PHẦN III - TRONG CHIẾN TRANH VIỆT - PHÁP (1945-1954)
CHƯƠNG XVI - TẢN CƯ VỀ TÂN THẠNH
CHƯƠNG XVI - TẢN CƯ VỀ TÂN THẠNH
Hôm đó chúng tôi rời căn nhà 50 đường Monceau, có ngờ đâu tám
năm sau mới trở lại.
Trời trong trẻo, mát mẻ. Trên đường xuống Phú Nhuận, có nhiều
nhà treo cờ thanh thiên bạch nhật: hôm đó là ngày quốc khánh (lễ Song thập
10-10) của Trung Hoa, quân cách mạng thắng quân nhà Thanh ở Vũ Xương năm 1911.
Đa số xe đạp cắm một cây cờ Trung Hoa nhỏ bằng giấy trước ghi đông. Trung Hoa
đã leo lên địa vị cường quốc thứ năm trên thế giới; người ta cho rằng cờ của họ
là lá bùa hộ mạng khi gặp quân Anh, Pháp.
Gần tới ngã năm Phú Nhuận tôi thấy một chiếc "xe
cá" chở đầy sách gấp mười số sách của tôi, trong lòng vừa phục mà vừa
thương hại: chở gởi đi đâu? xa không? cực khổ quá!
Ba anh em chúng tôi chỉ có hai cái va li nhỏ, một giỏ đồ vặt,
cố mắc vào xe đạp, rồi thay phiên nhau đẩy. Một đứa cháu 12 tuổi giúp việc nhà,
lẽo đẽo theo sau. Lác đác có từng nhóm người tản cư cũng như chúng tôi, không
ai có vẻ buồn rầu, lo lắng cả. Gặp nhau người ta còn mỉm cười với nhau nữa.
Vào khoảng trưa chúng tôi tới Thủ Đức, vào một khu vườn cao
su cách chợ hơn một cây số, chỗ để hai chiếc xe ngựa lớn, có mui, có cửa, của sở
Thủy lợi. Người coi vườn chào tôi, đưa chìa khóa xe cho tôi. Tôi hỏi thăm tình
hình trong miền, người đó đáp: "Yên ổn lắm, nhưng những nhà ở gần đường lộ
cũng ngại quân Anh, Pháp sẽ lên đây. Họ tính lùi vào trong xóm, ở xa đường một
chút... Còn đường về miền Tây, ông có tin tức gì không?
Tôi bảo: "Nghe nói quân Pháp đã xuống đến Tân An rồi,
con đường Sài Gòn - Tân An nghẽn. Vì vậy tụi tôi phải đi vòng lên đây để kiếm
đường về miền Tây".
Người đó khuyên tôi lên chợ Lái Thiêu rồi kiếm ghe quá giang
về Mĩ Tho. Chúng tôi theo ý kiến đó, nghỉ lại trong xe, nấu cơm lấy mà ăn; sáng
hôm sau lại lên đường. Người coi vườn tiễn chúng tôi một quãng, chỉ cho chúng
tôi một bụi cây ở xa, bảo: "Người ta nói Phan Văn Hùm bị giết ở bụi cây
đó. Ông biết Phan Văn Hùm không?".
Tôi đáp: "Nghe tiếng chứ không biết mặt. Tại sao ông ấy
bị giết?".
- "Không ai biết. Thời buổi này mà!".
Chia tay người đó rồi, tôi mới hỏi Tân Phương:
Phan Văn Hùm là một nhà cách mạng trong nhóm Nguyễn An Ninh,
Tạ Thu Thâu, chắc là theo Đệ tứ Quốc tế, được nhiều người mến. Mà nhóm Đệ tứ có
Trần Văn Thạch ở trong Ủy ban Hành chánh Nam Bộ thì ai giết Phan Văn Hùm? Tôi
chắc là người ta đồn bậy.
Tân Phương làm thinh, có vẻ suy nghĩ.
Cũng ngày đó, chúng tôi lại được tin Tạ Thu Thâu bị giết ở Quảng
Ngãi trên đường từ Huế về Sài gòn. Tôi xúc động mạnh vì tôi rất quí ông ta. Ông
gốc ở Long Xuyên, du học Pháp về, sống rất giản dị, bình dân, khắp thành phố
Long Xuyên không ai không vừa trọng vừa yêu, nhất là giới thợ thuyền. Căn nhà của
ông ở gần Cầu Máy, một khu lao động, tuy bằng gạch, nhưng nhỏ, hẹp, xấu xí.
Hai chiến sĩ đệ tứ bị giết trong khoảng nửa tháng hay một
tháng thì khó có thể cho là bịa được, mà cũng khó bảo là ngẫu nhiên được. Mấy
năm sau tôi mới được biết cả hai vụ đó có thật, chỉ sai một điểm là Phan Văn
Hùm bị giết ở gần quê ông (Búng, thuộc tỉnh Thủ Dầu Một), chứ không phải ở gần
Thủ Đức.
Bốn giờ chiều chúng tôi mới tới chợ Lai Thiêu, may gặp một
nhân viên của tôi cũng tản cư về đó và làm trong Ủy ban hành chánh xã. Thầy kiếm
nhà cho chúng tôi tá túc. Nhà ở giữa một khu vườn măng cụt và sầu riêng, có đường
mương ngang dọc, săn sóc rất kĩ.
Thầy lại xin cho chúng tôi một giấy chứng nhận của Ủy ban
hành chánh và sáng hôm sau tìm cho tôi một chiếc ghe về phía Mĩ Tho. Thầy làm
việc với tôi đã mười năm, tính tình hiền lương; tôi tiếc là từ buổi đó đến nay
tôi không được gặp lại thầy nữa.
Lái Thiêu cũng sợ quân Anh, Pháp sắp tới, nên rất nhốn nháo.
Nhân viên các ủy ban và thanh niên đi đi lại lại, người nào cũng vội vàng, dân
chúng chen chúc nhau ở trụ sở hành chánh để xin giấy tờ đi đường. Thiếu giấy,
phải dùng mặt sau của các công văn thời trước. Con dấu thì bằng gỗ. Ai cũng có
thể làm giấy chứng nhận giả được.
Náo nhiệt nhất là cảnh chợ. Trên bờ, dưới sông, tấp nập kẻ
qua người lại và ghe xuồng đủ cỡ... Mọi người lo mua đồ tích trữ: từ gạo, than
đến thuốc uống, cả nồi niên, chiếu, nóp... Rõ ràng là cảnh sắp loạn lạc, chia
ly.
Chiếc ghe chúng tôi mướn được là ghe thương hồ, bán hết đồ,
trở về Mỹ Tho. Chúng tôi đi chung với một gia đình khác làm ăn ở Lái Thiêu, di
tản về quê ở Tân An. Ghe đi vòng lên Đức Hòa rồi theo một con kinh vào Đồng
Tháp. Khỏi Đức Hòa một chút, một chị nông dân Thanh niên tiền phong bảo ghe ghé
bờ để xét. Chị bận một bộ đồ hàng Tân Châu - tôi đoán là bộ tốt nhất của chị -
lưng dắt dao găm, nhưng coi mặt không dữ tợn. Thấy tôi mang một cuốn sách khá
dày, chị mở ra coi mà lại cầm ngược - chị chưa biết chữ Quốc ngữ - hỏi tôi:
- Anh mang sách gì vậy?
Tôi đáp:
- Sách về nghề đốc công thủy lợi của tôi.
- Sách Tây hả?
- Phải.
- Thời buổi này mà anh còn giữ sách Tây à? Anh đi theo tôi vô
Ủy ban xã.
Tôi lên bờ theo chị. Ghe phải đậu lại. Chúng tôi đi qua một
cánh đồng rộng, tới xóm làng, lại đi một đỗi nữa mới tới trụ sở ủy ban ở trong
một Nhà việc. Ủy ban gồm sáu bảy người đương bàn về kế hoạch phục kích quân
Pháp ở một dốc cầu. Trông thấy tôi vào, một người chạy ra hỏi:
- Ủa. Ông đi đâu đây?
Lại gặp may nữa: cũng là một nhân viên cũ sở Thủy lợi.
Thầy đó cầm cuốn sách của tôi, đưa viên chủ tịch coi. Tôi được
thả. Thầy còn ân cần đưa tôi ra khỏi xóm, bảo tôi:
- Ông đừng nên giữ một cái gì có màu xanh, đỏ, trắng của cờ
Pháp, người ta cho là ám hiệu liên lạc với địch đấy.
Về tới ghe, ai nấy đều mừng. Tối đó ghe đậu ở một xóm bên bờ
kinh. Đồng quê hồi đó còn yên ổn, không có trộm cướp. Khoảng bốn giờ chiều hôm
sau tôi mới tới một chợ quê cách Tân An độ mươi cây số về phía tây, ghe đậu lại.
Chủ ghe, một giáo viên hồi hưu, đãi chúng tôi một bữa cháo vịt rất thân mật.
Sáng hôm sau - ngày thứ năm từ khi rời Sài Gòn - chúng tôi lại dắt xe ra đường
lộ Tân An - Trung Lương, rồi thuê xe ngựa đi từng chặng tới Mĩ Tho. Quân Pháp mới
tới thành phố Long An, chưa tiến xa hơn nữa; nên trên đường xe cộ dập dìu.
Khoảng 3 giờ chiều chúng tôi tới Mĩ Tho. Không khí căng thẳng,
thành phố rất náo nhiệt. Chúng tôi lại Ủy ban Hành chánh Nam bộ (đã rút về Mỹ Tho từ trước) để trình diện, nhưng ai nấy bận việc tíu tít, không tiếp chúng
tôi được. May sao gặp được ông bạn cũ Nguyễn Ngọc Thơ tản cư theo ủy ban. Ông
cho tôi hay có tin hôm sau quân Pháp sẽ tới tấn công Mỹ Tho, ủy ban đã ra lệnh
đào đường lộ, ngã cây để chặn đường; còn ủy ban thì cũng sắp phải dời đi nơi
khác, rồi ông khuyên tôi sáng hôm sau còn chuyến tàu thủy chót về Long Xuyên, đừng
bỏ lỡ cơ hội đó.
Chúng tôi lại một trường tiểu học, vô một lớp học, sắp đặt
hành lí, kê bàn làm chỗ ngã lưng rồi đi nghe diễn thuyết về hôn nhân - diễn giả
khuyên thanh niên đợi 25 tuổi hãy kết hôn - lại ăn cơm xã hội của thị xã. Tối
trở về trường, tắm xong, ngủ thẳng một giấc tới sáng.
Thức dậy, không kịp ăn sáng, chúng tôi ra bến tàu, mua giấy
đi Long Xuyên. Khi tàu rời bến, chúng tôi mới nhẹ người.
Năm giờ chiều hôm đó tới Long Xuyên. Như vậy từ Sài Gòn đi
Long Xuyên mất sáu ngày. Chúng tôi ghé nhà cô Nguyễn Thị Liệp và nhờ người nhà
nhắn với bác tôi ở Tân Thạnh (Đốc Vàng) rằng chúng tôi đã tới Long Xuyên.
Thị xã Long Xuyên có vẻ buồn hiu. Ủy ban hành chánh đã ra lệnh
tiêu thổ kháng chiến: đập phá các công sở, đốt hết các hồ sơ; tư gia thì phải dỡ
mái ngói, gở tất cả các cánh cửa, để địch không có chỗ ở. Lệnh chỉ được thi
hành một phần thôi: mới có vài cơ sở bị phá, một số nhà dỡ một phần mái; nhưng
đồ đạc quí thì đã chở lần lần đi gởi ở trong làng, xa thị xã, những chỗ chắc địch
sẽ không tới.
Ở Long Xuyên hai ba ngày thì có ghe nhỏ ở Tân Thạnh qua đón
chúng tôi. Hồi đó đã gần cuối mùa lụt, nước trong đồng rút mạnh ra Tiền Giang,
Hậu Giang; ghe gặp toàn nước ngược, cả giờ chỉ tiến được vài ba cây số. Chiều
hôm đó chúng tôi phải nghỉ lại nhà một người quen ở giữa đường Long Xuyên - Mỹ Luông; sáng hôm sau mới đi tiếp. Trên bờ, thấp thoáng trong các vườn xoài, dừa,
một đám khoảng vài chục thanh niên vác tầm vông vạt nhọn, đương tập quân sự.
Người nào cũng bận bà ba đen, đi chân không, nét mặt hăng hái, vui vẻ. Nghe họ
hô "một hai, một hai" và tiếng chân họ nện trên mặt đất, lòng tôi
cũng sôi lên.
Tới Mỹ Luông, ghe phải đi men bờ, ngược lên gần chợ Thủ rồi mới
qua sông. Ngồi ghe lâu quá, tù túng, mấy anh em tôi lên đi bộ cho ghe được nhẹ.
Giữa đường từ Mỹ Luông tới chợ Thủ, chúng tôi được biết ba tín đồ Hòa Hảo bị giết
ngày 17-10-1945 ở sân vận động Cần Thơ: Nguyễn Xuân Thiếp, hiệu là Việt Châu,
người thứ nhì là em trai út Thầy Tư Hòa Hảo, người thứ ba là con trai của Trần
Văn Soái, Tổng tư lệnh quân đội Hòa Hảo.
Chúng tôi bàng hoàng, lặng lẽ cúi đầu đi, không ai nói một lời.
Tôi nhớ lại buổi trưa đó, anh Việt Châu từ biệt tôi đi Cần Thơ để hòa giải, hai
bên vui vẻ và tự tin, chắc thành công: mọi sự chia rẽ lúc đó chỉ có lợi cho địch,
mà anh tuy theo Thầy Tư nhưng vẫn có cảm tình với Việt Minh thì khó khăn nào mà
không giải quyết được. Dè đâu, lần chia tay đó lại là lần vĩnh biệt.
° °
°
VIỆT CHÂU
Chỉ vì tin đó mà chuyến về hết vui. Bác trai tôi rầu rầu
trách chúng tôi: "Sao ở trên đó lâu vậy? Ở nhà mong mãi".
Cả nhà xúm lại. Chúng tôi kể tin tức Sài Gòn, Long Xuyên, những
nỗi khó nhọc khi đi đường đường, mà không dám nhắc tới tin buồn kia.
Bác tôi nói trước:
- Khi nó hỏi ý bác có nên giúp thầy Tư Hòa Hảo không, bác bảo
giúp thì giúp, nhưng chỉ nên lãnh công việc xã hội, đừng làm chính trị. Nó
không nghe lời bác. Có tin cho hay khi nó tới Cần Thơ, người ta ngờ nó xuống để
kích động tín đồ, bắt giam nó liền, không chịu nghe nó phân trần. Rồi tín đồ thấy
nó bị bắt lại càng làm dữ, tình hình mỗi ngày thêm găng và kết quả như vậy. Ra
pháp trường, nó không một lời nào nhắn gia đình gì cả, ung dung ngâm bốn câu
thơ rồi hô: "Việt Nam muôn năm". Thật là có tinh thần Nguyễn Trung Trực.
Việt Châu (Nguyễn Xuân Thiếp) tính tình giống bác tôi, có khí
tiết mà mềm mỏng, khéo xử sự, biết lo cho gia đình mà có tài làm thơ, nên bác
tôi mến nhất. Anh sanh năm 1918, biết chút ít chữ Pháp, chữ Hán và nhà coi sóc
ruộng nương. Năm 1940 hay 41, mới 23 tuổi đã xuất bản tập thơ Lông ngỗng gieo
tình (truyện Mị Châu, Trọng Thủy) được một số thi sĩ ở Bắc khen, rồi ít năm sau
viết xong một tập thơ nữa trên ngàn câu về Dương Qui Phi, chưa xuất bản. Thỉnh
thoảng có thơ văn đăng trên báo; lại giữ phụ trương văn chương một tờ nhật báo ở
Sài Gòn, có nhiều bạn thơ ở Bắc, Nam, thường thư từ với Trần Huyền Trân, một
thi sĩ theo Việt Minh từ trước 1944.
Trong cuốn Thi ca Việt Nam hiện đại (Khai Trí - 1967), Trần
Tuấn Kiệt có chép sơ lược tiểu sử và trích ít bài thơ của anh. Thơ anh trôi chảy,
bóng bảy, lãng mạn như các nhà thơ trẻ tuổi hồi đó, nhưng cũng có bài tả những
cảnh chưa ai tả, như bài Hoa Ô môi mà trong cuốn Thi ca Việt Nam hiện đại đã
trích đăng.
Mới 28 tuổi đã lìa đời, nếu không sự nghiệp thi văn của anh
còn tiến nhiều. Từ 1945 đến 1974, năm nào "tổ đình" - đình thờ gia
đình thầy Tư ở làng Hòa Hảo, được tín đồ coi như thánh địa - cũng làm giỗ anh với
hai người tử vì đạo với anh.
Nhưng có điều là do thời cuộc, thơ anh ngay vợ con anh cũng
không giữ được. Anh có hai người con trai, một người theo nghề võ, một người viết
báo, nhưng không ai biết làm thơ.
° °
°
TÂN PHƯƠNG
Chín năm sau bác tôi lại bị một cái tang nữa. Người con trai
lớn tên là Nguyễn Xuân Tăng (bút hiệu là Tân Phương) đẹp trai, nhưng ẻo lả, chết
một cách thật vô nghĩa.
Bác sĩ rọi phổi bảo là bị bệnh lao. Thời đó (khoảng 1950),
Tây y đã có những thuốc rất công hiệu để trị lao: Streptomicine, Rimifon,
P.A.S. Anh ấy mới chích một mũi Steptomicine rồi nhất định không chịu chích nữa
(có lẽ vì sợ chích) mà tự dối mình là chỉ ho thường thôi chứ không bị lao, rồi
uống thuốc Nam, thuốc Bắc, không chịu đi bác sĩ. Bệnh mỗi ngày một nặng, vài ba
năm sau, khi toát mồ hôi lạnh, yếu quá rồi, vợ mới vội đưa ngay lên bệnh viện
Grall ở Sài Gòn, thì phổi đã bị vi trùng lao đục rỗng, vài ngày sau chết tại bệnh
viện. Năm đó anh mới 39 tuổi. Thật uổng một đời thông minh.
Giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, làm thông dịch viên cho cơ quan
Domei của Nhật. Mới tự xuất bản được một tập nhỏ nhan đề là Vers une dictature
đại ý là muốn cho thế giới hết loạn thì phải cho Hội Vạn quốc (Société des
Nations) có đủ binh lực và quyền hành để buộc các nước lớn nhỏ trên thế giới phải
tuân lệnh. Tập đó ra năm 1938 hay 1939, trước khi thế chiến nổ. Thỉnh thoảng
anh có viết chuyện ngắn, làm một bài thơ đăng báo. Anh viết kĩ, văn gọn, có
khí, đôi khi bóng bẩy.
Tôi còn giữ được truyện ngắn Tình trong bức tường (đăng trên
nguyệt san Tiểu thuyết Thứ bảy - số tháng 9 năm 1944) tả mối tình tuyệt vọng của
một thanh niên hơi có học, nghèo, làm thợ nề mê con gái một điền chủ, mà không
dám ngỏ lời, kín đáo chép tâm sự bỏ vào một cái chai lén giấu trong bức tường của
ông điền chủ khi chàng xây tường.
Thơ anh cũng đăng trên nguyệt san đó, bài thơ Trương Lương
cũng được nhiều người tán thưởng.
° °
°
KHÔNG KHÍ LÀNG TÂN THẠNH
Không khí làng Tân Thạnh đã thay đổi nhiều. Trên đường chỉ thấy
thanh niên nam nữ đa số là gia đình nông dân. Các hương chức và điền chủ ít ai
ra khỏi nhà. Ghe xuồng bớt qua lại, tuyệt nhiên không thấy một chiếc ghe hầu, một
chiếc ca nô. Một hai miễu ông Tà bị lật đổ, nhưng chưa hất xuống rạch. Ở đình
người ta làm lễ, nhưng rất sơ sài; một hai nhà cách mạng theo phong trào mới tới
dự, nhưng bận áo bà ba và không vái. Vài nhà cách mạng khác bỏ làng, theo kháng
chiến. Gần cuối năm 1945, vài gia đình ở nơi khác tản cư về đây, trong số đó có
gia đình cô giáo Liệp và gia đình một thầy giáo nữa ở Long Xuyên.
Chủ tịch Ủy ban Hành chánh xã là một thanh niên học tới trung
học, ở bên cạnh nhà bác tôi và có họ hàng với bác gái tôi. Mấy anh em tôi lại
trình diện với ông ta và tôi cũng đi canh gác một hai đêm với thanh niên ở bến
đò gần nhà.
Trong làng ai cũng biết nhau và có họ hàng xa gần với nhau
nên ít có sự nghi kị. Chỉ có mỗi một lần vào mùa xuân năm 1946 vài anh bộ đội
đóng đâu ở phía Phong Mĩ vào nhà bác tôi đòi khám xem có súng ống không vì họ
biết anh Tân Phương làm việc với Nhật. Họ chỉ xét qua loa rồi ra. Sau đó anh ấy
lánh qua bên chợ Thủ sống với vợ con. Còn anh Việt Châu thì không ai nhắc tới cả.
Mãi hai năm sau, khi thầy Tư Hòa Hảo đã bị thủ tiêu (lúc này tôi đã qua Long
Xuyên rồi), ủy ban xã mới mời bác tôi vô trụ sở, giam mấy ngày để điều tra, rồi
thả, vì biết bác tôi từ 1939 không hề ra khỏi làng, không hề biết mặt thầy Tư.
Mùa đông năm 1945, một chiếc ghe chở muối từ Bạc Liêu lên bán
ở Long Xuyên, ghé Tân Thạnh cho tôi biết: vợ con tôi vẫn bình an ở nhà người em
ruột tại Long Điền. Em rể nhà tôi trước làm Xã trưởng làng đó, nay lại làm Chủ
tịch ủy ban nhân dân xã. Tôi yên tâm. Tạm sống xa nhau như vậy vì tôi tin chiến
tranh sẽ mau kết thúc.
Nhưng đợi tới cuối năm, tình hình vẫn chưa có gì thay đổi. Tết
đó thật buồn, chợ Tết lèo tèo, nhà nào cũng cúng qua loa. Không có dưa hấu,
quít, mứt. Chỉ gói một nồi bánh tét, mổ thịt một vài con gà.
° °
°
TÔI HỌC ĐÔNG Y
Về Tân Thạnh được vài tháng, không có công việc gì làm, để khỏi
buồn, tôi xin bác tôi dạy cho tôi đông y.
Tôi học bộ Y học toản yếu gồm sáu quyển của Lưu Thánh Tuyền.
Tôi đọc rồi bác tôi cắt nghĩa. Thỉnh thoảng có bệnh nhân xa gần lại nhờ bác tôi
trị (làm phúc), nhờ vậy tôi có dịp tập coi mạch.
Sau chín mười tháng tôi nhận được một số bệnh, biết chút y
lí, phân biệt được hàn nhiệt, hư thực trong những trường hợp dễ, sử dụng được một
số toa thuốc cơ bản, cổ điển: loại bổ, loại tán (làm cho tà khí tan đi), loại
hàn (thuốc mát), loại nhiệt (thuốc nóng), loại công (công phá, như thuốc xổ);
thuộc được tính chất độ một trăm vị thuốc thường dùng; biết gia giảm những vị
nào cho hợp với bệnh nhân; lại biết nấu thục địa, sao, tẩm một số thuốc.
Đọc các sách thuốc khác như bộ của Hải Thượng Lãn Ông, tôi đã
hiểu được nhưng chưa thể làm y sĩ được vì thiếu nhiều kinh nghiệm. Sự hiểu biết
của tôi chỉ dùng được cho người trong nhà, về những bệnh thông thường.
Tôi thấy y lí của phương Đông, sự phân biệt hàn nhiệt, hư thực
thật tinh tế và có lợi. Tôi lấy thí dụ bệnh ho do phải cảm hay thời tiết thay đổi,
nếu phân biệt được hàn nhiệt, thì chỉ vài thang là hết, trong khi các bác sĩ thử
hết thuốc nước này, thuốc hoàn khác mà bệnh không dứt. Mới mười năm trước đây,
đọc một số báo Pháp hay Mĩ thấy một bác sĩ chỉ dùng cách này mà trị được một bệnh
ho dai dẳng: bảo bệnh nhân vẩy nước trong phòng cho không khí ẩm thấp, mát mẻ;
vài ngày sau bệnh nhân hết ho. Trường hợp đó đông y cho là do nhiệt mà ho.
Bệnh đi tiêu chảy, đông y phân biệt hàn nhiệt và cách trị
khác nhau. Bệnh lị Đông y phân biệt hàn nhiệt, tây y phân biệt dysenterie
amibienne và dysenterie bacillaire. Hai cách phân biệt đó có điểm nào giống
nhau không?
Đông y có một kinh nghiệm lâu dài (trên mấy nghìn năm) và rộng
rãi (trên miền Đông Á rộng bằng cả châu Âu không kể Nga) tất có nhiều điều đáng
cho tây y tìm hiểu. Ngày nay ai cũng biết công dụng của tử hà sa (nhau), đồng
tiện (nước tiểu trẻ em), cam thảo (để trị loét bao tử) mà người Trung Hoa đã
tìm ra được hàng ngàn năm trước; phương Tây đương nghiên cứu khoa châm cứu của
Trung Hoa và hình như bây giờ đã có bác sĩ nhận rằng thận có nhiều công dụng
khác quan trọng ngoài công dụng tiết ra nước tiểu, rằng Đông y có lí khi bảo trẻ
em và người già cần bổ thận. Nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu rõ quan niệm khí (khí
huyết), quan niệm thận thủy và thận hỏa của Trung Hoa. Nghiên cứu theo khoa học
để tìm hiểu Đông y là việc làm lí thú và có ích cho nhân loại.
Tuy nhiên chúng ta phải nhận rằng Đông y chỉ giúp cho Tây y
được thôi chứ không thể nào tiến mau như Tây y được. Tây y dùng thuốc hóa học,
chế tạo được rất nhiều thuốc mới mà giá lại rẻ; Đông y gần như chuyên dùng thảo
mộc, mà trồng thảo mộc đã lâu, lại phải tùy đất, tuỳ thời tiết, phải bào chế,
giá thuốc quá đắt, ít người mua nổi.
Nhất là phương pháp dạy, nghiên cứu của Đông y cổ lỗ quá, cần
phải canh tân.
° °
°
CÁC KHOA HỌC HUYỀN BÍ CỦA TRUNG HOA
Trong những năm 1939-1940 tôi đã đọc một hai cuốn Tử vi viết
bằng tiếng Việt. Năm 1945 về Tân Thạnh tôi đọc thêm sách Tử bình bằng chữ Hán.
Năm 1974 tôi lại được đọc cuốn Bát tự Hà Lạc của Học Năng, một bạn già của tôi
quê ở Thanh Trì (Hà Nội) có cả Hán học lẫn Tây học, đã lần hiệu trưởng nhiều
trường tiểu học.
Tôi đọc chỉ do tò mò muốn biết mấy môn học huyền bí đó của
Trung Hoa. Hơn hai chục năm trước, một anh bạn "làm cách mạng" thấy
tôi đọc sách tử vi, hỏi tôi:
- Tại sao anh lại tin những sách vô lí như vậy?
Tôi đáp:
- Anh thiếu tính thần khoa học rồi. Phải tìm hiểu một môn học
rồi mới phê bình nó được chứ. Ở đời thiếu gì cái vô lí mà có thực. Một người
thân ở xa bị tai nạn, đúng lúc đó mình ở nhà bồn chồn, lo lắng cho người đó; hiện
tượng cách cảm (télépalhic) đó, lấy logique mà xét thì thấy vô lí, nhưng vẫn có
thực. Anh vẫn thường bắt tin tức thế giới trong máy thâu thanh; nửa thế kỉ trước,
ai mà không cho như vậy là vô lí, không thể có được.
Anh bạn đó làm thinh.
Trong cuốn Luyện lí trí (1965) chương VII tôi đã đưa ra vài
nhận xét về khoa Tử Vi và Tử bình rồi kết như sau:
"Tôi không quả quyết rằng những khoa Tử vi, Tử bình hoàn
toàn vô giá trị. Vì tôi đã thấy những trường hợp nó đúng một cách không phải là
ngẫu nhiên. Tôi lấy thí dụ một gia đình nọ gồm bốn anh em mà tôi được biết. 1.
Khi mới sanh, mỗi người đều có một lá số tử vi. Số đoán rằng một người con trai
sẽ khá nhất, càng đi xa càng khá, một người con trai nữa sẽ chết yểu, một người
con gái được nhờ chồng, một người nữa không được nhờ chồng mà được nhờ con. Hiện
nay, sau nửa thế kỉ, tôi thấy những điều đó đều đúng mà đúng tới vậy thì không
thể cho là ngẫu nhiên được.
(...) Tôi lại nghiệm thấy rằng coi qua những số của các bà
con, bạn bè cũng có thể đoán ngay được mỗi người vào hạng nào trong xã hội,
nghĩa là số tốt hay xấu. Mà những lời đoán đó phần nhiều đúng, đúng về đại
cương, đúng một cách tương đối. Và vấn đề nhân sự, hoàn cảnh vấn là quan trọng".
(trang 174-175).
Ngày nay (1980) tôi có thể nói thêm: lấy theo Tử vi thì 10 lá
số chỉ đúng độ 6, 7 lá; những lá đúng đó, thì mười điều cũng chỉ đúng được 6,
7, càng đoán về tiểu tiết thì càng sai.
So sánh ba khoa Tử vi, Tử bình, Hà lạc, tôi thấy:
- Tử vi cho con người chịu ảnh hưởng kết tụ của các vì sao
(tinh đẩu), mà như vậy mọi việc đã an bài sẵn. Không thể cải được mệnh.
Tử vi dùng trên trăm sao và có tới 12 cung: mạng, thiên di,
tài bạch, quan lộc. phúc đức, phụ mẫu, phu thê, tử tức, huynh đệ... cho nên
đoán được nhiều chi tiết: tính tình mỗi người, sang hèn, giàu nghèo ra sao, cha
mẹ, vợ con, anh em, cả bạn bè, bệnh tật, mồ mả tổ tiên, nhà của, ruộng
nương..., nhiều chi tiết hơn Tử bình và Hà lạc; có lẽ chính vì vậy mà nhiều người
thích khoa đó; nhưng đi vào chi tiết thì dễ đúng mà cũng dễ sai; mà tâm lí
chung của mọi người là để ý đến những điều đúng hơn là những điều sai, cho nên
khoa đó được nhiều người tin là đúng.
Sự thực, theo tôi thì khoa đó không hợp lí vì dùng âm lịch,
mà âm lịch có tháng nhuận; gặp người sinh tháng nhuận thì đành phải coi thuộc về
tháng trước hay tháng sau, như vậy hai người sinh cách nhau một tháng, người
sinh trong tháng 6 chính chẳng hạn, người sinh tháng 6 nhuận, ngày giờ giống
nhau thì số y hệt nhau: điều đó không chấp nhận được.
Ngoài ra, Tử vi còn nhiều điểm mâu thuẫn, chẳng hạn sao phá
quân thuộc thủy, ở cung tí cũng là thủy thì tốt; nhưng tại sao ở cung ngọ là hỏa
(thủy khắc hỏa) cũng là tốt? Nhất là ở 4 cung thìn tuất sửu mùi (thổ), thủy bị
thổ khắc mà sao cũng vẫn tốt? Lại thêm ở cung hợi (thủy), thủy với thủy mà lại
cho là xấu, hãm địa?
Không thể nào kể hết những điểm khó hiểu đó được.
Lại thêm các sách không nhất trí về cách tính sao hỏa, và 12
sao vòng trường sinh, không biết nên theo cách nào.
- Tử bình gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng can chi hết; có 4
can, 4 chi, do đó gọi là bát tự (8 chữ). Không có tháng nhuận, vì dùng dương lịch
(tính năm, tháng theo thời tiết) cho nên hợp lí hơn nhiều. Nó dùng luật ngũ
hành tương sinh tương khắc và theo qui tắc cứ quân bình là tốt: hễ
"hành" nào thiếu thì đi vào vận có hành đó hoặc có một hành sinh ra
nó (ví dụ thiếu hỏa, di vận có hỏa hoặc có mộc sinh hỏa) mới tốt. Điều đó cũng
hợp lí. Lại thêm nó dùng ít sao, ít có trường hợp sao này tương phản với sao
khác, nên đoán ít sai. Nhưng chính vì ít sao, đoán được ít chi tiết, nên nhiều
người không thích khoa đó.
- Hà lạc gọi là bát tự vì cũng gọi năm, tháng, ngày, giờ bằng
can chi; nhưng khác hẳn tử bình ở chỗ đổi những can chi đó ra số Hà lạc, để lập
thành một quẻ kép trong kinh Dịch, quẻ này biến thành một quẻ kép khác nữa, sau
cùng cứ theo ý nghĩa của mỗi quẻ, mỗi hào trong kinh Dịch mà đoán vận mạng (mỗi
hào âm là 6 năm, mỗi hào dương là 9 năm; còn Tử vi và Tử bình thì mỗi vận là 10
năm).
Như vậy Hà lạc chỉ cho ta biết sơ về số mạng (giàu sang hay
nghèo hèn, thọ hay yểu) và mỗi hạn 6 hay 9 năm tốt xấu ra sao, chứ không cho ta
biết gì về gia cảnh, cha mẹ, vợ con... Sau mỗi hào có lời khuyên nên cư xử ra
sao, tiến thoái, hành xử ra sao cho hợp với nghĩa tùy thời trong kinh Dịch.
So sánh ba khoa đó, tôi thấy Tử vi thích hợp với đàn bà, họ
muốn biết nhiều chi tiết; Tử bình hợp lí, thích hợp với giới trí thức; Hà lạc
thích hợp với người học đạo cư xử ở đời.
Ba khoa đó phương pháp đều huyền bí, rất khác nhau mà lạ lùng
thay, kết quả nhiều khi giống nhau tới 7 phần 10.
Thí dụ trường hợp của tôi. Tôi sinh năm Tân Hợi, tháng 11,
ngày 20, giờ Dậu (Tây lịch: 8-1-1912), bát tự là năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu,
ngày Quí Mùi, giờ Tân Dậu.
Số Tử vi đoán tính tình, khả năng của tôi đúng, về phúc, thọ
của tôi cũng đúng, về vợ con cũng đúng nữa; nhưng về cung quan lộc thì đúng một
phần thôi, về đại hạn 43-52 tuổi thì sai nhiều.
Số Tử bình đoán đại khái cũng đúng gần như Tử vi, tuy ít chi
tiết hơn, và riêng đại hạn 41-50 tuổi thì đúng hơn Tử vi.
Số Hà lạc cũng đoán rất đúng về đại hạn đó, còn về phúc, thọ,
tư cách thì cũng giống Tử vi và Tử bình. Về gia đình tôi, Hà lạc không đoán,
như tôi đã nói.
Ba khoa nguyên tắc khác hẳn nhau mà kết quả hợp với nhau như
vậy thì đáng gọi là kì dị. Nhưng tôi cũng thấy mấy người trong họ hàng tôi số Tử
vi, Tử bình khác nhau xa; và có khi gần hoàn toàn sai cả nữa.
Vậy ba khoa đó bảo là vô căn cứ thì sai mà bảo là đáng tin hẳn
thì cũng không được. Tò mò đọc cho biết thì nên, bỏ trọn đời để nghiên cứu thì
tôi e mất thì giờ mà chưa chắc đã phát kiến được gì. Cho nên tôi không muốn lấy
số cho trẻ trong nhà. Và tôi cho cứ tận lực của mình là hơn cả. Nếu có số thì
con người có khi cũng thắng được số. Tất cả các sách số đều khuyên vậy:
"Tín mệnh bất tín lực, thất chi viễn hĩ" (Tin số mà không tin sức
mình thì lầm lớn). Vả lại người ta có thể sửa được số. Cổ nhân tin rằng số giàu
mà mình không ham giàu, tránh giàu thì sẽ tăng tuổi thọ; số sang mà mình tránh
sang thì được hưởng phúc nhiều hơn. Cổ nhân còn nói: "vận nước thắng vận
người" (Quốc mạng thắng nhân mạng). Những lời đó đều đúng cả.
Đó là bài học tôi rút được khi rảnh, đọc chơi môn lí số của
Trung Hoa.
°
Tôi lại đọc môn bói nữa trong bộ Bốc phệ chính tôn và Dã hạc.
Môn bói trong hai cuốn đó đều dùng quẻ Dịch một cách tài
tình. Khi ta đã chấp nhận một số định đề, nguyên tắc rồi thì cứ áp dụng luật
ngũ hành tương sinh tương khắc mà suy đoán mọi việc sẽ xảy ra. Bói và Tử bình
có lẽ là hai khoa hợp logique nhất trong các khoa học huyền bí của Trung Hoa,
khiến tôi mê mải đọc. Đem ra thực hành thì tôi thấy có một số quẻ đúng một cách
kì dị như hai quẻ tôi đã dẫn trong cuốn Luyện lí trí (tr. 177), một quẻ về bệnh
của mẹ tôi, một quẻ về việc buôn bán của một bà chị tôi; đúng về tốt xấu là
chuyện thường (vì chỉ có tốt với xấu, như vậy dù có đúng cũng chỉ được 50%),
nhưng còn đúng cả về ngày và tháng nữa thì thật lạ lùng.
Nhưng sau tôi thấy nhiều quẻ sai be bét: người chết rồi thì bảo
là chưa chết; miếng đất đoán là sẽ mua được mà rốt cuộc không mua được. Đoán rất
đúng sách, chỉ tại quẻ không nghiệm thôi. Chính một bạn tôi có mấy chục năm
kinh nghiệm về khoa đó cũng nhận rằng có người xin quẻ thường nghiệm, có người
trái lại; lại có người lúc thì nghiệm lúc thì không. Hình như quẻ nghiệm hay
không còn tùy nhân điện của người xin quẻ, của người gieo tiền, hoặc tùy tâm trạng
người đó, tùy lúc, tùy giờ hay tùy cái gì đó nữa.
Riêng tôi chỉ thấy sai nhiều nên không tin khoa đó nữa, cứ
xét nhân sự mà quyết định mọi việc; nhưng vẫn nhận là kì dị, huyền bí chứ không
phải là chuyện nói láo mà chơi.
Trong tủ sách bác tôi còn có một bộ Địa lí hám giá, tôi cũng
lấy ra coi, chỉ xin bác tôi giảng cho ít thuật ngữ, một vài qui tắc rồi đọc lấy
được.
Khoa này còn huyền bí hơn các khoa trên nữa. Cổ nhân đã nói
muốn làm thầy địa lí (tức khoa phong thủy, để mả chỗ nào cho kết (phát) thì phải
có "lòng thần, mắt thánh, cẳng tiều phu". Tôi không có lòng thần,
cũng không có mắt thánh, cho nên dù được các bác tôi dắt đi coi vài kiểu đất kết,
chỉ cho "mạch" phát từ đâu, đi theo hướng nào, tụ ở đâu, đâu là tay
long, đâu là tay hổ v.v... tôi cũng chẳng thấy gì cả. Tôi nghĩ, ở một miền
hoang vu, nhận những chỗ cao thấp trên mặt đất thì còn có thể thấy được long mạch;
chứ trên một cánh đồng đã khai phá cả mấy trăm năm, cả ngàn năm rồi, gò đồi đã
san phẳng, hồ ao đã lấp hoặc đào thêm, đường đi đã chằng chịt như bàn cờ, thì
căn cứ vào đâu để bảo đó là long mạch. Cho nên khoa địa lí tôi chỉ đọc qua thôi
và tin rằng sẽ không còn ai học nó nữa.
° °
°
TRỒNG DÂU NUÔI TẦM
Tôi làm tất các việc lặt vặt trong nhà: nhổ cỏ, quét sân,
xách nước, giã gạo, bữa củi... Khi tản cư tôi còn được 700 đồng. Tôi hùn nuôi tằm,
không lời mà cũng không lỗ. Tôi nghĩ nếu trồng dâu, có sẵn dâu để nuôi tằm thì
vừa tiện vừa có lời. Tôi bèn cuốc một công đất ở bên cạnh nhà, đầu mùa mưa 1946
qua chợ Thủ mua từng bó thân dâu đem về chặt rồi giâm, cắm. Nhưng thiếu kinh
nghiệm: Tân Thạnh ở ngang chợ Thủ, tuy chỉ cách con sông Tiền Giang mà đất hai
nơi rất khác nhau: chợ Thủ là đất bãi, trồng dâu tốt, còn Tân Thạnh là đất đồng,
đất sét, dâu mọc rất chậm, mới cao được vài tấc thì gặp mùa nước lớn, lá dâu
vàng úa lần lần rồi ngọn chìm dưới nước. Thế là bỏ luôn cả việc nuôi tằm.
° °
°
PHÁP BẮN PHÁ TÂN THẠNH - TÔI MẤT BẢN THẢO
Mùa xuân năm đó, luôn nửa tháng, sáng nào cũng khoảng 9, 10
giờ là máy bay Pháp lượn trên mấy làng Tân Phú, Tân Thạnh..., sà xuống tưởng
như gần sát ngọn sao, ria liên thanh xuống. Nhiều nhà đào hầm ở dưới bụi tre để
núp. Đàn bà, con nít và các ông già bà già ăn cơm sớm rồi di tản vào trong đồng
từ 8, 9 giờ sáng, 3, 4 giờ chiều mới về. Nhà chúng tôi di tản qua chợ Thủ, chỉ
có tôi và một người nữa ở lại coi nhà. Nhà cài then cửa trước, cửa sau, hễ máy
bay tới thì ra núp ở bụi tre. Có hôm chúng bắn rát quá, tôi hồi hộp, quặn đau ở
bụng. Bệnh loét bao tử của tôi có lẽ phát từ hồi đó. Trong xóm không có người
nào bị thương, nhưng vài nhà bị mấy chục viên đạn vào nóc, vách.
Máy bay tới bắn phá được ít lâu thì quân Pháp và
"partisan" (lính Việt đánh thuê) tới đóng đồn ở làng Tân Phú và làng
Tân Thạnh, hai đồn cách nhau độ ba cây số. Mỗi đồn có một hạ sĩ quan Pháp và
dăm ba lính Việt. Mới tới chúng hiếp dâm một chị nông dân rồi bắn chết, vất
thây xuống sông. Chúng vào khám xét một số nhà, bắt gà, vịt
Tới mùa nước lên, cả miền đó như mặt biển, nước mấp mé tới
sàn, đường sá đều ngập hết, đi đâu người ta cũng phải dùng xuồng. Vậy mà tên
Pháp coi đồn cũng chịu khó lội nước theo bờ rạch từ đồn nọ đến đồn kia để xét
giấy tờ của các chủ nhà. Coi vẻ nó uể oải, một nhọc lắm, còn tên lính Việt đi
theo thì như thường. Cuối mùa nước chúng rút đi đâu không biết, đồn bỏ hoang.
Một đêm, hồi chưa có đồn Pháp, ba bốn tên cầm đuốc vào nhà
bác tôi, đập cửa bảo để xét nhà. Bác tôi không ngờ là cướp, mở của; chúng trói
bác tôi bắt ngồi một chỗ, rồi đi lục một lát, sau thấy chiếc va li của tôi,
chúng xách đi; ngoài ra không lấy gì khác. Trong va li đó chỉ có ít thước vải,
vài cuốn sách và bản thảo. Cũng may tiền tôi không cất trong đó. Tôi không tiếc
vải, chỉ tiếc hai bản thảo về cải tổ giáo dục và về Đồng Tháp Mười.
Chủ ý bọn đó không phải là để cướp nhà bác tôi mà để bắt cóc
một ông Hội đồng, con ông phủ Nghĩa ở Tân Phú, có tiếng là giàu nhất trong quận.
Từ mấy hôm trước ông ta đã bỏ nhà, lại trốn trong nhà bác tôi, suốt ngày không
ra khỏi phòng riêng vậy mà chúng cũng hay được. Đêm đó ông ta ngủ ở nhà sau, thấy
động ở nhà trước, nhanh chân nhảy ngay xuống dưới sàn núp, bọn cướp không thấy.
May cho ông ta mà rủi cho bác tôi - bị thương nhẹ vì chúng hành hung - và cho
tôi. Bản thảo Đồng Tháp Mười trả về cho Đồng Tháp Mười và chắc chúng dùng để vấn
thuốc.
--------------------------------
1 Chính là tôi và ba em tôi (chú thích năm 1980).
CHƯƠNG XVII - CÁC CUỘC THƯƠNG THUYẾT VIỆT - PHÁP
M
ỘT NĂM CHỜ ĐỢI: 1946
Như trong chương IX tôi đã nói, năm Tuất trước (Giáp Tuất
1934) là năm buồn nhất trong tuổi trẻ của tôi: không có việc làm trong 5 tháng,
để cho qua ngày, tôi cặm cụi học chữ Hán. Năm Tuất này (Bính Tuất 1946) còn buồn
gấp mấy năm đó nữa. Cũng thất nghiệp vì tôi đã quyết tâm còn chiến tranh với
Pháp thì không trở về nghề Công chánh, về sở Thủy lợi; và để cho qua ngày tôi lại
cặm cụi học chữ Hán. Nhưng lần trước còn tin chắc sớm muộn gì cũng được bổ dụng;
lần này thì không biết được sẽ làm gì để mưu sinh; vốn liếng chỉ còn 500 đồng
(lỗ mất 200 đồng vào việc trồng dâu rồi), nghề Đông y thì mới biết sơ sài, chưa
đủ để làm thầy; tương lai thật mù mịt. Lần trước nằm dài ăn báo mẹ thì còn được;
lần này năm dài ăn báo hai bác tôi thì thật khó coi; vì chiến tranh hai bác tôi
cũng túng thiếu, chỉ làm được mấy chục công đất ở sau nhà, số thu hoạch chỉ vừa
đủ gạo để ăn.
Lại thêm cảnh gia đình tôi nữa: nhà tôi và cháu ở nhờ người
em gái ở Long Điền, cũng phải tản cư với gia đình cô em. Miền đó nhiều người Thổ
(Miên), chúng nổi dậy, uống rượu say, đi cướp phá, tìm những chỗ chứa của, gập
người Việt nào cũng "cáp duồng" (chặt đầu). Cái nạn Thổ ở Nam Việt thật
tai hại: thời bình chúng ngoan ngoãn, lễ phép, mà thời loạn chúng thành giặc.
Ngay ở Tân Thạnh cũng trong năm 1946, mấy lần có tin đồn Thổ ở Svay Rieng (Cao
Miên) băng qua Đồng Tháp, tính đánh phá, đốt nhà, cướp lúa, cướp trâu bò ở mấy
làng chung quanh chỗ tôi ở, dân chúng phải đề phòng, tổ chức chống cự.
Những đồ tư trang nhà tôi gởi gia đình cô em giữ, bị Thổ phát
giác chỗ chôn giấu (chúng tưới nước, chỗ nào nước hút mau là đất mới lấp, đào
lên là thấy liền), do đó mất hết.
Mùa xuân năm 1946, nhà tôi phải từ biệt cô em, dắt cháu lên
Sài Gòn, thì nhà ở đường Monceau bị lính thủy Pháp chiếm, đồ đạc không còn gì.
Vậy là hai bàn tay trắng, không có chỗ ở. May gặp được một cô bạn mở một tiệm
may quần áo cho trẻ con Tây ở đường Sabourain (nay là đường Lưu Văn Lang) gần
chợ Bến Thành, lại giúp cô ấy trong việc may cắt, tiếp khách, như vậy tạm yên
chỗ ăn chỗ ở.
Yên chỗ rồi, nhà tôi về thăm tôi ở Tân Thạnh, cho hay tình
hình như vậy, và bảo ở Sài Gòn có phong trào đả đảo người Bắc của chính phủ Nam
Kì quốc do tên thầy tu D'Argenlieu, Cao ủy Pháp dựng lên, thủ tướng là bác sĩ
Nguyễn văn Thinh. Thinh sau tự treo cổ để đền tội với quốc dân. Như vậy tôi
không thể lên Sài Gòn được. Đành chờ một thời gian nữa, và vợ con một nơi, tôi
một nơi.
Thêm một nỗi buồn nữa là em trai tôi một lần qua chợ Thủ, đắm
xuồng, không vớt được thây. Năm đó chú ấy mới 33 tuổi ta, đúng như số tử vi đã
cho biết. Còn yểu hơn cha tôi nữa. Để lại một đứa con gái mới được mấy tháng.
Anh Tân Phương đã qua chợ Thủ ở với vợ con và giữa năm cũng
lên Sài Gòn. Các người tản cư đã hồi cư hết rồi. Gia đình cô Liệp cũng đã trở về
Long Xuyên. Chỉ còn một mình tôi ở lại Tân Thạnh.
Lâu lâu có ai đi Long Xuyên mới đem về cho một vài tờ báo mà
biết được qua loa tin tức. Tháng nào, tuần nào cũng mong tình hình sáng sủa. Đầu
năm có tin phái đoàn Việt Nam (ở Bắc) qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau, tôi
le lói có chút hi vọng; ít tháng sau thất vọng, cuối năm thì hoàn toàn thất vọng:
chiến tranh đã nổ lớn ở Bắc Việt, chính phủ mình đã rút ra khỏi Hà Nội để trường
kì kháng chiến (20-12-1946).
Trước Tết, mới về Tân Thạnh, tôi còn vui vui, làm đôi câu đối
này:
"Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu;
Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không.
mà một ông bạn dịch ra như sau:
Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có,
Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.
Và bác tôi cũng cho tôi câu đối:
Phú quí mạc cầu, nhất phiến băng tâm cư loạn;
Thư hoa chân ái, sổ thiên văn tự lưu phương.
Cũng ông bạn trên dịch là:
Phú quí chẳng màng, giữ tấm băng trinh thời loạn;
Sách hoa riêng thích, thơm trang giấy mực đời sau.
Tết này buồn não lòng, chỉ ngâm câu thơ cổ:
"Nhất niên tương tận dạ,
Thiên lí vị qui nhân".
(Một đêm năm gần hết,
Ngàn dặm người chưa về)
Và luôn cho tới ngày nay, ba mươi lăm cái Tết nữa rồi, không
có cái Tết nào tôi hoàn toàn vui cả: khi đoàn tụ gia đình thì chiến tranh chưa
chấm dứt, khi chiến tranh chấm dứt thì gia đình lại không đoàn tụ được. Cho nên
ngày Tết tôi cũng coi như ngày thường, cũng đóng cửa gần như không tiếp khách,
để viết lách cho tiêu sầu. Nhớ lại, chỉ những Tết hồi còn đi học là lưu lại nhiều
kỉ niệm đẹp nhất. Hai câu thơ cổ dẫn trên, bác Hai tôi đọc cho tôi nghe một đêm
30 Tết, hồi 8 giờ tối, anh em tôi ở Hà Nội mới về tới nhà, khiến người lo lắng,
tưởng có tai nạn gì.
° °
°
CHIẾN SỰ 1945-1946
Dưới đây tôi ghi vắn tắt ít tin chiến sự và biến cố xảy ra ở
Việt Nam từ ngày tôi rời Sài Gòn cho tới cuối năm 1946.
° °
°
Ở Nam (dưới vĩ tuyến 16)
Ngày 5-10-1945, Leclerc một viên tướng giỏi của Pháp, biết nhận
định tình hình, tới Sài Gòn thì Pháp có tất cả 35.000 quân, được Anh giúp đỡ để
cho tái chiếm lại miền Nam.
Trong tháng 10, quân Anh "chiếm" Gia Định, Biên
Hòa, Thủ Dầu Một.
Pháp một mặt tiến lên Tây Ninh, tính diệt lực lượng Cao Đài;
một mặt xuống Long An (Tân An), Mĩ Tho (25-10), Vĩnh Long, Cần Thơ, rồi Sa Đéc,
Long Xuyên (1-1946), Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau; một mặt nữa cho quân đổ bộ lên
Nha Trang rồi tiến vô Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết, cuối năm 1945 lên tới Ban
Mê Thuột, Djiring, Đà Lạt.
Như vậy đầu tháng 2-1946, Leclerc tự cho là công việc
"bình định" ở miền Nam của ông ở miền Nam đã xong, vì chỉ trừ từ đèo
Cả đến Tourane, còn bao nhiêu tỉnh lị, một số lớn quận lị nữa từ đèo Cả tới Cà
Mau và ở miền Tây Nguyên đã bị quân Pháp chiếm đóng và lập lại lần lần các cơ
quan hành chánh.
Nhưng Leclerc sáng suốt hiểu rằng như vậy chỉ để cứu vãn uy
tín của Pháp thôi, và phải thương thuyết ngay với Việt Minh ở Bắc, chứ 35.000
quân Pháp của ông không thể dẹp nổi kháng chiến Việt Nam.
Sở dĩ ông tiến mau được như vậy vì quân đội mình dùng chính
sách tiêu thổ kháng chiến, rút lui để bảo toàn lực lượng rồi đánh du kích.
Trần Văn Giàu mới đầu chỉ huy cuộc kháng chiến, sau bị triệu
về Bắc. Tướng Nguyễn Bình từ Bắc vô thay, tổ chức lại quân đội và vừa phục kích
quân Pháp, vừa trừ Việt gian, nhất là bọn hương chức Pháp đặt lên. Như vậy Pháp
chỉ thực sự làm chủ các tỉnh lị và quận lị thôi, không dám ra khỏi vài cây số,
cũng không dám tiến xa quá một hai trăm thước hai bên đường lộ.
Lần lần, ủy ban kháng chiến cũng lập ủy ban hành chánh xã,
huyện, tỉnh ở thôn quê; và Nam bộ trở lại tình trạng non một thế kỉ trước, dưới
triều Nguyễn, khi quân Pháp mới chiếm xong lục tỉnh: Các làng xóm ban ngày thuộc
về "đàng tân", ban đêm thuộc về "đàng cựu"; đàng tân bây giờ
là các công chức theo Pháp, đàng cựu là quân kháng chiến; và cũng như thời xưa,
một số đàng tân bây giờ ủng hộ ngầm đàng cựu.
° °
°
Ở Bắc (trên vĩ tuyến 16)
Ngày 2-9-1945, chính phủ Việt Minh làm lễ tuyên bố độc lập
thì đúng một tuần sau, quân của Lư Hán lục tục tới Hà Nội. Tất cả là 180.000
người thốc thếch, rách rưới, ở Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông đi bộ qua, một số
dắt theo cả vợ con, không ra thể thống quân đội của nước hùng cường thứ năm
trên thế giới. Mới tới, Lư Hán đã định hối suất một đồng bạc Trung Hoa ăn hai đồng
Việt Nam, như vậy họ tha hồ mua bất kì món gì họ thích với một giá rất rẻ.
Họ tới với mục đích là để giải giới quân Nhật, mà thực sự là
để vơ vét. Tội nghiệp cho dân Bắc, vừa mới qua nạn đói chết cả triệu người thì
lại bị cái nạn cướp bóc của mấy trăm ngàn tên lính Trung Hoa Quốc Dân Đảng này.
Một người Việt Nam như Nguyễn Hải Thần trong Đồng Minh hội,
Vũ Hồng Khanh trong Việt Nam Quốc Dân đảng, theo Lư Hán qua; nhưng Tưởng Giới
Thạch không có ý thực tâm ủng hộ họ, và Lư Hán chỉ muốn dùng họ để gây khó cho
Việt Minh mà thủ lợi riêng. Việt Minh lúc đó thật bối rối, phải đương đầu với cả
Trung Hoa lẫn Pháp, mềm dẻo với cả hai. Họ vội vàng tổ chức bầu cử Quốc hội
ngày 6-1-1946, giải tán đảng Cộng sản, mỏ rộng nội các.
Mĩ có chút cảm tình với chính phủ. Nga không ủng hộ gì cả.
Còn Trung Hoa thì theo Bernard Fall trong cuốn Les deux Việt Nam (Payot-1967),
ngay từ 1944, khi tổng thống Mĩ Rosevelt muốn tặng cả Đông Dương cho Tưởng, Tưởng
biết là khó nuốt nên từ chối. Pháp hiểu vậy nên điều đình với Tưởng, nhường
chút quyền lợi cho Tưởng (khúc đường xe lửa từ Lào Cai đi Vân Nam, trả lại Quảng
Châu Loan, cho được tự do ra vô cảng Hải Phòng) và đáp lại, Tưởng thừa nhận
Pháp có chủ quyền ở Đông Dương.
Chính ông Hồ Chí Minh cũng thích Pháp hơn, tuyên bố với kí giả
Pháp P.M. Dessinges của tờ Résistance: "Chúng tôi phục nước Pháp và dân tộc
Pháp lắm và không muốn cắt đứt những dây cột chặt hai dân tộc chúng ta... Chúng
ta phải khéo thu xếp với nhau. Nhưng xin ông nhớ cho rằng chúng tôi quyết tâm
chiến đấu tới cùng, nếu người ta bắt chúng tôi phải chiến đấu" (Histoire
du Việt Nam de 1940 à 1952 - Philippe Devillers - Editions du Seuil - 1952).
Ủy viên chính trị của Pháp ở Bắc là Sainteny và tướng Leclerc
lúc đó đã ra Bắc, cũng muốn thương thuyết với ông Hồ Chí Minh hơn là với Nguyễn
Hải Thần hay Bảo Đại. Nhờ vậy mà có Hiệp ước 6-3-46 kí giữa Sainteny và Hồ Chí
Minh, Vũ Hồng Khanh. Hiệp ước đó nhận Việt Nam là một quốc gia tự do (libre) ở
trong Liên hiệp Đông Dương và Liên hiệp Pháp, có chính quyền, quân đội, tài
chính riêng. Sẽ có một cuộc trưng cầu dân ý để xem Nam bộ sẽ sát nhập vào quốc
gia mới đó không.
Hai bên (tướng Salan và tướng Võ Nguyên Giáp) kí thêm mấy ước
khoản nữa: Quân đội Việt được Pháp huấn luyện và giúp khí giới; sau 5 năm, quân
đội Pháp sẽ rút hết.
Ông Hồ Chí Minh nói với Sainteny: "Tôi muốn nhiều hơn vậy...
nhưng tôi cũng hiểu rằng không thể trong một ngày mà có được tất cả".
Ngày 18 tháng 3, Leclerc đem quân vô Hà Nội, cùng với
Sainteny lại thăm ngay ông Hồ Chí Minh. Hai bên rất vui vẻ.
° °
°
D’ARGENLIEU PHÁ HIỆP ƯỚC 6-3-46 - Nam KÌ QUỐC - HỘI NGHỊ ĐÀ LẠT
Nhưng trong khi đó thì D'Argenlieu, cao ủy ở Sài Gòn hủy ngầm
hiệp ước đó. D'Argenlieu rất trung thành với De Gaulle, mà De Gaulle muốn nắm
chặt các thuộc địa cũ để cho Pháp còn có vẻ một cường quốc. Lại thêm bọn thực
dân Pháp ở Nam bộ tham lam không muốn nhả quyền lợi ra, xúi D'Argenlieu phá
đám.
Ngày 17-4-46 hai bên Pháp Việt mở một hội nghị ở Đà Lạt chuẩn
bị cho hội nghị quan trọng hơn ở Paris. Ngay từ buổi họp đầu tiên, đại biểu Việt
Nam đòi bàn về vấn đề Nam Bộ. Đại biểu Pháp đáp rằng không có chỉ thị của cấp
trên nên không bàn tới. Sự thực là D'Argenlieu đã có chủ trương tách Nam Bộ ra
khỏi Việt Nam rồi.
Ngày 1-6-1946, khi chiếc phi cơ đưa Hồ Chí Minh sang Pháp,
bay ngang qua không phận Damas, thì ông Hồ Chí Minh bắt được tin nước Cộng hòa
Nam Kì tự trị đã được thành lập ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh làm thủ tướng, các bộ
trưởng hầu hết có quốc tịch Pháp.
Vậy là trước khi họp hội nghị Fontainebleau, D'Argenlieu đã
vi phạm một điều khoản trong hiệp ước ngày 6 tháng 3.
Bọn Thinh dùng tay sai gây phong trào đả đảo Bắc Kì; nhiều
người Bắc ở Sài Gòn bị hành hung, dân chúng cả Bắc lẫn Nam phẫn uất; tướng Nguyễn
Bình phản ứng mạnh, khủng bố dữ bọn Việt gian, không khí Sài Gòn nghẹt thở.
Ông Hồ Chí Minh bực mình về hành động của D'Argenlieu, nhưng
hi vọng rằng ở Paris, sẽ được đảng Cộng sản, đảng Xã hội, nhiều chính khách
trong các đảng khác nữa giúp đỡ. Không ngờ tới Pháp thì nội các Pháp đương bị một
cuộc khủng hoảng. Ông cùng phái đoàn phải ghé Biarritz, đợi xong cuộc khủng hoảng
rồi mới lên Paris.
Rủi cho Việt Nam, nội các mới (thành lập ngày 24-6) gồm 3
thành phần: Cộng sản, Xã hội và Phong trào Cộng hòa nhân dân (M.R.P). Một lãnh
tụ của phong trào Cộng hòa nhân dân, Georges Bidault, làm thủ tướng, mà Bidault
rất có ác cảm với ông Hồ Chí Minh, suốt trong chiến tranh Việt Pháp, lúc làm thủ
tướng, lúc làm bộ trưởng ngoại vụ, nhất định không chịu thương thuyết với ông Hồ
Chí Minh, và những người Pháp hiểu dân tộc Việt Nam như Jean Lacouture, P. Mus,
Philippe Devillers cho rằng Bidault với D'Argenlieu là những người chịu trách
nhiệm lớn nhất trong việc làm hỏng cuộc hòa giải Việt Pháp, kéo dài cuộc chiến
tai hại cho cả hai dân tộc, để rốt cuộc đưa tới sự thất bại tủi nhục của Pháp ở
Điện Biên Phủ sau này.
° °
°
HỘI NGHỊ FONTAINEBLEAU THẤT BẠI
Hội nghị Fontainebleau họp ngày 6-7. Phía Pháp không có một đại
biểu nào vào hàng bộ trưởng. Phái đoàn Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng cầm đầu.
Ngay từ buổi đầu, ai cũng thấy ngay rằng chính quyền Pháp chỉ coi Việt Nam như
một nước lệ thuộc ở trong Liên hiệp Đông Dương, thuộc quyền cao ủy Pháp ở Sài
Gòn. Pháp không muốn bàn thêm gì cả mà chỉ muốn rút lại những nhượng bộ trong
Hiệp ước 6-3.
Lại thêm trong khi ở Paris có hội nghị thì ở Việt Nam
D'Argenlieu đem quân chiếm các tỉnh Pleiku, Kontum; rồi lại họp một hội nghị Đà
Lạt nữa, mời đại biểu của tất cả các chính quyền Đông Dương, trừ chính quyền Việt
Minh.
Dĩ nhiên hội nghị Fontainebleau thất bại. Sau cùng, để khỏi về
tay không, gần nửa đêm 14-9, ông Hồ Chí Minh lại tư dinh bộ trưởng Hải ngoại
Pháp Marius Moutet, trong đảng Xã hội Pháp mà ông quen biết từ ba chục năm trước,
để kí với Moutet một thỏa hiệp ước (modus vivendi) "định cách thức giao trả
một số công sở cho chính phủ Hồ Chí Minh, chính phủ này chịu nhận ở lại trong
Liên hiệp Pháp (lời Marius Moutet); "các cuộc thương thuyết sẽ tiếp tục
càng sớm càng tốt, trễ nhất vào tháng giêng năm 1947"; trong khi đó
"cả hai chính phủ quyết định chấm dứt những hành động thù nghịch, cùng các
bạo động ở Nam Bộ và miền Nam Trung Bộ".
° °
°
HỒ CHÍ MINH VỀ NƯỚC - VỤ HẢI PHÒNG
Ông Hồ Chí Minh về đường biển, ngày 20 tháng 10 mới tới Hải
Phòng. Dân chúng hoan hô nhiệt liệt. Ông vẫn muốn mềm mỏng, kiên nhẫn với
D'Argenlieu, hi vọng hòa giải được; nhưng hình như trong nội bộ có một phe
"cực tả" tin chắc rằng thế nào cũng phải có cuộc sống mái với Pháp và
phải tăng cường ngay võ bị. Việt Nam Quốc Dân đảng trách ông nhu nhược.
Quân Pháp đã đổ bộ lên Bắc Việt rồi được tăng viện, lần lần
chiếm các công sở, mở rộng khu vực đóng quân... Họ lại lấn quyền kiểm soát quan
thuế, tự ý đặt những cơ quan liên bang mà chẳng hỏi ý kiến mình. Tới cuối năm
1946, sức họ mạnh rồi, thế nào họ cũng sẽ dùng võ lực để giải quyết mọi vấn đề.
Mà phía mình, tướng Võ Nguyên Giáp cũng thấy nếu để chậm trễ thì sẽ tới một lúc
không sao đuổi được quân Pháp đi, đành để chúng cột tay cột chân mình thôi.
Ngày 20 tháng 11 xảy ra vụ Hải Phòng. Một chiếc thuyền Trung
Hoa chở khí giới, xăng nhớt vô hải cảng, bị một chiếc tàu tuần Pháp bắn; quân đội
Việt Nam can thiệp. Hai bên bắn qua bắn lại. Ủy ban hỗn hợp Pháp-Việt bắt ngưng
bắn để hai chính phủ thảo luận với nhau về vấn đề quan thuế, ngoại thương. Tướng
Valluy ương ngạnh không chịu, đòi quân đội Việt Nam phải rút hết ra khỏi Hải
Phòng, mình không chịu. Thế là một chiếc tuần dương hạm Pháp bắn tưới vào một
khu người Việt, cháy rụi hết các nhà 1á. "Ít nhất có sáu ngàn người chết"
(Paul Mus trong Việt Nam, sociologie d'une guerre).
Toàn dân phẫn uất, nhưng Hồ Chí Minh vẫn không tuyệt vọng,
ngày 15-12 đánh một điện tín cho Léon Blum, lãnh tụ đảng Xã hội Pháp, lúc đó
làm thủ tướng, khẩn khoản yêu cầu làm cách nào cho tình hình bớt căng. Điện tín
đó phải do Sài Gòn kiểm duyệt rồi mới chuyển đi. Sài Gòn trì hoãn không chuyển
ngay, mãi tới ngày 26-12 mới tới Paris. Mà đêm 19-12 đã xảy ra chiến tranh ở Hà
Nội rồi.
° °
°
ĐÊM 19-12-46
Vụ tấn công thình lình đêm 19-12, Võ Nguyên Giáp đã chuẩn bị
trước, chẳng may một tên Pháp lai, Fernand Petit, làm phản gián cho Pháp, len lỏi
vào đoàn Tự vệ của mình, biết trước, 18 giờ lại báo cho Pháp hay nội đêm đó
quân mình sẽ ra tay. Nhờ vậy quân Pháp kịp thời đối phó. Đúng 20 giờ điện tắt
trong khắp thành phố. Quân tự vệ tiến vào khu Pháp ở, giết khoảng 40 người Pháp
và bắt cóc khoảng 200 người khác. Dân Pháp đã được báo trước, nên chống cự lại
dữ dội, không vậy thì còn chết nhiều hơn nữa. Tướng Morlière phản ứng lại liền,
giải vây được cho nhiều nhà, nhiều khu. Hai bên chiến đấu suốt đêm. Sáng hôm
sau, nhiều nơi trong thành phố có vẻ hoang tàn: nhà cháy, thây người, vật chướng
ngại, cây đổ.... ngổn ngang khắp nơi. Cuộc chiến đấu vẫn tiếp tục. Mãi chiều, quân
Pháp mới tiến tới khu dinh thự của chính quyền mình. Các nhà lãnh đạo của mình
đã rút ra khỏi Hà Nội, vô Hà Đông rồi. Tối hôm đó Pháp kiểm soát được gần trọn
khu trung ương thành phố.
Nhưng chiến tranh vẫn tiếp tục một hai tháng nữa. Tại khu Việt
và Hoa, quân Tự vệ đục tường nhà nọ thông sang nhà kia để chiến đấu rồi rút
lui. Ngõ Phất Lộc của chúng tôi và mấy phố chung quanh: hàng Mắm, hàng Muối,
hàng Mã Mây chống cự được khá lâu nhờ có nhiều ngóc ngách. Quân Pháp phải chiếm
lại từng nhà một, khi chiếm xong thì thành phố chỉ còn là một cảnh hoang tàn,
dân chúng đã di tản gần hết.
Ngay đêm 19-12, tướng Giáp đã ban lệnh tổng tấn công khắp mặt
trận, chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn dân chiến đấu bằng bất kì khí giới gì
có trong tay. Các đồn Pháp ở Phủ Lạng Thương, Bắc Ninh, Nam Định, Huế bị tấn
công trước hết (2 giờ sáng ngày 20). Ngày 21 thì lệnh được thi hành khắp nước.
Như vậy là phe diều hâu của Pháp: Bidault, D'Argenlieu,
Pignon... đã thắng phe bồ cầu: Sainteny, Leclerc...; và chiến tranh du kích dai
dẳng, tàn khốc lan khắp cõi Việt Nam. Điều đó Leclerc ngại nhất vì nó sẽ làm
cho sinh lực Pháp tiêu mòn.
Tin Pháp bị Việt tấn công gây xúc động lớn trong dư luận Pháp
cũng như trong Quốc hội. Marius Moutet, bộ trưởng Hải ngoại, tuyên bố rằng ông
sắp qua Đông Dương để rán lập lại những điều kiện của một chính sách hòa giải
mà cả hai bên Pháp, Việt phải thi hành một cách chân thành.
Nhưng báo chí tỏ ra quá khích. Philippe Devilers trong sách
đã dẫn bảo báo chí không biết rõ sự thực - vì suốt thời gian khủng hoảng không
có một phóng viên báo Pháp hay báo ngoại quốc nào ở Bắc cả - và dân Pháp chỉ được
biết những tin do bọn thực dân và diều hâu Sài Gòn tung ra thôi. Ngay báo của
phe tả cũng không biết gì hơn. Và một số người Pháp hiểu rõ Việt Nam cho rằng
báo chí Pháp cũng chịu một phần trách nhiệm trong cuộc chiến tranh đó.
Mới tới Sài Gòn, Moutet vẫn còn giữ ý kiến hòa giải. Ngày
1-1-1947, ông Hồ Chí Minh gởi lời chúc mừng năm mới chính phủ Pháp, dân tộc
Pháp, và cả Marius Moutet mà ông mong được gặp gỡ ở Hà Nội. Ông lại gởi một thư
riêng cho Moutet, đưa đề nghị ngưng chiến. Thư đó không tới tay Moutet. Về sau
khi thăm thành phố Hà Nội tan hoang rồi, Moutet đổi ý, không muốn gặp Hồ Chí
Minh nữa. Có sách nói ông ta được lệnh ở Paris không thương thuyết.
Thế là Hồ Chí Minh hết hi vọng ở đảng Xã hội Pháp và cả ở đảng
Cộng sản nữa, vì có tin nói rằng đảng này cũng dè dặt chưa lên tiếng. Và chiến
tranh phải tiếp tục non tám năm nữa.
CHƯƠNG XVIII - TÔI QUA LONG XUYÊN
H
UỲNH PHÚ SỔ BỊ THỦ TIÊU
Mùa xuân năm 1947 tôi qua Long Xuyên chỉ mang theo hai bộ đồ
bà ba đen và hai trăm đồng, một là để coi tình hình, hai là để cân thuốc Bắc về
làm một tễ thuốc. Tôi lại tá túc nhà cô Liệp.
Tôi tính ở Long Xuyên độ nửa tháng, không dè khi sắp về thì cả
miền quê hương thầy Tư Hòa Hảo từ phía trên Chợ Mới xuống tới phía dưới Mĩ
Luông, hai bên bờ Tiền Giang, tín đồ Hòa Hảo rất xôn xao, rục rịch nổi dậy, vì
có tin thầy Tư bị thủ tiêu trong buổi họp đêm 16-4-47 ở địa phận làng Tân Phú,
cách nhà bác tôi độ vài cây số. Huỳnh Phú Sổ quá tín, chỉ dắt theo bốn vệ sĩ
nên bị hại. Tôi đã hỏi vài người bạn trong nhóm đồ đệ thân tín của thầy, họ bảo
tất cả tín đồ đều tin rằng thầy khỏng thể chết được, thầy chỉ tạm lánh mặt
trong một thời gian thôi rồi sẽ trở về. Họ dẫn vài câu thơ của thầy nói trước về
vụ đó nữa. Tới nay họ vẫn còn nói như vậy. Họ cố bám vào một hi vọng hão huyền
chăng?
Vậy là tôi không thể trở về Tân Thạnh được, phải tạm ở lại
Long Xuyên vài tháng cho yên vụ đó đã, không dè tới trên sáu năm.
° °
°
TÌNH HÌNH LONG XUYÊN
Những người ở thị xã Long Xuyên đã hồi cư về gần đủ, lại thêm
có người ở nơi khác tản cư về đây, cho nên thị xã có vẻ phồn thịnh hơn trước. Một
vài cơ quan chưa xây cất lại, nhưng nhà thường dân thì đã sửa sang. Đường phố
đông đúc, nhất là ở bến tàu và chợ. Chưa có xe đò chạy Sài Gòn, vì đường chưa
được yên, nhưng có tàu thủy, mỗi tuần vài chuyến, chuyến nào cũng đông hành
khách và chở nhiều hàng hóa. Đặc biệt nhất là chợ có nhiều sạp vải, sạp nào
cũng đắt hàng vì trong sáu, bảy năm chiến tranh dân thiếu vải nhất. Sữa, đường
cũng nhiều. Mới chỉ có một tiệm thuốc Tây, nhưng thuốc Bắc thì có tới bốn năm
tiệm.
Ít thấy Tây đi ở ngoài đường. Hầu hết các sở làm đều do người
Việt điều khiển. Công chức đàn ông mặc đồ tây đi làm, còn đàn bà - ngay cả các
cô giáo - cũng còn bận bà ba tới sở, tới trường. Không khí tương đối yên ổn.
Lâu lâu mới có một lựu đạn nổ, phần nhiều là ở bên chợ vào ban đêm. Tối, nhà
nào cũng đóng cửa sớm.
Xét chung, thì công chức hồi cư trở lại làm việc có vẻ hơi
ngượng khi gặp những người như tôi bận bà ba, lết đôi guốc trên lề đường. Họ
cũng rất muốn nước nhà độc lập, cũng muốn người Pháp về hết, nhưng chiến tranh
kéo dài quá, họ không thể sống cực khổ trong đồng, trong bưng được, nên phải hồi
cư. Về rồi, họ được truy lãnh những tháng lương từ khi họ tản cư, lại được làm
việc với ông chủ Việt, đời sống như vậy rất dễ chịu, mà công việc lại chẳng có
gì. Hầu hết nhà nào cũng có người thân còn đi kháng chiến, có người còn hoạt động
kín trong châu thành nữa.
Ngay trong nhà tôi ở, cũng có hai thanh niên đều là cháu mà
như con nuôi của cô Liệp theo kháng chiến, một đi bộ đội, một nằm vùng ở châu
thành. Lại thêm một cháu xa làm liên lạc viên, tới xin ở nhờ. Một nữ sinh cũ
cũng nằm vùng, lâu lâu tới cho tin tức hoặc quyên tiền.
Tôi đoán các nhà láng giềng nếu không biết rõ như vậy thì
cũng nghi ngờ. Công an tỉnh cũng có thể biết nữa nhưng không làm gì lộ liễu quá
thì họ để yên. Còn các công chức Việt quan trọng, chủ một sở chẳng hạn, thì nhắm
mắt cho nhân viên giúp đỡ kháng chiến, miễn đừng để lụy cho họ thì thôi. Những
nhân viên đó là cháu họ, con của bạn bè họ, hoặc hàng xóm của họ, mặt mũi nào
mà tố cáo; vả lại tố cáo chỉ gây vạ cho bản thân họ thôi. Có thể nói, chỉ trừ một
số rất ít Việt gian, còn tối đại đa số người Nam đều có cảm tình với kháng chiến,
một số lớn còn giúp đỡ nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp cho kháng chiến nữa.
Cho nên năm 1975, sau ngày 30-4, tôi nói với các bà con và bạn bè ở Hà Nội vào:
"Đừng nghĩ lầm rằng đa số người Nam là ngụy! Ngược lại, chỉ có một số rất
ít ngụy thì họ đã trốn đi ngoại quốc gần hết rồi; còn lại toàn là những người
yêu nước, ghét Pháp, ghét Mĩ. Nếu lực lượng kháng chiến không được dân chúng ở
đây ủng hộ thì không làm sao thành công, không sao sống được. Ngoài đó, các anh
bảo bộ đội sống trong dân chúng như cá trong nước, như vậy là nhận rằng dân
trong này đã nuôi nấng, che chở bộ đội. Nay bảo dân trong này là ngụy thì có phải
là mâu thuẫn, vong ân không? Không một gia đình nào trong này không có anh em,
con cháu theo kháng chiến, hoặc ủng hộ kháng chiến".
Ở Long Xuyên, tôi gặp ba người bạn cũ. Anh Hách, người cũng
vào Sài Gòn với tôi để nhận việc ở sở Thủy lợi như tôi, anh cũng thôi việc công
chính, không trở lại sở cũ, có một cái sạp bán vải ở chợ Long Xuyên. Người thứ
nhì là một thầy họa đồ, trước giúp việc tôi ở sở Thủy lợi, tản cư về Lấp Vò rồi
qua Long Xuyên mở một quán cóc bán tạp hóa, cũng bỏ luôn nghề cũ. Người thứ ba
là ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã gặp ở Mĩ Tho trên đường tản cư về Tân Thạnh.
Ông lúc này làm chủ quận châu thành Long Xuyên. Thời Nhật, ông làm thư kí riêng
của Toàn quyền Decoux; nhờ thông minh, lanh lợi, thạo việc, biết nhiều nhân vật
ở Nam, giải quyết việc gì cũng mau mà lại liêm khiết, nên chính quyền nào cũng
dùng ông. Tính giản dị, bình dân.
Tôi lại biết thêm được vài ông nữa: ông Paulus Hiếu chủ sở
Kho bạc, ông Nguyễn Văn Hiếu chủ sở Địa chánh, một bác sĩ, một dược sĩ chủ nhà
thuốc Tây, một điền chủ có Tú tài Pháp, một ông có cử nhân luật, tên là Kính, bạn
cột chèo của anh Hách. Giới trí thức ở Long Xuyên đại khái có bấy nhiêu người.
° °
°
TÔI DẠY TƯ TẠI NHÀ
Mới đầu tôi có ý định làm thử nghề Đông y, bắt mạch ra toa
cho mấy người quen, làm vài tễ thuốc. Nhưng sau tôi thấy nghề đó khó sống nên
thôi.
Mà muốn làm thầy lang thì phải có chân trong hội Đông y sĩ,
phải làm đơn xin hành nghề "médicastre" nghĩa là nghề "lang
băm", gởi cho chủ tỉnh. Việc đó tôi cũng không thể làm được.
Lí do nữa: tôi tự xét chưa đủ kinh nghiệm làm một thầy lang
kha khá.
Một hôm, ông Thơ thấy tôi ở không và không muốn trở về nghề
công chánh, nhờ tôi kèm Pháp văn và Toán cho một đứa con trai của ông học lớp
Nhất. Sau ông giới thiệu thêm một đứa cháu nữa. Từ đó hai ba ông Trưởng ti nữa
dắt con lại nhờ dạy; từ hai trò lần lần đến tám trò, mỗi ngày dạy hai giờ, mỗi
tháng được khoảng 1.000 đồng.
Vì ít học sinh nên tôi dạy kĩ, tùy theo tư chất của mỗi trẻ,
nếu thông minh thì tôi thúc, bắt học nhiều, kém thông minh thì chỉ bắt buộc nhớ
những điều cần thiết thôi. Cha mẹ học sinh thấy tôi siêng mà dạy rõ ràng, trẻ dễ
hiểu, mau tấn tới nên càng tín cậy. Chỉ trong ba tháng tôi luyện Pháp văn và
Toán cho hai đứa thi vào trường Trung học Cần Thơ, cả hai đều đậu.
Tôi nổi tiếng dạy giỏi và đầu niên học sau số học sinh xin học
rất đông, tôi chỉ nhận hai chục em thôi, và mở thêm một lớp buổi chiều riêng
cho chúng.
Tuổi trung bình của chúng là 14, 15. Đa số siêng, nhất là con
gái; con trai ít cẩn thận. Cứ khoảng mười đứa có một đứa thông minh, sau có thể
lên đại học được. Mà những đứa đó thường ở trong những gia đình trung lưu, cha
làm thầy giáo, thầy kí. Em nào cũng lễ phép, dễ bảo, hồn nhiên, dễ thương.
Một hôm ông Thơ bảo đi ngang qua chợ, thấy một người chừng 30
tuổi bận đồ tây rách, ngồi ở lề đường, trước mặt để một miếng bìa với mấy hàng
chữ tự xưng là con một đốc phủ sứ vì gia đình sa sút, nên xin những người hảo
tâm giúp cho một vài đồng. Rồi ông tâm sự với tôi: "Tôi ngại làm cái nghề
của tôi thất đức - lúc đó ông cũng là Đốc phủ sứ rồi. Con tôi, tôi chưa thấy đứa
nào học được".
Tuy ông làm chủ quận, sau làm tỉnh trưởng Long Xuyên mà đứa
con ông học tôi, phải đi bộ, có hôm đi chân không, vừa đi vừa cạp một trái bắp
nấu. Về điểm đó, tôi khen ông. Con trai tôi ở Sài Gòn, hồi đó, nghỉ hè về ở với
tôi, tôi cũng cho sống như vậy.
° °
°
HỌC HÀM THỤ
Có dư tiền tôi gởi mua sách ở Pháp: vài cuốn dạy tiếng Anh, bộ
đĩa Linguaphone, một số sách Anh, Pháp về Culture humaine, và khá nhiều sách về
văn học, giáo dục, tâm lý, khoa học, xã hội học Sau mấy năm thiếu sách, lúc này
tôi gặp sách nào cũng muốn mua. Tôi lựa những cuốn sách giới thiệu trong hai cuốn:
Quels livres faut-il avoir lus? của A. Souché, La Bibliothèque de l’Honnêtre
homme của một nhóm học giả ở Bỉ
Mới đầu đọc lung tung rồi sau thấy vấn đề nào thích thì tôi
mua thêm. Lần lần tôi hướng về giáo dục, về ngữ học, lịch sử văn học Trung Hoa,
tiểu sử danh nhân, loại tự luyện đức trí (Culture humaine) môn tổ chức.
Nhân đọc một cuốn sách Pháp, tôi được biết năm 1926 người ta
lập ở Paris một Uỷ hội quốc tế để nghiên cứu sự tổ chức công việc theo khoa học.
Mỗi nước lập một Uỷ hội quốc gia nữa. Ở Pháp, Uỷ hội đó là Comité national de
l’Organisation Française. Hội mở một trường dạy môn tổ chức công việc, lấy tên
là École d’Organisation scientifique du travail, có lớp hàm thụ cho những người
ở xa Paris.
Học phí khá cao. Tôi rủ anh Hách hùn tiền ghi tên học. Tôi
yêu cầu trường gởi một lần hết các bài giảng và bài tập cho tôi. Mục đích của
chúng tôi là học cho biết chứ không cần được bằng cấp của trường, vì muốn được
bằng thì phải làm một luận án (mémoire) và qua Paris tự biện hộ (défendre: có
người dịch là bảo vệ) cho chủ trương của mình trước mặt các giám khảo của trường.
Như vậy bằng cấp được chính phủ Pháp công nhận, rất có giá trị.
Tôi học môn đó rất kĩ, mỗi bài dài chừng mươi, mười lăm trang
lớn (khổ 21x31) chữ in, tôi đọc vài lần rồi tóm tắt đại ý trong một tập vở
riêng. Mỗi bài thuộc về một đề tài, do một giáo sư giảng. Có giáo sư giảng về
hai ba đề tài. Họ đề là những nhân viên quan trọng trong hành chính hay xí nghiệp,
có nhiều kinh nghiệm. Mỗi ngày tôi bỏ ra một buổi để học, ba tháng thì hết
khoá. Mới đầu tôi làm được vài bài tập gởi qua cho họ chấm; sau thôi, vì có bài
muốn làm thì phải có tài liệu mà ở Long Xuyên tôi không thể kiếm được.
Tôi lại gởi mua những sách mà trường giới thiệu để nghiên cứu
thêm.
Năm 1948 gia đình bác tôi ở Tân Thạnh tản cư qua Long Xuyên, ở
nhờ nhà một người quen bên chợ. Như một chương trên tôi đã nói, quân đội Pháp
đã rút đi từ 1946, bỏ các đồn ở Tân Thạnh và Tân Phú. Nhưng Ủy ban nhân dân miền
Nam, theo đúng chiến lược tiêu thổ kháng chiến, ra lệnh cho dân chúng phải dỡ
nhà, rút sâu vào trong đồng, nhà nào không dỡ được thì phải phá hủy. Thế là bao
nhiêu nhà gạch của các điền chủ lớn bị san phẳng hết. Bác tôi phải dỡ nhà, vào
trong đồng cất tạm một cái chòi để ở. Vì loạn lạc, ruộng chỉ làm được ít công;
vì tuổi già, không chịu được mọi sự thiếu thốn ở trong, bác tôi xin Ủy ban nhân
dân xã cho qua Long Xuyên làm thuốc. Vì ở Long Xuyên có nhiều người biết tiếng
từ lâu, nên "thân chủ" - bệnh nhân - tới mỗi ngày cũng được trung bình
ba người. Trước kia chỉ trị bệnh làm phúc, nay đành phải nhận tiền coi mạch,
nhưng để tùy ý ai đưa bao nhiêu thì đưa. Như vậy gia đình gồm bốn người, sống tằn
tiện thì cũng đủ.
Cũng vào khoảng đó hay năm sau, nhà tôi thôi không làm ở tiệm
may đường Sabourain nữa mà dạy học giúp cho một cô bạn có một trường tư nhỏ ở
khu Bàn Cờ. Chỗ ở rất chật, phải kê bàn học sát nhau để nằm. Cháu đã vào trường
Jean Jacques Rousseau (nay là trường Lê Quí Đôn), nhà tôi vừa dạy học vừa kèm
cho nó.
Năm 1949 một viên kĩ sư người Việt đồng sự với tôi ở sở Thủy
lợi trước kia, bấy giờ coi cả khu Công chánh miền Tây gồm 5, 6 tỉnh, ba lần mời
tôi trở lại sở Công chánh, tôi đều từ chối.
° °
°
DẠY TẠI TRƯỜNG THOẠI NGỌC HẦU
Tháng 11 năm sau, ông Thơ đã làm tỉnh trưởng Long Xuyên, và
đã mở trường Trung học Thoại Ngọc Hầu ở thị xã, hai lần khẩn khoản mời tôi dạy
thay ông Kính phải trở về bộ Tư pháp. Giữa niên học, không dễ gì kiếm được người
thay, nên tôi vì tình bạn với cả hai ông ấy, nhận lời giúp với điều kiện là cuối
niên khóa nếu tôi muốn thôi thì phải cho tôi thôi.
Tôi dạy Pháp văn, Việt văn, Đức dục, sau thêm cả Hán văn nữa ở
nhiều lớp từ năm thứ Tư xuống tới năm thứ Nhì (bây giờ tương đương với 9, lớp
7). Tôi soạn bài kĩ, giảng cho rõ ràng, bắt học sinh làm nhiều bài tập, công bằng,
thẳng thắn, dù con bạn thân mà làm biếng tôi cũng rầy, dù con các người tai mắt
trong tỉnh, nếu lười tôi cũng mắng nặng lời. Mới đầu có vài phụ huynh phàn nàn
với ông tỉnh trưởng Thơ về điều đó, ông Thơ không nói gì với tôi cả, nhưng rồi
cũng tới tai tôi, tôi nổi giận, một hôm ở giữa lớp học, tôi bảo các học sinh:
"Các cháu về nói với ba má các cháu rằng tôi không hề
xin vô làm giáo sư trường này đâu. Ông tỉnh tưởng khẩn khoản nhờ tôi hai ba lần
tôi mới nhận lời dạy giúp với điều kiện là lúc nào tôi muốn thôi thì phải cho
tôi thôi. Tôi quen sống thanh bạch rồi, ăn cơm rau quen rồi, không cần bơ sữa
như kẻ khác đâu. Trò nào không muốn học tôi thì cứ đi ra khỏi lớp".
Tôi ghét bọn con nhà giàu, sang mà làm biếng; rất yêu những
thanh niên nghèo mà thông minh, siêng học. Tôi thường giúp đỡ hạng sau, hoặc
cho tiền, cho sách; nghỉ hè tôi lại nhà họ chơi, dắt họ đi chơi.
Nhưng tôi có tật nóng tính, hễ giận thì la lớn nên học sinh sợ
tôi, kính tôi chứ ít mến tôi. Năm nào tôi cũng đề nghị với hiệu trưởng cho mỗi
lớp năm bảy học sinh ở lại vì sức non quá, nhưng hiệu trưởng không nghe, có lẽ
vì không muốn làm mất lòng phụ huynh. Tôi bất mãn vì điểm đó lắm, bảo như vậy
trái với qui tắc sư phạm, trái với cả cái lợi của học sinh vì học mà không hiểu
thì đã mất thì giờ mà lại chán. Nhưng đa số phụ huynh học sinh hồi đó không cần
con thi đậu, chỉ cần trong học bạ được ghi là học tới năm thứ Tư thôi; cho nên
mỗi lớp năm Thứ tư Cao đẳng tiểu học Pháp Việt (chương trình Hoàng Xuân Hãn gọi
là lớp Tứ niên, chương trình thời ông Diệm gọi là Đệ Tứ, cuối năm này học sinh
thi lấy bằng Thành chung, sau gọi là bằng Trung học đệ nhất cấp, học hai năm nữa
thi Tú Tài I) có đến bốn năm học sinh không viết được câu đúng văn phạm Pháp.
Tôi cho rằng trong nghề dạy học, tư cách ông thầy quan trọng
nhất: phải đứng đắn, nhất là công bằng; rồi lời giảng phải sáng sủa, có mạch lạc,
muốn vậy ăn nói phải lưu loát, và soạn bài phải kĩ.
Khi tôi rời Long Xuyên, tôi chắc có nhiều người không ưa tôi,
nhưng không ai không trọng tư cách của tôi; và bây giờ các học sinh cũ của tôi
- nhiều người theo kháng chiến, rồi làm cán bộ ở tỉnh - đối với tôi vẫn lễ
phép, xưng con với tôi như hồi còn đi học, gặp tôi thường nhắc lại những câu
tôi khuyên hồi còn ở trường.
Một người bảo đã lấy lời khuyên này của tôi làm chăm ngôn:
"Về vật chất nên sống dưới mức trung, về bản tính thần nên trên mực
trung".
Một người khác bảo nhờ tôi khuyên "Bất cứ việc gì ở đời,
làm hết sức mình đi rồi mặc cho hoá công định đoạt, đừng có tham vọng cướp quyền
của hoá công", mà vượt được nhiều nỗi khó khăn trong đời sống hàng ngày.
Bài giảng của tôi ngày nay chắc họ quên hết, nhưng những lời
khuyên như trên, có thể nhiều người còn nhớ. Dạy ba năm ở Thoại Ngọc Hầu, mà
non ba chục năm sau, bây giờ về Long Xuyên còn gặp được năm sáu trò cũ coi tôi
như cha, có trò thân mật như người trong nhà; điều đó làm cho tuổi già của tôi
được vui. Vợ sau của tôi dạy học ở Long Xuyên trên 35 năm, còn được nhiều cảm
tình của học trò cũ hơn tôi. Mấy năm trước, cứ tới sinh nhật của nhà tôi, họ họp
nhau chừng mươi người lại chúc thọ, đem thức ăn tới nấu nướng rồi già trẻ cùng
ăn với nhau. Có vài người - đều là cô giáo - còn thân mật tới nỗi, ngày giỗ của
bà nhạc tôi, cũng đến cúng như con cháu trong nhà vậy.
Cả vợ lẫn chồng được như vậy, tôi cho là một hạnh phúc lớn; từ
xưa tới nay rất ít gia đình có được. Long Xuyên đúng là quê hương thứ hai của
tôi, mà bây giờ tôi quyến luyến với nó hơn quê hương thứ nhất nhiều.
Trong giới phụ huynh học sinh ở Long Xuyên, tôi cũng được nhiều
người kính nể. Một vị nói với một độc giả của tôi ở Phan thiết như sau:
"Ông ấy - tức tôi - săn sóc sự học con em một cách công bằng, thận trọng,
biết thích nghi với trẻ, đối với học sinh luôn luôn có thái độ ân cần, rộng
rãi, hết lòng hướng dẫn chúng, sửa chữa chúng, giúp chúng thành những người biết
tự trọng và trọng người".
Lời khen đó, tôi không dám nhận hết.
° °
°
NẾP SỐNG CỦA TÔI - CHỮ NHÀN VÀ ĐIỆU HÁT NÓI - CẢNH MIỀN TÂY
Trong những năm 1949-1953, tôi làm việc rất nhiều, vừa học vừa
dạy học lại vừa viết sách. Hễ miệng thôi giảng thì tay cầm cuốn sách lên, đặt
cuốn sách xuống thì lại cầm cây bút lên. Hấp tấp tới trường rồi hấp tấp về nhà.
Mỗi tuần tôi chỉ nghỉ buổi chiều chủ nhật để qua khu chợ (cách nhà tôi khoảng 1
cây số), thăm bác tôi và một hai người bạn. Có người thấy vậy chê tôi: "Đi
chơi mà cũng phải có ngày giờ nữa". Tôi đáp: "Hồi đi học, chúng ta
làm gì cũng có giờ, thì bây giờ ra đời, tại sao lại không giữ được thói quen
đó. Tôi muốn làm một thư sinh suốt đời mà". Bây giờ bảy chục tuổi tôi vẫn
còn là một thư sinh, vẫn làm việc đều đều có giờ như xưa, và tôi cho đời thư
sinh của tôi ba chục năm nay hoàn toàn tự do và độc lập, phong lưu nữa, thú gấp
trăm đời những chính khách được hằng vạn người hoan hô nhiệt liệt năm trước mà
năm sau đã bị đả đảo cũng nhiệt liệt, may thì trốn thoát ra nước ngoài, không
may thì bị băm vằm không toàn thây. Tôi không muốn lên voi xuống chó, chỉ muốn
đều đều ở mực trung. Tôi không muốn được thiên hạ hoan nghênh, chỉ muốn được một
số bạn thân hiểu tôi, được một số học sinh quí mến, và một số độc giả trung
thành, không thất vọng về tôi.
Trong gia đình, tôi muốn vợ con hiền lương, con học được và
thích đọc sách chứ không ham sang giàu. Nhà ở tôi không muốn sang trọng, lộng lẫy,
ít đồ đạc thôi nhưng nhiều sách. Chỗ làm việc phải rộng rãi, sáng sủa và trông
ra một khu vườn có lá có hoa. Hoa thì tôi muốn loại dễ trồng mà có hương thơm,
có bóng mát để chim chóc, ong bướm tới. Tôi ngại nhất loài hoa bắt người ta phải
hầu hạ như hải đường, phong lan. Quần áo tôi muốn giản dị, dễ thay dễ giặt. Đi
đâu mà phải bỏ ra mười lăm, hai mươi phút để thay quần áo, thắt cà vạt, xỏ giầy,
tôi thấy bực mình. Ở xứ nóng như nước mình, bận bộ bà ba là tiện nhất, ra đường
khoác thêm chiếc áo dài thì càng nhã, không cũng không sao, rồi xỏ chân vào đôi
dép cao su, trước sau không mất quá một phút. Như tôi đã nói ở chương V, chỗ ở
thì tôi muốn nửa quê, nửa tỉnh; công việc thì tôi muốn nửa viết lách, nửa làm
vườn.
Nhàn là mục đích lí tưởng của nhân loại ở thời đại nông nghiệp.
Văn minh Trung Hoa đã đề cao sự nhàn, tạo được những triết nhân, nghệ sĩ biết
hưởng nhàn, ca tụng cái nhàn như Đào Uyên Minh, Tô Đông Pha
Tôi thích bài Qui khứ lai từ của Đào Tiềm:
"Thăm vườn dạo thú hôm mai,
Cửa dù có, vẫn then cài như không.
Chống gậy dạo quanh vườn lại nghỉ,
Ngắm cảnh trời khi ghé trông lên.
Mây đùn mấy đám tự nhiên,
Chim bay mỏi cánh đã quen lối về.
Bóng chiều ngả bốn bề bát ngát,
Quanh gốc tùng, tựa mát thảnh thơi.
Giàu sang đã chẳng thiết gì,
Cung tiên chưa dễ hẹn gì lên chơi.
Chi bằng lúc chiều trời êm ả,
Việc điền viên vất vả mà vui.
Lên cao hát một tiếng dài,
Xuống dòng nước chảy ngâm vài bốn câu".
(Từ Long dịch)
Tôi thích bài Tiền Xích Bích phú của Tô Đông Pha, nhất là đoạn
cuối:
"... Tự ở nơi biến đổi mà xem ra thì cuộc trời đất cũng
chỉ ở trong một cái chớp mắt; tự ở nơi không biến đổi mà xem ra thì muôn vật
cùng với ta đều không bao giờ hết cả... Vả lại ở trong trời đất, vật nào có chủ
ấy, nếu không phải là của ta thì dẫu một li ta cũng không lấy. Chỉ có ngọn gió
mát ở trên sông cùng vầng trăng sáng ở trong núi, tai ta nghe nên tiếng, mắt ta
trông nên vẻ, lấy không ai cấm, dùng không bao giờ hết, đó là cái kho vô tận của
tạo hóa mà là cái vui chung của bác với tôi".
Trong văn học phương Tây tôi chưa gặp được bài nào vừa tao
nhã vừa du dương như hai bài đó, nhưng phải đọc trong nguyên văn chữ Hán 1 mới
thưởng được hết cái thú của nó.
Trong Việt văn, bài Hát nói Chữ nhàn của Bùi Kỉ có giọng ung
dung, phơi phới nhất:
"Đem hãn mặc 2 mài viên khối lỗi 3
Tìm yên hoa gỡ mối giang san,
Dù ái ưu cũng có khi nhàn,
Thì tiêu khiển trong cuộc rượu cung đàn chơi cũng nhã.
Hãy gác vinh nhục thị phi cùng cổ kim nhân ngã,
Đem hạo nhiên 4 mà hể hả với cầm tôn 5.
Trộm cái "nhàn" trong túi kiền khôn,
Dăm bảy vốc con con thôi cũng đủ.
Thử tung ra cho nó: chảy cồn cồn như nước, tuôn cuồn cuộn như
mây, bay lững thững như trăng, thổi thênh thênh như gió.
Rải rác ra ngoài bát hoang trong lục vũ 6 vẫn còn thừa.
Cái nhàn đã lạ lùng chưa?
(Nam Phong số 123, tháng 11, 1927)
Thể Hát nói là một biến thể của thể song thất lục bát, hoàn
toàn Việt Nam. Nó không ngắn, không dài, gồm mười một câu, hoặc thêm bốn câu Mưỡu
nữa là mười lăm câu, theo tôi rất vừa vặn (thể Sonnet của Pháp cũng vậy, có 14
câu); nó có qui luật, nhưng không chặt chẽ, tương đối tự do, nên rất hợp để diễn
những tư tưởng phóng khoáng, có thể hùng hồn, có thể nhàn nhã, hùng và nhàn là
hai hình thức của phóng khoáng. Vì vậy tôi thích thể đó. Nó xuất hiện rất trễ,
vào đời Nguyễn, chỉ thịnh được khoảng 60 năm rồi suy lần, tới nay gần như tắt hẳn.
Thật đáng tiếc!
Tôi chưa bao giờ được hưởng cái thú "đập trống",
nhưng được nghe ca được ít bài hát nói từ hồi thanh niên và lần đầu tôi đã
thích liền. Giọng ca, đệm tiếng đàn đáy thưa thớt như uể oải, có vẻ ung dung lạ
lùng, kéo dài ra, có chỗ ngưng lại khá lâu, bắt mình lắng tai đợi câu tiếp; có
chỗ dồn dập một chút, đúng là "chảy cồn cồn như nước, tuôn cuồn cuộn như
mây", rồi lại ung dung tiếp tục.
Tôi nghĩ muốn thưởng thức hết cái thú của nhàn thì phải nghe
điệu Hát nói, mà nghe trên một bờ liễu hoặc giữa một lòng rạch dưới ánh trăng,
khi gió vi vu trên cành sao mà làng xóm bên bờ đã tắt đèn.
Có đào nương nào ca lên bài Chữ nhàn để tôi thâu băng, rồi những
đêm khuya nằm trong chiếc võng dưới mái hiên, bên một dòng rạch nhỏ dưới vài gốc
mận và xoài đương hoa, cho băng chạy nhè nhẹ đủ nghe thôi thì thú quá.
Bùi Kỉ đã vịnh chữ "Nhàn" rồi lại còn đề cao chữ
"Lao", "Hùng". Tôi xin chép lại cả bài "Chữ Lao"
dưới đây để ghi lại tâm trạng cụ:
"Phàm vật hữu hình giai hữu hoại,
Vỏ kiền khôn trút lại mấy từng tro.
Tội gì mà lo tính quanh co,
Thừa hơi sức để bày trò thân nhọc?
Song đã là người, dù lớn nhỏ cũng linh kỳ chung dục.
Chẳng có lẽ si si ngốc ngốc, chịu hồ đồ tranh trọc với cừ lư
Kìa thử xem kiến cõng mồi, chim nhặt rác, ong ủ mật, nhện xe
tơ
Vật còn thế, nỡ người ngu hơn vật?
Nợ vũ trụ chồng chồng chất chất,
Trốn làm sao, toan lẩn quất cho rồi.
Đã xuất thân ngang dọc với đời,
Quản chi nước mắt mồ hôi, bỏ cái tiếng nâng trời là hả.
Nên chăng thì cưỡi gió đè mây, nắm nhật nguyệt vào trong
chương bả.
Chẳng nên thì vỡ bờ, sạt bến, cát dã tràng tơi tả tử tiếc gì
công.
Dẫu sao cũng nhất thế hùng!
(Nam Phong số đã dẫn trên)
Tôi đã nhiều lần nói tới sự bận rộn của đời sống từ khi văn
minh cơ giới thay văn minh nông nghiệp. Lần đầu trong bài Tựa cuốn Tố chức gia
đình (P. Văn Tươi - 1953) về sự bận rộn của đời sống của con người.
"Văn minh cơ giới tặng cho mỗi người chúng ta 100 tên nô
lệ (máy móc) mà chúng ta cực hơn cổ nhân vì chúng ta thành nô lệ của cơ giới,
nhiều nhà bác học lo cho nhân loại sẽ bị diệt chủng vì cơ giới. Người ta tranh
giành nhau tài nguyên, thị trường, dùng những khí giới mỗi ngày mỗi thêm khủng
khiếp, tàn nhẫn để diệt nhau và bọn muỗi mắt như chúng ta sẽ bị hi sinh trước hết.
Thật là văn minh, thì loài người không đề cao chữ "hùng".
Tôi rất thích nhàn mà từ 1949 đến nay trên ba chục năm rồi,
không năm nào được hưởng nhàn. Trong cuộc đời đã qua của tôi, nhớ lại chỉ có
hai năm thật nhàn, thân nhàn mà tâm cũng nhàn, tức hai năm tôi lênh đênh trên
những kinh rạch, tha hồ ngắm cảnh miền Tây: cảnh mặt trời mọc trên bờ biển Rạch
Giá sau tấm màn lưa thưa của rặng bần mà có người ví với màn liễu - không đúng
hẳn nhưng đẹp thì không kém; cảnh mặt trời đỏ như một mâm than hồng từ từ lận
trên cánh đồng Sóc Trăng bát ngát; cảnh trăng cô liêu, lạnh lẽo, tĩnh mịch trên
sông Cửu Long, hoặc nhảy múa trên những làn sóng ở rạch Bình Thủy; cảnh một đầm
sen giữa Đồng Tháp Mười, chung quanh toàn là lau sậy; cảnh những rừng chàm đìu
hiu ở miền U Minh, những rừng đước âm u ở Cà Mau. Rồi những vườn soài bông vàng
phủ kín, hương hăng hắc mà mát, trái đong đưa trên cành, đi ngang qua tôi chỉ
muốn đưa tay lên vuốt những má no tròn, mịn màng, ửng đỏ rủ xuống ở trên đầu
tôi. Rồi những rặng bằng lăng dài hàng cây số, bông tựa như bích đào, cánh nhẹ
hơn lụa lả tả bay trong gió và trôi theo dòng nước trong veo; những rặng dừa vừa
yểu điệu vừa mạnh mẽ như thôn nữ miền Nam (Tây), tàu lá phe phẩy, lóng lánh dưới
ánh vàng ban mai, thật lộng lẫy, tình tứ, "voluptueux" như Somerset
Maugham nói. Buồng dừa nào cũng chi chít, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy mát và ngọt.
Dừa đáng tượng trưng cho thiếu nữ đồng bằng Cửu Long. Còn thiếu nữa đồng bằng
Nhị Hà có cây gì tượng trưng được không? Tôi không thấy. Vì vậy mà tôi yêu dừa.
Nhưng dừa muốn thật đẹp thì phải ở bên một dòng nước, ở chỗ quang đãng đủ cho
năm sáu cây phát triển, xoè tàn ra bốn bên, và thân cao khoảng 6-7 thước.
Câu "Trúc nên thưa, dừa nên cao" thật đúng, nó vươn
được lên nền trời xanh mây trắng. Mọc chen chúc nhau như có lần tôi thấy ở Nha
Trang thì nó làm sao phô hết duyên dáng được.
° °
°
VIẾT SÁCH ĐỂ TỰ HỌC
Tôi đã lạc đề xa quá. Tôi nhắc lại: trong năm năm từ 1949 đến
1953, tôi làm việc rất nhiều, vừa dạy học, vừa học, vừa viết sách, không có thì
giờ để hưởng nhàn. Dạy học thì mỗi tuần 16 hay 18 giờ thôi, không bận gì mấy. Học
mới tốn thì giờ hơn. Tôi học môn tổ chức, học tiếng Anh, lại học thêm về văn học
Trung Hoa nữa, nhờ có mấy bộ văn học sử mua được. Ngoài ra còn học các lớp hàm
thụ: Cours d'édition et de librairie; Cours de technique littéraire; Institute
Pelman. Những bài hàm thụ đều giúp cho tôi tài liệu để sau viết sách: Nghề viết
văn, Hương sắc trong vườn văn, nhiều cuốn loại Học làm người.
Như trong chương XIII tôi đã nói muốn học một ngoại ngữ thì
phải dịch. Tôi muốn học thêm về một môn nào thì nên viết về môn đó. Điều đó tôi
đã trình bày trong cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại:
"Có người nói: khi chưa biết về một vấn đề nào thì người
ta viết sách về vấn đề ấy".
Nếu lời ấy là mỉa mai thì là mỉa mai một cách vô lí. Khi đọc
bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim hoặc bộ Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, không
ai tự hỏi hai học giả ấy trước khi viết sách đã biết rõ về đạo Khổng hoặc triều
Lí chưa? Điều chúng ta đòi hỏi ở tác giả là tài liệu phải chính xác, lí luận phải
vững vàng, văn phải sáng sủa và tươi nhã; còn tác giả phải học thêm nhiều trong
khi soạn sách không thì ta không cần biết tới.
Vì có học giả nào không vừa học vừa viết? Trần Trọng Kim đâu
phải là một nhà cựu học, Hoàng Xuân Hãn đâu có bằng thạc sĩ về sử học? Và trước
khi soạn hai bộ ấy, họ Trần và họ Hoàng có lẽ cũng không biết gì nhiều về Khổng
tử hoặc Lý Thường Kiệt hơn bạn và tôi, vậy mà tác phẩm của hai nhà ấy vẫn rất
có giá trị.
Tôi muốn đổi câu dẫn trên ra như sau cho nó chứa một lời
khuyên chí lí và nghiêm trang:
"KHI MUỐN HỌC VỀ MỘT VẤN ĐỀ NÀO THÌ CỨ VIẾT SÁCH VỀ VẤN
ĐỀ ẤY".
Chúng ta ai cũng có tính làm biếng, học cái gì cũng chỉ mới
biết qua loa mà đã cho là mãn nguyện, không chịu suy nghĩ kĩ, tìm tòi thêm.
Nhưng khi viết sách, ta cần kiểm soát từng tài liệu, cân nhắc
từng ý tưởng, rồi bình luận, sau cùng sắp đặt lại những điều ta đã tìm kiếm, hiểu
biết để phô diễn cho rõ ràng. Trong khi làm những công việc ấy, ta nhận thấy có
nhiều chỗ tư tưởng của ta còn mập mờ, ta phải tra cứu để hiểu thêm, đọc thêm
nhiều sách nữa, do đó sự học của ta cao thêm một bực. Càng được nhiều sách thì
càng gặp những ý tưởng mâu thuẫn nhau, và ta lại phải xem xét đâu là phải, đâu
là trái và ta lại đào bới cho sâu thêm; nhờ vậy ta hiểu thấu triệt được vấn đề,
nhớ lâu hơn, có khi phát huy được những điều mới lạ.
Cho nên muốn học một cách kĩ lưỡng không gì bằng viết sách về
điều mình học. Viết sách là tự ra bài cho mình làm.
Học mà không làm bài thì chỉ là mới đọc qua chứ không phải học.
Song tôi xin dặn bạn: khi viết nên nhớ mục đích của ta là để
tìm hiểu chứ không phải cầu danh. Đừng cầu danh thì danh sẽ tới. Cầu nó, nó sẽ
trốn và sự học của ta cũng sẽ hoá ra nông nổi".
Một anh bạn thân của tôi, học giả Lê Ngọc Trụ (mất năm 1979,
nhà ngôn ngữ học có công nhất với chính tả Việt ngữ, tác giả cuốn Việt ngữ
chánh tả tự vị, ngay khi cuốn Tự học của tôi vừa mới phát hành, một hôm gặp tôi
ở Thư viện đường Gia Long, bảo tôi: "Lời anh nói rất đúng: chính tôi viết
về chính tả Việt ngữ là để tự học đấy".
Tôi nắm chặt tay anh, cười: "Anh em mình giống nhau quá.
Tôi viết cuốn Tổ chức công việc theo khoa học cũng để tự học".
° °
°
LOẠI TỔ CHỨC CÔNG VIỆC
Học xong mỗi bài của trường Tổ chức công việc theo khoa học ở
Paris gởi cho, tôi tóm tắt đại ý trong một tập vở rồi tôi lại đọc thêm những
sách gởi mua từ Pháp về môn đó để bổ túc những bài học ấy, cũng ghi chép những
ý chính. Được một hai tập 100 trang vở học trò.
Tôi sắp đặt lại hết những điều ghi chép ấy, chia thành
chương, lập một bố cục, viết một cuốn về môn Tổ chức, chủ ý để hiểu rõ môn học
và khi coi lại, đỡ mất thì giờ tìm trong một xấp dày tài liệu, bài giảng của
trường và trong non một chục cuốn sách khác nữa.
Tôi viết kĩ lưỡng, sáng sủa, mạch lạc. Viết xong tôi thấy tập
đó có ích cho giới trí thức Việt Nam vì rất ít người biết về môn tổ chức. Đọc
nó đủ biết được những nguyên tắc quan trọng cùng cách thực hành; nó luyện cho
ta được tinh thần khoa học, giúp ta làm việc mau hơn, có hiệu quả hơn mà đỡ tốn
thì giờ, đỡ mệt sức. Mà nó lại dễ đọc hơn, dễ hiểu hơn sách Pháp. Nghĩ vậy tôi
đem cho ông Paulus Hiếu, chủ sở Kho bạc Long Xuyên đọc. Ông thích nó, đề nghị với
tôi để ông xuất bản giúp; ông sẽ bỏ tiền ra tìm nhà in ở Sài Gòn, in xong ông sẽ
gởi cho một số tiệm sách ở Sài Gòn và Hà Nội, ông sẽ thu tiền, tóm lại là mọi
công việc ông đảm đương hết, có lời sẽ chia hai. Ông thật là một người tốt, yêu
văn hóa, nhờ ông mà tôi chính thức bước vào làng văn, công đó tôi không quên.
Cuốn đó in có 2.000 bản, phí tổn khá nặng vì phải làm nhiều
Cliché (bản kẽm), ra mắt độc giả cuối năm 1949, hai năm sau bán hết, nhưng
không lời bao nhiêu.
Đó là cuốn đầu tiên tôi ra mắt độc giả. May mắn nó được hoan
nghênh liền. Một nhà giáo ở Long Xuyên bảo tôi: "Tôi mong có một cuốn như
vậy từ lâu".
Một độc giả ở Sài Gòn, nhà văn Thiên Giang, chưa hề quen biết
tôi, đọc xong viết thư cho tôi, khen là viết sáng sủa, sách có ích, và bảo tôi
sẽ thành công trong nghề cầm bút.
Ông giám đốc nhà xuất bản Phạm Văn Tươi ở Sài Gòn do có cuốn
đó mà để ý đến tôi liền.
Tôi mừng rằng không là "mẻ" cái vốn của ông bạn P.
Hiếu. Sau đó, tôi "khai thác" thêm môn tổ chức, áp dụng vào công việc
hằng ngày, vào việc học, việc vặt trong nhà.
Tháng 11.1950, tôi nhận dạy cho trường Thoại Ngọc Hầu. Nguyên
tắc của tôi là chỉ cho học sinh cách học, rồi hướng dẫn họ, để họ có thể tự học
được. Điều đó rất quan trọng vì hết thảy các học sinh không biết cách ghi chép
lời giảng của thầy, không biết cách học bài, làm bài, không biết cách học ôn,
cách tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà. Họ không hiểu rằng cách học
một bài ám đọc (récitation), khác cách học một bài toán; một bài sử, địa khác một
bài sinh ngữ Họ không có cả một sổ tay ghi những điều cần nhớ để thường coi lại.
Dạy được ba bốn tháng, tôi nghĩ công việc cần nhất là phải chỉ
cho học sinh cách học đã, và ngày 29 tết âm lịch năm Tân Mão (tháng 2-1951) tôi
khởi sự viết, mới đầu chỉ định viết 50 trang để toà hành chánh tỉnh quay ronéo
chừng 100 bản phát cho học sinh. Nhưng khi đã hạ bút thì ý này gợi ý kia, vấn đề
này kéo vấn đề khác và số trang rốt cuộc tăng lên gấp ba.
Tập đó tôi viết dễ dàng và vui, chỉ trong ba tháng là xong.
Tôi áp dụng môn tổ chức vào việc học để cho đỡ phí sức, đỡ tốn thì giờ mà mau
có kết quả; tôi dẫn nhiều kinh nghiệm bản thân từ hồi tôi học ở trường Yên Phụ
và trường Bưởi. Trong phần I tôi đã nói tôi sớm có tinh thần phương pháp, ngay
từ hồi học lớp Sơ đẳng (cours élémentaire), tôi đã có lối học riêng của tôi: ở
trong lớp vừa chép bài vừa học thầm, vừa đi từ trường về nhà vừa nghĩ cách làm
một bài toán, tìm ý cho một bài luận, rồi về tới nhà là làm, học ngay bài trong
ngày, nhờ vậy tôi tốn rất ít thì giờ. Lên trung học, tôi có một sổ tay tóm tắt
những ý quan trọng trong mỗi bài sử, địa, vật lí, hoá, toán, những điều tôi cho
rằng lúc nào cũng phải nhớ, như vậy khi học ôn để thi trong lớp hoặc thi ra trường,
tôi chỉ cần coi lại những sổ tay đó, ít khi phải coi lại trong sách.
Những kinh nghiệm đó và nhiều kinh nghiệm khác nữa tôi đều chỉ
lại cho học sinh.
Viết xong, thấy tập đó có thể in thành sách được, tôi đặt cho
nó nhan đề Kim chỉ nam của học sinh. Lúc này tôi đã có được một số tiền tiết kiệm
rồi, khỏi phải nhờ ông Hiếu nữa. Tôi mướn nhà in duy nhất ở Long Xuyên in cho
1.000 cuốn, tôi không nhớ phí tổn bao nhiêu (có lẽ là 3.000đ). Nhà in chỉ có
máy đạp chân (pédale) in rất chậm, mà mỗi "cahier" chỉ được 4 hay 8
trang nhỏ, cho nên công in và khâu rất tốn mà mà sách rất xấu. Họ chỉ in các mẫu
giấy tờ cho công sở và ít quảng cáo cho nhà buôn, chưa bao giờ in sách nên thiếu
rất nhiều phương tiện.
Tôi bán được một số ít cho vài tiệm sách ở Long Xuyên còn thì
gởi lên Sài Gòn cho nhà Phạm Văn Tươi. Ông Tươi chê sách in xấu quá nhưng khen
nội dung có giá trị, bán trong mấy tháng đã hết, và xin tôi cho phép tái bản.
Cuốn đó bán chạy hơn cuốn Voulez vous que vos enfants soient de bons élèvres của
giáo sư La Varenne, Thiên Giang lược dịch, nhan đề là Muốn thành học sinh giỏi,
cũng do nhà P. Văn Tươi xuất bản, ra trước cuốn của tôi chừng một năm, không hề
tái bản.
Kim chỉ nam của học sinh rất được hoan nghênh. Nhiều phụ
huynh học sinh sau gặp tôi, cảm ơn tôi vì nhờ cuốn đó mà con họ tấn tới. Một
giáo sư bảo học trò: "Nếu theo đúng cuốn đó thì học rất giỏi, nhưng ít người
theo đúng được lắm". Cần gì phải theo đúng. Cứ hiểu nguyên tắc, hiểu
phương pháp rồi chịu khó áp dụng tuỳ khả năng, hoàn cảnh của mỗi người, cũng đủ
có lợi nhiều rồi.
Tôi mừng nhất là nó đã thay đổi hẳn cuộc đời của một thanh
niên hiếu học nhưng nhà nghèo, không cách nào tiến thân, sau thành một bác sĩ,
một nhà văn, trước 1975 đã ra được một hai tập thơ, hai cuốn dạy cách đề phòng
các bệnh của thiếu nhi và của học sinh. Trong tờ Bách Khoa số 20-4-75, thanh
niên đó, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết: Kim chỉ nam đã mở cho tôi chân trời mới, đọc
xong, tôi thấy gần gũi với ông - (tức tôi) - kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng
nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không
đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ thống hoá, đặt ra những nguyên tắc giúp cho việc
học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách
trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viễn vông, nhàm
chán".
Thanh niên đó từ mười năm nay đã thành một bạn thân của tôi.
Kim chỉ nam của học sinh được tái bản bốn năm lần, lần nào cũng
in ba ngàn bản.
Sau Kim chỉ nam, cũng trong loại tổ chức, tôi viết cuốn Tổ chức
công việc gia đình (1953), chỉ cách tổ chức công việc trong nhà, dự tính, sắp đặt,
chỉ huy, cư xử với người giúp việc
Nhưng sách của tôi khác những sách trong loại đó của Âu, Mĩ ở
điểm tôi đề cao nếp sống giản dị, đừng để "cái hình hài làm tội cái
tâm" mà "đời sống vật chất thì nên dưới mức trung, còn đời sống tinh
thần nên trên mức ấy" - cuốn đó được tái bản hai ba lần.
Lại mười năm sau (1964), tôi mới viết một cuốn nữa về cách Tổ
chức công việc làm ăn. Cũng vẫn áp dụng những nguyên tác tổ chức theo khoa học,
nhưng cuốn này tôi chỉ in được một hai lần, mỗi làn in 2.000 bản. Thời đó giới
kinh doanh không cần biết môn tổ chức. Họ chỉ cần chạy chọt, xin được cái
"lít xăng" (licence: giấy phép) xuất nhập cảng, vay ngân hàng một số
vốn để "khai thác" là đủ làm giàu. Có kẻ chỉ cần bán lại
"licence" cũng đủ sống phong lưu. Trong cái việc đấu thầu, hễ
"quen lớn", có phe cánh là lãnh được những lô "bở". Không
biết tới cuối thế kỷ này người mình đã có được tinh thần "làm ăn" như
phương Tây chưa. Cuốn đó của tôi ra sớm quá.
Ngay cuốn Tổ chức công việc theo khoa học mặc dầu in trước
sau ba lần, mỗi lần 2.000 bản, cũng vẫn "được ra sớm quá". Hiện nay
(1980) từ Nam ra Bắc vẫn còn rất nhiều cơ quan không biết cách quản lí, tổ chức,
làm việc luộm thuộm như tổng lí, hương chức thời tiền chiến. Mà ở phương Tây
thì khoa tổ chức của Taylor, Fayol đã bị coi là lạc hậu từ hai chục năm nay rồi.
Ngày nay họ tìm cách thích ứng công việc với người chứ không thích ứng người với
công việc; tập cho thợ có sáng kiến, tự lãnh trách nhiệm, giúp cho thợ tự giải
quyết lấy các vấn đề... Rồi đây các máy điện tử (Ordinateur) sẽ làm thay đổi hẳn
cách quản lí nữa; sự quyết định sẽ không tập trung vào ban giám đốc mà phân tán
cho các phòng, xưởng, nghĩa là cho cấp dưới.
Chỉ một khoá hàm thụ mà giúp tôi viết bốn cuốn như trên.
Để giúp học sinh có phương pháp, sau tôi còn dịch và viết mấy
cuốn nữa - có thể coi như thuộc về loại tổ chức - như:
Muốn giỏi toán hình học phẳng (dịch J. Chauvel) - 1954.
Muốn giỏi toán hình học không gian (n.t) - 1956.
Muốn giỏi toán đại số (tôi viết) - 1957.
Bí quyết thi đậu - 1955.
Mấy cuốn đó đều viết theo tinh thần cuốn Kim chỉ nam, tinh thần
giúp đỡ thanh niên, giúp họ nhớ rằng cần nhất là có phương pháp, có chủ đích,
làm việc đều đều. Trong đời có nhiều người rất thông minh mà thiếu những đức đó
nên không làm được gì cả; trái lại có những người thông minh chỉ trên trung
bình một chút thôi mà lập được sự nghiệp nhờ những đức đó.
Một số độc giả quá yêu tôi, bảo giá tôi đừng viết những cuốn
đó mà khảo cứu về những đề tài cao xa thì có lợi hơn. Phải, có thể có lợi cho
tôi hơn về kiến thức, nhưng chắc là ít lợi cho thanh niên. Không thấy ai viết
sách dạy phương pháp làm việc cho học sinh thì tôi phải viết. Và học sinh thấy
có ích nên cuốn nào cũng được tái bản nhiều lần. Trong 30 năm cầm bút, tôi bỏ
ra hơn một năm giúp đỡ học sinh như vậy, tôi nghĩ không phải là phí thì giờ.
° °
°
LOẠI VỀ VIỆT NGỮ
Vì dạy Việt ngữ cho lớp đệ tứ niên, tôi phải đọc kĩ cuốn Văn
phạm Việt Nam của Trần Trọng Kim và vài cuốn như Nhận xét về văn phạm Việt Nam
của Bùi Đức Tịnh Đọc xong tôi thấy những sách văn phạm (nay gọi là ngữ pháp)
đó, nhất là cuốn của Trần Trọng Kim phỏng theo ngữ pháp của Pháp quá, không hợp
với đặc tính của tiếng Việt. Tôi lại thấy tất cả các giáo sư và học sinh đều miễn
cưỡng dạy và học môn đó - vì nó có trong chương trình - chứ không tin tưởng,
không thấy ích lợi chút nào cả. Và tôi viết cuốn Để hiểu văn phạm, đưa ra vài ý
kiến, mặc dầu tôi chưa hề nghiên cứu về ngữ pháp.
Đại ý tôi cho rằng Việt ngữ không có phần từ pháp
(morphologie), không biến di tự dạng (cùng một từ dùng làm danh từ, động từ thì
viết cũng vậy: cái cuốc, cuốc đất), cho nên nhiều từ không có từ loại nhất định;
ta không nên chú trọng quá đến việc phân biệt từ loại, mà nên chú trọng đến sự
phân biệt từ vụ, đến vị trí của mỗi từ trong câu.
Tôi lại đề nghị không nên dùng gạch nối, vì Việt ngữ có tính
cách đơn âm (ngày nay, người ta gọi là ngôn ngữ cách thể - langue isolante), rất
khó để gạch nối cách nào cho hoàn toàn hữu lí được lắm, mà chỉ làm rối trí thêm
cho học sinh. Viết liền những từ ghép, lại càng không nên.
Tập đó dày khoảng hơn trăm trang, tôi viết trong hai tháng,
ngoài những giờ dạy học. Nhà P. Văn Tươi không nhận xuất bản vì khó bán. Tôi đề
nghị bỏ vốn ra in một ngàn (hay một ngàn rưỡi) bản và để cho họ độc quyền phát
hành (nhà P. Văn Tươi đứng tên), bán được bao nhiêu, trừ hoa hồng rồi còn thì về
phần tôi. Lợi về vật chất không có gì nhưng về tinh thần thì đáng kể. Chính nhờ
cuốn đó mà mấy năm sau, ông Trương Văn Chình (bút hiệu Trình Quốc Quang, tác giả
hai cuốn Hội nghị Đà Lạt, Hội nghị Fontainbleau) ở Hà Nội di cư vô, lại đường
Monceau kiếm tôi, đề nghị với tôi viết chung về ngữ pháp Việt Nam vì chủ trương
của tôi có nhiều điểm hợp với ông. Rồi hơn hai chục năm sau, miền Nam giải
phóng rồi, một số học giả trong viện Khoa học Xã hội (ban Ngôn ngữ) ở Bắc vô
cũng lại thăm tôi, bảo họ để ý đến tôi từ khi đọc cuốn đó. Nó được chú ý như vậy
vì là cuốn đầu tiên vạch một hướng mới cho công việc nghiên cứu ngữ pháp Việt,
thoát li ảnh hưởng của các sách ngữ pháp Pháp dùng trong các trường học.
Cũng vì dạy Việt văn, nên tôi có ý viết một cuốn chỉ cho học
sinh trung học và những người lớn tự học cách viết văn và sửa văn, nhan đề là
Luyện văn.
Để viết cuốn này, tôi đọc khá nhiều tác phẩm văn chương Việt,
Pháp, và một số sách Pháp về nghệ thuật viết như cuốn L’Art d’écrire của
Antoine Albalat, La Formation du style của tu viện trưởng Moreux, Le style au
microscope (ba cuốn) của Criticus
Không kể thì giờ đọc sách và thu thập tài liệu để dẫn chứng,
chỉ nội công việc viết kĩ ba trăm trang cũng mất sáu tháng làm việc từ bảy giờ
sáng đến bảy giờ tối, trừ những giờ dạy học, chấm bài, giờ ăn và ngủ trưa.
Nhưng tôi không thấy mệt vì viết rất có hứng.
Viết xong cuối năm 1952, nhà P. Văn Tươi in ngay, sau tái bản
được hai ba lần. Sách in ra đúng lúc Việt ngữ được trọng dụng, ai cũng thấy cần
nói và viết tiếng Việt cho đúng, cho hay, còn tiếng Pháp chỉ là một ngoại ngữ ở
các trường trung học, cho nên được độc giả hoan nghênh, cho là "gia đình
nào cũng phải có"; có vị còn khuyến khích tôi, buộc tôi viết thêm nữa:
"ông Lê, ông phải soạn ngay một cuốn Luyện văn thứ nhì và phải xuất bản gấp
nội trong ba tháng, không được trễ, để hè này tôi có sách đọc mà quên cái nắng
nung người đi nhé. Vấn đề còn rộng, ông chưa xét hết và ông không được từ chối".
Tôi không từ chối, nhưng còn bận nhiều việc khác, nên năm
1956 tôi mới viết được cuốn II, 1957 mới ra nốt cuốn III. Hai cuốn này cao hơn
cuốn I nên chỉ in được một lần thôi.
° °
°
DỊCH DALE CARNEGIE VÀ VIẾT LOẠI SÁCH HỌC LÀM NGƯỜI
Để học tiếng Anh, tôi tập dịch sách Anh ra tiếng Việt cũng
như trước kia để học bạch thoại, tôi dịch Hồ Thích.
Thật may mắn, ông P. Hiếu giới thiệu cho tôi hai cuốn How to
win friends and influence people và How to stop worrying đều của Dale Carnegie
và kiếm cho tôi được cả nguyên bản tiếng Mĩ với bản dịch ra tiếng Pháp.
Hai cuốn đó cực kỳ hấp dẫn, tôi say mê đọc, biết được một lối
viết mới, một lối dạy học mới, toàn bằng thuật kể chuyển. Mỗi chương dài từ 10
đến 20 trang, chỉ đưa ra một chân lí, một lời khuyên; và để cho người đọc tin
chân lí, lời khuyên đó, Carnegie kể cả chục câu chuyện có thực, do ông nghe thấy
hoặc đọc được trong sách báo, nhiều khi là kinh nghiệm bản thân của ông nữa, kể
bằng một giọng rất có duyên, cho nên đọc thích hơn tiểu thuyết mà lại dễ nhớ.
Tiếng Anh của tôi hồi đó còn non lắm - thực sự thì cũng chỉ kể
như mới học sáu tháng - nên nhiều chỗ tôi phải dựa vào bản dịch tiếng Pháp. Và
dịch cuốn How to win friends xong, tôi đưa ông Hiếu coi lại, sửa chữa. Do đó mà
chúng tôi kí tên chung với nhau. Tôi đặt cho nhan đề là Đắc nhân tâm.
Chủ trương của tôi là dịch loại sách "Học làm người"
như hai cuốn đó thì chỉ nên dịch thoát, có thể cắt bớt, tóm tắt, sửa đổi một
chút cho thích hợp với người mình miễn là không phản ý tác giả; nhờ vậy mà bản
dịch của chúng tôi rất lưu loát, không có "dấu vết dịch", độc giả rất
thích.
Cuốn Đắc nhân tâm bán rất chạy, từ 1951 đến 1975, in đi in lại
tới 15-16 lần, tổng cộng số bán được trên 50.000 bản. Có người mua trước sau ba
bốn bản hoặc vì mất, hoặc để tặng bạn.
50.000 bản ở nước mình là nhiều thật, nhưng không thấm vào
đâu với Âu, Mĩ. Ở Pháp, nhà Hachette lần đầu in 200.000 bản dịch, nhan đề là
Comment se faire des amis; còn ở Mĩ thì không biết tới mấy triệu bản. Hiện nay
(7-1980) ở chợ sách cũ, đường Cá Hấp (Bùi Quang Chiêu cũ) - Sài Gòn có người chịu
mua một bản với giá 40 đồng ngân hàng (20.000đ cũ). Năm 1975 giá chỉ có 2 đồng
ngân hàng.
Qui tắc đắc nhân tâm gồm trong câu "Kỷ sở bất dục vật
thi ư nhân" mà tất cả các triết gia thời thượng cổ từ Thích Ca, Khổng Tử,
Ki Tô đều đã dạy nhân loại, nhưng trình bày như Dale Carnegie thì hơi có tính
cách vị lợi, và tôi nghĩ trong đời cũng có một đôi khi chúng ta cũng cần phải tỏ
thái độ một cách cương quyết chứ không thể lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi được.
Cho nên tôi thích cuốn How to stop worrying mà chúng tôi dịch là Quẳng gánh lo
đi hơn.
Đúng như Đoàn Như Khuê nói:
-------- Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
--------Coi lại cùng trong bể thảm thôi.
Dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng có ưu tư, phiền muộn; chỉ hạng
đạt quan, triết nhân, quân tử mới "thản đãng đãng" (thản nhiên, vui vẻ)
được như Khổng Tử nói (Luận ngữ - Thuật nhi - 36). Nhưng làm sao để có thể thản
nhiên, vui vẻ thì Khổng Tử không chỉ cho ta biết. Dale Carnegie bỏ ra bảy năm
nghiên cứu hết các triết gia cổ kim đông tây, đọc hàng trăm tiểu sử, phỏng vấn
hàng trăm đồng bào của ông để viết cuốn Quẳng gánh lo đi.
Tôi bắt đầu đau bao tử từ khi phi cơ Pháp bắn liên thanh xuống
miền Tân Thạnh (1946), năm sau qua Long Xuyên, để quên tình cảnh nước và nhà
tôi phải trốn vào trong sách vở, nhưng đọc và viết suốt ngày thì bệnh bao tử lại
nặng thêm, mà bác sĩ không biết, cứ cho là gan yếu, uống thuốc Tây, thuốc Bắc,
thuốc Nam đều không hết.
Rồi khi đọc cuốn Quẳng gánh lo đi, tôi thấy hết ưu tư, nhẹ hẳn
người đi. Suốt thời gian dịch và trong năm sáu tháng sau nữa, tôi có cảm giác
"đãng đãng" đó. Vì vậy mà tôi rất mang ơn tác giả, viết một bài Tựa
tôi tự lấy làm đắc ý để giới thiệu với độc giả, và cuối bài, đề:
"Long Xuyên, một ngày đẹp trong 365 ngày đẹp năm
1951"
Nhiều độc giả đồng ý với tôi là cuốn đó hay hơn Đắc nhân tâm,
và ngay từ chương đầu đã trút được một phần nỗi lo rồi, cho nên chép nhan đề
chương đó "Đắc nhất nhật quá nhất nhật" để trước mặt, trên bàn viết.
Mới đây, một độc giả, bác sĩ, bảo từ hồi đi học, đọc xong
chương đó, thì đổi chữ kí, không kí tên thật nữa mà kí là "Today"
(Hôm nay). Tôi còn giữ một bản có chữ kí đó của ông ta.
Quẳng gánh lo đi trước sau chỉ bán được độ ba chục ngàn bản,
nhưng tôi chắc nó đã đem lại niềm vui cho ít nhất là của trăm ngàn người. Nó ra
rất đúng lúc chiến tranh gây biết bao nỗi lo lắng cho biết bao gia đình!
Cũng trong năm 1951, tôi dịch thêm cuốn tiếng Anh nữa: Give
yourself a chance (The Seven steps to success) của Gordon Byron. Nhan đề tiếng
Việt của tôi: Bảy bước đến thành công.
Cuốn này nhà P. Văn Tươi cũng cho vào loại "Học làm người",
ích lợi cho thanh niên, gọn, sáng, dễ theo, nhưng không có gì đặc biệt. Có lẽ
vì nhan đề hấp dẫn nên cũng được tái bản nhiều lần, tuy thua xa hai cuốn trên.
Ngoài ra tôi viết xong nhưng chưa sửa mấy cuốn này:
+ Nghệ thuật nói trước công chúng: tài liệu đa số lấy trong
cuốn Public Speaking của Dale Carnegie mà tôi cho là tác phẩm thực tiễn nhất
trong loại. Phần phụ lục có vài bài diễn văn rất hấp dẫn. Sách bán rất chạy, tới
nay vẫn còn người tìm mua.
+ Thế hệ ngày mai: tôi tổng hợp các phương pháp tân giáo dục
của phương Tây để tìm ra một đường lối mới trong việc dạy trẻ. Bài Tựa rất cảm
động (cuối chương XI, tôi trích dẫn một đoạn). Tác phẩm được tái bản nhiều lần.
Thiên Giang đọc xong, trở nên thân với tôi. Nhờ cuốn Kim chỉ nam của học sinh
và cuốn đó mà giới hiệu trưởng, giáo sư tư thục để ý tới tôi.
+ Hiệu năng: bí quyết của thành công: trong loại Doanh nghiệp
của nhà P. Văn Tươi.
+ Bí mật dầu lửa: dịch cuốn Le Secret de l’or noir của Robert
Gaillard, kể vụ tìm ra mỏ dầu lửa đầu tiên ở Mĩ. Truyện có tính cách mạo hiểm,
cho trẻ em đọc. Trên 15 năm sau, cuốn đó mới xuất bản.
° °
°
VIẾT VỀ VĂN HỌC TRUNG QUỐC
Công trình mệt cho tôi nhất - mệt mà thú - hồi tản cư ở Long
Xuyên nhất là viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc gồm ba cuốn: I. Từ thượng
cổ đến đời Tuỳ; II. Đời Đường; III. Từ Ngũ đại đến hiện đại.
Viết bộ đó chủ ý của tôi cũng là để tự học. Trong bài Tựa -
mà tôi lấy làm đắc ý - tôi nói hồi ở trường Bưởi tôi đã tò mò muốn biết về văn
học Trung Quốc. Nền cổ học Trung Quốc như có sức gì huyền bí thu hút tôi, một
thanh niên theo Tây học. Mỗi lần nghe đúng tên như Văn tâm điêu long, Chiêu
Minh văn tuyển, Tiền Xích Bích phú, Qui khứ lai từ dù chẳng hiểu nghĩa, tôi
cũng thấy trong lòng vang lên một điệu trầm trầm, như nhớ nhung cái gì. Phải
chăng đó là tiếng vang những giọng ngâm nga của tổ tiên tôi còn văng vẳng trong
lòng tôi?
Muốn tìm hiểu văn học Trung Quốc mà sách báo Việt chỉ làm cho
tôi thất vọng. Cuốn Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính sơ lược quá; còn đọc những
bài dịch Cổ văn, thơ Đường đăng lác đác trên tạp chí Nam Phong và một số báo
khác thì không khác gì coi mấy bông sói, bông hồng, bông ngâu, bông móng rồng
mà mấy chị bán hoa ở phố Hàng Đường (Hà Nội) gói trong chiếc lá chuối, chứa
trong cái thúng để bán cho các bà nội trợ mua về cúng rằm, làm sao biết được vườn
làng Ngọc Hà, làng Yên Phụ ra sao.
Tôi chỉ còn cách học chữ Hán để đọc sách của người Trung Hoa
viết. Khi đã có một số vốn độ 3.000 chữ, đủ để mò trong các tự điển Trung Quốc,
tôi kiếm mua mấy bộ Cổ văn, Đường thi, Văn học sử, Bạch thoại văn học sử, Trung
Quốc văn học tư trào sử lược như tôi đã nói (chương XIII), rồi mò mẫm lần. Thật
khó nhọc vô cùng! Đọc một bài trong Cổ văn quan chỉ dài độ hai mươi hàng, tôi
thường mất cả buổi mà chỉ hiểu lờ mờ. Bộ ấy chú thích rõ ràng, và có dịch cổ
văn ra bạch thoại; nhưng cổ văn và bạch thoại của tôi đều ở mức sơ đẳng, phải
dùng cổ văn để đoán bạch thoại và ngược lại dùng bạch thoại để đoán cổ văn.
Còn những cuốn Văn học sử thì tuyệt nhiên không có chú thích,
nhiều chỗ tôi phải viết thư hỏi bác tôi, nhưng không dám hỏi nhiều vì mất công
bác viết thư trả lời. Đành đọc nhiều sách, nhiều lần rồi vỡ nghĩa dần.
Học tới đâu tôi tóm tắt, ghi tới đấy, so sánh các sách, sắp đặt
rồi chép trong những tập vở 100 trang. Sau cùng dịch một số bài văn thơ, viết
thành chương. Nội công việc dịch và viết này cũng mất chín, mười tháng. Các bài
cổ văn thì tôi dịch lấy, thơ tôi dịch được một số, bác tôi dịch cho một số lớn.
Bài thơ nào không đề tên người dịch là của tôi, đề "Vô danh dịch" là
của bác tôi. Hai bác cháu đều chú trọng nhất tới đức "tín", nghĩa là
dịch sao cho đúng, cho sát, không dám sửa lời, thêm ý. Chúng tôi biết nhiều bài
người trước đã dịch rồi mà hay, nhưng vì ở Long Xuyên thiếu sách, tôi không thể
kiếm được, nên không dẫn vô.
Tôi viết như vậy cốt để học, chứ không nghĩ đến việc in. Viết
xong, thấy có thể giúp cho các bạn hiếu học có một khái niệm về văn học Trung
Quốc nên mới sửa lại rồi cho xuất bản. Sự nhận định của tôi chắc không sai nhiều
vì tôi đã tham khảo kĩ, bằng những phương tiện tôi có; bố cục có mạch lạc và
sáng sủa; nhưng tôi nhận rằng còn những lỗi dịch sai, nhất là phiên âm sai, mặc
dầu vậy tôi cũng cứ cho ra mắt độc giả. Sở dĩ "tôi cả gan như vậy là vì
tin lòng quảng đại của các vị cựu học, không nỡ trách kẻ hậu tiến học thức nông
cạn mà sẵn lòng hạ cố chỉ bảo cho những chỗ sai lầm, hầu giúp bọn tân học chúng
tôi hiểu thêm cái cổ học của các cụ, tức là cái nền tảng văn hóa dân tộc Việt
Nam chúng ta" (trích trong bài Tựa).
Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến văn học Việt Nam mà
các cụ quá khiêm tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi đành phải mò kim vậy.
Viết xong tôi chép lại, khoảng 750 trang, mất ba tháng nữa
(vì có nhiều chữ Hán và bài nào cũng có phần phiên âm).
Ngày 20 tháng mạnh đông năm Quý Tị (26-XI-1953), mọi công việc
hoàn thành, tôi thấy khoan khoái. Tôi thảo bài Tựa, cuối bài ghi cảnh trăng
khuya trong vườn hoa ở phòng viết trông ra:
"Trăng mới ló dạng. Cảnh vật đang tối tăm, bí mật bỗng
hoá ra êm đềm nên thơ. Nhành liễu là đà lấp lánh bên dòng nước. Giò huệ rung
rinh toả hương dưới bóng dừa. Đêm nay tôi muốn thả hồn tìm thi nhân cùng danh
sĩ Trung Hoa thời trước.
"Hỡi hương hồn chư vị ấy! Tôi mang ơn chư vị rất nhiều,
gần bằng mang ơn văn nhân nước tôi; vì từ hồi mới sanh, tôi đã được nghe lời
ngâm Chinh phụ, Thuý Kiều xen lẫn với lời bình văn thơ của chư vị và ngay trong
văn học nước tôi cũng thường thấy ẩn hiện nỗi của lòng chư vị. Tâm hồn tôi ngày
nay một phần cũng do chư vị đào luyện nên.
"Viết cuốn này tôi muốn có cơ hội gần chư vị thêm một
chút. Tác phẩm của chư vị quá nhiều, tôi không đọc hết, nên ngoài cái lỗi giới
thiệu vụng về, tất còn mang thêm cái tội vô tình xuyên tạc. Xin chư vị lượng thứ".
Mới có 27 năm mà cảnh tôi tả trong đoạn đó nay đã thay đổi hẳn:
dòng kinh đã lấp, gốc liễu đã không còn, nhưng thêm được hai cây hoàng lan, chiều
tối hương thơm ngào ngạt cả một xóm.
Bác tôi mừng tôi hoàn thành tác phẩm, cho tôi hai bài thất
ngôn tứ tuyệt:
1 -
Hồng tử môn tiền đấu diễm hương,
Mãn bàn thi sử phí bình chương.
Kim phong thiết mã nhàn trung quá,
Nhất hạp thanh sơn tự chủ trương.
2 -
Nễ tự biên chi ngã duyệt chi
Nhất gia lạc sự tại tương tri.
Hà tu cánh hướng đông tây vấn,
Kế vãng khai lai cánh thuộc thuỳ?
Nghĩa là:
1 -
Trước cửa, các hoa đỏ, tía tranh nhau phô hương sắc,
Trên bàn đầy thi sử, khó khọc phê bình.
Gặp lúc nhàn trong thời buổi binh đao,
Có chủ trương lưu lại một hộp sách trong núi xanh (lưu tác phẩm
cho đời sau)
2 -
Cháu cứ viết đi, bác duyệt cho,
Cái vui trong gia đình ở chỗ bác cháu hiểu nhau.
Cần chi phải hỏi người bên đông bên tây,
Việc kế vãng khai lai còn tuỳ thuộc vào ai nữa.
Bác tôi còn cho tôi hai câu đối:
1 -
Cổ sắc cổ hương văn tự cổ
Tân tâm tân bút thế phương tân.
2 -
Nhất môn văn hiến kham trưng sử
Lưỡng quốc binh phần bất diệt thư
Nghĩa là:
1 -
Sắc cổ, hương cổ, văn thời cổ
Lòng mới, bút mới, đời vừa mới
2 -
Một nhà văn hiến có thể ghi vào sử
Lửa binh hai nước không diệt được sách
Bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, ông P. Văn Tươi nhận là
có giá trị nhưng không chịu xuất bản vì in rất tốn (phải sắp chữ Hán) mà khó
bán. Năm 1955 tôi lại phải bỏ vốn ra in, 1956 mới xong. Chỉ in 1.500 bản, tốn
75.000đ (mỗi cuốn 25.000đ). Giá vàng hồi đó vào khoảng 4.000đ - 5.000đ một lượng.
Bán một năm được khoảng 500-600 bộ, đủ vốn; số còn lại bán bảy tám năm sau mới
hết. Vậy, làm cái nghề viết văn cũng cần có vốn kha khá thì mới giữ được chí hướng,
làm được những việc mình thích, mà chẳng phải tuỳ thuộc ai. Nếu tôi không có xuất
bản lấy thì 10-15 năm sau chưa chắc đã có nhà chịu in cho, lòng ham viết tất phải
nguội dần mà sẽ không viết thêm được cuốn nào về cổ học Trung Hoa nữa.
In xong tôi mang về Long Xuyên ngay để bác Ba tôi coi. Tôi buồn
rằng cha mẹ tôi và bác Hai tôi không còn. Tôi đã không phụ công của ba người thân
đó. Trang đầu sách tôi đề:
KÍNH DÂNG
Hương hồn Thân mẫu tôi,
Người đã cho tôi học thêm chữ Hán
ở giữa thời tàn tạ của Nho học.
Bộ đó năm 1964 nhà Khai Trí tái bản; in 2.000 bản, được viện
Đại học Huế khuyên sinh viên đọc; nhưng năm 1974 bán vẫn chưa hết. Lần tái bản
này tôi chỉ sửa được một phần lỗi trên bản flan (bản để đổ chì) thôi, vì sắp chữ
lại thì tốn công lắm.
° °
°
DO HOÀN CẢNH MÀ TÔI TỪ BIỆT LONG XUYÊN ĐỂ CHUYỂN LÀM NGHỀ VIẾT
VĂN
Vậy trong năm năm (1949-1953) làm việc tích cực, nhất là ba
năm sau cùng, tôi đã xuất bản được chín cuốn: Tổ chức công việc theo khoa học,
Kim chỉ nam của học sinh, Tổ chức gia đình, Luyện văn, Để hiểu văn phạm, Đắc
nhân tâm, Quẳng gánh lo đi, Bảy bước đến thành công, và Huấn luyện tình cảm dịch
từ 1941 - lại có sẵn một bộ 3 cuốn Đại cương văn học sử Trung Quốc; và 4 tác phẩm
nữa: Nghệ thuật nói, Thế hệ ngày mai, Hiệu năng, Bí mật dầu lửa.
Tác quyền được khoảng trên100.000đ, cộng với số lương giáo
sư, số tiền dạy tư tại nhà, tiêu pha rồi (tôi sống rất giản dị, chỉ tốn tiền học
hàm thụ và mua sách), đưa cho nhà tôi một số tiền để sang một căn nhà nhỏ trong
một hẻm khu Hãng Sáo (Tân Định) mà mẹ con khỏi phải ở chung với bạn và các em nữa,
cuối năm 1953 còn dư non 200.000đ. Nhớ lại hồi mới qua Long Xuyên trong túi chỉ
có 200đ.
Đáng kể nhất là tôi có chút danh trên văn đàn và được một số
độc giả khá đông tin cậy. Tôi đã thành cây viết chính của nhà P. Văn Tươi.
Được vậy một phần là nhờ nhà tôi đã can đảm một mình làm việc
nuôi con, dạy con nữa; một phần là nhờ thân mẫu cô Nguyễn Thị Liệp. Bà cụ theo
nếp cổ, nghiêm khắc, ít nói, nhưng tin tôi cho tôi ở nhờ, có chỗ yên ổn để học,
dạy học, viết sách, mà sở dĩ tin tôi cũng là do biết bác tôi và thấy tôi biết
chữ Nho. Tôi ở Long Xuyên không bao lâu thì cụ qui tiên, và cô Liệp cũng tiếp tục
cho tôi ở. Tôi xin góp tiền chợ, cô không nhận. Thấm thoát mà tôi ở nhà cô tới
non bảy năm. Trong đời dễ gì gặp được người bạn như vậy, nếu không phải là
duyên trời.
Ngày nay nghĩ lại, tôi thấy số phận tôi một phần do tôi quyết
định, nhưng phần lớn thì do may rủi, do những cái ngẫu nhiên xảy tới, không sao
ngờ được, nhất là do thời cuộc.
Ông cha tôi không ai viết sách, làm nghề viết văn; song thân
tôi, mẹ tôi và các bác tôi cũng không có ý định cho tôi thành nhà văn; chính
tôi tới năm 1951, hồi bốn chục tuổi, mặc đã chính thức bước vào làng văn mà vẫn
chưa có ý sống bằng nghề cầm bút. Còn số tử vi của tôi, nhiều người đã coi,
không ai biết được là số của một nhà văn. Bác Ba tôi chỉ đoán được số tốt, giàu
và sang; và tôi thấy một người số tử vi giống số tôi đến tám phần mười, mà làm
thầu khoán, giàu lớn. Một ông bạn già bảo số tôi nổi danh vì được cách "tứ
linh hội phi liêm, thanh danh viễn chấn", nhưng trong nghề nào cũng có người
nổi danh, mà cứ theo các chính tinh ở mạng và chiếu mạng của tôi, thì tôi làm một
kĩ thuật gia hoặc một nhà kinh doanh mới hợp, vì mạng tôi có Vũ khúc với Sát,
Phá, Liêm, Tham; thân tôi ở cung Thiên di có Thiên phủ, Lộc tồn. Mạng, thân đều
không có Khôi, Việt (văn tinh); còn Xương khúc, Hoá khoa (cũng là văn tinh) thì
đều ở cung thê, bàng chiếu về cung thân.
Chỉ những bạn nào đã biết tôi là nhà văn rồi, coi tử vi cho
tôi mới giảng rằng chính nhờ cách Xương khúc, Hoá khoa chiếu cung thân đó mà
ngoài bốn mươi tuổi, tôi đổi nghề thành một nhà văn có danh. Như vậy là giảng một
cách hơi ép, chứ không phải là đoán số. Cho nên tôi không tin hẳn môn số; nhiều
lắm nó chỉ đúng được sáu phần mười thôi; sự di truyền của tổ tiên, giáo dục
trong gia đình, hoàn cảnh và thời cuộc mới có ảnh hưởng lớn tới đời sống con
người.
Về di truyền thì ông nội, ông ngoại tôi đều có tiếng là hay
chữ, bà nội tôi lại ở trong một thế tộc mười đời khoa hoạn. Tới thế hệ cha tôi
thì có hai bác Cả và Ba của tôi học giỏi. Tới thế hệ của tôi thì hai anh Tân
Phương, Việt Châu và tôi đều có khiếu về văn.
Về giáo dục thì trong gia đình tôi, đời nào cũng trọng sự học,
cũng cha (có khi cả mẹ nữa như bà nội tôi, rồi nhà tôi) dạy cho con, mẹ tôi tuy
không dạy tôi nhưng lại cho tôi học thêm chữ Nho với bác Hai tôi.
Do hai nguyên nhân mới kể, tôi thích đọc sách, thích văn học,
mặc dầu học nghề công chánh.
Rồi thì hoàn cảnh và thời cuộc đưa đẩy tôi vào nghề cầm bút:
- Đầu năm 1935, không có kinh tế khủng hoảng, ở trường Công
chánh ra tôi được bổ nhiệm ngay thì tất tôi không có thì giờ học thêm chữ Hán.
- Đầu năm 1935 tôi mới được bổ mà bổ ngay vào Nam, ở gần bác
tôi; mười năm sau (1946) tôi lại tản cư về Tân Thạnh; khi tôi qua Long Xuyên rồi
thì hai năm sau bác tôi cũng tản cư qua đấy; nhớ vậy tôi có dịp học thêm với
bác tôi. Mà chữ Hán rất có ích cho nhà văn.
- Ở Long Xuyên, tôi gặp ông P. Hiếu, một người cũng thích
văn; ông giúp tôi xuất bản tác phẩm đầu tiên, lại cùng dịch với tôi hai cuốn của
Carnegie.
- Nhờ dạy học ở trường Thoại Ngọc Hầu tôi mới có ý viết vài
cuốn cho học sinh.
- Tôi viết những cuốn đầu đó đúng lúc nhà xuất bản P. Văn
Tươi cho ra loại sách "Học làm người" tiếng Pháp gọi là Culture
humaine, tiếng Anh gọi là Self improvement. Thực ra ông Tươi không phải là người
mở đường. Trong thế chiến, tôi nhớ đâu vào khoảng 1943, nhà Hàn Thuyên ở Hà Nội
đã cho ra vài cuốn về kinh doanh, về luân lí thực nghiệp. Trước hay sau đó, một
người soạn (hay dịch) một cuốn về tinh thần khoa học được giải thưởng Alexandre
de Rhodes; nhóm Tự Lực cũng xuất bản cuốn Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo và dịch
ít đoạn trong cuốn Le chemin du bonheur của V. Pauchet; được thanh niên chú ý.
Lúc đó người ta đã thấy phải cải tạo tinh thần của thanh niên
để thích ứng với thời mới, và lớp thanh niên được cải tạo đó sẽ là lớp người mở
đầu cho giai đoạn phát triển kinh tế sắp tới. Ý đó "phảng phất trong không
khí" từ đầu thế chiến. Ông Tươi cho tôi hay hồi đó ông viết một cuốn rồi
xuất bản nhưng bán không chạy.
Năm 1949-50 ông tụ tập được một số cây viết cùng chủ trương,
như Thiên Giang, Nguyễn Duy Cần, mở nhà xuất bản, mới đầu chuyên ra loại Học
làm người và loại đó hợp với nhu cầu của thời đại nên ông thành công rất mau,
chỉ trong một năm, nhà xuất bản ông nổi tiếng, được sự tin cậy của rất nhiều độc
giả.
Nhờ vậy, tác phẩm nào của tôi lúc đó gởi cho ông cũng được
ông hoan nghênh liền.
- Một điều may nữa là cũng vào lúc đó - năm 1951 hay 1952 -
Việt ngữ được dùng làm chuyển ngữ ở tiểu học rồi trung học, từ nhà giáo đến học
sinh đều cần sách Việt; mà số học sinh tăng gấp ba gấp bốn năm 1948, số độc giả
cũng tăng theo tuy chậm hơn, nên sách của tôi rất dễ bán.
- Nhưng cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 mới làm thay đổi hẳn
cuộc đời của tôi. Khi quân đội Pháp đổ bộ lên Sài Gòn, muốn tái chiếm nước
mình, tôi đã quyết tâm bỏ luôn nghề công chánh, không trở lại làm việc nữa nếu
Pháp vẫn làm chủ nước mình. Một phần vì vậy tôi mới học nghề Đông y, học chưa
rành thì phải qua Long Xuyên rồi dạy học chờ thời, vừa dạy học vừa học thêm vừa
viết sách. Không có cuộc cách mạng đó, tôi vẫn làm sở Công chánh thì viết không
thể nhiều được.
Đầu năm 1953 tôi thấy nghề viết sách giúp tôi sống được, tôi
chuẩn bị để chuyển nghề. Vừa đúng lúc này việc dạy học không còn hứng thú nữa
vì đa số nam sinh chán nản không muốn học. Tình hình hồi đó khá nguy cho Pháp.
Từ 1952, họ đã ra lệnh bắt tất cả thanh nhiên Việt Nam từ 18 tuổi phải nhập
ngũ, người nào học hết năm thứ tư cao đẳng tiểu học, thi bằng Cao tiểu đậu hay
rớt thì cũng phải học một khoá quân sự ở Thủ Đức trong sáu tháng (?) rồi ra làm
chuẩn uý. Như vậy thì gắng học để thi làm gì? Đằng nào thì cũng sẽ thành bia đỡ
đạn cả. Chính phụ huynh học sinh lo lắng, không muốn thúc con học, chỉ tìm cách
chạy chọt để con được miễn dịch thôi.
Tôi khuyên học sinh đừng thối chí. Không ai biết chắc được
tương lai ra sao. Có thể sắp có sự thay đổi. Dù không thay đổi ngay thì có bằng
Cao tiểu vẫn hơn: nhập ngũ có thể được chuyển qua một ngành chuyên môn, không
phải ra mặt trận; rồi khi giải ngũ có bằng cấp đó, muốn tiếp tục học nữa cũng dễ.
Tuy khuyên chứ tôi cũng biết không trò nào nghe tôi.
Lớp học vẫn còn kỷ luật, nhưng không khí rất buồn, tinh thần
học sinh xuống rất thấp, đa số đãng trí không nghe lời giảng, làm bài qua loa
cho xong. Dạy học mà không có hứng, không thấy có kết quả thì thà làm nghề khác
còn hơn, để lương tâm khỏi bứt rứt.
Giữa niên học tôi làm đơn gởi lên ông Thơ xin thôi dạy từ cuối
niên khoá đó, không kí lại giao kèo cho niên khoá sau. Ông giữ lời đã hứa với
tôi, nên không bác đơn, nhưng cứ ngâm đó.
Đơn gởi rồi, tôi chuẩn bị ngay.
Tôi đã tính kĩ. Trong mấy năm tôi để gây một số vốn khoảng
200.000đ. Bỏ ra một ít để sửa sang nhà ở Sài Gòn, một số nữa làm vốn xuất bản;
vẫn còn khoảng 70-80 ngàn đủ sống một năm mà khỏi phải làm gì. Ấy là chưa kể số
tiền tác quyền nhà P. Văn Tươi sẽ trả.
Tôi lại có sẵn non chục tác phẩm, kể cả một số bản thảo viết
trước 1945: Đế Thiên Đế Thích (du ký), Nam Du tạp ức (dịch của Hồ Thích), và bộ
Đại cương văn học sử Trung Quốc viết sắp xong.
Tôi lại có gần đủ tài liệu để viết ba bốn cuốn nữa như Tự học
để thành công, Nghề viết văn, Bí quyết thi đậu, Đông Kinh nghĩa thục
Như vậy là có đủ việc làm, đủ tác phẩm để xuất bản trong vài
ba năm. Hễ qua được hai năm đầu rồi thì cứ theo đà đó mà tiếp tục được ít nhất
cũng năm, mười năm.
Tôi dự định tự xuất bản lấy; công việc không tốn thì giờ bao
nhiêu: chỉ được đưa cho một nhà in, họ lo việc kiểm duyệt rồi in cho mình, mình
chỉ sửa bản vỗ (morasse) lần cuối cùng; in xong họ chở lại nhà rồi tôi đem giao
cho bốn năm nhà phát hành ở Sài Gòn như Nam Cường, nhà Yiễm Yiễm, nhà Á Châu với
vài tiệm sách lớn, thu ngay được một số tiền mặt gần bằng nửa vốn in; khi các
nhà đó bán gần hết, sẽ lấy thêm. Như vậy mỗi tháng mất độ bốn năm ngày, còn nhiều
thì giờ để viết. Mà số lợi trung bình gấp ba - có khi gấp bốn nếu sách bán chạy
- số tác quyền trong trường hợp bán cho một nhà xuất bản.
Tôi tính mỗi năm chỉ viết ba cuốn - mỗi cuốn độ hai trăm
trang, bán được độ 2.000, 3.000 bản thôi - mà xuất bản lấy thì cũng bằng có
chín, mười cuốn bán cho nhà xuất bản.
Không dạy học nữa mà cũng không mua tác phẩm của ai để kinh
doanh, chỉ viết rồi đưa in, bán ở nhà như vậy, tôi có thể viết mỗi năm được số
đó và sống ung dung với cây viết. Tính kĩ rồi tôi vững bụng tin chắc sẽ thành
công, cho nên như trên tôi đã nói, dù biết rằng theo số tử vi, tôi sắp bước vào
một đại hạn rất xấu, tôi cũng quyết tâm đổi nghề: nhân năng thắng số; mà cũng
có thể là số sai.
Mùa hè năm đó, ông Thơ thấy tôi không trở lại dạy trường Thoại
Ngọc Hầu, đành phải cho tôi thôi, nhưng ông vẫn cố níu trở lại. Ông bảo:
"cho vui, bạn bè ở đây có được bao người".
- Nhà văn làm nghề xuất bản thì nhất định thất bại. Anh không
nhớ Balzac phải bán nhà in, nợ như chúa chổm rồi viết đêm viết ngày đến khi chết
vẫn trả chưa hết nợ đó sao?
Tôi đáp:
- Tôi làm sao dám ví với Balzac. Ông ta là một nghệ sĩ, tôi
chẳng có chút máu nghệ sĩ nào trong người cả. Ông ta là một thiên tài và tự cho
rằng một thiên tài thì đáng sống cuộc đời lộng lẫy của bọn công tước, bá tước,
tóm lại là ông ham cái chữ de, Honoré de Balzac, nên mới mắc nợ, phải viết như
mọi để trả nợ. Tôi không cần nhiều anh ơi, miễn kiếm được một số tiền đủ sống, chẳng
hạn bằng số lương giáo sư hay kĩ sư là mãn nguyện rồi; mà tôi đã tính cẩn thận,
có thể kiếm được một số như vậy, nếu chịu làm việc gấp hai một giáo sư, kĩ sư.
Tuy mệt nhưng được tự do, chẳng phải tuỳ thuộc ai, chẳng phải đi đúng giờ, về
đúng giờ.
Sáng ngày tựu trường năm đó, ngồi bàn viết, trông ra ngoài đường,
thấy học sinh dắt nhau, ríu rít đi ngang tôi cũng buồn buồn, nhớ bạn, nhớ trò,
nhớ cảnh trường. Mới dạy có ba năm mà tôi cũng đã quyến luyến với nghề rồi,
trách chi nhà tôo, cô Liệp sau ba mươi bảy năm dạy học, về hưu chẳng buồn rầu,
tuần nào cũng tới trường cũ một lần cho đỡ nhớ.
Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng bài 20 bảo: "Người quân tử
có ba điều vui. Trong ba điều ấy không có điều làm vua thiên hạ, mà có điều: được
bọn anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ" (Quân tử hữu tam lạc, nhi vương
thiên hạ bất dự tồn yên (): đắc thiên hạ anh tài nhi giáo dục chi).
Tôi nghiệm thấy ở nước ta, người nào là con cháu nhà Nho chân
chính, con cháu giai cấp sĩ phu, cũng có vài nét chung dễ nhận ra: không ham
danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái. Yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy
học và có khiếu dạy học nữa. Tôi được dăm ba ông bạn trong giới ấy mà ông Đông
Hồ là một. Ông với tôi thân nhau, quí nhau một phần vì vậy.
Dạy học mà được một số trò thông minh, hiếu học, lại có thì
giờ viết sách nữa thì thật là một điều vui. Hai năm đầu tôi được hưởng cái vui
đó, mà bây giờ tôi còn giữ được nhiều kỉ niệm đẹp về thời đó. Đầu năm 1974,
trong một buổi tiệc tất niên âm lịch của Hội cựu học sinh Thoại Ngọc Hầu tổ chức
ở sân trường, tôi được gặp lại vài bạn giáo sư cũ và nhiều học trò cũ đã thành
bác sĩ, dược sĩ, hiệu trưởng; được thấy tình niềm nở, thân mật, kính mến của họ
đối với tôi, tôi càng thấy lời Mạnh Tử là đúng. Giá tôi không viết sách thì
chưa chắc năm 1953 tôi đã bỏ trường Thoại Ngọc Hầu vì mặc dầu không khí năm đó
kém trước, nhưng học trò vẫn còn tình nghĩa với thầy. Làm nghề viết văn, tôi
may mắn được một số độc giả thanh niên coi tôi như thầy, gọi tôi bằng thầy, tuy
không học với tôi một giờ nào. Điều đó an ủi tôi rất nhiều và chung qui tôi vẫn
là một nhà giáo cho tới ngày nay.
Trong mấy tháng cuối, tôi rán chép cho xong bộ Văn học sử
Trung Quốc rồi thu xếp để lên Sài Gòn. Tôi chỉ đem theo bản thảo và một cái
rương sách cần dùng, còn thì để lại cả. Tôi không đi chào ai, ngoài hai bác
tôi. Bác tôi có vẻ buồn, nhưng tôi thưa rằng chỉ ít tháng tôi sẽ về thăm. Gặp
ai tôi cũng nói lên Sài Gòn tính việc làm ăn, chứ không vĩnh biệt Long Xuyên.
Tôi đưa cô Liệp mười lượng vàng nhờ giữ giùm, trong thâm tâm tôi là một cách trả
ơn cô và để cô dưỡng già.
Khoảng cuối tháng 11-1953 tôi rời Long Xuyên. Tình hình chiến
sự ở Bắc Việt lúc đó bất lợi cho Pháp, ai cũng biết sắp có sự thay đổi.
--------------------------------
1 Coi nguyên văn chữ Hán trong cuốn Cổ văn Trung Quốc của tôi
(Tao đàn -1966).
2 Hãn (hàn) mặc: bút mực.
3 Khối (ổi) lỗi: người bằng gỗ, ý nói loài người là đồ chơi,
búp bê của hoá công.
4 Hạo nhiên: mênh mông, tôi đoán là vũ trụ.
5 Cầm tôn: đàn và chén rượu.
6 Bát hoang lục vũ: cả trong vũ trụ.
CHƯƠNG XIX - PHÁP SA LẦY VÀ THUA Ở BẮC VIỆT
T
ẠI SAO PHÁP THUA?
Những người Pháp sáng suốt như Leclerc, Sainteny, Lacouture,
Devillers, Paul Mus... đều muốn điều đình vì biết chiến tranh sẽ kéo dài, càng
kéo dài càng bất lợi cho Pháp. Việt Nam có đủ ba điều kiện để thắng: địa lợi,
nhơn hòa và thiên thời.
Về địa lợi, chúng ta chiến đấu ở trên đất chúng ta, biết rõ
sông núi từng miền, quen với khí hậu. Pháp trái lại, phải đem quân viễn chinh
qua, rất tốn kém mà không quen với sông núi, khí hậu. Nước ta rất nhiều rừng,
khi địch tấn công ta mạnh quá, ta chống cự không lại rồi thì rút lui ngay vào rừng,
bụi; địch không dám đuổi theo.
Ta lại có thể tản vào trong đám dân thường, làm bộ cuốc đất
hay nhổ cỏ, hoặc núp trong hầm hố, và được dân chúng che chở cho. Bộ đội khéo
được huấn luyện, tới đâu cũng nhã nhặn, lễ phép, vui vẻ, giúp đỡ dân, cho nên rất
được lòng dân, sống với dân như cá trong nước.
Vả lại toàn dân đều coi thực dân Pháp là kẻ thù, đều muốn đuổi
chúng đi, gần như gia đình nào cũng có người theo bộ đội hoặc giúp kháng chiến,
và coi chính phủ kháng chiến là chính phủ của dân, mặc dầu những người lãnh đạo
là cộng sản. Ông Hồ Chí Minh đã giải tán đảng Cộng sản, hô hào toàn dân đoàn kết
và toàn dân đã đoàn kết thật, ít nhất là cho tới năm 1950. Cũng có một số rất
ít vì lẽ này hay lẽ khác bất mãn với chính phủ, nhưng hạng đó không dám sống ở
chiến khu mà phải về những miền bị địch chiếm. Ngay trong những miền này, số
dân có cảm tình với kháng chiến cũng rất động, có nơi đến chín phần mười. Như vậy
địch bất kì ở đâu cũng phải sống với kẻ thù, lo lắng, bất an; nhất cử nhất động
của họ đều bị theo dõi và báo cho kháng chiến biết. Kháng chiến được điều kiện
nhân hòa đó, nên lực lượng mỗi ngày một tăng: mới đâu chỉ có một số du kích, cuối
cùng có tới vài ba trăm ngàn quân kể cả chính qui và du kích, với những sư đoàn
đầy đủ võ khí nặng. Quân đội Pháp không thể tăng hoài cho kịp ta được vì ngân
sách thiếu, dân chúng họ cũng muốn chống tăng thuế, chỉ muốn sống yên ổn thôi,
không muốn chiến tranh. Họ không muốn cho con họ chết trong rừng bụi Đông Dương
để bảo vệ quyền lợi của giới tư bản.
Như vậy càng kéo dài chiến tranh thì quân ta càng mạnh lên mà
địch càng suy, tất phải tới một lúc địch không chịu nổi phải xin hòa đàm.
Điều lợi thứ ba cho ta là thiên thời. Sau thế chiến thứ nhì
là thời giải thực (décolonisation), thời tàn của chế độ thực dân lối cũ. Các
dân tộc thuộc địa khắp thế giới đều muốn đuổi thực dân đi, và cường quốc thứ nhất
là Mĩ không muốn cho Pháp chiếm lại Việt Nam; vì vậy năm 1945 Mĩ có cảm tình với
Việt Minh. Còn Nga thì không hề lên tiếng ủng hộ Hồ Chí Minh, không hiểu tại
sao. Anh, cường quốc thứ ba, nhờ có thủ tướng Attlee sáng suốt, đã tự ý trả lại
độc lập cho các thuộc địa cũ. Pháp yếu mà tham, ngu muội cố bám lấy các thuộc địa
nên hùng hùng hổ hổ đem quân viễn chinh qua tính tái chiếm nước mình, rốt cuộc
đã mất Việt Nam, sau lại mất Algérie và phải bấm bụng trả lại độc lập cho tất cả
các thuộc địa khác mà vẫn bị thế giới ghét.
Nhất là từ cuối năm 1949, cộng sản Trung Hoa đánh bại Quốc
Dân đảng, chiếm toàn thể lục địa, Tưởng Giới Thạch phải cuốn gói qua Đài Loan;
rồi tháng Giêng năm 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhìn nhận Cộng hòa Dân chủ
Việt Nam, thì sức kháng chiến của mình tăng lên rất mau, nhờ sự giúp đỡ của
Trung Hoa: quân đội của mình có thể "trốn" qua Trung Hoa được, họ huấn
luyện cho, viện trợ lương thực, khí giới cho.
Năm 1953, chiến tranh Triều Tiên kết liễu rồi, sự viện trợ đó
càng tăng cường, và theo Bernard Fall thì từ đó, Paris hoặc Washington còn hi vọng
hão huyền, chứ ở Sài Gòn và Hà Nội, bọn thực dân đã hết ảo tưởng, chỉ cố vơ vét
cho thật nhiều để cuốn gói về "mẫu quốc".
Một nguyên nhân nữa mà tôi cho là nguyên nhân chính: chiến
tranh của ta có chính nghĩa, toàn dân vì chính nghĩa mà chiến đấu; quân đội của
Pháp, trừ một số thanh niên Pháp và một số lính lê dương là chiến đấu hăng, hầu
hết tinh thần rất kém, nhất là bọn "partisan", bọn lính đánh thuê Việt
mà họ tuyển. Sau khi Bảo Đại về nước, Pháp buộc Bảo Đại phải thành lập một đạo
quân Việt Nam, Bảo Đại phải kí sắc lệnh bắt thanh niên nhập ngũ, sắc lệnh đó
khiến dân càng ghét Bảo Đại và Pháp. Chương trên tôi đã nói ảnh hưởng biện pháp
ấy tới học sinh ra sao.
Louis Saurel trong cuốn La Guerre d’Indochine (Editions Rouff
- Paris - 1966) dẫn mấy hàng này trong một số Paris Match:
"Khi sắp có trận Điện Biên Phủ, tướng Navarre (Tổng tư lệnh
Pháp ở Đông Dương) kêu 120.000 thanh niên Việt Nam nhập ngũ, thì chỉ có 7.000
trình diện, trong số đó có 5.000 sở dĩ trình diện vì biết chắc sẽ được miễn dịch,
thải về".
Có nhiều người tự hủy hoại thân thể thành tàn phế để khỏi bị
bắt lính. Kẻ có tiền thì đút lót, chạy chọt. Vậy là kêu 120.000 chỉ được có
2.000.
Đúng như lời ông Hồ Chí Minh nói với kí giả Mĩ Davis
Schoenbrun từ 11-9-1946, trước khi xảy ra chiến tranh ở Bắc:
"Nếu có chiến tranh thì sẽ là một cuộc chiến đấu giữa
con cọp và con voi. Nếu cọp ngưng thì bị ngà voi đâm thủng bụng liền. Nhưng nếu
cọp không ngừng thì voi lần lần sẽ mất máu và kiệt sức".
° °
°
LỰC LƯỢNG VÀ TÍNH THẦN QUÂN ĐỘI PHÁP
Tháng Giêng 1947 khi chiến tranh mới phát, Leclerc tính phải
có 500.000 quân mới thắng nổi. Không biết hồi đó ông ta đoán quân đội du kích
Việt có được bao nhiêu. Theo các nhà quân sự Mĩ năm 1960, thì muốn chặn được du
kích phải có một số quân gấp 10 số quân du kích. Muốn thắng được thì số quân phải
gấp 20. Ở Mã Lai, Anh dùng 350.000 quân mà mất 12 năm mới diệt được 8.000 Mã cộng.
Như vậy không phải là gấp 20 mà gấp 40.
Quân Pháp hồi đó chỉ có 13.000 người. Leclerc đòi tăng lên
500.000, các bộ trưởng Pháp hoảng hồn, lắc đầu. Từ đó tới 1954, có tất cả 19 lần
cải tổ nội các, nội các nào cũng không chịu thương thuyết với chính phủ kháng
chiến của ta, mặc dầu những người Pháp sáng suốt bảo chỉ chính phủ đó mới được
toàn dân ủng hộ. Pháp không đủ sức tăng quân số lên, dân chúng thấy chiến tranh
sa lầy sinh chán nản. Các thượng tướng hàng Tổng tư lệnh, Tư lệnh đa số bất
tài, thay đổi không biết mấy lần; tướng nào cũng tin chiến lược của mình mới
đúng, mà chẳng chiến lược nào có kết quả, nhiều lắm chỉ gỡ nguy được một thời
gian. Còn hạng thấp hơn, thiếu tướng, tá, đại úy thì theo Lucien Bodard trong
La guerre d’Indochine (3 cuốn) chỉ phè phỡn, ham tiền, gái, huy chương. Bất đắc
dĩ phải dùng quân đội Việt. Pháp tung tiền ra mua chuộc các giáo phái Cao Đài,
Hòa Hảo và đảng Bình Xuyên; nhưng hễ không thỏa mãn được yêu sách của họ, thì họ
bỏ vô bưng, mang theo khí giới.
Sài Gòn, Hà Nội thành những kinh đô ăn chơi, áp phe mà áp phe
lớn nhất là buôn đồng quan. Từ trên xuống dưới ai cũng đua nhau xin được mua đồng
quan theo hối suất chính phủ (1 đồng bạc Đông Dương ăn 17 quan), xin giấy phép
xuất nhập cảng. Được một giấy phép xuất nhập cảng rồi, người ta chỉ nhập cảng lấy
lệ một số đồ xấu giá rẻ còn dư đồng quan thì gởi các ngân hàng bên Pháp, vì
buôn bán gì cũng không lợi bằng mua bán đồng quan. Tóm lại bao nhiêu thanh niên
Pháp chết, toàn dân Pháp phải đóng thuế để nuôi mập một bọn thực dân con buôn
và một số tay sai Việt Nam của chúng.
° °
°
CHIẾN SỰ Ở Nam, BẮC
Mặt trận ở Nam (từ Đèo Cả trở vào) không có gì quan trọng,
tình hình cho tới 1954 đại khái cũng như hồi 1946. Chỉ khác mỗi ngày du kích
tăng lên nhiều hơn, các đường giao thông, nhất là đường Sài Gòn - Miền Tây bất ổn
hơn. Nhiều đoàn xe dài hai ba chục chiếc của quân đội cũng bị phục kích, mà hễ
bị phục kích thì tổn thất lần nào cũng nặng. Có chỗ bị phục kích hoài - 4, 5 lần
- mà không cách nào tránh được, đồn bót bên đường không có chút công dụng gì cả.
Về sau Pháp phải cho quân đội đi dò mìn mỗi buổi sáng rồi mới cho xe đò qua, vì
vậy có nhiều chuyến xe từ Hậu Giang lên phải đậu lại ở Mĩ Thuận, sáng hôm sau mới
tới Sài Gòn. Xe đò muốn chạy thì phải đóng thuế cho Việt Minh. Miền quê nào bị
quân Pháp thường bố thì dân chúng một phần rời vào trong xa, một phần ra các
thành thị. Dân số các châu thành tăng lên rất mau, càng dễ cho Việt Minh len lỏi
vào; đồng quê bỏ hoang, kinh tế càng mau suy sụp. Những vụ xử tử Việt gian ở
làng xóm cũng tăng lên. Tình thế mỗi ngày mỗi tệ.
Ở Sài Gòn, bác sĩ Thinh tự tử rồi, Hoạch lên thay, rồi Xuân,
rồi Hữu... nhưng Pháp có giao cho chút quyền hành nào đâu, họ chỉ đóng vai bù
nhìn; dù là bù nhìn thì cũng phải có chút tư cách, mà bọn họ lại thiếu tư cách
quá, quan thầy biểu sao nghe vậy, nên bị dân chúng khinh. Báo nào độc lập, có cảm
tình với kháng chiến thì bán chạy như tôm tươi, còn báo của chính quyền chỉ để
phát không cho các công sở. Điều đó đáng lẽ mở mắt cho họ chứ; nhưng họ lại cho
báo chí là tiếng nói bậy bạ của bọn "nói láo ăn tiền", chứ dân chúng
thì ghét cộng chứ không ghét Pháp và chỉ muốn yên ổn làm ăn. Họ thật mù quáng
không biết tinh thần yêu nước của người Việt.
Khi chiến tranh nổ ở Bắc, D’Argenlieu bị gọi về Pháp,
Bollaert qua thay nhưng chỉ có nhiệm vụ tìm hiểu tình hình rồi báo cáo về Pháp
thôi. Không hề ở Việt Nam, ông ta làm sao hiểu tình hình được. Người phụ tá của
ông là Pignon, Torel với bọn thực dân nói gì thì ông biết vậy. Vả lại chính phủ
Pháp cũng không có ý muốn thương thuyết, nên chẳng có gì thay đổi cả.
Ở Bắc, chính phủ kháng chiến rút lên miền Thái Nguyên, Bắc Cạn
để bảo toàn lực lượng, tổ chức, huấn luyện du kích, nắm chắc dân tâm và hô hào
toàn dân bất hợp tác với Pháp. Giai đoạn đầu là giai đoạn du kích, phải mua và
chế tạo những khí giới nhẹ; những khí giới nặng như chiến xa, đại bác đều cất
giấu hoặc hủy bỏ.
Tháng 10-1947, Hồ Chủ tịch ở Bắc Cạn, chung quanh chỉ có vài
ngàn quân không đủ khí giới, nhưng trong khu Tuyên Quang - Thái Nguyên - Bắc Cạn
có nhiều kho khí giới và nhiều quân đội. Tướng Valluy biết được tin đó, đem một
lực lượng rất mạnh, gồm 15.000 quân với nhiều xe thiết giáp, phi cơ phóng pháo,
săn giặc, bất thần đánh vào Bắc Cạn để bắt sống Hồ Chủ tịch, nhưng ông Hồ thoát
kịp. Chuyến đó Pháp không đạt được mục đích mà tổn thất nặng vì khi rút lui, bị
phục kích.
Trong chiến dịch đó, quân Pháp chiếm được con đường thuộc địa
số 4 từ Cao Bằng tới Lạng Sơn, chủ ý để bao vây quân Việt ở phía Bắc, không cho
trốn qua Trung Hoa. Đại tá Beauffre chiếm Cao Bằng một cách quá dễ dàng, không
tốn một viên đạn, không gặp một lính Việt, một người dân Việt; chỉ thấy những
chiếc cầu bị phá, những khúc đường bị đào và những xóm làng đương cháy. Vài
ngày sau quân đội của ông ta mới bị phục kích. Và từ đó, con đường số 4 bị phục
kích liền liền thành một ung nhọt rỉ máu hoài, làm tiêu mòn lực lượng của Pháp.
Pháp phải dùng mấy ngàn lính bảo vệ con đường, mỗi tháng tiêu hàng tỉ quan, mà
các nghĩa địa ở Cao Bằng và Lạng Sơn thì mỗi ngày một thêm những cây thánh giá
quét vôi trắng.
Ai cũng biết đó là một thất sách nhưng các tướng Pháp tự ái,
không chịu rút lui, bỏ con đường đó, sợ mất mặt. "Đoàn viễn chinh Pháp mà
chịu thua quân đội da vàng ư?".
Họ cố bám lấy đường đó hai năm. Cuối năm 1949, quân đội cộng
sản Trung Hoa tiến tới biên giới Bắc Việt, và năm sau quân đội Việt được Trung
Hoa huấn luyện, viện trợ khí giới nặng, đủ sức để tấn công Pháp rồi, Carpentier
mới cho phép rút khỏi Cao Bằng.
Họ rút lui chậm quá, ngày đầu chỉ được 13 cây số vì đường bị
phá hủy nhiều, họ phải sửa lại cho từng đoàn căm nhông, chiến xa, đại bác...
qua. Tướng Võ Nguyên Giáp kịp thời huy động 15.000 quân đánh họ tơi bời ở Thất
Khê và khi tàn quân của họ tới Lạng Sơn, coi lại thì thiệt mất 7.000 người.
Ở Lạng Sơn, họ mắc thêm một lỗi nữa. Lúc đó quân mình còn ở
cách xa Lạng Sơn, nếu họ đóng quân ở đó, chuẩn bị để chống cự thì Lạng Sơn chưa
đến nỗi mất; nhưng họ hoảng quá, không kịp phá hủy 1.300 tấn khí giới, quân nhu
ở Lạng Sơn, đã vội rút lui nữa về Phủ Lạng Thương. Quân ta thắng được trận đó rất
lớn, thu được tất cả khí giới đó. Quân Pháp phải bỏ tất cả khu ở phía Bắc sông
Hồng Hà mà chỉ giữ được miền đồng bằng thôi.
Thừa thế, tướng Võ Nguyên Giáp tiếp tục đại tấn công, lần này
tính dùng năm sư đoàn (304, 308, 312, 316, 320) để tiến về Hà Nội.
Chiến thắng đó làm cho tinh thần mình phấn khởi bao nhiêu thì
tinh thần Pháp suy sụp bấy nhiêu. Dân chúng Pháp bất mãn về chính phủ. Quân
linh Pháp gởi qua tăng viện ở Việt Nam phải đi ban đêm, xuống tàu ban đêm. Quan
tài chở về Pháp cũng phải lén lút đưa lên bờ trong các nhà máy ở các bến tàu,
đã có những vụ phá hoại để ngăn chận "cái chiến tranh dơ dáy" đó.
Ở Việt Nam cũng có sự thay đổi. Cho tới cuối năm 1949, còn là
"Mặt trận quốc gia", nhưng khi Trung Cộng đã giúp mình thì họ đòi
chính phủ kháng chiến phải có thái độ, đường lối dứt khoát. Theo Jean Lacouture
và Phillipe Devillers trong La fìn d’une guerre (Editions du Seuil - 1960) thì
Mao Trạch Đông buộc ông Hồ Chí Minh phải lập lại đảng Cộng Sản Việt Nam đã giải
tán năm 1946, và đảng Cộng sản phải ra mặt nắm địa vị lãnh đạo. Do đó mà chính
phủ kháng chiến lập ra đảng Lao Động và năm 1950-51 có nhiều vụ thanh trừng. Lần
lần chính phủ Cộng hoà Dân chủ Việt Nam thành chính phủ Cộng hòa Nhân dân; kế
đó ta bắt đầu có cuộc cải cách ruộng đất theo kiểu Trung Cộng. Đó là một lầm lẫn
lớn của chính phủ kháng chiến, hậu quả rất tai hại tới nay chưa hết, tôi sẽ xét
ở sau.
Một số người ái quốc theo kháng chiến, thấy cuộc thanh trừng
đó, rời bưng trở về thành.
° °
°
GIẢI PHÁP BẢO ĐẠI
Đầu năm 1946, khi lập xong chính phủ Liên hiệp Quốc gia rồi
(chủ tịch là Hồ Chí Minh, phó chủ tịch là Nguyễn Hải Thần; Huỳnh Thúc Kháng bộ
trưởng Nội vụ, Nguyễn Tường Tam bộ trưởng Ngoại giao...), Hồ Chủ tịch phái công
dân Vĩnh Thụy (Bảo Đại) cầm đầu một phái đoàn qua Trùng Khánh. Bảo Đại được Tưởng
Giới Thạch tiếp đãi, mời lên Nam Kinh vì chính phủ Trung Hoa đương dọn về Nam
Kinh. Chính phủ Liên hiệp Quốc gia bảo ông cứ ở Trung Hoa đừng về vội. Ông ở lại
Trung Hoa nhưng không lên Nam Kinh mà qua Hương Cảng.
Năm 1947, chính phủ Pháp theo chính sách của Bidault trong
Phong trào Cộng hòa Nhân dân (M.R.P.) nhất định không thương thuyết với ông Hồ
Chí Minh mà muốn dùng lá bài Bảo Đại, phái người qua tiếp xúc với Bảo Đại ở
Hương Cảng. Các đảng phái ở Nam: Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Quốc Dân đảng v.v..
tức thì phái đại biểu tới tấp qua Hương Cảng thúc Bảo Đại về và bày mưu kế với
Bảo Đại. Dĩ nhiên Bảo Đại cũng đòi hỏi như Hồ Chí Minh: sát nhập Nam Bộ và miền
cao nguyên vào Việt Nam, có chính phủ riêng, quân đội riêng, tự trị về ngoại
giao, bỏ hết các kiểm soát của Liên bang Đông Dương... Pháp biết nếu không chấp
nhận thì giải pháp Bảo Đại không thành, nên sau hai lần tiếp xúc ở vịnh Hạ Long
giữa Bảo Đại và Bollaert (12-47), rồi giữa Bollaert và Nguyễn Văn Xuân thủ tướng
Nam Kì quốc, đại diện cho Bảo Đại, Pháp đành nhượng bộ (6-48) nhưng mãi đến
8-3-49, Bảo Đại mới kí một hiệp ước với tổng thống Pháp Vincent Auriol, rồi về
nước.
Tuy nhiên Bảo Đại không ở Sài Gòn mà lên thẳng Đà Lạt, lập
"triều đình" ở đó, để tỏ vẻ bất mãn về nền độc lập bánh vẽ mà Pháp
trao trả ông, và đến 7-1953, tình hình Đông Dương nguy khốn, chính phủ Laniel mới
chịu thi hành đúng đắn hiệp ước 8-3-49. Lúc đó đã quá trễ.
Bảo Đại khôn lanh nhưng nhu nhược, chỉ ham tiền, ham gái và
săn bắn, bị dân chúng khinh bỉ. Bọn tay sai của ông, trừ một hai người như Nguyễn
Hữu Trí trong đảng Đại Việt mà ông ta nghi kị vì có tư cách, còn thì "chủ
nào tớ nấy" cả. Uy tín của Hồ Chí Minh vẫn lớn và giải pháp Bảo Đại hoàn
toàn thất bại.
° °
°
DE LATTRE DE TASSIGNY VÀ VÕ NGUYÊN GIÁP
Vụ Pháp đại bại trên đường Cao Bằng - Lạng Sơn làm cho dân
chúng Pháp xúc động và một phần quân đội viễn chinh (nhất là quân Algérie) mất
tinh thần. Chinh phủ Pleven phải đưa tướng De Lattre de Tassigny qua. De Lattre
là một tướng giỏi, can đảm, cương quyết, quyết định mau, đòi được toàn quyền ở
Đông Dương, vừa làm Cao ủy vừa làm Tổng tư lệnh, và xin thêm nhiều quân, nhiều
võ khí, nhưng chính phủ chỉ cung cấp được một phần nhỏ thôi.
Ngày 17-12-50 ông ta qua, không ở Sài Gòn mà ở Hà Nội. Rất hách
dịch. Mới qua, đuổi ngay một số tướng tá về Pháp, không cho vợ con quân nhân,
công chức Pháp về nước để khỏi làm dao động tinh thần quân đội. Người Pháp gọi
ông ta là "Le roi Jean" (Quốc vương Jean).
Ông ta vừa kịp chỉnh đốn lại quân đội, tiêm tinh thần chiến đấu
vào đoàn quân viễn chinh thì tướng Võ Nguyên Giáp tấn công ở Vĩnh Yên ngày
13-1-51, cách Hà Nội độ 40 cây số với một lực lượng mạnh. Lần này là lần đầu
bên mình dàn quân để chiến đấu ở đồng bằng với một biển người. Mới đầu quân
mình thắng. De Lattre phải dùng rất nhiều phi cơ chở quân lính lên tiếp sức và
thả bom napalm (mủ cao su trộn với dầu xăng) để chặn biển người đó. Quân mình lần
đầu thấy bom napalm hoảng hốt, hỏi nhau có phải là bom nguyên tử không.
Trận đó mình thất bại nặng: 6.000 chết, 500 tù binh (theo
Louis Saurel - sách đã dẫn). Tướng Võ Nguyên Giáp nhận là lầm lẫn.
Nhưng cuối tháng 3-1951, tướng Giáp tấn công nữa ở Đông Triều
(Mao Khê, phía tây bắc Hải Phòng). Quân Pháp lại lâm nguy, De Lattre lại phải
dùng nhiều phi cơ và napalm mới cứu được. Quân mình phải rút lui vào rừng,
nhưng không thiệt hại nặng như lần trước.
Lần thứ ba, mình tấn công thình lình ở Phủ Lí và Ninh Bình, mới
đầu cũng đánh bại được quân Pháp ở Ninh Bình. De Lattre vội vàng đem quân xuống
cứu; quân mình rút lui về bờ bên kia sông Đáy, trốn vào các hang núi vôi ở miền
đó.
Ba lần đó Pháp tuy thắng nhưng rất khó nhọc và hai lần suýt
nguy; thế giới đều thấy lực lượng của mình đã ngang với Pháp rồi. Tướng Võ
Nguyên Giáp rút kinh nghiệm, biết rằng chiến đấu ở đồng bằng, mình bất lợi vì
phi cơ địch ở trên nã xuống, mình không có chỗ núp, mà rút lui tới chỗ yên ổn
thì hơi xa, nên từ đó đổi chiến lược, đưa chiến tranh lên xứ Thái. Ba lần trước,
De Lattre chỉ chống đỡ, tháng 11-1951 mới bắt đầu tấn công, đem quân lên chiếm
Hòa Bình để chận con đường Bắc Việt tiếp tế cho Thanh Hóa. Chiếm thì dễ, nhưng
giữ rất khó. Chỉ có hai đường tiếp tế Hòa Bình là con đường thuộc địa số 6 đã
hư hỏng nhiều, và con sông Đà. Cả hai đường đó, khúc gần Hòa Bình đều có nhiều
bụi rậm, hoặc bờ giốc âm u, rất dễ cho quân mình phục kích và Pháp lần nào cũng
bị thiệt hại nặng, đến nỗi gọi đường thuộc địa số 6 là địa ngục, và gọi Hòa
bình là "merdier" (đám phân hay cầu tiêu). Sau cùng Pháp phải bỏ Hòa
Bình, rút về, thiệt hại nặng, gần bằng vụ Cao Bằng - Lạng Sơn.
Lần đó một đại đội quân của chính phủ Bảo Đại đào ngũ, trốn
qua phía kháng chiến, mở đầu cho nhiều vụ đào ngũ sau này.
De Lattre thất bại, lại đau nặng vì bệnh ung thư, về Pháp ít
lâu thì chết. Ông ta còn mắc một lỗi nữa là xây một vòng đai đồn bót bao vây miền
đồng bằng Bắc Việt, đã tốn tiền, lại cầm chân một số binh lính để giữ đồn, mà
chẳng được ích gì. Quân mình vẫn len lỏi vào miền đồng bằng như trước.
° °
°
NAVARRE> VÀ TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ
Tướng Navarre qua thay De Lattre. Tài kém xa De Lattre, uy
tín cũng kém mà lại tự phụ, không chịu nghe ý kiến ai, cho chỉ chiến lược của
mình mới đúng.
Khoảng cuối năm 1952, quân mình chiếm được Nghĩa Lộ ở ngang
Tuyên Quang, giữa khoảng từ Nhị Hà tới sông Đà. Pháp muốn phục thù, đem 30.000
đánh vào phía sau quân mình ở Phủ Đoan gần Tuyên Quang, không gặp quân kháng
chiến, chỉ phát giác và phá hủy được ít kho súng đạn rồi rút về, thiệt hại độ một
đại đội. Thất bại nữa.
Thất bại thứ ba ở miền Trung, phía ngoài Huế, bên con đường
Quốc lộ số 1, từ Vân Trình tới Quảng Trị, nơi mà quân Pháp gọi là "con đường
sầu thảm" vì bị phục kích rất thường. Pháp dùng cả thủy quân, lục quân với
rất nhiều phi cơ yểm trợ, tính bao vây, diệt trọn quân kháng chiến, nhưng quân
mình trốn thoát được; Pháp lục soát từng nhà một ở làng Phủ An, tìm được một ít
khí giới, bắt được một số tù binh, rồi vội vàng rút lui.
Sau cùng là trận Điện Biên Phủ. Điện Biên Phủ là một lòng chảo
dài 17 cây số, rộng 9 cây số, giữa có con sông Nam Youn, chung quanh là rừng
núi, nằm ở phía dưới Lai Châu, gần biên giới. Tháng 11-1953, Navarre dùng phi
cơ thả quân xuống chiếm lòng chảo đó để chặn đường quân mình qua Lào, rồi rút
quân ở Lai Châu về đó, xây cất đồn binh, sân bay. Từ tổng tư lệnh Navarre tới
tư lệnh miền Bắc Cogny và tướng chỉ huy Điện Biên Phủ là De Castries đều tin rằng
quân kháng chiến không sao hạ Điện Biên Phủ được, vì không đủ đại bác, không đủ
người để chở khí giới quân nhu tới nơi xa xôi đó; và nếu chở được đại bác thì
cũng bị hủy diệt vì phi cơ Pháp ở trên bắn xuống, đại bác Pháp ở lòng chảo bắn
lên. Họ không thể ngờ được rằng tướng Võ Nguyên Giáp cho làm cả trăm cây số đường
rừng, sửa sang 200 cây số đường nữa, đưa được năm sư đoàn và rất nhiều đại bác
tới Điện Biên Phủ mà chỉ nhờ sức của cả trăm ngàn người đi dân công với cả ngàn
chiếc xe đạp Peugeot cũ để thồ mỗi chiếc 200 ki lô trong rừng. Pháp về sau biết
vậy mà không sao chặn được vì phi cơ bay trên cao không thấy, còn đem quân vào
rừng để đánh thì không dám.
Đại bác tới, mình đào hang trong núi để giấu, hễ bắn xong vài
phát lại kéo thụt vào trong hang rồi lấy lá cây phủ miệng hang, Pháp không dò
ra được, mà có được thì máy bay cũng không có cách nào bắn phá được. Vậy là
chung quanh Điện Biên Phủ có vô số họng đại bác từ trên cao nã xuống sân bay, đồn
trại của địch, mà địch không có cách nào chống đỡ.
Trận Điện Biên Phủ bắt đầu từ 13-3-1954. Khi các căn cứ ở
phía Bắc: Gabrielle, Béatric, Anne Marie bị đại bác của ta san phẳng thì Điện
Biên Phủ rung rinh rồi. Tới phiên hai sân bay bị phá hủy nữa, sự tiếp tế chỉ
còn trông vào máy bay thả dù xuống - việc này rất mạo hiểm mà kết quả không được
bao vì máy bay không dám xuống thấp, một nửa số tiếp tế rớt vào khu vực của ta
- lúc đó quân đội Pháp như cua ở trong giỏ, sinh mạng đếm từng ngày. Pháp cầu
viện Mĩ, xin Mĩ dùng bom nguyên tử, Mĩ không chịu, xin Mĩ ồ ạt đem quân lính và
phi cơ sang, Mĩ cũng không chịu. Mà rốt cuộc ngày 7-5-1954, trong khi sáu nước:
Pháp, Nga, Trung Hoa, Mĩ, Anh, Việt, đương họp ở Genève để tìm một giải pháp chấm
dứt chiến tranh ở Việt Nam thì Điện Biên Phủ thất thủ, tướng De Castrie phải đầu
hàng.
Theo Saurel, Pháp thiệt hại 16.000 người trong số đó 1.500
người chết, 4.000 bị bắt làm tù binh. Chắc cuốn La guerre d’Indochine của
Saurel đã in lộn. Con số 10.000 tù binh Jules Roy đưa ra trong cuốn Điện Biên
Phủ (René Julliard - 1963) có phần đúng hơn.
Việt Nam, theo sự phỏng đoán của bộ tham mưu Pháp, thiệt hại
gần gấp đôi: từ 25.000 đến 30.000 người, trong số đó có từ 10.000 đến 12.000
người hi sinh.
Một tờ báo ngoại quốc bảo sau trận Waterloo chưa bao giờ Pháp
thua một trận lớn như vậy. Khắp thế giới đều phục sự anh dũng của người Việt.
De Gaulle, D’Argenlieu, Bidault có bị lương tâm cắn rứt không
nhỉ? Biết bao thanh niên bỏ mạng ở Việt Nam vì họ. Nhưng thời đại dân chủ này,
có một ông lớn nào chịu một trách nhiệm gì đâu? Giá như Nhật Bản thời trước thì
đã có dăm ba vụ hara kiri (tự mổ bụng) rồi.
° °
°
SÁCH TÔI DÙNG ĐỂ VIẾT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT - PHÁP
Sách ngoại quốc (Anh, Pháp) viết về chiến tranh Việt Pháp rất
nhiều, tôi đọc được trên một chục cuốn. Dưới đây là những cuốn chính, tôi dùng
làm tài liệu:
Philippe Devillers - Histoire du Viet Nam de 1940 à 1952 (Ed.
du Seuil - 1951)
Paul Mus - Sociologie d'une guerre (Ed. du Seuil - 1952)
Jean Lacouture et Philippe Devillers - La fin d'une guerre
(Ed. du Seuil - 1960)
Jean Lacouture - Ho Chi Minh (Ed. du Seuil - 1965). Les deux
Viet Nam (Payot -1967)
Bernard Fall - Guerres d’Indochine France 1946- 1954;
Amérique 1957 (Ed. J’ai lu - 1965)
Bốn tác giả trên đều là học giả hiểu dân tộc Việt Nam, không
hiếu chiến.
Jules Roy - La bataille de Dien Bien Phu (Julliard - 1963).
Tác giả rất ghét Navarre.
Lucien Bodard - La guerre d'Indochine (3 cuốn) (Gallimard -
1963)
Hai nhà trên là kí giả.
Louis Saurel - La guerre d’Indochine (Ed. Rouff - 1966)
Cuốn này cho ta một tổng quan sơ lược nhưng rõ ràng, khá đầy
đủ Có vài lỗi nhỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét