con dế. Tiếng dế kêu cũng có ý thúc giục con người làm việc.
(1) Huấn dịch: tức Thập dụ huấn dịch thập điều của vua Minh Mệnh ban hành năm 1834, về văn hóa giáo dục.
(2) Khiết, Cao: tức hai ông quan có công lớn thời cổ. Ông Khiết làm quan Tư đồ giúp vua Vũ trị thủy thành công. Cao Dao, người chế ra ngũ hình giúp các vua Nghiêu, Thuấn trị an thiên hạ.
(3) Quyền A: một thiên thuộc Đại Nhã, Kinh Thi nói về người hiền tài.
(4) Thiên Bảo: một thiên thuộc Tiểu Nhã, Kinh Thi nói về việc chúc phúc quân vương
(1) Thiên lý cù: tức con đường thiên lý, gần trùng với Quốc lộ 1A hiện nay.
(1) Phù Tôn: Ông Nguyễn Thận Trai, người xã Phù Tôn.
(2) Thạnh Liệt: Ông Bùi Đoàn, người xã Thạnh Liệt. Hai ông làm quan đồng thời với ông Hoàng Văn Diễn. Ông Diễn làm tới Thượng thư bộ Lại, sung sư bảo dạy các Hoàng tử nhỏ
(1) Kê Khang soạn bài nhạc nổi tiếng Quảng Lăng tán. Đào Tiềm bỏ quan về nơi lều cỏ ở Sài Tang, trồng hoa cúc và chơi đàn cầm. Hai câu thơ nầy nhắc đến Kê Khang và Đào Tiềm, về âm nhạc và về chuyện từ quan.
(2) Lối cúc là lối đi trồng nhiều hoa cúc, nhắc đến Đào Tiềm.
(1) Tứ diệu đế theo thuyết nhà Phật.
(1) Dao trâu: Tích xưa, Tử Du học trò Khổng Tử làm chức ấp tể ấp Vũ Thành nước Lỗ. Người tài làm chức quan nhỏ cũng giống như dùng dao mổ trâu đem mổ gà, không xứng sức, phí tài đi.
(1) Xương Cốc: tích Lý Hạ, một nhà thơ tài năng quái dị thời Thịnh Đường, nhà ở Xương Cốc, mất năm mới 27 tuổi, có “Xương Cốc tập”.
(2) Cánh Lăng: tích Chung Tinh, một nhà phê bình thời Minh, bài bác tệ hình thức mà nội dung rỗng tuếch, trong thơ văn thời bấy giờ, chủ trương đi vào thực tế.
(1) Khuê, Bích: là sao Khuê, sao Bích thuộc nhị thập bát tú, tượng trưng cho trí tuệ, người tài năng hữu dụng cho đất nước.
(2) Sông Tứ: dòng sông chảy qua Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử, tượng trưng cho việc học. Âm quản huyền là tiếng đàn, trong lớp học thời Khổng Tử có âm nhạc làm nền
(1) Đường mây: tức thanh vân, tích xưa chỉ đường làm quan
(2) Trăm dặm: chỉ khu vực một huyện
(1) Trấn: tức là tỉnh ngày nay
(2) Mộc hữu chi: bài ca xưa nói về tính hoàn chỉnh của vạn vật. Cây có thân có nhánh, người có thầy có trò, không có thân làm sao có nhánh, không có thầy làm sao có trò.
TIỄN HOÀNG VĂN TÚ ĐI NHẬN CHỨC THAM HIỆP Ở NGHỆ AN
Chớ cho khí khái kém Hà Đông (1)
Chức phó cần người cứng tợ ông
Ngay thẳng ngày nay xem vẫn hiếm
Hoan châu nổi tiếng xứ chơi ngông (2)
Hoàn Phù chưa hết bao dư đảng (3)
Bột Hải làm sao gấp lập công? (4)
Đủ thấy tiền đồ gay cấn đấy!
Chúc ông công tác được hanh thông
LỜI DẪN
Thuở bé, tôi đã nghe người lớn đồn đãi đất Gia Định sĩ phong hào khí. Đến khi làm việc ở kinh sư, tôi quen ông Bùi Đình, người Gia Định, là người có khí phách, lại có tài. Rồi sau này quen với ông Trương Huỳnh Xuyên và ông Hoàng Văn Tú, đều là người quê Gia Định, bạn đồng niên khoa Kỷ Mão với tôi. Ông Trương, người nho nhã, giỏi thi họa, phong thái thật đàng hoàng. Còn ông Hoàng, nghe nói lúc nhỏ đã tỏ ra khí khái hơn người, dám cãi lại người trên, làm được những việc mà nhiều người khác không dám làm. Cái sĩ khí kỳ lạ ấy đều thấy riêng ở người Gia Định. Ông Hoàng làm chức Thiêm sự ở Bộ Lại, nay được bổ làm chức Tham hiệp Nghệ An trấn, bảo tôi làm thơ tiễn ông khi ông lên đường đi nhậm chức. Tôi là kẻ kém cỏi, may đậu Hương tuyển, đến kinh sư làm việc đã được sáu năm rồi. Giữa chúng bạn đồng lứa tài giỏi, như chim uyên chim phượng bay liệng trên trời cao, thì tôi còn chấp chới nơi lùm bụi (1), chậm lụt vô danh, đâu dám mở miệng luận bàn chuyện sĩ phu trong thiên hạ. Riêng với ông Hoàng, là người mà tôi khâm phục, nên cũng bạo gan theo luồng gió mà cất lên vậy, (2) huống chi ông và tôi còn là chỗ quen biết nhau. Song mấy lời của kẻ quê mùa nầy, chẳng đáng cho các bậc cao nhân để mắt đến. Ông Bùi, ông Trương thấy có đúng vậy không nào!
VỊNH CHIM OANH
Mình vàng, đầu biếc đẹp làm sao
Oanh đáng là vua chốn núi cao
Uyển chuyển hót vui như tấu nhạc
Lượn lờ đôi cánh dáng duyên sao!
Oanh vào thi phẩm Bạch Cư Dị (1)
Oanh đến hồ xuân Nhung sứ quân (2)
Tựa cửa ngồi chơi chiều rỗi việc
Tiếng kêu tìm bạn phải không nào?
TIỄN CHÁU BÙI HỮU NGHỊ VỀ QUÊ (cháu gọi bằng cậu)
Gió thu lạnh lẽo suốt đêm qua
Buồn bã nay đưa cháu lại nhà
Ngàn dặm xa quê, thân phận cậu
Trăm năm cuộc sống, kiếp người ta
Vườn xưa mộ mới, cô em họ
Quán trọ kinh kỳ, anh xót xa
Chớ nói năng chi khi tiễn biệt
Đau lòng đứng lặng giữa chiều xa.
TIỄN ÔNG NGUYỄN TÌNH PHONG ĐI NHẬM CHỨC THAM HIỆP NINH BÌNH
Vừa xong đảng giặc dân khôi phục
Đê vỡ càng gây khổ mấy lần
Cửu bệ nhìn xa, luôn tưởng đến
Một vùng cai quản, giỏi an dân
Những gì đã cũ không nên nhắc
Công tác chăm lo lại rất cần
Trân trọng chúc ông khi đến đó
Mọi bề thuận lợi việc canh tân.
TIỄN HOÀNG VĂN ĐẢN ĐI SỨ NHÀ THANH
Hai tháng nằm chờ chốn ải quan
Yên Đài nghi vệ mới thênh thang (1)
Sân chầu rộn rịp vua quan tiễn
Cảnh vật nôn nao đón sứ thần
Ngàn dặm cố công thân khảo sát
Một mình gắng sức, trí cân phân (2)
Nước ta từ thuở riêng bờ cõi
Văn vật y quan hoàn chỉnh dần.
TIỄN ÔNG TRƯƠNG BẢO CHI ĐI SỨ NHÀ THANH
Nho nhã như ông đang sức xuân
Sứ trình cừu mã cứ phăng phăng
Thơ Đường sành sỏi ba trăm tựa (1)
Mưa nắng xông pha đủ chín ngàn (2)
Nhân vật đông vầy xem mãn nhãn
Núi sông danh thắng, vịnh thả giàn
Nước ta từ thuở xưng văn hiến
Nông Nại từng lưu tiếng thế gian (3)
TIỄN ÔNG DOÃN VĂN XUÂN ĐI NHẬM CHỨC THAM HIỆP CAO BẰNG
Bình sinh nào biết nịnh xu gì,
Tư cách như ông đáng phát huy
Thái học tám năm cùng giảng dạy
Biên cương một cõi, chỉ ông đi
Vờn trông đất bắc nhiều danh thắng
Than thở trời nam vắng cố tri
Ruổi ngựa thành cao khi ngoảnh lại
Nhớ ông, ông nhớ, nhớ thương chi?
TRUNG THU XÚC CẢM
Tình nhà, nghĩa nước nặng bàn cân
Bao nỗi dày vò cực tấm thân
Phát triển tay nghề không có khiếu
Làm anh viên chức tạm xoay vần
Chăm chăm hưu trí liền sao tiện
Ngay ngáy Trung thu gặp bạn thân
Chửa báo ơn xong, ngày sắp hết
Mỗi lần Tết đến, dạ bâng khuâng
HỌA NGUYÊN VẬN BÀI "HẠ DẠ THƯ HOÀI" CỦA CHỈ THIỆN CHỦ NHÂN (Hoàng thái tử, sau là vua Thiệu Trị)
Sáu năm gần gũi kể là lâu
Xướng họa thường nên hiểu ý sâu
Qua lại thủy chung tình mật thiết
Thương nhau lầm lỡ trách chi đâu
Tấc thành cảm kích ngưng thành lệ
Lời dạy còn ghi để gối đầu
Trịnh trọng mấy lời xin ý kiến
Trên đời quý nhất chỗ thương nhau
XEM TRĂNG CÙNG CHỈ THIỆN CHỦ NHÂN
Sương tạnh mây đùn khói tỏa nhanh
Núi sông liền giải cảnh thanh thanh
Cùng nhau một tối, trăng thu sáng
Sâu lắng ngàn năm, một tấc thành
Thiết lập thi đàn ôn cố sự
Sửa sang tiệc rượu hướng dân thanh
Hằng Nga như hiểu lòng nhân thế
Soi tỏ trời đêm ánh diệu lành
NGẪU VỊNH
Chỉ mong thủ phận với an thường
Thế sự sao bày chuyện nhiễu nhương!
Mỹ ngọc còn treo chờ giá đắc
Hoa lan chẳng lộ vẫn bền hương
Thơ dù cổ điệu nhiều canh cải
Tài dẫu cao xa vẫn nhún nhường
Chỉ mỗi tấm tình không đổi được
Đêm qua trăng gợi nhớ quê hương
NGẪU VỊNH (tiếp)
Thu về càng nặng nỗi buồn thương
Lên gác trông vời dạ vấn vương
Lá ngậm hơi sương cùng rụng hết
Trăng đem hoa quế tỏa mùi hương
Mưa bay cảnh vật mờ trong gió
Khí tạnh bên trời ló ánh dương
Cảm mối tri âm tình rất nặng
Đâu là thân phận khách tha hương
TRUNG THU
Gió thu lay động nỗi u sầu
Rỉ rả côn trùng nghe thấm sâu
Đúng lúc trăng tròn trời đất rộng
Là khi kinh khuyết khách thân đau
Nhớ người trăm mối thêm chồng chất
Xử thế xu thời chẳng sức đâu
Hoa cúc tỏa thơm bày trước mắt
Cùng ta bền bỉ bạn từ lâu.
TỪ BIỆT TẬP THIỆN ĐƯỜNG
Chín năm giảng dạy nghĩa tình sâu
Nay bổ đi làm, dám trái đâu
Lưu luyến, nên buồn khi giã biệt
Nghẹn ngào, đâu thể nói nên câu
Mệnh vua trĩu nặng vai thần tử
Ơn nước cao dày thân dãi dầu
Nguyện ý thánh hiền đem thực hiện
Trước lo sau hưởng có quên đâu (1)
VINH TẶNG BÀ MẸ ÔNG TỐN PHỦ HÀ TÔNG QUYỀN (thân mẫu ông Tốn Phủ từ Bắc Kỳ vào, được vua triệu đến thăm hỏi, ban thưởng trọng hậu. ai cũng cho là vinh dự, đều làm thơ tặng, tôi cũng có hai bài)
* Bài 1.
Gần vua lo việc hóa thâm tri
Tao ngộ như ông được mấy khi
Mẹ được phỉ nguyền, vui sướng nhất
Đồng liêu mơ ước ấy vinh huy
Sáng ra cầm hốt công lầu thúy (1)
Tối lại bên người lộng thải y (2)
Đức Khổng có câu thơ chúc tụng
Tôi trung con hiếu mãi kiên trì.
* Bài 2
Tuổi trẻ tài cao nức tiếng đồn
Thi Đình một thuở nổi danh thơm
Cửu trùng yêu mến riêng ưu đãi (1)
Ngàn dặm xa xôi họp mẹ con
Làm phó cho vua, trai chí thỏa
Được gần thân mẫu, sướng thân rồi
Hôm qua thăm cụ, thương mình quá
Cây muốn lặng mà gió chẳng thôi (2)
Chú thích:
(1) Hà Đông: tích xưa chỉ người cứng cỏi có chí khí
(2) Hoan châu: tức Nghệ An ngày nay
(3) Hoàn Phù: tích xưa chỉ nơi lắm trộm cướp
(4) Bột Hải: tích xưa chỉ nơi đánh thắng giặc biển.
(1) Lời nói khiêm, lấy ý từ thiên Tiêu Dao Du trong sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử
(2) Nói khiêm, cũng lấy tích Tiêu Dao Du, ý nói nhờ gió mới bay lên được
(1) Bạch Cư Dị: nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường, có những bài thơ nhắc đến chim oanh oanh.
(2) Nhung sứ quân: tức Nhung Dục thời nhà Đường, đỗ Tiến sĩ, làm chức Thứ sử, người cứng cỏi, lại yêu thiên nhiên, xây hồ trong vườn tạo cảnh đẹp, thích cùng bạn bè nghe tiếng chim hót. Chức trưởng một vùng, thời nhà Đường đều gọi là sứ quân.
(1) Sứ đoàn đến Lạng Sơn, gởi giấy cho tỉnh Quảng Tây, nằm lại chờ, bên Quảng Tây giấy báo lên Bắc Kinh, thời gian khoảng 2 tháng, khi nhận được phúc đáp, sứ đoàn mới đàng hoàng nghi vệ cờ xe như đi hội Yên Đài để vào đất Trung Quốc, tới đâu thì được địa phương tiếp đón. Yên Đài là nơi cầu hiền thời Yên Chiêu vương
(2) Đi sứ ngày xưa mất cả năm, nên cũng là dịp sứ đoàn tham gia các loại lễ hội nơi nước lớn, nhân đó còn có nhiệm vụ khảo sát phong tục, kinh tế, xã hội trên đường đi và đường về. Sứ đoàn còn phải hoạt động ngoại giao, ăn nói đối đáp với vua quan nước người ta, làm sao giữ được tình hòa hiếu giữa hai nước và thể diện nước mình.
(1) Ba trăm tựa: tức sách “Đường thi tam bách thủ” bao gồm những bài thơ Đường tiêu biểu. Người đi sứ nào cũng phải sành, vì sách nầy thường sử dụng trong xướng họa ngoại giao với vua quan và người Trung Quốc thời bấy giờ
(2) Chín ngàn: Chín ngàn dặm từ nước ta đến kinh đô Tàu mà sứ phải đi từ Việt Nam đến Bắc kinh
(3) Nông Nại: tức xứ Đồng Nai, tức vùng đất Nam Bộ ngày nay.
(1) Phạm Trọng Yêm: một trung thần thời nhà Tống, trong bài phú Nhạc Dương Lâu ký có câu nổi tiếng: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc vi lạc”. (Lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân).
(1) Cầm hốt: Quan triều cầm nha hốt (cái hốt bằng ngà voi) đi làm, để ghi chép công việc cần bàn. Lầu thúy là chỗ vua làm việc, chỉ có một ít cận thần mới được vào đó làm việc thường xuyên với vua.
(2) Lộng thải y: Mặc áo sặc sỡ diễn tuồng làm vui cha mẹ. Tích Lão Lai tử trong sách “Nhị Thập Tứ Hiếu”
(1) Cửu trùng: tức là nhà vua
(2) Tích xưa, nói về lòng con thương nhớ cha mẹ, muốn được phụng dưỡng cha mẹ, mà cha mẹ không còn. “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng, con muốn nuôi mà cha mẹ đã qua đời”.
GỞI PHÚ BÌNH CÔNG (đã lâu không làm thơ, nhân tiết trời thu cảm tác)
Tan hết mây mù, cảnh lại trong
Chuyện xưa chợt sống dậy trong lòng
Mười năm quan chức đâu ra đó
Ba quyển Âm phù đọc chửa xong
Tiếng sáo thổi lên e lạc lõng
Thơ văn xướng họa sợ lung tung
Đã lâu thi hứng chôn trong bụng
Thu đến vô tình tứ lại hưng
ĐÁP PHÚ BÌNH CÔNG
Nhập thế sao bằng bậc sống nhàn
Sào lâm riêng cõi hưởng cư an (1)
Năm canh thầm hỏi vầng trăng đẹp
Mấy dạo xao lòng cảnh sắc xuân
Thuở trước người theo trông náo nhiệt
Ngày nay ai đến chuyện yên hàn?
Cố tri còn có người ngông đấy
Xướng họa cùng nhau kể chuyện xưa
VỊNH HẠNG VŨ
Tần cung ba tháng khói chưa tan
Gầm thét trùng đồng quá dữ dằn (1)
Hán đế phải hàng khi lận đận
Bá vương chẳng ngại lúc gian nan
Ngu cơ, lâm biệt bi thương quá
Phụ lão, quay về hổ tấm thân
Đình trưởng Tứ giang gồm đại cục
Thuyền không ghé nữa bến Ô giang
VỊNH TRƯƠNG LƯƠNG (1)
Thuyết khách rong xe vạn nẻo đường
Như ông khí tượng thật phi thường
Đang khi cuộc chiến Tần và Sở
Là lúc dùi mài Nhan với Tăng (2)
Phát hiện nhân tài Hàn quốc sĩ
Tôn quân đế tượng Hán Cao hoàng
Hán cơ sáng nghiệp, công cao nhất
Thiên cổ nào ai sánh Tử Phòng.
VỊNH GIẢ NGHỊ
Anh hùng tài tuấn buổi dương cương
Phải giáng Trường Sa thật đáng thương (1)
Ghé bến sông Tương chiêu Khuất Tử
Về làm Thái phó khóc Lương vương
Nửa đêm giải chiếu không đành dứt
Đời vắn tài cao khó liệu lường
Sự nghiệp như ông tôi tiếc lắm,
Cải biên cơ chế Hán điển chương
HỌA NGUYÊN VẬN BÀI THƠ CỦA PHÚ BÌNH CÔNG
VỊNH "NINH TĨNH THI TẬP"
Chưa thấy thân mình lụy tháng năm
Khi mưa gió đến chuốt sầu ngâm
Mơ hồ chuyện cũ nay còn nhớ
Buồn bực xuân qua chẳng bận tâm
Còn vọng bên tai lời cảm thán
Há quên trọn kiếp vẳng dư âm
Xem thơ để lại lòng đau xót
Đâu chỉ Dương Đàm lệ chứa chan (1)
GHÉ ĐỒN BIỂN CÙ HUÂN
Kỳ Xuyên qua khỏi cánh buồm dương
Thẳng đến Cù Huân Nhỏ nghỉ thuyền (1)
Chắn sóng ngoài khơi ba đảo đá
An cư dưới núi mấy lều tranh
Mưu sinh chỉ món cá và củi
Đổi chác sơ sài chợ bãi sông
Được ít rượu thô kêu chúng bạn
Vui vầy say khướt dưới tà dương
TỪ CÙ HUÂN ĐI GIA ĐỊNH
Buồm giương một mảnh thẳng vào nam
Ngàn dặm mù cao lộng gió khơi
Đến núi Cửu Diên thuyền chuyển hướng (1)
Theo triền Tam Động cát đùn cao (2)
Núi Bà sừng sững muôn trùng sóng (3)
Cổ thụ ken dày mấy vạn năm
Chiều xuống Cần Giờ triều mới dậy (4)
Thuận dòng trực chỉ tỉnh thành Nam
LÊN THÀNH CŨ PHIÊN AN CẢM TÁC
Bây giờ chiến địa cảnh sầu thương
Một khối thành to vướng họa ương
Vô cớ dân lành mang kiếp nạn
Bao phen tướng sĩ chịu phong sương
Tường tô lầu chạm san thành đống
Giáo gãy gươm cùn lải rải vươn
Giận kẻ ngông cuồng gây nạn nước
Mỗi lần nhớ đến lại sầu vương
ĐI THUYỀN DỌC
* Bài 1
Gia Định Tuy Ninh chiếc hải thuyền
Lần đầu xem cảnh kết tơ duyên
Đất trời trước mặt thênh thang lắm
Giồng bãi ven sông lau lách
Nhà bếp một mâm cơm đạm bạc
Nữ chài mấy rổ cá tươi nguyên
Thong dong ngắm cảnh qua song cửa
Ruộng lúa đương tơ mơn mởn xinh
* Bài 2
Công việc vừa xong, chút thảnh thơi
Dong thuyền đây đó thả rong chơi
Um tùm lùm bụi dân thưa thớt
Khúc khủy sông ngòi nước khó xuôi
Con nước vừa lên liền rút xuống (1)
Đang đêm trời tạnh thoắt mưa rơi
Nam Kỳ lục tỉnh đi cho khắp
Phong tục dân tình rõ tận nơi
THĂM NƠI QUÂN TA ĐÁNH THẮNG QUÂN XIÊM
TRÊN SÔNG BẾN LỨC
Cỏ non mơn mởn, nước mênh mông
Vằng vặc sao trời kiếm khí hung
Cửa Thuận, Long An bày chiến địa
Nam Vang, Châu Đốc bỏ thành không
Đầy trời súng nổ khói mù mịt
Khắp đất bụi bờ máu nhuốm hồng
Tả tướng lui quân dàn thế trận
Phá tan quân Thái có là công? (1)
HÀ TIÊN (1)
Xa tít muôn trùng sóng mấp mô
Trăm năm họ Mạc dựng cơ đồ
Núi de sát biển vùng xinh đẹp
Nhà dựng ven sông, bóng nhấp nhô
Kim Dự, Phù Dung nhiều sự tích (2)
Đông Hồ, Nam Phố cũng quy mô
Dong thuyền thăm hết bao danh thắng
Chạnh tưởng Lư Khê bóng điếu đồ. (3)
SÁNG SỚM ĐI THUYỀN TỪ AN GIANG ĐẾN TRẤN TÂY
Một vùng cảnh sắc lạ vô cùng
Xanh biếc một màu ngút mắt trông
Uốn khúc đường đê đùn khói bếp
Sông to Tiền Hậu tỏa hai dòng
Khách thương đông đúc thuyền lai vãng
Đất cát phì nhiêu tốt lúa trồng
Dừng nghỉ nắng trưa trong bóng trúc
Tiếng ca đâu đó ở ven sông
TỪ LẦU THÀNH TRẤN TÂY
Khống chế cả vùng biên trấn nầy
Đồn binh lương thảo giáo gươm đầy
Thừa khi công chúa lên ngôi báu
Là lúc nguyên nhung lập kế hay
Mười sáu phố phường dân hội tụ
Bốn luồng dòng rẽ nước thông đầy
Lên cao đưa mắt nhìn toàn cõi
Vạn lý thu về nước Việt đây
TỤC BIÊN DĨ HẠ
ĐỀ ĐỘNG HỒ CÔNG
Hơi nước vươn mù thật tĩnh yên
Hồ công động núi cảnh thiên nhiên
Năm nào thần tích in hang đá
Nay có chân người ngộ túc duyên
Hồng Đức thánh quân nên đắc đạo
Tràng Phòng phàm tục chẳng thành tiên
Xứ Thanh danh thắng đây là nhất
Mới đến nhưng xem đã thích liền
VỊNH NGUYÊN VẬN BÀI THƠ TỰ THUẬT CỦA PHÓ SỨ NGUYỄN TOẢN PHU
Lấy chuyện ngàn năm xét tội, công.
Trọng hình thức quá, thiếu nội dung
Làm thân đi sứ cần khiêm tốn
Đừng ngại lời bàn bọn rởm ngông
Bàn thác chuyện xưa câu khí khái (1)
Bề tôi việc mới chí tang bồng
Mai đây, công việc gian lao đấy
Đồ sộ tiền trình khó liệu xong.
ĐI CHƠI KIM SƠN CÙNG NGUYỄN TOẢN PHU
Chinh chiến từng qua bao núi non
Nay cùng du ngoạn cảnh Kim Sơn
Hơn mười tiểu đỉnh xuyên nham động
Một khúc trường ca dậy sóng lòng
Khoáng đãng hồ im khung mặt nước
Ngang tàng núi dựng bức bình phong
Bạn hiền cảnh đẹp càng thêm thích
Lưu Nguyễn thiên thai thỏa ước mong
TẾT ĐOAN NGỌ
Một năm, ba trăm sáu chục ngày
Sao có mùng năm khác, lạ thay!
Người Sở việc chi khơi tế độ?
Dân Nam từ đó tiếc thương hoài
Ba quân còn chịu muôn lam chướng
Đâu thể mình ta tiệc tỉnh say
Lặng lẽ phòng riêng không tiếp khách
Đoan dương, chuyện vặt bỏ ngoài tai.
NÚI TAM ĐIỆP
Rập rình cờ xí rợp trời trong
Dằng dặc vời xa núi trập trùng
Ngàn kỵ tiến vô Tam Điệp hiểm
Vạn sơn qua lại một đường thông
Nhấp nhô ẩn hiện trông vui mắt
Khúc khuỷu vòng vo vẻ bất đồng
Mỏi mệt mấy ngày đường vất vả
Trong lòng chưa hết nỗi lo chung
HÀ NỘI HOÀI CỔ
Chợt giở An Nam cựu địa đồ
Thăng Long thời trước vốn kinh đô
Phồn hoa nức tiếng bao triều đại
Phong cảnh so ra khác hiện giờ
Thủ phủ ngàn năm dân tụ hội
Đền đài mấy chỗ cảnh hoang vu
Mênh mông sông Nhị trôi nhanh thế?
Thắng cảnh thành tây Trúc Bạch hồ
LÊN THĂM NÚI DỤC THÚY
Non xanh nước biếc tiếng Ninh Bình
Công vụ lần nầy dịp đến nhanh
Còn mới, Hộ thành ơn ngự tứ
Từ lâu, Dục Thúy đẹp vang danh
Mặt nam, lởm chởm cao phong nhọn
Hướng bắc, mênh mông nước thẫm xanh
Từ giã lên đường còn ngoái lại
Nhớ hoài sắc đá vết rêu xanh (1)
VIẾNG QUAN THƯỢNG THƯ BỘ LỄ HÀ TÔNG QUYỀN (TỐN PHỦ)
Dẫu nói ngàn lời cũng chẳng nên
Văn chương, vua mến đã đề tên
Nhân tài trẻ tuổi danh tiền bảng
Tuyệt thế thông minh tiếng sấm rền.
Hoạn lộ thênh thang sao vội bỏ
Rượu chè trai gái chẳng hề quen
Sống hơn bốn chục không là yểu
Thương tiếc trong lòng khó thể quên
TẶNG QUAN THƯỢNG THƯ BỘ CÔNG BÙI ĐOÀN VỀ HƯU
Đường đời từng gánh lắm gian nan
Phải chịu ba lần giáng chức quan
Lên xuống cả đời, đành sống nhún
Nổi trôi suốt kiếp, chịu cư bần
Mình mang bệnh nặng nên hưu trí
Chức phận lo tròn nhẹ tấm thân
Muốn bước theo ông chưa thể được
Ở, về đâu phải chuyện dễ bàn
TIỄN LÊ VĂN ĐỨC ĐI KINH LƯỢC TRẤN TÂY THÀNH
Công lao lừng lẫy đất Vân Trung (1)
Chân Lạp an dân việc cũng thường
Phẩm vọng xứng vai đầu Nội các
Công danh phần lớn việc biên cương
Suốt đời phát triển bao phong tục
Bền dạ hằng trông một cố hương
Nam bắc đi về không biết mỏi
Đem thanh giáo tới tận muôn phương
NHỚ THƯƠNG SƠN CÔNG (Họa thứ vận bài thơ đề vách nhân lễ khánh thành Đồng Vân quán)
Rào tre, lối cúc thật an nhàn
Cảnh vắng mượt mà cây cỏ xanh
Nghiệp giá thơm nồng hương sách cổ
Trịnh gia quý phái chị em thân
Dương Xuân Bạch Tuyết nghe văng vẳng
Tịnh Tiết vô huyền quả rất gần
Phong nhã làm sao! Lời chính đáng
Hạc minh văng vẳng biết bao lần
TẶNG ÔNG NGỤY THIỆN PHỦ TỔNG ĐỐC SƠN HƯNG TUYÊN
Khoe tốt, tranh hay chuyện thế gian
Biết nhau tôi bác mắt đều xanh (1)
Ý thơ sâu lắng như Ma Cật (2)
Phong độ ôn hòa giống Tạ An (3)
Tin tưởng vua giao ba tỉnh ấy
Điềm lành trời báo ngũ vân đoan
Cùng nhau góp sức xây cơ nghiệp
Chẳng phải loanh quanh thơ với văn
ĐƯỢC PHÉP VỀ QUÊ (Vua ban thơ tiễn, họa nguyên vận)
Vua tôi tình nghĩa cũng là lâu
Già yếu xin về, dám phụ đâu!
Báo quốc một lòng soi bóng nguyệt
Ưu dân bao nỗi bạc thêm đầu
Ơn vua suốt kiếp thân nhuần gội
Lộc nước bảy đời tộc thấm sâu
Bắt chước ngày xưa lời chúc tụng
“Tam Đa” phong nhã thuộc làu làu.
TIẾP TRUNG SỨ (1) (Họa nguyên vận thơ Ngự Chế)
Suy nhược bệnh nhiều lão phế nhân
Nhiều năm ơn nặng quá Đường thần(2)
Thuốc tiên ban tặng tan cơn bệnh
Thơ thánh ngâm nga đậm mối thân
Cảnh khó e không tròn báo đáp
Tình sâu nên chẳng ngại gian nan
Bình sinh rất trọng tiên hiền dạy
Việc trái làm sao dám luận bàn
CẦU ĐƯỢC MÙA (Họa thơ Ngự Chế)
* Bài 1
Trăm nghĩ ngàn lo luôn trước dân
Mong cho đồng ruộng cỏ đừng lan
Sâu rầy diệt hết mùa tươi tốt
Lúa má sinh sôi ngút mắt xanh
Vẫn muốn ban lành Ân thánh chúa (1)
Còn mong cứu hạn Phó Nham thần
Hoa màu chăn thả thêm chài lưới
Đại hữu năm nầy lại tiếp năm (2).
* Bài 2
Hạ chiếu hàng năm đến tỉnh thành
Trời mưa trời tạnh cũng lo toan
Kịp thời cứu trợ dân khi đói
Mãi mãi siêng năng chuyện tưới tiêu
Hãy nhớ tiên ưu gương xán lạn
Đừng quên hậu lạc phú gia ngư (3)
Thẹn vì chẳng xứng lời khen tặng
Ân sủng ban riêng đã quá nhiều
THU HOÀI
Hiu hắt đêm dài gió chẳng thôi
Đang rầu chạnh nhớ lại thu rồi
Lên cao ngắm biển ai làm bạn?
Xúc cảnh mong người dạ biết thôi
Rả rích sương rơi thương cúc héo
Lửng lơ lá rụng nhớ cành côi
Xuề xòa tạm sống qua ngày tháng
Hình dáng ai về gương bóng soi
Chú thích:
(1) Sào lâm: Tích xưa, Sào Phủ ở ẩn nơi Sào lâm. Sào Phủ là người tài cao, nhưng không chịu ra làm chức quan.
(1) Hạng Vũ: dòng dõi quý tộc nước Sở. Khi Tần diệt lục quốc, thống nhất Trung Quốc được một thời gian thì quý tộc các nước nổi lên trả thù. Hạng Vũ sức khỏe hơn người, đặc biệt mắt có hai con ngươi (trùng đồng), khởi binh đánh nhà Tần chín trận đều thắng, Lưu Bang làm chức đình trưởng ở huyện Bái bên giòng sông Tứ (Tứ giang) cũng nổi lên đánh Tần. Ban đầu Lưu Bang yếu hơn phải tạm về hàng Hạng Vũ cùng đánh Tần. Hạng Vũ xưng là Sở Bá vương, chiếm được kinh đô nhà Tần, đốt cung A Phòng cháy suốt ba tháng, nhưng sau lại bị bại dưới tay Lưu Bang, tính chạy về Giang Đông nước Sở quê hương. Khi đến bên sông Ô Giang, quan quân tan tác, vợ là nàng Ngu Cơ tiết liệt tự tử để khỏi vướng chân chồng. Trước cảnh bi thương vợ chết, Hạng Vũ hổ thẹn không dám trở về gặp lại phụ lão Giang Đông (nước Sở), nên không lên chiếc thuyền ghé đón qua sông thoát khỏi truy đuổi của quân địch, mà tự cắt đầu tự tử, tiêu tan theo cơ nghiệp.
(1) Trương Lương: tự Tử Phòng vốn là quý tộc nước Hàn, bị Tần diệt, nên mang chí khôi phục. Khi Lưu Bang khởi binh, Trương Lương theo về, là người hoạch định kế sách dẫn đến thắng lợi mở ra triều đại nhà Hán. Ông phát hiện nhân tài Hàn Tín (gọi là Hàn quốc sĩ) khi còn làm chức quan nhỏ bé hầu cận cho Hạng Vũ. Chính Hàn Tín sau khi về với Lưu Bang đã chỉ huy quân đội đánh bại Hạng Vũ. Trương Lương là người có công đầu của nhà Hán, nhưng sau khi lập xong triều Hán, ông lặng lẽ bỏ quan chức vào núi tu tiên
(2) Nhan, Tăng: là Nhan Hồi và Tăng tử, hai học trò giỏi chính trị của Khổng Tử.
(1) Giả Nghị: người thời Tiền Hán, (Hán Văn đế 179-157 TCN), học rộng tài cao, hơn hai mươi tuổi đã làm đến Thái trung đại phu, ông đề xuất chỉnh sửa cơ chế cai trị theo điển chương nhà Hán thời bấy giờ, nhưng bị bác bỏ, bị biếm làm Thái phó cho Trường Sa vương, sau làm Thái phó cho Lương vương, là chức quan phụ tá ở địa phương, không quyền hành gì. Khi đi ngang qua đò sông Tương, nơi ngày xưa Khuất Nguyên trầm mình, ông làm văn điếu thả xuống sông. Lương vương bị ngã ngựa chết, ông thương cảm khóc lóc, rồi chết theo khi mới ba mươi ba tuổi.
(1) Dương Đàm: tích xưa, Dương Đàm là cháu danh sĩ Tạ An thời nhà Tấn rất mến phục Tạ An. Khi Tạ An qua đời, chôn ở Tây châu, thì Dương Đàm buồn thương vô cùng, không còn ăn chơi như trước, tránh đi qua Tây châu. Có lần say quá, xe đi qua Tây châu, tùy tùng nói cho biết, ông rầu rĩ xuống xe khấu đầu ngâm câu: “Sanh tồn hoa ốc xứ, linh lạc tại sơn khâu”, khóc thương
(1) Cù Huân Nhỏ và Cù Huân Lớn là hai đồn biên phòng ngoài đảo ven biển thuộc tỉnh Khánh Hòa.
(1) Cửu Diên: rặng núi có chín ngọn nhô ra biển thuộc tỉnh Bình Thuận
(2) Tam Động: ba đụn cát cao, nay là Mũi Né, thuộc tỉnh Bình Thuận
(3) Núi Bà: thuộc Bà Rịa Vũng Tàu
(4) Cần Giờ: cửa biển Cần Giờ, nơi thoát ra biển đông của các con sông Đồng Nai, Sài Gòn, Vàm Cỏ. Cửa biển nầy thuộc phạm vi bán nhật triều, mỗi ngày có hai lần triều lên và hai lần triều xuống. Ghe thuyền thời xưa, khi đi từ biển vào thì chờ con nước (triều) lên, khi đi ra biển thì chờ con nước xuống, thuận dòng theo con nước, đỡ phải chèo chống.
(1) Nam Bộ: thuộc vùng biển theo chế độ bán nhật triều, một ngày có hai lần con nước lên và hai lần con nước rút.
(1) Đánh tan giặc, nhưng lại lui binh bỏ Nam Vang, Châu Đốc. Đây là nói về Đại tướng Trương Minh Giảng và Đại tướng Nguyễn Xuân lui binh từ Trấn Tây và Châu Đốc để rồi đánh tan quân Xiêm trên sông Bến Lức.
(1) Hà Tiên: xứ Hà Tiên giáp biển địa đầu tây nam nước ta, do Mạc Cửu lập làm thủ phủ của vùng lãnh địa duyên hải từ Thái Lan đến Campuchia, Việt Nam ngày nay. Vốn người Quảng Đông Trung Quốc, khi nhà Thanh chiếm toàn bộ Trung Quốc, Mạc Cửu đưa gia đình họ tộc, đồng hương rời quê hương ra đi bằng thuyền, đến địa phận vịnh Thái Lan thì đổ vào, lập làng mạc, chiêu tập dân lưu tán lập Hà Tiên quốc, đến năm 1714 xin phụ thuộc vào Chúa Nguyễn, thời Nguyễn Phúc Chu. Đến năm 1735, Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ lên thay làm tổng đốc Hà Tiên. Thiên Tứ là con của Mạc Cửu và một phụ nữ Việt ở Đồng Nai, có công mở rộng thôn làng và phát triển văn hóa tại vùng đất mới còn hoang vu.
(2) Xứ Hà Tiên có mười thắng cảnh, trong đó có:
Kim Dự Lan Đào
Tiêu Tự Thần Chung (chùa Phù Dung)
Nam Phố Trừng Ba
Đông Hồ Ấn Nguyệt
Lư Khê Nhàn Điếu…
(3) Điếu đồ: người câu cá, chỉ Mạc Thiên Tứ, con Mạc Cửu, người lập ra Thi đàn Chiêu Anh Các, thường ngồi câu cá ở Lư Khê.
(1) Bàn thác: Tích câu nói khí khái của Ngu Hủ: “Bất ngộ bàn cân thác tiết hà dĩ biệt lợi khí hồ?” (Không cầu việc dễ, không tránh việc khó, là chức phận của kẻ bề tôi. Không kinh qua gian khổ làm sao phân biệt người có chí).
(1) Đài ngân: trong nguyên tác nghĩa đen là vết rêu, đồng thời cũng có nghĩa là tình bạn keo sơn.
(1) Lê Văn Đức: người tỉnh Vĩnh Long, Nam Kỳ, đỗ Cử nhân, từng làm tham tán cho Nguyễn Công Trứ đánh dẹp Nông Văn Vân ở Vân Trung thuộc tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kỳ. Năm 1841, ông được thăng chức Tổng thống quân vụ cầm quân đánh tan quân Xiêm, được khắc tên vào bia võ công. Ông liệu lý mọi việc ở Trấn Tây thành (Campuchia) như một phó vương.
(1) Mắt xanh: tích Nguyễn Tịch thời Tấn, một trong bảy người hiền (Trúc Lâm thất hiền). Mắt Nguyễn Tịch xanh khi tiếp người tài đức, mắt Nguyễn Tịch trắng khi phải tiếp kẻ phàm phu.
(2) Ma Cật: Vương Duy tự Ma Cật, một thần đồng thời Thịnh Đường.
(3) Tạ An: người thời nhà Tấn, nổi tiếng từ nhỏ, phong thái đoan trang, tính tình trầm tĩnh, tư duy sâu sắc.
(1) Trung sứ: Người mang lệnh vua đến cho các quan. Đây là người theo lệnh vua đến thăm bệnh
(2) Đường thần: tích vua Đường Thái Tông Lý Thế Dân cắt râu hòa thuốc.
(1) Ân thánh chúa, Phó Nham thần: tích Phó Duyệt ở trong vùng Phó Nham. Vua nhà Ân vời ra làm quan, giỏi tài trị nước, khiến đời sống nhân dân sung túc
(2) Đại hữu: tên một quẻ trong Kinh Dịch, chỉ mùa màng bội thu.
(3) Tiên ưu, hậu lạc: Trong bài phú nổi tiếng “Nhạc Dương Lâu ký” của Phạm Trọng Yêm thời Tống có câu: “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (người cai trị thì lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ).
HỌA THƠ VUA NƠI KINH DIÊN (Ngay sau khi giảng bài)
Trường học chẳng là chỗ nói suông
Trị bình cốt mở rộng lòng nhân
Ưu tư ý chúa mưu bền vững
Gắng sức lòng tôi việc chẳng nhàn
Quy hối bàn sâu tìm Lã, Phạm (1)
Hình danh đâu thể học Thân, Hàn
Đề từ châu bản ngầm tu chỉnh
Trân trọng lời vua dặn các quan
VỊNH SỬ ỨNG CHẾ
VỊNH GIA CÁT LƯỢNG
Cày bừa sống lẫn với nông dân
Cá nước sum vầy thỏa tấm thân (1)
Tam Quốc trời bày chân vạc thế
Ngũ Nguyên sao báo khí người phân (2)
Tào quân đành chịu di cân nhục (3)
Lương Phụ ngâm hoài mối bận tâm
Để lại Xuất sư Tiền, Hậu biểu (4)
Ngàn sau thương tiếc bậc lương thần
VỊNH TRƯƠNG TUẦN (1)
Dẫu rằng không thể giữ Thư Dương
Tiết liệt hy sinh thật đáng thương
Khôi phục cả hai kinh Tràng, Lạc (2)
Đảm đương luôn một dải Hoài, Giang,
Nam, Lôi tuẫn nạn cô thành vỡ
Quách, Lý thành công khắp chiến trường (3)
Thiên đạo, nhân luân gồm đủ cả
Vua tôi đại nghĩa ấy cương thường.
VU KHIÊM (1)
Trận thua Thổ Mộc, nước đâu còn (2)
Ra sức phục hồi quả đại công
Bãi chuyện về nam, an xã tắc
Bàn mưu phạt bắc, diệt hồ nhung
Tòng quyền phải lập tân quận vị
Theo giặc ai phò cựu chúa công
Nhiệt huyết một bầu không tỏa được
Thương thay! công lớn lại hàm oan.
BỔ DI DĨ HẠ
KHÓC ANH
Vừa khóc em đây, lại khóc anh
Buồn đau cùng lúc ập vô mình
Cháu con côi cút cần răn dạy
Quan chức làn nhàng kiếp nhân sinh
Tai họa vốn không chia nỗi khổ
Ông xanh sao lại quá vô tình
Về quê chỉ gặp đôi mồ lạnh
Chỉ biết kêu lên nỗi bất bình.
ĐI DẠO NGOẠI THÀNH
Đi dạo một mình, mạch với thiên (1)
Thả hồn bay bổng giữa thiên nhiên
Đường đời như thuận mà không thuận
Cảnh sắc như liền lại chẳng liền
Leo núi nên tìm cho được lối
Qua sông đừng để cảnh không thuyền
Đào nguyên khách mộng ai mà biết
Vô số hoa đào rắc động tiên.
HỌA NGUYÊN VẬN BÀI "VĂN OANH" (Khi cùng ngồi với Thái tử ở Chỉ Thiện đường)
Sắc liễu xanh rờn tháng trọng xuân
Chòm cao oanh cất tiếng trong ngần
Dường như tâm lý lo cô độc
Bay nhảy buông lời ghẹo kết thân
Mặt nước ru người hồn sảng khoái
Khúc đàn nhớ bạn giọng bâng khuâng
Tiếc thay đời ít tri âm quá
Vẫn chỉ đông quân nghĩa cũ càng
NHỚ NGƯỜI XA
Nhớ khi chia biệt dặn bao lời
Đằng đẵng vô tình năm tháng trôi
Biên tái thiết tha từng bữa một
Hoàng cung thao thức mấy thu rồi
Năm canh mơ mộng lần theo gió
Sáng sớm u sầu biếng điểm ngôi
Dự tính đầu thu về thật gấp
Mà trăng vẫn cứ lạnh lùng thôi
ĐƯA TIỄN PHƯƠNG BÁ HOÀNG KIỆN TRAI ĐI NHẬM CHỨC Ở GIA ĐỊNH
Ba chục năm nay bạn cố tri
Tính ông cương trực thảy tôn suy
Vào Nam phó nhậm hơi xa thật
Đông Phố chờ quan lại đúng khi
Đất cát phì nhiêu canh tác khỏe
Nhân dân từng trải sống tùy nghi
Tôi từng ở đó lo công việc
Tiên cảnh đào nguyên chẳng đáng gì.
CHƠI NÚI NGỰ BÌNH NGÀY TRÙNG CỬU (Mùng 9 tháng 9- cùng các quan theo hầu các hoàng tử)
Trùng cửu lên chơi núi Ngự Bình
Vin cây, vịn đá nắm tay nhanh
Mang theo thuốc uống say không sợ (1)
Chúc thọ hoàng gia hướng đế kinh
Ngắm biển, vầng dương dần ló dạng
Nhìn quanh, đồi núi nhấp nhô xinh
Ở đây, hoàng tử tài thơ cả
Cảnh đẹp ngày vui chẳng dám tranh
TỤC BỔ DI
Lời dẫn:
Nhìn cảnh quý khách ân cần tỏ lòng thành kính trước bàn thờ tổ thủy đình thật là cảm động, bối rối chưa nói được lời cảm tạ sâu sắc, cũng như chưa trao đổi đôi lời thanh nhã. Sau khi quý khách ra về, nhớ lại lúc ngồi trên thuyền đưa tiễn, tưởng tượng quang cảnh ấy, làm bài thơ thô mộc nầy, gọi là chút dư cảm.
Một khúc ly ca vọng thủy đình
Đâu ngờ tiên nữ giáng nhân sinh
Tả Phần tài học gia phong hậu
Tô Huệ văn hay trí bẩm sinh
Phóng bút lạm bình kho cựu mộng
Đàn cầm réo rắc suối tân thanh
Có vầng trăng sáng cùng đưa tiễn
Nhớ lúc chia tay vô hạn tình
THẤT TỊCH HỮU HOÀI (1) (Gởi Thương Sơn công)
Thủy đình chia biệt nghĩ đâu đâu
Tháng bảy mưa rơi lại thấy rầu
Cầu nối hai sao cho quãng ngắn
Thư nhờ chú chép chuyển thì lâu
Nam mai thủy liễu viền xinh thật
Bích Hán Ngân Hà ánh sắc thu
Thi xã Tùng Vân sao chẳng rõ (2)
Nào ai tranh giải vịnh mùa ngâu
HỌA NGUYÊN VẬN HAI BÀI "KIẾN HOÀI" CỦA THƯƠNG SƠN CÔNG (Đồng gởi Triệu Phong công)
* Bài 1
Trăng sáng thu về đêm vắng tanh
Chập chờn nhớ lại thuở làm quan
Lan Đình thắng hội say còn nhớ (1)
Bạch Xã danh thi lão vẫn mong
Nhà mát thơ nhàn theo họ Tạ (2)
Ruộng nhiều lúa tốt học nơi Phàn
Nhìn lên sắp sáng, xa kinh quá
Chỉ thấy lau già sương vẫn trong
* Bài 2
Về hưu nhà cũ mặc xuề xòa
Lá rụng thu sang chạnh tuổi già
Đã hết quan to bàn chiến lược
Nên gần dân giả kết thông gia
Ruộng bên vui thấy sân đầy lúa
Biển sát buồn nghe sóng dữ qua
Tựa bóng dừa trông về hướng bắc
Mịt mù kinh khuyết khói mây xa
THU CẢM
Từ khi về ở Khúc Giang đông
Mọi thứ phồn hoa chuyện sắc không
Thấm thoắt đã vào thu tháng tám
Lững lờ sáng tỏ một vầng trong
Gió xao cây quế hương thơm nhẹ
Sương thấm rừng phong lá rực hồng
Xong khúc Nghê Thường trăng cũng vắng
Quảng Hàn giá lạnh có buồn không
TRƯƠNG QUẢNG KHÊ TIÊN SINH THI TẬP
Quyển 4
Biên tập: MIÊN THẨM (THẬN MINH)
THỂ NGŨ NGÔN TUYỆT
ĐỀ CHIẾC QUẠT TRE MÀU TRẮNG
Linh lung chất quân tử
Nhã đạm cùng mỹ nhân
Thay cho luồng gió mát
Sớm tối kề bên thân
THIẾU NỮ
Thôn kia có cô bé
Thâm khuê chửa biết gì
Người ta bảo thu đến
Cũng chẳng thấy buồn chi
Chú thích:
(1) Lã, Phạm: Lã Tổ Khiêm và Phạm Trọng Yêm cùng thời Tống. Chủ trương thuyết “Quy Hối”, nghiên cứu cặn kẽ Kinh Sử, theo đó mà làm, không theo Tính mệnh.
Thân, Hàn: Thân Bất Hại và Hàn Phi Tử thời Chiến Quốc chủ trương thuyết “Hình danh”, lấy danh buộc vào trách nhiệm, dùng hình phạt nặng để cai trị, như luật pháp ngày nay, nhưng thời bấy giờ rất khắc nghiệt, vì nhằm củng cố nền quân chủ trong thời loạn.
(1) Cá nước: Lưu Bị ba lần đến nhà tranh của Khổng Minh mới mời được Khổng Minh đang ở ẩn ra giúp mình.Lưu Bị bảo: Ta có Khổng Minh như cá có nước vậy.
(2) Ngũ Nguyên: tên một chòm sao.
(3) Di cân nhục: Khổng Minh đánh Ngụy, tướng Ngụy là Tư Mã Ý đem quân chận giữ không đánh. Khổng Minh khiêu chiến muốn Tư Mã Ý tức khí ra đánh để rơi vào chiến thuật của mình, nhưng Tư Mã Ý vẫn không chịu ra, Khổng Minh khiêu khích bằng cách gởi tặng Tư Mã Ý chiếc khăn phụ nữ, ý chê nhát như đàn bà. Tư Mã Ý nuốt nhục nhận khăn, vẫn cố thủ để khỏi bị rơi vào kế của Khổng Minh.
(4) Xuất sư Tiền Hậu biểu: Khổng Minh sáu lần đem binh diệt nước Ngụy, đều thất bại. Khi Lưu Bị qua đời, con là Lưu Thiện nối ngôi ham chơi. Khổng Minh đem quân đi đánh Ngụy, hai lần viết biểu khuyên Lưu Thiện, lời lẽ thống thiết như cha khuyên con. Hai bài, Tiền Xuất sư biểu và Hậu Xuất sư biểu là hai áng văn chương đỉnh cao của nền văn học Trung Quốc.
(1) Trương Tuần: người thời Đường, học rộng, đậu Tiến sĩ, làm quan lệnh Thanh Hà. Khi An Lộc Sơn dấy loạn, Đường Minh Hoàng lần lượt bỏ kinh đô Tràng An, rồi Lạc Dương, Trương Tuần khởi binh đánh giặc. Ban đầu đánh đuổi quân giặc khỏi vùng Giang, Hoài (tức Nam Trung Hoa), chiếm lại thành Thư Dương cố thủ. Địch phản công, chiếm lại Thư Dương, Trương Tuần bị sát hại
(2) Tràng, Lạc: tức Tràng An và Lạc Dương, hai kinh đô thời Đường Minh Hoàng
(3) Giang, Hoài: tức sông Trường Giang (Dương Tử) và sông Hoài Hà
Nam, Lôi: Hai tướng của Trương Tuần cùng hy sinh trong trận thất thủ Thư Dương.
Quách, Lý: tức Quách Tử Nghi và Lý Quang Bật hai tướng khởi nghĩa đánh bại An Lộc Sơn
(1) Vu Khiêm: đỗ Tiến sĩ thời nhà Minh, làm đến chức Tả Thị lang bộ Binh, rồi Thượng Thư bộ Binh, Mông Cổ đánh vào trường thành, vua Minh Anh Tông thân chinh bị địch bắt làm tù binh. Triều đình bàn lui về nam, Vu Khiệm bác bỏ, lập em vua lên làm vua tức Cảnh Đế, cầm quân đánh đuổi được quân giặc, cứu Anh Tông. Anh Tông lại lên ngôi, nghe lời dèm, phế Cảnh Đế, giết Vu Khiêm. Đến thời Minh Hiếu Tông Vu Khiêm mới được giải oan.
(2) Thổ Mộc: Đồn binh phía tây tỉnh Sáp Cáp Nhĩ, nơi vua Anh Tông nhà Minh thân chinh trấn giữ, bị thua trận rồi bị bắt làm tù binh.
(1) Mạch với thiên: là bờ ruộng. Bờ theo hướng đông tây gọi là mạch, bờ theo hướng nam bắc gọi là thiên
(1) Thuốc uống: Cây thù dùng làm thuốc viên ngâm vào rượu uống không say.
(1) Thất tịch: Đêm mùng 7 tháng 7 âm lịch hàng năm, hai sao Ngưu lang Chức nữ nhờ quạ bắt cầu sang sông Ngân Hà, cũng là sông Thiên Hán hoặc Bích Hán (cầu Ô Thước) để gặp nhau, trời đổ mưa ngâu để tỏ nỗi cảm thông tan hợp.
(2) Tùng Vân thi xã: là hội thơ của hoàng tộc và quan lại trong triều nhà Nguyễn
(1) Lan Đình hội: tích Vương Hy Chi thời nhà Tấn, người viết thiếp Lan Đình trứ danh. Người ta tổ chức Lan Đình hội ở Sơn Âm,
Bạch Xã thi: là hội thơ (thi xã) mang tên của nhà thơ Bạch Cư Dị nổi tiếng thời nhà Đường.
(2) Tạ: tức Tạ An, làm chức Thái phó, nên thường gọi là Tạ Thái phó, hay Tạ phó.
Phàn: tức Phàn Tu, tự Tử Trì, học trò Đức Khổng Tử, nhà giàu nhờ làm ruộng giỏi.
Không đề
Chuyện chi đâm thắc mắc
Âm thầm tự đoán mò
Thật tình lo bá láp
Ai người ta nghĩ cho?
NHỚ
Nén bụng để chàng đi
Vô phòng nằm ủ rũ
Buồn quá nói năng gì
Nhớ hoài bao chuyện cũ
Thể thất ngôn tuyệt
ĐIỂM TRANG
Ngày ấy thấy nàng lẩn với hoa
Bao giờ vin quế chỗ Hằng Nga?
Hỏi thăm người đẹp, nàng không đáp
Chỉ nhớ âm thầm bóng tố nga.
VỊNH KHÚC "HỮU SỞ TƯ"
Đêm vắng chập chờn mộng với mơ
Dáng hoa tiếng trúc cứ lơ mơ
Tình riêng hỏi nhỏ Đồng tiên nữ (1)
Chẳng lẽ trên trời thiếu bạn thơ
TIẾNG VE MÙA HÈ
Hoàng oanh lảnh lót ý phân minh
Là muốn cùng hoa tỏ tấm tình
Bỗng tiếng ve ran chừng bất tận
Phải chăng tiếng cuốc nhắc riêng mình
THÔN NỮ
Có cô thôn nữ vẻ ngây thơ
Áo ngắn, yếm hờ dáng mộc sơ
Đỏ mặt thẹn thùng khi tiếp xúc
Nhẹ nhàng ánh mắt chút duyên mơ
Đề tranh mỹ nhân
* Bài 1
ĐỌC SÁCH
Tựa cửa vườn trưa cảnh vắng tanh
Nhẹ nhàng son phấn áo phong phanh
Tay ngà lần giở từng trang sách
Phong, Nhã thơ xưa thuộc ngũ kinh (1)
* Bài 2
CẮM HOA
Sân trước bên thềm sương nhẹ rơi
Một bình hoạ đẹp vẻ xuân dư
Nét cười duyên dáng bên mai đẹp
Cảnh sắc hừng lên nét thắm tươi.
* Bài 3
ĐUỔI BƯỚM
Dưới bóng ngô đồng rảo bước xinh
Một bầy bướm đẹp lượn lờ quanh
Nhẹ nhàng với bắt, bay tan hết
Đứng ngẩn trông theo dạ chẳng đành
* Bài 4
THẢ CÂU
Dòng nước sông Tương mãi lặng câm (1)
Gió xao mây tạnh bóng tre râm
Nga Hoàng cùng Nữ Anh tư lự
Bến đá buông câu nỗi nhớ thầm
* Bài 5
Lần giở Hồng Lâu Mộng từng trang (1)
Mười hai kỳ nữ đất Kim Lăng
Ta thương Đại Ngọc si tình quá
Cũng bởi ngày xưa nặng mối duyên
* Bài 6
Châu cung tái hợp bởi tiền duyên
Trải hết chuyện buồn mộng cựu viên
Thiên cổ, chuyện tình ai cũng có
Tự cho quan trọng chỉ thêm phiền
Lãng du (Hai bài)
* Bài 1
Thích đến hồ Tây ngắm bãi sen
Ngồi trên thuyền nhỏ lướt êm êm
Ghé chùa Pháp Vũ nghe chuông mõ
Một nửa phàm phu nhập cảnh thiền
* Bài 2
Nước xuôi nhè nhẹ, bóng trăng xuyên
Nửa rọi lầu cao, nửa rọi thuyền
Một tối êm đềm như cõi mộng
Nắng mai đã sớm rọi khe nghiêng
TIẾC XUÂN
Làm sao giữ mãi được mùa xuân
Nối tiếp thời gian cứ chuyển vần
Buồn lúc mưa rơi buồn gió thổi
Đêm qua hiu hắt lá đầy sân
VUI ĐỀ TẠI TIỆC RƯỢU NHÀ BÁC PHAN SÀI SƠN (Cùng dự với Lê Văn Đức, Hà Tông Quyền)
Hai tám cô nàng yểu điệu ca
Làm cho ngơ ngẩn gió xuân qua
Người nghe đã hết thời trai trẻ
Cũng được phong lưu cánh tuổi già.
ĐÙA ÔNG NGUYỄN TÌNH PHONG
(Kiểm sự Bộ hộ ở Bắc Thành)
Lầu quán cao sang đẹp tợ tranh
Bắc thành xưa vốn đế vương kinh
Tình Phong nổi tiếng tay tài tử
Cô Tú mai nầy hết nổi danh. (1)
HỌA BÀI THƠ "TỐNG BIỆT" CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG
Ai đến Giang Nam hát “Trúc chi” (2)
Gió thu nhắc nhớ “Liễu Giang mi”
Nước ta từ thuở yên bờ cõi
Nên có ngày nay khúc diễm từ
Chú thích:
(1) Đồng tiên nữ: tức Đồng Song Thành, một thị nữ của Tây Vương mẫu, thổi ống tiêu bằng ngọc, cỡi hạc bay lên trời. Ở Hàng Châu có cây cầu tên “Vọng tiên kiều”.
(1) Phong, Nhã: tức 2 chương trong số 4 chương trong sách Kinh Thi, (Phong, Đại Nhã, Tiểu Nhã, Tụng)
(1) Sông Tương: tích vua Thuấn, được vua Nghiêu gả hai cô con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh cho, rồi được truyền ngôi. Vua Thuấn cũng là ông vua hiền, sau khi qua đời, hai bà vợ buồn thương thường ngồi bên bờ sông Tương khóc thương chồng.
(1) Hồng Lâu Mộng: tác phẩm văn học trứ danh của Trung Quốc, do Tào Tuyết Cần viết 80 hồi đầu, Cao Ngạc viết 40 hồi sau, nên gọi 80 hồi đầu là tiền Hồng Lâu Mộng, 40 hồi sau là hậu Hồng Lâu Mộng. Tác phẩm còn có hai tựa khác là Kim Lăng Thập Nhị Thoa, Thạch Đầu Ký.
(1) Cô Tú: thơ của Tình Phong có câu: “Phong cảnh Bắc thành không đâu đẹp bằng hồ Tây, người tài sắc ở Bắc thành không ai sánh được cô Tú”.
(2) Trúc chi: tên một khúc ca của Lưu Vũ Tích thời Đường san định cho trẻ con hát, lời lẽ diễm lệ, rất thịnh hành ở vùng Giang Nam.
KHÓC EM GÁI (Hai bài)
* Bài 1
Tuổi mẹ đà cao, nhà cũng nghèo
Em sinh mới được nửa ngày trời
Sanh ly tử biệt đau lòng lắm
Mưa gió ba năm đứt ruột thôi
* Bài 2
Vườn xưa xa cách nước vây quanh
Bỗng thấy em đang đứng cạnh mình
Thảng thốt u hồn lên tiếng gọi
Đèn tàn không đỏ, ánh trăng tan
THU KHÔNG TRĂNG
Thu đến lẽ thường trăng sáng hung
Lòng vui thưởng thức tiết trời trong
Quảng Hàn sao nỡ không đèn đóm
Một mảnh lung linh cũng giấu luôn
THƠ GỞI HOÀNG TỬ ĐÊM THẤT TỊCH (7-7) (Hoàng tử cho vời mà không đi dự được)
Xa xa Chức Nữ vượt Ngân Hà
Tơ nhện cầu ô giọng hát ca
Xin chúc đêm nay vui gặp mặt
Mong cho dự hội đông người ta
ĐI CHƠI THUYỀN
Mấy tháng nay rồi nhớ cảnh sông
Một bầu cây cối nước mênh mông
Thuyền con vượt thoát đời đô hội
Núi sát hai bờ bạn thủy chung
ĐI ĐƯỜNG (Ba bài)
* Bài 1
Đường đi hiểm quá! mở lâu không?
Một sớm quân ta rải khắp đồng
Lùng khắp hang sâu cùng đỉnh nhọn
Đang mù bỗng chốc hóa nên trong
* Bài 2
Vòng vo đường sá thế vu hồi
Núi tiếp liền nhau mỏi mắt thôi
Sông suối nước mình đây nhẵn cả
Mặt trời ló dạng phía đông rồi
* Bài 3
Biết bao núi dựng biết bao sông
Vòng hết bên tây lại quẹo đông
Có lúc như từ trời bước xuống
Mây xanh đụng phải gót bàn chân
ĐỀ VỊNH MƯỜI HAI BỨC TRANH CỦA
NỮ SĨ NGÔ MAI
THÔN (Năm bài)
THUYỀN NAN
Trữ La xóm lụa đã từng sinh (1)
Cô gái làm cho nước Việt vinh
Có phải tình xưa không dứt được
Việc xong du lãm Ngũ Hồ xinh
NGU CƠ
Bốn mặt quân vây, tiếng Sở ngâm (2)
Hạng vương cùng khốn bị cầm chân
Thương thay người đẹp sau màn trướng
Một nhát gươm đưa vẹn với chàng
LÒ RƯỢU (1)
Phòng không có gái dở dang duyên
Rầu rĩ làm cho cảnh cũng buồn
Gá với trai nghèo song học giỏi
Thương chàng đâu kể chuyện hèn sang
PHẤT TRẦN
Giữa cảnh trần ai lấy Vệ công (2)
Tùy Dương có mắt cũng như không
Theo chàng đâu ngại đời sương gió
Là khách hùng anh, gái má hồng
NHẬN QUÀ (1)
Nước loạn một mình tạm lánh thân
Nhờ trang nhi nữ rộng lòng nhân
Bao đêm thao thức hồn quê cũ
Hàng xóm ra công giúp mấy lần
TÂY THI (2)
Cuộc chiến thua Ngô, hận chửa nguôi
Cô Tô đài đẹp xứng nàng thôi
Vốn nghề dệt lụa nhiều tinh tế
Chẳng thẹn ngàn sau tiếng đãi bôi
CHIÊU QUÂN (1)
Một mình ngàn dặm việc hòa nhung
Duyên số, nào đâu tại họa công
Sửng sốt mặc vua, em giã biệt
Còn hơn quạnh quẽ mãi thâm cung
TRÁC VĂN QUÂN (1) (Hai bài)
* Bài 1
Dáng đẹp mày xinh vượt lắm nàng
Lại thêm tài khéo, Trác Văn Quân
Nếu xưa không chịu theo Tư Mã
Thì suốt ngàn năm chẳng phải bàn
* Bài 2
Chỉ duy sắc đẹp đủ vui đời
Lại giỏi đàn thơ được mấy người
Nước Thục quả nhiên sinh tố nữ
Để làm bầu bạn với Tương Như
TỪ BIỆT VỢ
Làm cứng khăng khăng bảo có chi
Yêu kiều đôi má, lệ lưng mi
Lên đường nên tránh gây bi lụy
Sao khỏi buồn thương lúc biệt ly
VỊNH SỬ
Trả thù, Phạm Lãi soạn mưu sâu (1)
Ngũ tướng ra rìa mới thật đau
Ngô mất vì không dùng tướng giỏi
Phải nào riêng chỉ mỹ nhân đâu
BẮT CHƯỚC CAO THANH KHÂU ỨNG CHẾ HAI MƯƠI BÀI VỊNH SỬ
YẾN ANH (1)
Thờ chúa trung trinh chỉ một lòng
Cho nên vinh hiển được như ông
Khê điền xứng đáng phong Ni phụ (2)
Thù, Tứ ai nghe mộc đạc không? (3)
THƯƠNG ƯỞNG (4)
Biến pháp phò vua chuyện cách tân
Muốn làm Tần mạnh, suýt vong Tần
Nát thây xe cán bao oan nghiệt
Trời phạt người bày chuyện bất nhân
TRƯƠNG NGHI, TÔ TẦN (1)
Các nước vương hầu rộn tiếp nghinh
Chỉ bằng múa lưỡi thuyết tung, hoành
Đều thầy Quỷ Cốc mà ra cả
Sao chỉ còn đây chuyện vợ con (2)
LẠN TƯƠNG NHƯ (1)
Hơi đâu tranh cạnh với Liêm Pha
Dám mắng Tần vương giữa triều ca
Chiến Quốc vang lừng danh đại nghĩa
Người xem việc nước trước tình nhà
BÌNH NGUYÊN QUÂN (2)
Chiêu hiền nổi tiếng sợ không toàn
Mao Toại, Tiết công thật giỏi giang
Còn lại toàn người không đáng kể
Lỡ cười, đành đoạn giết giai nhân.
PHẠM TUY (1)
Áo đũi người xưa nặng cựu tình
Một đời ân oán rất phân minh
May thay tai nạn đều qua hết
Thái Trạch bàn giao nhẹ việc mình
PHẠM TĂNG (2)
Vẫn biết Lưu Bang mạng đế vương
Mà theo Sở Bá tính tranh cường
Hồng Môn hội yến hao tâm lực
Chẳng trách người chê lão dở ương
Chú thích:
(1) Trữ La: tích Tây Thi, vốn là cô gái đẹp thôn Trữ La, nước Việt. Trữ La bên giòng sông Hoán vốn là làng nghề dệt lụa. Vải lụa khi nhuộm xong phải đập xả, nên xóm lụa thường nằm sát bên sông, mỗi sáng sớm các cô gái đập xả, tiếng chày đá vang vang trên một đoạn sông, tạo nên quang cảnh rất đặc thù. Tây Thi được tuyển vào cung nước Việt, rồi gả cho vua nước Ngô. Vua Ngô mê đắm Tây Thi, bê trễ việc nước, bị quân Việt đánh bại. Xong cuộc chiến, trả được thù nước, Tây Thi với chiếc thuyền nan, rời bỏ kinh thành sống ở vùng Ngũ hồ.
(2) Sở ca: tích Trương Lương cho làm bài ca giọng điệu sầu thảm nhớ quê hương nước Sở, hát lên cho quân Sở đang bị vây nghe. Quả nhiên, quân Sở nghe ngâm bài ca ấy thì tinh thần rệu rã bỏ ngũ trốn về, khiến cho quân đội của Hạng Vũ, phần đông người Sở, bị tan rã hoàn toàn.
(1) Lò rượu: Trác Văn Quân con của phú hào Trác Vương Tôn, chẳng may góa chồng khi còn trẻ. Nàng yêu Tư Mã Tương Như, chàng trai tài hoa nhưng nghèo. Vì cha nàng không đồng ý, hai người mở lò nấu rượu để kiếm sống.
(2) Vệ công: tức Lý Tịnh thời Tùy, khi còn là chàng trai nghèo có chí hướng đến xin gặp quan Tư đồ nhà Tùy là Dương Tố (Tùy Dương) để trình bày kế sách ổn định đất nước. Dương Tố hờ hững tiếp, trong khi cô gái cầm phất trần hầu quan thì để ý đến chàng trai tài tuấn. Đến tối, nàng tìm đến nơi Lý Tịnh rồi bỏ trốn đi theo chàng trai. Về sau Lý Tịnh phò nhà Đường đánh bại nhà Tùy, làm đến chức Vệ Quốc công
(1) Nhận quà: Tích Đồng Quốc Độ thời nhà Tống, đỗ tiến sĩ làm quan. Bấy giờ nhà Tống bị phương Bắc đánh chiếm, ông bị thất lạc gia đình, một mình lánh nạn nơi đất khách xa xôi, kết thân với một người hàng xóm làm chủ quán trọ. Vị nầy tổ chức cưới vợ lẽ cho ông, ngừơi vợ lẻ giỏi giang và tốt, cuộc sống đầy đủ hạnh phúc, nhưng ông vẫn luôn nhớ về quê cũ. Người chủ trọ, ra sức dò tìm quê ông rồi đưa ông về. Khi ra đi, người vợ lẽ tặng ông hộp quà, dặn kỹ ông là hộp đựng chiếc áo nàng tự tay may cho ông, tuyệt đối không được tặng hộp cho bất cứ ai. Ông về quê, gặp lại gia đình, trong hoàn cảnh quá khó khăn, không còn gì để sinh sống. Ông bàn với vợ mở hộp lấy áo đem bán. Hóa ra áo giắt rất nhiều vàng lá, nhờ đó gia đình ông có được đời sống được ổn định. Người hàng xóm ấy lại còn đưa người vợ lẻ đến sum họp. Cả đại gia đình đoàn tụ vui vẻ.
(2) Tây Thi: Cô gái đẹp nhất nước Việt. Vua Việt là Câu Tiễn thua trận phải ở tù nước Ngô. Sau khi được thả về, ông nuôi chí phục thù, tuyển Tây Thi, cô gái dệt lụa, đưa về dạy dỗ, rồi hiến cho vua Ngô là Phù Sai. Phù Sai mê đắm, cho lập đài Cô Tô lộng lẫy để ở với nàng. Câu Tiễn thừa khi Phù Sai sơ hở, đánh một trận diệt nước Ngô
(1) Chiêu Quân: tích Chiêu Quân cống Hồ. Nàng đẹp, nhưng không chịu lo lót cho họa công, nên tranh chân dung nàng bị họa công vẽ xấu hơn người thật, vua không đoái hoài. Trong trường hợp như thế thì người cung nữ chỉ còn phải sống hiu quạnh rồi chết già chốn thâm cung mà thôi. Đang khi ấy, vua Hung Nô là Thiền vu Hô Hàn Tà đem quân xâm lấn bờ cõi. Triều đình bàn mưu gả một cung nữ giả làm công chúa để cầu hòa. Vua chọn theo tranh vẽ, lại trúng nàng Chiêu Quân. Khi làm lễ tiễn nàng đi Hung Nô, vua thấy mặt mới biết là nàng xinh đẹp hơn hết thảy. Nàng được vua Hung Nô sủng ái.
(1) Trác Văn Quân: là một phụ nữ tài sắc người nước Thục (Tứ Xuyên), con nhà giàu có lại sớm góa chồng. Tư Mã Tương Như một chàng trai nghèo nhưng giỏi thơ đàn, tác giả bản nhạc Phụng Cầu Hoàng trứ danh. Tương Như còn là người làm bài phú hoàn chỉnh đầu tiên trong Văn học sử Trung Quốc. Vì cha nàng không đồng ý cho hai người lấy nhau, nên hai người mở quán rượu mưu sinh. Về sau Trác Vương Tôn nghĩ lại, chu cấp cho hai người.
(1) Mưu sâu: Ngô thắng Việt nhờ tài của tướng Ngũ Viên. Để trả thù, tướng của Việt là Phạm Lãi khuyên vua mình là Câu Tiễn nằm gai nếm mật nuôi chí phục thù. Mặt khác tuyển Tây Thi dâng cho vua Ngô để mê hoặc vua Ngô. Ngũ Viên khuyên can, vua Ngô không nghe lời mà còn không sử dụng Ngũ Viên nữa. Đến bấy giờ, Phạm Lãi mới mang quân đánh trả thù, diệt được nước Ngô
(1) Yến Anh hay Án Anh: là quan đại phu đầu triều các đời vua Linh Công, Trang Công, Cảnh Công nước Tề thời Xuân Thu chiến quốc. Ông làm việc siêng năng, sống tiết kiệm, mặc cái áo hồ cừu suốt ba mươi năm, nổi tiếng là vị quan thanh liêm, lại có tài ứng đối sắc sảo, có tính thuyết phục cao
(2) Ni phụ: Khổng Tử tên là Khâu, tự Trọng Ni. Người đời sau tôn xưng ông bằng nhiều mỹ hiệu, trong đó có Ni phụ.
(3) Thù, Tứ: tức sông Thù và sông Tứ, quê hương của Khổng Tử.
Mộc đạc: là dụng cụ bằng gỗ hoặc bằng đồng đánh lên cho mọi người chú ý khi rao truyền mệnh lệnh đến các khu dân cư
(4) Thương Ưởng: người nước Vệ thời Chiến Quốc, làm quan Tả Thứ trưởng nước Tần, thời Tần Hiếu công, thi hành “Biến pháp” rất nghiêm khắc, không chút nương tay, rất ác bạc, không tha bất cứ ai, kể cả vương hầu quí tộc, nên bị chống đối, đến mất chức, bị Huệ vương nước Tần xử tội cho xe giầy nát thây, là hình phạt mà chính Thương Ưởng đặt ra khi cầm quyền thi hành Biến pháp một cách khắc nghiệt.
(1) Trương Nghi: đề xướng thuyết Liên hoành. Tô Tần: đề xướng thuyết Hợp tung. Vào thời Chiến Quốc, nhằm liên kết các nước theo trục hoành (chiều ngang) hoặc trục tung (chiều dọc). Các nước theo trục nầy chống lai các nước theo trục kia. Là hai tay tổ trong nghề thuyết khách, được vua các nước sủng ái, đón tiếp trọng hậu, ban cho bổng lộc hậu hĩnh, vợ thiếp xinh đẹp. Nhưng các thuyết ấy chỉ làm cho đất nước loạn lạc thêm, về sau nhà Tần thôn tính cả.
(2) Chuyện vợ con: Điển tích vợ Tô Tần. Khi Tô Tần chưa được các chư hầu tin dùng thì sống bần hàn, ba năm không về nhà. Người vợ trung thành chờ đợi, chăm sóc mẹ chồng rất hiếu thảo.
(1) Lạn Tương Như: là văn thần cùng nguyên soái Liêm Pha phò vua nước Triệu thời Chiến Quốc. Khi biết nước Triệu có viên ngọc quý của họ Hòa, vua Tần muốn chiếm đoạt, lừa cách đổi 15 thành. Khi Tương Như đưa ngọc đến, vua Tần lấy ngọc mà không đả động gì đến việc đổi đất như lời hứa. Tương Như tìm kế lừa lấy lại viên ngọc, sai đệ tử giả làm người ăn mày mang ngọc trốn về Triệu, còn mình ở lại vào triều vua Tần, khẳng khái mắng vua Tần nuốt lời. Tưởng thế nào cũng bị giết, vua Tần quá nể phục cho an ổn ra về. Ông bất đồng với Liêm Pha, có khi rất căng thẳng, nhưng Tương Như đều nhường nhịn, vì nếu thiếu Liêm Pha thì nước Triệu sẽ rất khó khăn. Ông nói câu nổi tiếng: “Vua Tần ta chẳng sợ, thì sợ gì Liêm Pha! Nhưng việc quốc gia là trọng, ta phải quên chuyện riêng, mới lo được việc nước”.
(2) Bình Nguyên Quân: tên Triệu Thắng, người nước Triệu thời Chiến Quốc, được phong đất Bình Nguyên, chiêu hiền đãi sĩ, nuôi cả ngàn thực khách trong nhà. Trong số thực khách có hai nhân tài kiệt xuất là Mao Toại và Tiết Công. Mao Toại một mình lãnh nhiệm vụ đi sứ cầu cứu với nước Sở thành công. Tiết công thuyết phục công tử Vô Kỵ về cứu nước Ngụy. Có một lần, một người thiếp lỡ bật cười khi thấy một vị khách tật nguyền, Bình Nguyên Quân quá cường điệu cho chém đầu để tạ tội với khách, song người ấy cũng như số đông thực khách đều bất tài, chẳng có công trạng chi.
(1) Phạm Tuy: Tướng quốc nước Tần. Nguyên là quan nước Ngụy thời Chiến Quốc, tôn Tu Cổ làm thầy. Sau bị người Ngụy hiểu lầm, suýt mất mạng, giả chết thoát vào Tần, đổi tên họ, giỏi biện thuyết, nên được vua Tần trọng dụng. Về sau Tu Cổ đi sứ Tần, Phạm Tuy giả làm người nghèo khổ được Tu Cổ tặng chiếc áo may bằng tơ đũi. Phạm Tuy không đánh Ngụy mà tấn công Triệu. Sau ông trao quyền cho Thái Trạch cũng là một nhân tài, gốc người nước Yên
(2) Phạm Tăng: làm quân sư cho Sở Bá vương Hạng Vũ, dẹp nhà Tần, tranh thiên hạ với Hán Lưu Bang. Phạm Tăng bày ra hội yến Hồng Môn, dụ Lưu Bang đến để ám hại, nhưng không thành. Phạm Tăng thối chí từ quan về nhà, trước khi Sở Bá vương thất bại.
TRƯƠNG LƯƠNG
Bác Lãng năm xưa chuyện dở dang (1)
Nên theo nhà Hán diệt cường Tần
Tiên sinh vốn có thù tiên tổ
Đâu giống Tiêu, Hàn các phẩm quan (2)
GIẢ NGHỊ
Lạc Dương tuổi trẻ tiếng đa tài
Quan chức một năm đổi mấy vai
May gặp Hiếu Văn chân thánh chúa
Hán đình than khóc tiếc thương ai?
ĐỔNG TRỌNG THƯ (3)
Buông màn quyết chí học xưa thôi
Đương đại chân Nho quá ít rồi
Thuyết giảng Xuân Thu nêu nhất thống
Để ba đối sách lại cho đời
LÝ QUẢNG (1)
Chinh chiến biên cương lão vận đồn
Tài cao bắn hổ tiếng vang rền
Công to chẳng được phong hầu tướng
Vệ, Hoắc * ghi công tại núi Yên (2)
ĐIỀN THIÊN THU (3)
Bạc đầu thác mộng chuyện mơ mòng
Lý lẽ tinh vi dễ động lòng
Chỉ mấy lời thôi vua đã rõ
Đa duyên cao miếu có thần trong
VƯƠNG CHƯƠNG (1)
Ngưu y chuyện cũ chửa quên ân
Nhưng thế gian hùng quá lấn sân
Muốn báo ơn vua đâu sợ họa
Tam vương xứng đáng hạng danh thần (2)
DƯƠNG HÙNG (3)
Hán triều vướng nạn ngót trăm năm
Giúp rập triều Tân thật lắm công
Đừng nói việc phò quân tiếm vị
Thái Huyền chưa chắc sách Dương Hùng.
MÃ VIỆN (1)
Đất Thục thiên nhiên ưu đãi nhiều
Về Nam thỏa chí biết bao nhiêu
Hán hoàng giận mắng ông là đúng
Vì cướp minh châu chở quá nhiều
VIÊN AN (2)
Cóng lạnh nằm khơi khổ biết bao
Chờ khi nắm chức tỏ anh hào
Cậu vua sàm tấu không suy suyển
Để lại cho đời phẩm tiết cao.
TUÂN ÚC (1)
Theo Tào, đáng thẹn quá đi thôi
Bênh Hán đâu xong, chuyện đã rồi!
Rốt cuộc vong thân vì cửu tích
Xích Tùng cao đạo chỉ rong chơi
TRƯƠNG CHIÊU (2)
Tào Tháo từng xem trọng nhất ông
Trong hàng hào kiệt xứ Giang Đông
Nhưng khuyên hàng Ngụy là sai quá
Chẳng có công chi, chỉ lão làng
KHỔNG MINH (1)
Chia ba, thế nước loạn cào cào
Như bệnh trầm kha chữa phải đau
Hai bức tâm thư khuyên Hậu chúa
Ngàn sau thương mãi Vũ Hương hầu (2)
VƯƠNG MÃNH (3)
Phò Tần tài lược thật siêu quần
Can gián đừng xâm phạm Giang Nam
Tuy với Hoàn Ôn là đối thủ
Mà lòng vẫn giữ tấn giang san
TẠ AN (1)
Cởi giáp, Tân Đình bạn trúc ti (2)
Giang Đông nguy khốn lại ra đi
Bát Công thảo mộc tăng thanh thế (3)
Phá giặc, công ông lớn cực kỳ
HÀN DŨ (4)
Sâu sắc văn chương vượt mọi thời
Đề ra “Duy thế” để yên đời
Nghe đâu đạo ấy hiếm người biết
Bài Phật, chê Dương trường thọ thôi
VỊNH LIỄU 
(Nghe thi xã tính làm tập thơ
Vịnh liễu, thích nên làm một bài)
Xin mượn chót cành gửi tấm thân
Ngọn cao nên tránh được phong trần
Ai thay nói giúp Đào Bành Trạch (1)
Như với tiên sinh có túc nhân (2)
ĐỀ TẶNG TÙNG VÂN THI XÃ
Nguyên chú: Cô em gái của Thương Sơn công ba quý đều làm chủ Tao Đàn, lấy chữ Khanh làm tựa. Nhà ở phía trước bên phải kinh thành, nên có tên như thế.
Tùng Vân thi hội xét quần anh
Ai chủ Tao Đàn nói quyết tâm
Thiên hạ người tài theo công chúa
Giang Nam tài tử bảo Tam khanh
SÁU BÀI TRUY ĐIỆU
* Bài 1
Rõ là nên bỏ chốn trâm anh
Hoang dã là nơi nở tuệ thành
Chưa thỏa tấm lòng quy cố quận
Thương thay nơi ấy phụ khanh khanh
* Bài 2
Trước sau hăm chín chẵn năm dài
Kính ái trong lòng chẳng chút sai
Thăm hỏi người lâm cơn bệnh ngặt
Bồi hồi một sớm nhớ thương ai
Chú thích:
(1) Bác Lãng sa: là nơi mà khi nhà Hán chưa nổi lên, Trương Lương mướn người đâm Tần Thủy Hoàng nhưng không thành. Trương Lương vốn giòng hoàng tộc nước Hán, bị Tần diệt, nên có mối thù nước thù nhà với nước Tần. Về sau phò Lưu Bang giành được nước xong thì lặng lẽ bỏ đi tu tiên biệt tích.
(2) Tiêu, Hàn: tức Thừa tướng Tiêu Hà, nguyên soái Hàn Tín, các đại công thần của nhà Hán thời lập quốc cùng thời với Trương Lương.
(3) Đổng Trọng Thư: Người thời Vũ Đế nhà Hán, nghiên cứu sâu kinh Xuân Thu của Khổng Tử, làm ba thiên đối sách luận về Trời và Người (Thiên, Nhân), rất có ảnh hưởng trong giới học thuật bấy giờ. Ông nổi tiếng là người ba năm buông màn không nhìn ra cửa sổ để nghiên cứu lý luận Nho gia, là người đầu tiên chế định các nghi thức nhà Nho và đem ra thực hành trong cả nước Trung Hoa, nhằm củng cố chế độ phong kiến lâu bền về sau.
(1) Lý Quảng: hổ tướng thời Tiền Hán (Văn đế - Vũ đế), nổi tiếng thiện xạ, suốt đời đánh nhau với quân Hung Nô. Công to nhưng không được phong hầu tướng. Về sau, bị hiểu lầm nên tự sát. Ai cũng thương tiếc.
(2) Vệ, Hoắc: tức Vệ Thanh và Hoắc Khứ Bệnh, cùng thời với Lý Quảng, là hai viên dũng tướng cầm quân đi chinh phạt Hung Nô, có công to.
Núi Yên: tức núi Yên Nhiên thuộc địa phận Mông Cổ, là nơi các tướng nhà Hán đánh Hung Nô thường lên núi ấy khắc lên đá ghi công trạng mình.
(3) Điền Thiên Thu: người thời Tiền Hán, có đức độ lại có tài ăn nói rất thuyết phục. Khi thái tử Vệ bị gièm pha, Thiên Thu đứng giữa triều minh oan cho thái tử, được vua Vũ Đế cho là đúng. Ông được các triều vua sủng ái, khi già lão cho phép đi xe vào tới giữa điện, nên còn có danh là Xa Thừa tướng.
(1) Vương Chương: làm chức Kinh Triệu Doãn thời nhà Hán. Khi còn hàn vi, nhà rất nghèo, chỉ có chiếc áo ngưu y (chỉ áo may bằng cỏ gai thô), được quan Đại Tư Mã là Vương Phụng giúp đỡ cất nhắc. Nhưng Vương Phụng dần dần đưa người nhà vào nắm các vai trò trọng trách trong triều đình, lấn cả quyền vua. Vương Chương thẳng thắn đàn hặc Vương Phụng, bị Phụng cho trị tội bắt bỏ vào ngục hành hạ đến chết.
(2) Tam vương: tức nhà Hán, nhà Thương và nhà Chu, ba triều đại hữu sử đầu tiên của Trung Quốc. Vương Chương xứng đáng đứng vào hàng các danh thần thời Tam vương như Phó Duyệt, Y Doãn, Chu Công...
(3) Dương Hùng: người tài thời Tiền Hán, soạn các sách Thái Huyền, Pháp ngôn, Phương ngôn, nổi tiếng với các bài phú: Cam Tuyền phú, Hà Đông phú, Tương Dương phú. Dương Hùng cùng Tư Mã Tương Như khai mào cho thể loại văn học mà sau này văn học sử gọi là Hán phú (Hán phú, Đường thi, Tống từ, Nguyên Minh tiểu thuyết). Nhà Hán bị Vương Mãng chiếm mất ngôi, lập triều Tân, ngót một trăm năm sau mới khôi phục, thì Dương Hùng tích cực tham gia triều Tân.
(1) Mã Viện: dũng tướng thời Đông Hán, người nước Thục, nơi có giòng sông Dương Tử chảy qua, nhiều phù sa, đất đai phì nhiêu, nhiều tay tuấn kiệt. Mã Viện từng đem đại quân đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng, cướp nhiều châu báu chở về, bị triều đình nghi kỵ, về sau chết nơi trận tiền
(2) Viên An: người thời Đông Hán, nhà nghèo đến Lạc Dương làm khách, bị bão tuyết, phải nằm chịu trận suýt chết. Được quan lệnh Lạc Dương cứu sống, cử Hiếu liêm (quan chức cử người có tài có hiếu ra làm quan) leo dần đến chức Tư đồ. Ông thẳng thắn đối đầu với Đậu Hiến là cậu ruột vua đang thống soái mọi việc, nhưng Hiến không hại được ông.
(1) Tuân Úc: người thời Đông Hán, theo giúp Tào Tháo làm tham mưu, nhưng bênh vực nhà Hán khi Tháo còn làm thừa tướng cho nhà Hán. Bấy giờ có người đề nghị phong Tào Tháo tước Ngụy công, Tuân Úc một mực can ngăn. Mấy lần như vậy, Tào Tháo rất ghét Tuân Úc. Về sau, nhân cơ hội khi Tuân Úc bị bệnh, Tào Tháo nói là ban cửu tích (9 loại vật quí vua ban cho bề tôi), trong đó có thuốc uống. Tuân Úc uống thuốc ấy, trúng độc mà chết.
Xích Tùng Tử: là một vị tu tiên, ngao du đây đó.
(2) Trương Chiêu: được chúa Giang Đông là Tôn Quyền tôn làm trọng phụ (cha đỡ đầu), là người có tài văn học, tướng mạo uy nghiêm, ai cũng nể trọng. Khi Tào Tháo đem quân đánh Giang Đông thì Trương Chiêu cầm đầu phe chủ hòa, khuyên nên hàng, ngại dân sẽ khổ. Nhưng Chu Du, cầm đầu phe chủ chiến, đã đánh tan quân Tào trong trận Xích Bích nổi tiếng.
(1) Hai bức tâm thư: tức hai bài văn kiệt xuất của Khổng Minh, khi kéo quân đi đánh quân Ngụy, viết dặn dò Hậu chúa Lưu Thiện, con Lưu Bị.
(2) Vũ Hương hầu: Khổng Minh được phong tước Vũ Hương hầu, hay còn gọi là Vũ hầu, hoặc Gia Cát Vũ hầu.
(3) Vương Mãnh: người thời Tấn, là người Hán, nhưng phò tá Phù Kiên, nhà vua hùng mạnh người dân tộc thiểu số, thống soái vùng tây bắc. Ông giúp Phù Kiên chiếm đất nghiệp, xưng Đại Tần, cạnh tranh quyền lực với nhà Tấn của tướng Hoàn Ôn ở Giang Nam. trước khi qua đời, ông khuyên vua không nên đánh vào Giang Nam, nhưng Phù Kiên không nghe lời, thất bại nơi Phì Thụy
(1) Tạ An: người thời Tấn, ở ẩn, được quan Đại Tư mã là Hoàn Ôn vời ra làm tướng, góp phần bảo vệ nhà Đông Tấn. Hoàn Ôn mất, ông lên nắm quyền chỉ huy quân đội, đánh tan trăm vạn quân của vua Đại Tần là Phù Kiên.
(2) Tân Đình: tên ngôi đình do nhà Đông Ngô lập trên núi Lao Lao, tỉnh Giang Tô, nơi các danh sĩ tụ hội ngâm vịnh.
(3) Bát Công thảo mộc: Vua Phù Kiên thua trận chạy đến núi Bát Ông,quá hoảng sợ, thấy bóng cây cỏ tưởng bóng người truy đuổi mình, nên ó điển tích Bát Công thảo mộc
(4) Hàn Dũ: đỗ Tiến sĩ thời Đường, là một trong “Đường Tống bát đại gia”. Hàn Dũ giỏi thơ, phú, từ khúc. Bài “Văn tế nhị thập lang văn” của ông là một áng văn chương tuyệt diệu trong văn học Trung Quốc. Hàn Dũ tôn sùng Nho, bài xích đạo Phật, chê thuyết Vị kỷ của Dương Chu thời Chiến Quốc. Nói chung, Hàn Dũ là bậc kỳ tài về văn học, nhưng về triết học thì không mấy có ảnh hưởng.
(1) Đào Bành Trạnh: tức Đào Tiềm, vốn từng làm tri huyện Bành Trạch hơn tám mươi ngày rồi từ quan, về ở Sài Tang trồng hoa cúc, chơi đàn.
(2) Túc nhân: cũng là túc duyên. Do hai chữ nhân duyên theo thuyết nhà Phật.
* Bài 3
Ba chục năm hơn mất vợ nhà
Mà tình chung thủy chẳng phôi pha
Mới hay những việc tu, tề, trị,
Luôn có nhiều công giới nữ ta.
* Bài 4
Trăng mờ rêu bám suốt hành lang
Ba tháng buồn thương, việc trễ tràng
Màn rũ phòng không trông vắng ngắt
Mà nguyên hình bóng đậm trong lòng
* Bài 5
Còn đây di chúc rất phân minh
Đá nát vàng phai chẳng dứt tình
Trăn trối cái nhìn khi vĩnh quyết
Là ân cần gởi chí bình sinh
* Bài 6
Người tôi vừa kính lại vừa thương
Ba chục năm trời, bỗng gãy ngang
Trời rộng đất dày không đủ chỗ
Thì thôi kiếp khác kết nhân duyên
BỔ DI DĨ HẠ
TỨ THỜI CUNG TỪ XUÂN CUNG TỪ
Viện thâm nghiêm vắng ngắt
Hương mai thoảng nhẹ nhàng
Bên song oang lảnh lót
Là báo mùa xuân sang
HẠ CUNG TỪ
Chiếu mát như lau sạch
Hoa hồng màu thắm tươi
Bên song vừa tỉnh giấc
Ngồi dậy khảy đàn chơi.
3/12/2008
Nguồn: Trương Đăng Quế - Cuộc đời và sự nghiệp. Nhóm biên soạn: Nguyễn Văn Chừng, Dương Minh Chính, Lê Văn Công, Lê Sơn - Nguyễn Văn ThanhNXB Văn học. 1-2009.
Theo https://www.trieuxuan.info/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đoàn Văn Cừ với hội xuân và những phiên chợ tết Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam ...