PHẦN II - SINH TRƯỞNG VÀ HỌC Ở BẮC (1935-1955)
CHƯƠNG X - LÀM SỞ THỦY LỢI MIỀN TÂY
CHƯƠNG X - LÀM SỞ THỦY LỢI MIỀN TÂY
TRÊN XE LỬA, NHỚ LẠI LẦN CẤT MỘ CHA TÔI
Mười một giờ trưa ngày rằm tháng chạp năm Giáp Tuất
(19-1-1935) mẹ tôi, em trai và một người em họ tôi đưa ra ga Hàng Cỏ để đáp xe
lửa vô Nam.
Hôm đó trời u ám, mưa phùn lất phất. Buồn vô hạn. Ở sân ga mẹ
tôi chỉ dặn tôi vào Nam thế nào cũng phải đi thăm ngay bác Ba tôi ở Tân Thạnh rồi
viết thư cho người biết để người yên lòng.
Anh Đỗ văn Hách cũng được bổ vào cùng một sở với tôi và cùng
đi một chuyến xe. Toa xe lửa hạng ba của chúng tôi vắng, chỉ có hai anh em tôi
và một người cháu gái của anh Hách bồng con nhỏ, tiễn anh tới Nam Định. Chúng
tôi chào hỏi nhau ít câu, rồi để họ nói chuyện với nhau, tôi ngồi riêng ra,
nhìn cánh đồng bằng phẳng, chưa trồng gì, còn trơ chân rạ, với làng xóm, bụi
tre, cây đa, vài mái đình chùa ở xa xa mà nhớ lại lần cải táng cha tôi từ ngoại
ô Hà Nội về Phương Khê, hồi tháng tám âm lịch bốn tháng trước.
Mẹ tôi đã tính toán từ trước, đợi tôi thi đậu rồi mới cải
táng, nhân dịp đó bảo các anh con bác tôi làm cỗ cúng tổ tiên và mời mấy người
thân trong họ, mấy bà lí, bà chánh trạc tuổi mẹ tôi ở trong làng và một làng
bên tới dự. Mẹ tôi lại biết tôi không khéo ăn nói, nên nhờ một người em cháu cô
cháu cậu với tôi, con cả chú Ba Đỗ, lớn tuổi mà có vẻ nho nhã, đứng ra tiếp
khách thay tôi.
Hôm đó thật vui. Mẹ tôi và mấy anh em tôi đi từ làng Thịnh
Hào rất sớm, xách một cái bồ nhỏ trong chứa hài cốt cha tôi, ra ô Câu Giấy đón
xe hàng đi Sơn Tây. Gió thu hây hẩy, hai bên đường ruộng lúa mơn mởn, chúng tôi
vừa đi vừa ăn cốm Vòng dẻo, thơm, ngọt. Không có món điểm tâm nào thanh bằng thứ
đó. Xế trưa tới Phương Khê, sắp hài cốt vô một tiểu sành rồi chôn trong một thửa
ruộng của nhà, trên đồng đỗ, nhìn ra bờ đê, chôn xong xây gạch bốn bên liền.
Công việc chuẩn bị kĩ từ trước, khoảng ba bốn giờ chiều đã xong, rồi về nhà thờ
làm lễ, tiếp khách khứa. Tôi thấy hôm đó mẹ tôi rất vui, rộng rãi với mọi người.
Người thật khéo xử, ghét cái danh hảo, cho nên tôi thi đậu mà người không khao
vọng, mà chỉ nhân việc cất mộ cha tôi, trình với vong linh tổ tiên, và họ hàng,
làng mạc bên chồng rằng người đã ở vậy nuôi con trên mười năm và con người đã
thành tài.
Ngồi trên xe lửa, ôn lại từng ngôn ngữ, cử chỉ của người hôm
đó tôi càng phục: người không được học mà tính toán việc gì cũng chu đáo, xử sự
đàng hoàng, khiêm tốn, mềm mỏng mà tự trọng, bà con bên chồng không ai không
kính.
Rồi tôi lại nghĩ sau khi tôi đi, cảnh nhà còn buồn hơn nữa. Cả
ba em tôi đều không có nghề gì, em trai tôi lại lông bông, không biết mẹ tôi sẽ
tính sao. Tôi định vào làm trong Nam ít năm rồi xin đổi về Bắc, cưới vợ ngoài
đó, chỉ có cách đó nhà mới vui hơn được. Tôi tưởng người cũng mong vậy. Không
hiểu sao một năm sau người lại có ý cho tôi ở luôn trong Nam.
HÀ NỘI - SÀI GÒN - LONG XUYÊN
Xe tới Thanh Hóa thì tối, nên tôi không được thấy phong cảnh
miền bắc Trung phần. Từ Tourane khí hậu khác hẳn: trời nắng ấm, trong trẻo,
không ảm đạm như ở Bắc, chúng tôi lên xe ca (car) vì khúc này chưa có đường xe
lửa. Trong cuốn Tương lai ở trong tay ta, tôi đã ghi cảm tưởng và nỗi lòng tôi
như sau:
"Hồi đó, một ngày gần Tết, một ông bạn đồng song và tôi
ngồi chiếc xe "ca" vượt cảnh núi trùng trùng điệp điệp trên quốc lộ Số
1 để vào Sài Gòn nhận việc, vì con đường xe lửa "xuyên Đông Dương"
chưa hoàn thành. Qua những rừng dừa ở Tam Quan, ở Sông Cầu, rồi leo ngọn Đèo Cả,
nhìn xuống biển khơi một màu ngọc thạch, tôi thấy trong lòng nổi lên một khúc
nhạc tựa như khúc Xuân tình. Dưới con mắt tôi, cái gì cũng mới: từ trời biển,
núi sông đến cô bạn đồng hành cười luôn miệng và giọng líu lo như tiếng chim,
nhất thiết đều khác hẳn với quê hương chúng tôi mà tươi sáng quá chừng! Lòng
tôi cũng mới: từ nay bắt đầu bước vào đời, được bay bổng như những con hải âu lấp
loáng ở ngoài Nam Hải kia, được tự do tạo cuộc đời theo ý muốn của mình. Nhớ lại
tuổi thiếu niên bị câu thúc và thiếu thốn, tôi có cảm tưởng rằng chiếc xe ca mỗi
giờ mỗi phút đưa tôi xa cái thời đó cũng như xa cảnh mưa phùn ảm đạm ở Bắc Việt
mà chúng tôi mới từ biệt ngày rưỡi trước.
"Nghĩ tới tương lai, tôi không hề lo lắng (...) mà trước
mặt chỉ thấy hăng hái và hi vọng, tràn trề hi vọng. Có ít nhất là ba chục năm để
sống, sẽ gặp những thời thế mới, hoàn cảnh mới, sẽ kiếm được tiền, học hỏi
thêm, và sẽ hoạt động để đóng một vai trò nào đây. Có gì thú cho bằng, kích
thích cho bằng nữa? Tôi nghĩ thầm: ở trường ra ai cũng như ai, đều sắp hàng ở
cái vạch trắng đánh dấu mức khởi hành của cuộc đua, thử xem sau này ai tới trước
và tới đâu? Chiếc xe ca vẫn lăn đều đều trên đường tráng nhựa, một bên là dãy
Trường Sơn, một bên là biển cả, gió khơi lộng vào tóc, hương rừng ùa vào phổi.
Đó là tâm trạng của tôi hồi đó như vậy".
Tới Nha Trang chúng tôi bỏ xe hơi lên xe lửa. Tám giờ sáng
hôm sau đến Sài Gòn. Một anh bạn học, Lê Trọng Minh, đợi chúng tôi ở sân ga,
đưa chúng tôi về Đa Kao. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là ga Sài Gòn nhỏ quả, kém
xa ga Hàng Cỏ; mà Sài Gòn rất tươi sáng, náo nhiệt: ánh vàng tưng bừng trên
cành, trên những ngọn sao, dầu, cao vút, thẳng như cây cột, khiến tôi nhớ phố
Lò Sũ ở Hà Nội; đường phố nhộn nhịp người qua lại, phụ nữ hầu hết bận áo cụt,
chưa quen mắt nên tôi thấy chướng.
Nghỉ ở Đa Kao một chút - mấy từ này tôi nghe lạ quá, như
không phải tiếng Việt - rồi tôi qua Khánh Hội ở trọ nhà một người em họ tên là
Quýnh làm thư kí tại ngân hàng Đông Dương. Giờ đó trời đã nóng như đầu hè ở Bắc.
Hôm sau lại sở nhận việc, chúng tôi được biết chỉ ở Sài Gòn hơn mười bữa rồi ăn
Tết xong, xuống làm ở Long Xuyên. Tôi liền viết thư cho mẹ tôi hay và báo tin
cho bác Ba tôi ở Tân Thạnh rằng ba mươi Tết tôi sẽ xuống thăm người.
Ở Sài Gòn non nửa tháng đó, tôi đã bắt đầu ngán "Hòn ngọc
Viễn Đông". "Đủ mọi giống người hỗn tạp, đa số là con buôn; nóng, bụi
và ồn; muốn kiếm một chỗ thanh tĩnh có chút di tích dể ôn lại dĩ vãng thì không
biết kiếm ở đâu, và suốt ngày thâu đêm, chỉ thấy người ta ăn uống, đánh tứ sắc
và ca vọng cổ".
Sáng sớm 30 Tết, chú Quýnh và tôi lại chợ Bến Thành lên xe đò
1 để đi Mỹ Luông. Trên đường tôi để ý nhận thấy miền Nam nhiều sông rạch quá,
cho nên nhiều cầu, nông dân ít người lam lũ, và ruộng nhiều chỗ chưa gặt xong,
còn đương đập lúa ở ngoài đồng, vài chỗ có những đống lúa mới đập chưa chở về
nhà. Từ cảnh vật đến người, đâu đâu cũng có vẻ tươi sáng, vui vẻ, thoải mái.
Đường dài quá, trên trăm rưỡi cây số, qua mấy thị xã, mấy chợ
quê rồi mà vẫn chưa tới nơi, tôi sốt ruột. Khoảng 12 giờ trưa xe mới ngừng ở chợ
Mỹ Luông và chú Quýnh và tôi xuống đò qua làng Tân Thạnh ở bờ bên kia sông Tiền
Giang. Đi bộ một quảng nữa, gặp một người anh con bác tôi, anh Việt Châu đi
đón.
BÁC BA TÔI VÀ LÀNG TÂN THẠNH
Tới nhà, bác Ba tôi nắm chặt tay tôi, mừng biết bao. Đã mấy
năm nay bác cháu anh em chỉ biết nhau trong bức thư chứ đâu đã biết mặt. Cả nhà
xúm lại chung quanh chúng tôi.
Bác trai tôi cũng thấp người, da trắng như cha tôi, có phần đẫy
hơn; trán cao, mặt vuông, miệng rộng - nghe nói hồi trẻ môi son nữa - tướng
phương phi, phúc hậu, tính tình nghiêm hơn bác Hai, nhưng có phần khoan hơn cha
tôi. Bác gái tôi cũng thấp, trắng trẻo, ra vẻ nhàn hạ phong lưu, không cực khổ,
tháo vát như mẹ tôi, tính tình thành thật, dễ dãi, rộng rãi.
Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục tôi đã chép khá kĩ về bác Ba
tôi, đây chỉ xin tóm tắt vài nét chính. Học giỏi, có tài văn thơ, thi Hương thử
một lần rồi bỏ, gia nhập Đông Kinh nghĩa thục, cưới con gái (cô Năm) cụ cử
Lương Văn Can, thục trưởng, cả hai vợ chồng đều dạy giúp nghĩa thục. Hiệu là
Phương Sơn, bạn đồng chí trong nghĩa thục gọi là Tiểu Phương để phân biệt với
bác Cả tôi là Đại Phương, chơi thân với cụ Đỗ Chân Thiết (Đỗ Cơ Quang), thân phụ
Đỗ Bàng và Đỗ Thị Tâm, nhưng chí hướng mỗi người một khác, bác tôi ôn hòa hơn.
Nghĩa thục bị đóng cửa thì bác gái trước và con trai mới vài
tuổi đều chết, bác tôi bỏ Hà Nội, lẻn vào Sài Gòn, định ở Nam ít tháng để liên
lạc với các đồng chí rồi sẽ qua Xiêm, không ngờ tàu vô Vũng Tàu thì hay tin đêm
trước Phan Xích Long công phá Khám Lớn Sài Gòn (1913), mật thám canh gác rất ngặt,
bác tôi lại phải lẻn vào một miền hẻo lánh ở ven Đồng Tháp Mười 2. Ở đó, người
tiếp xúc được với vài đồng chí cũ và mới, liên lạc được với cụ Lương Văn Can
đang bị an trí ở Nam Vang, nhưng thấy thời cơ chưa thuận tiện, người tạm trú tại
nhà một người có Nho học và có uy tín trong làng Tân Thạnh để dạy học, được người
trong miền kính mến. Rồi người cưới vợ, được người quen chỉ cách cho, xin khẩn một
khu ruộng - thời đó Đồng Tháp còn hoang vu - thành một điền chủ hạng trung, có
độ hai trăm héc-ta, chỉ một nửa là làm lúa sạ được. Vốn tri túc, người không
khuếch trương thêm, tiêu khiển với mấy chậu cảnh, với việc dạy học và làm thuốc
giúp bà con trong vùng. Danh tiếng lan xa, đa số các nhà giàu sang ở Long
Xuyên, Sa Đéc đều nhờ người trị bệnh. Tóm lại, người là một ẩn sĩ phong lưu,
nhà cầm quyền Pháp ở Long Xuyên có lần muốn mua chuộc người bằng lợi lộc, người
từ chối; họ thấy người không bạo động, nên để yên. Chính người đã lấy số Tử vi
cho tôi khi mới sanh. Năm đó (1935) người 53 tuổi, còn mạnh lắm.
Làng Tân Thạnh ở giữa miền Hồng-Cao (Hồng Ngự - Cao Lãnh) mà
tôi đã tả trong bài Tựa cuốn Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu, nổi tiếng là
đất văn học và cách mạng trong vùng. Văn học thì xưa có một số nhà Nho, học trò
cụ Tú Thường ở Cái Vừng; khi tôi tới, mấy nhà Nho đó còn sống, con cháu họ đã
theo Tây học, có người qua Pháp đỗ kĩ sư điện, hoặc cử nhân văn chương; đặc biệt
là có một người xuất thân trường nữ học Gia Long, thiếu nữ đầu tiên trong tỉnh
năm 1928 có bằng Cao đẳng tiểu học. Cách mạng thì phái cổ có cụ Hồ Nhật Tân hướng
ứng phong trào Đông kinh nghĩa thục, phái mới có bốn năm người kháng Pháp, theo
đảng Cộng Sản. Làng lại giàu có: đầu thế chiến thứ nhất chỉ có những nhà lá rải
rác trên bờ rạch Đốc Vàng thượng 3, sau nhà là lau sậy; phương tiện giao thông
chỉ có ghe, xuồng, từ làng ra tỉnh lị Long Xuyên mất một ngày, lên Sài Gòn mất
một tuần; vậy mà chưa đầy hai chục năm sau, dân chúng đã khai phá sâu vào được
mấy cây số suốt hai bên bờ rạch, cất được mấy ngôi nhà đúc và vô số nhà sàn mái
ngói, phương tiện giao thông đã có ca-nô. Nhiều điền chủ có ba trăm héc-ta ruộng
hoặc hơn.
Nhà bác tôi chỉ là một nhà sàn mái ngói vào bực trung trong
làng, trước có sân rộng trồng hoa nhìn ra rạch Đốc Vàng thượng, một bên là vườn
xoài, sau lưng là một hàng tre. Nhà rộng 9 thước, gồm hai lớp: lớp ngoài sâu độ
tám thước, lớp trong độ sáu thước. Bên hông nhà là một lẫm cũng bằng cây, khá lớn,
vừa để chứa lúa vừa để chất các đồ làm ruộng.
Hôm đầu, ngồi xe mệt mà không được nghỉ, phải hầu chuyện bác
tôi và nói chuyện với hai người con trai lớn của bác: anh Xuân Tăng đương học
ban tú tài ở Cần Thơ, và anh Xuân Thiếp đậu bằng tiểu học rồi ở nhà học chữ
Nho, theo nghề Đông y.
Tối đó bác tôi đưa tôi và chú Quýnh đi chào mấy vị lớn tuổi
và có danh vọng trong họ bác gái tôi: một bà cụ con một vị Cai tổng đã khuất,
mà thời trước Cai tổng miền này có uy quyền ngang với phủ huyện; dân trong tổng
còn sợ hơn sợ chủ quận vì chủ quận ở xa; một vị Hương Cả (cũng như Tiên chỉ ở Bắc)
có học Nho, vào hạng khá giàu. Sáng hôm sau, mùng một, bác tôi đưa chúng tôi đi
thăm cảnh trong làng rồi xuống chợ Tân Phú trên rạch Đốc Vàng hạ, vào thăm ông
Phủ Nghĩa (phủ hàm), người giàu nhất nhì tỉnh Long xuyên. Ông năm đó khoảng bảy
chục tuổi mà còn mạnh, tướng mạo phương phi. Bác tôi tuy không thích làm giàu
nhưng trọng những người tay trắng làm nên như ông (miễn là không làm giàu một
cách tàn nhẫn, tí tiện), khen ông là giỏi tính toán, khéo cư xử, không khoe
giàu, biết xét người. Ông cũng có biệt nhãn với bác tôi vì tư cách, học thức.
Ông phủ hồi nhỏ nghèo, không được học, nhưng thông minh, cần
kiệm, cố gây một số vốn rồi xin khẩn đất hoang, gặp thời, làm đâu trúng đấy, mấy
chục năm sau có khoảng ngàn mẫu ruộng, dinh cơ ở Tân Phú gồm một nhà lầu nền
đúc, nhiều nhà một tầng cũng nền đúc, mấy cái lẫm lúa, vài nhà máy xay lúa, tất
cả choán một khu rộng trên bờ rạch Đốc Vàng hạ. Trước nhà luôn luôn có mấy chiếc
ghe lúa đậu, xuồng và ca-nô chật bến. Ông cất cho làng một ngôi chợ gần dinh cơ
của ông và nhiều dãy phố cho mướn ở chợ Mĩ Luông. Có ba người con trai, đều vào
hạng biết làm ăn, chứ không phá của vì ông biết dạy con; một người làm cai tổng,
một người làm hội đồng tỉnh. Dân trong miền không oán ghét gia đình đó vì họ
không cướp bóc, hà hiếp ai.
Coi dinh cơ của họ đồ sộ, người ăn kẻ làm tấp nập, từ trên
nhà tới dưới bến, trông cũng vui mắt, nhưng tôi không thích mà thích một nhà
sàn có hoa cỏ, cây cao bóng mát hơn.
Chiều mùng hai tôi phải từ biệt bác tôi để qua Chợ Mới, ngủ tại
nhà một người anh họ, anh Thiệm, ở Phương Khê vào đây làm ăn từ mấy năm trước,
có một sạp bán vải ở chợ. Sáng sớm mồng ba tôi với anh Thiệm đi đò đạp qua Long
Xuyên. Đò là một chiếc ghe dài chở được ba bốn chục người và nhiều hàng hóa,
nhưng không có chèo mà có một xa quạt ở phía sau do bốn người đạp. Đò đi rất chậm,
lại ghé nhiều nơi đón khách, nhờ vậy tôi được coi phong cảnh hai bên bờ rạch
Ông Chưởng (Chưởng binh Lễ tức Nguyễn Hữu Cảnh 1650-1700). Miền này phong phú,
nhà cửa san sát, hầu hết là nhà sàn mái ngói, một số là nhà nền đúc. Nhà nào
cũng có vườn trồng xoài, mận đẹp nhất là mai vàng.
Mười một giờ trưa mới tới Long Xuyên, gặp anh Thái và anh
Hách ở Nha Trang vào, ba chúng tôi cùng học một lớp, nay cùng làm một sở. Lại gặp
một hai thầy họa đồ (Opérateur) giúp việc cho chúng tôi nữa. Mướn phòng ngủ rồi
rủ nhau đi coi thị xã. Thành phố nhỏ mà buồn, đi độ một giờ là hết. Chia làm
hai khu vực: khu thương mãi ở phía Nam gồm một nhà lồng (chợ) ở sau nhà việc
(cơ sở hành chánh) của làng Mỹ Phước, và gần bờ sông Hậu Giang. Chung quanh chợ
có ba bốn dãy phố buôn bán, hầu hết là của Hoa kiều, có một đường lát đá dọc
theo sông Hậu đưa xuống Cái Sơn, ngoại ô, cảnh ở đây đã như nhà quê rồi. Khu
hành chánh ở phía bắc; một cây cầu sắt bắt qua rạch Long Xuyên nối hai khu với
nhau. Khu hành chánh gồm các công sở như Tòa bố (tỉnh đường), sở Bưu điện, sở
Công chánh, Địa chánh, Bệnh viện, trường tiểu học Nam, Nữ... Chỉ có hai con đường
chính song song nhau: Gia Long và Lê Lợi, với vài con đường ngang, nhỏ. Đường
Lê Lợi có nhiều phố lầu của công chức gần bờ hồ và sông Hậu, nhiều cây cao bóng
mát, như cây teck, cây dái ngựa (?) mùa xuân hương thơm ngào ngạt. Đường Gia
Long vắng vẻ, hầu hết là nhà sàn cách nhau có khi tới trăm thước; nét đặc biệt
là có một con kinh ở bên đường và nhiều cầu gỗ đưa từ đường vào nhà, nhà nào
cũng có vườn rộng; lắm chỗ còn bỏ hoang. Ngày nay đường đó đã đông nghẹt nhà lớp
trước lớp sau, có chỗ tới ba lớp; kinh đã lấp, cầu đã dỡ và đường đã mở rộng
thành một đại lộ lớn nhất thị xã.
CÔNG VIỆC CỦA CHÚNG TÔI
Sáng hôm sau chúng tôi lại sở Trường tiền (Công chánh) lãnh
việc rồi dọn đồ đạc, máy móc xuống ghe (mỗi người trong ba anh em tôi được một
chiếc ghe, loại ghe hầu dài ba bốn thước, rộng trên một thước), chèo xuống Ô
Môn (cách Long Xuyên khoảng bốn chục cây số trên đường đi Cần Thơ) để tối đó bắt
đầu làm việc.
Công việc của chúng tôi là đo mực đất cao thấp (nivellement) ở
miền Tây, từ Châu Đốc, Long Xuyên qua Rạch Giá, xuống Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau; từ mực đất đó mà đo xuống mực nước kinh rạch để tính
ra đường nước chảy, khi thảo những kế hoạch thủy lợi.
Ba anh em tôi mỗi người chỉ huy một đội, đi đo một miền.
Chúng tôi đo theo các đường lộ và bờ kinh, rạch. Công việc phải làm ban đêm, có
hai kíp thay phiên nhau, một kíp từ sáu giờ chiều tới nửa đêm, một kíp từ nửa
đêm tới sáu giờ sáng. Mới đầu dùng đèn điện, bất tiện, sau dùng đèn khí đá
(Acétylène). Tôi cho việc làm đêm đó là một sáng kiến không có lợi của các kỹ sư Pháp sở tôi.
Mỗi đêm chúng tôi đo được từ ba đến bốn cây số, đo tới đâu,
ghe dời chỗ theo tới đó, cứ như vậy tiến hoài, có khi phải trở lại hai ba lần một
con đường cũ.
Vào mùa mưa thì cực vô cùng, nhất là ở những miền còn hoang
như Chắc Băng - Cạnh Đền, miệt thứ 4, U Minh (Rạch Giá) hoặc Thới Bình (Cà
Mau), kinh Gãy (Đồng Tháp Mười)... Vì đất sình lầy, trơn, đâu đâu cũng có đỉa,
muỗi, vắt; có khi phải vạch lau sậy mà đi trong đêm tối.
Nhưng mùa nắng mà đi do dọc theo những lộ và rạch miền Sa
Đéc, Cần Thơ thì tuyệt thú; không sao quên được ánh trăng vằng vặc trên rạch
Cái Răng, Bình Thủy, không khí mát mẻ, hiu hiu gió, thoang thoảng hương sao, hương
bưởi, hương mù u, và tiếng đàn kìm não nùng văng vẳng gảy bản vọng cổ. Miền này
quả là nhiều trăng, nước, hương và nhạc.
Một thú nữa là được dời chỗ hoài, mỗi ngày ăn chợ một nơi,
hôm trước ở Long Xuyên thì hôm sau đã tới Tầm Bót. Làm xong "ca" sau,
sáu giờ sáng, thì chợ đã họp đông rồi, tôi lại mua những thức ăn đặc biệt miền
Nam như bánh ú, bánh da lợn, bánh bò, dà châu quẩy (bánh củ cải chiên), bánh
cam với ít trái cây tùy mùa: soài, xa pô ti, mảng cầu Xiêm... để ăn điểm tâm
(tôi không thích hủ tiếu, cà phê; phở Bắc không có).
NGƯỜI NAM
Tôi làm quen được với nhiều người. Tới tỉnh nào cũng gặp được
những bạn đồng sự, họ thường lớn tuổi, giàu có; người nào cũng mỗi năm thu lúa
ruộng được ngàn giạ là ít, theo giá thời đó như vậy là họ có thêm mỗi tháng khoảng
100 đồng, bằng lương của họ; ngoài ra họ còn những nguồn lợi khác. Họ hiếu
khách, đối với bọn trẻ chúng tôi rất rộng rãi, lái xe hơi đưa đi chơi, tiệc
tùng liên miên ở tửu lâu: như vậy đỡ bận cho vợ con mà lại tự do hơn.
Rồi tới các điền chủ hạng "bự" (giàu lớn) mà già,
dinh cơ đồ sộ hơn ông phủ Nghĩa ở Đốc Vàng (Long Xuyên) nhiều, thì tôi "viễn
chi"; nhưng các con họ, các công tử, các "cậu" đã đi học ở Sài
Gòn hay Hà Nội hay bên Pháp ít năm, chẳng được bằng cấp gì, về nhà coi ruộng
cho cha, gặp chúng tôi mừng lắm vì có người để "nói chuyện". Đa số sống
lêu bêu suốt ngày không làm một việc gì, bày ra ăn uống rồi đàn ca, coi đá gà,
đá cá, kiếm gái, hút xách... Đời họ sao buồn thế! Tôi gặp một lần cho biết
thôi, không trở lại.
Một hạng người mà tôi tò mò muốn biết hơn: hạng cư sĩ. Thời
1933-1938, phong trào tôn giáo ở Nam đương lên: chỗ nào cũng có những đàn cầu
cơ của đạo Cao Đài; thuyết pháp của Phật giáo; thị trấn nào cũng có một nhóm
trí thức theo Thông thiên học (Théosophie). Về tôn giáo, ở trường ra tôi mù tịt.
Tôi mượn sách báo của họ đọc cho biết, khen sư Thiện Chiếu lí luận rành rẽ;
ghét cuốn Đạo giao (không nhớ của ai) chỉ nói về tà thuật chứ không giảng về
triết lí; tìm hiểu thuyết luân hồi theo Thông thiên học; nhưng vẫn cho rằng đạo
Khổng thiết thực hơn cả.
Tôi vào thăm một nhà cách mạng, cụ Võ Hoành, trong Nam gọi là
cụ cử Võ, bạn của bác Ba tôi ở Đông Kinh nghĩa thục, lúc đó đang bị an trí ở Sa
Đéc. Tôi đã chép cuộc tiếp xúc với cụ trong phụ lục cuốn Đông Kinh nghĩa thục.
Tôi đã thấy đời sống của những nông dân cất vội một cái chòi
mỗi chiều chừng ba thước trên một bờ kinh để "làm" một khoảnh đất mới,
thất bại thì dỡ nhà, chở nồi niêu, chén bát, đồ đạc với con heo xuống một chiếc
xuồng ba lá chèo đi kiếm đất khác. Đời họ rất vất vả nhưng không bao giờ đói vì
có cá, tôm, rùa đem đổi lấy gạo được. Cá Đồng Tháp nhiều vô kể, chỉ thua cá Biển
Hồ (Cao Miên), mà Đồng Tháp chính là một biển hồ thứ nhì thông với biển hồ thứ
nhất bằng sông Cửu Long và sông Tonlé Sap.
Tôi đã có lần được một bạn rủ đi nghe một cuộc đàn ca trên bờ
rạch Bình Thủy. Một căn nhà lá nhỏ cất trên một khu đất vừa mới phát, còn gốc
lau sậy. Ngoài sân phơi nhiều quần áo của hạng phụ nữ sang mà trong nhà đồ đạc
rất sơ sài: một cái bàn con, vài cái ghế, một bộ ván trải chiếu. Trên vách treo
một cây đàn kìm. Năm sáu cành sậy xuyên qua vách lá hở, đâm tua tủa vào một góc
phòng. Người chồng trẻ, dáng dấp một thư sinh, bận bộ bà ba lụa đen, đun nước
pha trà Thiết Quan Âm tiếp chúng tôi. Vợ bận áo dài, nhỏ nhắn, nước da trắng mịn,
vẻ mặt thanh tú, dịu dàng, hỏi thăm chúng tôi vài câu, rồi anh bạn tôi lên dây
cây đàn kìm, gảy khúc Phụng cầu hoàng, nàng cất tiếng họa theo. Ngón đàn của
anh mùi, mà giọng nàng thanh, ấm. Nàng ngước cặp mắt long lanh lên ca, cặp mắt
bồ câu tuyệt đẹp, hai bàn tay búp măng đặt lên dùi, móng tay hồng hồng; lúc này
tôi mới thấy nét mặt nàng phảng phất buồn. Bạn tôi vừa đàn vừa đăm đăm nhìn
nàng và mỗi khi xuống một nhịp nào, giọng đàn, giọng ca thật hòa hợp nhau, thì
hai người cùng mỉm cười ngó nhau và người chồng ngồi bên cũng mỉm cười. Sự hân
hoan tương đắc đó, chỉ hạng nghệ sĩ mới cảm được. Tôi tự thấy lúc đó là người
ngoại cuộc, mà chính họ cũng chẳng để ý gì đến tôi.
Đàn được vài bản, bạn tôi treo đàn trả lại chỗ cũ, rồi từ biệt
chủ nhân ra về. Vợ chồng đó là một cặp nghệ sĩ, mê nhau rồi bỏ nhà ra đi, sống
cuộc đời giang hồ; vì có tài mà lại đứng đắn, lễ độ, nên được nhiều người mến,
thương tình giúp đỡ; và họ biết giữ tư cách của họ. Người vợ sau bị giặc Pháp
giết, người chồng theo kháng chiến. Truyện họ tôi đã kể rõ trong tập Con đường
thiên lí.
Tôi đã vào những nhà sàn ba gian lợp ngói hay lá thấp lè tè,
tối om om và thấy nhà nào căn đẹp nhất cũng dành cho việc thờ phụng tổ tiên mà
những đồ quí nhất cũng là đồ thờ; bên cạnh bàn thờ, tôi lại thường thấy treo
hình các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Chủ nhân để búi tóc, bận bà ba đen,
luôn luôn nhã nhận tiếp tôi, và khi thấy tôi chăm chú nhìn các đôi câu đối,
đoán rằng tôi biết chút ít chữ Hán thì không e dè gì cả, đọc cho tôi nghe thơ
văn của các nhà cách mạng hoặc hỏi tôi truyện Mã Chí Ni, Gia Lý Ba Đích (tức
Mazzini và Garibaldi, hai nhà yêu nước người Ý) trong bộ Ẩm Băng thất của Lương
Khải Siêu. Các nhà Nho đó rất nghiêm khắc trong việc dạy con, rất trọng cổ tục,
được dân làng kính nể. Và tôi cho rằng sinh lực miền Nam này dào dạt ở thôn
quê, trên bờ những con rạch mát rượi bóng dừa, trên những cánh đồng bát ngát
bông sen và bông súng, trong những căn nhà sàn vách ván này, chứ không phải
trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, trên đường Catinat hay Tổng đốc Phương.
CẢNH NAM
Hai năm lênh đênh trên sông rạch, tôi được biết gần khắp miền
Tây, mấy năm sau nhờ đi kinh lí khi bằng xe hơi, khi bằng tàu thủy của sở, tôi
lại biết thêm được ít nhiều về miền Đông nữa và tôi nhận thấy Nam Việt không bằng
phẳng, đơn điệu, buồn tẻ như ta tưởng lầm khi nhìn bản đồ in trong các sách địa
lí. Nó chỉ rộng bằng nửa Bắc Việt mà có rất nhiều miền khác nhau về địa hình,
phong cảnh, phong tục, lối sống, nhìn bề ngoài không nhận ra dược.
Miền Tây, từ vịnh Thái Lan vô, có đất Hà Tiên, quê hương của
thi sĩ Đông Hồ, mà chính thi sĩ đã giới thiệu với chúng ta như sau, trong cuốn
Văn học Hà Tiên:
"Ở đó kì thú thay, như gồm hầu đủ hết.
Có một ít hang sâu động hiểm của Lạng Sơn. Có một ít ngọn đá
chơi vơi giữa biển của Hạ Long. Có một ít núi vôi của Ninh Bình, một ít thạch
thất sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít
chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm của Thuận Hóa. Có một ít Đồ Sơn, Cửa Tùng, có
một ít Nha Trang, Long Hải.
Ở đây không có một cảnh nào to lớn, đầy đủ; ở đây chỉ nhỏ nhắn,
xinh xinh, mà cảnh nào cũng có".
Hồi xưa nó là một tiểu vũ trụ biệt lập, rất hợp cho kẻ nào có
chí vẫy vùng, muốn nghênh ngang một cõi như Mạc Cửu.
Tiến vô trong - về phía Đông - xa xa vài chục cây số, xưa là
cánh đồng lầy, ta gặp dãy núi Thất Sơn dài 30 cây số, rộng 17 cây số mà Nguyễn
Văn Hầu đã tả trong cuốn Nửa tháng trong miền Thất Sơn. Một khu núi đá có đất,
ngọn cao nhất 716 thước, cây cối xanh tốt, leo lên ta gặp những hang, động của
các tu sĩ sống cô liêu, làm bạn với chồn, khỉ, hàng tháng không xuống tới chân
núi; không tiếp xúc với ai, họ âm thầm, lầm lì sống với một bình nước mưa hay
nước suối, một nhúm gạo, vài trái cây rừng. Lâu lâu ta gặp một người, ta nhìn
kĩ mới nhận ra là phụ nữ, vì họ búi tóc, bận một bộ bà ba vải đen, đi chân
không, vai đeo một cái đãy, ngực bó lại cho khỏi lộ; họ mạnh dạn bước như đàn
ông, chỉ trong nét mặt là để lộ một chút nữ tính mà người tính mắt mới thấy. Ta
có cảm tưởng họ đăng sơn để đem một tin tức cho sư phụ. Miền này xưa kia có nhiều
nhà chân tu ái quốc, đệ tử của Phật Thầy Tây An trong phái Bửu Sơn kì hương, một
số ở làng Ba Chúc, một làng có rất nhiều chùa nền đá, tường gạch mà mái lá; đàn
ông, đàn bà ăn mặc y như nhau, rất trọng hiếu, nghĩa.
Dưới chân núi, khắp trong vùng này có nhiều ông "đạo"
kì cục: ông thì nằm suốt năm, người ta gọi là Đạo Nằm; ông thì chỉ ăn ớt, gọi
là Đạo Ớt; ông thì nói gì cũng chỉ "ừ", gọi là Đạo Ừ... ông nào cũng
có một số nông dân chất phác theo, cung phụng đủ thứ.
Núi cuối cùng là núi Sam, lẻ loi, khá cao, nhưng ít cây cối,
cách thị xã Châu Đốc năm cây số. Năm nào lụt lớn, cả miền bị ngập, thì núi Sam
nổi lên như một hòn giữa biển, và tối đến, lưng núi lốm đốm những ngọn đèn đỏ,
khiến ta nhớ cảnh Hương Cảng in trong các tập quảng cáo du lịch.
Xuôi dòng sông Hậu, tới Long Xuyên. Cả miền này năm nào cũng
ngập nước một hai tháng, xưa chỉ trồng lúa sạ; nhà toàn là nhà sàn. Cá tôm rất
nhiều, nhất là cá linh, ngon như cá mòi, có nơi ăn không hết, làm nước mắm cũng
không hết, phải dùng làm phân bón. Nửa thế kỉ trước, mùa nước rút, có những rạch
lúc nhúc cá linh, người ta chỉ việc xuống xúc cơ man cá.
Xuôi xuống nữa tới Cần Thơ, Sóc Trăng, vựa lúa của miền Tây
mà cũng là của Nam Kỳ. Mùa nước lớn miền này không bị ngập, đất tốt, dân đông,
vườn tược xum xuê, trái cây nhiều, đời sống rất dễ dàng, vui vẻ, đúng với câu
"gạo trắng, nước trong". Tuy cùng một miền mà Sóc Trăng có nhiều người
Việt gốc Miên, cho nên phong tục và phong cảnh hơi khác. Thỉnh thoảng ta gặp những
chùa Miên ở trên một giồng trồng toàn sao.
Giáp Cần Thơ, phía tây là Rạch Giá với cảnh rừng bần ở bờ biển,
rừng tràm ở U Minh. Dân U Minh sống bằng nghề "ăn" ong, đốn tràm, bầy
chim (xưa còn bắt sấu nữa), trồng khóm, lúa. Không biết những "sân
chim" nay còn không?
Phía nam Sóc Trăng là Bạc Liêu, miền nước mặn. Một cánh đồng
lúa bát ngát, bờ biển có ruộng muối, vườn nhãn. Miền này có nhiều điền chủ lớn,
như hội đồng Trần Trinh Trạch; và nổi tiếng vì một hạng công tử tiêu tiền của
cha mẹ như rác, ngông tới nổi ngồi trong rạp hát, đốt một tấm giấy xăng (100 đồng
thời trước 1930) cho bạn tìm một tấm giấy năm đồng! Cảnh Bạc Liêu thật tẻ: bằng
phẳng quá, trơ trọi quá; đường xe hơi và con kinh chạy theo sát nó thẳng tắp và
chói lòa ánh nắng; đường thì nhiều cát mà kinh thì nhiều cá chốt.
Cuối cùng là Cà Mau với những rừng đước âm u, những rạch nước
đỏ như nước trà đậm, do lá cây mục. Sản phẩm chỉ có cá, tôm, cua và than đước.
Đó là phía sông Hậu. Phía sông Tiền, hữu ngạn là miền của Phật
giáo Hòa Hảo, ở quận Tân Châu, tín đồ mặc toàn đồ đen, đàn ông để tóc xõa xuống
vai; tả ngạn là cánh đồng Tháp Mười rộng ba chục cây số, lên tới biên giới
Miên, dài năm sáu chục cây số, từ Hồng Ngự tới Tân An, mới khai thác được một dải
năm mười cây số từ bờ sông Tiền vào, còn thì hầu hết là cỏ lát, từ phi cơ nhìn
xuống chỉ thấy một tấm thảm xanh đậm với những đường ngang, đường dọc lấp lánh
như bạc, tức những con kinh đào thông ra sông Tiền. Đời sống ở đây khác hẳn ở Cần
Thơ, Sa Đéc. Dân tứ xứ tụ làm ăn, người nghèo chỉ có một cái xuồng, lựa được miếng
đất nào thì tấp vào, cất tạm cái chòi bằng lá rồi bắt đầu khai phá, khá thì ở
lâu, không khá thì dời đi nơi khác. Miền này có thể gọi là miền "Far
West" (cực Tây) của Nam Kỳ.
Chỉ một miền Tây mà gồm bấy nhiêu khu vực khác nhau xa như vậy.
Miền Đông cũng rất thay đổi, nhưng tôi chỉ đi ngang qua, không ở lâu. Cảnh Biên
Hòa gợi cho tôi nhớ cảnh quê Bắc: cũng ít sông rạch, nhiều đường đất; trên đường
thỉnh thoảng gặp những chiếc xe bò và một người gánh đồ như ở Bắc; làng xóm
không trải ra theo các bờ rạch mà tụ lại, có hàng rào. Thủ Dầu Một có nhiều vườn
cao su tối tăm, lạnh lẽo, khiến tôi nhớ cuốn Bão rừng của Nguyễn Văn Xuân và
thương cảnh dân Bắc vào dây kiếm ăn mà họ bảo là "đi Tân thế giới".
Rồi có cánh núi Tây Ninh, núi Bà Rá với những thánh thất Cao
Đài (kiến trúc tựa như nhà thờ Notre Dame de Paris), những tín đồ mặc toàn đồ
trắng, khác hẳn với Hòa Hảo; có cảnh biển Phước Hải, Long Hải, Gò Công. Tôi
quên chưa kể những tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, mỗi tỉnh có một vẻ
riêng, có thế coi như một miền nhỏ được.
Phong tục những nơi có nhiều người Việt gốc Miên như Xà Tón
(Tri Tôn) khác xa phong tục nơi có người Chà Và gốc Mã Lai như ở Châu Giang -
ngang Châu Đốc - mà ngay những người Việt gốc Hoa cũng mỗi nơi một khác: Bạc
Liêu có nhiều người Triều Châu, Chợ Lớn có nhiều người Quảng Đông, ngôn ngữ
khác nhau mà cách ăn uống cũng khác nhau.
Nam Việt quả thực là nhiều vẻ, có đi nhiều mới biết được, và
có ở lâu mới thấy thích.
Nhưng xét chung thì Nam Việt đẹp nhờ trăng và nước. Ở đây nhiều
sông rạch hơn Hàng Châu, gần xích đạo hơn Hàng Châu và Venise, mà càng gần xích
đạo thì trăng càng tỏ. Thi sĩ Trung Hoa thích cảnh trăng ẩn sau đám mây, nửa mờ
nửa tỏ; tôi cho rằng trăng vằng vặc trên dòng nước mới đẹp.
Trăng ở đây tỏ nhất vào giữa tháng giêng và tháng hai âm lịch.
Vào những khoảng đó, nếu làm việc ở miệt vườn như Long Xuyên, Cần Thơ, mà lại
nhằm ngày rằm, làng nào cũng cúng đình thì thế nào tôi cũng dạo trên bờ rạch để
ngắm cảnh.
Dưới rạch thỉnh thoảng có một hai chiếc tam bản hoặc ghe hầu
lặng lẽ xuôi dòng đưa các ông già bà cả đi lễ đình, có thiếu nữ theo hầu. Trên
đường đất theo bờ rạch, nam thanh nữ tú dập dìu chơi xuân, lúc ẩn lúc hiện dưới
bóng rặng dừa, rặng xoài hay bằng lăng. Trong gió mát thoang thoảng hương xoài,
hương mù u. Và chỗ nào cũng nghe thấy tiếng đàn kìm từ trong nhà sàn bên đường
đưa ra các điệu Vọng cổ. Tây Thi, Tứ Đại Oán... cứ tiếng đàn ở sau lưng nhỏ lần
thì đã văng vẳng tiếng đàn ở phía trước. Trời trong, nước trong. Trăng nhấp nhô
trên mặt nước, lấp lánh trên đường cát, nhảy múa trên tàu dừa, chảy trên tóc,
trên vai thiếu nữ. Trong lòng tôi thấy rạo rực và tôi hiểu được tại sao người
Trung Hoa đã cho Lí Bạch chết vì muốn ôm trăng trên dòng nước. Trong sân đình
đông nghẹt người. Các bà già và thiếu nữ đi xem kết quả của cuộc thi nữ công -
thực ra chỉ là thi bánh mứt - còn bọn trai làng thì cốt ngắm các cô dự thi. Mười
một giờ khuya buổi lễ mới vãn, trăng lúc này mới thật đẹp. Tôi đi một mình xuôi
ra ngoài vàm, nghe tiếng lá xào xạc trong cảnh tĩnh mịch, tiếng nước bập bềnh vỗ
vào bờ. Trong một bụi chuối cách dường vài chục thước có những cặp tình tự với
nhau. Xa xa vẳng lên một khúc Xuân tình.
ĐỌC SÁCH, VIẾT HỒI KÝ
Làm việc ban đêm ở ngoài trời, chúng tôi được tự do, tự chủ,
không bị viên phó kỹ sư Pháp dòm ngó một cách khó chịu như ở bàn giấy.
Lại có rất nhiều thì giờ rảnh. Nếu làm kíp đầu hôm thì hôm
sau không biết làm gì cho hết ngày. Ở gần một châu thành, có thể dạo phố, vào một
tiệm sách xem có báo, sách mới không, hay ghé thăm một người quen, rủ nhau đi
coi cảnh chùa, thánh thất Cao Đài, chụp hình... Nhưng ở giữa đồng, gập hồi mưa
gió liên tiếp cả tuần thì buồn ơi là buồn! Phải nằm co trong chiếc ghe hầu, cửa
đóng kín mít, đậu trên những kính Xa No, Phụng Hiệp, xa chợ, xa bạn, xa nhà!
Những lúc đó phải kiếm cái gì để đọc, đọc bậy bạ, hỗn độn:
Ngày nay, Phổ thông bán nguyệt san, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn - chỉ có tiểu
thuyết Lê Văn Trương, các thầy họa đồ trong bọn tôi rầt mê, là tôi đọc không nổi
- phóng sự của Maurice Decobra, truyện trinh thám của Conan Doyle, La Sonate à
Kreutzer của Tolstoi của một anh bạn ở Bạc Liêu cho mượn, các sách Phật học,
Thông thiên học Vẫn không sao hết được bảy tám giờ một ngày. Lại chỉ có cách học
chữ Hán như năm 1934 là phương thuốc thần hiệu hơn hết.
Bác tôi đưa cho tôi bộ Mạnh Tử, một bộ Ẩm Băng Thất của Lương
Khải Siêu. Ẩm Băng Thất là một trong những bút hiệu của Lương, có nghĩa là ông
phải uống nước đá (băng) nếu không thì lòng ông cuồng nhiệt về việc cứu nước cứu
dân, nóng quá không chịu nổi.
Không có tự vị Hán Việt để tra, còn tự vị Hán như Từ Nguyên, Từ
Hải cũng chưa mua được, cho nên gặp chữ nào, câu nào không hiểu, tôi gom lại,
chép gởi về bác tôi nhờ người giảng. Cách đó bất tiện cho cả hai bác cháu,
nhưng cứ mót từng chút như vậy, lần lần cũng biết thêm mà vỡ nghĩa.
Hồi đi đo ở Cần Thơ, thấy một Hoa kiều ngồi lề đường bán bộ
Văn tâm điêu long mà tôi muốn biết từ hồi học với bác Hai tôi ở Phương Khê, tôi
mua liền, về ghe lật ra coi, đọc không nổi. Bộ đó của Lưu Hiệp (thế kỷ thứ VI)
viết theo thể biền ngẫu, là bộ phê bình văn học đầu tiên của Trung Hoa.
Tôi thường kiếm những bộ có dịch ra Bạch thoại và chú thích
kĩ như bộ Cổ văn quan chỉ (tuyển những bài cổ văn hay nhất từ thời Chiến Quốc đến
đời Minh), vì chỗ nào đọc cổ văn không hiểu thì tôi coi bản Bạch thoại. Một
hôm, vào đụt mưa trong một tiệm tạp hoá ở Bạc Liêu, tôi mua được bộ Nho giáo của
Trần Trọng Kim để lẫn lộn với các đèn cầy: bộ đó cũng có lợi cho tôi vì tác giả
khi trích dẫn, chép cả nguyên văn chữ Hán rồi phiên âm và dịch.
Học chữ Hán cũng vẫn không hết thì giờ, tôi xoay ra viết hồi
kí, nhật ký. Viết hồi ký để cho vơi lòng nhớ quê, nhớ gió bấc mưa phùn, nhớ mặt
nước xanh rêu của Hồ Gươm, nhớ con đê thăm thẳm của sông Nhị, nhớ người thân
còn sống và đã khuất. Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc ấy,
như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản nhạc của cố hương và dĩ vãng.
Viết hồi kí để ôn lại cái vui đã qua thì viết nhật kí để ghi
lại cái vui hiện tại: cái vui những đêm trăng rạo rực, thả thuyền trên rạch Cái
Răng hay Bình Thủy mà nghe tiếng đàn tranh, đàn nguyệt văng vẳng bất tuyệt trên
bờ; cái vui nhìn mặt trời đỏ như than hồng, lớn như chiếc mân, từ từ hạ xuống
cánh đồng mênh mông phẳng lì, mờ mờ khói tỏa ở Bạc Liêu hay Rạch Giá; rồi những
cảnh âm u trong rừng đước, rừng vẹt ở Cà Mau, cảnh phồn thịnh, vườn tược xum
xuê Cần Thơ, Sa Đéc
Tôi cứ nhớ đâu chép đó, viết bừa đi, chẳng cần bố cục, cũng
chẳng sửa, viết có khi quên giờ giấc, đặt cây bút xuống nhìn lên bờ thì làng
xóm đã lờ mờ sau làn sương mỏng.
Viết xong tôi không coi lại, cất đi, có dịp về Tân Thạnh sẽ
đưa bác tôi coi. Mỗi tháng trung bình tôi viết cho bác tôi một bức thư, cũng để
kể những việc hàng ngày: cảm tưởng sau khi đi thăm ai, khi vào một thánh thất,
nghe người giữ thánh thất gọi tôi bằng "anh", tức coi tôi như người đồng
đạo; hoặc khi vào một chùa ở Rạch Giá thấy một vị hoà thượng thản nhiên ngồi
như Phật trên toà cho Phật tử sụp xuống lạy, bên cạnh là một bàn đầy những trái
ngon nhất, quí nhất với bức tượng bán thân bằng thạch cao của Napoléon I. Bác
tôi thường khen là viết hay, khuyến khích tôi.
Quả là cái may cho tôi được bổ vào làm việc ở Nam Việt, tại
miền Hậu Giang gần làng bác tôi. Nếu không có cuộc đoàn tụ giữa bác cháu đó thì
đời tôi tất khác hẳn.
Tóm lại, hai năm đo đường ở Hậu Giang là những năm vui nhất
trong đời tôi, mà cũng có ích nhất: vui vì thấy những cảnh mới, gặp được bạn mới,
nhất là được ở gần bác; có ích vì nhãn quan, kiến thức được mở mang. Và cũng vì
thế để dành được một số tiền: lương của tôi kể cả phụ cấp được khoảng tám chục
đồng (80 đồng), tiêu chưa tới ba chục, còn dư được năm chục.
Chú thích:
Tức Đốc Binh Vàng, người có công dẹp giặc Xiêm và Miên với
Chưởng binh Lễ năm 1937, có đề thờ ở làng Tân Thạnh. Coi Bảy ngày trong Đồng
Tháp Mười, chương VIII, IX.
1. Cách tạo từ này đặc biệt của miền Nam, nơi có nhiều sông rạch:
đò đã mấy ý sơ nghĩa là thuyền, chỉ còn nghĩa là đưa khách.
2. Ẩn sĩ tôi tả trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười -
Chương IX - chính là bác Ba tôi.
3. Miền này ở Rạch Giá, đào nhiều kinh song song nhau để khai
phá, mỗi kinh gọi bằng một con số: kinh thứ 7, kinh thứ 8 do đó có tên là miệt
thứ.
CHƯƠNG XI - ĐỜI CÔNG CHỨC Ở SÀI GÒN
XUÂN NHẬT TẦM PHƯƠNG
Vì làm việc quanh quẩn ở miền Tây, nên mỗi năm tôi có dịp về
Tân Thạnh thăm bác tôi ít nhất là hai lần, mỗi lần độ hai ngày, không kể lần Tết
lâu hơn, được ba bốn ngày. Lần nào mới tới nhà, bác tôi cũng hỏi ngay ở chơi được
mấy hôm. Thời giờ ngắn quá, hai bác cháu nói chuyện gần như trọn ngày mà vẫn
chưa thỏa: chuyện tổ tiên, quê hương, chuyện tương lai, chuyện cách mạng, văn
chương, phong tục miền Nam... Nhưng lần nào bác cũng bỏ ra một buổi dắt tôi đi
thăm một vài điền chủ quen trong làng.
Có lần người giới thiệu cho tôi một thầy giáo già ở Cái Sơn,
ngoài châu thành Long Xuyên và một cô giáo trẻ dạy trường Nữ Long Xuyên, cô
Nguyễn Thị Liệp, chính thiếu nữ đầu tiên trong tỉnh đậu bằng Cao đẳng tiểu học
mà tôi đã nói ở trên. Khi nào đi làm ở gần châu thành Long Xuyên, tôi cũng ghé
lại thăm cô, hoặc nhờ giúp một vài việc như mướn giùm cho tôi cho một chiếc
ghe. Thân phụ cô, ông Nguyễn Đình Huỳnh, là một nhà Nho làm đông y, có một số
ruộng, vào hạng hơi phong lưu; thân mẫu cô, bà Ngô Thị Lựu, là vợ thứ, ông cha ở
Huế vô cũng là nhà Nho. Cô mới được ba tuổi thì mồ côi cha, ở với người anh cả
cùng cha khác mẹ; bà mẹ cũng vì cảnh con chồng đối xử không đẹp, khẳng khái dắt
cô qua Long Xuyên ở nhờ một người em - y như cảnh bà ngoại tôi vậy - và vừa may
thuê vá mướn, vừa làm thuốc tễ đem bán ở các chợ trong miền để nuôi con ăn học.
Cô học khá mà lại nhỏ tuổi nhất trong trường, nên được bà hiệu
trưởng, người Pháp, giúp đỡ cho, chỉ cách thức thì vô trường nữ trung học Gia
Long ở Sài Gòn. Cô may mắn thi đậu: khóa đó là khóa thứ tư của trường, chỉ có
mười mấy nữ sinh. Được học bổng, ở nội trú, nhưng mỗi tháng mẹ cũng cấp thêm
cho ba đồng. Bốn năm thi ra, đậu, được bổ về dạy lớp ba (élémentaire) trường nữ
Long Xuyên, tức trường cũ của cô.
Lương hồi đó, năm 1928, sáu chục đồng một tháng, thêm phụ cấp
sư phạm hai chục đồng nữa, mà đi chợ mỗi ngày chỉ mất có một cắc cho ba bốn người
ăn. Tính rất cần kiệm, giản dị, mặc toàn đồ vải. Tiền lương đưa mẹ hết, mẹ may
cho cái gì thì mặc cái đó. Trong làng, trong họ ai cũng khen bà mẹ có đức và cô
con có hiếu. Cô có tình họ hàng gần với bác gái tôi. Mới tiếp xúc lần đầu, tôi
thấy nét mặt cô dễ coi nhờ có chút duyên thầm; mà tính tình cũng rất dễ thương
vì tự nhiên, giản dị, nhũn nhặn, thành thực.
Khoảng cuối năm 1935 bác tôi bảo tôi: "Thím tư - tức mẹ
tôi - nghĩ cháu đã lớn tuổi rồi, muốn nhờ bác thay thím kiếm một nơi nào cho
cháu". Tôi thấy còn sớm quá, mới ra làm chưa được một năm, nên chỉ "dạ"
rồi thôi. Ít tháng sau, nhân dịp về chơi nhà, bác tôi dắt tôi đi thăm một ông Hội
đồng tỉnh, vào hạng điền chủ lớn thứ nhì trong làng, có độ ba trăm héc ta ruộng,
ba bốn người con gái mà người lớn nhất đã gả cho một giáo sư tốt nghiệp trường
Cao đẳng sư phạm Hà Nội. Nhà đó hiền lương, có nền nếp, con gái người nào cũng
giỏi nữ công, nhưng học may lắm thì hết tiểu học. Chỗ đó xứng đáng, nếu bác tôi
hỏi thì được liền, nhưng thấy tôi không sốt sắng, nên bỏ qua.
Sau đó ít lâu, một người bạn tôi mới quen ở Rạch Giá, cũng do
bác tôi giới thiệu, đưa tôi đi coi mặt một thiếu nữ, con một ông phủ ở Giồng Giềng
nhân một bữa tiệc buổi tối. Chỗ này sang trọng nhưng quan liêu. Đi coi về, tôi
viết thư cho bác tôi, giọng hơi dí dỏm, bảo "trong ánh đèn măng sông
(manchon) chỉ thấy một làn xanh xanh rực rỡ và thơm phức xẹt qua như một vì sao
đổi ngôi".
Bác tôi hiểu ý, và có lẽ vì lấy số tử vi cho tôi, thấy cung
thê của tôi có các văn tinh xương, khúc, hóa khoa, đoán rằng vợ phải là người
có học, nên lại giới thiệu cho tôi một chỗ khác: một cô giáo mới ở trường Gia
Long ra, tên là H., dạy trường Nữ Long Xuyên. Nhà cô chỉ đủ ăn, cha người Trung
(hay Bắc), làm Đông y. Bác tôi bảo tôi nhờ cô Liệp giới thiệu cho.
Cô mỉm cười nhận lời liền, sai đứa cháu đem một bức thư hỏi ý
cô bạn trước rồi rất nhặm lẹ, bận thêm chiếc áo dài thâm, đưa tôi đi. Hai nhà
chỉ cách nhau vài trăm thước, cô đi song song với tôi, mỗi người một lề đường,
cách nhau cả mặt đường. Cô H. trắng trẻo, nhỏ nhắn, thanh tú, có vẻ thông minh
và hiền từ, tôi không có gì để chê cả. Nhưng khi kể lại cuộc "Xuân nhật tầm
phương" đó với bác, tôi lại muốn hỏi cô Liệp, xin ý kiến bác. Chắc bác tôi
hơi ngạc nhiên, hồi âm cho tôi, bảo "dì Năm - cô Liệp thứ năm - về đức hạnh
thì đáng quí, nhưng nhà nghèo và lớn tuổi hơn cháu". Như vậy là bác tôi để
tôi tự ý quyết định.
Độ một tháng sau tôi lại thăm cô Liệp, trước khi ra về, trao
cô một bức thư cầu hôn. Cô không trả lời thẳng cho tôi mà viết thư cho bác tôi,
đại ý rằng: cô cảm động về bức thư của tôi, nhưng nhà chỉ có một mẹ và một con,
nên muốn được ở vậy phụng dưỡng mẹ và xin "đem tình cầm sắt đổi ra cầm
kì".
Tính tôi khẳng khái, cô đã nói vậy thì tôi cũng không nói
thêm nữa. Nhưng từ đó chúng tôi vẫn thỉnh thoảng thư từ với nhau và có dịp, tôi
vẫn ghé nhà cô. Bà thân cô rất ít nói, có vẻ nghiêm khắc, nhưng cũng coi tôi
như các bạn đồng sự của cô ở Long Xuyên. Sau cô mới cho hay rằng cô ngại tôi
còn mẹ già ở Bắc, nếu mẹ tôi muốn cho tôi về làm việc ngoài đó thì khó xử cho cả
hai bên: cô không thể bỏ mẹ mà theo tôi ra ngoài đó, tôi cũng không thể bỏ mẹ
mà ở với cô trong này. Giá cô nói thẳng như vậy từ trước thì việc đó dễ giải
quyết: mẹ tôi đã muốn tôi ở hẳn trong Nam, mà từ đời sống đến tính tình, mẹ tôi
đều hợp với bà thân của cô, người sẽ vui vẻ chứ không thấy trở ngại gì cả.
Phương Đông ta có chuyện ông Tơ bà Nguyệt, chuyện duyên nợ ba
sinh, không biết các dân tộc khác có không, nhưng tôi tin chắc rằng không dân tộc
nào không tin rằng hôn nhân là chuyện may rủi, bất ngờ như có tiền định. Lần
đó, đối với tôi là rủi; bây giờ ngẫm lại thì cơ hồ lại là may; dù may dù rủi
thì theo các nhà lí số cũng là tiền định rồi, rất hợp với số tử vi của tôi.
Từ đó tôi không nghĩ đến việc tìm vợ nữa, cứ thủng thẳng có
cơ hội rồi sẽ tính. Bác tôi thâm ý muốn cho tôi làm rể một điền chủ lương thiện,
vào hạng trung phú, để khi về hưu có được vài chục héc ta ruộng, chứ liêm khiết
như nếp nhà tôi, gánh gia đình lại nặng, chỉ trông vào số lương thì không sao
khá được. Nhưng thấy tôi lơ là với mấy điền chủ đã giới thiệu, bác tôi từ đó để
mặc tôi.
HỌ TRỊNH - LỄ CƯỚI
Mùa thu năm 1936, tôi đi đo ở vùng Bạc Liêu, nhiều nhất là
trên đường Bạc Liêu xuống Cà Mau, mấy lần đi ngang qua Giá Rai, một quận cách Bạc
Liêu chừng 30 cây số, rất buồn, dưới kinh là nước mặn và cá chốt, trên bờ mươi
tiệm Triều Châu nối nhau thành một dãy phố duy nhất dài độ hai trăm thước, sau
lưng toàn là ruộng lúa. Có nhiều điền chủ giàu, nhưng đa số ở trong làng Long Điền
xa xa, hoặc trên đường Bạc Liêu - Cà Mau.
Ở Giá Rai có một tiểu khu của sở Thủy lợi do một ông đốc công
già gốc Bắc chỉ huy, ông Trịnh Đình Huyến. Ông ở trường Công chánh Hà Nội ra
trước tôi non hai chục năm, tính tình ngay thẳng, vui vẻ, hiền lương, được các
bạn trong sở quí trọng.
Ông thuộc giới sang trọng, có tiếng tăm ở Hà Nội: nhà có bốn
anh em, ông là cả, tới người em trai thứ cũng ở sở Công chánh ra như ông; người
em trai kế đó là luật sư Trịnh Đình Thảo, có tiếng ở Sài Gòn, đậu tiến sĩ luật ở
Pháp về; người em gái út gả cho một luật sư nữa, có cử nhân luật ở Hà Nội. Bà vợ
là em ruột của ông Vũ Văn An, người Việt đầu tiên được bằng cấp kĩ sư Hóa học ở
Paris, ngành nhuộm, có một cửa hàng tơ lụa nhập cảng lớn ở Hà Nội.
Nhà bảy tám người con, nên mặc dầu bà khéo làm ăn mà cũng phải
tiết kiệm mới đủ. Nhưng lối sống vẫn là lối của giới sang trọng ngoài Bắc, khác
lối sống của tôi.
Mới gặp tôi vài lần, ông bà có lòng mến tôi rồi, và bà nhờ
người đánh tiếng muốn gả trưởng nữ là cô Trịnh Thị Tuệ cho tôi. Tôi quí tính
tình của ông, lại được biết cô Tuệ học giỏi, sớm đậu tiểu học, học tới năm thứ
ba Cao đẳng tiểu học rồi thôi, về giúp việc nhà, nữ công khéo, biết săn sóc các
em, được cả nhà mến, các em nể, nghe lời, nên tôi có ý muốn nhận lời, viết thư
hỏi bác tô rồi thưa với mẹ tôi.
Lễ cưới định vào hồi lễ Phục sinh năm sau - 1937. Rất đơn giản.
Mẹ tôi ở Hà Nội vào, cưới xong, ở chơi Giá Rai một hai ngày, rồi cùng với vợ chồng
tôi về Tân Thạnh làm lễ tổ tiên. Ít bữa sau, vợ chồng tôi lên Sài Gòn trước, để
tìm nhà, mua sắm đồ đạc; mẹ tôi ở lại Tân Thạnh chơi với hai bác tôi, sẽ lên
sau.
Lần đó là lần đầu tiên mẹ tôi vào Nam, có lẽ vui nhất là được
nhắc lại chuyện cũ với bác tôi, sau trên hai chục năm xa cách. Nhà cửa thu xếp
xong, tôi mời mẹ tôi lên. Người ở chơi ít ngày rồi về Hà Nội.
ĐỔI VỀ SÀI GÒN - MẸ TÔI VÔ THĂM CHÁU NỘI
Tôi cưới vợ đúng vào lúc làm xong hai năm tập sự, được vào
chính ngạch và đổi về Sài Gòn làm ở phòng giấy. Từ đây chấm dứt đời sống tự do
giữa thiên nhiên, cây cỏ, mây nước mà bước vào cuộc đời "sáng vác ô đi, tối
vác về".
Chúng tôi thuê nhà ở Khánh Hội, cách sở độ một cây số, trong
một khu yên tĩnh. Nhà tôi siêng năng coi sóc việc nhà, biết tiết kiệm vừa phải,
mỗi tháng cũng để dành được chút ít. Tôi ít giao du, lâu lâu chúng tôi đi thăm
bà con như ông Trịnh Đình Thảo, ông Nguyễn Khắc Tín, em dị bào của mẹ tôi, làm
việc tại Phủ Toàn quyền và vài bạn học của tôi.
Lại chỉ đọc sách để tiêu khiển. Tôi vào Chợ Lớn mua một cuốn
tự điển Bạch thoại, vài bộ truyện Tàu: Tam Quốc chí, Thủy hử (bằng chữ Hán), một
tập Văn tuyển của Hồ Thích... Mỗi năm nhà tôi về thăm gia đình ở Giá Rai vài lần
và cùng với tôi về Tân Thạnh một lần.
Năm 1938 (âm lịch ngày 11 tháng hai năm Mậu Dần 1, giờ Thân),
nhà tôi sanh con trai (sanh hơi khó), đặt tên là Nguyễn Nhật Đức. Nó rất dễ
thương, trắng trẻo, tương đối mạnh, có vẻ lanh lợi, hiền lành. Cả gia đình ngoại
đều cưng nó. Nhà tôi săn sóc nó rất kĩ: ăn ngủ đều có giờ, nửa đêm dậy cho nó
tiểu; nó đau yếu lặt vặt thì chỉ giữ cho nó khỏi lạnh, giảm bú đi, cho uống nhiều
nước ấm, chứ ít cho uống thuốc. Nấu nước rồi lọc kĩ bằng bông gòn rồi mới cho
no uống. Không bồng bế nó suốt ngày như nhiều gia đình khác, không ru nó, cứ tới
giờ đặt nó vô chiếc giường xinh xinh của nó, mặc cho nó ngủ. Nhờ vậy nó không
quấy, nhèo nhẹo như đa số trẻ khác. Ngủ đẫy giấc thì nó tỉnh dậy, quẫy chân, đập
tay, "e, e" vài tiếng để gọi, chúng tôi chạy lại nhìn cặp mắt đen
lánh, mấy sợi tóc lơ thơ của nó, mắng nó: "chó con", nó toét miệng ra
cười, đưa tay đòi bồng ra khỏi giường.
Tôi khen nhà tôi giỏi nuôi con và tin rằng trẻ mà khỏe mạnh,
khéo nuôi thì đa số đều dễ thương cả. Nó nhõng nhẽo hoặc bướng bỉnh, hỗn láo là
tại cha mẹ. Khi nó đã bắt đầu hiểu biết một chút (một, hai tuổi) chúng tôi cho
nó tự do trong những giới hạn nào đó, hễ nó vượt khỏi giới hạn thì ôn tồn chặn
lại, giảng cho nó hiểu tại sao. Rồi tùy sự phát triển tinh thần, tâm lí của nó,
mở rộng lần lần giới hạn ra, cho hợp với nhu cầu của nó. Phải tốn công theo dõi
nó trong những bước đầu, sau nó thành nếp, mà trở thành yêu tự do, mà biết tự
chủ. Chúng tôi dạy con theo nguyên tắc đó. Con tôi chưa chắc biết rằng nó được
hướng phúc của cha mẹ.
Khi nó phúc đầy tuổi tôi, mẹ tôi vô thăm nó, mang cho nó một
hộp bánh. Lần này người vui hơn lần trước. Nó chưa biết nói, mới biết ngồi. Nó
không bụ sữa mà cũng không gầy, bụng lép xẹp, vui vẻ suốt ngày. Tôi không bao
giờ quên cảnh bà cháu ngồi trên giường, bà têm trầu, nhai bỏm bẻm, nhìn cháu ở
trước mặt, ngồi tròn như con ốc, mân mê đồ chơi. Một lần tôi đi xóm về, gần tới
nhà, thấy mẹ tôi đứng ở cửa, tôi bồng nó đưa lên cao, nó đưa hai tay ngã mình
ra trước đòi bà bế, mẹ tôi thích lắm. Lần đó mẹ tôi ở chơi độ một tuần, về Tân
Thạnh thăm hai bác tôi bốn năm ngày rồi lại về Bắc để buôn bán.
Trong tập Làm con nên nhớ (Lá Bối - 1970) tôi viết:
"Má tôi ít học nhưng có tình thương con thì là có lương
tri, mà có lương tri thì còn hơn là có học: người đã để tôi tự ý định đoạt lấy
cuộc đời của tôi, không can thiệp vào sự lựa nghề, lập gia đình của tôi. Hồi trẻ
tôi cho vậy là tự nhiên; phải tới ngày nay, hai thứ tóc rồi, tôi mới hiểu rằng
người đã hi sinh cho tôi. Không hi sinh mà tôi là con trưởng, lại để sống xa
người tới hai ngàn cây số! Không hi sinh mà nhà tôi trước sau làm dâu không đây
một tháng! Không hi sinh mà người phải đi về bốn ngàn cây số để bồng cháu nội
trong tay có bảy ngày!
"Nhưng giả sử hồi đó người có "can thiệp" vào
đời sống của tôi thì bây giờ tôi cũng hiểu được rằng người không phải là ích kỉ.
Người chỉ tìm hạnh phúc cho con người theo quan niệm của người, thế thôi (...).
Khi quan niệm của cha mẹ không hợp với ý muốn của ta thì ta bảo rằng cha mẹ
không sáng suốt. Lạ thật! Chỉ tại "nước chảy xuôi chứ không bao giờ chảy
ngược" như tục ngữ nói".
Ông Đông Hồ khi đọc câu cuối đó rớt nước mắt. Chính tôi khi
viết nó (1970) cũng rớt nước mắt. Tôi viết nó khi mẹ tôi đã mất 25 năm, cha tôi
mất đúng 45 năm rồi! Muốn tỏ lòng với cha mẹ thì cha mẹ đã không còn.
CON TÔI HỌC VẦN QUỐC NGỮ
Nhà tôi nuôi con rất kỹ mà dạy con cũng rất kỹ.
Khi nó được độ ba chục tháng, nhà tôi mua cho nó một hộp vần
Quốc ngữ của nhà Mai Lĩnh, trong chứa độ hai chục miếng gỗ vuông, mỗi chiều bốn
năm phân, dày nửa phân, hai mặt dán giấy màu in các chữ cái với một hình loài vật,
trái cây, đồ dùng, ví dụ chữ Đ thì vẽ cái đu, chữ Ô thì vẽ cái ô (dù), chữ G
thì vẽ con gà Nó dùng những miếng gỗ đó để cất nhà mà đồng thời để học chữ cái.
Khi nó thuộc mặt chữ rồi, chúng tôi dạy nó đánh vần. Buổi tối nằm chơi với nó
trên giường, hoặc trên ghế bố, dưới gốc cây trước nhà, chúng tôi nói b-a-ba,
b-á-bá, b-ơ-bơ nó đọc theo; hết vần xuôi tới vần ngược: a-n-an, a-i-ai, a-c-ac
(đó là lối dạy thời trước); chỉ ít tuần nó quen miệng, ghép vần được gần hết.
Trong thời gian đó chúng tôi cho nó tập viết chữ bằng phần trên bảng đen, công
việc đó dễ, vì nó đã thuộc mặt chữ từ trước. Quen tay rồi mới cho nó viết bằng
bút chì trên giấy.
Chúng tôi lại mua cho nó một bàn toán nhỏ (cho con nít chơi)
cho nó tập đếm.
Vừa chơi vừa học như vậy trong mươi tháng, khi nó đúng bốn
mươi tháng thì nó đã viết, đọc được chữ Quốc ngữ, làm toán cộng, toán trừ được
2 số, và ít lâu sau thuộc bảng cửu chương.
Nó thích coi hình máy bay và xe hơi trong bộ Larousse
Universel, nhưng chưa học vần Tây nên chưa biết tra, chỉ tìm được số trang
thôi. Một hôm tôi thấy một miếng giấy trên đó nó viết:
Mục lục
máy bay...
xe hơi...
Tôi mỉm cười, hỏi:
- Mục lục là gì?
Nó đáp: Con không biết.
Tôi xoa đầu nó, nghĩ bụng: "thằng này học được".
Nó thấy tôi tra mục lục một cuốn Quốc văn để lựa bài cho nó đọc
nên nó làm theo, lập bảng mục lục để dễ tìm những trang có hình máy bay, xe
hơi. Tôi mua sách báo nhi đồng cho nó đọc. Rồi xin cho nó vô lớp vỡ lòng tiếng
Pháp của trường Bà Phước tại nhà thờ Tân Định, rất gần nhà tôi vì lúc đó chúng
tôi đã dời nhà lại đường Monceau (Huỳnh Tịnh Của).
"Buổi sáng hôm đó, nhà tôi và tôi dắt nó tới trường, nó
đi giữa, mỗi đứa chúng tôi nắm một tay còn cập sách thì tôi cầm. Trường nằm dưới
bóng một hàng sao cao vút đưa lên nền trời xanh dịu. Khi nó rời chúng tôi để
vào lớp thì nó òa lên khóc một chút. Lúc ấy tôi thấy mặn mặn ở cuống họng. Cảnh
hai mươi mấy năm trước, ngày cha tôi đưa tôi vào học trường Yên Phụ lại diễn
ra: đến giờ ra chơi, chúng tôi cũng đợi cháu ở góc sân; đến giờ về lại đợi cháu
ở cửa và cháu cũng lại hỏi:
- Ba má đợi con có lâu không?
Chúng tôi cũng hỏi lại:
- Ngồi trong lớp con có ngoan không? Bà Phước có hỏi gì con
không?...".
Tôi cho rằng trẻ thời đó cho học vỡ lòng bằng tiếng Việt, khi
nó biết đọc biết viết rồi, cho học tiếng Pháp, có lợi hơn là học toàn tiếng
Pháp từ hồi vỡ lòng, vì trong hai, ba năm đầu học tiếng Pháp, chưa đọc được
sách Pháp, nó có thể đọc sách Việt, mở mang trí óc hơn, và hết ban tiểu học
Pháp, nó có thế thi cả bằng Tiểu học Việt được.
Năm sau tôi xin cho con tôi vào lớp tư (Préparatoire) ở trường
Tân Định, cách nhà tôi vài chục thước. Nó theo nổi, mặc dầu không đủ tuổi.
Nhưng chưa học hết nửa niên khóa thì nó phải tản cư với má nó về nhà một người
em rể của nhà tôi ở Long Điền, quận Giá Rai. Lúc đó ông nhạc tôi đã đổi ra Tuy
Hòa, không ở Giá Rai nữa.
Chú thích:
1. Tết Mậu Dần, mẹ tôi ở Vĩnh Yên mua một chục huệ cúng, giò nào cũng nở hết tới ngọn.
1. Tết Mậu Dần, mẹ tôi ở Vĩnh Yên mua một chục huệ cúng, giò nào cũng nở hết tới ngọn.
CHƯƠNG XII - BA LẦN RA BẮC
CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH PHƯƠNG ĐÔNG
Dân tộc mình theo chế độ gia tộc của Trung Hoa mà chế độ này
có từ đời Văn vương nhà Chu, thế kỷ XII trước Tây lịch, tới nay đã trên ba ngàn
năm.
Theo lệ nhà Thương, khi vua chết thì truyền ngôi cho em,
không có em mới truyền cho con; người em lên ngôi, khi chết lại truyền cho con
của vua - anh trước, do đó mà gây nhiều vụ chú cháu tranh giành ngôi báu. Văn
vương bỏ lệ đó, truyền ngôi cho con là Võ vương mặc dầu ông có mấy người em, từ
đó về sau, chỉ đích tử mới được nối nghiệp cha, làm chủ cả thiên hạ. Chế độ đó
người Trung Hoa gọi là "tôn pháp", chẳng những được áp dụng trong
hoàng tộc, mà cả trong gia đình các khanh, đại phu, sĩ, thứ nhân nữa, khiến cho
gia tộc Trung Hoa có nhiều nét đặc biệt.
Vua (thiên tử hay chư hầu) lựa một người con mà truyền ngôi
cho - theo nguyên tắc là con trưởng, tức đích tử - chỉ người con đó được làm
thiên tử hay vương, còn những người khác thì lãnh tước nhỏ hơn, hoặc làm chư hầu,
hoặc làm khanh, đại phu. (Nếu đích tử chết sớm mà có con trai, thì người con
trai lớn, gọi là đích tôn, được kế nghiệp).
Người con (hay cháu) kế vị gọi là tự vương hay tự quân (tự là
nối), làm chủ tể trong tôn miếu, các người con khác chỉ làm bồi tế.
Các gia đình đại phu cũng vậy: người con kế nghiệp làm chủ tế
gọi là "đại tôn", các người khác làm bồi tế gọi là "tiểu
tôn". Có những thể chế qui định từng chi tiết trong các cuộc tế: đại tôn,
tiểu tôn đứng chỗ nào, làm những việc gì không được việt vị.
Trong gia đình thường dân, luôn luôn người con trưởng được hưởng
gia tài, giữ việc hương khói. Địa vị người con đó quan trọng nhất nhưng trách
nhiệm cũng lớn nhất: lo cho mọi người đủ ăn đủ mặc, dạy dỗ người dưới, chịu sự
chê trách của gia tộc và xã hội nếu trong gia đình có kẻ nghèo đói hoặc hư hỏng,
bị tội, làm nhục tổ tiên.
Ngược lại, người đó và cả vợ nữa được người trên nể, người dưới
nghe lời. Khi em còn nhỏ, ở chung nhà thì anh có quyền thay cha đã mất - quyền
huynh thế phụ -; em lớn rồi ra ở riêng, may mà giàu có, sang trọng hơn anh thì
về nhà vẫn phải lễ phép với anh chị và có bổn phận phải giúp đỡ anh chị mà
không được khoe giàu sang trước mặt anh chị.
Con gái không được quyền kế thừa, ra ở riêng rồi thì không
còn địa vị gì trong nhà nữa - nữ nhân ngoại tộc - thành người gia đình bên chồng,
của một họ khác.
Tổ chức gia đình đó thích hợp với chế độ nông nghiệp, để cho
đất đai của gia đình bớt bị phân tán, vào tay người ngoài, và để cho sự khai
thác chung được dễ dàng, sự tiêu xài đỡ tốn kém. Nó lại tạo nên tinh thần gia tộc:
giúp đỡ lẫn nhau, giữ danh dự chung cho nhau.
Tới ngày giỗ cha mẹ, ông bà, em nào ở gần thì phải về nhà người
anh trưởng làm giỗ. Nếu là ngày giỗ tổ họ thì mỗi chi phải đem đồ lễ (thường là
một mâm xôi, một con gà luộc) lại người tộc trưởng để cúng. Nếu là ngày giỗ tổ
chi thì cũng vậy, mỗi gia đình trong chi đem đồ lễ tới nhà chi trưởng để cúng.
Người nào trong họ đỗ đạt, có danh tiếng hay làm ăn thịnh vượng, thường tự cho
là một vinh dự được cúng vào nhà thờ họ một bức hoành phi, một đôi câu đối sơn
son thiếp vàng; có khi xây lại nhà thờ cho họ nữa, hoặc cúng họ một hai mẫu,
dăm ba sào ruộng làm "nghĩa điền" hay "học điền". Ruộng đó
do người trưởng tộc quản lí, thu hoạch được bao nhiêu thì giữ một phần nhỏ để
bù công khai thác, còn bao nhiêu cho vào một quĩ riêng để giúp đỡ những gia
đình nghèo trong họ (nghĩa điền), hoặc trợ cấp cho những thanh niên tuấn tú
trong họ để có phương tiện học đến nơi đến chốn (học điền).
Muốn cho chế độ được vững, đời Chu tạo ra chữ hiếu và đề cao
hiếu đễ: con phải hiếu với cha mẹ, kẻ nhỏ phải tôn trọng, vâng lời người trên.
Ai cũng nhận rằng dân tộc Trung Hoa là dân tộc trọng chữ hiếu nhất. Vì trọng chữ
hiếu, nên họ cũng rất chú trọng đến tang lễ, tế tự. Người Pháp xưa cũng có quyền
trưởng tử (droit d'ainesse) nhưng người con trưởng Pháp có quyền hưởng gia tài
chứ không chắc có những bổn phận như người con trưởng Trung Hoa.
Trong một gia đình, người con trưởng có tư cách và khả năng
thì các em được nhờ; nếu con trưởng kém nhưng các em khá thì cũng đỡ.
BỔN PHẬN CON TRƯỞNG
Chế độ gia đình, chế độ tôn pháp đó nay đã lỗi thời, nhưng bốn
chục năm trước, nhiều nhà còn giữ, trong đó có gia đình tôi 1.
Tôi là con trưởng, nên từ hồi 15, 16 tuổi ta, gặp những ngày
giỗ ngày tết, tôi cũng ăn mặc chĩnh tề, lên gối xuống gối, làm lễ trước bàn thờ.
Và khi đã học chữ Hán hết một vụ hè với bác Hai tôi thì người thảo cho tôi vài
bài văn bằng chữ Hán để tôi khấn trong mỗi trường hợp hoặc giỗ hoặc tết. Bác
tôi còn giữ cổ tục quá, lớn lên tôi bỏ lệ đó, khấn bằng tiếng Việt, vì nghĩ bà
ngoại tôi, mẹ tôi đâu có biết chữ Hán, mà thưa với người bằng chữ Hán.
Dĩ nhiên, tôi tự cho tôi có bổn phận với các em tôi, mà các
em tôi cũng tự cho có quyền buộc tôi phải bao bọc.
Vợ tôi tuy cha mẹ còn cả mà lại là phận gái, nhưng vì là chị
cả, nên cũng có bổn phận trông nom các em, dù đã ra ở riêng rồi. Do đó, gánh của
chúng tôi khá nặng; tiền lương của tôi ít, mà vợ tôi lại không buôn bán, làm ăn
gì, phải khéo thu vén lắm mới đủ tiêu.
Tôi làm việc ở Sài Gòn được một hai năm thì xin cho em trai
tôi, Nguyễn Hữu Hùng làm họa viên dưới quyền tôi, thế là đỡ được một phần cho mẹ
tôi. Cũng vào khoảng đó, hai người em vợ tôi lên Sài Gòn học, ở nhà chúng tôi,
tôi phải giảng bài thêm cho một người để thi vô trường Trung học Gia Long. Nhà
hẹp, bấy nhiêu người đã thấy chật rồi; sau khi mẹ tôi qui tiên, hai em gái tôi
vào ở với chúng tôi, nhà còn chật nữa, tiêu pha tốn hơn nữa.
RA BẮC LẦN THỨ NHẤT - MẸ TÔI MẤT
Sau khi Hùng, em trai tôi vào làm việc ở Sài Gòn, mẹ tôi mướn
một căn phố nhỏ ở Vĩnh Yên đưa hai em gái tôi lên ở trên đó để tập cho chúng
buôn bán mà người đỡ phải đi đi về về trên đường Hà Nội, Vĩnh Yên, vì người đã
già rồi.
Năm 1939 người vào thăm vợ chồng tôi và cháu thì năm sau
(tháng hai âm lịch năm Canh Thân) người đau nặng, ngất đi, em tôi đánh điện vào
gọi tôi ra. Được tin tôi cho em trai tôi (Hùng) mang một số tiền ra ngay; mặt
khác tôi đánh điện cho bà nhạc tôi lúc đó ở Hà Nội, nhờ lên thăm mẹ tôi và có
chuyện gì gấp thì trông nom giùm. Tôi phải thu xếp việc nhà, việc sở, sẽ ra sau
vài ngày.
Lúc đó đương có chiến tranh ở châu Âu, các công sở hạn chế
cho nghỉ phép, tôi chỉ được nghỉ nửa tháng. Vợ chồng tôi cùng ra, cháu mới đủ
hai tuổi, chúng tôi để ở Sài Gòn giao cho anh Nguyễn Xuân Thiếp, con bác tôi,
và chị giúp việc nhà.
Tới Vĩnh Yên thì mẹ tôi vẫn còn tỉnh, nhưng rất yếu, nằm suốt
ngày, chỉ ăn cháo và đi sông mỗi ngày mấy lần, phân rất xấu mà ít. Tôi cho là
đau ruột, có người bảo là lao ruột. Trong khi đau có hai em gái tôi và hai người
cháu, một ở Phương Khê và một ở hàng Đường (Hà Nội tên là Ba Cương), thay phiên
săn sóc. Mẹ tôi không chịu uống thuốc Tây mà uống thuốc Bắc của một ông lang Hà
Nội. Ông này trị không bớt. Khi tôi ra thì chân người đã phù.
Thấy cả vợ chồng tôi cùng ra, vậy là đủ mặt bốn con và một
nàng dâu, người vui lắm, chỉ hận rằng vắng cháu nội. Mẹ tôi kể cho chúng tôi
nghe rằng bà nhạc tôi được điện tín của tôi, ngay chiều tối, mướn một chiếc xe
hơi và cùng với một ông anh ruột, ông Loan, lên thăm mẹ tôi, thấy bệnh có thế
trị được, chưa nguy, nên dặn dò hai em tôi ít lời rồi quay về Hà nội. Mẹ tôi bảo
vợ chồng tôi rằng quí tình sốt sắng của bà nhạc tôi lắm. Tôi ra được hai ngày
thì mẹ tôi biết bệnh khó qua được, gọi riêng tôi vào nói chuyện, cho biết tình
hình tài chánh: bạc mặt còn 300 đồng, tiền họ đã đóng được ba trăm đồng, các
món nợ có thể đòi được là 150 đồng, trà hột để bán còn 70 đồng (giá vàng hồi đó
khoảng 200 đồng một lượng). Như vậy là người đã dành dụm, chuẩn bị hết, nên số
tiền tôi gởi ra chưa dùng tới. Người không muốn phiền con cái chút nào cả. Ngày
nay tôi cũng giữ được tính đó của người.
Sau năm năm vào Nam, lần này là lần đầu tiên tôi về Bắc, cho
nên tôi xin phép người đi thăm mồ mả tổ tiên và họ hàng ở Phương Khê, Hà Nội.
Chúng tôi cứ đi một hai ngày thì lại về Vĩnh Yên một ngày.
Nhà Phương Khê thật hoang tàn: nhà khách và nhà bếp đã bán,
hàng rào tre cũng sắp bán, cỏ mọc đầy vườn, nhà thờ tuy còn vững nhưng gần như
trống không, bàn thờ chỉ còn mối một cái bát cắm nhang.
Nhà thờ bên ngoại ở số 4 ngõ Phất Lộc, một người cháu ngoại
bà cả Tiệm cũng bán rồi, và lấy ra một phần tiền mua một cái nhà khác nhỏ hơn
trong một ngõ hẻm khu Khâm Thiên, còn bao nhiêu bỏ túi.
Nhà số 2, phần của cha tôi thì vẫn còn và mỗi tháng mẹ tôi vẫn
thu được ít tiền nhà.
Tôi thấy khi mà con cháu hư hỏng thì không có cách gì cấm
chúng bán sản nghiệp tổ tiên. Tôi nghe nói có trường hợp cha mẹ cấm ngặt con
không được bán nhà và vườn; nó không bán nhưng cho thuê chín mươi chín năm và
thu tiền một lúc thì cũng như bán. Lại như bác Hai tôi cấm con cả bán phần
hương hỏa nếu không có thỏa thuận của ba người em; có ngờ đâu cả bốn anh em đều
đồng tình bán.
Ở Hà Nội chúng tôi đi thăm tất cả bà con bên nhà tôi; đặt biệt
là ông Phương (em ruột ông nhạc tôi), ông Loan (anh ruột bà nhạc tôi) và cụ
Bang, bà ngoại nhà tôi. Cụ hồi trẻ, một tay làm nên cơ đồ cho chồng, sau giận
chồng vì chồng mê mấy nàng hầu, cụ để lại tất cả sản nghiệp cho chồng, ra đi,
nhất quyết không trở lại.
Tay không mà sau mười năm lại gây dựng một cơ đồ trị giá cả vạn
nữa. Chồng mất, con trai cả về lạy cụ, khóc lóc, cụ mới chịu về đưa ma chồng,
nhưng không khóc mà cũng chẳng lễ. Bảy cô nàng hầu lạy cụ, cụ chỉ cười.
Trên bảy chục tuổi, cụ ở một mình một căn nhà năm gian giữa một
trại rộng 5, 6 mẫu ta ở làng Khương Hạ (Hà Đông), trồng, na, nhãn. Có bao nhiêu
tiền cụ chỉ mua quà cho các con cháu, và cho trẻ con trong xóm. Năm nào cũng
phơi cả chục kí nhãn nhục làm quà cho người quen. Hễ có con cháu về chơi thì cụ
đích thân nấu nướng để đãi, ăn không hết. Có khi mổ lợn phân phát cho dân nghèo
trong làng. Bà nhạc tôi hỏi: "Sao cụ phung phí thế?". Cụ đáp:
"Các ông các bà khá giả hết, tôi để của lại làm gì?" Đúng lắm. Mà con
không khá thì để của cho chúng cũng vô ích.
Gần đến ngày trở về Sài Gòn, vợ chồng tôi vào từ biệt mẹ tôi.
Người bảo: "Vợ chồng con cũng tử tế, hầu hạ mẹ trong mấy ngày như vậy cũng
đủ rồi, vào trong đó mà làm ăn và trông nom cháu bé... Có sự nào thì mẹ mất ba
cái gậy" (vợ chồng tôi và cháu). Tối rưng rưng nước mắt. Về Sài Gòn được
ít ngày thì có điện tín mẹ tôi đã qua đời ngày rằm tháng ba âm lịch, thọ 55 tuổi.
Một đời lao lực, tận tụy cho mẹ, chồng và con, khi mất không tiêu của con một đồng
nào mà còn để lại dư tiền để làm ma. Người còn hận một điều là em trai tôi và
em Oanh chưa thành gia thất.
Theo người dặn, các em tôi tạm chôn người ở nghĩa trang Phúc
Yên, đợi hết tang sẽ cải táng về gần mộ bà ngoại tôi ở Hạ Đình (Hà Đông) để mẹ
con được gần nhau mà chúng tôi mỗi lần đi thăm mộ mẹ thì không quên mộ bà ngoại.
Đám tang có đủ đại diện họ bên người, họ bên chồng, bà nhạc tôi cũng đi đưa, bạn
bè của người ở Vĩnh Yên cũng khá đông.
Chôn cất xong, em trai tôi ở lại ít ngày rồi trở vào Sài Gòn
làm việc. Hai em gái tôi ở lại khoảng một tháng nữa, thu tiền nợ, tiền họ, bán
hết hàng hóa; ai cũng quí mẹ tôi, nên không ai thiếu cả. Nhờ vậy mà trang trải
được tất cả phí tổn thuốc men, chôn cất, lại còn dư 300 đồng nữa. Tôi chia cho
mỗi em một trăm làm vốn, chỉ giữ lại mỗi đôi hoa tai kiểu cổ của mẹ tôi. Nhưng
rồi cũng không giữ được lâu. Năm 1945, nhà tôi tản cư ở Long Điền, chôn xuống đất,
bị bọn Miên đào lấy hết.
RA BẮC LẦN THỨ NHÌ - ĐÁM CƯỚI EM TÔI - XÂY MỘ TỔ TIÊN
Ba năm sau (1943), nhờ bà nhạc tôi làm mai, cô em út của tôi
(Mùi) được ông bà Tô Đình Huy hỏi cho người con trưởng Tô Đình Huân. Họ Tô là một
nhà có học và danh giá ở Hà Nội. Ông Huy làm thông dịch viên tòa án, sau làm
làm thư ký (clerc) cho một luật sư, biết chữ Hán. Bà Huy có họ với bà nhạc tôi.
Cậu Huân vì đau yếu chỉ học xong tiểu học rồi làm thư ký. Có mấy người em học y
khoa và dược khoa. Gia pháp nhà đó khá nghiêm.
Nhà trai xin cưới vào mùa xuân ở Hà Nội. Vậy vợ chồng tôi phải
đưa cô em ra ngoài đó. Năm đó thế chiến đương gay go, đường giao thông có thể bị
trắc trở; mà cũng đã mãn tang mẹ tôi rồi, đến lúc bốc mộ người đưa về Hạ Đình;
tôi lại muốn xây cất tất cả các mộ bên nội bên ngoại cho xong, e sau này khó có
dịp về Bắc; nên lần này, tiền bạc để dành được bao nhiêu tôi đem tiêu hết, dắt
cả gia đình (vợ chồng tôi, con tôi, ba người em) để làm bốn công việc: gả em
gái, bốc mộ mẹ, xây mộ bà ngoại và mẹ tôi ở Hạ Đình; xây mộ các cụ ở Phương
Khê; tìm mộ hai cụ ngoại tôi ở Đan Loan (Hải Dương) và xây luôn.
Tưởng như vậy mồ mả sẽ giữ được, ít gì cũng hết đời tôi;
nhưng năm 1975, sau ngày Giảng phóng, tôi được một đứa cháu ở Phương Khê cho
hay rằng mộ của các cụ đều phải bạt nấm hết để khỏi cản trở công việc canh tác,
mà mộ của cha tôi phải dời lại Gò Dai, nghĩa địa chung cho cả làng. Rồi năm
1979, cháu tôi, Tô Lệ Hằng, con gái lớn của cô Mùi, ở Pháp về, nhân dịp ra Hà Nội
công tác ít bửa với cơ quan nguyên tử lực Việt Nam, bỏ ra một buổi về làng Hạ
Đình tìm mộ bà ngoại và mẹ tôi mà không thấy. Họ hàng mẹ tôi ở hàng Đường và
làng Hạ Đình cũng không ai nhớ: người già thì chết lần, người trẻ thì không
quan tâm đến mồ mả, mà làng mạc, đồng ruộng đã thay đổi nhiều rồi.
Tôi bùi ngùi nhớ đến hai câu của cổ nhân:
"Vị quy tam xích thổ, nan bảo bách niên thân,
Kí qui tam xích thổ, nan bảo bách niên phần".
Nghĩa là:
Chưa về ba thước đất thì khó giữ được thấm thân trăm năm,
Đã về ba thước đất rồi thì khó giữ được nấm mồ trăm năm.
Bà ngoại tôi mất năm nay được đúng năm mươi năm, mẹ tôi mất mới
bốn chục năm mà mộ đã thất lạc. Cha tôi mất được sáu mươi năm, mộ tuy còn nhưng
phải dời đi; mà đứa cháu ở Phương Khê mới cho tôi hay nghĩa địa chung ở Gò Dai
sẽ phải dời đi nơi khác nữa. Tất là sẽ dời đi xa, vì trong làng hết đất rồi, mà
dời đi xa thì mấy đứa cháu ở làng sẽ không đi thăm được, cũng kể như mộ thất lạc
luôn.
Tôi chỉ làm hết bổn phận với tổ tiên, còn những sự thay đổi
trong đời người, trong xã hội thì ngay cả trong thời đại ổn định là thời đại
nông nghiệp, mà cổ nhân đã phải than thở như trên, huống hồ là thời đại bất ổn,
thế giới xáo trộn rất nhanh như thời đại chúng ta ngày nay.
Khi làm xong các việc rồi, tôi trở về Sài Gòn thì em Oanh tôi
- chị của cô Mùi - xin phép ở lại Hà Nội với một bà dì em dị bào với mẹ tôi.
Tôi bằng lòng và bảo lấy tiền cho thuê nhà số 2 ở Phất Lộc, mà chi tiêu. Ít năm
sau, cô ấy có chồng, chồng là con trai bà dì, tên Nguyễn Văn Quý, mới đầu dạy học,
sau đổi qua làm sở Quan thuế.
Em trai tôi năm sau cũng được bác tôi kiếm vợ cho ở làng Tân
Thạnh, con một điền chủ nhỏ, làm hương chức.
Thế là nguyện vọng của mẹ tôi được thoả mãn, mà bổn phận đối
với gia đình tôi đã làm xong.
RA BẮC LẦN THỨ BA - THI KỸ SƯ
Tháng giêng âm lịch năm Giáp Thân (1944) tôi còn ra Bắc lần nữa
để thi vấn đáp và thực tập vào ngạch kỹ sư. Số người lấy đậu cho toàn quốc đã hạn
định. Bài viết tôi khá, nhưng thực tập kém nên rớt.
Trong khi nhắm máy vẽ bản đồ ở núi Trầm (thuộc tỉnh Hà Đông,
cách Hà Nội hai chục cây số), tôi làm việc ngay ở dưới chân chùa Vô Vi, một
ngôi chùa nhỏ bằng gạch, cất trên một ngọn núi đá lởm chởm cao độ dăm chục thước,
trồng nhiều cây đại cổ thụ và nhìn xuống một cánh đồng chiêm xanh mởn. Vừa nhắm
máy tôi vừa ước ao một ngày kia đi dạo những cảnh chùa như Nguyễn Công Trứ, đàm
đạo với một vị hòa thượng trước một chén trà lão mai, và ngâm câu thơ:
Hương đắc phù sinh bán nhật nhàn.
Lần này tôi không về Phương Khê vì nhà thờ đã bán rồi, tôi
không biết ghé đâu. Vả lại chiến tranh đã tới lúc quyết liệt. Phi cơ Đồng minh
ngày nào cũng bay qua Hà Nội, dội bom các đường xe lửa, cầu cống, mấy lần tôi
phải núp dưới hầm. Lại nghe tin đường xe lửa Hà Nội - Sài Gòn bị dứt thêm vài
chỗ, cho nên thi xong tôi vội vã về Sài Gòn liền.
Tôi nhớ trong lần ra Bắc này gặp hai anh bạn cũ trường Yên Phụ:
anh Vũ Đình Hòe và anh Lê Huy Vân ở tòa soạn Thanh Nghị. Hòe làm chủ nhiệm kiêm
chủ bút, hôm đó dạy học ở trường Thăng Long (?) về, đi bộ nói chuyện với tôi một
quãng, cho chiếc xe nhà lững thững theo sau. Anh bảo tôi chính quyền Pháp muốn
trợ cấp cho tờ báo nhưng anh không nhận. Tôi đưa anh coi một tập tùy bút, anh
cho là chưa đăng được; tôi cũng nhận rằng loại tùy bút đó không hợp thời, mà
càng không hợp với tờ Thanh Nghị. Anh nhờ tôi viết phóng sự về miền Nam, tôi
suy nghĩ một chút rồi đáp sẽ viết về Đồng Tháp Mười. Anh hẹn với tôi một buổi
đi ăn cơm tiệm với anh và anh Vân để nói chuyện được nhiều hơn; nhưng tôi ít
thì giờ, không nhận lời được.
Chuyến về thật vất vả. Có mấy cây cầu sập. Cầu Quảng Trị bị một
trái bom vào đúng khúc giữa, hai nhịp cầu gẫy gục xuống thành một chữ V rất đều
đặn. Tôi nhớ đêm đầu tiên, xe lửa tới miền Thanh Hóa gặp một chiếc cầu sập, phải
xách đồ đạc xuống, qua phà sang bờ bên kia lên xe khác. Chiếc phà đã đậu sẵn ở
bờ. Hành khách vì mệt hoặc lo buồn, lủi thủi, lặng lẽ xuống phà. Chỉ nghe thấy
tiếng nước vỗ vào be phà, tiếng kéo sợi xích sắt loảng xoảng, rồi chiếc phà rời
bến. Dòng nước lừ đừ, gợn sóng vàng vì trăng mới ló. Không khí lạnh lẽo, ai
cũng kéo áo lên che cổ. Bờ bên kia chỉ thấy lù lù chuyến tàu xam xám với một ngọn
đèn le lói. Cảnh thê lương lạ lùng. Có tiếng lịch kịch phà chạm bờ, rồi tiếng
xích sắt loảng xoảng nữa. Hành khách lại lủi thủi kéo nhau lên bờ và sau cùng
chuyến xe cũng lủi thủi, âm thầm chuyển bánh từ từ, không một tiếng còi. Tôi có
cảm tưởng như qua một chuyến đò ngang ở âm ti, trên Suối vàng, còn chúng tôi
thì như những bóng ma đi tới đâu không biết, tới điện Diêm vương hay vào thẳng
ngay Địa ngục?
CẢNH BỜ BIỂN TRUNG VIỆT - ĐÈO CẢ, ĐÈO HẢI VÂN, THÀNH PHỐ NHA
TRANG
Mấy chuyến về Bắc đó, tôi được thấy những cảnh đẹp mê hồn ở bờ
biển Trung Việt, mà bây giờ nhớ lại tôi vẫn cho là những lúc ngắn ngủi nhưng
thú nhất trong đời tôi.
Hai cảnh đẹp nhất là đèo Cả và đèo Ải Vân (cũng gọi là Hải
Vân). Năm 1941, trong một dịp ra chơi Nha Trang, Tuy Hòa (nơi ông nhạc tôi làm
việc) và Quy Nhơn, tôi đã được ngắm cảnh đèo Cả.
Xe lửa từ Nha Trang ra, vừa qua một trái núi thì tới bãi biển
Đại Lãnh dài khoảng hai cây số, như một cánh cung ba mặt là núi, một mặt là biển.
Một rặng dương (filaos) vi vu bên đường Quốc lộ số 1 ngăn bãi cát vàng ở bờ biển
với đồng lúa xanh ở chân núi. Chỉ trong một khoảng không đầy hai cây số vuông
mà có đủ cả cảnh núi cao, rừng rậm, có thác, có suối, với một nhịp cầu bắc
ngang; có cảnh đồng ruộng thôn quê, cảnh phố xá ở trước ga, cả một xóm chài nữa
với những chiếc lưới đong đưa trước gió.
Ra khỏi ga Đại Lãnh độ dăm trăm thước, ở bên đường xe lửa hiện
lên một tấm biển đề chữ Varella. Tôi gọi nhà tôi lại: "Tới đèo Cả rồi!".
Đồng thời một lính lê dương cũng la lên: Varella! Hành khách đổ xô lại cửa để
ngắm cảnh.
Xe chạy chậm lại, độ mười cây số một giờ vì đường dốc mà nguy
hiểm. Đèo dài 11 cây số, từ ga Đại Lãnh đến ga Hảo Sơn. Núi ở bên trái rất cao
và có nhiều cây lớn, và những tảng đá phẳng như bàn cờ bên những dòng thác và
suối. Xe chạy sát một vách núi dựng đứng, nhìn xuống biển thấy ngợp. Mũi La,
cao ngất đâm thẳng ra mặt biển mênh mông, thấp thoáng vài cánh buồm xa xa. Cảnh
thật hùng vĩ.
Cái đặc sắc nhất ở đây là màu ngọc thạch của nước biển, trong
lạ lùng, đứng trên xe lửa nhìn xuống mà cũng thấy rõ những tảng đá ở đáy, gần bờ.
Màu đó càng lan xa càng biến đổi lần lần, đục lại thành màu xám, tới ngoài khơi
thì thành màu lơ đặc, đặc tới nỗi tôi tưởng nó là mực Waterman.
Đường xe lửa ngòng ngoèo qua sáu cái hầm rất ngắn, trừ hầm cuối
cùng dài non hai cây số. Trong hầm tối như đêm và nghe tiếng xe chạy rầm rầm
như bao nhiêu tảng đá đổ trên đầu.
Trong chuyến ra Bắc lần thứ nhì, tôi được ngắm cảnh đèo Cả
ban đêm mà tôi đã ghi lại trong tập Hoa đào năm trước (Lá Bối - 1970):
"Đêm đó tôi đương ngắm cảnh biển mênh mông nhấp nhô dưới
ánh trăng thì xe lửa lượn vào một khúc quẹo và những làn sóng bạc bỗng biến đâu
mất mà trước mặt tôi hiện lên một dãy núi đen tím với một cái vũng lốm đốm mươi
ngọn đèn chài đỏ như than hồng trên một làn nước phẳng lặng: cảnh biến đổi thật
huyền ảo và trong một phút tôi có cảm giác là mọc cánh mà lên tiên".
Hôm sau, ra khỏi Tourane, gặp trời nắng, tôi được ngắm cảnh
đèo Ải Vân nữa, một thứ đèo Cả nhưng cao hơn, dài hơn gấp ba gấp bốn, thay đổi
nhiều hơn. Ở đây xe lửa chạy theo bờ biển 30, 40 cây số; non ba giờ liền, tôi
được nhìn một cuốn phim chụp cảnh thiên nhiên, quay chầm chậm trong một không
gian đầy âm nhạc là gió rừng và sóng biển.
Vì đèo rất cao, một đầu máy kéo không nổi chuyến xe, nên phải
móc thêm một đầu máy ở phía sau để đẩy tiếp. Cả hai đầu máy phì phì nhả khói, nặng
nhọc lắm mới lên nổi đèo và chuyến xe như con rắn khổng lồ uốn khúc, đứng ở giữ
thấy cả hai đầu máy ở hai đầu. Ở đây cũng như ở đèo Cả, xe chạy ở giữa, một bên
là vách đá dựng đứng, một bên là biển thẳm mênh mông.
Nhưng cảnh ở đây thay đổi luôn luôn, nhiều vẻ đẹp hơn đèo Cả;
chỗ thì cây cối thưa thớt, thoải mái mà chỉnh tề; chỗ thì chen chúc nhau, cố
bám lấy nhau trên một sườn núi cho khỏi tuột xuống thung lũng. Có nơi rừng bị một
giống dây leo lá tròn trùm kín hàng mấy chục mẫu trông xa như một tấm màn xanh
phơi trên sườn núi, có cột chống ở dưới.
Thỉnh thoảng xe qua những chiếc cầu nho nhỏ bắc qua suối.
Dòng nước trong leo lẻo xô đẩy nhau trên những phiến đá nhẵn rồi chui vào một cửa
tò vò chuối màu xanh non, sau cùng thoát ra tại một bãi cát vàng ở xa xa. Đẹp
nhất là những thảm cỏ có điểm hoa tím và vàng rung rinh như cánh bướm.
Xe phì phì uốn khúc gắng lên kịp con đường Quốc lộ số 1 nó đã
vờn mây ở dãy núi bên kia. Xe chui vào hầm - quãng này có bảy tám cái hầm - và
mỗi lần ở hầm ra thì cả một cảnh trời cao biển rộng hiện ra trước mắt: trời
xanh lơ, biển xanh màu ngọc thạch như ở đèo Cả (Tôi nghe nói từ Huế trở ra biển
mới đục, mất màu thần tiên đó). Biển ôm những cù lao ở ngoài khơi, liếm những
bãi cát vàng cánh cung ở bờ, vỗ vào những gốc si bám vào chân vách đá. Nó gần tới
bờ lại lùi ra, để lại một viền bọt trắng.
Xe vẫn phì phì lên, cảnh vẫn thay đổi; có khi xe lùi vào
trong để cho ta ngắm những vùng nho nhỏ có dăm nóc nhà ngói đỏ giữa vài thửa ruộng,
sau một bãi cát; có khi nó lượn bên một bãi cỏ rộng lưa thưa vài gốc dương
đương hoà nhạc với sóng biển: đây hẳn là chỗ hẹn hò của những con nai vàng
trong đêm trăng, và xe như hữu tình cũng chạy chậm lại.
Nó vẫn phì phì leo dốc. Càng lên, núi càng cao, ngọn núi càng
xích lại gần nhau. Núi đã mờ mờ. Xe đã chui vào mây. Lạ thay, tôi có cảm giác
biển cũng dâng lên để được gần trời. Mây lờn vờn ở ngoài khơi, bóng mây làm cho
mặt biển lốm đốm như mai con đồi mồi.
Xe vẫn uốn khúc, nặng nề leo mà không theo kịp Quốc lộ số 1
nó đã khuất trong mây rồi. Chung quanh chỉ thấy biển và mây (gọi đèo này là Hải
Vân, phải quá), đương giữa trưa mà có sương mai.
Tôi nhìn về phía sau: đầu máy thứ nhì đã rời chuyến xe quay
trở về lúc nào rồi. Xe đã lên đỉnh đèo. Tôi tiếc ngơ ngẩn. Quốc lộ 1 và đường
xe lửa lại cùng nhau xuống, một đường chạy sát bờ biển như mê cảnh biển, một đường
lùi vào trong như không muốn rời núi mây.
Nhưng đến Lăng Cô (một ga nhỏ) thì hai đường gặp nhau như
cùng nhận rằng có thể không ngắm mây, chứ không thể không ngắm Lăng Cô.
Có người cho rằng Lăng Cô là cảnh đẹp nhất trên đường Tourane
- Huế. Từ trên cao nhìn xuống, nó y hệt như một bức tranh thuỷ mạc của Trung
Hoa. Một cù lao nhỏ ở gần bờ biển, bằng phẳng, trồng toàn dương, có nhà, có
chùa, có ghe đánh cá và lưới đánh cá phất phơ dưới gió. Một cây cầu dài nối với
bờ. Những buổi chiều mây ngũ sắc in trên mặt nước, những chiếc ghe giương buồm
ra khơi, hay trong những đêm trăng sóng bạc nhấp nhô vạch một đường sáng tới một
đảo ở chân trời, ngồi ở gốc dương đầu cầu cảnh thì ai mà không mơ tới cảnh Bồng
Lai ở cuối con đường sáng đó?
Trên hai giờ liên tiếp được thưởng cảnh thần tiên như vậy,
tâm hồn tôi nhẹ nhàng lên, tươi trẻ lại. Trên ba mươi lăm năm nay không được thấy
lại cảnh đó, nay không biết ra sao. Non sông Việt Nam sao mà đẹp thế! Đăng buồn
là nơi nào cảnh đẹp nhất thì dân thường nghèo nhất.
Cảnh Trung Việt còn đặc điểm này nữa: hầu hết thành phố nào
cũng ở cửa hoặc gần cửa một con sông nhỏ. Dãy Trường Sơn ở gần biển, nên sông đều
ngắn và hạ du cũng hẹp có hình mẫu tự delta Hi Lạp (cho nên từ delta của Pháp
ta dịch là Tam giác châu) mà đáy và chiều cao chỉ dài vài chục cây số. Muốn coi
toàn cảnh những hạ du đó, chỉ cần leo lên chỗ nào cao nhất trong thành phố.
Một lần tôi đã leo lên gác chuông nhà thờ công giáo Nha
Trang, lần khác leo lên núi Khỉ ở Tuy Hòa (núi có tên như vậy vì có nhiều khỉ)
thấy cảnh đại khái như nhau.
Cảnh ở Nha Trang đẹp hơn, điển hình hơn.
Cánh đồng Nha Trang từ trên cao nhìn xuống rõ là một hình tam
giác: đỉnh A hướng về dãy núi Trường Sơn; hai cạnh AB, AC màu xám nhạt là hai
dãy núi chạy dài ra tới biển; đáy BC là bờ biển, một đầu là Hải học viện, một đầu
là nhà tu Công giáo. Sông Nha Trang lấp lánh uốn khúc từ A ra tới bờ biển, qua
một cánh đồng xanh mơn mởn nằm từ cạnh này đến cạnh kia, rồi qua một dãi cát trắng
rộng độ hai cây số sát bờ biển. Ở giữa dãi cát đó, tại cửa sông là thành phố gồm
hai khu vực: khu nhà lá thưa thớt, màu xám ở bên mặt (khi nhìn ra biển), và khu
công sở, biệt thự ở bên trái, y như bàn cờ mà quân cờ tròn là những dám cây
xanh xen với những nóc đỏ tường vàng như những mảnh giấy màu hình chữ nhật. Đây
đó nhô lên vài ngọn đồi đá trên có một ngôi chùa cổ, và vài hòn nhỏ ở ngoài cửa
biển như những đốm đen trên mặt nước xanh biếc. Dưới mắt ta đủ cả cảnh rừng
núi, sông biển, đồng ruộng, bãi cát, thành thị, thôn quê, với đủ các màu sắc
thiên nhiên rực rỡ không nơi nào bằng.
Chú thích:
1. Nửa thế kỷ trước trong Nam còn một số gia đình theo tục
này: cùng mang tên họ, Ngô hay Trần chẳng hạn thì dù một người ở Bắc, một người
ở Nam, gặp nhau cũng có thể nhận là cùng họ, tuỳ tuổi tác mà gọi nhau như bà
con, và không được gã con cho nhau. Tục đó từ đời Chu truyền lại.
CHƯƠNG XIII - TÔI TẬP VIẾT
ĐỌC SÁCH ĐỂ TIÊU KHIỂN VÀ HỌC THÊM
Trong một chương trên tôi đã nói hồi học trường Bưởi, có lần
ngồi trên đường Cổ Ngư ngắm mây nước hồ Tây với bạn, tôi cao hứng ngâm câu:
"Nhập thế cục bất khả vô văn tự". Nhưng đó chỉ là một ý nghĩ thoáng
qua, nhiều lắm thì cũng chỉ như một mơ mộng ngông của chung các thanh niên khi
nhớ một áng văn hay đứng trước một cảnh đẹp. Chưa gọi là một ý muốn, một quyết
tâm được.
Tổ tiên tôi, bên nội cũng như bên ngoại không có ai viết sách
cả. Bác Hai tôi còn muốn tôi đừng học văn thơ nữa mà chuyên tâm vào khoa học.
Và tôi đã lựa một ngành kĩ thuật thuộc về khoa học. Tôi cũng không được một
giáo sư nào khuyến khích viết văn như hai bạn Võ Phiến, Nguyễn Hữu Ngư. Và ở
trường Công chánh ra, tôi đã quên từ lâu câu: "Nhập thế cục bất khả vô văn
tự" rồi.
Hai năm lênh đênh trên sông rạch miền Tây, sở dĩ tôi chép hồi
kí và nhật ký chỉ là để giải muộn, tiêu cho hết 24 giờ mỗi ngày, cho nên chép
xong rồi bỏ, không hề đọc lại.
Từ năm 1938, về Sài Gòn làm việc, tôi không được rãnh như hồi
đi đo mực đất nữa, nhưng việc nhà chẳng có gì, nên mỗi ngày có cả một buổi tối
và mỗi tuần cả một ngày chủ nhật ở không. Tôi không có khiếu về âm nhạc, học đờn
ít tháng rồi bỏ, không thích đánh cờ, rất ghét đánh bài, cũng không ưa họp bạn
tán chuyện, nhậu nhẹt hoặc rủ nhau nhảy đầm - thời đó có phong trào nhảy đầm,
nay gọi là vũ, nhưng theo tôi vũ và nhảy đầm khác nhau xa. Rốt cuộc, chỉ còn có
cách là đọc sách, học thêm. Cho nên, một anh bạn trường Công chánh, sau bốn năm
xa cách, gặp tôi ở Sài Gòn, thấy tôi dịch Hán văn, ngạc nhiên hỏi: "Anh học
chữ Hán hồi nào vậy", tôi đáp: "Học trong khi các anh nhảy đầm".
Anh ta cười.
Nhiều người, từ bạn bè đến độc giả bảo tôi sống như một nhà
tu khổ hạnh. Tôi không biết các nhà tu khổ hạnh có thấy khổ hay không khi họ nhịn
ăn, nhịn uống, nhịn ngủ, tự quất vào thân cho đến rớm máu, hoặc khi họ tĩnh toạ
cả chục năm quay mặt vào tường, nắm chặt bàn tay tới nỗi móng tay mọc dài xuyên
thấu lòng bàn tay (?) (chắc phải có người đút cho họ ăn, đổ nước vào miệng cho
họ uống?); chứ riêng tôi, chẳng tu hành gì cả, không thấy lối sống của tôi với
sách vở là khổ.
Năm 1946 hay 1947, tôi làm đôi câu đối:
Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu,
Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không.
mà một ông bạn dịch là:
Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có,
Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.
"Thư trung hữu hữu". Trong sách có nhiều cái thú lắm
chứ.
Trong cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại, tôi đã trích nhiều
danh ngôn về thú đọc sách, như:
"Sự tiếp xúc với sách an ủi tôi trong cảnh già và cảnh
cô độc (...) Những nỗi đau khổ nhờ nó mà bớt nhói. Muốn tiêu khiển, tôi chỉ có
cách đọc sách" (Montage).
"Sự học đối với tôi là phương thuốc công hiệu nhất để trị
những cái tởm ở đời, vì tôi chưa lần nào buồn rầu đến nỗi đọc sách một giờ mà
không hết buồn" (Montesquieu).
"Sự học trang hoàng đời sống và làm cho ta mến đời hơn.
Nó là một thú vui không khi nào giảm" (J. Viênnt).
Còn Khổng tử thì suốt đời "học bất yếm" (học không
chán) và "triêu văn đạo, tịch tử khả hỉ (Sáng được nghe đạo lí, tối chết
cũng không hận).
Tôi cũng như Montaigne, muốn tiêu khiển chỉ có cách đọc sách
và cũng như Khổng Tử, học bất yếm. Etiemble, tác giả cuốn Confucius (Gallimard
- 1966), bảo đã mang ơn Khổng tử ngang với Montaigne, chắc cũng là hạng ham đọc
sách. Bác Hai tôi từ hồi tôi 16-17 tuổi, bảo rằng tôi "đam thư" nghĩa
là mê sách. Chữ đam đó dùng theo nghĩa gốc là "quá mức", ham quá mức.
Đó là một tính bẩm sinh có lẽ do di truyền của ông nội, bà nội tôi. Tôi nghĩ
không có gì đáng khen cả, ở đời thiếu gì người mê sách.
Về Sài Gòn dễ kiếm sách báo để đọc. Sách báo Việt thời đó
không có bao nhiêu, tôi lựa mua hết thảy những gì đáng đọc được: báo Ngày Nay,
Thanh Nghị, Tri Tân, Tao Đàn, Phụ nữ Tân văn; sách của Tự lực Văn đoàn, nhà Tân
Dân, nhóm Hàn Thuyên
Sách Pháp, vì ít tiền, tôi chỉ mua một số nhỏ còn thì mượn của
Thư viện thành phố. Chính ở Thư viện này, tại phòng cho mượn sách, tôi thường gặp
ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã quen ở Rạch Giá, hồi ông còn làm tri huyện. Cùng
mắc một bệnh đọc sách nên chúng tôi lần lần thân với nhau, nhưng chỉ thân trong
tình sách vở thôi.
Sách Trung Hoa thì mỗi tháng độ một lần, tôi vào Chợ Lớn, đường
"Thuỷ Binh" (rue de Marins nay là đường Đồng Khánh, sau 30-4 đổi là
Trần Hưng Đạo) mua. Muốn tiết kiệm, tôi mua những sách rẻ tiền, in mờ, nhiều lỗi,
hoặc không có chú thích. Đó là một lầm lớn: vừa tốn tiền, vừa mất thì giờ đọc.
Cũng có một vài nhà xuất bản đứng đắn, in những sách hay, không lỗi, có chú
thích, mà tương đối rẻ tiền như Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải, nhưng thời
đó tôi chưa biết. Tôi cũng không biết viết thư xin mục sách của các nhà xuất bản
lớn ở Trung Hoa, Pháp.
Tóm lại trên con đường tự học, tôi chẳng có chút hiểu biết,
kinh nghiệm nào cả, phương tiện thật thiếu thốn, tốn công nhiều mà kết quả rất
ít. Vì nghĩ vậy mà sau này tôi viết cuốn Tự học để thành công (sau sửa chữa, đổi
nhan đề là Tự học, một nhu cầu của thời đại) để hướng dẫn thanh niên tránh những
lỗi lầm của tôi.
Khi thế chiến xảy ra, sách ngoại quốc không vô được nữa, mỗi
chủ nhật tôi lại một tiệm sách cũ ở đường Gia Long 1 và mấy quán sách cũ ở trước
Nhà hát Thành phố, thỉnh thoảng kiếm được một cuốn lí thú, như cuốn Le Roman
russe của E.M Vogué; nhưng không có sách Trung Hoa. Ở những nơi đó gặp nhiều
người ham đọc sách, nhưng tôi chỉ biết mặt họ chứ không tìm cách làm quen. Đó
cũng là một sở đoản của tôi: vì ít giao du nên không học được kinh nghiệm của
người.
Tôi vào hạng đọc sách chứ không chơi sách, không mua những
sách đẹp, quý, hiếm, muốn mua cũng không đủ tiền, chỉ lựa những cuốn có ích hoặc
tôi thích thôi. Sau này, vào khoảng 1960, tôi thấy lối chơi sách khá đặc biệt:
một độc giả lại thăm tôi bảo bất kỳ tác phẩm nào của tôi ông cũng mua, chẳng những
vậy, cuốn nào tái bản mà tôi có thêm bớt, sửa chữa dù ít, cũng mua đủ; như vậy
phải đọc các báo, phải đều đều lại tiệm sách để theo dõi sự xuất bản sách của
tôi. Dĩ nhiên ông ấy để sách tôi vào một chỗ và không cho ai mượn. Tôi lấy làm
hân hạnh lắm nhưng nghĩ bụng có những cuốn tầm thường thì giữ làm gì. Ông ấy chỉ
lại chỗ tôi một lần đó thôi. Trong nước không biết có được ba người như ông
không. Từ đó tôi không gặp lại ông, cũng không nhận được bức thư nào của ông.
Tôi cũng vô tình không hỏi tính danh, địa chỉ của ông nữa. Không biết hiện nay
ông ở đâu mà tủ sách của ông còn không?
Sách nào mua về, tôi cũng đọc hết, dù chán tôi cũng rán, để
biết qua nội dung. Tôi biết nhiều người mua về, lật coi qua rồi để đó, rất ít
khi đọc, rồi lần sau lại mua thêm nữa, số sách mỗi ngày một nhiều, số sách chưa
đọc mỗi người một tăng tới lúc quên không biết mình có những cuốn gì nữa. Đặc
biệt nhất là một ông bạn tôi, cử nhân luật, cứ ít tháng lại gởi mua một chồng
sách ở Pháp, nhận được sách ông xếp thật ngay ngắn trên một cái bàn gần đầu giường,
rồi ngắm nghía, một lát thiu thiu ngủ. Ngày nào cũng vậy, mà không hề đọc được
mười trang. Mỗi cuốn ông chỉ coi cái bìa, trang có nhan đề và bảng mục lục. Hễ
gói sau ở Pháp tới, ông dẹp chồng sách cũ đi mà bắt đầu ngắm chồng sách mới. Kiểu
chơi sách này thật kỳ cục.
Tôi coi sách chỉ là một phương tiện để học, để tra cứu. Khi đọc
tôi luôn luôn có một cây viết chì để đánh dấu những chỗ đáng nhớ, hoặc có thể
dùng tới sau này; cuốn nào thường phải đọc lại thì tôi ghi những ý quan trọng
cùng số trang lên mấy trang trắng (page de garde) ở đầu sách.
Trước năm 1950, tôi không có ý chuyên viết sách, sống về nghề
văn, càng không có ý khảo cứu, mà số sách trong nhà lại ít, độ năm trăm cuốn trở
lại, cho nên tôi thấy không cần phải làm thẻ cho mỗi cuốn, cũng không cần đóng
tủ riêng để chứa. Tôi chỉ có mỗi cái tủ nhỏ cao độ một thước, bề ngang độ nửa
thước, bề sâu độ bốn tấc, với một cái giỏ mây lớn bằng cái rương, mua ở Chợ Cũ.
Những sách có giá trị tôi sắp vào trong tủ, còn bao nhiêu cho cả vào trong giỏ
mây. Về sau sách mỗi ngày mỗi nhiều, tới ba ngàn cuốn, mới thấy bất tiện vì
không có thẻ cho mỗi cuốn; nhưng lúc đó tôi bận công việc viết lách, không thể
bỏ ra vài ba tháng để làm thẻ, mà cũng không thể nhờ ai được, nên đành để như
cũ. Tuy nhiên, sách nào thường dùng tôi để riêng, sắp theo từng loại, không cho
ai mượn cả; vợ con muốn coi cũng phải hỏi tôi. Có những cuốn cả năm tôi không
dùng tới, nhưng bất thần tôi chỉ cần tra trong mươi phút thôi mà kiếm không ra
thì bực lắm; có cuốn mất rồi, không sao mua được nữa, dù có cả ngàn vàng. Như vậy
sách đối với tôi hơn cái cày đối với người làm ruộng, cái búa cái đe đối với thợ
rèn, cho nên không cho mượn được. Tôi phải nhắc đi nhắc lại với người nhà như vậy,
và phải nhiều năm họ mới hiểu được.
Những sách tôi đã đọc rồi mà cho là không quan trọng, hoặc
không dùng tới nữa thì tôi để riêng, nhưng cũng sắp sơ sơ vào từng loại.
MUỐN HIỂU RÕ MỘT NGOẠI NGỮ THÌ PHẢI DỊCH
Đó là việc về sau, chứ trước năm 1945, tôi không có chương
trình vì chưa có chủ đích viết sách, chưa có hướng đi.
Như trên tôi đã viết, tôi đọc sách chỉ để tiêu khiển và vì tò
mò, nhân đó mà học thêm. Môn tôi muốn học thêm làm môn chữ Hán, đạo Khổng và
văn thơ Trung Hoa. Năm 1938-1939, tôi đã lem nhem đọc được vài cuốn cổ văn dễ và vài cuốn Bạch thoại, mười phần hiểu được sáu bảy. Học một ngoại ngữ, khi còn
"ba chớp ba nhoáng" như người miền Nam nói, thì đọc sách ai cũng mắc
cái lỗi tưởng mình hiểu rồi mà thực ra là chưa hiểu. Muốn kiểm soát sự hiểu biết
của mình, muốn hiểu cho rõ thì phải dịch ra tiếng Việt. Khi dịch, bắt buộc ta
phải tra tự điển; câu nào dịch rồi mà ý nghĩa không xuôi, có điểm nào vô lý hoặc
mâu thuẫn với một số câu ở trên thì bắt buộc ta phải soát lại xem mình dịch sai
ở chỗ nào, phải tra tự điển lại, suy nghĩ, lý luận, tìm xem dịch sai ở đâu. Dù
cẩn thận tới mấy cũng có chỗ sai sót, vì mình không ngờ. Cái khổ tâm của người
tự học là ở đó. Tục ngữ có câu: "Không thầy đố mày làm nên". Tôi
không có thầy - vì không ở gần bác tôi mà hỏi thường được - lại không có sách
hướng dẫn, toàn là tự mò lấy, cho nên mệt sức lắm mà sở học có nhiều khuyết điểm.
Để học Bạch thoại, tôi tập dịch Nam du tạp ức và bài Tam bất
hủ trong tập Văn tuyển, cả hai đều của Hồ Thích. Văn Hồ Thích giản dị, minh bạch,
nên tôi dịch không sai lắm. Tập trên chép những điều Hồ Thích mắt thấy tai nghe
khi ông đi từ Thượng Hải xuống chơi Quảng Tây theo lời mời của các nhà cầm quyền
Quảng Tây: Lý Tôn Nhan, Bạch Sùng Hy Hồ khen cảnh thịnh trị của Quảng Tây, trên
dưới thân với nhau, trên làm gương cho dưới, cần kiệm và giản dị, dưới kính yêu
trên; Hồ lại tả phong cảnh rất đẹp ở Quảng Tây, chép một số bài dân ca nữa. Bản
dịch đó tôi còn giữ.
Bài Tam bất hủ là một áng văn hay của Hồ Thích, sau đó tôi
cho in vào phần Phụ lục cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng. Trong tập Hồ
Thích văn tuyển, ngoài bài đó ra còn hai truyện ngắn nhưng không hay, kém xa
truyện ngắn của Lỗ Tấn nên tôi không dịch.
Đọc cổ văn Trung Quốc tôi dùng bộ Cổ văn quan chỉ. Nhờ có lời
chú thích và bản dịch ra bạch thoại nên tôi mò lần cũng ra. Và tôi cũng dịch độ
một trăm bài ra tiếng Việt, không phải để tập dịch mà để học, cho nên bản dịch
đó sau này bỏ, không dùng. Công việc thật mệt, mỗi ngày tôi dịch được một bài
thôi. Nhờ dịch mà tôi thấy được cái hay của cổ văn: bài nào bố cục cũng kỹ, mở
thường đột ngột mà kết thường gọn, mạnh; ý nhiều khi khoáng đạt, có chút triết
lý mà lời thì gọn, hàm súc, du dương. Sau này mỗi khi muốn có cái cảm giác nhẹ
nhàng của người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên ngọn đồi thì cứ phải
lật bộ cổ văn ra, chứ không tìm được trong một tác phẩm hiện đại nào cả. Cho tới
bây giờ, tôi vẫn cho những bài Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú, Hỹ vũ
đình ký của Tô Đông Pha, Tuý ông đình ký của Âu Dương Tu, Lan Đình tập tự của
Vương Hy Chi, Nhạc Dương lâu ký của Phạm Trọng Yêm là những viên ngọc nhỏ trong
văn học Trung Hoa.
Tôi thích quá, mua một bộ tặng ông bạn Pháp lai, Paul
Schneider, lúc đó mới bắt đầu học chữ Hán; và mới rồi ở Pháp ông viết thư cho
tôi bảo thỉnh thoảng vẫn mở bộ đó ra đọc lại. Ông đã dịch một số thơ Việt Nam
ra tiếng Pháp và đương nghiên cứu về chữ Nôm, hiện đã xuất bản được vài cuốn có
giá trị về thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ở trung học tôi không được học cách luyện văn, viết một bài
luận cho có nghệ thuật; đọc cổ văn tôi mới tìm được nghệ thuật của cổ nhân, và
tôi bất giác bắt chước các viết của cổ nhân. Trong mấy năm đầu thế chiến, tôi tập
viết mười bài tuỳ bút, và trên mười bài luận về các nhân vật lịch sử như: Hồ
Quý Ly, Trần Danh Án, Anh em Tây Sơn Một số bài được bác Ba tôi bảo đáng được
"bình", riêng bài Hương và Sắc, bác tôi phê "ưu" với hàng
chữ: "Hạ bút thành văn, bút cũng thơm". Bài này tôi đã cho in vào tập
Hương sắc trong vườn văn (1961). Đa số những bài khác gần đây đọc lại tôi không
vừa ý vì lý luận thiên lệch, quá bất công với cổ nhân, có giọng một hủ Nho,
không chịu hiểu hoàn cảnh, tâm lý người xưa mà cứ đưa đạo lý ra để bắt bẻ. Tật
đó tôi lây của cổ nhân nhưng đã biết sớm bỏ.
Về Triết học Trung Quốc, tôi chỉ đọc được bộ Tứ thư, Chu Hy
chú giải; tôi không có bản dịch ra Việt văn và bộ giúp tôi nhiều nhất là bộ Nho
giáo của Trần Trọng Kim. Tôi cũng mua những cuốn Lão Tử, Mặc Tử của Ngô Tất Tố
(Mai Lĩnh xuất bản).
Tôi mừng khi kiếm được những cuốn về Văn học sử Trung Quốc
như: Trung Quốc văn nghệ tư trào sử lược của Chu Duy Chi, Trung Quốc văn học sử
đại cương của Dương Triệu Tổ, Tân trứ Trung Quốc văn học sử của Hồ Vân Dực, Bạch
thoại văn học sử của Hồ Thích, Histoire de la litérature chinoise của
Margouliès, La Littérature chinoise của O.Kaltenmark Ghéquier.
Nhờ những cuốn đó mà tôi thỏa mãn được lòng tò mò của tôi khi
học chữ Hán với bác Hai tôi vì sách Việt chưa có cuốn nào viết về văn học Trung
Quốc cả, trừ cuốn Hán văn khảo quá sơ lược của Phan Kế Bính.
Đọc những sách chữ Hán kể trên, mới đầu tôi hiểu được ít thôi
vì sách không có chú thích; mà đọc hai cuốn chữ Pháp thì không cuốn nào in chữ
Hán, chỉ phiên âm ra tiếng Pháp, lối này tôi chưa quen, không sao nhận ra được
tên người và tên tác phẩm chữ Hán, nên hết hứng thú. Nhưng lần lần rồi cũng
quen và hiểu được gần hết.
DỊCH SÁCH
Cũng vào khoảng đầu thế chiến, một số nhà văn ở Hà Nội đã bàn
đến giáo dục như Vũ Đình Hòe trên tờ Thanh Nghị, Thái Phỉ trong cuốn Một nền
giáo dục Việt Nam mới.
Tôi quan tâm ngay đến vấn đề đó vì hồi ấy con tôi đã được vài
tuổi. Một người bạn cho tôi mượn cuốn L’Éducation des sentiment của P. Félix
Thomas, được giải thưởng của Học viện Luân lý - Chính trị ở Pháp.
Khi phân tích một tình cảm nào, tác giả cũng xét qua lại hết
thảy những thuyết của các triết gia cổ kim, rồi dùng những kinh nghiệm, những
hiểu biết của ông về trẻ em - ông là một nhà giáo dục - để xét những thuyết đó
chỗ nào sai, chỗ nào đúng, rồi bày tỏ chủ trương của mình, chủ trương này có
tính cách trung dung, không quá thiên về trí dục - và khuyên ta cách thực hành
ra sao trong sự giáo dục trẻ.
Lòng yêu trẻ của ông thật nồng nàn, nên văn ông có nhiều chỗ
cảm động, chỗ nào cũng sáng sủa, có khi hoa mĩ, đọc rất thú. Cho nên tôi hăng
hái dịch ngay, chỉ lược dịch thôi, có chỗ tóm tắt đại ý, chỉ cốt sao không phản
ý tác giả là được. Tuy nhiên, những đoạn hay tôi đều dịch sát, không bỏ một
câu, cốt lột được nghệ thuật viết của tác giả. Nhờ vậy bản dịch đầu tay đó được
anh em trong nhà đều khen là trôi chảy, sáng sủa mà có văn chương. Về sau tôi
giữ lối đó khi dịch những sách trong loại Học làm người.
Tôi còn dịch một chương trong cuốn Un Art de vivre của A.
Maurois nhưng không nhớ chương nào vì không giữ được bản thảo.
Năm 1944, tôi không thoả mãn về cuốn Một nền giáo dục Việt
Nam mới của Thái Phỉ nên viết một cuốn khác dày khoảng trăm rưỡi trang đánh máy,
mới đưa cho bác Ba tôi và thi sĩ Việt Châu (con trai thứ của bác tôi) coi, rồi
sau thất lạc trong Đồng Tháp Mười, hồi tản cư năm 1946. Tôi không nhớ tên tác
phẩm đó nữa. Thời đó tôi viết bản nháp trong những vở học trò 100 trang, xong rồi
mới sửa lại và chép tay trên giấy đánh máy, chép một mặt thôi mà cũng chỉ chép
một bản vì khan giấy. Thời chiến tranh, các nhà máy giấy trong nước chỉ sản xuất
được một thứ giấy rất xấu, đen, dày, một mặt láng, một mặt nhám; rồi sau thứ giấy
đó cũng hiếm, các nhà xuất bản phải dùng thứ giấy bản của làng Bưởi (gần Hà Nội).
VIẾT DU KÝ
Làm ở sở Thủy lợi, tôi có dịp đi kinh lý nhiều nơi, được biết,
thác Khône ở Lào, Đồng Tháp Mười, Long Hải, thác Trị An, Đế Thiên Đế Thích
(1943). Thấy cảnh nào đẹp tôi đều chép vào nhật ký hay du ký.
Tôi tiếc không giữ được nhật ký thác Khône, nay chỉ nhớ đại
khái. Sở phái tôi đi lên đó để đo lưu lượng (débit) sông Cửu Long cuối mùa nắng,
lúc mực nước thấp nhất. Từ Sài Gòn, chúng tôi đi xe hơi của sở hai ngày mới tới,
làm việc ba ngày rồi về.
Không phải chỉ có một cái thác mà có tới sáu bảy cái nằm
ngang một dãy. Ở đó lòng sông toàn đá nổi lên ngăn dòng nước, nước sông ứ lại ở
phía trên rồi trút xuống thành thác, cái cao nhất có thể tới chục thước. Vì là
mùa cạn nên nước không chảy xiết lắm, nhưng tiếng nước ầm ầm dội cũng rất xa.
Bên bờ sông là những ngọn núi cao, đầy cổ thụ, cảnh thật hoang du. Có một đường
xe lửa nhỏ dài bảy cây số nối quãng trên với quãng dưới thác. Tàu thuỷ Luang
Prabang xuống phải ngừng ở quãng trên, chuyển hành khách và hàng hóa lên xe lửa
để xuống quãng dưới, từ đây có tàu khác đón để đưa xuống Nam Vang.
Khône có một nhà bưu điện và một nhà thương, một sở Hiến
binh, vài biệt thự cho công chức, còn toàn là nhà sàn bằng gỗ, lá của người
Lào. Có mỗi một cái quán của Hoa kiều bán sữa, cà phê và vài thứ bánh ngọt. Cảnh
rất buồn.
Một nhân viên công chánh ở đó, coi đường xe lửa mời tôi về
nhà thầy ta ở và tổ chức một buổi nhạc của người Lào cho tôi xem. Có hơn một chục
người Lào lại nghe, họ ngồi xổm cả xuống sàn, bà già cũng nhai trầu như mình,
thiếu nữ thì không. Họ gầy, yếu, đen đủi, y phục xấu xí - không có chiếc xà
rông nào rực rỡ cả - khác xa hình ảnh các phù sảo xinh tươi, tình tứ trong các
tiểu thuyết Pháp tả xứ Lào. Chủ nhà bảo tôi muốn thấy mỹ nhân Lào thì phải lên
phía Bắc, ở Vientiane, Luang Prabang. Tiếng khèn (một thứ sáo có nhiều ống)
không réo rắt mà cứ đều đều một điệu buồn buồn, giọng hát cũng không hay, tôi
chỉ nghe một lát là chán.
Tối hôm sau, chủ nhân dắt tôi đi coi "bun" ở một
ngôi chùa. Chùa nhỏ, rất ít tượng Phật. Một ông Lục ngồi trên cao, độ hai chục
thanh niên nam nữ Lào tay cầm cây nến đỏ nhỏ, nối nhau chạy theo một vòng tròn
trước mặt ông Lục. Ông như nhập định, không hề nhúc nhích. Đứng coi độ mười
phút rồi tôi ra về. Tôi nghĩ mỗi năm lên bờ thác Khône độ vài tháng viết sách
thì thú, ở lâu chắc chịu không nổi.
Khi về Sài Gòn, ngoài cảnh thác hùng vĩ, tôi chỉ còn giữ được
vài hình ảnh này: một đám thiếu nữ Lào để cả xà rông tắm, lội trên dòng sông,
khi tà dương gần tắt chỉ còn ít ánh vàng trên ngọn cây rừng.
Như trên tôi đã nói, bác Ba tôi từ năm 1913 hay 1914, phải lẻn
về làng Tân Thạnh ở ven Đồng Tháp Mười để tránh bọn mật thám Sài Gòn, rồi sau lập
nghiệp ở đón nên biết được cảnh hoang vu của Đồng Tháp hồi đầu thế kỉ, kể cho
tôi nghe nhiều chuyện về dân tình, lối sống, thổ sản miền đó; sau tôi lại đi đo
trong Đồng Tháp một thời gian, rồi đi kinh lí nhiều lần từ Hồng Ngự tới Tân An;
về Sài Gòn tôi đọc thêm được nhiều tài liệu của sở Thuỷ lợi, mua được cuốn La
Plaine des Jonc của V. Delahaye, nhờ vậy tôi biết được khá nhiều về Đồng Tháp.
Sau khi nhận lời anh Vũ Đình Hòe viết giúp tờ Thanh Nghị, tôi
khảo cứu thêm các cuốn sử, địa phương chí, các số báo Courrier de Saigon năm
1865-1866, đọc tất cả những gì liên quan đến Đồng Tháp để viết cuốn Bảy ngày
trong Đồng Tháp Mười, nhưng sau sáu bảy tháng viết xong thì sở Bưu Điện Sài Gòn
không còn nhận đồ bảo đảm ra Hà Nội nữa vì đường giao thông trắc trở, tôi đành
cất bản thảo đi, đợi một cơ hội khác. Cuốn đó tôi viết công phu, nhưng sau bản
thảo mất ngay trong Đồng Tháp Mười hồi tôi tản cư về đó, năm 1946. Tôi rất tiếc,
và tám năm sau tôi phải viết lại. Tôi sẽ trở lại việc này trong một chương
khác.
Nhưng thích nhất là cuộc du lịch Đế Thiên Đế Thích. Năm 1943,
viên kỹ sư thấy tôi làm việc đắc lực, tạo cơ hội cho tôi đi kinh lý ở ngay
trong vùng có những cổ tích hoang tàn của Cao Miên đó mà có người gọi là
"kỳ quan thứ tám của thế giới".
Tôi mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang. Ở
Nam Vang một ngày coi chùa Vàng, chùa Bạc, làm vài việc cỏn con cho sở rồi năm
giờ chiều lên xe đi Siemreap, khoảng hai giờ khuya tới Siemreap. Hồi đó vào hạ
tuần tháng giêng dương lịch năm 1943, mùa tốt nhất để đi coi cảnh Đế Thiên Đế
Thích vì trời rất trong, không mưa và hơi có gió bấc, không khí không nóng lắm,
đêm hơi lạnh.
Ở Siemreap, tôi ghé nhà anh Hách - anh đã đổi lên trên đó để
xây một cái đập cho công cuộc thuỷ nông - và anh và hai bạn công chánh nữa đưa
tôi đi thăm các di tích hoang tàn.
Trong hai ngày, chúng tôi đi coi thành phố Siemreap và một
khu rừng chu vi trên ba chục cây số, chỗ nào cũng có phế tích. Không thể đi coi
hết được, chúng tôi chỉ thăm độ 15 ngôi đền lớn, nhỏ, kiến trúc đẹp nhất và ba
cái hồ, mà lại coi vội vì không có đủ thì giờ.
Trong suốt cuộc du lịch đó, lòng tôi lúc nào cũng phơi phới,
nhẹ nhàng, như nghe một bản nhạc êm đềm. Cảnh thật thanh tĩnh, nên thơ, gây biết
bao nỗi hoài cảm. Tôi thích cảnh stung (sông) Siemreap dưới trăng với những cầu
gỗ khom khom có tay vịn, như cầu Thê Húc ở hồ Hoàn Kiếm nhưng dài hơn. Trăng vằng
vặc chiếu qua cành lá thưa, lấp lánh trên một dòng nước con con - mùa này nước
stung cạn - thỉnh thoảng có mùi hương dịu và tí tách có tiếng nước nhỏ giọt từ
các guồng nước - thứ guồng dùng ở Quảng Nam - cứ đều đều, chậm chạp quay, như gạn
từng giọt nước pha lê vào những máng nước dài đưa vào vườn hoa của các biệt thự
trên bờ.
Tôi mê cảnh đền Bayon mà Doudart de Lagrée bảo là "thần
tiên lạ lùng", với 50 ngọn tháp, 43 đầu Phật, mỗi đầu có bốn mặt, mặt nào
cũng có nụ cười hiền từ, khoan hoà, bí mật.
Đền Angkor Vat dưới ánh nắng tà dương làm tôi xúc động mạnh.
Khi qua cái hào rộng trên 200 thước mà lục bình như muốn giữ mây chiều lại, vừa
bước tới cửa Tây thì đền hiện lên, đè nặng lên tâm hồn tôi. Tôi thấy ngộp gấp mấy
lần khi đi thăm đền Hùng ở Phú Thọ. Ở đây, kiến trúc Miên đã đạt tới tuyệt đỉnh:
hàng triệu phiến đá hợp thành một khối cân đối, rất hài hoà để diễn một ý tưởng
vừa hùng vừa diễm.
Nhưng hợp với tâm hồn tôi nhất là đền Ta Phrom, kiến trúc
khác hẳn các đền kia, không cao, không đồ sộ mà trải rộng ra trong một khu rừng,
và ở sâu trong rừng, có một lối đi lát đá dài 500 thước đưa vào. Chỉ riêng đền
này còn giữ vẻ hoang vu. Trường Viễn Đông Bác Cổ đã có sáng kiến lựa nơi đây mà
bảo tồn cảnh thiên nhiên để ta được hưởng cái cảm giác rùng rợn của các nhà
thám hiểm thời trước.
"Ở đây mới thực là cảnh hoang tàn. Ở đây ta mới thấy sự
chiến đấu giữa cây và đá, giữa loài người và hóa công. Có những rễ cây lớn mấy
tấc, dài hàng chục thước, uốn khúc ôm lấy bệ của tòa đền và nổi gân lên như muốn
vặn cho nó đổ mới chịu được. Có cây lại ngạo nghễ ngồi xếp bằng trên một toà
khác, ung dung thả hàng trăm rễ xuống, như hàng trăm tay của loài bạch tuộc,
ghì chặt lấy mồi của mình, không cho nó cựa rồi hút dần tinh tuý của nó, cho thịt
nó rã, xương nó tan, mà hiện nay ngôi đền cũng đã gần tan gần rã. Có cây độc ác
hơn, đâm một rễ lớn từ đỉnh đền xuống như cắm lưỡi gươm vào đầu quân thù".
Mấy chục năm nay, tôi vẫn ao ước chiến tranh trên bán đảo chữ
S này chấm dứt, sẽ đi thăm lại Đế Thiên Đế Thích, cũng như tất cả cảnh đẹp ở Việt
Nam, nhưng nay không còn hy vọng gì nữa.
Về Sài Gòn, tôi chép ngay lại cảm tưởng khi du lịch, sợ để
lâu quên mất, và trong khi viết tôi được sống lại những lúc vui đã qua, như được
du lịch lần thứ hai. Khoảng giữa tháng hai năm 1943, tôi hoàn thành tập du ký Đế
Thiên Đế Thích. Tập này viết cũng rất kỹ.
Ngoài những cuộc kinh lý kể trên, tôi còn thường xin nghỉ mỗi
năm nửa tháng hay một tháng để về thăm quê hương hoặc đi thăm ông nhạc tôi ở
Tuy Hoà, nhân tiện ghé thăm Nha Trang, Quy Nhơn. Chính trong những chuyến nghỉ
đó mà tôi được thấy cảnh đẹp mê hồn của miền duyên hải Trung Việt. Và lần nào về
nhà tôi cũng ghi vội lại, định cứ mỗi năm đi tiếp một quãng: Quy Nhơn -
Tourane, Tourane - Huế, Huế - Nghệ An, Nghệ An - Thái Bình, khi nào đi hết bờ
biển Trung Việt sẽ viết một cuốn nhan đề là Trên con đường thiên lý tả những cảnh
đẹp, những cổ tích, phong tục trên dãy đất đó của Việt Nam; cuốn đó sẽ là cuốn
tôi viết say mê nhất và sẽ là tác phẩm chính của tôi. Nhưng tôi chỉ mới ra được
tới Quy Nhơn thì thế chiến đã nổ, không có dịp tiếp tục đi nốt những chặng sau;
và tôi chỉ ghi vội được bốn tập - mỗi tập ba bốn chục trang nhỏ: Về Bắc lần đầu,
Về Bắc lần nhì, Về Bắc lần ba và Nha Trang - Tuy Hòa - Quy Nhơn.
Cũng may mà các tập đó không thất lạc và tôi đã trích được ít
đoạn tả cảnh đèo Cả, đèo Hải Vân, Đại Lãnh, Lăng Cô, toàn thể thành phố Nha
Trang, sửa lại rồi đưa vào chương trên.
Viết xong tập nào tôi cũng đưa bác Ba tôi đọc. Bác tôi rất
khen tập Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đế Thiên Đế Thích và tập trong đó tôi
đưa ra một chính sách giáo dục cho nước nhà, khen tôi có tài viết văn và văn của
tôi hơi chịu ảnh hưởng của cổ văn Trung Quốc. Người cho tôi hai câu đối:
"Sơn thủy kỳ tung du thị học,
Văn chương diệu phẩm thực nhi hoa".
Nghĩa:
Những nơi sơn thủy kỳ dị, đi chơi tức là học đấy,
Văn chương diệu phẩm thì thành thực mà hoa mỹ.
"Học bản tu thân, thân tức quốc,
Nhân năng bạt tục, tục nhi tiên".
Nghĩa:
Học gốc ở tu thân, thân mình tức là nước,
Có tư cách bạt tục, tuy tục mà tiên.
Tôi cũng đưa ba tập đó cho thi sĩ Việt Châu coi - lúc đó anh
giữ mục phụ trương văn thơ của một tờ nhật báo (tôi quên tên) do Bùi Thế Mĩ làm
chủ nhiệm kiêm chủ bút. Việt Châu bảo tôi nên xuất bản hoặc đăng báo đi; tôi
đáp: "Để thủng thẳng, gấp gì".
Tôi tin rằng ba tác phẩm đó với bản dịch cuốn Huấn luyện tình
cảm không kém một tác phẩm nào đã xuất bản trong loại của chúng, nên lúc nào in
cũng được, đợi chiến tranh kết thúc rồi, kinh tế thịnh vượng lên, in sẽ có lợi
hơn.
BẢN THẢO VIẾT TỪ NĂM 1937 ĐẾN NĂM 1945
Tính lại thì trong những năm ở Sài Gòn - từ 1937 đến 1945 -
tôi đã tự học mà biết thêm một ít chữ Hán, một ít văn học và triết học Trung Quốc;
và đã viết được trên ngàn trang, mục đích chỉ là để tiêu khiển, tự học, chưa có
ý xuất bản, tuyệt nhiên không phải vì lợi hay vì danh. Viết để tiêu khiển thì tất
nhiên chưa có chủ trương, đường lối rõ rệt, thích cái gì viết cái đó, tùy hứng.
Tuy nhiên cũng đã có xu hướng: tôi không làm thơ, không viết tiểu thuyết mà
thích loại ký (du ký, hồi ký), nghị luận, cảo luận, tuỳ bút, và chú ý tới các vấn
đề giáo dục và văn học. Nhưng chưa có ý bước vào khu vực biên khảo. Hồi đó tôi
trên dưới ba mươi tuổi, sự hiểu biết còn hẹp, lý luận chưa vững, nhưng nhận định
không đến nỗi hời hợt, mà bút pháp đã định rồi: văn cần sáng sủa, bình dị, nếu
hơi hoa mĩ thì càng quý, cần nhất là xúc cảm phải chân thành; những nét đó sau
này tôi vẫn giữ, nhờ vậy mà độc giả thích tác phẩm của tôi.
Đến năm 1945, tôi đã có được khoảng chục bản thảo.
Không kể những tập Hồi ký tuổi xuân (viết từ hồi đi đo đất ở
Hậu Giang), Ba lần về Bắc (năm 1940, 1943, 1944), tập Du Ký Nha Trang - Quy
Nhơn, tập dịch Cổ văn Trung Quốc, tập Tùy bút, Cảo luận, tất cả đều viết xong rồi
không sửa lại, chỉ coi như những tài liệu; còn sáu tập nữa:
- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười (mất)
- Đế Thiên Đế Thích
- Bàn về giáo dục (mất)
- Huấn luyện tình cảm, dịch P. F. Thomas
- Nam du tạp ức, dịch Hồ Thích
- Dịch văn nước ngoài, dịch A. Maurois và bài Tam bất hủ của
Hồ Thích tôi đều sửa chữa kỹ lưỡng định sau sẽ in, nhưng bản thảo Đồng Tháp Mười,
bàn về giáo dục, dịch A. Maurois đã thất lạc trong hồi tản cư.
Trong số những bản còn lại, năm 191, nhà xuất bản P. Văn Tươi
in tập Huấn luyện tình cảm, năm 1968 nhà Thời Mới in tập Đế Thiên Đế Thích; bài
Tam bất hủ của Hồ Thích tôi cho vô phụ lục cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng
(P. Văn Tươi, 1951), tập Nam du tạp ức để lâu quá, mất thời gian tính, tôi bỏ
không dùng; còn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười tới năm 1954 tôi phải viết lại và
xuất bản ngay năm đó.
Hồi đó tôi nghĩ rằng sẽ làm công chức tới khi về hưu, rãnh và
có hứng thì viết, nếu về già góp với đời được độ mươi cuốn cũng là nhiều rồi.
Nhưng rồi do thời cuộc biến chuyển, mùa thu năm 1945 tôi bỏ luôn nghề công
chánh mà sống về nghề cầm bút và số tác phẩm ba chục năm sau gấp mười số tôi dự
tính. Điều đó mẹ tôi, các bác tôi và chính tôi nữa cũng không sao ngờ được. Tới
nay tôi cũng không biết cuộc đời của tôi, mấy phần do tôi quyết định, mấy phần
do hoàn cành, thời thế xui khiến. Tôi cho rằng dù cho thời thế đưa đẩy thì vẫn
phải có ý chí của con người.
Chú thích:
1. Gần đây ông Vương Hồng Sến cho tôi hay thời đó ông cũng thường
lại tiệm đó, nhưng chúng tôi chưa quen nhau.
CHƯƠNG XIV
VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ ĐẾN THẾ CHIẾN THỨ NHÌ
VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ ĐẾN THẾ CHIẾN THỨ NHÌ
Trong chương này tôi ghi lại sơ lược những biến cố lớn và tình
hình xã hội Việt Nam. Tôi không bao giờ có ý viết sử nên không thu thập tài liệu;
lại thêm một số sách rất ít ỏi tôi có được thì trong mấy năm nay, do thời cuộc
phải dời chỗ hoài, gởi người này, tặng người khác, thất lạc gần hết, bây giờ có
muốn tìm lại để tra cứu cũng không được. Vì vậy tôi đành nhớ tới đâu, chép tới
đấy, chắc chắn là còn thiếu sót, lầm lẫn nhiều, nhưng về xu hướng và những nét
chính thì may ra không đến nỗi sai lắm.
A. CHÍNH TRỊ
PHONG TRÀO CHỐNG PHÁP
Đầu cuốn Đông Kinh nghĩa thục, tôi đã nói cuối thế kỷ trước,
các cuộc khởi nghĩa nối nhau tan rã gần hết.
Năm 1887, nghĩa quân ở Bình Định, Phú Yên bị Trần Bá Lộc dẹp,
Mai Xuân Thưởng bị hành hình. Tám năm sau Phan Đình Phùng bị bệnh lỵ mất ở Hà
Tĩnh; Nguyễn Thân đem hỏa thiêu thây của người, trộn với tro vào thuốc súng bắn
ra biển. Hai năm sau nữa, tiếng súng im hẳn ở Bãi Sậy, Nguyễn Thiện Thuật lẻn
qua Trung Hoa. Đầu năm sau nữa, Đề Thám trá hàng ở Nhã Nam. Nhưng cứ lớp trước
tàn thì lớp sau lại dậy, tinh thần bất khuất của dân tộc ta không khi nào tắt.
Năm 1903 hay 1904, Phan Bội Châu viết cuốn Lưu Cầu huyết lệ tân thư, tả cái nhục
mất nước và tuyên bố phải mở mang dân khí làm nền tảng cứu quốc, rồi thành lập
hội Duy Tân. Chủ trương của cụ đã hơi khác các nhà cách mạng trước: không tự lực
hoạt động trong khu vực nhỏ, muốn thống nhất các hoạt động rời rạc, gây một
phong trào toàn dân và sự viện trợ của ngoại quốc để hoặc động cho đắc lực.
Cuối năm 1904, ba cụ Phan Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc
Kháng rủ nhau chu du mấy tỉnh miền Nam Trung Việt để cảnh tỉnh đồng bào. Trong
dịp đó, cụ Phan Chu Trinh làm bài thơ bất hủ Chí thành thông thánh.
Phong trào Duy tân nổi lên mạnh mẽ những năm 1906- 1908. Có ảnh
hướng lớn nhất là phong trào Đông Kinh nghĩa thục ở Bắc do cụ Lương Văn Can khởi
xướng. Nghĩa thục bị Pháp đóng cửa sau một năm hoạt động (1907), một số nhà
cách mạng bị đày Côn đảo, rồi bị an trí ở Nam việt (cụ Lương bị an trí ở Nam
Vang); nhưng chỉ trong một năm đó, các cụ đã gây được tiếng vang khắp nước, đâu
đâu cũng nghe thấy trẻ ê a vần Quốc ngữ và các bà mẹ ru con bằng những bài ca
ái quốc của nghĩa thục; hai chữ "khoa cử" bị các cụ "mài bỏ"
và rất nhiều nơi mở tiệm buôn, thành lập các công ty khuếch trương nông nghiệp,
công kỹ nghệ.
Cuối năm 1911, cụ Sào Nam (Phan Bội Châu) qua Trung Hoa, năm
sau thành lập Việt Nam quang phục hội ở Quảng Châu, phát hành thông dụng phiếu
và quân dụng phiếu để mua khí giới định tấn công Pháp. Thế chiến thứ nhất nổ, Đức
giúp cho hội được một số tiền nhỏ. Các cụ vội vã hoạt động liền, tấn công vài đồn
nhỏ ở miền Lạng Sơn, thất bại.
Năm 1917, lại có cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên do Lương Ngọc
Quyến (con cụ Lương văn Can) và Trịnh Cấn (tức Đội Cấn) chỉ huy. Cụ Lương Ngọc
Quyến lúc đó bị giam trong ngục Thái Nguyên, bị Pháp dùi bàn chân để buộc xích
sắt, nên liệt hẳn một chân; mặc dầu vậy cụ vẫn liên lạc với viên đội khố xanh
Trịnh Cấn, bày mưu cho Trịnh Cấn khởi nghĩa, phá ngục chiếm đồn. Nghĩa binh làm
chủ được tỉnh lỵ Thái Nguyên dược một tuần (từ 30-8 đến 5-9), dùng lá cờ năm
ngôi sao làm quốc kỳ, đặt quốc hiệu là Đại Hùng đế quốc, công bố hai bài tuyên
ngôn với quốc dân; sau không chống nổi với Pháp, phải rút lui; nhưng còn chống
cự được tới cuối năm. Lương Ngọc Quyến vì liệt một chân, yêu cầu Đội Cấn bắn một
phát vào giữa ngực mình ngay ở Thái Nguyên (5-9); Đội Cấn bị vây và bị thương ở
Pháo Sơn, chung quanh chỉ còn bốn thủ hạ, tự bắn vào bụng mà chết. Trong lịch sử
cách mạng của dân tộc ta, hai cái chết đó cảm động và oanh liệt vào bực nhất.
Mà cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên cũng là cuộc duy nhất trong thế chiến thứ nhất
khiến Pháp phải lo ngại.
HAI CỤ PHAN
Cụ Tây Hồ (Phan Châu Trinh) qua Pháp từ năm 1911, chủ trương
bất bạo động mà tranh đấu một cách công khai - bằng báo chí, diễn thuyết - đòi
Pháp thay đổi chính sách cai trị. Năm 1914, đầu thế chiến, cụ bị Pháp giam, năm
sau được thả. Năm 1922, khi Khải Định qua Pháp dự cuộc đấu xảo quốc tế, cụ gởi
cho ông ta một bức thư trách ông ta bảy điều, lời rất nghiêm khắc nhưng xác
đáng, mà hai điều quan trọng nhất là làm nhục quốc thể, có điều ám muội trong
việc bang giao với Pháp.
Năm 1925 cụ về nước, hăng hái diễn thuyết hô hào dân chủ, mở
mang dân trí, nhưng không được bao lâu thì mất vì bệnh ở Sài Gòn (1926). Học
sinh các trường trung học có tiếng Bắc, Trung, Nam để tang cụ, có nơi bị đàn
áp, gây ra vụ bãi khóa như ở trường Bưởi; nhiều người bị đuổi.
Năm 1924, nhà cách mạng Phạm Hồng Thái ném bom giết hụt Toàn
quyền Đông Dương Merlin ở Sa Điện (Quảng Châu) - rồi tự trầm ở Châu Giang để khỏi
bị địch bắt. Pháp căm tức, dò biết rằng vụ đó do đảng viên Việt Nam quang phục
hội nhúng tay vào, nên kết án Phan Bội Châu tử hình vắng mặt và tìm mọi cách bắt
cụ. Tháng 7 năm 1925 cụ bị bắt ở Trung Hoa, giải về Hà Nội, xử cụ tội tử hình
trong phiên tòa 23-11-1925. Nhưng khắp trong nước, các đoàn thể, báo chí đều nổi
lên mãnh liệt đòi ân xá cho cụ, và Toàn quyền Pháp là Varenne khôn ngoan nhượng
bộ, chỉ giam lỏng cụ tại Huế, xóm Bến Ngự, bên bờ sông Hương. Từ đó cụ không hoạt
động gì nữa rồi mất ngày 29- 11-1940. Trước khi mất cụ làm một bài thơ tự hỏi
hoạt hoạt động của cụ trong mấy chục năm là công hay tội. Để trả lời câu đó tôi
viết bài Cụ Phan và lòng dân in trong tập Kỉ niệm 100 năm năm sinh Phan Bội
Châu (Trình Bày, 12-1967) mà dưới đây tôi xin trích một đoạn:
"Tết năm đó, vào tháng giêng hay tháng hai dương lịch
1926, tin cụ Phan bị bắt ở Trung Hoa, giải về giam ở Hỏa Lò Hà Nội, bị kết án tử
hình rồi toàn dân sôi nổi đòi ân xá cho cụ, dân làng tôi đều biết hết. Chắc chắn
họ không đọc báo; có người nào đó xuống phủ, xuống tỉnh, nghe đồn rồi về làng kể
lại. Điều đó không có gì lạ. Điểm thích thú là trong mấy ngày Tết, lại nhà nào
cũng nghe la lớn: "Cụ Phan" rồi tiếp theo là một tràng những tiếng cười
ròn rã như tiếng pháo. Từ xóm Đình đến xóm Chùa, xóm Giếng tới xóm Đồng Đỗ, đâu
đâu cũng vang lên hai tiếng "Cụ Phan".
Có gì đâu. Tết thì nhà nào ở quê Bắc chẳng đánh tam cúc, và
dân làng tôi gọi quân tướng điều là "Cụ Phan". Một vài nhà hơi có học
phân biệt tướng điều là cụ Phan Bội Châu, tướng đen là cụ Phan Chu Trinh, nhưng
đại đa số chỉ gọi tướng điều là "Cụ Phan".
Tôi không biết mấy làng bên cạnh có gọi như vậy không (...),
nhưng tôi đoán rằng đó không phải là sáng kiến của riêng làng tôi, chắc nó phải
đồng thời xuất hiện ở nhiều nơi, vì còn gì tự nhiên cho bằng dùng con bài quí
nhất, vô địch trong cỗ tam cúc để chỉ cụ Phan. Nó tự nhiên quá nên rất phổ biến,
tới nỗi ngay các tổng lí cũng vui vẻ, hãnh diện có được một "Cụ
Phan". Và tôi nghĩ hồi đó giá có một tên "trành" nào bán nước mà
ngồi vào chiếu tam cúc, khi hạ quân tướng điều xuống chiếu thì tất cũng vỗ đùi
một cái mà cười ha hả: "Cụ Phan".
Những ván bài tam cúc đó quả là vui, vui nhất trong đời sống
làng tôi".
CÁC ĐẢNG PHÁI MỚI: VIỆT Nam QUỐC DÂN ĐẢNG - ĐÔNG DƯƠNG CỘNG SẢN
ĐẢNG.
Từ 1925 trở về trước, hai cụ Phan tiêu biểu cho tinh thần ái
quốc Việt Nam. Từ 1925 trở đi, xuất hiện thêm nhiều đảng phái mà người thành lập
hầu hết ở trong giới tân học.
- Năm 1925 là đảng Tân Việt ở Trung Việt, đảng viên phần đông
là công chức và tiểu tư sản. Đảng chưa hoạt động được gì thì phải giải tán.
- Hai năm sau, 1927, Nguyễn Thái Học, sinh viên trường Cao đẳng
Thương mãi Hà Nội, lập Việt Nam Quốc dân đảng ở Bắc. Đường lối của đảng là dùng
võ lực giành lại chủ quyền rồi thành lập chính thể Cộng hòa. Đảng được nhiều giới
gia nhập: công chức, tiểu tư sản, công nhân, thương nhân, quân nhân, cả tổng
lí, học sinh nữa 1; lập được nhiều chi bộ, thâu nạp được nhiều đồng chí, rất có
tiếng trong nước.
Đảng mới thực hành được vài vụ ám sát, như vụ ám sát Pháp kiều
Bazin, giám đốc sở mộ phu cho các đồn điền cao su Nam Việt và Tân thế giới
(Nouvelle Calédonie), thì do một tên phản đảng mà mật thám biết được nhiều bí mật
của đảng, thẳng tay đàn áp, truy nã.
Từ đó Nguyễn Thái Học càng phải hoạt động gấp, mở cuộc tổng
khởi nghĩa cùng một ngày ở nhiều nơi; nhưng vì tổ chức vội, có nhiều nơi nhận
được tin trễ hoặc chuẩn bị không kịp, thành thử thất bại. Trong đêm 9, rạng
ngày 10-2-1930, nghĩa quân chỉ tấn công được một đồn Yên Bái, giết được khoảng
mươi sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp. Sáng hôm sau, liệng được ít trái tạc đạn ở Hà
Nội.
Pháp phản ứng kịp và rất mạnh, dùng phi cơ liệng bom xuống đồn
Yên Bái, bắn liên thanh xuống thành phố và các làng chung quanh; rồi 1ại thả
bom san phẳng làng Cổ Am, cả ngàn người chết.
Nguyễn Thái Học lẩn tránh một thời gian, sau bị bắt ở Hải
Dương, bị kêu án tử hình và ngày 17-6-1930, tại Yên Bái, ông cùng 12 đồng chí yếu
viên của đảng hiên ngang bước lên đoạn đầu đài, người nào cũng hô lớn "Việt
Nam" trước khi chết; khiến toàn dân vừa khâm phục, vừa xúc động, có tiếng
vang rất lớn ở Pháp.
- Đầu năm 1930, ông Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Hương Cảng một
đảng nữa, đảng Cộng sản Đông Dương, và ngay mùa hè năm đó, mấy ngàn bần nông
Nghệ An nổi dậy, chiếm ruộng của điền chủ, chia nhau. Tới tháng chín, sáu ngàn
nông dân vì đói mà nổi dậy, tiến ra Vinh. Pháp đàn áp tàn nhẫn, dùng phi cơ dội
bom vào đám biểu tình, khiến một nữ kí giả Pháp, Andrée Viollis phải phẫn uất,
ghê tởm, về Pháp viết cuốn Indochine S.O.S.
Từ đó đảng Cộng sản thỉnh thoảng lại gây được những cuộc biểu
tình nhỏ, những cuộc đình công ở nhiều nơi trong nước: Hà Nội, Hải Phòng, Hòn
Gai, Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Mỹ Tho, Cao Lãnh...
Về lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam, và nhất là vai trò của ông
Nguyễn Ái Quốc (tên hồi trẻ là Nguyễn Tất Thành, và tên sau này là Hồ Chí
Minh), nhiều sách đã viết. Ai cũng biết không nhiều thì ít, ở đây tôi không cần
kể lại, chỉ xin nhấn rằng tất cả trong các cuộc cách mạng Việt Nam, đảng Cộng sản
có tổ chức chặt chẽ nhất, có đường lối, có chương trình hành động rõ rệt, có
nhà lãnh tụ sáng suốt, nhiều kinh nghiệm, được khắp thế giới biết tiếng, nhờ vậy
mà sau này thành công lớn.
Ngoài các đảng hoạt động bí mật kể trên, còn những nhóm, đảng
hoạt động công khai, nhóm được dân tín nhiệm nhất là nhóm La Lutte (Tranh đấu) ở
Nam Việt, mà ba kiện tướng là Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Phan văn Hùm.
Họ đều đã du học ở Pháp, trong khi du học đã hoạt động chính
trị, sách động sinh viên Việt Nam biểu tình bênh vực cụ Phan Bội Châu, phản đối
vụ hành hình ở Yên Bái, rồi về nước hoạt động công khai, đòi quyền lợi cho thợ
thuyền, chống đế quốc thực dân, nhiều lần bị bắt giam. Nam Việt là thuộc địa của
Pháp, dân chúng được tự do hơn hai xứ Bắc và Trung; chế độ báo chí cũng rộng
rãi, nhất là các báo tiếng Pháp. Tạ Thu Thâu sáng lập tờ La Lutte (Tranh đấu),
Nguyễn An Ninh sáng lập tờ La Cloche Fêlée (Chuông rạn) gây được nhiều cảm tình
trong dân chúng. Đầu thế chiến thứ nhì, Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu và Phan Văn
Hùm đều bị đày ra Côn Đảo; Nguyễn An Ninh mất ngoài đó năm 1943, còn Tạ Thu
Thâu, Phan Văn Hùm mãi đến khi Nhật đảo chánh Pháp mới được thả.
Về giới chính khách thân Pháp, hợp tác với Pháp, chỉ đòi cải
thiện chính thể, trước 1945 chúng ta thấy hai chủ trương:
- Chủ trương quân chủ lập hiến, do Phạm Quỳnh đề xướng trên tờ
Nam Phong; ở Nam, Bùi Quang Chiêu cũng lập một đảng Lập hiến; tôi không rõ đường
lối ra sao, có lẽ muốn có một chế độ dân chủ với một hiến pháp.
- Chủ trương xin Pháp cho Việt Nam tự trị, bỏ chế độ bảo hộ
đi, mà ba kỳ sát nhập với nhau thành một thuộc địa của Pháp. Chủ trương này do
Nguyễn Văn Vĩnh đưa ra, rất ít người theo.
Trong khoảng 1925-1930 ở Nam Việt xuất hiện hai giáo phái:
Cao Đài do Lê Văn Trung, một viên hội đồng quản hạt, thành lập ở Tây Ninh; và
Hòa Hảo do một nông dân, Huỳnh Phú Sổ thành lập ở làng Hòa Hảo, quận Tân Châu,
Châu Đốc, nhưng hai giáo phái đó đến đầu thế chiến thứ nhì mới hoạt động về
chánh trị, nên tôi sẽ xét trong chương sau.
B. KINH TẾ
XÃ HỘI VIỆT NAM THỜI TRƯỚC
Sau thế chiến thứ nhì, một số nhà kinh tế học phương Tây như
Clark, Myrdal, Fourastié, Rostow nghiên cứu về sự phát triển kinh tế cho rằng
có năm giai đoạn như sau:
1. Xã hội cổ: các hoạt động sản xuất rất hạn chế, mà theo
phương pháp truyền thống, thiếu tính cách khoa học;
2. Giai đoạn dự bị, tức giai đoạn ở cuối thế kỷ XVII, đầu thế
kỷ XVIII lại phương Tây: người Âu bắt đầu có ý thức về sự tiến bộ kinh tế nhờ
nhiều phát minh lớn về khoa học (xe lửa chạy bằng hơi nước, điện lực...); một
nhóm người có tinh thần kinh doanh đã nghĩ tới việc phát triển kinh tế để đầu
tư
3. Giai đoạn bắt đầu phát triển mạnh: đầu tư nhiều, mở mang mọi
ngành, tức giai đoạn ở hậu bán thế kỉ trước tại châu Âu;
4. Giai đoạn thành thục, tức giai đoạn của châu Âu đầu thế kỷ này;
5. Giai đoạn đại chúng tiêu thụ mạnh mẽ, tức giai đoạn của
châu Âu và Nhật bản hiện nay, của Mỹ từ hai ba chục năm trước. Giai đoạn này
cũng gọi là hậu kỹ nghệ (post industrielle, do Daniel Bell đặt ra), mọi người
chỉ lo hưởng thụ cho nhiều để có thể sản xuất cho nhiều; sản xuất thừa thãi quá
rồi, người ta ít ham cạnh tranh, thành công nữa; ý thức về quốc gia, giai cấp
nhạt đi, có thể tinh thần nhân bản và sự giáo dục được tôn trọng hơn trước.
Cho tới khi người Pháp qua, xã hội Việt Nam là xã hội cổ của
nền văn minh nông nghiệp, như xã hội thời Trung cổ của phương Tây. Trong cả
ngàn năm nông nghiệp không tiến bộ được bao nhiêu, đất đai tuy mở mang được nhiều
nhờ cuộc Nam tiến, nhưng đồng thời dân số cũng tăng lên, thành thử mức sống
không cải thiện được. Theo Luro, do Paul Mus dẫn trong cuốn Việt Nam,
sociologie d’une guerre (Seuil - 1952) thì thời xưa (tôi đoán là thời Minh Mạng
hay Tự Đức) "cả nước Việt Nam chỉ có một lợi tức là bốn chục triệu (triệu
quan tiền của ta hay triệu quan của Pháp, Luro và Mus đều không nói rõ), lương
quan lại rất thấp, lính tráng gần như không được lãnh lương, mọi công việc xây
cất, đào kinh, đắp đường, đắp đê... đều bắt dân làm xâu cả".
Lời đó đúng. Trong một chương trên tôi đã kể cảnh nghèo của
các cụ nghè liêm khiết, làm những chức lớn như quan tham tụng Lê Anh Tuấn, làng
Thanh Mai (Sơn Tây) thời chúa Trịnh; quan Tế tửu ở Quốc tử giám (Hà Nội), nhà ở
làng Hạ Đình (Hà Đông) thời Tự Đức.
Xã hội xưa đúng là cảnh bùn lầy nước đọng, không sao tiến được;
chính quyền chỉ lo sao cho dân khỏi đói mà cũng không xong; và khi cuộc Nam tiến
phải ngừng lại - vì Pháp chiếm hết Đông Dương - thì từ vua tới dân dành bó tay
chịu sự đào thải thiên nhiên: dân số tăng lên quá, ruộng đất không đủ nuôi, thì
những tai họa như lụt, hạn hán, bệnh dịch, chiến tranh... làm giảm số dân xuống
cho có một sự thăng bằng tạm thời giữa sự sản xuất và dân số.
Bi đát thay, tới ngày nay mà tình cảnh nghèo khổ đó vẫn chưa
được cải thiện: lương cán bộ, công nhân viên cũng không đủ sống như thời xưa,
mà rất nhiều công trình xây dựng vẫn do chính sách làm xâu - nay gọi là lao động
mà thực hiện được! Còn lợi tức trung bình hàng năm mỗi đầu người chỉ có 50 Mỹ kim, vào hạng thấp nhất thế giới, trong khi ở Pháp là 3.000-4.000, ở Hoa Kỳ là
5.000-6.000 Mỹ kim.
PHÁP KHAI THÁC VIỆN NAM, GIỚI TƯ BẢN VÀ ĐIỀN CHỦ XUẤT HIỆN
Năm 1867, Pháp chiếm trọn sáu tỉnh Nam Việt. Năm 1884 triều
đình Huế ký Hòa ước Patenôtre, nhận cho Pháp bảo hộ cả Bắc và Trung kỳ.
Vào khoảng 1880, Pháp bắt đầu khai thác Nam kỳ. Mới đầu các
dinh và công sở của họ ở Sài Gòn còn là nhà sàn bằng gỗ; năm 1887 mới đặt viên
đá đầu tiên để xây cất nhà thờ Đức Bà ở trước Sở Bưu điện chính.
Ở Bắc sự khai thác trễ hơn: năm 1892 Hải Phòng còn là một xóm
bùn lầy toàn nhà lá.
Pháp xây vài thành phố lớn đồng thời với vài đường giao thông
chính, như đường lộ và xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, Hà Nội - Hải Phòng...; rồi mở những
tiệm buôn.
Sản phẩm chính của Nam kỳ là lúa, sau mới thêm cao su. Trung
kỳ có cây rừng và cá biển. Bắc kỳ có nhiều mỏ. Cao nguyên có gỗ, cà phê. Vì vậy
bọn tư bản Pháp lập nhiều đồn điền, nhà máy gạo, nhà máy chế biến mủ cao su ở
Nam; đồn điền cà phê ở cao nguyên; họ khai thác mỏ than, mỏ đồng, mỏ thiếc, lập
các xưởng xi măng, xưởng dệt, nhà máy giấy... ở Bắc; miền Trung chưa kịp thai
thác được bao nhiêu, chỉ có nhà máy diêm, xưởng đóng tàu ở Vinh, vì con đường
xe lửa xuyên Đông Dương mãi đến 1937 mới hoàn thành, mà năm 1939 đã có thế chiến
thứ nhì rồi; cả nguồn lợi cá biển ở Trung họ chưa nghĩ tới.
Sự khai thác đó đưa xã hội Việt Nam vào giai đoạn hai của tiến
trình phát triển kinh tế, tức giai đoạn ở cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18 tại
phương Tây như trên tôi đã nói. Một số người Việt có óc kinh doanh bắt đầu tin ở
sự tiến bộ kinh tế, hùn vốn lập hội, lập xưởng, nhà máy, như công ty Bạch Thái
Bưởi ở Hà Nội, tranh việc chuyên chở trên sông với ngoại nhân; công ty Liên
Thành sản xuất nước mắm ở Phan Thiết; Trương Văn Bền ở Sài Gòn lập xưởng làm xà
bông... Họ chỉ là những nhà tư bản nhỏ, không so sánh được với bọn tư bản Pháp,
Trung Hoa.
Riêng ở Nam Việt, xuất hiện một số đại điền chủ miền Tây vào
khoảng 1920-1930. Trong xã hội cũ, Việt Nam không có giới điền chủ lớn. Đời Trần,
một số hoàng thân được ban cho một khu đất rộng để khai phá, có gia thần (bề
tôi riêng), nhiều nô tì, cả một số lính nữa, và khi quân Nguyên qua xâm lăng,
các vị "vương" đó đem quân của mình ra chống cự như quân của triều
đình. Chế độ đó có thể ví với chế độ phong kiến thời cổ ở Trung Hoa, hoặc chế độ
Latifundia ở La Mã. Nhưng qua đời Lê, chế độ đó không còn; và tới đầu thế kỉ
chúng ta, người giàu nhất làng tôi chỉ có sáu mẫu, khoảng hai héc ta, không
đáng kể là tiểu điền chủ nữa. Hai héc ta mà nhà có độ mươi miệng ăn thì làm lấy
chỉ đủ cơm ăn, áo mặc. Tại vài làng khác trong tổng, có vài người được hai chục
mẫu thì cũng chỉ bằng bảy héc ta, vào hạng nông dân đủ ăn ở trong Nam. Tôi nghe
nói vào khoảng 1930, có vài đồn điền của người Việt ở miền trung du như Phú Thọ,
Bắc Cạn rộng một hai trăm mẫu, nhưng một phần lớn là đồi, chỉ một phần nhỏ cày
cấy được, như vậy cũng chưa bằng một tiểu điền chủ ở miền Tây Nam Việt.
Sở dĩ miền Tây Nam Việt (suốt một dải từ Châu Đốc tới Cà Mau
bên kia Hậu Giang, và từ Hồng Ngự xuống đến Tân An bên Tiền Giang) có nhiều điền
chủ lớn là vì miền đó còn hoang vu khi người Pháp tới. Nó hoang vu vì đất có
nhiều phèn, phải đào kinh thật nhiều, rửa phèn trong vài ba năm rồi mới tạm trồng
lúa được. Chánh quyền Pháp bán những đất hoang đó hoặc cho khẩn một cách dễ
dãi. Bọn tư bản Pháp lựa những miếng lớn và tốt hơn cả, có những đồn điền cả chục
ngàn héc ta như đồn điền Gressier (?) dài vài chục cây số, rộng vài ba cây số
trên hai bờ kinh Xà No ở Cần Thơ và Rạch Giá; một số người Việt khá đông chia
nhau những miếng nhỏ vài ba trăm héc ta, may mà trúng được hai vụ liên tiếp thì
lại khẩn thêm, tậu thêm, chỉ trong mươi năm thành đại điền chủ với cả ngàn héc
ta ruộng.
Cũng có trường hợp dân nghèo rủ nhau khai thác một miền đất
hoang, hy vọng hễ thành điền rồi thì xin nộp thuế cho chính phủ và sẽ được làm
chủ ruộng. Mỗi gia đình chỉ làm độ mươi héc ta là nhiều. Vài chục gia đình làm
được vài trăm héc ta. Lúc đó mới có một tên tư bản gian manh cướp công họ, chiếm
đất, đuổi họ đi viện lẽ đã xin khẩn từ mấy năm trước rồi, trên địa bộ họ đứng
tên rồi. Những vụ như vậy thường xảy ra, có vụ đổ máu như vụ đồng Nọc Nạn ở Bạc
Liêu.
Chủ điền không thể khai thác lấy được, chia cho tá điền; nhiều
tá điền quá thì phải dùng "cặp rằn" (do tiếng Pháp caporal) cai quản
tá điền. Từ đó sinh ra nạn bóc lột, ở nông thôn phân ra hai giai cấp tư bản (điền
chủ) và vô sản (tá điền) đấu tranh với nhau. Nhưng tôi nhắc lại, tình trạng đó
chỉ xảy ra ở miền Tây Nam Việt, mà số điền chủ tàn bạo quá tới nỗi nông dân phải
nổi loạn, không phải đâu đâu cũng có. Chẳng hạn tổng Phong Thạnh Thượng, chỗ
bác Ba tôi ở, không xảy ra vụ nào cả.
Trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười tôi đã kể một lần
vào thăm một trại ruộng lớn có máy cày (năm đó vào khoảng 1936-37). Chủ trại giữ
tôi ở lại ăn cơm. Trại ở giữa một cánh đồng mênh mông, hoang vu, xa sông Tiền,
xa chợ Hồng Ngự, vậy mà chỉ trong một hai giờ mà trên bàn đã có sáu bảy món ăn
(thời đó chưa có tủ lạnh) với rượu quí, trái cây, bánh ngọt. Đĩa chén toàn là đồ
Limoges, ly bằng pha lê. Chủ nhân có 600 héc ta đất, phàn nàn đã lỡ mua non một
vạn đồng bạc máy cày (lương tôi hồi đó, kể cả phụ cấp chỉ được 80 đồng) mà mới
dùng được vài tháng đã phải bỏ vì không khí ẩm thấp, thợ chuyên môn không có,
máy mau hư mà mỗi lần hư phải gở từng bộ phận đem qua Châu Đốc, có khi xuống tận
Cần Thơ để sửa. Hạng bị phá sản không phải là ít, nhất là trong hồi kinh tế khủng
hoảng: 1930-1934.
SỰ BÓC LỘT VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP THỜI PHÁP THUỘC
Chỉ hạng tư bản Pháp, chủ đồn điền cao su là làm ăn thịnh vượng
nhất và bóc lột công nhân một cách tàn nhẫn, có tổ chức nhất, gây biết bao nỗi
bi thảm mà một số bài báo và truyện Bão rừng của Nguyễn Văn Xuân đã tả, nhưng vẫn
còn sơ lược. Bị chủ bóc lột một lớp rồi lại bị cai bóc lột một lớp nữa, nên mười
người dân quê Bắc vào làm phu đồn điền cao su ở Nam (họ gọi là đi Tân thế giới)
thì may ra có một người khôn lanh, có nghị lực, khi hết hạn giao kèo, trở về Bắc
được với một số tiền nhỏ; còn chín người kia phải gởi xương trong rừng cao su,
hoặc thoát ra được thì cũng bệnh tật, lang thang kiếm ăn qua ngày ở các thị trấn
miền Nam.
Sự bóc lột tàn nhẫn, nhưng sự tranh đấu trong các đồn điền
cao su không mạnh vì nơi đó là lãnh địa riêng của bọn tư bản Pháp; phu cao su gần
như bị giam lỏng, khó tiếp xúc với ngoài.
Công việc tuyên truyền và huấn luyện của đảng Cộng sản có hiệu
quả nhất ở các mỏ như mỏ than Hồng Gai, các nhà máy như nhà máy sợi Nam Định,
các xưởng như xưởng Ba Son (Arsenal - xưởng đóng tàu) ở Sài Gòn... Thợ thuyền
những nơi đó giác ngộ hơn, đoàn kết hơn, có tinh thần tranh đấu hơn, có thể gọi
là gần họp thành một giai cấp đúng với nghĩa của Karl Marx; tôi nói gần vì trước
thế chiến vừa rồi, số thợ đó còn ít quá, một hai vạn và đối tượng tranh đấu của
họ là tư bản Pháp vì chủ của họ toàn là người Pháp; còn một số nhà tư bản Việt
làm ăn nhỏ quả, chỉ mướn dăm chục hay cùng lắm là một trăm thợ, nếu thợ thấy bị
bóc lột thì bỏ di, kiếm việc nơi khác, đấu tranh làm gì; hoặc nếu có đấu tranh
thì chủ và thợ cũng dễ thỏa thuận với nhau, như người trong nhà.
Tóm lại, ta có thể kết luận rằng trước 1945, chỉ có vài vụ
giai cấp đấu tranh giữa chủ điền và tá điền Việt mà không có sự đấu tranh giữa
chủ và thợ thuyền Việt, chỉ có đấu tranh giữa chủ Pháp và thợ Việt thôi; và sau
khi Sài Gòn được Giải phóng, điền chủ Việt mất hết đất, tư bản Pháp phải cuốn
gói về Pháp, thì toàn quốc không còn đấu tranh giai cấp nữa, hiểu theo định
nghĩa của Karl Marx.
Lịch sử giai cấp đấu tranh của ta quả thật là ngắn ngủi.
C. XÃ HỘI
GIỚI "BOURGOIS" LỚP ĐẦU
Để cai trị và khai thác Việt Nam, Pháp phải đào tạo một số
tay sai: thư ký, thông dịch viên, com-mi, phủ, huyện, cán sự thấp và trung
trong mọi ngành. Họ mở những trường tiểu học ở mỗi châu thành, mỗi phủ, quận; rồi
năm sáu trường trung học ở các châu thành lớn (tất cả những trường đó, tiểu và
trung, đều là trường Pháp Việt, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ); năm 1907 mới mở
ở Hà Nội một trường đại học cho toàn cõi Đông Dương, một hai năm sau đóng cửa,
năm 1910 hay 1912 mở lại, nhưng mới đầu không đủ các ngành, chỉ đào tạo những
cán sự chuyên môn, mãi đến năm 1930 mới mở vài ngành luật khoa, khoa học, và buộc
sinh viên phải có bằng Tú tài, từ đó đại học Hà Nội mới xứng với tên đại học mà
cũng chỉ bằng một đại học nhỏ nhất của Pháp.
Trước thế chiến thứ nhất, ở Bắc người Việt nào học vài ba năm
tiếng Pháp, bập bẹ được ít câu, làm được bốn phép tính, cũng được tuyển dụng
làm thầy kí, lương mười, mười lăm đồng một tháng. Làm ít năm, lương tăng, được
mười tám, hai mươi đồng. Nếu thông minh và siêng năng, chỉ trong mươi năm thành
ông Phán, lương bốn năm chục đồng. Bốn năm chục đồng vào khoảng 1920 là một số
tiền lớn; họ có thể sắm một chiếc xe kéo gọng đồng, mướn một anh "xe"
vừa kéo xe vừa làm việc nhà, một chị vú, một chị sen. Tốn kém gì đâu: hạng đó ở
nhà quê mò cua bắt ốc, những ngày giáp hạt may lắm được củ khoai, bát ngô, nay
được đủ cơm mỗi bữa, dù là cơm thừa canh cặn, cũng vẫn là sướng, huống hồ mỗi
tháng được chủ trả cho năm hào hay một đồng, cuối năm lại được một bộ quần áo vải.
Hạng công chức đầu tiên đó sống an nhàn, sung sướng. Người
nào chí thú thì chủ nhật họp nhau đánh chén, rồi đánh vài hội tài bàn, tổ tôm;
kẻ chơi bời thì rủ nhau đi cô đầu "tom chát", hút xách "đi mây về
gió".
Có bổng ngoại ít nhiều mà cần kiệm thì tậu nhà, mua ruộng,
thành một nhà tư bản nho nhỏ, cho con học trường Tây, sau thành quan huyện,
quan đốc.
Học hành chỉ được một nhúm chữ mà họ sướng gấp chục lần giới
sĩ phu, các cụ cử, cụ nghè thời trước. Đúng như thơ Tú Xương:
"Thôi có ra gì cái chữ Nho,
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co.
Sao bằng đi học làm thầy Phán,
Tối rượu Sam banh sáng sữa bò".
Họ làm cho vợ con hưởng. Vợ họ ăn trắng mặc trơn, nói là coi
sóc việc nhà nhưng chẳng phải mó tay vào việc gì cả, ngồi trên sập gụ chỉ tay
năm ngón, tô điểm nhan sắc, phây phây ra, mất hết đức cần cù, nhẫn nại, hy sinh
của các cụ bà lớp trước, như cụ bà Tú Xương chẳng hạn. Kẻ hư thì đánh bài, kẻ
"đảm đang" thì chơi họ, cho vay lãi, kiếm thêm tiền, có khi nhiều hơn
số lương của chồng nữa.
Những năm 1925-1928, kinh tế Việt Nam thịnh nhất, họ làm ăn dễ
dàng, nên Tết tiêu pha lớn: may áo gấm, áo đoạn cho họ và cho cả các con cái,
mua những cành đào lớn, những chậu quất, thược dược, cả chục giò thủy tiên để
bày và tặng nhau; pháo đốt cả chục bánh toàn hồng, còn bánh, thịt thì ê hề, ăn
đến ngày mùng bảy mới hết.
Tới thời kinh tế khủng hoảng (1930-1935) bọn tư bản càng lớn
càng mau sạt nghiệp, bọn bần dân điêu đứng (công nhật chỉ có một hai hào), thì
họ vẫn sung sướng vì lương chồng họ không bị giảm bao nhiêu mà vật giá sụt nhiều.
Đó là giới tiểu tư sản (bourgeois) đầu tiên ở Bắc và Trung do
văn minh tạo thành. Ở miền Nam, giới đó xuất hiện sớm hơn và đọc tiểu thuyết của
Hồ Biểu Chánh chúng ta biết được đời sống của họ ra sao. Xét chung, họ là những
người hiền lành, thân Pháp, an phận, thỏa mãn, và vẫn trọng các nhà Nho, cha
chú họ. Có người chê phụ nữ trong giới đó có tật xấu là biếng nhác, chỉ ham hướng
thụ, đài các, thích danh vọng hão huyền. Tại hoàn cảnh xui nên như vậy. Sau
này, trong thời loạn lạc, tôi thấy nhiều phụ nữ vào hạng trung lưu có tinh thần
hi sinh cao, tháo vát, giỏi chịu cực khổ, lại giữ được truyền thống dân tộc
mình sau những cuộc thử thách lớn lao, ngốc đầu lên được phần lớn là nhờ họ. Phụ
nữ Tây phương không bằng họ được.
Tuy nhiên trong giới tiểu tư sản đầu tiên đó cũng có một số
vượt hẳn lên; có kẻ gian hùng bực nhất như Trần Bá Lộc ở Nam (tôi không kể Nguyễn
Thân ở Trung, Hoàng Cao Khải ở Bắc vì họ xuất thân cựu học); có người thành học
giả như Huỳnh Tịnh Của, Pétrus Ký ở Nam; Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn
Văn Tố, Trần Trọng Kim ở Bắc; có người mạo hiểm kinh doanh, tranh đấu với ngoại
nhân như Bạch Thái Bưởi ở Bắc.
LỚP SAU TIẾN BỘ HƠN, TẠO NÊN NƯỚC VIỆT NAM MỚI
Tới thế hệ sau, giới tiểu tư sản đông hơn, tiến bộ hơn, hiểu
biết hơn tuy đa số vẫn ham hưởng thụ, có kẻ sa đọa hơn trước, nhưng một số có
tư cách, chí khí, theo Tây học mà không vong bản, giữ được truyền thống, nên
đóng những vai trò quan trọng, có thể nói là chính họ đã tạo nên nước Việt Nam
mới.
Thành lập các hội kín, gây các phong trào cách mạng, phất cờ
khởi nghĩa, nêu gương hy sinh cho quốc dân là họ. Viết báo, viết sách đả đảo thực
dân, cảnh tỉnh đồng bào, đưa ra các đề nghị để cái cách xã hội hầu tiến kịp thời
đại, là họ. Mài ngọn bút, luyện cho Việt ngữ thành lợi khí để truyền bá tư tưởng,
diễn đạt tình cảm, tạo được một nền văn xuôi gọn, sáng, mỗi ngày mỗi thêm phong
phú, tinh xác, là họ. Lập các nhà buôn, nhà máy để kiến thiết quốc gia, cũng là
họ; về phương diện này họ chưa thành công nhiều vì ít vốn, ít kinh nghiệm, khó
cạnh tranh với ngoại nhân, nhưng họ đã tin ở sự tiến bộ, tin ở sự phát triển
kinh tế. Làm những công việc xã hội để giúp người nghèo, bênh vực quyền lợi của
giới cần lao, hi sinh cho lý tướng bình đẳng, bác ái, tự do, cũng là họ.
Chúng ta cứ xét nội một điều này: từ thế kỷ XVIII đến nay, tất
cả các vĩ nhân trong mọi hoạt động xã hội, chính trị, văn hóa, khoa học, mỹ thuật
ở phương Tây hầu hết đều thuộc giới "bourgeois" cả, ngay đến Karl
Marx, Lénine cũng vậy. Ở nước ta, trong giới lãnh đạo đảng Cộng sản, có đến ba
phần tư hay hơn nữa ở trong thành phần tiểu tư sản. Là vì từ trước tới nay, chỉ
tiểu tư sản mới được học nhiều hơn cả, có thì giờ để suy tư, sáng tạo hơn cả.
Có thể nói thế giới ngày nay do giới tiểu tư sản tạo nên.
Tóm lại, trong khoảng nửa đầu thế kỷ, nhất là từ sau thế chiến
thứ nhất trở đi, xã hội Việt Nam bắt đầu Âu hóa, có thêm giới trí thức tiểu tư
sản, giới này lần lần thay thế giới sĩ phu thời trước mà lãnh đạo quốc gia. Sự
biến chuyển đó lớn lao nhất trong lịch sử, nhưng so với Nhật Bản vẫn là nhỏ và
trễ: Nhật đã Âu hóa từ 1870 và năm 1905 đã thắng được một dân tộc da trắng là
Nga trong khi ta vẫn thiêm thiếp ngủ, phải nhờ tiếng súng của họ ở eo biển Đối
Mã mới bừng tỉnh.
Mà sự biến chuyển đó chỉ mới phát ở các châu thành chưa lan
sâu vào nông thôn vì sự kiềm chế của Pháp. Năm 1915 mới bỏ khoa thi hương ở Bắc,
ba năm sau bỏ ở Trung. Nhưng ở làng nào cũng vẫn còn những trường học của các
ông đồ; mãi đến 1925, mỗi làng ở Bắc, Trung mới có được một trường Sơ học
chuyên dạy tiếng Việt tới lớp ba (lớp sơ đẳng - cours élémentaire).
Ở Nam, kinh tế phát triển hơn, trường học nhiều hơn, nhưng
năm 1935, về miền Tây, tôi vẫn thấy dân quê giữ được nhiều truyền thống cũ, nhiều
cổ tục. Có những cụ già để búi tóc mà đội nón Tây (casque), ngồi ca nô, xe hơi
mà thích truyện Tàu, thuộc Minh tâm bửu giám, dạy con rất nghiêm: con đã đậu
tri huyện rồi mà còn nọc ra đánh, đậu kỹ sư rồi mà bắt đi chăn trâu trong khi đợi
bổ, và khi các cụ khuyên bảo điều gì thì dân làng răm rắp tuân theo, hơn là
tuân chủ quận.
Và giới trí thức tiểu tư sản vì còn mới quá mà ít tiếp xúc với
nông dân, chưa làm được gì cho họ nên chưa gây được uy tín lớn lao như giới sĩ
phu thời xưa; trừ một số như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu... miền Nam, còn hầu
hết cho tới năm 1945 vẫn còn bị dân quê nghi kỵ, có khi mỉa mai nữa là khác.
D. VĂN HÓA
CHỮ QUỐC NGỮ
Xã hội tiến mau được, chủ yếu là nhờ sự giác ngộ của đại
chúng; có những nhà lãnh đạo tài giỏi, có cả một giới thượng lưu trí thức đông
đảo mà đại chúng mù chữ, lạc hậu thì cũng chẳng làm được gì, cũng như có tướng
mà không có quân. Một ký giả phương Tây bảo trong mấy cuộc chiến tranh giữa Do
Thái và Ả Rập, Do Thái thắng một phần là nhờ quân sĩ của họ có trình độ văn hóa
cao, ra trận biết có sáng kiến, chẳng những biết sử dụng mà còn biết sửa chữa
những khí giới tối tân. Trong sự chiến đấu còn vậy, huống hồ là trong sự phát
triển kinh tế.
Muốn cho đại chúng mau giác ngộ thì phải mở nhiều trường, in
nhiều sách báo; mà muốn cho họ mau đọc được sách báo thì chữ viết phải tiện lợi,
không tốn công nhiều quá để học. Hai chục năm trước, một người Anh nói với
chính khách Việt: "Dân tộc ông sẽ tiến mau hơn Trung Hoa, Thái Lan, vì các
ông dùng tự mẫu La-tinh, bất kì người nào, chỉ học vài tháng là đọc được, viết
được".
Đúng vậy, Chữ Nôm của ta xuất hiện trễ lắm là vào đời Lý Cao
Tông thế kỷ XII 2. Giá thời đó vua chúa của ta biết bỏ chữ Hán mà dùng chữ Nôm
làm quốc tự, trong vài thế kỷ, cải thiện được nó, qui định lối viết, lối đọc
cho toàn quốc, giản dị hóa nó, bắt ai cũng phải học, thì nó thành một phương tiện
truyền bá tư tưởng có hệ thống, không đến nỗi luộm thuộm, mỗi thời đọc, viết một
khác, mỗi miền đọc viết một khác; thậm chí mỗi người đọc viết một khác nữa; mà
văn hoá, văn thơ của ta nhờ đó phát triển được kha khá, và bây giờ các học giả
khỏi phải bù đầu phiên âm tìm nghĩa một số khá nhiều chữ Nôm đời Lý, đời Lê;
cãi nhau mấy chục năm nay mà vẫn chưa đọc được hai chữ Nôm mỗi người đưa ra một
thuyết, chẳng thuyết nào thắng nổi thuyết nào.
Nhưng dù biết dùng chữ Nôm từ đời Lýí mà không dám cải cách mạnh,
vẫn dựa vào chữ Hán thì học nó cũng mệt lắm; ít nhất cũng phải biết vài nghìn
chữ Hán, đọc lõm bõm được chữ Hán rồi mới đọc viết chữ Nôm. Như vậy một người
tư chất trung bình phải mất bốn năm năm.
Và tới thế kỷ XVII, người Âu qua nước mình, tất phải dùng chữ
Nôm đó, không đặt ra vần Quốc ngữ (dùng mẫu tự La tinh để phiên âm tiếng Việt)
hoặc có đặt ra thì cũng chỉ để họ dùng với nhau, viết sách, viết thư cho nhau
thôi; và Việt Nam ngày nay cũng sẽ ở tình trạng bối rối như Trung Hoa, Nhật Bản,
muốn bỏ quốc tự lắm để dùng mẫu tự La tinh mà có nhiều điều trở ngại quá, hơn nửa
thế kỷ rồi, chưa quyết tâm được. Thật là bỏ thì thương, vương thì tội. Thành thử
dân tộc ta là dân tộc duy nhất ở Đông Á, được cái may mắn chỉ học vài tháng chứ
không phải mất ba bốn năm để biết đọc biết viết. Đỡ tốn công biết bao.
VĂN XUÔI CỦA TA MỘT THẾ KỶ NAY
Do lẽ cổ nhân không trọng chữ Nôm (nôm na là cha mách qué),
không dùng nó để thảo chiếu, biểu, văn thư, để viết sách, dạy học, chỉ coi nó
là một thứ chữ phụ để ghi những điều không quan trọng, những tình cảm riêng
tư... cho nên có tình trạng kỳ dị này mà tôi đã phân tích trong bài Tựa cuốn
Luyện văn II (1956):
"... Thơ Nôm của ta đã có từ ngàn năm trước, phát triển
từ ca dao đến các điệu hát rồi đạt tới một mức rất cao trong truyện Kiều, còn
văn xuôi Nôm của chúng ta thì mới xuất hiện chưa đầy một thế kỷ nay. Vì bạn thử
xét từ giữa thế kỷ XIX trở về trước, chúng ta có những tác phẩm nào là văn xuôi
Nôm? Các bộ Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ
là tản văn Hán chứ không phải Nôm. Các bài phú, kinh nghĩa Nôm của Lê Quý Đôn,
Nguyễn Công Trứ ư? Cũng không nữa. Những bài ấy tuy viết bằng tiếng Nôm, song
toàn theo thể biền ngẫu, một thể có đối, có vần, có luật chặt chẽ, gần thi ca
hơn là gần văn xuôi. Rốt cuộc chỉ còn những bài biểu, chiếu dưới triều Quang
Trung (có lẽ cả trong thời Hồ Quý Ly) mới thực là văn xuôi Nôm, song những bài
đó ít quá (vua Quang Trung cầm quyền không được lâu, công cuộc cách mạng của
ông chưa kịp hoàn thành) và viết rất vụng về, đầy những thành ngữ Hán, không có
chút giá trị gì cả.
Vậy thực ra văn xuôi Nôm mới xuất hiện từ hồi Trương Vĩnh Ký
viết cuốn Chuyện đời xưa (1866), nghĩa là cách đây (1956) chín chục năm. Nhưng
trong hậu bán thế kỷ trước, lời xướng của ông được ít người họa; phải đợi đến đầu
thế kỷ này, từ khi nhóm Đông Dương tạp chí ra đời (1913), văn xuôi Nôm mới phát
triển đều đều và phát triển rất mạnh. Mặc dầu bị tiếng Pháp lấn áp trong mọi
khu vực, mặc dầu bị đa số quốc dân thờ ơ, bị nhiều nhà giáo coi thường (...), mặc
dầu gặp những nghịch cảnh đó mà văn xuôi của chúng ta trong nửa thế kỷ đã tiến
những bước rất dài. So sánh văn của nhóm Đông Dương tạp chí với văn thời nay,
ta tưởng có sự cách biệt hằng mấy thế kỷ, cách biệt hơn văn thế kỷ XVII với thế
kỷ XX của Pháp, hoặc văn thế kỷ thứ VIII (đời Đường) với thế kỷ XIX (cuối Thanh)
của Trung hoa.
Sự đột tiến đó do công lao của các nhà cầm bút tự tìm chữ, đặt
chữ, áp dụng các cách hành văn của ngoại quốc rồi thí nghiệm trong tác phẩm của
mình mà rán dung hòa cho văn được hợp với tính cách của Việt ngữ và không cách
biệt quá với lời nói thông thường trong dân chúng".
Hiện nay chúng ta có thể coi văn xuôi của ta đã trưởng thành
rồi, nhưng Việt ngữ còn nghèo nàn, ngữ pháp còn kém uyển chuyển, chưa diễn hết
được những tư tưởng mới, cảm xúc mới của phương Tây. Các nhà cầm bút còn phải
tìm tòi, thí nghiệm trong một thời gian lâu nữa - vài ba chục năm - mà thành
công mau hay chậm còn do trình độ kiến thức của họ và của dân chúng sớm bắt kịp
được trào lưu thế giới hay không.
Trước thế chiến thứ nhì, các tạp chí của ta tiến đều đều từ
hình thức đến nội dung: Nam Phong phong phú hơn Đông Dương tạp chí; Tri Tân có
tính cách chuyên ôn cố; Phong Hóa, Ngày Nay trái lại có bộ mặt và xu hướng mới,
muốn thực hiện một cuộc cải cách tiểu tư sản, đả phá hủ tục, đại gia đình mà giải
phóng cá nhân, đề cao tự do; Thanh Nghị (và Thanh niên ở Nam) nghiêm trang hơn,
phổ biến những tư tưởng dân chủ, kinh tế, giáo dục... Lại có riêng một tạp chí
cho phụ nữ, khá có giá trị, tờ Phụ nữ Tân văn. Nhờ Hoàng Tích Chu (Hà Thành ngọ
báo 1927) văn viết báo gọn hơn, mạnh hơn, có giọng chiến đấu hơn, không còn những
bài xã luận lôi thôi, nhạt nhẽo nữa. Nhưng nổi tiếng nhất và ảnh hướng lớn nhất
thì phải kể Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, có công về dịch thuật, biên khảo; lớp
sau có Phong Hóa: Khái Hưng, Nhất Linh... sẽ xét ở dưới.
TIỂU THUYẾT TỪ 1925 ĐẾN NAY
Tiểu thuyết phát triển rất mạnh, mở đầu bằng phong trào lãng
mạn, phát dương chủ nghĩa cá nhân.
Khi Tuyết hồng lệ sử của Từ Trẩm Á được dịch ra Việt ngữ,
thanh niên nam nữ đua nhau đọc và có một số thiếu nữ vì tình duyên, đâm đầu xuống
hồ Trúc Bạch (Hà Nội), làm xôn xao dư luận gần như thời Goethe xuất bản cuốn
Werther. Truyện bi thảm hơn Werther nhiều, đầy nước mắt, chắc đã gây hại lớn
cho thanh niên Trung Hoa nên về sau Từ Trẩm Á ân hận, tự trách mình:
"Nhi nữ hà quan thiên hạ sự,
Bất như thu lệ khấp thương sinh".
(Tình của) Nhi nữ quan hệ gì tới việc thiên hạ?
Sao bằng gom lệ lại để khóc nhân dân.
Có thể Tương Phố và Đông Hồ cũng bị lôi cuốn trong đó mà viết
những bài Giọt lệ thu, Linh Phượng ký.
Năm 1925 xuất hiện hai tiểu thuyết có giá trị: Tố Tâm và Quả
dưa đỏ. Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách cũng là một truyện tình bi thảm, cũng nhiều
câu sáo, thảnh thót, du dương, dễ cảm, đáng được lưu lại vì đánh dấu một thời đại,
ghi được phong tục, cách ăn mặc, ngôn ngữ, tình cảm của thanh niên nam nữ khi mới
chịu ảnh hưởng của phương Tây. Quả dưa đỏ của nhà nho Nguyễn Trọng Thuật dựa
vào một truyện trong Lĩnh Nam trích quái, có phong vị cổ, có ý răn đời, bố cục
chặt chẽ, mà lạ thay cũng có vài đoạn tư tưởng rất lãng mạn.
Trong khi đó thì ở Nam, Hồ Biểu Chánh viết toàn những tiểu
thuyết tả chân giới tư sản và nông dân, và có tính cách luân lý.
Bẵng đi bảy năm, tới khi tờ Phong Hoá ra đời (1932), tiểu
thuyết lãng mạn tái hiện, lần này có hình thức mới hơn, nội dung cũng mới hơn,
đầm đìa giọt lệ như Tố Tâm mà mơ mộng, đôi khi nên thơ. Tôi nhớ những năm đó
các bạn nội trú của tôi ở trường Công chánh chuyền tay nhau đọc say mê những
truyện Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên trong tờ Phong Hoá. Văn của Khái Hưng,
Nhất Linh mới mẻ, tự nhiên, nhẹ nhàng, tươi sáng hơn văn của Hoàng Ngọc Phách;
cảm xúc, tư tưởng của họ cũng hợp với chúng tôi; họ tả cảnh, tả tình gọn mà
khéo khiến độc giả - đa số thanh niên có tân học - mê những thiếu nữ thuỳ mị
trong truyện, những cảnh nên thơ ở đồng quê, nhất là ở miền trung du như Vĩnh
Yên, Phú Thọ và ghét những thói đài các rởm của giới quan quyền cũ, thói ỷ lại
vào cha mẹ, tranh nhau hương hỏa của tổ tiên, thói hiếp đáp nàng dâu, thói ham
"đào mỏ" mà ép duyên trẻ Họ nhắm một mục đích rõ rệt là đề cao tự do
cá nhân, nhất là trong hôn nhân, đả phá chế độ đại gia đình; đó là một xu hướng
của xã hội từ nông nghiệp chuyển qua kĩ nghệ, là tâm lý của thanh niên đã rời bỏ
nông thôn mà ra thành thị học hành sinh sống. Lần lần tiểu thuyết của Nhất Linh
có tính cách luận đề, ngày nay ít ai đọc, nhưng xét chung, nhóm Tự lực văn đoàn
đã có công lưu lại cho ta những nét rất đúng, sâu sắc mà linh động về xã hội
phong kiến và trưởng giả ở thời đó. Những truyện Gia đình, Thừa tự là những tiểu
thuyết phong tục rất có giá trị.
Họ còn gây được phong trào vui vẻ, trẻ trung: đổi mới y phục
cho đẹp hơn, gọn hơn, tươi hơn (áo dài Lemur); yêu nghệ thuật, ca nhạc, nhảy đầm,
thích các cuộc hội họp nam nữ, thanh niên hóa ra thành thực hơn, bạo dạn, hoạt
bát, mạo hiểm, quan tâm tới những công tác xã hội, không tự giam trong phạm vi
gia đình nữa. Phong trào đó cũng hợp với sự tiến hóa của xã hội, dĩ nhiên không
tránh được cái hại thiếu kỷ luật, phóng túng. Cái gì quá mà chẳng hại, và huy
chương nào chẳng có mặt trái? Năm 1952 hay 1953, một nhà văn khá có tên tuổi ở
Sài Gòn viết báo mạt sát nhóm Tự Lực, tôi viết thư hỏi họ: ở vào giai đoạn
1930-1940, không qua giai đoạn cải cách tiểu tư sản đó thì làm sao bây giờ các
ông hô hào tiến tới giai đoạn xã hội chủ nghĩa được. Họ ta không đáp.
Vào khoảng 1937, xuất hiện những tiểu thuyết có giá trị về
nông dân của Trần Tiêu, Nam Cao, Bùi Hiển, Ngô Tất Tố... mà trong chương VII
tôi đã nói qua. Những tiểu thuyết đó xuất hiện sau những tiểu thuyết về giới
phong kiến, tiểu tư sản của nhóm Tự Lực là điều dễ hiểu: muốn viết về nông dân
thì phải sống ở nông thôn; mà từ thượng cổ tới nay, thành thị vẫn dẫn đầu, dắt
đường cho nông thôn; các tiểu thuyết gia tiểu tư sản ở thành thị viết về thành
thị để mở đường rồi, những thanh niên có tài ở nông thôn như Nam Cao, Tô Hoài,
Bùi Hiển mới noi theo mà tả phong tục nông thôn, tâm lý nông dân.
Cũng vào khoảng cuối những năm 1930, nổi lên phong trào phản
kháng, tranh đấu của nhóm Hàn Thuyên (Trương Tửu. Nguyễn Đức Quỳnh) và vài nhà
như Vũ Trọng Phụng, Lan Khai, Tam Lang, Nguyên Hồng. Họ bênh vực giới vô sản:
Cơm thầy cơm cô, Tôi kéo xe, Lầm than, Bỉ vỏ Những tác phẩm này viết không đều,
nhiều cuốn hời hợt, vì tác giả - trừ Nguyên Hồng - không sống với giới vô sản,
không hiểu sâu họ được.
Như vậy là đủ các giới trong xã hội đã xuất hiện trên tiểu
thuyết trong khoảng 15 năm (1925-39). Tất cả những tiểu thuyết đó dù mang nhãn
hiệu khác nhau: tâm lý, phong tục, trào phúng, tranh đấu, luận đề, lãng mạn, tả
chân... đều ghi lại cho ta một cách trung thực nhiều hay ít, bề phải và bề trái
của xã hội Việt Nam trong buổi giao thời từ chế độ nông nghiệp tiến lên chế độ
tư bản; và đều đáng lưu lại cho hậu thế vì không có những tiểu thuyết đó thì
con cháu chúng ta nhìn lui lại về đầu thế kỷ này sẽ như nhìn vào bóng tối,
không biết cha ông họ sống ra sao, cảm xúc ra sao, suy nghĩ ra sao, hành động
ra sao, chiến đấu ra sao, có công với hậu thế ra sao, đã truyền lại được gì?
THƠ MỚI
Đời sống và tập quán đã thay đổi: người ta học chữ Tây, ở nhà
Tây, mặc áo Tây, dùng vải Tây, kim Tây, ô Tây (thay cái nón quai thao), khăn
tua đen (thay khăn mỏ quạ), đi xe sắt (xe kéo bánh sắt), xe lửa, rồi bỏ kiểu áo
tứ thân mà theo mốt Lemur, xem hát bóng, nhảy đầm, không ngâm Kiều, hát lí giao
duyên nữa mà hát điệu Tây: "J'ai deux amours, mon pays et Paris"...,
nếp suy tư, cảm xúc cũng thay đổi theo mà cách phô diễn cũng khác. Lưu Trọng Lư
bảo: "... các cụ ta ưa nhìn màu đỏ choét; ta lại ưa màu xanh nhạt. Các cụ
bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta nao nao vì tiếng gà gáy đúng ngọ. Nhìn
các cô gái xinh xắn, ngây thơ, các cụ coi như đã làm một điều tội lỗi; ta thì
cho là mát mẻ như đứng trước một cánh đồng xanh. Cái ái tình của các cụ chỉ là
hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn trạng: cái tình say đắm, cái tình
thoảng qua, cái tình xa xôi... cái tình trong giây phút, cái tình ngàn
thu..."
Lời nói "liều lĩnh" đó chỉ đúng một phần: cảm xúc của
các cụ không khác chúng ta bao nhiêu, cũng nao nao vì tiếng gà gáy đúng ngọ,
cũng thích nhìn các cô gái xinh xắn, ngây thơ, mà tình của các cụ cũng nhiều thứ
lắm: tình duyên, tình hiệp, tình tự, tình câm, tình hóa, tình trinh, tình hào,
tình linh, tình lụy, tình si, tình oán, tình ảo, tình nghi... cứ coi tình sử của
Trung hoa thì biết; mà phương Tây có bộ nào như bộ Liêu trai của phương Đông
chưa? Khác nhất là ở điểm cảm xúc của các cụ tuy thâm mà trầm; các cụ quí sự
trung hòa, nén lòng xuống, không cho nó bồng bột quá, và khi diễn thành thơ
văn, các cụ dùng nghệ thuật ý tại ngôn ngoại, kín đáo mà hàm súc; lời phải tô
chuốt, cô đọng, không trơn tuột như lời nói thường được.
Thanh niên giữa hai thế chiến chịu ảnh hưởng phương Tây,
không ưa lối diễn tả đó, không chịu bó buộc, muốn phá tung luật thơ cổ, khuôn
khổ thơ cổ, bắt chước lối phô diễn của phương Tây, cho rằng chỉ có lối đó mới tả
được hết nỗi lòng của họ, phát triển được hết suy tư, ước vọng của họ. Do đó mà
có phong trào thơ mới mà Hoài Thanh đã phân tích trong cuốn Thi nhân Việt Nam
(1941). Phong trào đó là biến cố lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ
trên một thế kỷ nay. Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký chỉ đánh dấu sự thay đổi
chữ viết (bỏ chữ Nôm mà dùng chữ Quốc ngữ); thơ mới đánh dấu sự thay đổi lối
phô diễn, tức cả cảm quan và mỹ quan nữa.
Muốn thấy sự biến chuyển sâu xa đó trong tâm hồn thanh niên,
tôi cho không gì bằng so sánh ba bài thơ cùng vịnh thu dưới đây:
THU
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa.
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí.
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lững trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
ĐÂY MÙA THU TỚI
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng.
Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh.
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...
Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Bài đầu của bà Ngô Chi Lan, một nữ sĩ nổi tiếng giỏi thi ca,
từ khúc, được Lê Thánh Tôn triệu vào cung dạy cung nhân, chỉ có 4 câu, 28 chữ
mà tả đủ cả trời, nước, gió, chim (nhạn), hoa (sen), lá (phong), cả tiếng lá rụng
nữa. Nhưng những nét đó toàn là những nét "ước định" (conventionnel)
của Trung Hoa thời xưa, có nét không hợp với thu Việt Nam như "rừng phong
lá rụng", vì nước mình không có cây phong, cho nên chỉ có thể bảo thu đó
là thu của Trung Hoa, không phải của Việt Nam. Hơn nữa, không thấy ý nghĩ, cảm
xúc của tác giả vì ba chữ "cảnh tiêu sơ" cũng chỉ là một nét ước định
thôi; thu thì cảnh bao giờ cũng tiêu sơ, ai tả thu bao giờ cũng ghi nét đó; nếu
bảo đó là cảm xúc thì chỉ là cảm xúc chung của mọi người, không phải riêng của
tác giả. Đã vậy, tác giả dùng những tiếng rất sáo như: gió vàng, giếng ngọc.
Tóm lại tác giả lẩn tránh, không để mình hiện trong thơ. Không có cá nhân tác
giả.
Bài giữa của Nguyễn Khuyến dùng 8 câu, tả nhiều chi tiết hơn
mà chi tiết nào cũng có tính cách Việt Nam, nhất là hai câu 5-6: rõ ràng là thu
ở nông thôn Bắc, không thể ở rừng núi, ở thành thị, cũng không thể ở nông thôn
Nam được: vì mùa thu trong Nam là mùa mưa, mùa nước lụt, trời thường u ám mà nước
luôn luôn đục. Tôi còn ngờ rằng cảnh cá đớp động dưới chân bèo ở Trung Hoa cũng
không có.
Tác giả dùng toàn những tiếng Việt mà dùng rất đắc thế: nước
trong veo, bé tẻo teo, hơi gợn tí, sẽ đưa vèo, vắng teo. Ta lại thấy tác giả ngồi
tựa gối buông (có sách chép là ôm) cần trong chiếc thuyền bé tẻo teo nữa. Thấy
cả tính tình tác giả: kín đáo, ung dung, nhàn tản, đi câu mà không cốt được cá,
chỉ cốt ngắm cảnh, (một cảnh thật đẹp, không tiêu sơ, vì ở quê ông, miền hạ du
Bắc Việt, thu không tiêu sơ như ở Trung Hoa); có thể ông đương mong khách tới
chơi nữa (ngõ trúc quanh co khách vắng teo).
Không có một chữ nào sáo hay cầu kì, toàn là tiếng Nôm cả.
Tôi cho bài đó là bài vịnh thu hay nhất của mình thời trước.
Bài cuối của Xuân Diệu, không phải là bài tả thu hay nhất
trong thơ mới. Tôi sở dĩ lựa, vì Xuân Diệu rất thiết tha, rạo rực, say đắm, đại
biểu cho thanh niên thời đại của ông: không nhà thơ nào chịu ảnh hưởng đậm của
thơ Pháp như ông.
Trong mắt các nhà thơ cũ thì bài Đây mùa thu tới rườm quá,
nhiều chữ trùng điệp (điều đó kị trong thơ) như câu đầu đã "đứng chịu
tang" thì tất buồn rồi, chữ "buồn" trong câu nhì hóa dư; câu ba
tại sao lặp lại "mùa thu tới"? Rồi đã "nhành khô gầy", lại
"xương mong manh". Ngoài ra có những chỗ Tây quá, các cụ cho là ngây
ngô như "hơn một loài hoa", "sắc đỏ rủa màu xanh"... Nhưng
chính những chỗ đó, thanh niên thời 1935-1940 lại rất thích vì mới mẻ. Ba tiếng
"chim bay đi", các cụ chê là lời đàn bà, con nít, mà lại không ngâm
được, tác giả không thuộc luật bằng trắc; nhưng phái mới lại khen ba âm bình bổng
đó đi liền nhau gợi hình ảnh một đàn chim bay thành hàng trên trời mà Xuân Diệu
không phải là không thuộc luật, ông đã dụng ý phá luật, chứng cứ là toàn bài,
trừ ba chữ đó ra, còn đều giữ đúng luật cả.
Ta phải nhận rằng Xuân Diệu có những ý mới, hình ảnh lạ, những
nhận xét đúng, như "Đã nghe rét mướt luồn trong gió, đã vắng người sang những
chuyến đò"; và bốn câu sau thật buồn, riêng hai câu cuối vừa đẹp, vừa diễn
tả một nỗi bâng khuâng, buồn vơ vẩn, không hề thấy trong thơ cũ.
Sau một thời gian bút chiến giữa hai phái thơ cũ và thơ mới,
thơ mới thắng; phái mới hồn thơ dào dạt, đa số có tài, mỗi nhà một vẻ như Huy Cận,
Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Xuân Diệu, Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Thâm Tâm, Bàng
Bá Lân... làm cho thơ Việt rất thịnh một thời, như trăm hoa đua nở, chỉ trong
mươi năm đuổi kịp được một trăm năm thơ Pháp, từ Lãng mạn đến Thi sơn
(Parnasse), Tượng trưng. Nhưng khi Xuân Xanh bắt trước Mallarmé thì độc giả
không theo nổi, chê là thơ "hủ nút". Người ta lại càng chán hạng bất
tài "vô bệnh thân ngâm", chuyên làm thơ ủy mị "anh anh, em
em".
Kịch của phương Tây cũng được một số văn thi sĩ thí nghiệm,
thành công ít nhiều như Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Vũ Hoàng Chương... nhưng
ngành này không thịnh, chỉ có chút ảnh hưởng ở vài thành phố ngoài Bắc.
BIÊN KHẢO TRƯỚC NĂM 1945
Về ngành biên khảo dịch thuật, phái tân học cũng góp công được
nhiều. Thời Nam Phong, phái cựu học nhận nhiệm vụ "bàn giao" cổ học lại
cho phái tân học, dịch được Mạnh tử, Luận ngữ, ít thiên Liệt tử, Mặc tử, ít thơ
văn Trung Hoa: cổ văn, Tình sử; giới thiệu Chiến Quốc sách, Tư Mã Quang; dịch
vài bộ sách cổ của ta như Vũ trung tuỳ bút, Lĩnh Nam dật sử Chỉ có Phan Kế Bính
là soạn được một tập biên khảo: Việt Hán văn khảo nhưng sơ sài quá. Nên kể thêm
các truyện Tàu như Đông Châu liệt quốc, Tam Quốc chí, Thuỷ hử
Thật là một điều đáng ngạc nhiên: chính một nhà tân học, Trần
Trọng Kim, lại âm thầm tiếp tục làm công việc bàn giao mà các nhà cựu học bỏ dở:
bộ Nho giáo của ông (cuốn đầu xuất bản năm 1930) rất đầy đủ, chép lịch sử đạo
Nho từ đời thượng cổ đến nhà Thanh (thêm một chương về Nho giáo ở Việt nam), được
các nhà cựu học khen là rất quí, sáng sủa, tinh tế, ngay Phan Khôi cũng phải nhận
là các nhà Nho không sao viết nổi.
Bộ sử Việt Nam đầu tiên bằng tiếng Việt cũng của Trần Trọng
Kim; bộ văn phạm Việt Nam đầu tiên bằng tiếng Việt cũng do ông soạn. Người dịch
nhiều thơ Đường nhất cũng lại là ông trong khi ông lánh mặt ở Singapore. Ông là
học giả đáng làm gương cho lớp sau, là nhà biên khảo có công nhất, có uy tín nhất
trong nửa đầu thế kỉ. Cùng với ông, có thể kể thêm Bùi Kỉ, người soạn cuốn Quốc
văn cụ thể và hiệu đính, chú thích một số truyện bằng thơ Nôm của ta: Kiều, Trê
cóc...
Khi thế chiến thứ nhì nổ ở châu Âu, văn học của ta chuyển hướng.
Không ai bảo ai, người đọc đều chán loại báo vui vẻ, trẻ
trung, loại tiểu thuyết tình ái lãng mạn; mà người viết cũng chán không muốn viết
các loại đó nữa.
Các báo có tính cách khảo cứu, phổ thông kiến thức, giáo dục
như: Thanh Nghị, Tri Tân, Khoa Học, dù khô khan cũng bán khá chạy; và những nhà
xuất bản Hàn Thuyên, Mai Lĩnh, Tân Việt cho ra những cuốn phổ thông kiến thức về
sử (lịch sử thế giới), triết Tây (Bergson của Nguyễn Chí Thiệp), triết Đông
(Lão tử, Mặc tử của Ngô Tất Tố), về thực nghiệp (của Lê văn Siêu).
Ai cũng hóa ra đăm chiêu, tự hỏi tương lai thế giới sẽ ra
sao, nước nhà sẽ ra sao, và mỗi người phải làm gì, chuẩn bị ra sao...
Vậy là phong trào báo chỉ mới, tiểu thuyết và thơ mới thực sự
chỉ phát triển mạnh trong khoảng tám chín năm, từ 1932 đến 1939 (không kể truyện
Tố Tâm xuất hiện lẻ loi năm 1925) rồi ngưng lại, lùi bước; nhưng nó đã ồ ạt xâm
chiếm tâm hồn thanh niên ở thành thị, thay đổi một xã hội, hào quang của nó rực
rỡ, ảnh hướng của nó sâu, nó đánh dấu một giai đoạn chuyển mình của dân tộc.
PHONG HÓA
Trong hai tiết Tiểu thuyết từ 1925... và Thơ mới, tôi đã kể
nhiều sự thay đổi trong nếp sống từ khi ta tiếp xúc với văn minh phương Tây. Sự
thay đổi đó bắt đầu từ thập niên 20 (1920-1929), nhưng qua thập niên sau, từ
khi có phong trào vui vẻ trẻ trung của nhóm Tự Lực, nó mới tiến nhanh, mà cũng
chỉ thấy rõ ở các thành thị thôi, còn ở thôn quê thì người dân vẫn giữ cổ tục.
Thay đổi nhiều nhất là giới thanh niên nam nữ. Họ thích chủ
nghĩa cá nhân, muốn thoát ly gia đình, tự do sống theo ý mình, tự do kết hôn
v.v... Nhưng vì tổ chức xã hội, tình hình kinh tế nước mình, họ vẫn phải sống
nhờ gia đình, nên họ chỉ muốn tới mức nào đó thôi. Còn bậc cha mẹ hoặc vì
thương con, hoặc vì tự xét không chống lại được trào lưu, nên cởi mở lần cho
con, sau cùng cũng tự thay đổi một chút cho khỏi lạc hậu. Xã hội đó không bị
xáo trộn lắm.
Trước kia, trong những gia đình nề nếp, con gái chỉ được học
vài năm, biết đọc biết viết thì thôi, rồi lo việc bếp nước, may vá, săn sóc các
em, chăm nom việc nhà; họ ít khi được ra ngoài một mình; y phục thì dài, rộng,
che hết các đường cong của thân thể, màu sắc không lòe loẹt, quần chỉ dùng màu
đen, răng nhuộm đen, tóc vấn khăn, để đuôi gà. Việc hôn nhân thì cha mẹ đặt
đâu, con ngồi đấy.
Từ thập niên 30, đã nhiều gia đình cho con gái học nghề cô
giáo, cô mụ, kỹ sư, dược sĩ, bác sĩ...; họ hội họp thường với bạn trai, đi xe đạp,
rồi lái xe hơi, tập thể thao, chơi quần vợt, bơi ở hồ tắm, học đàn, ca,
"nhảy đầm". Y phục thì bó sát người, áo màu, quần trắng, răng trắng,
tóc vấn tròn, sau cắt ngắn; họ đi coi hát bóng, cải lương, kịch, đá banh, đi một
mình hay với bạn gái hoặc trai. Về hôn nhân, họ được phép tự quyết định, cha mẹ
chỉ góp ý thôi.
Báo chí thỉnh thoảng cũng đăng tin một cặp nam nữ thất vọng về
tình duyên, cùng nhau tự tử, tin con gái bỏ nhà theo trai, tin vợ xin li dị chồng,
hoặc giết chồng... những chuyện đó thời xưa cũng có, và thời nào cũng ít, không
đủ để kết tội một xã hội là "cương thường đã đảo ngược". Xét chung, bọn
chúng tôi thời đó ít người lố lăng, đa số đứng đắn, lễ độ, biết trọng cha mẹ,
thầy học; một số có tư cách, lí tưởng nữa, và chế độ gia đình vẫn vững, xã hội
vẫn ổn định. Phái nữ cũng đáng khen, lanh lẹn, tháo vát và tiến bộ hơn xưa: khi
lập gia đình rồi thì biết hi sinh cho chồng con, nhất là trong cơn hoạn nạn.
Tóm lại, một số tục cổ đã bỏ, nhưng tinh thần đạo đức phương
Đông còn giữ được; ảnh hưởng của Nho giáo vẫn ngấm ngầm tác động, để đến khi xã
hội biến chuyển hoặc quốc gia lâm nguy thì nó dậy lên để cứu vớt dân tộc.
Chú thích:
1. Trong một chương trên tôi đã nói năm 1930, chỉ một lớp ở
trường Bưởi đã có hai bạn tôi là đảng viên.
2. Có người bảo từ thời Sĩ Nhiếp (187-226).
CHƯƠNG XV
THẾ CHIẾN THỨ NHÌ ĐỨC MẠNH LÊN - PHÁP THUA
THẾ CHIẾN THỨ NHÌ ĐỨC MẠNH LÊN - PHÁP THUA
Đầu năm 1938, khi nhà tôi có mang được bảy tám tháng, vợ chồng
tôi không hiểu sao tin chắc sẽ sinh con trai và bàn tính với nhau đặt tên cho
nó là Nhật Đức. Nhật Đức có nghĩa là đức của mặt trời và còn một nghĩa nữa là
Nhật và Đức, hai dân tộc có tinh thần quật cường mạnh nhất thời đó.
Nhật chỉ sau 35 năm duy tân đã theo kịp Âu, Mỹ và năm 1905 đã
thắng Nga, một nước lớn ở Âu châu, rửa nhục cho các giống da vàng bị giống da
trắng ức hiếp, xâm chiếm đất đai, bóc lột; và các quốc gia lớn nhỏ từ Ấn Độ đến
Phi Luật Tân có cảm tình ngay với Nhật, hăng hái muốn noi gương Nhật.
Còn Đức thì sau thế chiến thứ nhất, phải ký hiệp ước
Versailles rất khắt khe: mất một phần thổ địa, mất hết các thuộc địa; không được
phép có không quân; lục quân và hải quân bị rút xuống chỉ còn là lực lượng cảnh
bị trong nước; lại phải bồi thường chiến phí rất nặng, tưởng không sao ngóc đầu
lên nổi. Vậy mà từ năm 1925, Hitler khéo lợi dụng lòng phẫn uất của dân chúng,
táo bạo đưa ra một đường lối cứu quốc để phục hồi địa vị đại cường của Đức ở
châu Âu và trên thế giới (trong cuốn Mein Kampf: cuộc chiến đấu của tôi), được
dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt, do đó nắm được chính quyền, xé bỏ hiệp ước
Versailles, tổ chức lại quân đội, vừa tuyên truyền, dọa dẫm, vừa dùng ngoại
giao, khiến Đức tới năm 1938, lại có cái khí thế lấn át các nước Trung Âu và cả
Pháp ở Tây Âu nữa.
Lỗi ở các nước đồng minh ức hiếp dân tộc Đức quá trong hiệp ước
Versailles; ở các nhà cầm quyền Pháp không đoàn kết, nhu nhược, không biết lo
xa; nhưng cũng ở các nhà cầm quyền Anh nữa, làm ngơ cho Đức tổ chức lại quân đội,
nhất là hải quân vì truyền thống ngoại giao của họ là giữ sự quân bình lực lượng
ở lục địa Tây Âu, không muốn cho Đức yếu quá, sợ Pháp sẽ nuốt Đức mà hóa vô địch
châu Âu. Anh cũng không muốn cho Đức mạnh quá, nhưng khi đã lỡ cho Đức lập lại
quân đội, thì lực lượng, quân số, võ khí của họ tiến rất mau, ngăn họ lại không
kịp.
Vậy khi Đức đã chiếm được Áo, muốn nuốt luôn Tiệp Khắc, Anh
và Pháp nhượng bộ Đức, bỏ rơi Tiệp, tưởng như vậy Hitler sẽ thỏa mãn mà châu Âu
được yên ổn. Không ngờ năm 1939, Đức ký với Nga một hiệp ước không xâm phạm lẫn
nhau; rồi đem quân vô chiếm Ba Lan. Lần này Anh Pháp không nhượng bộ nữa, thế
chiến thứ nhì nổ (tháng 9 năm 1939).
Hết thảy gia đình bên tôi và bên nhà tôi (mà tôi đoán đa số
giới trí thức Việt Nam cũng vậy) thấy Đức mạnh lên thì mừng vì Đức là kẻ thù của
Pháp; và khi Anh, Pháp tuyên chiến với Đức thì ai cũng thầm mong cho Đức thắng,
nhưng chưa dám chắc vì Đức chỉ có một mình; các cường quốc Nga, Mỹ, Ý, Nhật đều
đứng ngoài coi. Chúng tôi còn hơi lo nữa: vật giá đã lần lần tăng lên, đời sống
sẽ khó khăn. Tôi còn nhớ, sau khi chiến tranh nổ được độ nửa tháng, một buổi
chiều đi lang thang ở chợ cũ, thấy giá các đồ nhập cảng đã tăng lên gấp rưỡi
hay gấp hai, tôi mua một con dao nhíp (canif) - trong Nam gọi là con dao con
chó - lưỡi thép, vỏ đồng, để gọt bút chì, rọc và xén giấy mà người Huê kiều chủ
quán bảo là của Đức. Con dao đó là vật duy nhất tôi còn giữ được, sau bốn chục
năm, nay lưỡi đó đã mòn gần hết.
Pháp rất tin rằng chiến lũy Maginot ở phía Bắc ngăn được Đức,
nên đưa quân lên đó, không ngờ chờ hoài không thấy gì cả; và thình lình tháng
5-1940, Đức không kể gì đến sự trung lập của Hòa Lan, Bỉ, đi vòng chiến lũy, ồ ạt
xâm lấn hai nước trên rồi tiến như vũ như bão vào đất Pháp, chọc thủng Sedan,
vượt sông Meuse. Liên quân Anh Pháp không cự nổi, rút lui.
Lúc này chúng tôi mừng rỡ: Pháp sẽ thua. Một hôm viên kĩ sư sở
tôi bảo một họa viên phóng lại một bản đồ phía Bắc nước Pháp tới ngang Reims,
tôi bảo ông ta: "Cũng một công, sao ông không bảo phóng thêm xuống khởi
Paris đi?" Ông ta ngó tôi, đáp: "Chúng không tới Paris được
đâu". Tôi nghĩ bụng: "Để coi".
Ngày 14 tháng 6 Paris bỏ ngỏ cho Đức vô. Dân Paris tản cư
trong cảnh hỗn độn không thể tả. Chưa bao giờ Pháp thua một cách mau chóng, nhục
nhã như vậy. Paul Reynaud từ chức, thống chế Pétain năm đó đã 84 tuổi, đứng ra
lập nội các mới, ngày 17-6 xin đình chiến. Nước Pháp bị chia đôi, miền Bắc bị Đức
chiếm, miền Nam gọi là "miền tự do" do Pétain làm quốc trưởng, thành
lập chính phủ Vichy.
Ngay ngày hôm sau 18 tháng 6, tướng De Gaulle ở Londres hô
hào dân Pháp tiếp tục cuộc kháng chiến; và lần lần thành lập được "nước
Pháp tự do".
ĐÔNG DƯƠNG TRONG ĐẦU CHIẾN TRANH
Pháp thua, những người Việt yêu nước mừng lắm và hi vọng lần
này có thể gỡ ách của Pháp được. Một nhật báo ở Sài Gòn đăng tin không biết có
phải là trào phúng không: ở một tỉnh nọ miền Hậu Giang, một buổi tối, vài ba
thanh niên lái xe đạp đi chơi, khi xuống một dốc cầu, một thanh niên bỗng la lớn:
"Đức thắng rồi, tụi bay ơi!"' Một tên lính gác cầu bắt lại; thanh
niên đó ngạc nhiên hỏi: "Tôi làm gì mà bắt tôi?"
- "Tại anh la Đức thắng"
- "Thì thắng của tôi đức đây nè."
Tên lính cúi xuống coi cái thắng (cái "phanh" để
hãm xe), thấy nó đứt thật, tẽn (mắc cỡ) lính gác cho thanh niên đó đi. Một ít
tay sai của Pháp còn quyến luyến với chủ như chú lính đó.
Ảnh hướng thứ nhất tới Việt Nam là Nhật, ngay từ ngày 19
tháng 6 đã đưa tối hậu thư cho chính quyền Pháp ở Đông Dương buộc phải đóng cửa
biên giới Việt Nam-Trung Hoa, không cho chở xăng và một số dụng cụ bằng đường
xe lửa qua Trung Hoa nữa. Lúc đó Nhật đương đánh nhau với Trung Hoa và đã chiếm
được gần hết các thành phố lớn ở duyên hải từ Bắc tới Nam Trung Hoa. Tướng
Catroux, toàn quyền Đông Dương chịu đóng biên giới nhưng đòi phải có một thỏa
hiệp rõ ràng giữa Pháp và Nhật; và trong khi chờ đợi, ông ta vẫn liên lạc với
Anh ở Singapour, hy vọng nhận được khí giới của Anh, Mỹ. Chính phủ Vichy cách
chức ông, đưa Hải quân Đề đốc Decoux lên thay, và ít bữa sau Pháp ký hòa ước với
Nhật.
Hai bên thương thuyết với nhau: Nhật chịu nhận chủ quyền của
Pháp ở Đông Dương, mà Pháp chịu cho Nhật được nhiều dễ dàng về quân sự ở Bắc Việt
để Nhật giải quyết cho xong chiến tranh với Trung Hoa. Không đợi kết quả cuộc
thương thuyết, quân đội Nhật trong đó có một số nhà yêu nước Việt Nam, đánh phá
Lạng sơn và một số đồn ở biên giới. Cả hai bên tổn thất nặng (tháng 9-1940). Hiệp
ước Pháp Nhật ký rồi, việc đó êm.
Cũng vào khoảng đó, Thái Lan tấn công để đòi lại vài tỉnh:
Battambang, Siemreap... Pháp đưa quân lên chống cự. Thái được Nhật ủng hộ, Pháp
phải nhượng cho Thái ba tỉnh ở Miên và hai tỉnh ở Lào 1. Ở Nam Việt đảng Cộng sản
nổi lên nhiều nơi như Tam Bình, Vũng Liêm, Xoài Hột... bị Pháp đàn áp tàn nhẫn.
Tháng 7 năm sau (1941) Nhật lại buộc Pháp phải để cho họ dùng
một số sân bay, đổ bộ ở Sài Gòn, Cam Ranh. Pháp phải nhượng bộ nữa. Lúc đó tôi
nghỉ phép, đi thăm cảnh Nha Trang - Tuy Hòa - Quy Nhơn, vừa về tới nhà ở Khánh
Hội thì được lệnh phải dọn đi ở chỗ khác nội trong 48 giờ, vì gần trọn khu bến
tàu ở Khánh Hội để cho quân Nhật đóng. Gia đình tôi phải đi ở nhờ một người bà
con một hai ngày mới kiếm được một căn phố chật hẹp ở đường Monceau (sau đổi là
Huỳnh Tịnh Của)
Ngày 7-12-1941, Nhật thình lình tấn công Pearl Harbour (Trân
Châu cảng), ở quần đảo Hawai; Mỹ bị thiệt hại nặng. Ba ngày sau, Nhật lại đánh
đắm hai hàng không mẫu hạm lớn nhất của Anh ở ngoài khơi Mã Lai. Tin đó làm cho
người Việt nào cũng phấn khởi, ảnh hưởng lớn hơn vụ Nhật thắng hải quân Nga năm
1905 nhiều. Lần này Nhật thắng được hai cường quốc bực nhất Mĩ, Anh; chỉ trong
một tháng lần lần chiếm hết các quần đảo lớn nhỏ ở Thái Bình Dương (trừ Úc),
Thái Lan, Miến Điện, ngấp nghé cả Ấn Độ nữa. Đông Dương tuy còn thuộc Pháp
nhưng đã ở trong tay họ rồi. Chương trình Đại Đông Á của họ đã gần thực hiện được.
Họ đặt nhiều cơ sở ở Việt Nam, nhiều người Việt học tiếng Nhật,
làm việc cho họ - hai người anh con bác Ba tôi, Tân Phương và Việt Châu, làm sở
Thông tin Domei của họ. Lính họ đi nghênh ngang ngoài đường, lùn tịt mà gươm
dài sát đất. Pháp phải cung cấp cho họ đủ thứ: thực phẩm, than đá, xi măng...
Và nhân dân thì chịu thiếu đủ thứ, nhất là vải và thuốc men. Năm 1944, một số
nông dân ở Rạch Giá phải ở trần, chỉ có mỗi chiếc quần cụt bằng bố tời. Thuốc
Tây thì ký ninh cũng thiếu, mà thuốc Bắc thì những vị hoàng cầm, hoàng bá đều
là thuốc giả. Giấy báo và giấy viết như tôi đã nói, vừa đen vừa xấu, in sách phải
dùng giấy bản làng Bưởi. Miền Nam may mắn có đủ gạo ăn, miền Bắc đầu năm 1945
có hàng triệu người chết đói vì chính sách thu lúa tàn nhẫn của Pháp và Nhật,
và vì đường giao thông nghẽn, không chở gạo trong Nam ra cứu đồng bào ngoài đó
được.
Năm 1939, một lượng vàng giá khoảng 160 đồng, đầu năm 1945
giá trên 1.000 đồng; đồng bạc bị phá giá gấp 6 lần; đời sống rất khó khăn. Vậy
là từ năm 1930 tới năm 1945, trong 15, 16 năm, hết nạn kinh tế khủng hoảng, dân
mới dễ thở được độ 5 năm (1935-1939) thì lại bị nạn chiến tranh. Công việc kiến
thiết, khai hoang, phát triển công nghiệp, từ 1920 đến 1945 mới bắt đầu thực hiện
được trong khoảng 15 năm (từ 1920 đến 1930, từ 1935 đến 1939) đã hai lần bị
ngưng trệ, mỗi lần khoảng 5 năm.
NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC - CÁC GIÁO PHÁI Ở NAM
Phải thú thực rằng thời đó chúng tôi cũng như hầu hết mọi người,
không biết gì về tình hình thế giới cả. Trong nước có lẽ chỉ các tổ chức cách mạng
là có máy thâu thanh, còn thường dân nếu có - số này hiếm lắm, cả sở tôi không
người nào có - thì cũng phải nộp cho chính quyền Pháp, hoặc cất giấu đi, không
dám dùng, thành thử ai cũng chỉ biết những tin tức mà Nhật và Pháp muốn cho biết
thôi. Tất nhiên Nhật chỉ loan những tin lợi cho Nhật, Pháp cũng chỉ thông báo
những tin của chính phủ Vichy; tất cả những tin đó đều một chiều, thiếu thốn, nếu
không sai.
Vì vậy chúng tôi không biết Hitler tàn sát hằng triệu dân Do
Thái ra sao, Mỹ mạnh ra sao và từ cuối 1942, Đức yếu ra sao.
Chúng tôi được nghe nói Nhật rất tàn nhẫn với thuộc địa của họ
(Triều Tiên, Mông Cổ, Mãn Châu), chẳng hạn biết ba nhà phải dùng chung một con
dao phay (sợ dân thuộc địa dùng dao mà nổi loạn chăng?). Một nhà văn Việt Nam -
Nguyễn Vỹ - viết cuốn Kẻ thù là Nhật Bản, nhưng cuốn đó không được phổ biến
trong thời chiến tranh, nên nhiều người không được đọc.
Mà chúng tôi cũng không hề tính xa: hết chiến tranh, nếu Nhật
Bản, Đức mà thắng thì họ có cho dân tộc mình được chút nào hay không, hay chính
sách thực dân của họ còn tàn khốc hơn của Anh, Pháp nữa?
Chúng tôi chỉ biết mỗi một điều là họ thù địch với Pháp nên
mong nhờ họ gỡ cho cái ách của Pháp đã, rồi ra sao thì sau sẽ hay. Tôi không
làm chính trị, chỉ có lòng yêu nước, không muốn một nước nào chiếm giang sơn của
mình, tước hết chủ quyền của mình, bắt mình làm nô lệ:
"Nam quốc sơn hà" thì phải "Nam tộc cư".
Đó là tâm lý của mọi người Việt Nam, trừ một số Việt gian, bất
kì trong giới nào. "Dù bị đô hộ một trăm năm, một ngàn năm, dân Việt Nam vẫn
còn tinh thần Việt Nam, vẫn không chịu thừa nhận chính quyền ngoại nhân. Chính
quyền ngoại nhân bao giờ cũng chỉ như một miếng da "cấy" vào một cơ
thế khác, thế nào rồi cũng bị đẩy ra (...). Cứ xét các ông vua triều Nguyễn được
Pháp đưa lên thì biết: ông nào có tư cách cũng chỉ ít thăng là chống lại họ,
còn ông nào ngồi lâu được thì dân không thèm biết tới". (Cụ Phan và lòng
dân - Bài đã dẫn).
Nước nước nào giúp chúng tôi lật đổ Pháp, đuổi Pháp đi là
chúng tôi mang ơn, mặc dầu chúng tôi biết rằng nhờ một thực dân đuổi một thực
dân thì không khác gì "tiền môn cự hổ, hậu môn tiến lang" (của trước
đuổi con cọp mà cửa sau rước con chó sói vào) như cụ Phan Chu Trinh và các cụ
trong Đông Kinh nghĩa thục nói; biết rằng trên thế giới không có một chính phủ
nào nhân từ cả, chỉ có cá nhân tốt thôi, mà người nào dù tốt mà làm chính trị
thì cũng phải bỏ lòng công bằng, nhân ái đi mà chỉ nghĩ cái lợi cho quốc gia.
Khi cái lợi của quốc gia bắt buộc thì họ cũng phải nuốt ngay lời hứa mà phản bạn
như Nhật tháng 9 năm 1940 sau khi kí hiệp ước với Pháp, được Pháp nhường cho một
chút quyền lợi ở Đông Dương rồi, liền để cho Pháp tàn sát các nhà cách mạng Việt
Nam đã nghe lời họ, theo họ đánh phá các đồn ở Lạng Sơn.
Chính sách của Nhật lúc đó là cho Pháp tạm nắm chủ quyền ở
Đông Dương, miễn Decoux ngoan ngoãn nghe lời, Nhật đòi gì cũng sẵn sàng cung cấp;
như vậy Nhật được rảnh tay đối phó với Mỹ, Anh ở Thái Bình Dương. Cho nên khi
Pháp thẳng tay đàn áp đảng Cộng sản Đông Dương, họ làm thinh, còn thích là khác
nữa.
Đối với Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Phục quốc hội của Cường
Để, họ cũng không giúp đỡ gì, và cứ hẹn lần, bắt phải chờ thời. Khi thế chiến
phát, ở Nam, hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo cũng nổi lên làm chính trị.
Mới đầu Cao Đài do Lê Văn Trung, một viên Hội đồng quản hạt
thành lập, chỉ hoạt động về tôn giáo, thờ chung Phật, Lão, Khổng, Ki tô, thêm cả
Lý Bạch, Victor Hugo nữa, chỉ thiếu Mohamad. Họ dùng cách cầu cơ để truyền bá
tín ngưỡng, khéo tổ chức, đặt ra các chức sắc, có lễ phục riêng, xây cất được
nhiều thánh thất cùng một kiểu kiến trúc. Thánh thất chính ở Tây Ninh. Sau một
viên đốc phủ sứ ở Bến Tre lập một giáo phái riêng, gọi là Cao Đài Bến Tre, nhưng
không phát triển bằng Cao Đài Tây Ninh.
Năm 1934, Phạm Công Tắc lên thay Lê Văn Trung lúc đó đã chết
và hướng về chính trị; tới năm 1939, Cao Đài thành một đảng chính trị mạnh có
khoảng nửa triệu tín đồ và mỗi ngày mỗi thân Nhật hơn, ủng hộ Cường Để.
Hòa Hảo xuất hiện sau Cao Đài. Mới đầu Huỳnh Phú Sổ cũng chỉ
là một ông "đạo" như người ta thường thấy ở miền Tây, nhưng thông
minh hơn, có tư cách hơn. Chỉ là một nông dân học hết lớp ba ở trường làng Hòa
Hảo (quận Tân Châu - Châu Đốc) mà năm 1939 (21 tuổi ta) bỗng trị bệnh bằng nước
lã, lá cây, được nhiều người tin, lại thêm có tài làm thơ lục bát, giọng rất mộc
mạc, ý nghĩa không sâu sắc, nhưng làm rất mau. Bài thơ nào cũng có ý răn dời,
khuyên hiếu nghĩa, kính Phật; nhiều người xa lại xem, rất phục. Rồi lại làm những
bài "Sấm giảng" có giọng chính trị, tiên tri, báo trước rằng sắp
"đổi đời" và sẽ có một vị "vương" toàn đức toàn trí ra đời ở
miền Thất Sơn làm vua ở Việt Nam, và đưa dân tộc tới vinh quang. Việt Nam sẽ
thành một nước văn minh nhất thế giới. Tiếng tăm của ông lần lần lan khắp các tỉnh
miền Tây, nơi mà tín đồ nhiều nhất, rồi tới những tỉnh khác ở Nam, có lẽ cũng
đông gần bằng tín đồ Cao Đài. Người ta đoán phỏng được 500.000 người theo hẳn,
còn số có cảm tình thì tới cả triệu.
Giáo phái đó trước 1950 không có tổ chức gì cả (sau năm 1964
mới tổ chức mạnh), không có một "thánh thất" như Cao Đài, ai theo thì
cứ tu tại nhà, tụng "giảng" của "Thầy" tức những bài thơ lục
bát của Huỳnh Phú Sổ, và có thể căng một tấm vải rộng màu nâu, gọi là "trần
điều" gần nóc nhà, trên bàn thờ Phật. Họ theo đạo Phật mà giản dị hóa cách
tu, tụng niệm, ăn chay, chú trọng đến đạo làm người, nhất là đạo Hiếu, Nghĩa.
Không có chức sắc, chung quanh giáo chủ chỉ có một số tín đồ
thân tín, mới đầu là nông dân, sau thêm một số người có học: một luật sư, vài
kinh lý, kỹ sư, bác sĩ. Những người này rất phục Huỳnh Phú Sổ mà họ gọi là
"Thầy" (Thầy Tư) vì họ tin rằng thầy là hậu thân của Phật Thầy Tây An
ở Châu Đốc thời xưa (Phật Thầy có tiên là Đoàn Minh Huyên, hiện còn mộ ở Núi
Sam), hoặc được một thần linh nào nhập vào nên không học mà xuất khẩu thành
thi.
Nhà thầy ở làng Hòa Hảo, nhưng từ khi nổi danh, thầy thường
đi nơi này nơi khác thuyết giáo và được đệ tử đưa đón long trọng, mời về nhà để
hầu hạ.
Thầy không có một đường lối, một chương trình chính trị, mà đệ
tử cũng không có ai là chính khách, lập nổi một chương trình hoạt động. Không gọi
là một tổ chức chính trị được. Nhưng cũng như mọi người có tinh thần quốc gia,
thầy muốn đuổi Tây, mà tín đồ của thầy đông, coi thầy như thần thánh, thầy bảo
gì cũng nghe, nên người Nhật để ý tới giáo phái Hòa Hảo có phần hơn giáo phái
Cao Đài vì giáo phái Hòa Hảo có tính cách nông dân cuồng tín.
Dĩ nhiên chính quyền Pháp thấy hai giáo phái đó có thể gây rối,
nên năm 1941, bắt Phạm Công Tắc đày đi quần đảo Comores thuộc Madagascar trên Ấn
Độ Dương.
Còn Huỳnh Phú Sổ thì cũng năm đó, họ cho vào nhà thương điên ở
Chợ Quán, gọi thầy là "bonze fou" (nhà sư điên), sau đưa xuống an trí
ở Bạc Liêu. Ở đây thầy lại có cơ hội thu hút một số đông tín đồ nữa. Năm 1942,
Pháp thấy vậy tính đày thầy qua Lào để thầy hết thuyết giáo được vì khác ngôn
ngữ, nhưng chưa kịp thi hành thì hiến binh Nhật bắt cóc thầy đem về Sài Gòn,
cho thầy ở một biệt thự gần Sở Hiến binh của họ, Pháp phản kháng nhưng vô hiệu.
Nhật cũng cứu vài người khác có tinh thần quốc gia bị Pháp
nghi ngờ như Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc ở Bắc, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân ở
Nam đưa qua Singapour mà họ gọi là Chiêu Nam đảo, tính sau này có dịp thì sẽ
dùng. Còn các nhà cách mạng trong nhóm Đệ tứ quốc tế như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu
Thâu, Phan Văn Hùm đã bị nhốt ở Côn Đảo từ đầu thế chiến.
Qua năm 1944, Đức không ngóc đầu lên được nữa; tháng 6 năm
1944 Đồng minh đổ bộ lên bờ biển Normandie của Pháp, rồi Paris được giải phóng,
De Gaulle trở về Pháp.
Tháng 5 năm 1945 Hitler tự tử. Chiến tranh kết liễu ở châu
Âu.
Ở Thái Bình Dương, Nhật rất lúng túng, lo lắng. Chính phủ
Vichy đã không còn, Pháp tự do đã đứng về phe thắng, Anh, Mĩ đã tấn công lấy lại
các đảo trên Thái Bình Dương, cả Phi Luật Tân nữa, thế nào Đồng minh cũng đổ bộ
lên Đông Dương, và người Pháp ở Đông Dương cũng đương tổ chức kháng chiến để tiếp
ứng quân Đồng minh. Nhật thấy tình thế nguy kịch rồi, phải lật Decoux, đánh
Pháp để nắm hết quyền ở Đông Dương mà chống cự với Đồng Minh, do đó có cuộc đảo
chính chớp nhoáng đêm mùng 9 tháng 3 năm 1945.
NHẬT LẬT ĐỔ PHÁP ĐÊM 9-3-1945
Ở Sài Gòn, biến cố xảy ra thật đột ngột, chính người Pháp
cũng không ngờ. Tối hôm đó, đường tôi ở cũng yên tĩnh như mọi ngày; sáng hôm
sau dậy, trên đường lại sở, không thấy có gì khác - hoặc giả có mà không quan
trọng, lâu quá, tôi quên rồi chăng - tới sở mới biết là Nhật đã đảo chánh. Ai
cũng ngạc nhiên, nở nụ cười, nhưng vui tưng bừng thì hình như không. Tại cuộc đảo
chánh đó đợi lâu quá rồi, bây giờ đã quá trễ? Tôi đoán được tình hình Nhật đã
nguy mà mình sẽ bị họ lôi cuốn vào chiến tranh lúc gần tàn rồi chăng? Ai cũng tự
hỏi tương lai sẽ ra sao?
Báo chí cho hay 8 giờ tối hôm 9-3, đại sứ Nhật ở Sài Gòn đưa
tối hậu thư cho Decoux buộc Pháp phải đặt lực lượng quân sự Pháp ở Đông Dương
dưới sự chỉ huy của họ; Decoux trả lời có ý "hoãn binh", Nhật ra tay
liền. Nhờ tổ chức tỉ mỉ từ trước, họ làm chủ tình hình Nam Kì rất mau. Ô Huế,
Hà Nội, Pháp chống cự được vài giờ rồi cũng phải đầu hàng. Ở Lạng Sơn, họ chống
cự được mấy ngày, sau bị Nhật tàn sát.
Tóm lại, chỉ trong không đầy 24 giờ, phần lớn quân đội Pháp bị
loại, các tướng bị bắt làm tù binh. Ở Nam và Trung có một ít quân Pháp trốn được
qua Lào, ở Bắc vài ngàn quân Pháp rút được qua Trung Hoa. Thường dân Pháp được
yên ổn. Nhật muốn gây xáo trộn càng ít càng tốt, vì họ đương gặp nhiều khó khăn
ở Thái Bình Dương, nên cho phép các nhà chuyên môn Pháp được tiếp tục làm việc,
nhưng công chức Việt không muốn. Cả sở Thủy lợi của chúng tôi không còn người
Pháp nào; một viên kĩ sư Nhật tạm nói được tiếng Pháp tới điều khiển sở, nhưng
công việc ở trong tay chúng tôi hết, ông ta chỉ biết ký tên. Vả lại công việc
cũng chẳng có gì.
Một vài kỹ sư Pháp mon men tới sớ, bị đánh. Tôi thấy trong cả
khu công chánh gồm nhiều sở ở đường Pellerin, nơi tôi làm việc, chỉ có hai trường
hợp hành hung công chức Pháp. Một kỹ sư có tiếng là gắt gao bị một nhân viên -
hình như theo đạo Cao Đài - quất bằng gân bò, té, gãy xương sườn; và viên kỹ sư
coi cả miền Nam từ phòng giấy xuống cầu thang, bị khoảng hai chục nhân viên chặn
ở chân cầu thang; vài người nhảy tới thoi vào đầu, vào ngực; hắn can đảm, giữ
được bình tĩnh, không chống đỡ, lách ra cửa, và anh em chúng tôi thấy vậy không
nỡ đánh nữa. Nếu hắn chống cự lại, chắc bị đòn nặng hơn nhiều.
Còn ở ngoài đường thì tôi chỉ thấy mỗi một người Pháp già bị
một thanh niên đánh, té nhào xuống đường. Tôi hơi thương hại.
Sau tôi nghe nói một số người Pháp ở miền Tây trốn vào bưng,
không bị dân chúng đánh đập, giam giữ, tố cáo; có người còn giúp đỡ lương thực
cho họ nữa. Ở Nam này như vậy, mà có lẽ ở Bắc và Trung cũng không khác mấy. Người
Việt chúng ta chỉ muốn họ cút đi thôi, họ không chịu đi, để cho người Nhật tống
cổ họ thì chúng ta lại thương hại họ. Có người bảo người Việt nào cũng có một
ông Phật ở trong lòng, câu ấy đúng.
NỘI CÁC TRẦN TRỌNG KIM - NHẬT ĐẦU HÀNG - VIỆT MINH ĐẢO CHÍNH
- BẢO ĐẠI THOÁI VỊ
Thời cuộc biến chuyển rất mau, không ai ngờ nổi.
Chiều tối ngày 9-3, Bảo Đại đi săn về, bị Nhật giữ lại vì họ
đương tấn công Pháp, và sáng hôm sau mới thả cho về cung và cho biết Việt Nam
đã độc lập rồi. Trước kia ai cũng tưởng Nhật sẽ dùng Cường Để, nhưng Nhật có óc
thực tế, không muốn gây nhiều xáo trộn lúc đó, nên dùng Bảo Đại.
Bảo Đại liền tuyên bố với thế giới và quốc dân rằng kể từ
ngày 11-3, hiệp ước bảo hộ ký với Pháp bị hủy bỏ; Việt Nam lấy lại quyền độc lập
và hợp tác với Nhật để xây dựng cho Đại Đông Á được thịnh vượng.
Cơ mật viện, đứng đầu là Phạm Quỳnh đồng loạt từ chức.
Lúc đó Dương Bá Trạc đã chết vì bệnh ở Singapour, xác được hỏa
táng; Trần Trọng Kim đã qua Băng Cốc (Vọng Các), Nhật phái người đưa ông về Huế
để gặp Bảo Đại.
Trong cuốn Một cơn gió bụi (Vĩnh Sơn - 1969), ông viết:
"Từ trước tôi không biết vua Bảo Đại là người như thế
nào. Vì trong thời bảo hộ của nước Pháp, hình như ngài chán nản không làm gì cả,
chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng 7 tháng tư, tôi vào yết kiến thấy có vẻ
trang nghiêm và nói những điều rất đứng đắn".
Bảo Đại yêu cầu ông lập chính phủ. Ông chỉ muốn yên thân để
dưỡng già, từ chối vì bệnh tật, không có đảng phái và không hoạt động về chính
trị, đề nghị nên dùng Ngô Đình Diệm. Nhưng Ngô Đình Diệm từ chối - hay vì do gì
không biết - nên Bảo Đại cố nài ông vì nghĩa vụ mà lo việc nước và ngày 17-4
ông đành đứng ra lập nội các gồm toàn các kỹ thuật gia đứng đắn, có tinh thần
quốc gia như Trần Đình Nam, Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Hồ Tá Khanh,
Vũ Ngọc Các, Trịnh Đình Thảo (Lưu Văn Lang không nhận). Trần Trọng Kim làm thủ
tướng.
Nội các bắt tay ngay vào việc, sửa soạn một hiến pháp, thay đổi
chính sách thuế khóa, lập các đoàn thanh niên tiền phong, đưa tiếng Pháp xuống
hàng ngoại ngữ, ân xá các chính trị phạm không phải cộng sản, và tranh đấu để
thống nhất ba kỳ, đòi quyền nội trị về mình... Nhật có lẽ thấy nguy tới nơi nên
không làm khó gì nhiều, lần lần trả lại hết.
Khó khăn nhất là nạn đói ở Bắc do Pháp (trước kia) và Nhật
thu lúa của nhân dân nhiều quá. Có cả triệu người chết đói, cảnh hỗn loạn lan
tràn. Lợi dụng tình thế, đảng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo, có tổ chức rất
chu mật, có tinh thần hi sinh cao, giỏi tuyên truyền, khéo gợi lòng ái quốc của
dân và lôi cuốn được nhiều nông dân, nắm được quyền nhiều làng ở Bắc Việt, nhất
là miền thượng du. Ở Trung, Nam đảng đó cũng hoạt động kín đáo và mạnh.
Ai cũng biết Nhật cứ lùi hoài, mất hết đảo này tới đảo khác
thì thế nào cũng thua. Anh, Mỹ lúc đó khí thế rất hăng, nhưng mọi người - và
chính nội các Trần Trọng Kim cũng vậy - hy vọng rằng Nhật cầm cự được mươi
tháng, một năm đủ cho mình lập lại được trật tự trong nước, thi hành được một số
cải cách, cải thiện kinh tế, lập được một đạo quân phòng vệ. Tóm lại là dựng được
một cơ sở cho nền độc lập, rồi khi Nhật thua, đồng minh tới thì mình cũng dễ ăn
nói; Đồng minh vẫn tuyên bố cho tự do, không lẽ lại cướp nền độc lập của mình,
lúc đó đã thành "sự đã rồi", mà bắt mình nô lệ trở lại. Mà nếu như vậy
chăng nữa thì có một chút khí giới, có một số quân đội đã luyện tập, toàn dân sẽ
nổi dậy chống cự, chết thì chết.
Ngờ đâu nội các Trần Trọng Kim hoạt động chưa được bốn tháng
thì ngày 6 tháng 8, Mỹ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima, ba ngày
sau thì trái bom thứ nhì xuống Nagasaki, chỉ trong một phút, cả một thành phố
thành bình địa, non 100.000 người chết, khoảng 100.000 người bị thương, 200.000
người không có chỗ trú vì trong một vòng tròn bán kính là 15 km không còn một
ngôi nhà nào đứng vững.
Ngày 15 tháng 8 Nhật phải đầu hàng không điều kiện.
Hai ngày sau, Bảo Đại ban chiếu "thiết tha hiệu triệu những
nhà ái quốc hữu danh và ẩn danh (...) mau mau ra giúp trẫm để đối phó với thời
cuộc", còn riêng ông ta thì "ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua
một nước nô lệ".
Cũng ngày đó (17-8), ở Hà Nội 20.000 người biểu tình trước
Nhà hát Tây và các nhà lãnh đạo Việt Minh xuất hiện lần đầu tiên trước quần
chúng, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới khắp thành phố. Ngày 20 tháng 8, Việt Minh
chiếm được hết các cơ quan hành chánh ở Hà Nội. Ngày 21 tháng 8, Tổng hội sinh
viên "đại biểu mọi đảng phái, mọi tầng lớp dân chúng" đưa kiến nghị,
đánh điện tín yêu cầu Bảo Đại thoái vị để thành lập chính thể cộng hòa. Nội các
Trần Trọng Kim tự xét không đương nổi đại sự, tự ý rút lui.
Ngày 25 tháng 8, ba đại diện của Việt Minh là Nguyễn Lương Bằng,
Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tới Huế; Bảo Đại ban chiếu thoái vị, "khuyên tất
cả các giai cấp, các đảng phải, cho đến cả người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp
nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ", rồi giao bảo ấn cho đại diện
Việt Minh.
Nhà Nguyễn chấm dứt sau non bốn thế kỷ, kể từ khi Nguyễn
Hoàng vào trấn thủ ở Thuận Hóa, và từ hôm đó, hoàng đế Bảo Đại thành công dân
Vĩnh Thụy.
Ở Nam, Việt Minh do Trần Văn Giàu cầm đầu, tiếp xúc với các đảng
quốc gia như đảng Việt Nam độc lập của Hồ Văn Ngà, Thanh niên Tiền phong, một số
trí thức, một số Cao Đài, Hòa Hảo, cả nhóm "Trốt kít", La Lutte, tổ
chức một cuộc biểu tình lớn ở Sài Gòn ngày 25 tháng 8.
Ngày 2-9 chính phủ Hồ Chí Minh tuyên bố ở Hà Nội Việt Nam độc
lập, là một nước Cộng hòa dân chủ, và thành lập chính phủ lâm thời gồm: Chủ tịch
Hồ Chí Minh và hơn một chục bộ trưởng: Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận,
Phạm Văn Đồng, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Tố...
Thế là lịch sử Việt Nam đã qua một chương khác.
VỢ CON TÔI TẢN CƯ - HUỲNH PHÚ SỔ VÀ VIỆT CHÂU
Trong một chương trên tôi đã nói đầu năm 1944, Hải Phòng thường
bị phi cơ Đồng minh dội bom, cả một khu tan tành, đường xuyên Đông Dương bị cắt
nhiều nơi. Mùa hè năm đó Sài Gòn bị bom ở gần chợ Bến Thành, gần Sở thú... Trận
khủng khiếp nhất xảy ra tôi không nhớ vào tháng nào, trong khi tôi đi kinh lý miền Tây bằng một chiếc tàu của sở. Mười hai giờ trưa tàu mới rời bến, tối tới
Mỹ Tho thì hay tin Sài Gòn bị bom, nhiều nơi cháy, từ Mỹ Tho nhìn về phía Sài
Gòn thấy hừng hừng một góc trời. Tôi cho tàu đậu lại, sáng hôm sau đi chuyến xe
lửa đầu tiên, tới Sài Gòn vào khoảng bảy giờ, hay tin khu Tân Định tôi ở không
sao. Tôi ghé thăm nhà: vợ con vẫn bình tĩnh, rồi tới sở hỏi viên kỹ sư có nên
tiếp tục cuộc kinh lý nữa không. Ông ta đáp: Thôi, để tàu dùng vào việc khác. Lần
đó có lẽ giang cảng Sài Gòn bị thiệt hại khá nhiều.
Dân chúng Sài Gòn bắt đầu tản cư, và tôi cho vợ con mang theo
tất cả những giấy tờ quan trọng xuống làng Long Điền, quận Giá Rai, Bạc Liêu, tạm
lánh ở nhà người em gái có chồng làm điền chủ và xã trưởng Long Điền (Lúc đó
ông nhạc tôi đã ra làm việc ở Tuy Hòa, không còn ở Giá Rai nữa).
Tôi ở lại nhà đường Huỳnh Tịnh Của với hai người anh, con bác
Ba tôi: Tân Phương và Việt Châu, em trai tôi và một đứa nhỏ giúp việc.
Vậy là cháu Nhật Đức mới vào học được mấy tháng ở trường tiểu
học Tân Định, đã phải nghỉ học một thời gian.
Cả hai anh tôi đều thông minh, có khiếu về văn: Tân Phương học
ở Cần Thơ, rớt Tú tài Pháp I, rớt vì dở toán quá, nghỉ học vài năm rồi qua
Hương Cảng. Thượng Hải chuyên học tiếng Anh hai năm, lúc đó làm thông dịch viên
tiếng Anh cho sở Thông tin Domei của Nhật; rồi giới thiệu cho em là Việt Châu
vô làm. Việt Châu chỉ có bằng tiểu học rồi về nhà học chữ Hán và Đông y.
Hai anh đều như tôi, rất mừng khi Nhật đổ bộ lên Sài Gòn,
mong Nhật đuổi Pháp đi, nhưng không thích gì Nhật, không học tiếng Nhật. Tân
Phương không làm chính trị; Việt Châu cũng vậy, nhưng Việt Châu không nhớ do một
cơ hội nào được nghe thầy Tư Hòa Hảo (tức Huỳnh Phú Sổ) xuất khẩu thành thi, lấy
làm lạ, nhất là thấy thầy như có một ma lực gì kỳ dị, thu phục được rất nhiều
người, nên từ ngạc nhiên sinh ra ngưỡng mộ, xin được giáp mặt thầy. Tiếp xúc
vài lần, hai bên đều quý nhau: thầy Tư khen thơ Việt Châu hay nhưng ủy mị, Việt
Châu không khen thơ thầy Tư hay nhưng nhận là làm rất mau và có ý nghĩa răn đời.
Mới đầu giao tình chỉ có tính cách vì thơ văn như vậy.
Tháng 7 năm 1945, Nhật nhờ thầy Tư đi khuyến nông ở khắp miền
Tây. Thầy rủ Việt Châu đi theo. Đi khoảng một tuần về, Việt Châu bảo tôi:
"Con người đó thật kỳ dị. Mỗi ngày ngồi xe hơi đi mấy trăm cây số, diễn
thuyết hai ba nơi, mỗi nơi nói thao thao bất tuyệt trong hai ba giờ, ở giữa trời,
trước một dám nông dân hằng ngàn người, ai nấy im phăng phắc như nuốt từng lời
một, có kẻ khóc mướt nữa. Có lần đương diễn thuyết thì trời đổ mưa, thầy Tư vẫn
nói mà dân chúng vẫn nghe dưới mưa. Lần nào diễn thuyết xong rồi cũng lên xe đi
nơi khác liền, không thấy mệt nhọc, vẫn ung dung làm thơ. Mà ăn rất ít, toàn đồ
chay. Sinh lực sao mà dồi dào thế. Sức lôi cuốn, thôi miên quần chúng sao mà mạnh
thế".
Tôi cũng rất ngạc nhiên, cho là một dị nhân, và tôi bỗng nhờ
tới Raspoutine thời Nicolas II ở đầu thế kỷ, nhưng không nói ra. Raspoutine
cũng có sức mạnh phi thường, cũng có tài thôi miên, nhưng đời sống bê bối, hình
dáng ghê tởm, rõ là một nhân vật bất tường, còn Huỳnh Phú Sổ thì ai cũng khen
là nghiêm trang, đạo đức.
Từ đó Việt Châu theo thầy Tư và trong nhóm trí thức chung
quanh thầy, thầy quý Việt Châu hơn cả, vì anh tuy ít học nhưng văn nhã, hoạt
bát, trong sạch, có nhiều lương tri. Họ thành một cặp tri kỷ.
Khoảng giữa tháng 8, thầy phái anh ra Hà Nội xem tình hình
ngoài đó và tìm hiểu thực lực của Việt Minh. Anh ra tới Huế, yết kiến Trần Trọng
Kim cho biết tình hình trong Nam, rồi tiếp tục ra Bắc, mới tới Nghệ An (?) thì
gặp Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận từ Hà Nội vào để nhận ấn của Bảo
Đại, anh theo họ trở vô Huế, rồi về Sài Gòn.
Tôi biết vậy thôi, chứ con đường của ai người ấy đi, mà mọi
việc anh thường quyết định rồi mới cho tôi hay.
Từ khi Nhật đảo chánh, việc sở không có gì, tôi vẫn tiếp tục
viết lách, dịch thuật, nhìn xem Nhật hành động ra sao.
TỜ TÂN VIỆT NAM
Tháng 5 hay 6-1945, ông giám đốc nhà Tín Đức thư xã cho ra tờ
tuần báo Tân Việt Nam, mời ông Nguyễn Văn Nho làm chủ bút. Ông Nho thuộc lớp
sau Nguyễn Văn Tố, nổi tiếng học giỏi trong tỉnh Bắc Ninh, ở trường Cao đẳng Sư
phạm Hà Nội ra, đã viết ít bài đăng báo Pháp, và lúc đó dạy Việt ngữ ở trường
Pétrus Ký, có tiếng hơn giáo sư Phạm Thiều, được giáo giới quí, học sinh trọng.
Tờ Tân Việt Nam 16 trang, khổ như tờ Tri Tân, có tính cách
chính trị (số nào cũng có một bài xã luận lời già giặn của Nguyễn Văn Nho), bán
không chạy bằng tờ Thanh niên của Huỳnh Tấn Phát vì hơi đạo mạo, có ít cây viết
trẻ, phần văn nghệ kém.
Tôi nghĩ nước nhà đã đi vào vận hội mới nên gởi ông Nho vài
bài tuỳ bút, tiểu luận đã viết từ trước, ông đăng và mời tôi lại nhà nói chuyện
ở đường Boresse (?). Từ cửa bước vào là một phòng hẹp với một bàn viết, mấy cái
ghế, cái tủ. Sách vở giấy tờ ngổn ngang trên mặt bàn, dưới chân bàn, thật lộn xộn.
Ông Nho khoảng 50 tuổi, lúc đó có lẽ đã bắt đầu bệnh cùi, mặt có vết đỏ hơi sần
sùi, nhất là ở tai. Ông thông minh, hoạt bát, cởi mở, hiểu đời và nhiều nhiệt
tâm. Tôi nhớ ông viết một bài về việc cứu đói ở Bắc Việt, đại ý bảo những kẻ yếu
quá rồi thì đành hy sinh họ đi, chỉ cứu những người còn còn có sức một chút, vì
không thể nào cứu hết được mà nếu chia đều cho mỗi người thì rốt cuộc chẳng cứu
được ai cả. Tôi phục ông có óc làm chính trị.
Một hôm, ông ngỏ ý muốn giao nhiệm vụ chủ bút cho tôi vì ông
mắc nhiều công chuyện chính trị. Tôi còn suy nghĩ chưa kịp trả lời thì báo đình
bản. Trước sau tôi đăng được 4-5 bài. Đó là lần đầu tiên tôi ra mắt độc giả.
NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM 1945 Ở SÀI GÒN - PHÁP TRỞ LẠI SÀI GÒN
Nhật đầu hàng rồi, Đồng minh để cho Anh giải giới Nhật từ vĩ
tuyến 16 trở vô (dưới Tourane một chút), Trung Hoa giải giới từ vĩ tuyến đó trở
ra, như vậy là Mỹ, Nga, hai cường quốc lớn nhất không có ý muốn cho Pháp trở lại
Việt Nam, nhưng De Gaulle vẫn muốn bám lấy cái thuộc địa cũ. Ngày 24-3-45 sẽ cắt
Việt Nam làm ba nước: Bắc, Trung, Nam; hợp với Lào, Miên thành một liên hiệp
Đông Dương mà người cầm đầu là một viên toàn quyền Pháp, ở dưới có một số bộ
trưởng Pháp và bản xứ. Liên hiệp đó có một quốc hội cũng gồm Pháp và bản xứ; quốc
hội chỉ có quyền bàn ngân sách và góp ý kiến về các đạo luật. Nghĩa là chưa được
tự trị chứ đừng nói là độc lập; vẫn là chế độ cũ "cải thiện" được một
chút xíu.
Cuối tháng 8, Pháp cho Sainteny nhảy dù xuống Bắc Việt,
Cédile xuống Nam Việt; Cédile bị dân chúng bắt giam. Sau được thả, nhờ Nhật can
thiệp.
Ngày 2-9 làm lễ tuyên ngôn độc lập, có một cuộc biểu tình rất
lớn từ 2 giờ trưa ở Sài Gòn, sau nhà thờ Đức Bà, gồm 200.000 người, có đủ các đảng
phái tham dự. Sự tổ chức kỹ lưỡng, mới đầu rất có trật tự, sau có vài phát súng
ở gần nhà thờ bắn vào đám biểu tình, không trúng ai. Thanh niên Tiền phong túa
ra lục xét những nhà tình nghi. Từ đó đoàn biểu tình hóa hỗn độn, mặc dù vẫn tiếp
tục được một đoạn đường nữa rồi mới giải tán. Một ông bạn tôi sợ quá, run lẩy bẩy,
tôi phải dìu ông về nhà. Nghe nói hôm đó có mấy người Pháp bị bắt hay giết. Vậy
là kiều dân Pháp gây hấn trước.
Ngày 6 tháng 9, tướng Anh Gracey tới Sài Gòn để giải giới
quân Nhật. Pháp mới nhờ Mĩ, Anh mà ngóc đầu lên khỏi gót sắt của Đức thì De
Gaulle đã cho một trung đội quân viễn chinh núp sau lưng quân Anh để đổ bộ lên
Sài Gòn, mưu tính giày xéo non sông ta. Gracey thả hết các tù binh Pháp (và
Anh, Hòa Lan, Úc) ra. Cờ Tam tài lại hiện trên nóc Dinh Toàn quyền cũ.
Ngày 10 tháng 9, Trần Văn Giàu thấy tình hình khó khăn, lập một
Ủy ban chấp hành gồm nhiều đảng phái: Cao Đài, Hòa Hảo, Đệ tứ Quốc tế v.v... Chủ
tịch là Phạm Văn Bạch.
Cédile muốn hòa đàm, đưa ra đề nghị đúng như lời tuyên bố
24-3 của De Gaulle. Đại diện phái đoàn mình mỉm cười: "Hiện thời chúng tôi
đã có nhiều hơn vậy rồi".
Ngày 17 tháng 9, tờ Dân Chúng đăng lệnh tổng đình công của Ủy
ban chấp hành để bao vây kinh tế Sài Gòn, lại dọa đốt Sài Gòn nữa.
Đêm 22 rạng 23 tháng 9, quân đội Pháp chiếm lại các công sở;
thường dân Pháp thấy dễ dàng quá, càng khiêu khích thêm. Người mình phản ứng lại
mạnh. Hằng trăm người, tối 24 tháng 9 bao vây khu Hérault của Pháp kiều ở Tân Định,
giết 150 người Pháp, bắt đi 300 người khác, theo Philippe Devillers trong
Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952.
Hai bên giao tranh một trận nhỏ, ngừng rồi lại đánh nữa.
Không khí Sài Gòn thật khó thở. Khu tôi ở, nhà nào cũng đóng cửa và cũng có một
cây tầm vông vạt nhọn. Pháp kiều, Ấn kiều không dám ló mặt ra.
Chúng tôi phải tích trữ gạo, một ít mè, hột vịt muối; rau
cũng thiếu, phải đi nhổ rau càng cua ở bất kì chỗ nào: chân tường, lề đường,
trên ống máng. Một vài người mạo hiểm ra ngoại ô mua được ít thịt, rau.
TÔI TỰ HỌC TIẾNG ANH
Trong thời gian non hai mươi ngày nằm nhà, để qua thì giờ,
tôi nhờ anh Tân Phương chỉ cho tôi học tiếng Anh trong cuốn L’Anglais en 100
leçons (tôi không nhớ tên tác giả) mà tôi đã mua từ 1931, đã bắt đầu học được
ít bài, rồi sau đó bỏ vì đậu vào trường Công chánh.
Loại sách đó thời tiền chiến rất thịnh hành, giúp những người
tự học muốn thi Tú tài Pháp. Mỗi bài có độ ba chục từ mới, có chỉ cách đọc, sau
mỗi bài học có một bài tập ngắn: dịch Anh ra Pháp hoặc ngược lại; cuối sách có
bài Corrigé (sửa lại) của người làm sách, để người học coi mà tự sửa lấy bài của
mình. Học như vậy chỉ ba bốn tháng có thể viết được ít câu tiếng Anh thông thường,
ngắn, đọc được những loại dễ (loại cho trẻ em), nhưng nói thì người Anh không
hiểu vì sai giọng; mà nghe người Anh nói mình cũng không hiểu. Vì vậy tôi chỉ
nhờ anh Tân Phương chỉ cho tôi các đọc cho đúng giọng thôi.
Ngày nay phương pháp học đó đã lỗi thời. Học ngoại ngữ cốt nhất
là nói được, cho nên ở Âu, Mỹ, người ta dùng phương pháp thính thị
(audio-visuelle), chỉ sáu tháng là tạm nghe được, nói được, viết được một ngoại
ngữ.
Trong đời tôi, đã hai lần rồi (1934 và 1945), hễ phải ở không
trong một thời lâu thì tôi học ngoại ngữ. Cách đó là cách tốt nhất mà cũng ích
lợi nhất để khỏi buồn. Và lần nào tôi học cũng chỉ cốt đọc được sách, không cần
nói. Những môn tôi tự học để tiêu khiển đó, sau này giúp cho tôi rất nhiều
trong việc viết sách. Một người nào đó đã nói: "Ai cũng biết sự ích lợi của
những cái hữu ích mà không biết sự ích lợi của những cái vô ích". Lời đó
nhiều khi đúng.
GẶP HUỲNH PHÚ SỔ VÀ CỤ VÕ HOÀNH
Một hôm tôi nói với Việt Châu: "Hòa Hảo có một lực lượng
khá lớn, nhưng thiếu tổ chức, thiếu chương trình hoạt động". Chắc anh kể lại
chuyện đó với thầy Tư Hòa Hảo, và ít ngày sau bảo tôi: "Chú có muốn gặp thầy
Tư xem con người đó ra sao không? Nếu muốn thì hôm nào tôi dắt chú lại".
Tôi đáp: "Đi thì đi, cho biết".
Và một buổi chiều, tôi theo Việt Châu lại chỗ thầy Tư ở, tại
đường Michel. Một biệt thự lầu mát mẻ, rộng rãi, có vườn. Tôi không nhớ có người
gác không, nếu có thì cũng kín đáo. Chúng tôi đi thẳng vào phòng ngoài. Thầy Tư
ngồi trên một cái sập giữa phòng, chúng tôi ngồi ghế, bên cái bàn kê ngay phía
trước.
Rõ ràng là một thư sinh (lần đi thăm này trước khi Việt Châu
đi Huế) trắng trẻo, mảnh khảnh, yếu đuối, xanh xao (Thầy bị di tinh, không sao
trị được). Nét mặt đều đặn, cử chỉ, ngôn ngữ nhã nhặn. Nét đặc biệt nhất là cổ
nhỏ, cao "ba ngấn", với mớ tóc đen, mượt, lật ngược, xõa xuống vai.
Thầy bình tĩnh, ôn tồn hỏi tôi vài câu xã giao, cho tôi biết
tình hình thời cuộc rồi bảo Việt Châu đưa tôi lên lầu, coi phòng người bắt tin
ngoại quốc bằng máy một thu thanh. Tôi thấy trong nhà chỉ có vài đệ tử âm thầm
đi đi lại lại để thầy sai bảo vặt. Thật tĩnh mịch.
Khi ra về, Việt Châu hỏi cảm tưởng của tôi, tôi đáp, cứ thực
mà đáp: "Thành thực, nhã nhặn, hiền lành; không thấy được nhờ đâu mà thầy
lôi cuốn, cảm hóa được quần chúng mạnh như anh và rất nhiều người nói. Biệt thự
có vẻ của một cư sĩ, chứ không phải là trụ sở của một đảng cách mạng... Tôi thấy
tướng thầy có vẻ yểu".
Khoảng giữa tháng 9 hay đầu tháng 10, một hôm giữa trưa, Việt
Châu về bảo tôi: "Tôi phải đi gấp bây giờ. Ở Cần Thơ có vụ lộn xộn giữa
tín đồ Hòa Hảo và Việt Minh. Ủy ban nhân dân tỉnh đã bắt vài người trong đạo.
Thầy Tư phái tôi xuống dưới đó dàn xếp".
Tôi cho không là có gì quan trọng mà anh ấy đi thì tất dàn xếp
xong vì được thầy Tư tin, tín đồ trọng, lại quen vài người Việt Minh (tháng trước
anh đã ra Huế, gặp Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận; bạn thi sĩ của anh có vài người
theo Việt Minh từ lâu như Trần Huyền Trân, Thâm Tâm ở Hà Nội), mà anh khéo ăn
khéo nói, bình tĩnh nữa.
Anh hẹn ba bốn ngày thì về. Bốn năm ngày sau vẫn chưa về. Rồi
một hôm tôi hay tin đương đêm có người đến bao vây chỗ ở của thầy Tư Hòa Hảo,
thầy leo tường trốn thoát. Tôi nghĩ bụng vụ Cần Thơ không êm rồi, Việt Châu
không biết ra sao đây.
Cũng vào khoảng đó, một buổi sáng đi lang thang ở khu Nguyễn
Du hay Duy Tân ngày nay, tôi thấy cụ Võ Hoành ở trong một biệt thự bước ra, có
mấy thanh niên đi hai bên hộ vệ. Cụ có vẻ đã yếu nhiều, không quắc thước như hồi
Việt Châu và tôi lại thăm ở Sa Đéc khoảng mười năm trước (việc này tôi đã chép
trong phụ lục III cuốn Đông Kinh nghĩa thục, in lần thứ ba). Tôi bùi ngùi: chí
hướng của cụ và các đồng chí non bốn chục năm trước bây giờ mới đạt, nhưng cụ
Huấn Quyền đã mất ở Bến Tre, cụ Dương Bá Trạc cũng đã mất ở Singapour, di hài hỏa
thiêu đem về Sài Gòn làm lễ truy điệu ở vườn Tao Đàn, do Cao Đài tổ chức mấy tuần
trước, chỉ còn cụ (Võ Hoành), cụ Phương Sơn, bác tôi, và cụ Nguyễn Hải Thần đều
quá già rồi, hoạt động gì được nữa, mà nói gì chắc cũng chẳng ai nghe. Cụ lên một
chiếc xe hơi với mấy thanh niên, tôi nhìn theo tới khi xe khuất ở góc đường.
Mấy năm sau tôi hay tin cụ tản cư vào đồng Tháp Mười và mất
trong đó, không hiểu vì bệnh hay vì nguyên do gì khác. Rồi tới khoảng 1972, một
bạn văn cho tôi hay có gặp một người con trai của cụ làm thợ nề ở Sài Gòn, nhà
rất nghèo, tôi bảo dắt tôi lại chơi để tôi hỏi rõ về cái chết của cụ; bạn đó hứa
rồi quên mất. Con cái các nhà Nho cách mạng hầu hết đều cực khổ cả.
Cuối tháng 9, một số dân Sài Gòn đã bắt đầu tản cư. Ngày 5-10
tướng Leclerc tới Sài Gòn để chỉ huy quân đội Pháp, chiếm lại miền Nam sau khi
Gracey làm xong nhiệm vụ giải giới Nhật, rút quân về Anh. Tân Phương, em trai
tôi và tôi cũng tính tản cư về Tân Thạnh, nhà bác Ba tôi.
Báo đăng tin Pháp đã thả bom xuống một cựu thuộc địa Pháp ở
bán đảo Ả Rập (Syrie), trúng quốc hội, mấy trăm người chết. Như vậy thì Việt
Nam không sao thoát nạn binh lửa, nhưng lúc đó tôi vẫn ngây thơ tin rằng Mỹ,
Anh, Nga không để cho Pháp tái chiếm Việt Nam và chỉ trong một tháng là sẽ có
hòa đàm. Cho nên chúng tôi cứ để nguyên đồ đạc, chỉ mang theo mỗi người một chiếc
va ly chứa ít quần áo thường, vài bản thảo, vài cuốn sách. Sáng ngày 10 tháng
10, chúng tôi khóa cửa lại, nhờ hàng xóm coi chừng giùm, rồi cùng nhau lên đường.
Chú thích:
Chú thích:
1. Nhưng sau này khi Nhật đầu hàng (1945) rồi, Pháp đòi lại hết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét