Sa mạc nở hoa 1
Nguyên tác: Dibs In Search Of Self
Nguyên tác: Dibs In Search Of Self
Quyển sách này đưa chúng ta vào cuộc hành trình đầy ngạc nhiên
lý thú của một chú bé “đi tìm chính mình”. Khi câu chuyện bắt đầu, Dibs đã đi học
từ hai năm, nhưng vào lớp em thường bò xuống gầm bàn và ngồi đó lén lút theo
dõi sinh hoạt của các bạn. Em không nhìn ai, không nói lời nào, ngay cả với cô
giáo, mà chỉ la hét khi tới giờ về nhà. Không ai hiểu được nguyên nhân gây ra sự
thinh lặng khép kín hay sự hung hăng giận dữ này. Nhà trường và gia đình quyết
định nhờ một chuyên viên tâm lý theo dõi, tìm hiểu và giúp đỡ em, với phương
pháp trị liệu bằng trò chơi.
Chúng ta hãy tưởng tượng một em bé lần đầu tiên bước vào một
căn phòng đầy đồ chơi, và được phép sử dụng bất cứ món nào, theo sở thích của
em, với sự có mặt của cô hay thầy, sẵn sàng giúp em về mọi phương diện em yêu cầu,
nhưng không can thiệp vào những lựa chọn của em. Có thể em sẽ bỡ ngỡ, sẽ không
tin là mình được tự do như vậy. Từ trước tới nay luôn luôn có người biểu em làm
việc này, việc kia, quyết định thế cho em, sống dùm em. Ở đây không có ai cả.
Em bị thách thức phải vận dụng một sức mạnh nào trong con người mình, để làm một
cái gì đó, nếu không thì thời giờ trôi qua trong phòng chơi sẽ vô vị và buồn
chán quá. Có thể em sẽ ngồi im một vài lần, phá phách hay buông vật này bắt vật
kia, nhưng em sẽ cảm nghiệm ngay sau đó hậu quả của hành vi mình. Dần dần em ý
thức được là mình phải có sáng kiến, phải tự quyết định, phải lựa chọn. Khi làm
được như vậy, em cảm thấy thích thú, và càng ngày nhân cách của em càng tăng
trưởng. Người trị liệu đặt em trong tư thế chủ động hoàn toàn. Nhờ không bị gò
bó hay thúc đẩy bên ngoài, từ từ em sẽ giương cánh bên trong. Khi đó những vấn
đề của em sẽ xuất hiện. Em sẽ diễn tả qua trò chơi hoặc lời nói những gì đang
đè nặng trong lòng em, những tình cảm bất an, sợ hãi, đau khổ, hận thù…chúng chỉ
chờ có một cơ hội thuận tiện, một bầu không khí an toàn bằng thái độ tôn trọng,
chấp nhận và cảm thông đối với em. Người trị liệu phản ảnh lại những gì em nói,
giúp em nhận thức rõ rệt những gì em làm, hoặc không làm, nhằm mục đích xác định
tâm trạng và thái độ của em. Điểm then chốt trong quá trình trị liệu là sự gây
dựng một quan hệ đặc biệt giữa hai người cùng tham gia vào một cuộc mạo hiểm
chung. Quan hệ này, tự nó, có tính cách trị liệu.
Tác giả là một nhà trị liệu nổi tiếng về kỹ thuật chữa trị trẻ
em rối loạn tình cảm. Bà đã dạy nhiều năm tại Đại học Columbia. Những kinh nghiệm
của bà trong lãnh vực trị liệu “trẻ em có vấn đề” đã được trình bày trong cuốn
“Play Theraphy” (trị liệu bằng trò chơi), xuất bản năm 1969. Quyển "SA MẠC NỞ
HOA" ghi lại một thành công xuất sắc của bà. Đây là một tài liệu trung thực và
đầy đủ, với sự chính xác khoa học, vì tất cả những buổi trị liệu đều được ghi
âm. Nhưng nó không chỉ dành cho các chuyên gia, vì cùng lúc nó diễn tả những
tình tiết rất gần gũi với chúng ta, là những bậc cha mẹ hay thầy cô đã từng băn
khoăn về cách giáo dục con em mình, trong những trường hợp khó khăn. Cách đối xử
của cô “A” đối với Dibs, cũng như những nguyên tắc giáo dục được khẳng định
trong phần bình luận của cô ở cuối chương, sẽ gợi lên cho chúng ta một số suy
nghĩ, và may ra sẽ giúp chúng ta khám phá những phương hướng mới để giải quyết
một số trường hợp bế tắc.
Dibs là một chú bé có nhiều tài năng, với một trí thông minh
vượt xa mức trung bình. Vậy mà trước kia, em hiện ra như một trẻ đần độn, đến nỗi
gia đình và nhà trường đã bắt đầu tuyệt vọng về em. Mong cho bao nhiêu trẻ em
khác, trên đường đời, được may mắn gặp được một người như cô “A”, để những tài
năng không bị mai một vì thiếu sự chăm sóc thích đáng. Với niềm hy vọng đó,
chúng tôi hân hạnh mời bạn đọc tham gia vào cuộc hành trình rất hấp dẫn của em
Dibs.
Tô Thị Ánh
CHƯƠNG 1
Đã tới giờ ăn trưa, tới giờ về nhà, trẻ lăng xăng mặc áo, đội
nón theo cung cách rối rít, ầm ĩ thường lệ của chúng. Trừ Dibs. Em lùi vào một
góc phòng và ngồi thu mình tại đó, đầu cúi xuống, hai vòng tay ôm chặt lấy ngực,
tảng lờ như không biết là đã tới giờ về. Các cô giáo đứng chờ. Bao giờ em cũng
làm như vậy mỗi lần tới giờ về. Cô Jane và Cô Hedda lén nhìn Dibs.
Các em khác chạy ra khi mẹ các em đến đón. Chỉ còn lại hai cô
với Dibs, các cô đưa mắt nhìn nhau và nhìn Dibs ngồi thu mình dựa vào tường.
“Nhờ chị” – Cô Jane nói rồi lặng lẽ ra khỏi phòng.
“Dibs ơi. Tới giờ về rồi. Tới giờ cơm trưa rồi”- Cô Hedda nhỏ
nhẹ nói. Nhưng Dibs không nhúc nhích. Nó trì hoãn quyết liệt và không nao núng.
“Cô mặc áo giúp em nghe”- cô Hedda vừa nói vừa chậm rãi đến chỗ Dibs, đem áo lại
cho em. Dibs không ngước mắt nhìn lên. Em dựa cứng vào tường đầu gục xuống vòng
tay.
“Nè, Dibs. Má sắp tới rồi”. Bao giờ bà cũng tới muộn, có lẽ
bà hy vọng trận chiến nón áo đã kết thúc lúc bà tới Dibs sẽ lặng lẽ theo bà.
Bây giờ Hedda đứng gần Dibs. Cô cúi xuống vỗ nhẹ vai em. “Đi
nào, Dibs” – cô nhẹ nhàng nói –“Em biết là tới giờ về rồi”.
Như hiện thân của sự cuồng nộ, Dibs gây với cô, đôi nắm tay
nhỏ bé giơ lên đánh cô, cào cô, em định cắn cô, rồi em la lớn. “Không về nhà!”
Ngày nào cũng vẫn tiếng la đó.
“Cô biết rồi”- Hedda nói –“Nhưng em phải về chứ. Em không muốn
lớn, muốn khỏe hay sao?”
Dibs bỗng mềm nhũn. Em ngừng đánh cô Hedda. Em để cô xỏ tay
vào áo và gài nút cho.
“Mai em lại nhé” – Cô dặn dò.
Khi mẹ đến đón, Dibs đi theo bà, vẻ mặt không hồn, mặt lem nước
mắt.
Đôi khi trận chiến kéo dài lâu hơn và chưa kết thúc khi mẹ em
tới. Khi sự thể diễn ra như vậy, mẹ em phải bắt tài xế vô bắt Dibs. Bác ta là
người cao lớn khỏe mạnh. Bác xấn tới, kẹp Dibs vào nách và đưa em ra xe không
nói với ai nữa lời. Khi Dibs la khóc suốt dọc đường ra chỗ đậu xe, đánh đấm bác
ta túi bụi. Khi thì em đột ngột lặng thing – nhu mì nhẫn nhục.
Dibs tới học ở trường tư này gần hai năm nay. Các cô giáo đã
ráng sức tạo liên hệ với em mong em đáp ứng. Nhưng uổng công. Dibs dường như đã
quyết tâm xa lánh mọi người. Ít ra cô Hedda nghĩ là như vậy. Ở trường em học có
đôi chút tiến bộ. Khi em bắt đầu đi học, em không nói và không khi nào rời ghế.
Sáng nào cũng vậy em ngồi nín lặng không nhúc nhích. Sau nhiều tuần em bắt đầu
rời ghế và thơ thẩn quanh phòng làm như xem xét một số đồ vật quanh em. Khi bất
kỳ người nào lại gần em, em co tròn mình lại như trái banh bất động. Em không
khi nào nhìn thẳng vào mắt ai và không khi nào trả lời khi có người hỏi.
Dibs đi học rất đều. Sáng nào mẹ em cũng đưa em đến trường bằng
xe hơi. Hoặc là chính bà dẫn em vào bàn học và yên lặng, hoặc người tài xế cắp em
vào và để em xuống ngay bên trong cửa lớp. Không bao giờ em la lối hay khóc lóc
trên đường đến trường. Được đặt ngay bên trong cửa, Dibs cứ đứng yên tại đó,
rên rỉ, chờ có người ra đón vào lớp. Khi em mang áo khoác ngoài, em vẫn đứng
yên không hề nhúc nhích để cởi ra. Một cô giáo chạy ra đón, cởi áo cho em rồi để
em tùy tiện. Chỉ một lúc sau, các em khác bận rộn với sinh hoạt tập thể nào đó.
Dibs dành thời giờ bò lê sát lề tường, lẫn trốn dưới gầm bàn, hay đằng sau đàn
dương cầm, xem sách hàng giờ.
Có một điều gì đó về tác phong của Dibs khiến các cô giáo
không tài nào xếp loại nổi. Tác phong của em thất thường. Khi thì em mau mắn và
lặng lẽ làm được một việc gì đó chứng tỏ em có thể có một trí thông minh thượng
đẳng. Nếu em nghĩ là có người nhìn mình, em vội vã co mình lại. Phần lớn thời
gian em bò men tường, ẩn nấp dưới gầm bàn, lắc qua lắc lại, nhai cạnh bàn tay,
mút ngón tay cái, nằm sấp cứng đờ trên sàn khi cô giáo hay bạn bè chán không
còn muốn rủ em tham dự sinh hoạt nữa. Em là một đứa trẻ cô đơn trong một thế giới
đối với em có vẻ lạnh lùng và không thân thiện.
Đôi lúc em lên cơn hờn khi tới giờ về, hay có ai cố gắng cưỡng
bách em phải làm một việc gì đó mà em không muốn làm. Từ lâu các cô giáo đã có
quyết định là luôn luôn chỉ mời em tham dự nhóm chứ không khi nào ép buộc em
làm điều gì trừ khi tuyệt đối cần. Các cô cung cấp cho em sách, đồ chơi, và đủ
loại dụng cụ em có thể thích. Em không bao giờ trực tiếp nhận một món đồ nào từ
tay người khác. Nếu có một đồ vật để trên bàn hay trên sàn nhà gần em thì một
lát sau em sẽ cầm lên xem xét kỹ lưỡng. Không khi nào Dibs chê sách. Em ham mê
những trang in, “như thể là em đọc được” cô Hedda vẫn thường bảo như vậy.
Đôi khi một cô giáo ngồi bên em và đọc một truyện ngắn hay
nói về một điều gì đó trong lúc Dibs nằm úp mặt xuống sàn, không bao giờ bỏ đi
nhưng cũng không khi nào nhìn lên hay lộ vẻ thích thú công khai. Cô Jane thường
dành thời giờ cho Dibs theo lối này! Cô nói nhiều về sự vật, trong tay cầm những
dụng cụ, biểu diễn những điều cô đang giảng giải.Có lần đề tài của cô nói về
nam châm và những nguyên lý của sức hút nam châm. Lần khác cô cầm một cục đá đặc
biệt. Cô nói về bất kỳ điều gì cô hy vọng có thể nhen nhúm sự thích thú của em.
Cô kể lại có nhiều lúc cô cảm thấy mình như một người điên làm như cô ngồi đó
nói cho chính mình nghe, nhưng điều gì đó của cái tư thế nằm sấp của em cho cô
cảm giác là em đang lắng nghe. Ngoài ra cô thường tự nhủ, mình có mất gì đâu?
Các cô giáo hoàn toàn rối trí vì Disb. Nhà tâm lý ở trường đã
theo dõi em và nhiều lần cố gắng làm trắc nghiệm. Bác sĩ nhi khoa của trường đã
nhiều lần thử khám nghiệm em và sau cùng giơ tay đầu hàng. Disb đề phòng người
y sĩ áo trắng và không cho ông lại gần. Em tựa lưng vào tường giơ hai tay lên
trong tư thế “sẵn sàng cào cấu” sẵn sàng đánh nếu có người lại gần.
“Cậu bé này kỳ lạ thật”-bác sĩ nhi khoa nói -“Ai hiểu nổi” Chậm
phát triển ư? Mắc bệnh tâm thần ư? Bị thương tổn não ư? Ai có thể lại gần em để
tìm hiểu tại sao cậu ta kỳ cục vậy?”
Đây không phải là trường học dành cho trẻ thiểu năng hay rối
loạn tình cảm. Đây là một trường tư rất chọn lọc cho trẻ từ ba đến bảy tuổi, tại
một tòa nhà cổ rất đẹp ở khu hướng Đông thành phố. Trường có truyền thống hấp dẫn
cha mẹ của trẻ em thông minh và hòa nhã.
Mẹ của Dibs đã ép bà hiệu trưởng nhận em. Bà đã nhờ ảnh hưởng
của ban quản trị để con mình được nhận vào học. Ba của Dibs đã đóng góp rộng
rãi để tài trợ trường. Nhờ những áp lực này mà em được nhận vào nhóm mẫu giáo.
Các giáo viên đã nhiều lần nêu ý kiến là Dibs cần được trị liệu
chuyên môn. Mẹ em nhiều lần năn nỉ “Hoãn cho cháu ít lâu nữa!”
Gần hai năm qua và mặc dù em có tiến bộ nhưng các cô giáo cảm
thấy chưa đủ. Các cô nghĩ là sẽ bất lợi cho em nếu cứ để tình trạng kéo dài
mãi. Các cô chỉ biết hy vọng có thể Dibs sẽ ra khỏi vỏ sò giam cầm nó. Khi họ
nói chuyện về Dibs – không ngày nào mà các cô không bàn về em- và khi kết thúc
họ vẫn lúng túng và thắc mắc vì đứa trẻ. Dù sao thì em cũng mới có năm tuổi. Liệu
em có thực sự ý thức về những điều quanh em và khóa chặt những điều ấy trong nội
tâm hay không. Dường như em đọc những quyển sách mà em cúi xuống nhìn? Điều này
nói giỡn chơi thôi, họ tự nhủ. Làm sao một đứa trẻ có thể đọc được khi nó không
tự diễn đạt bằng lời? Liệu một đứa trẻ phức tạp như thế có thể chậm phát triển
hay không? Tác phong của em không có vẻ tác phong của một đứa trẻ thiểu năng.
Em có đang sống trong một thế giới tự tạo không? Em có mắc chứng tự kỷ hay
không? Em có mất liên lạc với thực tế hay không? Dường như thế giới của em là một
thực tế bầm dập – bị đau khổ dày vò.
Cha của Dibs là một nhà khoa học nổi tiếng – xuất sắc- nhưng ở
trường chưa ai gặp ông. Dibs có một đứa em gái. Mẹ em nói rằng Dorothay “rất
thông minh” và là “đứa trẻ tuyệt vời”. Cô bé không học trường này. Cô Hedda có
gặp em một lần đi với mẹ tại công viên Trung ương. Dibs vắng mặt lần đó. Hedda
nói với cô giáo rằng “Dorothy tuyệt vời” chỉ là “một đứa trẻ hư”. Hedda đầy thiện
cảm theo dõi Dibs và thú nhận cô có định kiến trong việc đánh giá Dorothy. Cô
tin tưởng ở Dibs và tin rằng một ngày nào đó, bằng cách nào đó, Dibs sẽ thoát
khỏi ngục tù của sợ hãi và giận dữ. Sau cùng, ban giám hiệu quyết định phải có
cách gì với Dibs. Một số cha mẹ học sinh than phiền về sự hiện diện của em ở
trường – nhất là khi em đã cào cấu hay cắn một em khác.
Tới đây tôi được mời tham dự một buổi họp bàn về những vấn đề
của Dibs. Tôi là một nhà tâm lý lâm sàng, tôi chuyên môn làm việc với trẻ em và
cha mẹ. Lần đầu tiên tôi được nghe nói về Dibs, tại buổi họp này, và những điều
tôi viết lại ở đây được các giáo viên chuyên gia tâm lý và bác sĩ nhi khoa của
trường kể lại. Họ yêu cầu tôi gặp Dibs và mẹ em rồi cho ban giám hiệu biết ý kiến
trước khi họ quyết định loại em ra khỏi trường, và bôi tên em như một ca thất bại
của họ.
Buổi họp diễn ra ở trường. Tôi thích thú lắng nghe tất cả những
lời nhận xét. Tôi xúc động về ấn tượng của nhân cách bé Dibs gây cho những người
này. Họ cảm thấy thất bại và không ngừng khắc khoải vì tác phong bất thường của
em. Em nhất mực xua đuổi và thù hận tất cả những ai lại gần em. Sự khổ sở rõ
nét của em làm cho những người nhạy cảm này cảm thấy sự lạnh lùng não nề ấy.
“Em gặp mẹ em Dibs tuần vừa qua” – cô Jane nói với tôi – “Em
nói với bà ta rằng rất có thể chúng tôi phải mời em ra khỏi trường vì chúng tôi
đã làm tất cả những gì có thể làm để giúp đỡ em, nhưng thái độ tốt đẹp nhất của
chúng tôi vẫn không đủ. Bà rất buồn. Nhưng bà vốn là một người khó hiểu. Bà đồng
ý để chúng tôi mời một chuyên gia và cố gắng đánh giá Dibs thêm một lần nữa. Em
giới thiệu với bà ta về chị. Bà đồng ý nói chuyện với chị về Dibs, và để chị
theo dõi Dibs tại đây. Bà nói rằng bà và chồng bà đã thừa nhận sự kiện là có thể
Dibs bị thiểu năng hay bị tổn thương não”
Lời kể lại này làm cô Hedda nổi sùng. “Bà ta thích tin là nó
thiểu năng hơn là nó có thể bị rối loạn tình cảm và có thể bà ta phải chịu
trách nhiệm về điều đó!”- Cô Hedda la lớn.
-Tôi tin chắc là em sắp thoát khỏi rồi – cô Hedda nói – Tôi
không nghĩ là em có thể cầm cự tự vệ lâu hơn nữa đâu.
Rõ ràng là có một điều gì đó về đứa trẻ này thu hút sự quan
tâm và tình cảm của họ. Tôi cảm thấy sự xót xa của họ đối với nó. Tôi cảm thấy ảnh
hưởng về nhân cách của nó. Tôi đánh giá cao sự tôn trọng dành cho đứa trẻ này
xuyên suốt cuộc họp.
Có quyết định là tôi sẽ gặp Dibs trong một số buổi trị liệu bằng
trò chơi nếu cha mẹ em đồng ý. Chúng tôi không có cách nào để biết trước là
chuyện gì sẽ tiếp nối truyện đời chú Disb.
CHƯƠNG 2
Ta hãy đi vào trong đêm, nơi thứ ánh sáng lờ mờ xóa nhòa những
đường nét thực tế sắc cạnh và trải lên thế giới trước mặt một bức màn mờ ảo.
Đây không phải câu chuyện “như thế này này” vì làm gì có thứ ánh sáng rọi chiếu
của bằng chứng hiển nhiên, không có gì mâu thuẫn, nhờ đó ta có thể thấy sự việc
như nó xuất hiện và biết các câu trả lời. Ở đây lợi khí của lòng ngờ vực có đất
sống mạnh và tồn tại để buộc phải xem xét lại phạm vi và những hạn chế của việc
lượng giá con người. Bởi vì khi những chân trời mở rộng hay thu hẹp bên trong một
người thì những khoảng cách ấy người khác không đo lường được. Sự hiểu biết gia
tăng qua kinh nghiệm riêng, giúp một người có thể nhìn thấy và cảm thấy, theo
những cách thức rất linh động, mà sự bén nhạy riêng của cá nhân người đó là yếu
tố quyết định. Ở đây người ta có thể dễ dàng nhận ra thực chất của cái thế giới
âm u, được phóng ra từ những ý nghĩ, thái độ xúc động. Có lẽ dễ hiểu hơn là mặc
dầu chúng ta không có sự thông suốt để kể ra những lý do gây nên tác phong của
một người, chúng ta vẫn có thể cho rằng một cá nhân sống trong một thế giới
riêng tư đầy ý nghĩa, do phẩm giá của nhân cách kết thành.
Từ buổi họp bước ra, tôi mang theo cảm nghĩ chia sớt sự tôn
trọng và lòng hăm hở muốn gặp Dibs. Chúng ta biết rằng nghiên cứu là một sự phối
hợp kỳ ảo của những trực giác, phỏng đoán, tính chủ quan, trí tưởng tượng, những
hy vọng và những mơ ước, pha trộn một cách chính xác với những dữ kiện thu nhặt
một cách khách quan và gắn liền vào thực tế của toán học. Có điều này mà không
có điều kia là chưa trọn vẹn. Gắn bó với nhau, những yếu tố này cho phép lần mò
từng bước trên đường đi tìm chân lý. Thế là tôi sắp sửa gặp Dibs. Tôi sẽ đến
trường quan sát em giữa những em khác. Rồi tôi sẽ tìm cách gặp riêng em một
lúc. Sau đó tôi sẽ đến thăm nhà em để nói chuyện với mẹ em. Chúng tôi sẽ quyết
định về giờ giấc để em đến phòng chơi của Trung Tâm Hướng Dẫn Trẻ Em theo ngày
hẹn. Công việc bắt đầu từ đó.
Trong lúc men theo con đường bờ sông phía đông, tôi nghĩ đến
nhiều em tôi đã từng biết – những trẻ em khốn khổ, những em bé thất bại trong nỗ
lực tìm một bản ngã để các em có thể vững tin – những em không được ai hiểu
cho, nhưng không ngừng cố gắng để thành người theo quyền hạn riêng của mình.
Qua những tình cảm, những ý tưởng, những ước mơ, những hy vọng, những chân trời
mới được mở ra trong mỗi đứa trẻ. Tôi biết những đứa trẻ đã bị vật ngã bởi những
sợ hãi và lo lắng, trong lúc chống trả để tự vệ trước một thế giới mà vì nhiều
lý do chúng không chịu nổi. Một số đã vươn lên được với một sức mạnh đổi mới và
có khả năng đối phó với đời. Một số không đủ khả năng chịu đựng nổi sức ép của
định mệnh khe khắt. Chúng phải tránh những sáo ngữ, những lời giải thích có sẵn.
Nếu chúng ta muốn gần sự thật hơn, chúng ta phải tìm hiểu sâu xa hơn những lý
do tạo nên tác phong của con người.
Tôi quyết định đến trường ngày hôm sau.Tôi sẽ gọi điện thoại
cho mẹ em Dibs và thu xếp gặp bà tại nhà riêng của bà càng sớm càng hay. Tôi sẽ
gặp Disb tại phòng trị liệu bằng trò chơi tại Trung Tâm Hướng Dẫn Trẻ Em vào thứ
năm tuần tới. Và rồi công việc sẽ kết thúc ở đâu? Nếu em không có cách nào đục
thủng được bức tường mà em đã quyết liệt xây quanh mình – và rất có thể là em sẽ
không làm nổi – tôi sẽ phải nghĩ đến cách trợ giúp khác. Đôi khi một hành động
nào đó rất có kết quả với em này, lại không có giá trị với em khác. Chúng ta
không dễ dàng bỏ cuộc. Chúng ta không loại bỏ một ca xem như “vô phương” mà
không cố gắng làm thêm một điều gì đó. Một số người không tán thành thái độ
này: thái độ cứ nuôi hy vọng mà không có cơ sở hy vọng. Nhưng chúng ta không chờ
đợi phép lạ. Chúng ta tìm kiếm sự hiểu biết, tin tưởng rằng sự hiểu biết sẽ dẫn
chúng ta đến những cách thức hữu hiệu hơn để giúp người khác phát triển và sử dụng
một cách tích cực hơn. Sự tìm tòi cứ tiếp tục mãi, và chúng ta sẽ tiếp tục tìm
ra đường thoát khỏi sự ngu dốt đặc của mình.
Sáng hôm sau tôi đến trường trước khi học trò đến. Những
phòng học mẫu giáo sáng sủa vui tươi được trang bị thích nghi và hấp dẫn. “Các
em sắp đến”-cô Jane nói- “Em rất muốn biết ý kiến của chị về Dibs. Em hy vọng
chị giúp được em ấy. Cậu bé này làm em lo lắng vô cùng. Như chị biết đó, khi một
em thực sự bị thiểu năng thì phải có một mô thức tổng quát và liên tục về tác
phong, lộ ra trong những ưa thích và hành động của nó. Nhưng trường hợp em Dibs
thì sao? Chúng em không thể biết chắc em ấy sẽ ở trong trạng thái nào, ngoại trừ
chúng em biết chắc em ấy không mỉm cười. Chưa có ai trong chúng em nhìn thấy em
ấy mỉm cười bao giờ cả hay tỏ ra vui vẻ dù chỉ trong khoảnh khắc. Đó là một
trong những lý do khiến chúng em cảm thấy rằng vấn đề này vượt xa tình trạng
thiểu năng. Em ấy hay xúc động”.
Trẻ bắt đầu đến. Phần lớn các em đều có nét mặt hăm hở hân
hoan. Tự nhiên là các em cảm thấy thoải mái và thư thái ở trường này. Các em
chào nhau, chào các cô giáo tíu tít. Một vài em bắt chuyện với tôi, hỏi tên
tôi, hỏi tôi đến đây làm gì. Chúng lột nón, cởi áo đem treo vào tủ. Tiết thứ nhất
là tiết tự do lựa chọn. Các em tìm đồ chơi, tự lựa chọn những hoạt động các em
thích, các em vui chơi cười nói một cách tự nhiên.
Đến lượt Dibs đến. Má dẫn em vô lớp. Tôi chỉ nhìn thấy bà ta
thôi bởi vì bà ta vắn tắt nói vài lời với cô Jane, chào cô và để Dibs ở lại. Em
mặc chiếc áo khoác màu xám, đầu đội nón. Em đứng yên ở chỗ mẹ dẫn vào. Cô Jane
hỏi em có muốn cất nón, cất áo không. Em không trả lời.
Em lớn con so với tuổi. Mặt em xanh xao. Khi cô Jane bỏ nón
cho em, tôi nhìn thấy mái tóc đen và quăn. Hai tay bỏ thõng xuống hai bên. Cô
Jane giúp em cởi áo. Em có vẻ không muốn. Cô treo nón và áo vào chỗ tủ dành cho
em.
Cô Jane ngồi lại chỗ tôi, nói khẽ, “Đó, Dibs đó. Không khi
nào em tự cởi lấy nón áo, nên chúng em phải mặc nhiên làm chuyện đó. Đôi khi
chúng em cố gắng kéo em sinh hoạt với một em khác – hay cho em một việc đặc biệt
nào đó để làm. Nhưng em khước từ mọi mời mọc. Sáng nay chúng em để mặc em ấy để
chị tiện bề theo dõi. Em ấy có thể đứng đó thật lâu. Hay em có thể bắt đầu di
chuyển từ vật này qua vật khác. Đôi khi em thay đổi liên tục công việc như
không có khả năng kéo dài sự chú ý chút nào cả. Thế rồi em lại chăm chú vào vật
gì cả tiếng đồng hồ. Tất cả đều tùy thuộc vào tình cảm của em lúc ấy”.
Cô Jane đến với các em khác. Tôi quan sát Dibs, ráng làm bộ
không chú tâm theo dõi em.
Em đứng đó. Rồi em quay đi, rất chậm và dứt khoát. Em giơ tay
lên trong một cử chỉ hầu như tuyệt vọng, rồi lại buông thõng tay xuống sang hai
bên. Em lại quay đi. Bây giờ tôi lọt vào tầm nhìn của em – nếu em muốn nhìn
tôi. Em thở dài, cắn môi, đứng ở đó.
Một chú bé chạy lại chỗ Dibs. Em bảo: “Này Dibs! Lại chơi với
mình đi!” Disb nhìn chú bé. Em sẽ cào hắn nếu hắn không nhảy lùi lại kịp.
“Meo!meo!meo!” – Chú bé trêu chọc.
Cô Jane đến và chú bé đi sang phía khác chơi.
Dibs di chuyển đến bên tường, gần chiếc bàn con trên đó có
bày mấy hòn đá, mấy chiếc vỏ sò, mấy cục than và mấy cục quặng khác. Dibs đứng
sát cạnh bàn. Thong thả, lần lượt em nhặt lên từng đồ vật một, hết vật này đến
vật khác. Em dùng ngón tay sờ quanh từng đồ vật, áp chúng vào má, ngửi và nếm. Rồi
em cẩn thận đặt chúng vào đúng vị trí. Em thoáng nhìn tôi, rồi quay vội đi. Em
cúi xuống, bò vào gầm bàn và ngồi dưới đó hầu như hoàn toàn khuất mắt.
Dibs ở dưới gầm bàn. Từ vị trí thuận lợi ấy em có thể nghe và
nhìn thấy hết những điều các em khác nói và làm – nếu em muốn. Em có biết trước
sinh hoạt của nhóm này không khi em bỏ vào gầm bàn? Thật khó nói. Em ở dưới gầm
bàn cho tới khi vòng tròn buổi sáng giải tán và học trò có những sinh hoạt
khác. Khi đó em cũng chuyển sang làm việc khác.
Em bò quanh phòng, sát bờ tường, ngừng lại xem xét nhiều đồ vật
mà em bắt gặp. Khi em đến bậc cửa sổ rộng nơi đó có kê bể trồng cây và hồ nuôi
cá, em leo lên bên cạnh và đăm đắm nhìn vào những cái hồ làm bằng kiếng, vuông
và lớn. Đôi lúc, em thò tay vào và sờ mó một vật gì đó trong bể trồng cây. Lúc
đó em có vẻ khéo léo và nhanh nhẹn. Em ở lại đó khoảng nửa giờ, dường như chăm
chú quan sát, rồi em lại bò tiếp, hoàn tất chuyến đi quanh phòng.
Khi em đến góc phòng để sách, em ve vuốt những cuốn sách để
trên bàn, chọn một cuốn, kiếm một chiếc ghế kéo lê qua phòng, ngồi lên ghế,
quay mặt vào tường, em mở sách và chậm rãi xem xét từng trang, cẩn thật lật từng
tờ. Em đọc hay sao? Em xem tranh vẽ ư? Một cô giáo đến bên em.
“Ô, cô thấy rồi” – cô nói –“Em đang xem sách in hình chim. Em
kể cho cô nghe với, Dibs?” – cô thăm hỏi bằng một giọng nói dịu dàng, êm ái.
Dibs quăng cuốn sách ra xa, lăn xuống sàn, nằm ngay đơ, mặt
úp xuống, bất động.
“Cô xin lỗi” –cô giáo nói-“ Cô không có ý làm phiền em đâu,
Dibs ạ”. Cô nhặt cuốn sách lên, để lại trên bàn, đi lại phía tôi. “Điển hình
như vậy đó”- cô nói- “Chúng em đã biết cách tránh né. Nhưng em muốn để chị thấy”.
Dibs, ở tư thế nằm sấp, nhưng đã nghiêng đầu để có thể theo
dõi cô giáo. Chúng tôi làm bộ không theo dõi em. Sau cùng em đứng lên và thong
thả đi vòng quanh ven bờ tường. Em sờ mó những cây viết chì, đất sét, những cây
đinh, cây búa, những mảnh gổ, cái trống. Em cầm lên rồi lại đặt xuống. Những em
khác tiếp tục công việc của chúng không mấy quan tâm đến Dibs.
Rồi đến giờ ra sân chơi, một cô giáo bảo tôi, “Có thể là em ấy
ra, mà cũng có thể là em ấy sẽ không. Đánh cá năm xu em cũng chẳng dám”. Cô
tuyên bố giờ ra chơi. Cô hỏi Dibs có muốn ra không.
Em nói, “Không ra đâu”- bằng giọng nói nặng nề, rõ ràng.
Tôi nói, “Tôi phải ra mới được, trời hôm nay thật đẹp”. Tôi mặc
áo khoác vào.
Dibs đột ngột nói, “Dibs ra sân!” Cô giáo mặc áo cho em. Em vụng
về đi ra sân chơi. Điệu bộ của em rất nặng nề làm như em bị buộc trói thành từng
khúc, về thể lực cũng như tình cảm.
Các em khác chơi trong bể cát, trên xích đu, trên khu thể dục,
trên xe đạp. Các em chơi đá banh, rượt bắt, cút bắt. Các em chạy, tránh né, leo
trèo, nhảy nhót. Nhưng Dibs thì không. Em ra một góc xa, nhặt một cây que, ngồi
xổm xuống và cào tới cào lui trên mặt đất. Còng lưng trên hoạt động cô đơn ấy.
Gạch tới gạch lui, gạch lui gạch tới. Tạo nên những gạch lõm nhỏ, trên mặt đất
lặng lẽ, lẩn tránh, xa vắng.
Khi cô giáo rung chuông các em vào lớp. Dibs cũng vào. Cô
Jane giúp em cởi áo. Lần này em đưa nón cho cô. Cô giáo để một băng nhạc nhẹ êm
dịu. Mỗi em lấy chiếu riêng của mình trải dài trên nền nhà để nghỉ ngơi. Dibs lấy
manh chiếu của em xổ ra dưới bàn đọc, xa chỗ các em khác. Em nằm úp mặt trên
chiếu, đưa ngón tay cái vào miệng, nghỉ ngơi như những em khác. Em đang suy
nghĩ gì đây trong thế giới cô đơn của em? Tình cảm của em ra sao? Tại sao em lại
xử sự như vậy? Điều gì đã xảy ra đến nỗi em phải xa lánh mọi người? Liệu chúng
ta có cách nào tác động tới em không?
Dibs đứng gần cửa ra vào. Tôi lại gần và rủ em xuống phòng đồ
chơi ở cuối hành lang. Tôi đưa tay cho em. Em ngần ngại một lúc rồi nắm tay tôi
không nói một lời. Khi chúng tôi đi ngang qua cửa các phòng khác, em lẩm bẩm điều
gì đó mà tôi không hiểu. Tôi không yêu cầu em nhắc lại điều em đã nói. Tôi nói
rằng phòng đồ chơi ở cuối đường hành lang. Tôi lưu tâm đến phản ứng ban đầu này
của em. Em rời khỏi lớp học với một người lạ mà không ngoái cổ nhìn lại. Tôi nhận
thấy là em nắm tay tôi thật chặt. Em có vẻ căng thẳng. Nhưng kỳ lạ là em chịu
đi.
Ở cuối hàng lang, dưới chân cầu thang có một phòng nhỏ dành
làm phòng trị liệu bằng đồ chơi. Phòng này không mấy hấp dẫn – vì thiếu màu sắc
và trang trí. Phòng có một cửa sổ hẹp để ánh sáng lọt vào, nhưng quang cảnh
chung thì buồn bã dù đã bật đèn sáng.
Đồ chơi lăn lóc trên bàn, trên sàn, và trên vài ngăn kệ kê
quanh tường. Dưới đất có một nhà búp bê. Mỗi phòng trong căn nhà búp bê được
bày biện thưa thớt bằng gỗ thô sơ. Gia đình nhà búp bê nhỏ nằm lăn lóc trước cửa
nhà. Búp bê nằm chất đống ở đó-mẹ, cha, con trai, con gái và những em bé, với một
chiếc hộp mở nắp đựng những búp bê nhỏ khác bên cạnh. Có một vài con thú bằng
cao su –ngựa, sư tử, chó, mèo, voi, thỏ. Có một vài chiếc xe hơi, máy bay, đồ
chơi. Một hộp những miếng gỗ lắp nhà để trên sàn. Trên đống cát có vài chiếc
soong chảo, vài chiếc muỗng, và một ít dĩa nhôm. Có một bình đựng đất sét trên
bàn, một vài ống sơn vẽ và giấy vẽ trên giá. Một bình chai bú sữa đầy nước để
trên giá. Một búp bê vải lớn ngồi trên ghế. Ở một góc dựng một hình người cao bằng
cao su mặt vênh váo, đổ chì nặng ở bên dưới để nó đứng bật dậy sau khi bị xô
ngã. Những đồ chơi được chế tạo bền chắc, nhưng trông có vẻ cũ kỹ và đã bị sử dụng
thô bạo.
Không có gì trong căn phòng hay những đồ vật có khuynh hướng
kiềm chế những hoạt động của một đứa trẻ. Căn phòng đủ chỗ và đủ đồ vật để đáp ứng
sự bộc phát nhân cách của những đứa trẻ. Nơi đây một đứa trẻ có thể tìm sự yên
lặng để nghe lại những âm thanh cũ, la hét trước những điều khám phá của nó về
cái bản ngã vừa tìm thấy, để thoát khỏi sự giam cầm của những hoài nghi, những
âu lo, và sợ hãi. Nó mang vào đây ảnh hưởng của mọi hình thù, mọi âm thanh, màu
sắc, cử chỉ và nó tái thiết lại thế giới của nói, rút lại vào tầm vóc có thể điều
khiển được.
Khi chúng tôi bước vào phòng, tôi nói, “Chúng ta sẽ ở với
nhau trong một giờ trong phòng chơi này. Em có thể tùy ý xem các đồ chơi các vật
dụng sẵn có. Em tự quyết định xem em muốn làm gì”.
Tôi ngồi xuống chiếc ghế nhỏ sát ngay bên trong cửa ra vào.
Dibs đứng ở giữa phòng, quay lưng về phía tôi, hay tay đan vào nhau. Tôi chờ đợi.
Chúng tôi còn ở đây cả giờ. Không gấp gáp gì.Chơi hay không chơi. Trò chuyện
hay yên lặng. Ở đây, không thành vấn đề. Căn phòng rất hẹp. Dù em có đi đâu thì
cũng chẳng đi được xa. Có một chiếc gầm bàn nếu em muốn trốn thì có thể chui xuống
gầm. Có một chiếc ghế nhỏ bên cạnh bàn, nếu thích thì em có thể ngồi. Có đồ để
chơi nếu em muốn.
Nhưng Dibs vẫn đứng giữa phòng. Em thở dài. Em thong thả quay
đi ngập ngừng bước qua căn phòng, rồi đi men theo bờ tường. Em đi từ đồ chơi
này đến đồ chơi khác, sờ thử các đồ chơi. Em không trực tiếp nhìn tôi. Đôi khi
em liếc mắt nhìn tôi nhưng lại quay đi ngay khi bốn mắt gặp nhau. Cuộc đi quanh
phòng buồn tẻ. Bước chân em nặng nề. Dường như không có tiếng cười và hạnh phúc
nơi đứa trẻ này. Cuộc đời đối với em là cực hình.
Em bước tới căn nhà búp bê, đưa tay vuốt má, quì xuống bên cạnh,
nhìn vào đồ đạc bên trong. Thong thả em nhặt lên từng đồ vật một, hết cái này tới
cái khác. Trong lúc làm việc này em lẩm bẩm kể tên mỗi món đồ với giọng ngập ngừng
ướm hỏi. Giọng em trầm và đều đều.
“Giường? Ghế? Bàn?” –em nói- “Nôi? Tủ? Radio? Bể tắm? Thau?”.
Mọi món đồ trong căn nhà búp bê em đều cầm lên, gọi tên, cẩn thận đặt lại. Em
quay sang đống búp bê, thong thả chọn lọc. Em lựa ra một người đàn ông, một người
đàn bà, một cậu con trai, một cô con gái, một em bé. Dường như em đang nhận diện
những người này: “Cha? Mẹ? Em gái? Em bé?”. Rồi em lựa những con vật nhỏ. “Chó?
Mèo? Thỏ?”. Em thở dài não nề và thở dài nhiều lần. Làm như em tự chọn cho em một
việc làm khó khăn và cực nhọc.
Mỗi lần em kêu tên một đồ vật, tôi lại thừa nhận lời nói của
em. Tôi nói: “Phải, đây là cái giường”, hay “Cô nghĩ đây là cái tủ”, hay “giống
con thỏ lắm”. Tôi cố trả lời ngắn gọn cho phù hợp với lời nói của em, và thay đổi
giọng để tránh sự độc điệu. Khi em nhặt lên con búp bê cha và hỏi: “Ba?” Tôi
đáp, “Có thể là ba”. Và câu chuyện của chúng tôi tiếp diễn như thế với món đồ
em nhặt lên và gọi tên. Tôi nghĩ đây là cách thức em bắt đầu giao cảm bằng lời.
Gọi tên đồ vật là cách bắt đầu khá an toàn.
Rồi em ngồi xuống sàn đối diện với căn nhà búp bê. Em yên lặng
nhìn đăm đăm một hồi lâu. Tôi không hối thúc em. Tôi muốn em có sáng kiến trong
việc xây dựng mối liên hệ này. Thường thường người lớn vì quá nhiệt tình nên
hành động thay thế cho đứa trẻ.
Em đưa tay ôm chặt lấy ngực và nhắc lại nhiều lần, “Không
khóa cửa. Không khóa cửa. Không khóa cửa”. Giọng nói của em trở thành năn nỉ
kêu xin. “Dibs không thích khóa cửa”- em nói. Có tiếng nấc trong giọng nói của
em.
Tôi nói với em, “Em không thích cửa bị khóa”.
Dibs dường như muốn co rúm lại. Giọng nói của em biến thành
tiếng thì thào khàn khàn. “Dibs không thích cửa đóng. Không thích cửa khóa.
Dibs không thích tường chung quanh nó”.
Rõ ràng là em đã có một số kinh nghiệm khốn khổ khi cửa đóng
và cửa khóa. Tôi nhận ra những tình cảm em diễn tả. Rồi em bắt đầu lấy những
con búp bê mà em đã đặt trong nhà ra. Em lấy con búp bê cha và búp bê mẹ ra.
“Ra tiệm! Ra tiệm!” – Em nói – “Đi ra tiệm. Đi đi!”
“Ô! Má đi ra tiệm à?”- Tôi hỏi- “Cả ba nữa? Cả em gái nữa à?
Em mau lẹ đẩy tất cả ra khỏi nhà.
Em khám phá ra là những bức tường trong các căn phòng trong
nhà búp bê đều có thể gỡ đi. Em tháo từng bức cách ra, vừa làm vừa nói. “Không
thích tường. Dibs không thích tường. Gỡ hết tường ra, Dibs!” Và trong phòng
chơi này Dibs đã tháo gỡ đôi chút những bức tường em xây quanh mình.
Tôi không hỏi em có muốn về lớp hay không. Ở đây không có việc
lựa chọn. Tôi không hỏi em có muốn trở lại đây không. Có thể là em không muốn
cam kết. Ngoài ra em đâu có quyền quyết định. Tôi cũng không nói rằng tuần tới
tôi sẽ gặp em, bởi vì tôi chưa thông qua kế hoạch với mẹ em. Đứa trẻ này đã chịu
nhiều tổn thương rồi, cho nên tôi chẳng muốn những lời hứa hẹn đưa đẩy mà có thể
sẽ không thực hiện được. Tôi không hỏi em là có vui hay không. Tại sao lại ghìm
em lại bằng một sự đánh giá thứ kinh nghiệm mà em vừa trải qua. Nếu sự vui chơi
của một đứa trẻ là cách thức tự nhiên để nó tự biểu lộ, tại sao chúng ta lại
khép nó vào khuôn khổ cứng ngắc của một câu trả lời có sẵn. Một đứa trẻ chỉ
thêm lúng túng bởi những câu hỏi đã được người nào đó trả lời trước khi hỏi nó.
Cuối cùng, tôi đứng đây nói, “Tới giờ rồi, Dibs! Em thong thả
đứng lên, cầm tay tôi, chúng tôi rời khỏi phòng, và bắt đầu đi dọc hành lang.
Khi nhìn thấy cửa lớp của em, tôi hỏi em có thể một mình về lớp được không.
Tôi làm như thế bởi vì tôi hy vọng là Dibs sẽ dần dần thêm tự
chủ và trách nhiệm hơn. Tôi muốn truyền cho em lòng tin tưởng của tôi nơi khả
năng của em có thể đáp ứng lại lòng mong đợi của tôi. Tôi tin là em có thể làm
việc ấy. Nếu em do dự, tỏ dấu hiệu là làm việc khó quá trong ngày đầu, tôi sẽ
đi với em thêm một quãng. Tôi sẽ đi với em đến tận cửa lớp, nếu thực sự em cần
đến sự hỗ trợ ấy. Nhưng em đã đi một mình. Tôi nói, “Chào em, Dibs!”
Em nói, “Được ạ”- giọng nói của em êm ái, dịu dàng. Em đi dọc
hành lang, mở cửa, rồi quay lại nhìn. Tôi vẫy tay. Nét mặt của em thật ngộ. Em
có vẻ ngạc nhiên – gần như mãn nguyện. Em bước vào phòng và đóng cửa lại. Đây
là lần đầu tiên Dibs đi một mình đến một nơi nào đó.
Một trong những mục tiêu của tôi khi tạo dựng mối liên hệ này
với Dibs là giúp em đạt được sự độc lập về tình cảm. Tôi không muốn làm phức tạp
thêm vấn đề của em bằng cách tạo ra một mối liên hệ trợ lực khiến em lệ thuộc
vào tôi và trì hoãn sự phát huy trọn vẹn tình cảm an toàn nội tâm của em. Nếu
Dibs là một đứa trẻ thiếu thốn về phương diện tình cảm – và có triệu chứng là
em bị như vậy- thì sự gây dựng một quyến luyến tình cảm vào lúc này xem như có
thể đáp ứng nhu cầu sâu xa của em, nhưng lại tạo ra một khó khăn mới mà cuối
cùng em cần phải giải quyết.
Sau buổi tiếp bằng trò chơi đầu tiên với em Dibs, tôi mới hiểu
tại sao các giáo viên và các người trong ban giám hiệu không nỡ gạch tên em đi
như một trường hợp vô vọng. Tôi kính trọng sức mạnh và khả năng nội tâm của em.
Em là một đứa trẻ rất can đảm.
CHƯƠNG 3
Tôi gọi dây nói cho mẹ em Dibs và xin gặp bà ngay khi nào bà
thấy thuận tiện. Bà bảo rất hân hạnh nếu tôi đến dùng trà với bà vào ngày mai,
hồi bốn giờ. Tôi nhận lời.
Gia đình bà ở tại một ngôi nhà cổ xây bằng đá màu nâu ở khu
phía đông thành phố. Bên ngoài căn nhà được chăm sóc kỹ lưỡng và tỉ mỉ. Cửa vào
được lau chùi chói ngời, viền đồng sáng loáng. Ngôi nhà tọa lạc ở một con đường
xưa rất đẹp và có vẻ vẫn duy trì được phong thái của thời xa xưa. Tôi mở cánh cổng
sắt, bước lên bực thềm, và nhấn chuông cửa. Qua cửa đóng tôi nghe những tiếng
la nghẹn ngào: “Không khóa cửa! Không khóa cửa! Không! Không! Không!” Giọng la
chìm vào yên lặng. Một chị người làm mặc đồng phục gia nhân ra mở cửa. Tôi tự
giới thiệu. Chị mời tôi vào phòng khách.
Mẹ em Dibs chào đón tôi rất tử tế, nhưng nghiêm nghị. Theo
thong lệ chúng tôi nhập đề bằng câu nói về thời tiết và về sự hạnh ngộ được gặp
gỡ nhau. Nhà được bày biện đẹp đẽ, ngăn nắp. Phòng khách xem như thể chưa hề có
một đứa trẻ nào được chơi ở đây tới năm phút. Thực vậy không có dấu hiệu nào tỏ
ra có người đã thực sự sinh sống trong ngôi nhà này.
Trà được mang lên. Bộ đồ trà thật đẹp. Bà không bỏ phí thời
giờ vào chuyện.
– Tôi được biết cô được mời làm chuyên viên nghiên cứu trường
hợp cháu Dibs. Cô rất có lòng khi nhận lãnh công việc này. Tôi xin thưa để cô
biết rằng chúng tôi chẳng mong một phép lạ nào. Chúng tôi đã chấp nhận thảm kịch
của Dibs. Tôi được biết chút ít về sự nổi danh và nghề nghiệp của cô và tôi rất
tôn trọng công trình nghiên cứu khoa học về hành vi con người. Chúng tôi không
mong có những thay đổi nơi cháu Dibs, nhưng nếu nhờ nghiên cứu về đứa trẻ này,
cô có đóng góp đôi chút vào sự hiểu biết về hành vi con người, thì chúng tôi rất
vui lòng cộng tác.
Không ngờ được. Ở đây với thái độ tôn trọng khoa học, bà cung
cấp cho tôi một số dữ kiện để nghiên cứu. Không phải một đứa trẻ gặp khó khăn.
Không phải con trai bà. Và bà nói rất rõ là bà không trông chờ một sự thay đổi
nào trong các sự kiện. Tôi lắng nghe bà vắn tắt kể cho tôi những chỉ dẫn về
Dibs. Ngày tháng năm sinh. Sự chậm tiến bộ. Chậm phát triển rõ rệt. Có thể có
liên hệ tới cơ năng sinh lý. Bà ngồi trên ghế hầu như bất động.Căng thẳng. Tự
kiềm chế một cách khủng khiếp. Mặt bà tái nhợt. Mái tóc bà rẽ ở giữa, bới thành
cụm, thả sau gáy. Mắt bà xanh lợt. Môi bà mím thành vệt dài. Đôi lúc, bà cắn
môi một cách bối rối. Áo bà màu thép xám, đơn giản một cách cổ xưa. Bà là một
phụ nữ đẹp một cách lạnh lùng. Khó đoán được tuổi bà. Trông bà khoảng trên năm
mươi, nhưng cũng có thể còn trẻ hơn nhiều. Bà có một nối nói rành rẽ, thông
minh. Bà làm ra vẻ can trường, nhưng rất có thể bà cũng khổ sợ sâu xa và bi thảm
như Dibs.
Bà hỏi tôi có chịu khảo sát Dibs tại đây không.
– Phòng ở trên lầu – đàng sau nhà, bà nói- Sẽ không có ai làm
cản trở hoặc quấy rầy cô trên đó. Cháu có nhiều đồ chơi lắm. Và chúng tôi sẵn
sàng mua thêm những gì cô muốn hay cần.
– Không được đâu, cảm ơn bà – tôi nói- Tốt hơn hết nên để tôi
gặp em ở phòng đồ chơi tại Trung Tâm Hướng Dẫn Trẻ Em. Mỗi tuần một buổi, mỗi
buổi một giờ.
Sự xếp đặt này rõ ràng làm bà em ngại. Bà nói lại:
– Cháu có nhiều đồ chơi trong phòng. Chúng tôi sẵn sàng trả
thù lao cho cô cao hơn nếu cô chịu lại đây.
– Xin lỗi bà, nhưng tôi không làm như vậy được. Và bà không
phải trả thù lao.
– Ô, nhưng chúng tôi có khả năng mà – bà vội vàng nói – Tôi
xin trả thù lao để cô làm công việc nghiên cứu này.
– Bà tốt quá. Nhưng không phải trả thù lao. Tôi chỉ yêu cầu
là làm sao để em đến Trung Tâm đúng giờ và đều đặn. Lẽ dĩ nhiên là trừ khi em bị
đau yếu. Và tôi xin bà viết giấy cho phép chúng tôi ghi lại đầy đủ tất cả những
cuộc phỏng vấn để chúng tôi tiện việc nghiên cứu. Và tôi cũng xin gởi bà một tờ
cam kết là trong trường hợp tài liệu này được dùng để giảng dạy hay báo cáo hoặc
ấn hành dưới hình thức nào, thì danh tính sẽ hoàn toàn được đổi khác để không
ai có thể nhận ra là trường hợp của em Dibs.
Tôi đưa cho bà tờ cam đoan được thảo ra trước cuộc gặp gỡ
này. Bà cẩn thận đọc.
– Được lắm – sau cùng bà nói – Tôi giữ tờ giấy này được
không?
– Dạ được. Bà và ông nhà sẽ ký vào tờ cam đoan này, bằng lòng
cho chúng tôi ghi lại đầy đủ tất cả các phỏng vấn với điều kiện là tài liệu này
sẽ được ngụy trang hoàn toàn nếu đem báo cáo.
Bà lấy mảnh giấy ấy và đọc lại cẩn thận.
– Tôi giữ lại tờ này để bàn với nhà tôi và sẽ gởi bằng đường
bưu điện cho cô, nếu chúng tôi quyết định thông qua việc này.
– Xin vâng. Tôi rất mong bà cho biết ý kiến, sau khi đã có
quyết định. Bà cầm tờ giấy trên đầu ngón tay. Bà liếm ướt môi. Cuộc thăm viếng
này không giống chút nào những cuộc gặp gỡ đầu tiên với những bà mẹ. Tôi cũng cảm
thấy ngượng ngập như bà, tìm cách thoái thoát việc gặp con bà trong phòng chơi
của nó. Nhưng tôi cảm thấy đây là sự liều lĩnh tôi phải chấp nhận, bằng không
Dibs sẽ không đến Trung Tâm.
– Tôi sẽ cho cô biết ngay sau khi chúng tôi quyết định.
Sau một lúc lâu yên lặng, bà nói:
– Tôi không hiểu tại sao, khi một gia đình có thể trả một khoản
thù lao lớn để cô có thể theo dõi miễn phí cho một đứa trẻ khác mà cha mẹ nó
không có khả năng trả nổi, mà cô lại từ chối?
– Bởi vì công việc nghiên cứu của tôi chủ yếu là để tăng cường
sự hiểu biết trẻ em – tôi giải thích- Tôi được trả lương để làm công việc đó.
Điều này loại bỏ yếu tố thù lao, và tránh cho phụ huynh nghĩ rằng họ được lãnh
dịch vụ mà có người không trả. Nếu bà muốn tài trợ cho Trung Tâm để nghiên cứu
mà không có ràng buộc nào với trường hợp đặc biệt này, thì tùy ý bà. Công trình
nghiên cứu được tài trợ phần lớn theo cách thức này.
– Tôi hiểu rồi. Nhưng tôi vẫn muốn trả thù lao cho cô.
– Tôi biết là bà muốn. Tôi rất cảm động về sự quan tâm của
bà. Nhưng tôi chỉ có thể gặp em Dibs với những điều kiện này mà thôi.
Tôi đã nói ra hết. Tôi đã leo ra một cành xa và bà có thể chặt
đứt cành ấy với tốc độ của một cái cưa điện. Tôi cảm thấy sâu sắc rằng nếu
chúng tôi thắng được cuộc tranh luận nhỏ nhặt này, chúng tôi đã đi được một bước
quan trọng trong việc tạo nên trách nhiệm cần thiết lúc ban đầu cho người mẹ.
Có lẽ bà vẫn thường lấy tiền để lẫn tránh trách nhiệm phải có với con. Tôi nhất
định lần này phải gạt bỏ hẳn yếu tố này.
Bà rất điềm tĩnh trong vài phút. Tay bà chắp lại thật chặt để
trên đầu gối. Bà nhìn xuống tay. Bất giác tôi nhớ đến Dibs lăn ra sàn úp mặt xuống
đất ngay đơ, thinh lặng. Một lần nữa, tôi nghĩ rằng bà cũng buồn phiền và lẻ
loi như con bà.
Sau cùng bà liếc mắt nhìn tôi, mau chóng nhìn đi chỗ khác,
tránh mặt tôi.
– Tôi phải nói với cô điều này. Tôi chỉ có thể đề nghị là cô
tiếp xúc với trường để có thêm chi tiết về tình trạng bịnh hoạn của cháu Dibs,
tôi không còn gì để nói thêm nữa. Và chính tôi, tôi sẽ không thể đến chỗ cô phỏng
vấn được. Nếu cô buộc điều kiện này, thì ngay lúc này tôi đề nghị chúng ta quên
hẳn cuộc dàn xếp này đi. Tôi không có gì để nói thêm. Đây là một thảm kịch – một
thảm kịch lớn. Cháu Dibs ư? Vâng, đúng là cháu bị thiểu năng. Cháu sinh ra như
vậy. Nhưng tôi không thể đến để chịu phỏng vấn hay tra hỏi.
Bà liếc mắt nhìn tôi. Bà có vẻ hoảng hốt khiếp đảm với ý nghĩ
chính mình sẽ bị phỏng vấn.
– Tôi hiểu. Tôi tôn trọng ý kiến bà về vấn đề này.
Nhưng tôi xin thưa điều này là nếu có bao giờ bà muốn nói với
tôi về Dibs, bà cứ tự nhiên tiếp xúc với tôi. Nhưng tôi để bà toàn quyền quyết
định về vấn đề này.
Bà có vẻ thư thái đôi chút.
– Nhà tôi cũng sẽ không lại đâu.
– Được, tùy bà quyết định.
– Khi tôi đưa cháu đến Trung Tâm, tôi sẽ không ngồi chờ
đâu.Tôi sẽ trở lại khi hết giờ.
– Thế cũng được. Bà có thể đem em tới và để em ở đó, rồi trở
lại đón em khi hết giờ. Hay bà có thể để một người khác đem em lại cũng được, nếu
bà muốn.
Sau một hồi yên lặng khá lâu, bà nói thêm:
– Tôi rất đỗi cảm kích về sự hiểu biết và thông cảm của cô.
Chúng tôi uống cạn ly trà. Dorothy được đề cập tới như một chỉ
dẫn thêm về gia đình và như một “Đứa trẻ hoàn hảo”. Trong cuộc phỏng vấn này mẹ
em Dibs tỏ ra sợ hãi, lo lắng và hoảng hốt hốt hơn chính em trong buổi đầu tiếp
xúc.
Tôi có cảm tưởng rõ rệt là Dibs sẽ đáp ứng nhiều hơn là mẹ
em. Dibs đã phản đối việc khóa cửa, nhưng một vài cửa ra vào rất quan trọng của
cuộc đời mẹ em đã bị khóa chặt rồi. Hầu như đã quá muộn! Bà không làm sao phản
đối được nữa. Và sự thật hiển nhiên là trong cuộc phỏng vấn ngắn ngủi này bà đã
cố tình khóa thêm một cửa nữa.
Khi tôi ra về bà tiễn tôi ra tận cửa.
– Cô có chắc là cô không thích gặp cháu ở phòng đồ chơi của
nó không?- bà hỏi- Cháu có nhiều món đồ chơi đẹp. Và chúng tôi sẵn sàng mua bất
kỳ món gì cô có thể cần tới. Tôi xin nhắc lại là bất kỳ thứ gì.
Bà thất vọng thật sự. Tôi cảm thấy thương bà. Tôi cảm ơn bà về
sự mời mọc của bà, nhưng một lần nữa tôi thưa với bà là tôi chỉ có thể gặp em tại
phòng đồ chơi nơi Trung Tâm.
– Tôi sẽ cho cô biết ngay sau khi chúng tôi có quyết định –
bà nói, tờ giấy trên tay rung nhè nhẹ.
Trên đường tới chỗ đậu xe, tôi cảm thấy sự nặng nề, ngột ngạt
của gia đình bất hạnh này. Tôi nghĩ tới Dibs với căn phòng đồ chơi trang bị đầy
đủ của em. Tôi chẳng cần vào phòng này cũng có thể tin chắc rằng những gì mua
được bằng tiền đều có ở đây. Và tôi tuyệt đối biết chắc là có một cửa bóng
loáng vững chắc. Và một chiếc khóa thường được khóa chặt.
Tôi tự hỏi không biết có thể kể gì thêm về chuyện Dibs, nếu
có bao giờ bà quyết định nói về điều đó. Chắc chắn sẽ không có những câu trả lời
trôi chảy để giải thích những liên hệ trong gia đình này. Người phụ nữ này thực
sự cảm thấy và nghĩ gì về Dibs, và bà đã giữ vai trò nào trong những ngày thơ ấu
của nó, đến nỗi phải khiếp sợ đến thế trước viễn tượng bị phỏng vấn về hoàn cảnh
ấy.
Tôi tự hỏi liệu mình đã điều hành tình trạng này một cách có
hiệu quả nhất – hay là mình chỉ tạo thêm sức ép khiến bà có thể thoái thoát
không cho điều tra về đứa trẻ. Tôi băn khoăn không biết bà và ông chồng bà sẽ
quyết định ra sao. Liệu họ có đồng ý với sự xếp đặt mà chúng tôi đã bàn bạc hay
không? Liệu tôi có được gặp Dibs hay không? Nếu tôi được gặp em, điều gì sẽ xuất
phát từ kinh nghiệm này?
CHƯƠNG 4
Mấy tuần lễ sau đó tôi không nhận được tin tức của mẹ em Dibs.
Tôi gọi điện thoại đến trường và hỏi cô hiệu trưởng có nghe cha mẹ em nói gì
không. Bà nói cũng không được tin tức gì cả. Tôi hỏi về Dibs. Bà cho biết là mọi
việc vẫn như thường lệ vậy thôi. Dibs đi học đều. Nhà trường, dù muốn hay
không, vẫn phải chờ, hy vọng những buổi trị liệu bằng đồ chơi sớm bắt đầu.
Rồi một buổi sáng tôi nhận được tấm giấy do cha mẹ em ký, cho
phép tôi ghi lại những buổi trị liệu. Có hàng chữ ngắn xác định sự vui l lòng cộng
tác trong việc chúng tôi nghiên cứu về đứa trẻ và đề nghị chúng tôi gọi điện
thoại cho họ và sắp xếp những buổi hẹn hàng tuần cho Dibs.
Tôi hẹn phỏng vấn em vào chiều thứ năm hàng tuần tới ở phòng
trị liệu tại Trung Tâm.
Nhiều người trong chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Gia đình này
không phải phải quyết định dễ dàng đâu. Người ta tự hỏi về ý nghĩa của sự chần
chờ này, nhưng có thể tưởng tượng được sự dằn vặt, lo lắng của cha mẹ khi suy
nghĩ xem họ phải đối phó thế nào. Và còn Dibs nữa, nó sẽ ra sao? Liệu họ có
quan tâm đến tương lai của em, cố gắng nghĩ tới những kết quả có thể có được,
nhờ đánh giá lại khả năng của em hay không? Chắc chắn họ đã cân nhắc mọi khía cạnh
liên hệ tới cuộc mạo hiểm này.
Dibs đến mau mắn Trung Tâm cùng với mẹ. Bà bảo người tiếp
khách rằng bà sẽ trở lại đón con một giờ sau, rồi để nó lại trong phòng chờ.
Tôi ra đón em. Em đứng lì ở chỗ mẹ dẫn vào, đội nón, mặc áo khoác, đeo găng, đi
ủng.
Tôi ra chỗ em đứng:
– Chào em Dibs. Hân hạnh gặp lại em. Mình lại phòng đồ chơi
đi. Phòng ở cuối dãy hành lang này.
Dibs đưa tay lên, lặng lẽ nắm tay tôi. Chúng tôi đi theo hành
lang đến phòng đồ chơi.
-Đây là một phòng chơi khác -tôi nói với em- Phòng này cũng
như phòng ở trường em mà cô gặp em mấy tuần trước.
– Vâng – em ngập ngừng nói.
Phòng chơi này ở tầng trệt. Căn phòng rực rỡ ánh nắng. Căn
phòng này hấp dẫn hơn căn phòng ở trường nhưng đồ trang bị thì chủ yếu cũng vậy.
Nhưng khung cửa sổ trông ra sân đậu xe và bên kia bãi xe có một ngôi nhà thờ lớn
xây cất bằng đá xám.
Khi chúng tôi bước vào phòng đồ chơi, Dibs chậm rãi đi vòng
quanh, sờ mó những đồ vật, gọi tên những đồ vật bằng giọng tra hỏi mà nó đã
dùng trong lần đầu đến phòng đồ chơi.
“Thùng cát? Giá vẽ? Ghế? Thuốc vẽ? Xe hơi? Búp bê? Nhà búp
bê?” Sờ tới vật nào em đều kêu tên theo cách ấy. Rồi em đổi giọng đôi chút,
“Đây là xe hơi à? Đây là xe hơi. Đây là xe cát à? Đây là cát. Đây là thuốc vẽ
à? Đây là thuốc vẽ”.
Sau khi em đã đi hết một vòng, tôi nói:
– Phải. Có nhiều đồ vật khác nhau trong phòng này, phải
không? Em đã sờ và kêu tên hầu hết các đồ vật rồi.
– Đúng – em nhẹ nhàng nói.
Tôi không muốn hối em. Để em có đủ thời giờ nhìn quanh và dò
xét. Mỗi đứa trẻ đều cần có thời gian để khám phá thế giới trong đó nó sống.
Em đứng lại giữa phòng.
– Nè, Dibs! Bỏ nón, bỏ áo ra chứ.
– Vâng. Cô cởi áo, bỏ nón cho Dibs – Em nói vậy nhưng không mảy
may nhúc nhích.
– Vậy là em muốn cởi áo, cởi nón phải không? Được lắm Dibs.
Làm đi. Cởi ra.
– Cởi cả găng tay, cả ủng nữa.
– Được. Cởi cả găng, cả ủng nữa- nếu em muốn.
– Vâng – em nói, giọng thì thầm.
Em đứng đó bối rối kéo tay áo tôi. Em bắt đầu rên rỉ. Em đứng
trước mặt tôi, gục đầu xuống, rên rỉ.
– Em muốn cởi áo ra, nhưng em muốn cô giúp em, có phải không?
– Vâng ạ – Có tiếng nức nở trong tiếng trả lời của em.
Tôi ngồi xuống một chiếc ghế nhỏ và nói “Được rồi, Dibs. Nếu
em muốn cô giúp em cởi áo, cởi nón, em lại đây cô sẽ giúp”. Điều này là việc
làm có dụng ý. Tôi tình nguyện giúp em, nhưng ngồi yên một chỗ để em phải tự
nguyện giúp em, nhưng ngồi yên một chỗ để em phải tự nguyện đi ít bước nếu muốn
giúp.
Em ngập ngừng đi lại phía tôi. “Cả ủng nữa” – em nói giọng
khàn khàn.
– Được rồi. Chúng ta cởi cả đôi ủng ra nữa – tôi nói.
– Cả găng tay – Em vừa nói vừa đưa tay ra.
– Được. Cả găng tay nữa.
Tôi giúp em cởi găng, cởi nón, cởi áo, tháo ủng. Tôi bỏ găng
vào túi áo khoác của em, đưa áo, đưa nón cho em. Em bỏ rơi xuống sàn. Tôi nhặt
lên máng vào nắm đóng cửa.
– Chúng ta treo lên dây cho tới giờ ra về – tôi nói – Chúng
ta sẽ ở trong này với nhau một giờ, rồi sẽ tới giờ em về.
Em không đáp. Em đi lại chỗ đặt giá vẽ và nhìn những ống thuốc
vẽ. Em đứng đó một hầu lâu. Rồi em gọi tên những màu thuốc vẽ để trên giá vẽ.
Thong thả em xếp đặt lại những ống thuốc vẽ này. Em đặt màu đỏ, màu vàng và màu
xanh da trời trên gờ giá vẽ. Em cẩn thận để những màu đó cách xa nhau và trong
những khoảng cách thích hợp, em thêm vào những màu khác để tạo ra quang phổ gồm
sáu màu có sắc độ khác nhau. Rồi em để màu thứ ba vào những chỗ thật đúng, thêm
màu đen và màu trắng, và có trên gờ giá vẽ cả một thang giá trị màu sắc đầy đủ.
Sau khi em đã sắp xếp cho thứ tự, em cầm một chiếc bình lên
và xem xét. Em nhìn vào bên trong bình, quậy màu trong bình bằng một cây cọ,
đưa lên soi trong ánh sáng, ngón tay nhè nhẹ lướt trên nhãn hiệu.
“Sơn vẽ Favor Ruhl” – em nói – “Đỏ. Sơn vẽ Favor Ruhl Vàng.
Sơn vẽ Favor Ruhl. Xanh da trời. Sơn vẽ Favor Ruhl. Đen”.
Đây là câu trả lời một phần cho một câu hỏi. Rõ ràng là em
đang đọc nhãn hiệu. Đúng là nhãn hiệu sơn vẽ Favor Ruhl.Và những màu sắc được xếp
đặt đúng và gọi trúng tên.
– Tốt –tôi nói- Như thế là em đọc được nhãn hiệu những bình
sơn. Và em biết tên các loại màu.
– Đúng rồi – em ngập ngừng nói.
Em ngồi xuống bàn, đưa tay với hộp bút chì. Em đọc tên trên
chiếc hộp. Rồi em lấy ra cây viết chì đỏ và viết bằng chữ in rõ nét “ĐỎ”. Em
cũng làm như vậy với những màu khác và em dùng những màu này theo thứ tự liên
tiếp đặt thành vòng tròn. Viết đến đâu em đánh vần đến đó, đọc tên mỗi chữ khi
viết ra.
Tôi theo dõi em. Tôi cố gắng đáp ứng bằng lời nói, thừa nhận
ý định giao cảm với tôi bằng hoạt động này của em.
– Em đánh vần tên của mỗi màu và viết ra bằng màu đó. Có phải
thế không? Xem nào. Đỏ đánh vần là đờ-o hỏi đỏ, đúng không?
-Đúng rồi – em thong thả ngập ngừng nói.
– Và em đang vẽ chiếc bánh xe màu, có phải không?
– Phải rồi – em lẩm bẩm.
Tôi cố giữ sao cho những lời bình luận của tôi phù hợp với hoạt
động của em, cố gắng không nói ra điều gì chứng tỏ là tôi mong muốn em làm một
điều gì đặc biệt nào đó, mà chỉ để truyền thống, để cho em thấy rằng tôi hiểu,
rằng tôi thừa nhận hành vi của em. Tôi muốn em dẫn đường. Tôi theo sau. Tôi muốn
cho em biết ngay từ đầu là em sẽ định lấy đường hướng trong căn phòng này và
tôi sẽ thừa nhận những cố gắng của em, theo sự cảm thông hai chiều, trên căn bản
thực tế cụ thể của kinh nghiệm được chia xẻ giữa hai chúng tôi. Tôi không muốn
thán phục và khen ngợi khả năng của em có thể làm tất cả những điều này. Dĩ
nhiên là em có thể làm được hết. Khi dành sáng kiến cho cá nhân, người ta sẽ chọn
lấy miếng đất mà họ cảm thấy an toàn nhất. Bất kỳ một lời ngạc nhiên hay khen
ngợi nào đều có thể được họ suy luận là khuyến khích họ nên tiếp tục. Mọi người
đều hành động thận trọng để bảo vệ sự nguyên vẹn nhân cách của mình. Chúng tôi
đang làm quen với nhau. Những đồ vật mà Dibs đề cập tới, những đồ vật trong căn
phòng này không dính líu tới tình cảm sâu sắc nào, chúng chỉ là những thành tố
để đối thoại ở thời điểm thông cảm này giữa chúng tôi. Đối với Dibs đấy là những
từ ngữ an toàn.
Đôi lúc em đưa mắt nhìn tôi, nhưng khi bốn mắt giao nhau, em
lập tức nhìn đi chỗ khác.
Chắc chắn những hoạt động khởi đầu của em là một tiết lộ. Cô
Hedda có lý do vững vàng để tin ở Dibs. Thực vậy, không những em đang thoát ra
khỏi vỏ sò, mà còn khởi sự đập vỡ nói. Dù những khó khăn của em ra sao chăng nữa
chúng ta có thể hoàn toàn bác bỏ nhãn hiệu thiểu năng.
Em leo vào thùng cát. Em xếp lính thành hàng từng đôi một.
Cái lọt vào giày em, em đưa mắt nhìn tôi, chỉ vào đôi giày, rên rỉ.
– Chuyện gì vậy? – Tôi hỏi – Cát lọt vào giày à?
Em gật đầu.
– Nếu em muốn tháo thì tháo giày đi.
– Dạ – em trả lời khàn khàn.
Em ngồi yên, mắt dán vào đôi giày, rên rỉ. Tôi đợi. Sau cùng
em nói:
– Cô tháo giày cô ra – em nói một cách nhọc nhằn.
– Em muốn cởi giày, nhưng em muốn cố giúp em,có phải vậy
không?
Em gật đầu. Tôi giúp em như em nhờ, cởi dây giày, gỡ giày ra
cho em. Em nhè nhẹ lê chân trên cát và chỉ ít phút sau sẵn sàng bước ra khỏi
thùng cát.
Em đi ra chỗ bàn và nhìn những khối gỗ. Rồi em từ từ chủ tâm
xếp chồng những khối lên nhau; tháp gỗ chao đảo rồi đổ ụp. Em chắp tay vào
nhau.
– Cô A! – Em kêu lên, cái tên em đặt cho tôi và từ đó gọi tôi
– Giúp em, lẹ lên.
– Em muốn cô giúp em à?
– Dạ đúng – Em liếc mắt nhìn về phía tôi.
– Vậy em muốn cô làm gì nào? Nói cho cô nghe Dibs.
Em đứng bên bàn, nhìn xuống những khối gỗ, tay vẫn ôm chặt lấy
ngực.
Dibs yên lặng. Tôi cũng vậy.
Em đang nghĩ gì? Em đang tìm kiếm điều gì? Hiện nay điều gì
giúp ích nhất cho Dibs? Tôi muốn tỏ cho em biết là tôi thành khẩn muốn hiểu em.
Tôi không biết em thực sự đang theo đuổi điều gì. Có lẽ chính em cũng không biết
vào lúc sự liên hệ giữa chúng tôi đang bắt đầu.
Chắc chắn là không nên xông vào thế giới riêng tư của em và
ráng lôi ra những câu giải đáp. Nếu tôi có thể truyền sang cho Dibs lòng tin tưởng
của tôi nơi em, nếu tôi có thể truyền sang cho em cái quan niệm là không có những
câu trả lời dấu kín mà em phải đoán ra, không có những tiêu chuẩn bí ẩn nào về
tác phong hay biểu lộ mà không được công khai khẳng định, không có áp lực bắt
em phải đoán ý tôi và phải tuân theo một giải pháp mà tôi đã quyết định, không
có sự hối thúc phải làm hết những việc hôm nay – thì, có lẽ Dibs sẽ cảm nghĩ được
an toàn hơn và em sẽ thấy mình có quyền có những phản ứng của mình. Như vậy em
sẽ nhìn thấy rõ hơn; sẽ hiểu và chấp nhận chúng. Điều này cần có thời gian, cần
cố gắng nhiều, cần sự nhẫn nại lớn lao cả hai phía chúng tôi. Và bao giờ hai
bên cũng phải thành thật từ căn bản. Em đột ngột thò tay ra, mỗi tay cầm một khối,
đập vào nhau.
– Sụp đổ – em nói.
– Ồ, thế là sụp đổ à? – Tôi hỏi.
– Đúng đấy. Sụp đổ!
Một chiếc xe vận tải tiến vào bãi xe và dừng lại bên cửa sổ mở
rộng. Dibs tiến tới bên cửa sổ và định đóng lại.
– Đóng cửa lại – em nói.
– Em muốn đóng cửa hả? Những bữa nay trong này nóng quá dù để
mở cửa sổ.
– Đúng rồi. Cô đóng cho Dibs.
– Ồ, vậy em vẫn muốn đóng à?
– Vâng, Dibs đóng cửa! – Em nói lớn.
– Em biết rõ điều em muốn, phải không? – Tôi hỏi lại.
Trong một giây ngắn ngủi, Dibs nhìn thẳng vào mặt tôi.
– Em biết – em khô khan trả lời tôi.
Rồi em ra chỗ giá vẽ. Lấy tay sờ mó những hũ sơn. Em cầm lấy
cây bút sơn trong hũ sơn màu đỏ và lướt bút vẽ trên tấm giấy căng trên giá vẽ.
Em vẽ một hình vuông mà em thận trọng tô bằng những nét bút rõ ràng, kỹ lưỡng.
Chúng tôi không ai nói một lời nào cho tới lúc gần hết giờ. Dibs dường như bị
lôi cuốn vào bức hình em họa.
– Thời gian em có thể vui chơi trong phòng này gần hết rồi,
tôi bảo em. Chỉ còn năm phút nữa thôi.
Dibs không chú ý tới lời tôi. Em tiếp tục vẽ những hình vuông
màu theo cùng một thứ tự không thay đổi. Đỏ. Cam. Vàng. Xanh lá cây. Xanh da trời.
Trắng. Tím.
Phút thứ năm đến và trôi qua. Tôi đứng lên.
– Thời giờ của chúng ta hết rồi. Dibs –tôi nói với em – Tới
giờ về rồi.
– Không! – em nói lớn tiếng – Dibs không về. Dibs ở lại.
– Cô biết là em không muốn về, Dibs. Nhưng bữa nay hết giờ rồi
bây giờ em phải về nhà. Tuần tới em lại đến. Rồi tuần tới, tuần tới nữa. Nhưng
mỗi khi hết giờ thì em phải về.
Dibs òa lên khóc.
– Dibs không về nhà – em khóc nức nở – Dibs ở lại.
– Cô biết là em muốn ở lại. Nhưng bữa nay thời giờ của chúng
ta hết rồi và em phải về. Bây giờ em để cô mặc áo cho em nhé.
Dibs rời khỏi góc để giá vẽ nơi em bám víu. Hai tay buông
thõng xuống hai bên. Em ra vẽ hoàn toàn thất vọng. Tôi mặc áo khoác cho em.
– Đôi khi không dễ gì làm những điều mình phải làm – tôi giải
thích cho em – nhưng có điều phải làm. Em ngồi xuống đây, cô mang giày cho.
Tôi chờ đợi trong lúc em suy nghĩ về những điều tôi vừa nói.
Vừa rên rỉ, em vừa ngồi xuống chiếc ghế nhỏ. Tôi mang giày, rồi mang ủng cho
em. Nước mắt em lăn trên gò má.
– Lúc này em đang khổ sở. Cô hiểu em đang cảm nghĩ gì, Dibs ạ.
Nhưng đôi lúc có những điều ta phải làm, ngay khi chúng ta chẳng muốn làm chút
nào cả.”
Em vụng về lau khuôn mặt lem nước mắt. Ôm em trong vòng tay,
an ủi em, kéo dài thời giờ, công khai biểu lộ yêu thương và thiện cảm với em là
việc dễ. Nhưng tạo thêm những vấn đề tình cảm cho cuộc đời đứa trẻ này liệu có
giá trị gì không? Em vẫn phải về nhà dù em có cảm thấy thế nào chăng nữa. Cố
tránh nhìn thẳng vào thực tế này chẳng lợi gì cho em. Em cần phát huy năng lực
để đối phó với thế giới của em, nhưng năng lực này phải xuất phát từ nội tâm và
em phải tự mình có khả năng đối phó với thế giới của mình, như nó hiện có. Bất
kỳ sự thay đổi có ý nghĩa nào đối với Dibs cũng phải xuất phát từ nội tâm.
Chúng ta không có hy vọng gì thay đổi được thế giới bên ngoài của em.
Sau cùng, em mặc đồ vào để ra về. Em cầm tay tôi và cùng đi dọc
hành lang tới phòng đợi. Mẹ em đứng đó chờ em, rất giống Dibs – ở điểm bất ổn,
khổ sở, không an tâm về chính mình và về hoàn cảnh. Thoạt nhìn thấy mẹ, em lăn
ra sàn úp mặt xuống, chân giẫy, miệng la, chống đối. Tôi từ giã em, nói với mẹ
em là sẽ gặp em vào tuần tới rồi bỏ đi. Có sự lộn xộn trong phòng đợi khi mẹ em
bắt em ra về. Bà bối rối và bực dọc vì thái độ của em.
Tôi khổ tâm trước sự thể này, nhưng không biết làm gì hơn là
bỏ mặc cho mẹ con bà tự liệu lấy. Tôi thấy là nếu tôi đứng lại và chứng kiến hoặc
can thiệp thì chỉ làm cho hoàn cảnh thêm rắc rối. Tôi không muốn ra vẻ như bênh
hoặc chống đối Dibs hay bà mẹ em. Tôi không muốn làm điều gì ngụ ý là phê bình
tác phong của họ hoặc giả là ủng hộ hay phản đối người mẹ hay đứa con. Như vậy
hay nhất là nên bỏ đi mà không dính líu gì cả.
CHƯƠNG 5
Tuần sau Dibs trở lại Trung Tâm. Em rất hăm hở chờ buổi hẹn.
Tôi đang ở trong phòng thì cô tiếp viên nhận máy, báo cho biết Dibs đã đến. Tôi
đi xuống phòng khách ngay. Dibs đứng đó ngay bên trong cửa ra vào! Mẹ em đã đưa
em đến phòng tiếp nhận, nói vắn tắt với cô tiếp viên, rồi đi liền.
“Chào em Dibs” – Tôi vừa chào vừa lại gần em. Em không đáp.
Em đứng đó, mắt nhìn xuống.
“Chúng ta trở lại phòng đi nào” – tôi vừa nói vừa đưa tay ra.
Em nắm tay tôi và đi dọc hành lang đến phòng đồ chơi. Tôi đứng né sang một bên
để Dibs vào trước. Em bắt đầu bước vào phòng, nhưng đột nhiên quay lại nắm lấy
cánh cửa. Có một tấm bảng xoay hai mặt treo trên cửa. Dibs kiểng chân gỡ tấm bảng
khỏi móc.
“Đừng làm rộn” – em đọc. Em lật tấm bảng lại và nhìn những chữ
trên mặt kia. “Đồ chơi” – em đọc. Em gõ ngón tay trên chữ thứ hai nhiều lần. Đối
với em đây là một từ mới. Trị liệu. Em cẩn thận xem xét. “Trị liệu”.
– Đọc là trị liệu – tôi nói, chỉ cho em cách phát âm đúng.
– Phòng đồ chơi trị liệu?
– Phải – tôi đáp.
– Phòng đô chơi trị liệu – em nhắc lại- Cô bỏ nón áo của cô
ra.
Tôi nhìn em. Tôi biết em nói về chính em nhưng lại dùng đại
danh từ ngôi thứ hai. Ít khi nghe Dibs dùng chữ “Em” để chỉ về mình.
– Vâng. Nhưng cô không đội nón, không mặc áo khoác? Dibs nhìn
tôi.
– Cô bỏ nón và áo của cô ra – em vừa nói vừa kéo áo của em.
– Em muốn cô giúp em bỏ nón, bỏ áo của em ra có phải không?
Tôi hy vọng là em chú ý đến đại danh từ Em, nhưng đây là vấn
đề gây rắc rối và lúng túng.
– Đúng a.
– Để cô giúp em.
Và tôi làm việc này, lần này được em góp phần nhiều hơn. Tôi
đưa nón và áo cho em sau khi đã gỡ ra.
Em đưa mắt nhìn tôi, đỡ lấy nón áo, đi ra phía cửa. “Cô treo
lên đây” – em nói – mang áo nón lên nắm đóng cửa.
– Tuần trước cô mang lên đó. Hôm nay em mang lấy.
– Vâng.
Em ngồi lên bờ thùng cát và lại xếp những tên lính chì từng
đôi thành hàng dài. Rồi em lại đến ngôi nhà búp bê và sắp xếp lại đồ đạc. “Cửa
ra vào đâu? Cửa ra vào đâu?” – Em hỏi và chỉ tay vào mặt tiền căn nhà trống cửa.
– Cô nghĩ là cửa để trong tủ đằng kia.
Dibs đi ra tủ và lấy tấm liếp mặt tiền căn nhà búp bê. Khi em
đi vòng quanh căn nhà búp bê, em lỡ va tấm liếp vào căn nhà và một trong những
tấm vách long ra. Em gắn bức vách lại, cố lắp đúng mộng. Rồi em ráng lắp tấm liếp
mặt tiền trên đó có vẽ một cửa ra vào và những chiếc cửa sổ. Công việc khó khăn
lắm và em đã cố gắng nhiều lần và mỗi lần em thất bại không gắn được, em rên rỉ.
– Khóa lại- em lẩm bẩm – Khóa lại.
– Em muốn khóa căn nhà lại ư?
– Khóa lại – em đáp
Em lại thử làm lại. Lần này em thành công.
– Được rồi – em tuyên bố – Khóa chặt.
– Thấy rồi. Em khóa được rồi – tôi nói.
Dibs nhìn tôi. Em thoáng mỉm cười. “Em làm được” – em ngập ngừng
nói.
– Em làm được thật. Mà lại làm một mình.
Em cười rõ hơn và có vẻ rất mãn nguyện.
Em đi vòng quanh căn nhà búp bê và đóng hết cửa sổ lại.
– Đóng hết – em nói – Khóa hết, đóng hết. Đóng hết, khóa lại.
– Đóng, đóng hết rồi – tôi nói.
Em quì xuống chõng tay nhìn vào phía dưới của căn nhà. Có hai
cửa ra vào lắp bản lề ở phần này của căn nhà. Em mở ra. “Đây nè” – em nói. “Đây
là hầm nhà, lấy những cái này ra. Tường, tường nữa và vách ngăn”.
– Gắn thêm cái núm nữa – em nói.
Em đứng dậy, lấy cây viết chì và vẽ rất kỹ một cái núm cửa
trên cửa nhà búp bê.
– Em nghĩ là phải có cái núm cửa căn nhà búp bê à?
– Đúng thế – em lẩm bẩm. Em vẽ một cái khóa trên cửa – Bây giờ
có cả cái khóa nữa.
– Cái khóa khóa chặt bằng chìa khóa. Và những bức tường cao
và chắc. Và cái cửa. Cái cửa khóa.
– Cô thấy rồi.
Căn nhà lung lay đôi chút khi Dibs mó vô. Em xem lại. Em tháo
một bức vách ra và kê thử dưới một góc nhà để cho nó vững chắc. Sau khi ráng kê
tấm vách dưới hai góc, em đẩy tấm đó sang góc thứ ba, thế là căn nhà hết lung
lay.
“Đó” – em nói- “Không lung lay nữa. Bây giờ hết lúc lắc, hết
lung lay”.
Nó nâng cái phần mái có gắn bản lề và lấy ra một số đồ đạc. Tấm
vách tuột khỏi vị trí, căn nhà lại bắt đầu lung lay. Dibs lùi lại và nhìn căn
nhà.
– Cô A, lắp bánh xe vô thì nó không lung lay, lúc lắc nữa.
– Em nghĩ như thế là giải quyết được vấn đề ư?
– Có chứ. Giải quyết được chứ.
Rõ ràng là Dibs có nhiều từ trong số ngữ vựng em không dùng đến.
Em có thể quan sát và xác định các vấn đề. Em có thể giải quyết những vấn đề
này. Tại sao em lại vẽ chiếc khóa trên cửa nhà búp bê? Những cửa khóa hẳn đã
đóng một vai trò lớn trong cuộc đời em,và chắc chắn là in dấu ấn trên đời em.
Em đi tới chỗ thùng cát và leo vào trong. Em nhặt lên mấy tên
lính chì rải rác trong cát. Em xem lại từng tên lính khi nhặt chúng lên.
– Dibs được mấy tên lính giống như thế này hồi lễ Noel – em
nói và chìa cho tôi thấy.
– Hồi Noel em được mấy tên lính như thế này à? – Tôi hỏi lại.
– Vâng.Giống hệt những tên này. À, không giống hẳn. Nhưng
cùng loại. Chúng cầm súng trong tay. Súng ở đúng chỗ này. Chúng bắn. Súng, súng
thật, bắn. Tên này mang súng trên vai. Tên này cầm trong thế bắn. Xem này. Bốn
tên này giống nhau quá. Và đây thêm bốn tên nữa. Đây là ba tên chĩa mũi súng
theo hướng kia. Và đây là một tên như thế này. Bốn với bốn là tám. Cộng thêm ba
và thêm một nữa là mười hai.
– Phải rồi – tôi nói, nhìn theo cách em tập họp lính- Em biết
cộng những nhóm lính này và được đáp số đúng.
– Vâng ạ – Dibs nói. Rồi ngập ngừng em nói thêm- Em…em…em biết.
– Phải rồi, em biết, Dibs ạ – tôi nói.
– Hai người này cầm cờ – em nói và chỉ vào hai hình khác. Em
xếp chúng thành hàng dài bên cạnh thùng cát – Tất cả đều có súng. Chúng đang bắn
súng. Nhưng lưng chúng quay về phía này.
– Em có ý nói là tất cả chúng đều bắn theo cùng một hướng à?
– Tôi hỏi, chỉ tay bâng quơ về phía những người lính.
Dibs nhìn tôi, em nhìn xuống những tên lính. Em cúi đầu.
– Chúng không bắn cô đâu – em nói giọng cộc cằn.
– Cô biết. Chúng không bắn cô.
– Đúng vậy.
Em chọn ba tên lính, và xếp chúng thành hàng. Cẩn thận em ấn
sâu từng tên xuống cát. Tên lính thứ ba không lún đủ sâu nên em không mãn nguyện.
Em kéo tên này và nhận thật sâu xuống, vốc một vốc cát rắc lên trên những tên
lính bị chôn vùi.
– Nó mất rồi! – Dibs tuyên bố.
– Em thủ tiêu nó phải không?
– Đúng. Em xúc cát vào một cái xô và đổ xô cát lên trên những
tên lính bị chôn vùi.
Tiếng chuông của ngôi thánh đường bên kia bãi đậu xe bắt đầu
vang lên, rồi điểm giờ. Dibs ngừng chơi.
– Nghe, nghe – em nói – Một, hai, ba, bốn. Bốn giờ rồi.
– Đúng bốn giờ rồi. Sắp đến giờ em về rồi.
Em không thèm biết đến lời nhắc nhở của tôi. Em bước ra khỏi
thùng cát và chạy vội ra chỗ bàn. Em nhìn vào những bình đựng sơn.
– Cái này là cái gì?
– Đây là sơn bôi bằng tay.
– Sơn bôi bằng ngón tay. Bôi thế nào?
Tôi chỉ cho em cách dùng sơn bôi bằng ngón tay. “Trước hết,
thấm nước tờ giấy. Rồi quệt một ít sơn lên tờ giấy đó. Rồi trải sơn ra bằng
ngón tay hoặc bàn tay. Như thế này này.Và theo ý thích của em, Dibs”.
Em lắng nghe. Em theo dõi sự chỉ dẫn ngắn ngủi của tôi.
Em rón rén nhúng ngọn tay vào sơn đỏ. “ Rải ra cùng hết” – em
nói. Nhưng em không thích mó vào sơn. Em xoay tay tròn, trên tờ giấy ấm. Em cầm
lấy một que gỗ dẹp, nhúng vào sơn, bôi tròn trên giấy.
– Em nghĩ đây là sơn bôi bằng ngón tay. Vâng. Cô nói là sơn
bôi bằng ngón tay. Bôi khắp nơi bằng ngón tay – Em lại nhúng ngón tay vào sơn –
Ồ, lau đi.
Tôi đưa cho em chiếc khăn bằng giấy. Em lau sạch sơn.
– Em không thích sơn dính vô tay à?
– Sơn nhớp nhúa. Nhớp nhúa, lem luốc.
– Trải nó ra – em nói – Lấy sơn đỏ, Dibs, và trải ra. Lấy
trên một ngón tay, hai ngón tay, ba ngón tay. Trước hết là đỏ. Rồi đến vàng. Rồi
đến xanh da trời. Để theo thứ tự.
– Dường như em muốn thử phải không?
– Đây là tất cả những nhãn hiệu chỉ nó là màu gì – Dibs nói.
Em ngước nhìn tôi và chỉ những cái nhãn trên các hủ.
– Phải. Đó là những lời chỉ dẫn.
– Ồ, những cây viết chì này lại khác – Dibs nói- Xí nghiệp
bút chì Mỹ sản xuất những cái này. Và đây là sơn bôi bằng ngón tay hiêu Shaw.
Những màu nước là của hãng Prang.
– Phải.
Em nhúng đầu các ngón tay vào sơn vàng rồi thong thả và cố
tình bôi lên mỗi ngón tay. Rồi em lại lau đi bằng giấy lau. Sau đó em nhúng các
ngón tay vào sơn màu xanh da trời. Em đặt bàn tay lên giấy rôi nghiêng ra phía
trước rất chăm chú vào công việc đang làm. Em bôi sơn cẩn thận lên mỗi ngón
tay.
– Đó – em hớn hở nói, xòe tay ra. – Nhìn xem.
– Lần này thì em làm được phải không?
– Cô nhìn xem. Ngón tay nào cũng dính đầy sơn màu xanh da trời.
Ngón tay nào cũng xanh da trời. Bây giờ chúng xanh lá cây – em nói trong lúc đổi
màu – Trước hết, em tô đỏ. Rồi tô vàng. Rồi tô xanh da trời. Rồi xanh lá cây. Rồi
nâu. Em tô mỗi ngón tay! Em chùi đi. Chùi sạch mỗi màu và tô màu khác. Như vậy
là sơn ngón tay! Ô, lạ thật, Dibs. Một thứ sơn kỳ cục! Ra đi!
Em lau sạch sơn ở các ngón tay và ném giấy lau vào sọt rác.
Em lắc đầu bực bội.
– Sơn ngón tay. Em chẳng thấy thú vị gì. Để em vẽ một bức
tranh.
– Em nghĩ là em thích vẽ tranh hơn à?
– Vâng. Bằng màu nước.
– Chỉ có năm phút thôi. Em có nghĩ rằng em sẽ xong một bức
tranh trong năm phút không?
– Dibs sẽ vẽ- Em lấy hộp màu- Nước đâu?
Tôi trỏ la-va-bô. Em hứng nước đầy dĩa vẽ.
– Em sẽ đủ thời giờ vẽ bức tranh này. Rồi sẽ đến giờ về.
Đây là câu nói liều lĩnh. Em có thể sẽ kéo dài thời giờ vẽ bức
tranh theo ý em, vì giới hạn thời giờ trở thành co giãn với câu nói của tôi. Bởi
vì tôi định “năm phút nữa”, tôi nên giữ đúng giới hạn này, chứ đừng làm cho
hoàn cảnh thêm phức tạp với một yếu tố khác nữa.
Nhưng Dibs không đếm xỉa tới lời nói của tôi. “Màu cháy” – em
nói. Em thấm nó bằng giấy lau. Nó sẽ khô. Sẽ có bức tranh. Dùng những nét vẽ
nhanh và khéo léo, em bắt đầu bằng màu đỏ, em quệt trên giấy những vệt lúc đầu
như những đốm màu có hình thù khác nhau, để rải rác trên mặt giấy, thêm vào mỗi
màu những âm sắc liên tục như trên những bánh xe màu sắc. Khi em thêm màu, bức
tranh nổi lên. Khi em vẽ xong, em có bức tranh có nhà, có cây, có bầu trời, có
cỏ, có hoa, có mặt trời. Mọi màu đều được dùng đến. Trên bức tranh hoàn thành
có những liên hệ, hình thái và ý nghĩa.
“Đây này…Đây này…” – Em nói lắp bắp và lần mò cây cọ, đầu gục
xuống, bỗng ra vẻ vô cùng bẽn lẽn.
– Đây là nhà của cô A – em nói – Cô A, em tặng cô cái nhà
này.
– Em muốn cho cô cái nhà này à? – Tôi vừa nói vừa chỉ bức
tranh. Em gật đầu.
Mục đích của sự phản ứng này thay vì ngõ lời cám ơn và khen
ngợi, là giữ cho sự thông cảm được mở rộng và trì hoãn sự tiến triển của quan hệ
giữa chúng tôi, nếu em muốn, em có thể nói thêm về những suy nghĩ và tình cảm của
em, chứ không bị đột ngột ngăn chận bởi sự đáp ứng và sự nhập cuộc của tôi.
Dibs cầm cây viết chì lên và tỉ mỉ vẽ chiếc khóa trên cửa. Em
vẽ một bình hoa trên thành cửa sổ này. Đây là bức tranh ngộ nghĩnh về nghệ thuật
sáng tạo và được thực hiện một cách rất độc đáo.
Em nhìn tôi. Đôi mắt xanh sáng ngời. Vẻ mặt tỏ ra buồn bã và em
ngại. Em chỉ tay vào cửa ra vào trên bức tranh “Có khóa trên ấy” – em nói
–“Khóa chặt bằng chìa khóa!” Có hầm tối”.
Tôi nhìn bức họa rồi nhìn em. “Cô thấy rồi. Ngôi nhà này cũng
có khóa và hầm tối”.
Em nhìn ngôi nhà trừng trừng. Em sờ khóa trên cửa. Em nhìn
tôi.
“Ngôi nhà này cho cô” – em nói. Em soắn ngón tay vào nhau. –
“Căn nhà bây giờ của cô” – em nói thêm. Em hít thở thật sâu. Rồi với sự cố gắng
lắm em nói: “Nhà này cũng có phòng đồ chơi”. Em chỉ tay vào khung cửa sổ vàng
tươi và những bông hoa đỏ trong một chậu để ở cửa sổ.
– Ồ, phải rồi, cô thấy rồi. Đây là cửa sổ phòng đồ chơi, có
phải không?
Dibs gật đầu. “Đúng rồi”. Em bước ra chỗ la-va-bô đổ nước pha
thuốc màu. Em mở vòi nước hết cỡ. Chuông nhà thờ bắt đầu vang lên lần nữa.
– Nghe cô nói đây, Dibs. Tới giờ rồi. Em có nghe chuông đánh
không?
Dibs không đếm xỉa tới lời nhắc nhở của tôi. “Màu nâu làm nước
màu nâu. Màu thuốc vẽ vàng cam làm nước cam”- em nói.
“Phải, đúng rồi” – tôi đáp. Tôi biết em có nghe lời tôi nhắc
về thời giờ. Tôi không có ý định hành động như là tôi cho rằng em không nghe
tôi nói.
– Đây là nước nóng. Nóng và nước L-Ạ-N-H, lanh, nóng, lạnh. Mở.
Tắt. Mở. Tắt.
– Em thấy nước nóng lạnh ngộ lắm à?
– Dạ phải.
– Nhưng cô nói với em như thế nào về thời giờ, Dibs?
Em xoăn hai tay lại với nhau và quay về phía tôi, trông thật
khốn khổ. “Cô A biểu vẽ hình nhà rồi cô bỏ đi” – em nói, giọng khàn khàn. Tôi
thấy ngôn ngữ của em trở thành lúng túng. Đây là một đứa trẻ rất có khả năng
trí tuệ nhưng tài năng bị sự rối loạn tình cảm chi phối.
– Cô nói thế đó, Dibs – tôi bình tĩnh đáp – Em vẽ xong tranh
rồi và bây giờ thì về.
– Em cần thêm có ở đây và vài bông hoa – em đột ngột nói.
– Không còn thời giờ để làm việc này đâu. Bữa nay hết giờ rồi.
Dibs ra chỗ có căn nhà búp bê.
– Em phải sửa nhà. Em phải đóng cửa lại.
– Em có thể nghĩ ra nhiều việc để làm để khỏi phải về, có phải
không? Nhưng bây giờ hết giờ rồi Dibs, và em phải về nhà?
– Không. Đợi đã. Đợi đã- Dibs la to.
– Cô biết em không muốn về, Dibs. Nhưng bữa nay hết giờ rồi.
– Không về đâu – em khóc nức nở- Không về đâu. Không bao giờ!
– Em thấy khổ sở khi cô nói em phải về, phải không, Dibs!
Nhưng tuần tới em lại đến. Thứ năm tuần tới.
Tôi lấy nón, áo, và đôi ủng. Dibs ngồi xuống chiếc ghế nhỏ gần
bàn. Em nhìn tôi nước mắt rưng rưng, khi tôi đội nón cho em. Bỗng em tươi lên.
– Thứ sáu? Thứ sáu em lại hả?
– Thứ năm tuần tới em trở lại. Bởi vì thứ năm là ngày em đến
phòng chơi.
Dibs đột ngột đứng lên.
– Không! – Em la lớn – Dibs không ra khỏi đây, Dibs không về
nhà. Không bao giờ về!
– Cô biết em không muốn về, Dibs. Nhưng cô và em mỗi tuần chỉ
có một giờ với nhau ở phòng chơi này thôi. Và khi hết giờ thì dù em cảm thấy thế
nào, cô cảm thấy thế nào, hay ai đó cảm thấy thế nào chăng nữa, thì hết giờ cả
hai cô cháu mình đều phải ra khỏi phòng này. Bây giờ tới giờ chúng ta ra về. Thực
ra hơi trễ rồi.
– Không thể vẽ thêm bức tranh nữa à? -Dibs hỏi tôi, nước mắt
chảy ròng ròng.
– Hôm nay không được.
– Vẽ tranh cho cô được không? Một bức tranh nữa cho cô, em vẽ
cho cô nhé?
– Không. Bữa nay hết giờ rồi.
Em đứng trước mặt tôi. Tôi đưa áo cho em.
– Lẹ lên, Dibs. Xỏ tay vào áo đi. Nào ngồi xuống đây đi ủng
vào.
Em ngồi xuống miệng lải nhải:
– Không về đâu. Không muốn về. Không thích về.
– Cô biết em cảm thấy thế nào rồi.
Một đứa trẻ cảm thấy an lòng trước những giới hạn thực tế và
bất dịch. Tôi hy vọng giúp em Dibs phân biệt giữa những tình cảm và những hành
động của em. Tôi cũng hy vọng làm cho em hiểu rằng giờ này chỉ là một phần của
cuộc sống của em thôi, rằng nó không thể và không nên lấn lướt những liên hệ và
kinh nghiệm khác, và thời gian giữa những buổi hẹn hàng tuần cũng quan trọng.
Giá trị của bất kỳ một kinh nghiệm trị liệu thành công nào, theo ý tôi, tùy thuộc
ở sự thăng bằng giữa những gì cá nhân đưa vào những buổi trị liệu, và những gì
y lấy từ đó ra. Nếu sự trị liệu trở thành ảnh hưởng trội nhất và kiểm soát cuộc
sống hàng ngày của cá nhân, thì tôi rất hồ nghi về sự hữu hiệu của nó. Tôi muốn
Dibs cảm thấy rằng em có nhiệm vụ phải mang theo em các khả năng đang tăng trưởng
nơi em để lãnh nhận trách nhiệm về phần mình và nhờ vậy có được sự độc lập về
tâm lý.
Trong lúc tôi mang ủng cho em, tôi ngước mắt nhìn em. Em với
tay qua bàn và cầm lên cái bình bú sữa có chứa nước. Em nút bình như một đứa
con nít nhỏ.
– Được rồi – tôi nói – Đi được rồi.
– Đậy nắp hũ sơn ngón tay, cô nhé?
– Được. Rồi cô đậy.
– Rửa cọ nhé?
– Được.
Dibs thở dài. Xem như em đã hết đường xoay trở.
Em đứng lên và đi ra cửa. Vừa ra khỏi cửa, em đột ngột đứng lại,
kiểng chân và lật tấm bảng trên cửa, từ “Đừng làm rộn” sang “Phòng đồ chơi trị
liệu”. Em vuốt vào cánh cửa. “Phòng chơi của chúng ta” – em nói. Em đi theo dãy
hành lang đến phòng tiếp nhận và ra về không cự nự, làm bà mẹ ngạc nhiên.
CHƯƠNG 6
Thứ năm sau, lúc Dibs vào phòng chơi, em đi đến chiếc bàn và
nhìn những hũ sơn ngón tay. Em nhặt từng hũ lên, xem lại nắp, xếp sắp lại trong
một chiếc hộp dài và dẹp. “Nắp vẫn đóng” – em nhận xét.
– Phải. Cô nhớ đóng nắp mà.
– À ra vậy.
Em cầm chai bú sữa lên. “Em muốn nút chai” – em nói. Em đứng
đó, nút núm vú, nhìn tôi. Rồi em để chai lên bàn.
“Cởi áo ra” – tôi bảo. Em cởi khuy áo khoác, tự bỏ áo ra mà
không cần giúp đỡ, treo áo lên cửa. Em lột nón để lên ghế gần cửa ra vào.
Em lại chỗ căn nhà búp bê và mở tung tất cả cửa sổ ra, “Coi
nè” – em nói – “Tất cả cửa sổ đều mở. Bây giờ em sẽ đóng hết lại”. Em nâng liếp
mặt tiền căn nhà lên, bỗng đổi ý, buông nó rơi xuống sàn, và trở lại bàn nhặt
chai bú sữa lên.
– Em nút chai – em tuyên bố.
– Em thích nút chai lắm à? – Tôi hỏi – cốt là mở đường cảm
thông hơn là đem lại điều gì mới lạ cho câu chuyện.
– Dạ, phải.
Em yên lặng nút chai một lúc lâu, em vừa nút vừa nhìn tôi. Rồi
em để chai xuống, ra chỗ tủ đựng chén dĩa, mở cửa, nhìn vào bên trong.
Em lấy một hộp trống chứa đựng ít khỏi gỗ nhỏ. “Những khối đếm
vuông để vừa hộp này”- em nói. Em xếp ít khối vỏ hộp. “Thấy không?” – em nói-
“Đây là lời chỉ dẫn” Em chỉ tên vào tên trên nắp hộp.
“Phải, cô biết” –tôi đáp. Tôi chú ý tới cách Dibs diễn tả, khả
năng đọc, đếm, giải quyết vấn đề của em. Tôi nhìn thấy hình như bất kỳ lúc nào
em gặp một vấn đề gâ xúc động là em lại quay về với việc biểu diễn khả năng đọc
của em. Có lẽ em cảm thấy được an toàn hơn khi điều hành những quan điểm có
tính trí tuệ của sự vật, hơn là đi sâu vào những tình cảm về chính mình mà em
không dễ dàng chấp nhận. Có lẽ đây là một ít bằng chứng về sự mâu thuẫn giữa những
gì người khác đợi về tác phong của em và sự nỗ lực riêng tư để được là mình –
đôi khi rất tài, đôi khi rất ấu trĩ. Nhiều lần trong phòng chơi em đã sử dụng
thủ thuật này. Có lẽ em cảm thấy rằng những khả năng trí tuệ của em chỉ là một
phần của con người em, được người khác đánh giá cao mà thôi. Bởi thế, cho nên
em đã dụng công giấu giếm những khả năng này ở trường và ở nhà. Có phải vì trước
hết em khao khát được làm người theo quyền hạn của mình không? Làm sao một đứa
trẻ lại có thể giấu kín đến thế cái bướng bỉnh bên ngoài? Em đã đạt được những
biệt tài này như thế nào? Em có thể được giỏi hơn lứa tuổi của em nhiều. Em đã
có thể đạt được thành tích này mà không cho thấy bằng chứng về khả năng ngôn ngữ
nói và ý nghĩa thế nào? Sự tinh tế và nghị lực của đứa trẻ này không lường được.
Em đã có thể giấu cái khả năng này với gia đình như thế nào? Nếu quả tình em đã
giấu.
Thật là thú vị nếu có thể lấp đầy những khe hở trong sự hiểu
biết về đứa trẻ này, nhưng chúng tôi đã thỏa thuận, mẹ em và tôi, là không có sự
thăm dò nào hết. Tôi chỉ có thể hy vọng là một ngày nào đó bà cảm thấy an toàn
hơn để trao đổi với tôi điều bà biết về sự phát triển của Dibs. Ngoài ra, hiển
nhiên là sự thành công về trí tuệ mà không có sự trưởng thành về tình cảm và xã
hội thì chưa đủ. Và đấy có phải là lý do mà gia đình Dibs bất mãn về em không?
Hay là cha mẹ em cảm thấy bất ổn và sợ hãi em vì bà không hiểu nổi em.
Chắc chắn có nhiều lý do rất phức tạp khiến liên hệ của Dibs
và gia đình tồi tệ đến thế. Điều có ích cho tôi là biết cách trả lời một số câu
hỏi mà tôi đặt ra trong trí khi chứng kiến Dibs đi từ ấu trĩ đến sự biểu lộ trí
tuệ chính xác và hầu như không kiềm hãm được.
Dibs ngồi trên ghế, bú bình một cách mãn nguyện, thư thái, trố
mắt nhìn tôi. Tôi tự hỏi không biết còn những câu hỏi nào chưa được giải đáp
đang nằm trong óc em. Em đột ngột ngồi thẳng lên, lột núm vú, uống chia.
Em trỏ tay chỉ hai núm sắt gắn trên tường.
– Chuông cửa – em nói
– Phải, chuông cửa – tôi đáp.
Em nhặt núm vú lên, nhay nhay và nút, trố mắt nhìn tôi. Sau
đó, em mon men xích lại bên chân tôi. Tôi đi giày cao su đỏ. Bữa nay, Dibs
không đi ủng. Em đưa ngón tay chỉ tôi.
– Bỏ giày cao su của em ra – em nói.
– Em nghĩ tôi nên bỏ giày cao su ra sao?
– Vâng, luôn luôn. Trong nhà.
Tôi cúi xuống tháo giày và để vào góc.
– Được chưa? –Tôi hỏi em.
– Khá hơn – Em đáp.
Em ráng gắn núm vú vào chai nhưng không gắn được. Em đem lại
cho tôi. “Em không làm được” – em nói- “Giúp em đi”.
“Được, để cô giúp” – tôi nói và gắn núm vú vào chai cho em.
Em cầm lấy chai, tháo núm vú ra ngay và đổ nước xuống la-va-bô. Em quay lại đưa
chai trống cho tôi xem.
– Chai trống – em nói.
– Đúng, em đổ nước ra rồi.
Dibs đứng cạnh la-va-bo, ôm chặt chiếc chai trống vào người
đăm đăm nhìn tôi một hồi lâu. Tôi nhìn em, đợi em bắt đầu hoạt động hay trò
chuyện, tùy em.
– Em đang nghĩ – em nói.
– Nghĩ à? – tôi hỏi lại.
– Vâng. Em đang suy nghĩ.
Tôi không ép em phải nói cho tôi biết em đang nghĩ gì. Tôi muốn
em không phải chỉ qua một sự luyện tập hỏi và trả lời. Tôi muốn em cảm thấy và
có kinh nghiệm về toàn thể bản ngã của em trong mối liên hệ giữa chúng tôi và
không gò bó nó vào bất kỳ một thể loại tác phong nào. Tôi muốn em nhận thức rằng
em là một người gồm nhiều phần, với những chìm nổi trong em, với những yêu
ghét, những sự sợ hãi và can đảm, những khát khao ấu trĩ và những sở thích chín
chắn hơn. Tôi muốn em, qua kinh nghiệm, học được trách nhiệm có sáng kiến sử dụng
khả năng của mình trong liên hệ với người khác. Tôi không muốn, bằng lời khen
ngợi, gợi ý và tra hỏi, điều khiển năng lực đó vào một đường kênh duy nhất. Tôi
có thể hoàn toàn không thấy cái phần chính yếu của toàn thể nhân phẩm đứa trẻ
này nếu tôi vội vàng kết luận sớm quá. Tôi chờ đợi trong khi Dibs đứng đó nghĩ
ngợi. Một nét mỉm cười thấp thoáng nở trên môi em.
– Em sẽ sơn ngón tay, chơi trong cát và làm tiệc trà – em
nói.
– Em đang làm kế hoạch cho những điều mà em tính làm bữa nay
đấy à?
– Đúng đấy – em đáp. Lúc này em mỉm cười cởi mở hơn – Thường
thường là cô nói đúng.
– Chà, thế thì tốt quá.
Em cười thành tiếng. Tiếng cười ngắn, nhưng đó là tiếng cười
đầu tiên tôi nghe thấy nơi em. Em lấy bộ đồ trà từ kệ xuống. “Em sẽ chuẩn bị sẵn
sàng mọi thứ” – em tuyên bố.
– Em làm tiệc trà trước à?
– Vâng, em nghĩ như vậy.
Em đổ nước đầy chai bú sữa, nhay núm vú mà em chưa gắn vào
chai, mở vòi nước chảy hết cỡ, và đóng cánh cửa tủ trong đó gắn la-va-bô. Em
nhìn tôi, có ý chờ xem tôi phản ứng ra sao. Tôi không nói gì cả. Em đi ngang
qua phòng, tựa khuỷu tay lên thành cửa sổ, một tay cầm chai, miệng nhai đầu vú,
nhìn tôi trừng trừng. Rồi em cười, chạy qua phòng tới chỗ gắn la-va-bô có cửa
đóng, mở cửa ra, vặn vòi lại. Em đổ chai bú sữa ra, rồi lại đổ đầy nước. Em
nhay và mút núm vú. Rồi em mở cửa tủ để chén dĩa và nhìn lên những ngăn để đổ
tiếp liệu…
Chuông đồng hồ đánh bốn giờ, nhưng dường như em không biết tới.
Em lại chỗ để cát leo vào trong thùng. Em chơi với những chiếc máy bay và những
tên lính. Em thở dài.
– Vào trong nhà bao giờ cũng phải cởi giày ra- em nói – Kéo,
đây, lôi, tụt ra. Khó làm quá. Nhưng hôm nay lại để ghét vì trong này lạnh quá.
– Hình như có những đồ vật phải cởi ra bất kỳ khi nào chúng
ta vào trong nhà và một số đồ chúng ta có thể để yên – tôi giảng giải.
– Đúng vậy – Dibs nói – Làm người ta lẫn lộn.
– Có chút lộn xộn – Tôi nhận xét.
– Rất lộn xộn – Dibs nhắc lại. Em gật đầu nhấn mạnh.
Có một căn nhà búp bê một phòng trong thùng cát. Có một thành
cửa chớp bị long. Dibs lặng lẽ gắn lại và gắn được. Em lấy từ một hộp bằng
các-tông đầy những con vật nuôi ở nông trại với những đế gỗ.
– Cô A sẽ giúp Dibs gắn – Em quay lại tôi và hỏi – Cô A, cô
có giúp em gắn không?
– Em nghĩ gì nào?
– Cô tiếp tay em.
Em tiếp tục việc làm và gắn được những con thú vào đế gỗ mà
không cần sự giúp đỡ. Em cất tiếng hát trong khi làm việc. Em để ngôi nhà nhỏ ở
giữa thùng cát và xếp những con vật chung quanh rải rác nhiều chỗ. Em có vẻ
chăm chú với công việc. “Những con mèo sống trong căn nhà này.” – em nói – “Người
chiến sĩ có một con mèo, con mèo thật. Và đây là con vịt. Con vịt không có ao
bơi và con vịt muốn có cái ao. Cô coi. Có hai con vịt. Đây là con vịt lớn, nó
can đảm. Đây là con vịt nhỏ, nhưng không can đảm như vậy. Con vịt lớn có thể có
cái ao riêng và nó không muốn có ao riêng. Bây giờ hai con vịt này đã gặp nhau
và chúng đang đứng ở đây với nhau và chúng cùng nhìn xem chiếc xe vận tải chạy
bên ngoài cửa sổ.
Ngôn ngữ của em trôi chảy lưu loát. Tôi lắng nghe. Tôi để ý
thấy là đang khi em thao thao nói một chiếc xe vận tải lớn chạy vào đậu ngay
bên cửa sổ phòng chơi.
– Như vậy là con vịt con muốn có cái ao an toàn riêng của nó,
có lẽ giống như cái ao mà nó nghĩ là con vịt lớn có phải không? – Tôi dò hỏi.
– Đúng vậy. Cùng với nhau, chúng xem cái xe vận tải lái vào.
Xe vận tải đậu, người lái xe đi vào trong tòa nhà, ông chất hàng lên xe, và khi
đầy rồi lại lái đi.
– Cô thấy rồi.
Dibs lấy ra chiếc xe vận tải đồ chơi và làm những việc em vừa
kể cho tôi nghe. Em yên lặng một hầu lâu.
– Còn năm phút nữa Dibs – tôi nói.
Dibs không chú ý tới lời nói của tôi.
– Cô nói là còn năm phút nữa – tôi nhắc.
– Vâng – Dibs uể oải nói – Em nghe cô nói.
– Em nghe cô nói còn năm phút nữa, nhưng em không làm ra vẻ
là mình nghe thấy phải không?
– Đúng ạ. Rồi em lại nghe thấy.
– Phải. Khi cô nhắc lại em mới nghe – Tôi nhận xét.
Tôi ráng chuẩn bị để buổi sinh hoạt đừng đột ngột chấm dứt
không báo trước.
“Điều này sẽ xảy ra trong năm phút còn lại” – Dibs nói. Em vạch
một đường đi trên cát dẫn tới ngôi nhà rồi vòng quanh nó. “Nó phát ra tiếng động
ngồ ngộ khi nó đi qua cát” – em nói. Em nhìn tôi và cười. “Xe chở đầy. Khi nó
chạy nó để vệt lại, vệt một chiều và nó trút cát ở chỗ này.” Em vội vã bới đám
lính và chọn ra ba tên, và để chúng lên xe vận tải. Em phủ cát lên chúng. “Đây
là con đường một chiều và ba người này lên chiếc xe vận tải này và không khi
nào họ về nữa”.
– Họ đi xa và ở luôn à? – tôi hỏi.
– Đúng vậy – Dibs nói- Mãi mãi.
Em đẩy chiếc xe vận tải xuyên qua cát, sâu dưới cát, xúc cát
lên và vùi chiếc xe với ba người lính. Em ngồi đó nhìn vào đống cát em vừa đắp.
– Dibs, coi này. Còn bao nhiêu phút? – Tôi đưa ba ngón tay
lên.
Em liếc nhìn tôi. “Ba phút nữa” – em nói. Em đổ thêm cát lên
ngọn, chôn chiếc xe vận tải và ba người lính đi.
“Nào con vịt” – em dịu dàng nói – “Mày thấy sự việc xảy ra
đó. Chúng mất tiêu rồi”. Rồi em lấy con vịt con gắn trên đỉnh đống cát vùi xe,
em xoa tay sạch cát. Em bước ra khỏi thùng cát.
– Bữa nay là ngày lễ người thân (Valentin) – em đột ngột nói.
– Phải, đúng rồi.
– Để chúng lại đây, cả đêm, cả ngày. Đừng gỡ chúng xuống.
– Em muốn chúng cứ ở yên như em đã vùi à?
– Dạ phải. Em lại chỗ tôi và sờ cuốn sổ ghi chép tôi để trên
đầu gối. “Cô ghi lại trong sổ ghi chú của cô” – em nói – Dibs đến. Hôm nay thấy
cát thú vị. Dibs chơi với căn nhà và những người lính lần chót, chào cô”.
Em nhặt áo và nón của em lên và đi ra khỏi phòng chơi, đi dọc
theo dãy hành làng,vào phòng tiếp nhận. Má em giúp em mặc áo, đội nón. Em ra về
không nói gì nữa.
Tôi đi vào văn phòng của tôi, và ngồi xuống bàn làm việc. Đứa
trẻ kỳ lạ! Người ta có thể suy ra, giải đoán và có thể kết luận khá chính xác về
ý nghĩa của trò chơi tiêu biểu của em. Nhưng đối với tôi hình như chưa cần thiết,
dư thừa, và có lẽ còn giới hạn quá nếu suy đoán thành lời ở giai đoạn này – hay
cố công dò la để biết thêm tình huống.
Theo ý tôi, giá trị trị liệu của thể loại tâm lý trị liệu này
là tùy thuộc ở kinh nghiệm của chính đứa trẻ cảm thấy mình là một người có khả
năng, có trách nhiệm trong một mối liên hệ trong đó nó sẽ khám phá hai sự thật
căn bản này: là không có ai thực sự biết nhiều về thế giới nội tâm của một người
bằng chính cá nhân ấy; vì rằng họ tự do và trách nhiệm đều tăng trưởng từ nội
tâm con người.Trước hết đứa trẻ phải học được tính tự trọng và ý thức về nhân
phẩm, nảy sinh từ sự tự hiểu biết đang gia tăng của nó, trước khi nó có thể học
được cách tôn trọng nhân phẩm, quyền hạn và những khác biệt của người khác.
CHƯƠNG 7
Chiều thứ năm tuần sau khi Dibs tới Trung Tâm Hướng Dẫn Trẻ
Em, em chào tôi với một nụ cười vồn vã, em lăng xăng đi trước tôi tới phòng
chơi. Em vô phòng, đi ngay tới căn nhà búp bê.
– Khác rồi – em nói- Mọi sự đã thay đổi rồi.
– Có lẽ đã có em nào đó chơi với những đồ này.
– Vâng – Dibs đáp. Em quay phắt đi và kiểm tra thùng cát – cả
mấy con thú nữa. Không còn giống như em sắp xếp lần trước nữa.
– Có lẽ em cũng có em nào chơi đó – tôi góp ý.
– Trông hình như vậy – Dibs nói. Em đứng lại ở giữa phòng lắng
nghe – Cô có nghe tiếng máy chữ không? Có người đang đánh máy chữ. Viết thư bằng
máy chữ.
– Có, cô có nghe.
Dibs thường lấy những đồ vật làm đầu câu chuyện như lá chắn để
tự vệ khi có điều bất bình. Em bất mãn vì đồ chơi không để đúng như khi em ra về.
Em có yêu cầu là đừng có dọn đi khi em ra về lần trước, nhưng tôi đã không hứa
hẹn, không giải thích gì cả. Điều này tôi cố tình tránh bởi vì với Dibs cũng
như với những trẻ khác các em cần học hỏi qua kinh nghiệm là không có vật gì
trên thế giới là bất biến và có thể kiểm soát được. Bây giờ em đã gặp bằng chứng
cụ thể của thế giới biến đổi của em và cần phải tác động lên những phản ứng của
em trước sự kiện đó, không phải bằng sự vỗ về, không phải bằng những lời giải
thích dài dòng, nhưng sử dụng kinh nghiệm mà em có thể có, vào lúc này để gia
tăng khả năng đối phó với thế giới luôn luôn thay đổi.
Em lại chổ thùng cát, nhìn mặt cát bằng và những hình tượng nằm
ngổn ngang trong đó. “Con vịt con của em đâu?” – Em hỏi.
– Em đang băn khoăn là không biết con vịt con em đặt trên đỉnh
đống cát ra sao à?
Em quay phắt lại, nhìn thẳng mặt tôi, “phải”, em giận dữ nói.
“Con vịt con của em đâu rồi?”
“Em nói là em muốn để nó lại đó và người nào đó đã chuyển nó
đi” – tôi đáp, cố gắng tóm tắt lại hoàn cảnh, trì hoãn phản ứng của em bằng những
lời ứng đối của tôi, để em có thể nhận định chính xác hơn những tư tưởng và
tình cảm của em.
Em lại sát bên tôi và nhìn thẳng vào mắt tôi. “Đúng vậy” – em
nói giọng quyết liệt. “Sao vậy?”
– Em ngạc nhiên là tại sao cô không canh chừng để mọi vật ở
nguyên chỗ như em đã để?
– Vâng. Tại sao vậy?
– Tại sao em nghĩ là cô để điều này xảy ra?
– Em không biết. Em tức lắm. Đúng ra cô phải làm chuyện ấy!
Bây giờ tới phiên tôi đặt câu hỏi:
– Tại sao cô phải làm việc đó nhỉ? Thế cô có hứa với em là cô
sẽ làm việc ấy không?
Em nhìn xuống sàn. “Không” – em đáp, giọng em hạ thấp thì
thào.
– Nhưng em muốn cô làm việc ấy dùm em.
– Những em khác vô đây và chơi với những đồ này. Có lẽ một em
nào đó bỏ con vịt của em đi.
– Và trái núi của em. Con vịt con của em đứng trên đỉnh núi.
– Cô biết. Và bây giờ núi cát của em cũng không còn ở đây phải
không?
– Mất tiêu rồi!
– Và vì thế em giận, em thất vọng phải không?
Dibs gật đầu đồng ý. Em nhìn tôi. Tôi nhìn lại em. Những gì tối
hậu giúp ích cho Dibs nhiều nhất không phải là đống cát, không phải là con vịt
nhỏ bằng chất dẻo, mà là cảm giác an toàn và thích đáng mà chúng tượng trưng
trong sự tạo tác mà em thực hiện trong tuần qua. Bây giờ đứng trước sự biến mất
của những biểu tượng cụ thể, tôi hy vọng em có thể cảm thấy trong nội tâm lòng
tin tưởng và sự thích nghi trong khi em đối phó với sự thất vọng và khám phá ra
rằng những đồ vật bên ngoài chúng ta biến đổi. Nhiểu khi chúng ta ít có khả
năng kiểm soát những yếu tố này, nhưng nếu chúng ta học được cách sử dụng những
năng lực nội tâm của chúng ta cảm thấy an toàn.
Em ngồi trên thùng cát, lặng lẽ nhìn những hình tượng rải
rác. Rồi em bắt đầu nhặt lên những hình tượng và phân chia thành những loại giống
nhau. Em đưa tay lấy cây viết chì của tôi, dùng viết chì ấy em thọc thử vào một
cái lỗ của cái đế để thú vật. Em làm gãy đầu cây bút chì.
“Ồ, nhìn này” – em thản nhiên nói – “Đầu cây bút chì gãy”. Em
đưa cây bút chì cho tôi. Tại sao em lại làm việc này?
Tôi đỡ lấy cây bút chì. “Cô phải ra ngoài kia chuốt viết chì,
Dibs” – tôi nói – “Chỉ một phút cô sẽ quay lại, em cứ ở trong này”. Tôi để em lại.
Phòng chơi này, chúng tôi thường sử dụng như một trong những
phương tiện của công trình nghiên cứu tác phong trẻ em và cho chương trình huấn
luyện nghề nghiệp. Nó gồm có, dọc theo một bên, một tấm giống như một tấm gương
lớn. Thực ra đó là một tấm kiếng nhìn được từ một bên. Đối với người ở trong
phòng, nó được dùng làm gương. Sau tấm kiếng đó, trong một phòng tối, có một
hay nhiều quan sát viên được tuyển chọn kỹ lưỡng và huấn luyện đặc biệt, họ điều
khiển máy thu băng và ghi lại những thay đổi của hành vi theo thời gian. Về sau
những cuộn băng được chép lại và bổ sung, bao gồm luôn cả tác phong của đôi
bên, đứa trẻ và nhà trị liệu với hạn thời gian ghi chú kỹ lưỡng ở khoảng cách dọc
theo những phần báo cáo. Chúng tôi dùng tài liệu đó làm dữ kiện nghiên cứu, để
bàn luận trong những cuộc hội thảo cấp cao như là một phần của chương trình huấn
nghiệp. Tất cả những danh tính và chi tiết qua đó có thể nhận ra đương sự, được
đổi hết trước khi tài liệu này được sử dụng, nhờ vậy không ai có thể nhận ra những
người trong cuộc. Trong việc làm của chúng tôi, có sự giống nhau rất nhiều về
căn bản giữa những vấn đề thuộc tâm lý của những người liên hệ, đến nỗi, ngay cả
khi người ta có thể cảm thấy dễ nhận ra, trong thực tế, vẫn không thể làm được.
Khi tôi ra khỏi phòng để gọt bút chì, những người quan sát
sau tấm gương tiếp tục ghi chú.
Dibs cầm xẻng lên và đào cát. Em vừa đào cát vừa nói một
mình. “Được rồi, cát” – em nói – “Mày nghĩ là bây giờ mày có thể ở lại đây và
không bị làm đảo lộn nữa à? Cả những con vật và những thằng người nữa ư? Tao sẽ
chỉ cho mày thấy một vài đồ vật. Tao đào mày lên. Tao sẽ tìm thấy mày. Tao sẽ
tìm thấy cái thằng người mà tao chôn. Tao sẽ đào, đào mãi cho tới khi tao tìm
thấy”, em vội đào xuống cát. Sau cùng, em lôi lên được một tên lính. “Thế là mi
đây rồi” – em nói- “Ta bắt được mi rồi, hỡi tên lính, đứng thẳng đơ. Mi như một
thanh sắt cọc hàng rào. Ta đặt mi ở đây,chúi đầu xuống. Ta nhận mi vào cát”.
Em nhận đầu tên lính sâu vào cát cho tới khi chôn kín nó đi.
Em chà tay vào nhau phủi cát. Em mỉm cười. Em cười thành tiếng. Rồi giọng nói
em chuyển sang vui vẻ. “ Bỏ nón áo ra, Dibs. Trong này lạnh lắm”.
Tôi trở lại với cây bút chì gọt nhọn. Dibs nhìn tôi.
– Trong này lạnh lắm – em nói – Có bỏ áo em ra không?
– Phải, trong này lạnh lắm. Có lẽ bữa nay em cứ để áo thì
hơn.
– Cô vặn hơi nóng lên đi. Em đi lại chỗ lò sưởi điện và sờ
tay vào.
– Lò sưởi lạnh.
– Phải, cô biết điều đó.
– Em mở nút nhé. Em bật nút lò sưởi.
– Em có nghĩ là làm sao cho trong này ấm không?
– Có, nếu có lửa ở dưới hầm.
– Lửa ở dưới hầm?
– Trong lò. Trong lò để dưới hầm.
– Ồ, lò bữa nay hử, người ta đang sửa dưới đó.
– Hư cái gì?
– Cô không biết.
– Cô có thể tìm ra, cô biết mà – em nói, sau một hồi nghĩ ngợi.
– Cô làm sao biết được?
– Cô có thể xuống dưới hầm đứng lởn vởn quanh xem người ta
làm và nghe người ta nói.
– Đúng, điều đó cô có thể làm được.
– Tại sao cô không làm như vậy?
– Nói thiệt với em, Dibs, cô không nghĩ đến việc ấy.
– Cô có thể học được nhiều điều hay bằng cách đó.
“Cô tin chắc vậy” – tôi nói với em.Và tôi tin chắc rằng Dibs
đã học được rất nhiều điều theo thể thức đó, đứng xớ rớ, xa xa, gần chỗ có việc,
vừa đủ để xem người ta làm việc và nghe người ta nói.
– Lò sưởi đã bắt đầu hư thứ năm vừa rồi.
– Có thể là đúng – Tôi đồng ý.
– Nhưng tại sao lại khác, nếu không phải là như thế? Tại sao
lại khác?
– Cô không biết, cô chưa bao giờ nghiên cứu về những trục trặc
của lò sưởi. Cô không biết nhiều về những điều này.
Dibs cười.
– Cô chỉ nhận ra khi trời lạnh.
– Đúng vậy – tôi nhận – khi mà nó còn sưởi ấm thích đáng thì
cô cho là đương nhiên còn tốt. Khi nó không còn sưởi ấm nữa tức là nó đòi hỏi
phải được sửa chữa.
– Vâng, khi đó cô thấy là nó bị hư.
Em kéo chiếc ghế đến cái tủ tam giác ở một góc phòng chơi. Một
khung vuông rộng được đục ra trên tấm cửa này và có che màn. Đây là sân khấu
múa rối. Em leo lên ghế, vén màn lên nhìn vào bên trong. “Trống trơn” – em nói.
Em kéo ghế ra chỗ la-va-bô,leo lên và nhìn vào những ngăn bên
trên la-va-bô, em lại nói: “Trống trơn”.
– Chẳng có gì ở trên ngăn cao ấy đâu – tôi nói.
Nhưng em kiểm soát tất cả. Rồi em lôi chiếc ghế ra xa, mở
cánh cửa ngăn cách la-va-bô, mở nước. Em lột núm vú khỏi chai, trong khi vòi chảy
mạnh. Em đổ đầy chai nước, đổ nước vào la-va-bô, giữ núm vú lại. Em để núm vú
trên mặt bàn, đóng vòi nước lại, cầm cây súng lên, nhồi cát vào súng. Em bóp cò
và ráng bắn cát ra, nhưng không được. Cát từ súng chảy ra và vung vãi trên mặt
sàn. Em ngồi xuống thành thùng cát, lại nhồi cát, lại nhồi cát vào súng, bóp
cò.
– Làm thế này không được – em nói.
– Cô cũng thấy không được.
Em ngồi xuống đối diện với tôi. Em bắt đầu nhặt những con vật
rải rác, vừa làm vừa nói: “Con gà trống gáy cúc cu. Con gà trống gáy trong khi
gà mái đẻ trứng. Hai con vịt đang lội. Coi nè! Chúng có ao riêng của chúng, cái
ao nhỏ riêng của chúng. Con vịt kêu “cạp – cạp”, con vịt lớn kêu “cạp – cạp”.
Và chúng cùng nhau bơi lội chung quanh cái nhỏ an toàn của chúng. Và có hai con
thỏ. Hai con chó. Hai con bò cái. Hai con ngựa. Hai con mèo. Mỗi thứ có hai
con. Ở đây không có con nào lẻ loi cả!”
Em quỳ gối xuống trên gờ thùng cát để xem xét căn nhà nhỏ. Em
xoay ngược căn nhà lại. “Không có ai sống trong căn nhà này – em nói- “Chỉ có
con mèo và con thỏ. Chỉ có một con mèo và một con thỏ. Marshmallow là tên con
thỏ của chúng em ở trường” – em nói thêm, liếc nhìn tôi. “Chúng em nhốt nó ở một
cái lồng lớn để trong góc và đôi khi chúng em thả nó ra cho nó chạy nhảy vòng
quanh, rồi nó lại ngồi, lại suy nghĩ”.
– Con mèo và con thỏ sống với nhau trong căn nhà này à? – Tôi
hỏi – Và Marshmallow là tên con thỏ à?
– Tên con thỏ ở trường – Dibs ngừng lại để nói- Không phải
con thỏ sống trong căn nhà với con mèo. Nhưng chúng em có một con thỏ ở trường
và đó là con thỏ tên Marshmallow. Nó lớn lắm, lông trắng – nó giống như con thỏ
đồ chơi này. Vì thế em nhớ tới con thỏ ở trường.
– Ồ, cô hiểu rồi. Con thỏ cưng ở trường.
– Con thỏ nhốt trong lồng – Dibs đính chính- Nhưng đôi khi
chúng em thả ra. Và đôi khi, không có ai coi chừng, em thả nó ra.
Đây là lần đầu tiên Dibs nói về trường. Tôi không hiểu lúc
này ở trường em ra sao. Không biết tác phong của em hiện nay có còn như bữa tôi
đến hay không?
Khi mẹ của Dibs đồng ý thử trị liệu bằng đồ chơi, tôi có
thông báo cho trường. Tôi nói và khi với bà hiệu trưởng là tôi sẽ làm việc với
Dibs nếu và khi mẹ em đưa em đến Trung Tâm. Tôi đã thẳng thắn nói là tôi không
biết liệu em có đáp ứng lại những buổi trị liệu bằng đồ chơi hay không – liệu
những buổi này có ích lợi gì không. Chúng tôi dặn lại nhà trường là nếu và khi
nào họ thấy cần hội ý hay có những nhận xét, những báo cáo hoặc những vấn đề phải
trao đổi thì xin gọi dây nói cho tôi. Tôi không thông báo cho trường biết là mẹ
em đã đưa em lại. Theo ý tôi, cha mẹ đứa trẻ là những người sẽ bàn luận về những
buổi hẹn trị liệu cho em. Không thể báo cáo với bất kỳ người nào hay cơ quan
nào không có sự đồng ý viết ra và thừa nhận của cha mẹ.
Tôi chú ý đến lời nhận xét của Dibs về con thỏ ở trường. Điều
này chứng tỏ rằng Dibs, mặc dù không phải là một thành viên hoạt động và tham dự
của nhóm, nhưng có quan sát học hỏi, suy nghĩ và rút ra những kết luận trong
lúc em mon men bên lề những hoạt động. Thật là hay nếu biết em đang làm gì ở
trường và ở nhà. Có lẽ cũng hay cho những người khác khi họ biết là Dibs đang
làm gì trong phòng chơi. Nhưng điều này không làm thay đổi những thể lệ mà tôi
đang tuân hành, bởi vì tôi đang quan tâm tới sự nhận thức của em về thế giới của
em, những liên hệ, những tình cảm, những quan điểm đang phát triển, những kết
luận, những suy đoán lý luận của em. Tôi có thể cảm thấy những nguyên nhân nào
đã thôi thúc em có hành động đó.
Em dựng một hàng rào bằng các –tông quanh những con thú. “Em
trổ một cái cửa trên hàng rào” – em tuyên bố- Cắt hàng rào, bẻ cong một phần
trên hàng rào để làm một cửa ngỏ. “Thế này để những con vật muốn ra lúc nào là
ra được liền”.
“Ra vậy đó” – tôi bình luận.
Em nhặt những mảnh các-tông hình thù kỳ quái đã đục ra để xác
định hàng rào. Em tỉ mỉ xem xét những mảnh này. “Cái này là…cái này là…” Em
đang cố gắng xác định hình thù, “À” – em tuyên bố- “Đây là mảnh vô giá trị. Sự
vô giá trị giống thế này”. Em đưa mảnh giấy cho tôi xem. Đây là một suy luận
thú vị – khá thích đáng.
Em nhặt lên mấy lính chì. “Người này có cây súng” – em nói –
“Người này cưỡi ngựa. Đây thêm một số chiến sĩ”. Em đặt những tên lính thành
hàng thẳng trên thành ngoài của thành cát. “Những tên này, em xếp vào hộp”. Em
làm đúng như vậy. “Cái xe vận tải một lần nữa chạy thành vệt chung quanh nhà.
Con thỏ và con mèo đang nhìn qua cửa sổ, nhìn và theo dõi”.
Em ngồi đó, chắp hai tay vào nhau để trên đầu gối và yên lặng
nhìn tôi mấy phút. Vẻ mặt trông cỏ vẻ nghiêm trọng, nhưng đôi mắt long lên với
những ý nghĩ. Em nghiêng về phía tôi và nói: “Hôm nay không phải là ngày Quốc
Khánh”. Phải tới mồng bốn tháng bảy cơ. Vào ngày thứ năm. Phải bốn tháng hai tuần
nữa và vào ngày thứ năm sẽ đến gặp cô A. Em nhìn lên cuốn lịch để xem. “Thứ hai
là mồng một tháng bảy, thứ tư là mồng hai tháng bảy. Thứ tư là mồng ba tháng bảy,
thứ tư là gần ngày Quốc Khánh, nhưng chưa hẳn, rồi đến ngày mồng bốn tháng bảy
là ngày Quốc Khánh, và vào ngày thứ năm em lại đây!” Em với lấy con thỏ. “Thứ
tư, mồng ba tháng bảy sẽ là một ngày dài –buổi sáng, buổi chiều và buổi tối. Rồi
sáng hôm sau, ngày Quốc Khánh, mồng bốn tháng bảy, thứ năm, và em sẽ có mặt ở đấy”.
– Em hăm đến đây lắm – tôi nói.
– Ồ, em ham lắm. Em ham! –Dibs mỉm cười. Rồi em lại lập
nghiêm ngay và nói tiếp: – Ngày Quốc Khánh là ngày của lính và lính thủy. Trống
đánh thùng thùng. Và cờ bay phấp phới.
Em hát một hành khúc. Em đào vào cát. Em đổ cát đầy xe vận tải.
Em đẩy xe chạy nhanh. “Đó là một ngày vui. Ngày Quốc Khánh! Và họ đều lảo đảo
vì vui. Những người lính này đang giải tỏa tự do và mở tung mọi cửa!”
Vẻ đẹp và sức mạnh ngôn ngữ của đứa trẻ này thật là đáng nể,
và cần phải nghĩ rằng em đã phát triển phong phú mặc dầu bị dồn vào thế bị chèn
ép do sự lo lắng, cô đơn và sợ hãi tạo nên. Bây giờ em đã lách qua sự sợ hãi và
trở thành mạnh dạn với những điều chắc chắn mà em đã khám phá được. Em đang
chuyển sự sợ hãi, giận dữ và lo âu sang hy vọng, tin tưởng và vui vẻ. Sự buồn
phiền và mặc cảm thất bại của em đang tan dần.
– Em cũng cảm thấy có sự vui vẻ phải không Dibs? – Sau một
phút yên lặng tôi hỏi.
Đây là sự hân hoan mà em không muốn để mất. Em vui vẻ bước
vào phòng này.
Tôi nhìn em đang ngồi trên mép thùng cát, rạng rỡ ý thức bình
an mà em đang cảm thấy vào lúc này. Trông em thật nhỏ bé, nhưng tràn đầy hy vọng,
can đảm và tin tưởng đến nỗi tôi có thể cảm thấy sức mạnh của nhân phẩm và sự vững
vàng của em.
– Em vui vẻ bước vào phòng này – em nhắc lại- Em buồn rầu khi
ra về.
– Thế hả? Có sự vui vẻ nào ra về với em không?
Dibs vùi ba tên lính vào cát. “Thế này là chúng khổ lắm” – em
nói- “Chúng không thở được” – em giải thích – “Dibs đào chúng lên” – em tự ra lệnh
cho mình – “Điều trước nhất mày phải biết là sắp tới giờ về rồi. Mày muốn để
chúng bị chôn thế này à?” – Em tự hỏi.
– Còn năm phút nữa là tới giờ về – tôi nói- Em muốn để chúng
bị chôn à?
Em nhanh nhẹn nhảy ra khỏi thùng cát. “Em sẽ chơi với lũ lính
trên sàn ngoài này” – em nói – “Em sẽ xếp chúng thành hàng có trật tự” – em sà
xuống và sắp xếp lại những tên lính. Em thò tay vào thùng cát đào những tên
lính bị chôn vùi lên. Em cẩn thận nhìn chúng. Em cầm một tên đưa tôi xem. “Đây
là Ba” – em nói, nhận diện tên lính.
– Ồ, đây là ba à? – Tôi thản nhiên hỏi.
“Vâng” – em đáp. Em dựng tên lính ấy trước mặt em, nắm tay lại,
đấm nó té nhào, dựng nó đứng lên, đấm nó té bằng nắm đấm. Em lặp lại việc làm
này nhiều lần. Rồi em nhìn tôi hỏi “Còn bốn phút nữa phải không?”.
“Đúng” – tôi đáp, mắt liếc đồng hồ: “Còn bốn phút nữa”.
– Rồi tới giờ về – Dibs nói.
-Ừ hứ – tôi ầm ừ.
Em lại chơi với tên lính “cha”, dựng nó đứng lên đấm nó té
nhào. Em lại nhìn tôi, “còn ba phút nữa?”
“Đúng” – tôi đáp rồi nói thêm – “Rồi tới giờ về”. Tôi nói điều
đó cốt ý xem em có thể trả lời ra sao hơn là để em chú ý đến sự kiện em đã biết
rồi.
– Đúng vậy – Dibs đáp – Dù em không muốn về thì vẫn tới giờ về.
– Đúng vậy, Dibs, dù em không muốn về vẫn tới giờ phải về.
“Đúng vậy” – Dibs nói. Em thở dài. Em ngồi đó yên lặng một
phút. Hình như em có một ý niệm rất đúng về thời gian. Còn hai phút nũa?” – Em
hỏi
– Phải.
– Thứ năm tới em trở lại – em khẳng định.
– Phải, em sẽ trở lại – Tôi đồng tình.
– Ngày mai là ngày sinh của ông Hoa Thịnh Đốn. Mai là thứ
sáu. Thứ bảy không có gì. Chúa Nhật là hai mươi bốn, là sáng thứ hai em đi học
lại. Mắt em sáng lên sung sướng.
Mặc dù cái tác phong bên ngoài ở trường không cho thấy trường
học có ý nghĩa nhiều đối với em. Mặc dù các cô giáo có thể bối rối, thất vọng
và có cảm tưởng thất bại đối với em, họ đã làm hết bổn phận đối với Dibs. Em biết
điều gì đang diễn ra tại đó. Hạnh phúc có lẽ là bài hát các em học được ở trường.
Marshmallow là con vật cưng hơn bị nhốt. Marshmallow là một phần kinh nghiệm ở
trường. Tôi nghĩ tới buổi họp ở trường. Tôi nhớ lại buổi trình diễn độc thoại của
cô Jane về những nguyên lý sức hút nam châm. Giáo viên không bao giờ nên nản
lòng. Chúng ta không khi nào biết là trẻ tiếp thu được bao nhiêu điều chúng ta
trình bày, mỗi đứa theo một cách, để dùng làm kinh nghiệm giúp chúng đối phó với
thế giới của chúng.
– Vào ngày thứ hai chúng em nhận được tờ báo TIN TỨC TIỂU HỌC
– Dibs nói – Báo có bìa màu vàng tươi, màu xanh da trời và màu trắng. Mười ba
trang. Rồi đến thứ ba, thứ tư và thứ năm. Và ngày thứ năm em trở lại đây.
– Em có ý niệm khá rõ về những gì diễn ra tuần tới. Ngày sinh
ông Hoa Thịnh Đốn, tờ báo học đường, tất cả những ngày trong tuần, rồi lại trở
về đây – Tôi bình luận.
– Vâng – Dibs nói.
– Và em có thể đọc giỏi hơn tuổi thật của em nhiều – tôi
nghĩ. Và em hiểu những điều em đọc. Nhưng tôi không đá động đến khả năng đọc của
em. Em coi việc đó là điều đương nhiên. Tôi cũng vậy. Mặc dù hiển nhiên em đọc
giỏi, điều đó tự nó không đủ để em phát triển toàn diện.
– Còn một phút nữa, phải không cô?
– Phải. Còn một phút nữa.
Em nhặt cái bộ mặt mà em gọi là “Ba” lên thảy nó vào thùng
cát. “Bữa nay ba đến đây rước em” – Dibs bảo tôi.
“Ô” – Tôi kêu, tai vểnh lên. Thế là Ba đã nổi lên đôi chút
trong cái thế giới của Dibs.
“Vâng” – Dibs nói. Em nhìn tôi. Tôi nhìn em. Cuối cùng, Dibs
đứng lên “Hết giờ rồi”- em nói, có tiếng thở dài não nề:
– Phải, hết giờ rồi, tôi nói theo.
– Em muốn vẽ.
– Em không có ý định về, dù em biết là tới giờ rồi sao?
Dibs liếc mắt nhìn tôi. Có một nụ cười thoáng trên mặt em. Em
cúi xuống và chuyển từng tên lính em xếp trên mặt sàn đi. Em xếp chúng thành từng
hàng thẳng, súng nhắm vào tôi. Em đi về phía cửa “Súng hữu dụng khi cần phải bắn”
– em nói.
“Ra thế đó” – tôi đáp.
Em nhặt nón lên, đi dọc dãy hành lang. Tôi đi với em. Tôi muốn
được biết mặt ông bố.
– Tạm biệt cô- Dibs nói, buông tay tôi ra.
– Tạm biệt em, thứ năm tới cô gặp lại em.
Ông bố liếc mắt nhìn tôi.
– Chào cô – ông nói, giọng cứng cỏi. Ông ta có vẻ bực bội lắm.
– Chào ông.
– Con nói ba nghe nè – Dibs nói – Ba có biết hôm nay không phải
ngày Quốc Khanh không?
– Lẹ lên, Dibs. Ba đang vội – ông bố hối thúc.
– Phải tới tháng bảy cơ – Dibs nói tiếp – Lễ vào ngày thứ
năm, còn bốn tháng hai tuần nữa lận.
“Kìa, Dibs” – ông bố la, ngượng chín người vì câu chuyện của
Dibs mà ông thấy là rất kỳ cục – nếu quả tình ông có lắng nghe.
– Lễ Quốc Khánh vào ngày thứ năm – Dibs lại ráng nói – Lễ vào
ngày mồng bốn tháng bảy.
Ông bố lôi Dibs ra cửa. “Có câm cái họng lảm nhảm đi không?”
– Ông nói, răng nghiến lại.
Dibs thở dài. Em gục đầu xuống. Em lặng lẽ theo cha.
Cô tiếp viên nhìn tôi. “Con lừa già!” – Cô nói- “Tại sao hắn
không nhảy xuống sông chết cho rồi đi?”
“Phải đấy” – tôi đồng tình – “Tại sao hắn không làm như vậy
nhỉ?”
Tôi trở lại phòng chơi để thu dọn chờ người thân chủ trẻ kế
tiếp. Những quan sát viên vào tiếp tay. Một người trong bọn họ nói lại những lời
Dibs đã nói khi tôi ra ngoài chuốt bút chì. Băng thâu đã được cuốn trở lại,
chúng tôi nghe lại phần này. “Đứa trẻ kỳ lạ quá!” – Một người quan sát nhận định.
Thật là thấu đáo, tôi nghĩ. “Đứng thẳng đơ như thanh sắt cọc
hàng rào!” Đó là điều Dibs đã nói ra. Tôi cảm thấy chính tôi muốn để ông bố bị
chôn vùi trong cát một tuần lễ. Ông ta không chịu nghe con nói. Dibs muốn trò
chuyện với ông, nhưng ông gạt em đi cho là nói lảm nhảm. Dibs phải có một nội lực
ghê ghớm mới bảo toàn được một nhân cách mạnh mẽ như vậy trước những cuộc tấn
công như thế.
Đôi lúc khó có thể thừa nhận sự kiện là chính cha mẹ cũng có
lý do để hành động như vậy - Có những lý do vướng mắc sâu bên dưới nhân cách của
họ khiến họ không thể yêu thương, hiểu biết và hy sinh cho con cái được.
CHƯƠNG 8
Sáng hôm sau tôi nhận được điện thoại do mẹ em Dibs gọi tới.
Bà yêu cầu cho bà đến gặp. Bà có vẻ như muốn biện bạch cho lời yêu cầu này. Tôi
nhìn vào cuốn lịch của tôi và đề nghị mấy cái hẹn có thể gặp được. Bà có nhiều
buổi để chọn. Bà ngập ngừng, yêu cầu tôi chỉ định. Tôi nói với bà là tôi sẽ có
mặt ở Trung Tâm những lúc mà tôi đã nói, nên bà cứ việc tự do chỉ định lúc mà
bà thích. Bà lại ngập ngừng. Rồi sau khi đã suy nghĩ kỹ bà quyết định.
“Tôi sẽ có mặt lúc mười giờ sáng nay” –bà nói- “Cám ơn cô,
tôi rất cảm kích được cô tiếp”.
Tôi tự hỏi không biết điều gì xui khiến bà có quyết định gặp
tôi. Hoặc giả bà có điều chi mãn nguyện hay bất mãn, hay lo phiền về Dibs
chăng? Hoặc là chồng bà phản ứng bất lợi trước cuộc thăm viếng ngắn ngủi của
ông tại Trung Tâm bữa ông tới đón em Dibs chăng? Không đầy một tiếng nữa bà sẽ
có mặt tại Trung Tâm. Có lẽ lúc đó chúng ta sẽ biết thêm về hoàn cảnh đôi chút.
Khó lòng mà nói trước là một cuộc gặp gỡ như vậy sẽ xảy ra
nhưt thế nào. Lòng bà mẹ có thể đóng thành băng giá, và bà không có khả năng
tìm hiểu vấn đề hơn trước đây. Rồi cũng có thể là vì bà đầy đau khổ, đầy thất bại
và cảm thấy sự bất lực của cá nhân mình, quá thất vọng nên tìm dịp để chia sẻ
phần nào với người khác. Điều tối quan trọng là phải hạn chế hết sức sự đe dọa
đối với bà và phải nỗ lực truyền sang cho bà cảm giác được an toàn, tin cậy
trong cuộc hội ngộ này. Có một điều tôi biết chắc đây sẽ là một cuộc hội ngộ vô
cùng khó khăn và mệt mỏi về tình cảm đối với bà mẹ này.
Tôi có bổn phận tỏ cho bà biết một cách hữu hiệu nhất – Chủ yếu
bằng thái độ và triết lý riêng của tôi rằng thế giới riêng tư của bà là của bà
và bà là người sẽ quyết định xem bà có muốn mở cửa và chia sẻ một phần nào đó với
chúng tôi chăng. Và nếu bà quyết định như vậy, tôi sẽ không hối hả chạy trước
bà về phương diện tâm lý, không được soi mói bất kỳ điều gì mà bà không tự nguyện
cho với lòng tin tưởng ở khả năng chia sẻ thế giới nội tâm của mình với một người
khác. Và nếu bà không có ý định mở cánh cửa này ra thì chắc chắn là tôi cũng
không có ý gõ cửa ấy, chứ đừng nói tới việc cưỡng bức mở ra bằng sự thăm dò có
hậu ý. Thật là hấp dẫn nếu được nghe những điều bà có thể kể về Dibs và về
chính bà, nhưng điều quan trọng hơn là làm thế nào để bà kinh nghiệm được mình
là một người có phẩm giá được tôn trọng và thừa nhận là một cá nhân có quyền sở
hữu tuyệt đối với đời sống riêng của mình.
Bà mau mắn đến Trung Tâm. Tôi mời bà vào văn phòng ngay. Trước
đó bà cho biết là bà rất sợ phải ngồi đợi tại phòng tiếp nhận.
Bà ngồi xuống ghế cạnh bàn làm việc của tôi, đối diện với
tôi. Bà rất xanh xao. Hai tay nắm chặt vào nhau. Mắt đảo quanh, liếc nhìn tôi rồi
vội nhìn đi chỗ khác – giống như Dibs đã từng làm khi em gặp tôi lần đầu trong
phòng chơi.
Tôi đưa thuốc cho bà.
– Không, cám ơn – bà nói.
Bà đưa tay chỉ vào bao thuốc.
– Tôi không hút thuốc. Nhưng nếu cô muốn hút, xin cứ tự
nhiên.
– Tôi không hút thuốc, thưa bà.
Tôi cất gói thuốc vào ngăn bàn cốt để làm bớt căng thẳng những
phút đầu hơn là vì mục đích nào khác. Tôi chậm rãi làm việc ấy, rồi tôi nhìn
bà. Trong mắt bà có biểu lộ lo âu và hoảng hốt. Điều quan trọng là không được dồn
bà vào việc phải bàn luận về những vấn đề của bà, quan trọng là đừng có dẫn đạo
bằng cách đặt câu hỏi, quan trọng là đừng biến đổi gặp gỡ thành dịp nói chuyện
tào lao. Nếu bà muốn làm bất kỳ điều gì thì vấn đề lại khác hẳn, còn tôi mà làm
tức là phá hoại mục tiêu của buổi phỏng vấn. Bà yêu cầu có cuộc gặp gỡ. Bà có
lý do để làm việc này. Nếu tôi mời bà đến gặp, thì tôi có trách nhiệm khởi đầu
câu chuyện.
– Tôi không biết bắt đầu từ đâu – bà nói.
– Tôi biết. Đôi khi rất khó bắt đầu.
Bà mỉm cười, nhưng là nụ cười không vui.
– Nhiều điều phải nói – bà nói- Và nhiều điều không nói được.
– Thường thường là như thế!
– Có nhiều điều tốt hơn đừng nói tới – Bà nhìn thẳng vào mặt
tôi và nói.
– Nhiều khi sự thật là như vậy bà ạ.
– Nhưng nhiều điều không nói ra có thể trở thành gánh quá nặng,
thưa cô.
– Phải, điều này cũng có thể xảy ra.
Bà ngồi đó nhìn qua cửa sổ yên lặng một hồi lâu. Bà bắt đầu bớt
căng thẳng.
– Từ khung cửa sổ này nhìn ra cảnh đẹp lắm – bà nhận xét.
Ngôi nhà thờ kia đẹp quá. Trông vừa to lớn, chững chạc và thanh bình.
– Quả là như thế!
Bà nhìn xuống đôi tay đan chặt. Bà nhìn lên bắt gặp mắt tôi.
Đôi mắt ngấn lệ.
– Tôi lo lắng về cháu Dibs quá – bà nói – Lo quá về cháu.
Tôi không lường trước là bà nói câu này. Tôi ráng ra vẻ thản
nhiên thừa nhận lời bà nói.
– Lo lắng về em – tôi hỏi. Vào lúc này không nên nói gì hơn.
Tôi không hỏi bà vì sao.
– Vâng – bà nói – Lo lắng quá. Gần đây cháu có vẻ khổ sở lắm.
Cháu đứng quanh quẩn, nhìn tôi, luôn luôn nín lặng. Bây giờ cháu ra khỏi phòng
thường hơn. Nhưng cháu chỉ đứng quanh quẩn, bên lề mọi việc như một bóng ma. Và
khi nào tôi nói chuyện với cháu, cháu chạy mấ. Một lúc sau cháu trở lại và nhìn
tôi với ánh mắt buồn thảm.
Đây thật là một nhận xét đầy ý nghĩa. Bây giờ Dibs ra khỏi
phòng thường hơn. Và theo báo cáo của bà, gần đây, em ra vẻ khổ sở hơn, lẽ dĩ
nhiên cũng có thể là bà ý thức về nỗi khổ của em hơn trước đây. Cũng có thể là
Dibs công khai để lộ tình cảm của mình trong gia đình nhiều hơn. Và phải yên lặng,
khi em có khả năng sử dụng ngôn ngữ như thế cho thấy là em có một nội lực và sự
tự chế kinh khủng.
– Tôi cảm thấy hết sức khổ tâm khi cháu làm như thế – bà nói
thêm, sau một lúc – Làm như cháu đang xin một điều gì tôi không thể cho được.
Cháu là một đứa trẻ rất khó hiểu. Tôi đã cố gắng. Thực sự, tôi đã cố gắng,
nhưng tôi đã thất bại. Ngay từ đầu, khi cháu còn là một đứa hài nhi, tôi đã
không hiểu cháu. Thực tình tôi không biết một đứa nhỏ nào trước cháu Dibs. Tôi
không hề có một chút kinh nghiệm thực tế nào về trẻ em hay trẻ thơ. Tôi không
có một ý niệm nhỏ nào về phương diện tâm lý của chúng. Về sinh lý, vật lý và y
khoa thì tôi biết chúng rành lắm. Nhưng tôi không sao hiểu được Dibs. Cháu là một
sự ray rứt tâm can- một sự nản lòng ngay từ khi mới sanh. Chúng tôi không dự định
sinh cháu. Sự thụ thai là một tai nạn. Cháu làm đảo lộn hết kế hoạch của chúng
tôi. Tôi cũng có nghề nghiệp riêng. Chồng tôi hãnh diện về những thành quả của
tôi. Nhà tôi và tôi rất hạnh phúc khi sinh Dibs. Và khi mới sinh ra thì thấy
cháu khác hẳn. To con và xấu xí. Một khối không phản ứng gì cả. Thực vậy, nó đã
hất hủi tôi từ khi mới sinh. Nó cứng đơ và la hét mỗi lần tôi bế cháu lên! – Nước
mắt chảy ròng ròng xuống mặt, bà vừa nói vừa lau nước mắt bằng giấy lau, nức nở
kể chuyện mình. Tôi bắt đầu nói, nhưng bà bảo tôi im lặng.
“Xin đừng nói gì cả – bà năn nỉ – Tôi phải nói ra, ít nhất một
lần. Tôi đã phải chịu đựng lâu quá rồi. Nó như tảng đá nặng để giữa tim tôi. Cô
muốn nghĩ về tôi thế nào cũng được, nhưng xin để tôi nói cho cô nghe. Tôi không
định làm thế này đâu. Khi tôi gọi dây nói cho cô, và xin gặp cô, tôi có ý định
hỏi cô về cháu Dibs. Hôm qua ba cháu giận lắm. Anh nghĩ rằng sự trị liệu tệ hại
hơn. Nhưng có câu chuyện tôi cần nói với cô. Tôi đã giấu kín trong lòng từ lâu
lắm rồi.
“Sự thai nghén của tôi thật vất vả. Tôi đau yếu suốt thời
gian. Và ông chồng tôi thù ghét sự thai nghén của tôi. Ông nghĩ là tôi đã có thể
ngừa được. Ồ tôi không phiền trách ông. Chính tôi cũng hận chuyện này. Chúng
tôi không thể làm việc gì chúng tôi đã từng cùng làm, không thể đi đâu được. Chồng
tôi càng ngày càng xa lánh tôi, ông vùi đầu vào công việc riêng của ông. Ông là
một nhà khoa học như cô biết đó. Một người xuất sắc! Nhưng xa cách. Và cực kỳ
bén nhạy. Và điều này có thể khiến cô ngạc nhiên. Tôi không nói ngay cả chuyện
này nữa. Tôi cũng không khi nào đề cập tới chuyện này ở trường. “Một lần nữa lại
có nụ cười đau khổ và không vui trên đôi môi bà.
“Trước khi tôi có thai, tôi là một nhà phẩu thuật. Tôi ham mê
công việc.Tôi đã tỏ ra có triển vọng thành công như một nhà phẫu thuật. Tôi đã
hoàn thành hai cuộc giải phẫu tim phức tạp. Nhà tôi hãnh diện về tôi. Tất cả bạn
hữu chúng tôi đều là những ông, những bà rất lỗi lạc, rất thành công và nổi tiếng.
Và rồi Dibs sinh ra để phá hủy những kế hoạch và cuộc đời chúng tôi. Tôi cảm thấy
là mình đã thất bại não nề. Tôi quyết định thôi việc. Một số đồng nghiệp thân
thiết của tôi không hiểu thái độ và sự quyết định của tôi. Tôi không nói cho họ
nghe về Dibs. Chẳng bao lâu rõ ràng Dibs không phải là đứa trẻ bình thường. Có
con đã đủ khó, có đứa con thiểu năng quả là điều chúng tôi không hiểu nỗi.
Chúng tôi mắc cỡ. Chúng tôi nhục nhã. Chưa bao giờ có chuyện như vậy ở bên nào trong
hai gia đình chúng tôi. Chồng tôi, nổi danh khắp nước về sự lỗi lạc của anh ấy.
Và thành tích của cá nhân tôi cũng luôn luôn xuất sắc. Tất cả những giá trị của
chúng tôi đều nghiêng hẳn theo chiều hướng trí tuệ về thành quả trí thức tốt đẹp,
rõ ràng và đáng kể?
“Con rể gia đình chúng tôi, cả hai chúng tôi đều lớn lên
trong những gia đình mà đức tính ấy được trọng vọng hơn những đức tính khác. Và
rôi tới Dibs! Kỳ quái quá chừng. Không nói. Không chơi. Chậm biết đi. Tấn công
người ta như một con hoang thú nhỏ. Chúng tôi mắc cỡ hết sức. Chúng tôi không
muốn một người bạn nào biết về cháu. Về phương diện xã hội chúng tôi càng ngày
càng xa cách bạn bè, bởi vì nếu chúng tôi trực tiếp giao thiệp với họ, đương
nhiên là họ muốn xem em bé. Và chúng tôi không muốn một ai nhìn thấy cháu.
Chúng tôi mắc cỡ lắm. Và tô mất hết tự tin. Tôi không thể tiếp tục công tác.
Tôi biết rằng tôi không còn thực hiện được một cuộc giải phẫu nào nữa.
“Không có chỗ nào để có thể gởi cháu đi. Chúng tôi cố gắng giải
quyết vấn đề tốt đẹp nhất theo khả năng của mình. Tôi đưa cháu tới một bác sĩ
thần kinh này không thấy Dibs có tì trục trặc về cơ thể. Rồi cách đây hơn một
năm chúng tôi lại đưa cháu tới một bác sĩ tâm thần không ở miền này. Chúng tôi
nghĩ là chúng tôi sẽ để cháu lại đây để cháu được chẩn đoán về tâm thần và tâm
lý. Tôi cảm thấy là Dibs bị tâm thần phân liệt. Hay tự kỷ, nếu không phải là
thiểu năng. Tôi cảm thấy là những triệu chứng của cháu cho thấy cháu bị tổn
thương não. Bác sĩ tâm thần này nhất định đòi gặp nhà tôi và tôi, trong mấy buổi
phỏng vấn. Đây là lần duy nhất tôi tiết lộ danh tính thật của chúng tôi, với một
y sĩ mà chúng tôi đến thỉnh ý về trường hợp cháu Dibs. Kinh nghiệm thật ê chề.
Nhà tâm thần phỏng vấn chúng tôi. Khi chúng tôi cảm thấy họ đi xa hơn nhu cầu
nghề nghiệp trong những câu hỏi đặt ra thì những nhà xã hội học lại nói là
chúng tôi có tình thù hận và chống đối. Họ có vẻ lấy làm thú vị một cách tàn nhẫn
được hành hạ chúng tôi không cần kiêng nể”.
“Bác sĩ tâm thần nói với chúng tôi rằng với trình độ của
chúng tôi, ông không cần giấu giếm. Ông nói rằng Dibs không bị thiểu năng,
không bị tâm thần, không bị tổn thương não hệ, nhưng là đứa trẻ bị hất hủi nhất,
bị thiếu thốn về tình cảm nhiều nhất mà ông chưa từng thấy. Ông nói nhà tôi và
tôi là những người cần được trị liệu. Ông đề nghị trị liệu cho cả hai chúng
tôi. Đó là thứ kinh nghiệm choáng váng nhất mà chúng tôi phải chịu. Ai cũng thấy
rằng nhà tôi và tôi rất quân bình. Chúng tôi không bao giờ có khuynh hướng giao
tế rộng, nhưng một số ít bạn và đồng nghiệp mà chúng tôi giao thiệp kính trọng
chúng tôi, tôn trọng ý muốn có cuộc đời riêng theo ý chúng tôi. Chúng tôi không
khi nào có những vấn đề cá nhân mà chúng tôi không tự giải quyết được.
“Chúng tôi đưa cháu Dibs về và cố gắng hết sức để ổn định.
Nhưng vợ chồn tôi gần đi tới chỗ thôi nhau.
“Chúng tôi không khi nào nói chuyện này với ai cả. Không nói
với gia đình hai bên. Không nói với nhà trường. Nhưng nhà tôi càng ngày càng xa
cách. Dorothy sinh sau Dibs một năm. Tôi nghĩ thêm một cháu nữa có thể có lợi
cho cháu. Nhưng các cháu không thuận nhau, tuy Dorothy bao giờ cũng là đứa trẻ
tuyệt vời. Cháu là bằng chứng chắc chắn không phải lỗi tại chúng tôi. Rồi Dibs
đi học ở trường tư nơi cô gặp cháu lần đầu.
“Tôi nói thiệt với cô không ai tưởng tượng nổi tấn thảm kịch
ghê gớm và sự khắc khoải vì có một đứa con mang thương tật tâm thần! Người duy
nhất mà cháu thân thiện là bà cháu. Bà cụ có mặt bên chúng tôi trong tháng đầu
khi cháu mới sinh và mỗi tháng tới thăm chúng tôi một lần trong ba năm liền,
cho tới khi cụ dọn nhà về Florida. Sau đó, mỗi năm hai lần bà đến chơi và mỗi lần
bà ở chơi chừng một tháng. Dibs lúc nào cũng nhớ bà, bao giờ cũng quấn quýt lấy
bà khi bà đến, và nhớ bà kinh khủng bà về. Và hầu như cháu tính từng ngày cho tới
khi bà trở lại.
“Tôi đã làm bất kỳ việc gì có thể làm cho cháu, Dibs. Chúng
tôi cung cấp cho cháu bất kỳ thứ gì có thể mua được bằng tiền, hy vọng giúp
cháu được phần nào. Đồ chơi. Âm nhạc. Các trò chơi. Sách. Phòng chơi của cháu đầy
ắp mọi thứ mà chúng tôi nghĩ là có thể giải trí, giáo dục và làm vui cho cháu.
Và có nhiều khi cháu tỏ ra sung sướng trong phòng riêng ở nhà. Khi chỉ có một
mình, cháu có vẻ sung sướng hơn. Vì thế chúng tôi gởi Dorothy vào trường nội
trú gần đây. Cháu về nhà cuối tuần và những dịp nghỉ. Tôi nghĩ là Dibs vui hơn
khi Dorothy vắng nhà. Ở trường Dorothy cũng vui vẻ hơn. Anh em chúng không thuận
thảo. Dibs đánh đập em một cách tàn nhẫn khi nó lại gần hay vào phòng riêng của
cháu.
“Gần đây, cháu có vẻ khổ sợ lắm. Và dường như cháu có thay đổi.
Rồi, bữa qua, khi nhà tôi đưa cháu về, cháu có vẻ buồn. Cả hai đều buồn giận.
Anh nói Dibs nói lảm nhảm như một thằng khùng! Dibs đi ngang qua phòng, nắm lấy
một cái ghế và quăng đi, lấy tay gạt đổ mấy món đồ văng khỏi bàn nhỏ, la nhà
tôi “Tôi ghét ông! Tôi ghét ông!” chạy lại phía ông đá túi bụi. Nhà tôi nắm lấy
Dibs và sau một hồi giằng co bế bổng cháu lên phòng riêng của nó, và khóa cửa
nhốt nó trong đó. Khi nhà tôi từ trên lầu xuống, ông gặp tôi đang khóc, tôi
không sao cầm được nước mắt. Tôi biết anh vốn ghét nước mắt. Nhưng tôi không cầm
lòng được. Tôi nói với anh, “Bây giờ thì thằng Dibs không còn lảm nhảm như thằng
khùng: Nói nói là nó ghét anh!” Bây giờ nhà tôi ngồi xuống ghế và òa khóc. Thật
là khủng khiếp. Trước đây tôi chưa hề thấy một người đàn ông nào khóc cả. Tôi
không nghĩ là có thể có cái gì trên đời khiến cho nhà tôi rơi lệ nổi. Tôi phát
sợ và bỗng hoảng hồn bởi vì thấy anh cũng sợ hãi chẳng kém gì tôi. Tôi nghĩ là
chúng tôi cảm thấy gần gũi nhau hơn bao giờ hết. Bỗng nhiên chúng tôi biến
thành hai kẻ cô đơn, khốn khổ, hoảng sợ với những bức tường phòng vệ sụp đổ và
bỏ ngõ. Thật là khủng khiếp- nhưng thật cũng ấm lòng vì thấy mình vẫn còn tình
người, có thể thất bại và nhận rằng mình đã thất bại! Sau cùng chúng tôi cùng
bình tâm lại và anh nói rằng có lẽ vợ chồng chúng tôi lầm lẫn về Dibs”
Bà nhìn tôi với ánh mắt sợ hãi và hoảng hốt. “Cô làm ơn nói
cho tôi biết” – bà nói- “cô có nghĩ là Dibs bị thương tật tâm thần không?”.
“Không” – Tôi đáp, trả lời câu hỏi của bà và không nói gì
thêm ngoài điều bà muốn biết. “Tôi không nghĩ là Dibs bị thương tật tâm thần”.
Yên lặng một hồi lâu. Bà thở dài não nuột.
– Cô có…Cô có nghĩ là cháu sẽ mạnh giỏi và cháu sẽ học được
cách hành động như những đứa trẻ khác không?
– Tôi nghĩ vậy. Nhưng điều quan trọng hơn là tôi nghĩ rằng bà
có khả năng trả lời câu hỏi này một cách chính xác hơn tôi, bởi vì bà sống ở
cùng nhà với em, bà trò chuyện với em, bà chơi với em, bà quan sát em. Tôi nghĩ
là bà có thể trả lời từ bây giờ.
Bà gật đầu nhè nhẹ. “Vâng” – bà nói, và giọng bà hạ thấp
thành tiếng thì thào.
– Tôi đã bắt được nhiều điều về Dibs cho thấy là cháu có một
số khả năng. Nhưng cháu có vẻ rất khổ sở khi cháu để lộ ra nhiều hơn trong gia
đình. Cháu không còn có những cơn giận hờn nữa. Ở nhà cũng không, mà ở trường
cũng không. Cái trận hồi hôm không phải là cơn giận hờn nữa. Đó là sự phản
kháng chống lại sự lăng nhục trong câu nói của ba cháu. Cháu không còn lúc nào
mút tay nữa. Ở nhà cháu hay nói hơn. Nhưng chỉ nói cho mình cháu nghe thôi – chứ
không nói với chúng tôi. Cháu đang thay đổi. Cháu đang cải thiện. Tôi cầu trời
cho cháu may lành mạnh.
– Tôi cũng hy vọng như vậy – tôi đáp. Cả hai chúng tôi đều
yên lặng.
Sau cùng bà lấy hộp phấn trong xách tay xoa lên mặt. “ Tôi
không nhớ đã có bao giờ khóc như thế này” – bà nói. Bà chỉ tay vào hộp đựng giấy
mềm. “Cô có vẻ quen với hiện tượng này rồi nhỉ; có lẽ tôi không phải là người độc
nhất khóc vùi trên vai cô”.
– Không. Bà nhiều đồng bạn lắm.
Bà mỉm cười. Bà bà Dibs có nhiều điệu bộ giống nhau lắm.
– Tôi không biết nói gì để cảm ơn cô. Không ngờ đã hết cả tiếng
đồng hồ rồi. Chuông reo rồi đó. Mười một giờ rồi.
Tôi không lấy làm ngạc nhiên nếu vào lúc này bà nói bà là bà
không muốn về! “Trong phòng này nhiều khi thời giờ đi rất nhanh” – tôi nói.
“Vâng” – Bà đứng dậy, mặc áo. “Cám ơn cô về đủ mọi điều” – Bà
nói rồi ra về.
Biết kể bao nhiêu lần chúng tôi, nghe thứ tâm tư này (và chuyện
xảy ra bất thường), sự phức tạp của nguyên do tâm lý con người và của tác phong
vẫn được chứng minh hoài. Không có một thứ kinh nghiệm hay tình cảm duy nhất
nào tác động trên những mô thức phản ứng. Luôn luôn có sự chồng chất những kinh
nghiệm trà trộn với những xúc động, những mục tiêu, những giá trị riêng tư thúc
đẩy một người và định đoạt phản ứng của y. Điều bà nói giáo đầu cho câu chuyện
của bà là gì? “Có nhiều điều phải nói. Và cũng có nhiều điều không nói được!
Nhiều điều đừng nói thì tốt hơn. Nhưng nhiều điều không nói ra có thể trở thành
gánh nặng”.
Bà ý thức được những yếu tố đè nặng lên lương tâm bà. Có lẽ ý
thức nhiều hơn về những điều bà muốn bỏ không nói đến, sự ý thức càng sâu sắc
hơn vì lúc nào cũng phải canh chừng để bảo mật. Có lẽ bà và chồng bà trong đời
đã sớm biết rằng sự thông minh sắc sảo của họ có thể dựng lên làm tấm che quanh
họ và có thể cách ly họ khỏi những xúc động mà họ chưa khi nào học được cách tìm
hiểu và sử dụng một cách xây dựng.
Dibs cũng học được điều này. Thấy gì cũng đọc, biểu lộ cái biệt
tài này khi gặp những phản ứng xúc động không vui, tránh né sự trực tiếp đương
đầu với một tình cảm. Đó là tác phong phòng vệ.
Ba mẹ em vẫn là nạn nhân của sự thiếu sáng suốt về chính họ
và thiếu trưởng thành về tình cảm. Họ cảm thấy sâu sắc sự bất lực không liên hệ
tình cảm được với Dibs. Và có lẽ cả với Dorothy nữa. Họ bì bõm lội trong vũng lầy
tình cảm bất lực và bất an.
Khi bà hỏi tôi liệu tôi có nghĩ là Dibs bị khuyết tật tâm thần
không, tôi đã có thể nói với bà một cách quả quyết rằng thực tình em không bị
khuyết tật tâm thần, mà còn là đứa trẻ có trí thông minh thượng đẳng. Nhưng
đánh giá như vậy vào lúc này có thể làm hỏng mục tiêu tốt nhất của nó. Tôi có
thể làm gia tăng mặc cảm tội lỗi hiện ra trong sự đương đầu mà bà đã mô tả giữa
Dibs và ba em và phản ứng của bà trước cảnh đó ngày hôm trước. Và nếu ba mẹ em
chấp nhận sự đánh giá của tôi, họ có thể nhắm vào khả năng trí tuệ của Dibs làm
trọng điểm cho sự phát triển của em. Em đã sử dụng triệt để trí thông minh của
em. Chính sự thiếu thăng bằng trong sự phát triển toàn diện của em tạo nên khó
khăn. Hay có lẽ, một cách hoàn toàn vô ý thức, họ chấp nhận Dibs là một đứa trẻ
mang khuyết tật tâm thần, còn hơn thừa nhận nó là hiện thân sâu đậm của sự bất
lực về xã hội và tình cảm của họ. Tất cả chỉ là phỏng đoán.
Về phần mẹ của em Dibs, tôi thấy bà không thể không ý thức được
khả năng trí tuệ của con bà – ít nhất tới một mức độ nào đó. Qua kinh nghiệm bản
thân của bà, chỉ riêng có thành tích trí tuệ mà thôi thì chưa phải là giải pháp
toàn diện. Sự thất bại của bà không liên hệ được với con bà bằng tình thương,
tôn trọng và hiểu biết, là do chính sự thiếu thốn tình cảm của bà. Ai có thể
yêu thương, tôn trọng và hiểu biết người khác nếu chính bản thân họ không có những
kinh nghiệm cơ bản ấy? Tôi thấy điều hữu ích cho bà hơn hết là bà đã học hỏi
trong cuộc gặp gỡ này kinh nghiệm được tôn trọng và thông cảm, mặc dù sự thông
cảm ấy chỉ là một quan niệm phổ quát chấp nhận sự kiện là bà có những lý do để
làm những điều bà đã làm – rằng bà có khả năng thay đổi, rằng những sự thay đổi
– của bà, của chồng bà và của Dibs – đều được khởi động bởi những kinh nghiệm
chất chứa. Bà đã nói lại như thế nào nhỉ? “Hai kẻ cô đơn, khốn khổ, hoảng sợ với
những bức tường phòng vệ và bỏ ngõ…ấm lòng vì thấy mình vẫn còn tình người, có
thể thất bại và nhận rằng mình đã thất bại”.
CHƯƠNG 9
Dibs hớn hở bước vào phòng chơi thứ năm tuần kế tiếp. Mẹ em đã
gọi dây nói xin cho em sớm mười lăm phút vì bà phải dẫn em đi bác sĩ để chích.
Chúng tôi thỏa thuận.
– Em vui vì sự thay đổi thời giờ – em vừa nói vừa cười với
tôi.
– Thật không? – tôi hỏi - Tại sao vậy?
– Em vui bởi vì em cảm thấy vui. Em bước tới căn nhà búp bê.
– Em có việc phải làm.
– Việc gì đấy?
– Đây này – em trả lời, chỉ vào căn nhà búp bê.
– Sửa nhà và khóa lại. Khóa cửa lại! Đóng các cửa sổ…Em đi ra
chỗ cửa sổ trong phòng chơi và nhìn ra ngoài. Em liếc mắt nhìn tôi. “Trời nắng”
– em nói – “Bữa nay ở ngoài ấm lắm. Để em cởi nón, cởi áo ra. Em bỏ nón, áo, vải
quấn ống chân ra mà không cần có người giúp, em đem treo ở núm cửa.
– Bữa nay em rất muốn vẽ.
– Việc đó tùy em.
– Vâng. Điều này tùy em.
Em đi ra chỗ đặt giá vẽ. “Em sẽ bỏ hết nắp ra và em bỏ một
cây cọ vào mỗi hũ này. Bây giờ em xếp đặt lại cho thứ tự. Đỏ, Cam, Vàng, Xanh
da trời, Xanh lá cây – em nói. Em liếc nhìn tôi. “Có những việc tùy thuộc ở em.
Những việc khác thì không”- em sôi nổi nói.
– Phải. Cô cho như vậy là đúng.
“Đúng” – em đáp gằn giọng. Em tiếp tục xếp màu vẽ theo thứ tự
màu sắc. Rồi em bắt đầu phết những vệt màu trên giấy “Úi cha! Thuốc màu chảy” –
em nói – “Bút chì thì không chảy. Vẽ ở đâu thì nó nằm yên ở đấy. Còn màu thì
không. Chúng chảy. Em vẽ một đốm màu cam. Thấy không, nó chảy! Rồi một vệt màu
xanh lá cây. Nó lại chảy xuôi. Nó chảy xuôi em quệt nó đi”.
Em lại gần và gõ ngón tay vào bức tường lót gương. Đây là căn
phòng của người khác ở trong này. Trước, có người ngồi trong này, nhưng hôm nay
thì không.
Tôi ngạc nhiên vì câu nói bất ngờ này.
– Em nghĩ vậy à?
– Em biết điều đó. Những tiếng nói nhỏ và những giọng thì
thào cho em biết vậy.
Thí dụ nhỏ này cho thấy là trẻ em rất nhạy cảm với những điều
xảy ra chung quanh chúng, mặc dù chính lúc đó chúng không nói gì – điều đó đúng
với Dibs và đúng với cả chúng ta nữa.
– Cô có biết điều ấy không?
– Có.
Em quay lại chỗ giá vẽ và vẽ thêm những vệt màu trên giấy.
– Đây là những vết, những vạch của những ý nghĩ của em.
– Vậy hả?
– Vâng. Bây giờ em sẽ lôi những tên lính ra. Nhất là tên lính
đặc biệt ấy!
Trong lúc em từ giá vẽ bước qua thùng cát, em ngừng lại bên
tôi và nhìn vào những điều tôi ghi chú. Tôi đã viết tắt những tên màu sắc mà em
đã dùng, bằng cách viết chữ đầu của mỗi tiếng, Dibs tìm hiểu những điều ghi chú
của tôi…chỉ ghi lại những việc làm của em, mà không ghi lời. Những lời hỏi đó
được những người quan sát lặng lẽ điều khiển máy thu băng.
“Ồ, viết cả chữ đi” – Dibs nói – “Đ là đỏ. Đánh vần là Đ-Ỏ. C
là cam, C-A-M. V là vàng. V-À-N-G. Em đánh vần những chữ ấy theo cách thức này.
– Bởi vì em có thể viết tên các màu, em nghĩ là cô cũng nên
viết hết sao? Em nghĩ là cô có nên viết tắt không, nếu cô thích viết tắt?
-Hừm – Hử? Không. Cô đừng làm vậy. Luôn luôn phải làm mọi việc
nghiêm túc. Viết cả chữ ra, làm cho thật đúng.
– Sao vậy?
Dibs nhìn tôi. Em mỉm cười. “Bởi vì em nói vậy”.
-Như thế có đủ lý do không?
– Vâng. Trừ khi cô thích làm theo kiểu của cô – Dibs cười.
Em đi ra phía bàn, lấy nắm đất sét từ trong hũ ra, tung lên
trời, bắt lấy, để lại vô bình. Có một tấm hình nhỏ trên sàn gần sọt đựng giấy vụn.
Em nhặt lên, nhìn tấm hình. “Ô này” – em lưu ý – “ Em muốn có tấm hình này. Em
muốn cắt ra những hình nhỏ nè, cái kéo đâu?”
Tôi đưa cho em cái kéo. Em cắt hình ra. Rồi em ra chỗ để nhà
búp bê. “Bữa nay em có việc phải làm” – em tuyên bố.
– Em có việc à?
– Vâng.
Rất thận trọng, em gỡ hết những bức vách từ căn nhà búp bê ra
và đem chúng sang thùng cát. Em cầm lấy cái xẻng và đào một cái hố sâu trong
cát và chôn những bức vách. Rồi em trở lại căn nhà búp bê và với một cái xẻng vững
chắc em tách cánh cửa ra vào khỏi nhà búp bê, và chôn nó vào trong. Em làm việc
mau mắn, hữu hiệu, lặng lẽ và chăm chú. Sau khi đã làm xong công việc, em nhìn
tôi. “Em gỡ hết vách, hết cửa ra” – em nói.
– Có. Cô thấy em làm việc ấy.
Đoạn em gỡ tấm vách mặt tiền của căn nhà búp bê hiện có lối
vào mà không có cánh cửa, và ráng dựng đứng tấm vách ấy trên cát. Sau cùng, em
thành công. Em chọn lựa một cái xe con và đẩy nó chạy vòng trên cát. Em ngồi chồm
hổm trên bờ bể cát, cúi xuống trong một tư thế có vẻ vụng về và không thoải mái.
“Em phải vào hẳn trong thùng cát” – em nói. Em len vào bên
trong thùng cát, ngồi vào giữa, nhìn tôi, mỉm cười. “Bữa nay. Em lết xuống cát.
Từng chút từng chút một em lọt xuống cát”.
“Cát lọt vào giày em” – em quan sát – “Vậy, để em tháo giày
ra”. Em tháo một chiếc giày ra. Em ấn chân sâu xuống cát. Rồi em quay mình nằm
sấp trên cát, cọ hai má xuống cát, thè lưỡi ra nếm cát. Em nghiền nát giữa hai
hàm răng. Em ngước nhìn tôi.
Chà, cát dòn và chích, nếm chẳng có mùi vị gì. Có phải vô vị
là như thế này không? Em bốc lấy một nắm cát và để nó chảy xuống đầu, xoa cát
trên tóc. Em cười. Bỗng nhiên, em giơ cao chân lên. “Coi nè” – em la lớn – “Vớ
em có lỗ. Một chân em mang vớ lủng!”
– Cô cũng thấy thế.
Em nằm duỗi dài trong thùng cát. Em lăn qua lăn lại. Em lún xuống
cát, và với hai tay em bốc cát đắp lên mình. Cử chỉ của em tự do, cởi mở, thoải
mái. “Đưa cho em bình sữa” – em ra lệnh. Tôi đưa cho em “Em coi như đây là cái
nôi nhỏ của em” – em nói. Em cuốn mình lại như trái banh đẹp đẽ, và em làm như
mình còn bé. Em làm theo lời nói, mãn nguyện mút bình chai. Đột nhiên, em ngồi
lên, cười với tôi.
– Em sẽ hát cho cô nghe. Em sẽ sáng tác một bài ca và hát cho
một mình cô nghe nhé!
– Được.
Em ngồi, xếp bằng. “Em đang suy nghĩ”.
– Được. Cứ việc nghĩ nếu em thích.
“Em sẽ đặt lời trong khi hát” – Em cười
– Được lắm.
Em thở thật sâu. Rồi em bắt đầu hát. Dường như em cũng đang
sáng tác nhạc. Giọng em trong sáng, du dương và dịu dàng. Âm nhạc tương phản với
lời mà em đặt. Em chắp tay lại. Vẻ mặt của em nghiêm trọng. Trông em như một cậu
bé trong ca đoàn. Mặc dù những lời của em không giống ca đoàn chút nào.
“Ồ, em ghét – ghét – ghét” – em hát – “Ghét những bức vách,
ghét những cánh cửa khóa, ghét người xô đẩy em vào. Em ghét nước mắt, ghét lời
cay đắng. Em sẽ giết hết với chiếc rìu con, đập dập nát xương, nhổ lên trên
đó”. Em bới cát lên, nhặt một tên lính, lấy búa cao su nện và nhổ lên nó. “ Ta
nhổ vào mặt mi. Ta nhổ vào mặt mi. Ta vùi đầu mi sâu trong cát” – em hát. Giọng
em rung lên ngọt ngào, thánh thót. “Và những cánh chim từ Đông bay về hướng Tây
– em muốn thành chim – em sẽ bay xa vượt những bức tường, thoát ra khỏi cửa,
xa, xa, xa hẳn kẻ thù. Em bay, bay vòng quanh thế giới, rồi về với cát, trở lại
phòng chơi, về với bạn bè. Em đào xuống cát. Em vùi xuống cát. Em hất cát lên.
Em chơi trong cát. Em đếm hạt cát. Em lại trở thành trẻ thơ”.
Em lại mút bình chai. Em cười với tôi.
– Cô có thích bài ca của em không?
– Đúng là một bài ca khác thường.
– Vâng. Đúng là bài ca khác thường.
Em bước ra khỏi thùng cát, đi về phía tôi, nhìn vào đồng hồ của
tôi. “Còn mười phút nữa” – em nói, và đưa mười ngón tay lên.
-Vâng. Mười phút nữa.
– Cô, cô đang nghĩ còn mười phút nữa thì đến giờ về.
– Đúng. Đó là điều cô nghĩ. Em nghĩ thế nào?
“ A ha!” – em reo. “Cô muốn biết à? Được, em nghĩ, sắp đến giờ
về. Em sẽ lấy hết lính ra. Hai người này có súng. Và chiếc máy bay này, giống
như con chim. Máy bay, bay, ồ, máy bay, đầy cát. Bay vòng quanh, bay vòng
quanh. Bay cao đến tận trời!” Em chạy chung quanh phòng chơi, cầm chiếc máy bay
thật cao, di chuyển duyên dáng và nhịp nhàng. “Ồ máy bay, hãy nói cho ta biết!
Mày có thể bay cao tới mức nào? Mày có thể bay cao tới trời xanh không? Có thể
bay vượt lên vòm trời hay không? Hãy nói cho ta, chiếc máy bay khả ái, mày có
bay khả ái, mày có bay được không? Hỡi máy bay…” Đột ngột, em ngưng mọi hoạt động,
em chú ý lắng nghe. Em buông chiếc máy bay rơi trên cát. Mọi hớn hở vui tươi
nơi em đột nhiên biến mất.
“Có con Dorothy” – em nói. Em lại chỗ thùng cát, leo vô, và với
cái xẻng đào cánh cửa và những tấm vách của căn nhà búp bê. “Những cái này chưa
chôn được” – em nói. Em ngước nhìn lên nhìn tôi, sự buồn phiền làm môi em mím,
trán em nhăn.
– Bây giờ còn chín phút nữa phải không? – Em hỏi tôi, giọng
êm buồn thiu.
– Không. Chỉ còn năm phút nữa.
– Hả? – Dibs nói, đưa năm ngón tay lên – Bốn phút kia đi đâu
rồi?
– Em không nghĩ đến bốn phút đã qua rồi ư?
– Sắp đến giờ về rồi. Dù em không muốn về. Dù thế nào đi nữa,
thì cũng tới lúc báo cho chúng ta biết là hết rồi.
– Phải, dù sao thì cũng hết giờ rồi.
Có tiếng máy xe vận tải chạy.
– Kìa xe vận tải chạy kìa. Cô có nghe thấy không?
– Cô nghe chứ.
– Cũng đến giờ xe vận tải ra về.
– Phải, cô cũng nghĩ như vậy.
– Có lẽ xe vận tải cũng không muốn về?
– Có thể là như vậy.
– Còn mấy phút nữa cô nhỉ?
– Ba phút.
Dibs cầm tấm cửa của căn nhà búp bê trong tay và nhìn nó.
– Em phải lắp cánh cửa này vào căn nhà và khóa tất cả cửa lớn,
cửa sổ lại. Cây búa đâu để đóng đinh cánh cửa?
– Không có cái búa nào ở đây cả. Em cứ để lại trên kệ – hay ở
trong căn nhà búp bê, nếu em muốn. Ông bảo vệ sẽ gắn vào sau.
Dibs đặt tấm cửa lên mặt bàn, thay đổi ý kiến, dời nó đi và cất
vào trong căn nhà búp bê. Em đóng những cửa sổ của căn nhà.
“Cô giúp em mang giày với” – em vừa nói vừa đưa chiếc giày
cho tôi rồi ngồi xuống chiếc ghế con để tôi xỏ giày cho. “Giúp em mang nón,
mang áo với” – em nói. Bỗng em trở thành bất lực.Tôi giúp em.
Mọi người đều ngủ trong nhà – em nói -Và bên ngoài là đêm đầu
xuân…Vào giờ tối thui và họ ngủ và nói rằng họ sẽ ngủ và ngủ nữa, ngủ ở đây có
lúc ấm, có lúc lạnh, nhưng luôn luôn an toàn. Ngủ và chờ đời. Ngủ và chờ đợi.
Và lắp vào căn nhà của họ một thứ cửa khác. Một cái cửa bất kỳ lúc nào mình bước
tới là mở tung. Không khóa. Không chìa. Không đóng sập lại. Và bây giờ thì em
xin từ biệt – Dibs nói thêm, đứng trước mặt tôi, nhìn tôi, nghiêm trang – Cô nhớ
cho nhé. Em sẽ trở lại.
– Ờ. Em sẽ trở lại. Cô vẫn nhớ mà.
Dibs nhìn thấy hình một con vật nhỏ cắt từ tờ giấy, bỏ vào sọt
rác.
– Em xin tấm hình này – em vừa nói vừa nhặt lên – Em xin được
không?
– Được.
Dibs cất vào túi.
– Cô nói thế này nhé: Được, Dibs, em có thể lấy đem về nhà. Nếu
đó là điều mà em thích, Dibs, thì hay lắm.
– Được, Dibs, em có thể lấy đem về nhà – tôi nhắc lại đúng lời
em – Nếu đó là điều mà em thích, Dibs, thì hay lắm.
Dibs mỉm cười, em đưa tay vỗ nhẹ vào tay tôi. “Thật là tốt!”
– em nói. Em mở cửa bước một bước ra hành lang, rồi lùi lại và nhìn vào chiếc đồng
hồ đeo tay của tôi. Em với năm đấm cửa và dập cửa thật mạnh. “Chưa” – em nói -
“Chưa tới giờ. Mới bốn giờ mười lăm. Em đợi tới lúc chuông nhà thờ vang lên”.
– Bữa nay em tới sớm nên phải về sớm. Em ở đây cả giờ rồi.
Dibs đăm đăm nhìn tôi lâu cả phút.
– Em đến có sớm hơn, nhưng giờ ra về vẫn vậy – em tuyên bố.
– Không. Bữa nay giờ về cũng phải sớm chứ.
– Ồ không. Em đến sớm, nhưng em không về sớm.
– Có. Em về sớm. Bởi vì hôm nay em phải đi bác sĩ. Em nhớ ra
chưa?
– Nhớ ra không có dính líu gì đến việc này cả.
– Bây giờ em không muốn về. Nhưng…
– Đúng vậy – Dibs nói tranh lời tôi. Em nhìn tôi thăm dò.
– Em có chắc như vậy không?
Em thở dài
– Em dám chắc như vậy. Thôi được, bây giờ em về.
Em hy vọng bác sĩ lấy kim chích Dorothy và em hy vọng ông ta
làm đau cho nó phải la, phải khóc, và trong bụng em cười, em sung sướng vì nó bị
đau. Em giả bộ như là em không quan tâm đến chuyện ấy. Chào cô, thứ năm tới em
lại gặp cô.
Dibs đi dọc dãy hành lang và vào phòng tiếp nhận nơi má em và
Dorothy đang đợi em. Em làm ngơ như không biết có em gái, cầm tay mẹ, rời khỏi
Trung Tâm không nói với ai nữa lời.
CHƯƠNG 10
Tuần sau khi Dibs trở lại, em bước những bước khoan thai, thoải
mái đến phòng chơi. Em ngừng bên cánh cửa quay tấm bảng nhỏ treo trên cửa. “Yêu
cầu đừng quấy rầy” – em đọc.
Em bước vào phòng, bỏ nón áo ra và treo lên núm cửa. Em thu
lượm bốn cây súng để quanh phòng và đưa chúng vào rạp múa rối. Em bước ra, nhặt
một chiếc máy bay có chong chóng gãy. Em ngồi vào bàn và lặng lẽ sửa chữa cánh
quạt gãy một cách có hiệu quả.
Em lấy hộp đựng gia súc, xếp đặt từng loại, gọi tên những con
vật. Rồi em ra chỗ bể cát, leo vào, em kỹ căn nhà giống hệt thế này trong tiệm
bán sắt ở đại lộ Lexington” – em tuyên bố.
– Em thấy à?
– Vâng, em thấy – Giống hệt như cái này. Cùng kích thước.
Cùng màu sắc. Làm bằng kim chỉ. Giá hai đô la chín mươi tám xu.
Em nhìn vào lò sưởi điện. “Bữa nay trong này nóng” – em nói –
“Em tắt lò sưởi”.
“Có nhiều thứ đồ chơi trong tiệm bán đồ sắt” – em nói – “Có một
chiếc xe nhỏ vận tải nhỏ, giống như cái này”. Em đưa ra một chiếc xe vận tải nhỏ
tôi xem. “Một chiếc xe vận tải trút về đằng sau với một chiếc tay quay để cát tụt
xuống”.
– Một xe vận tải giống như thế này?
Vì một lý do nào đó Dibs dường như lần lữa đợi chờ. Nhưng xem
ra em có vẻ rất thư thái. “Có nhiều cái như thế này. Nhưng không giống hẳn. Em
có thể nói là hầu như cùng kích thước. Và máy móc cũng giống như cái này. Nhưng
không sơn cùng màu và có tên in ở bên hông. Được làm thứ kim loại nặng hơn. Họ
đòi một đô la bảy mươi lăm xu ở trong tiệm.
Em đổ cát lên chiếc xe vận tải nhỏ, quay tay, nâng cao thùng
xe lên, trút cát xuống, quay tay hạ thấp xuống vị trí lúc ban đầu và làm lại
công việc này nhiều lần. Một đống cát bắt đầu hình thành trước mặt em trong lúc
em làm công việc này. “Nó sẽ làm thành trái đồi để em leo” – em nói – “Em có thể
chơi trò lính ra trận”.
Em nhảy khỏi bể cát, vội vã chạy băng qua phòng chơi, nhặt
lên một cái trống. Em ngồi xuống bở bể cát và đánh trống bằng hai chiếc dùi.
“Trống, chiếc trống ngộ nghĩnh” – em nói. “Ôi trống, đầy âm thanh. Âm thanh chậm.
Âm thanh nhanh. Âm thanh dịu dàng. Đánh – đánh – đánh lên trống ơi. Nhào vô –
nhào vô – nhào vô hô. Xung phong! Xung phong! Xung phong! Xung phong! Trống
thét. Theo ta. Theo ta”. Em cẩn thận đặt trống lên thành bể cát, leo vào trong
cát, bắt đầu xây đồi cát. “Một ngọn đồi cao, thật là cao. Và tất cả những người
lính cố gắng để leo lên tận đỉnh đồi. Họ muốn leo lên đỉnh đồi hết sức”. Em vội
vã đắp đồi, chọn một số lính đặt họ ở những tư thế khác nhau, như đang leo đồi.
– Họ có vẽ muốn leo lên đỉnh đồi phải không?
– Vâng – Dibs đáp. Thật tình họ muốn lắm.
Em thu tất cả lính mà em có thể gom góp được. Em đặt chúng
chung quanh đồi cát mà em đã đắp. “ Em lấy thêm lính” – em nói – “ Em sẽ để
chúng ráng leo lên đồi lên đỉnh đồi. Bởi vì chúng biết là có gì trên đỉnh đồi nếu
chúng leo lên được tới đỉnh. Và vì thế chúng mới muốn lên đỉnh như vậy”.
Em nhìn tôi mắt sáng ngời.
– Cô có biết có gì trên đỉnh đồi không?
– Không. Có gì vậy?
Dibs cười thông cảm nhưng giữ bí mật. Em nhích từng tên lính
thong thả từng chút một theo hướng đỉnh đồi. Nhưng khi em đã di chuyển tất cả
những tên lính chỉ còn cách mục tiêu chừng một gang tay, em đổ thêm cát cho đỉnh
cao hơn. Rồi cho lính quay lại từ từ, em cho lính xuống đồi từng tên một. Em
cho lính từng tên một tiến về căn nhà nhỏ, đựng trong hố cát.
– Bữa nay lính không lên được tận đỉnh đồi!
Lính về nhà. Lính quay lại vẫy tay. Chúng muốn lên đỉnh đồi.
Nhưng bữa nay chúng không lên được.
– Và chúng thấy buồn, chúng buồn vì không làm được điều muốn
làm có phải không?
– Vâng – Dibs thở dài – Chúng muốn làm, nhưng chúng không làm
được. Nhưng chúng đã tìm ra ngọn đồi. Và chúng đã leo lên, lên, lên, lên được
nhiều lắm. Và có lúc nghĩ là sẽ leo tới đỉnh. Trong lúc nghĩ rằng mình có thể
leo được, chúng vui lắm.
– Nguyên việc cố gắng leo lên đỉnh đồi cũng làm cho họ vui à?
– Vâng. Với đồi núi là vậy. Cô đã leo đồi bao chưa?
– Có. Còn em thì sao, Dibs?
– Có. Có lần em leo rồi. Em không leo tới đỉnh – em nói thêm
đầy vẻ nghĩ ngợi. Nhưng em đứng dưới chân đồi và nhìn lên. Em nghĩ là mỗi đứa
trẻ nên có một ngọn đồi riêng. Đây em nghĩ rằng nên như vậy – em nói thêm và
nhìn tôi gật đầu như để nhấn mạnh thêm cho lời nói.
– Những điều này có vẻ quan trọng với em lắm phải không?
– Vâng. Rất quan trọng.
Em nhặt cái xẻng kim loại và lặng lẽ chăm chú đào một cái hố
sâu trong cát. Em chọn một tên lính và để riêng ra một bên. Sau khi em đã đào
xong chiếc hố em cẩn thận đặt tên lính xuống đáy hồ và xúc cát đổ lên. Khi huyệt
đã được lấp đầy, em lấy xẻng nện lên. “Tên này vừa bị chôn” – em nói – “Tên này
không thể có cơ hội để leo lên đồi. Và dĩ nhiên, nó không lên được tới đỉnh. Ồ,
nó muốn lắm. Nó muốn được ở với những người khác. Nó cũng muốn hy vọng nhưng nó
không có cơ hội. Nó bị chôn”.
– Thế là tên này bị chôn – Tôi bình luận – Nó không có cơ hội
leo lên đỉnh đồi. Nó không được lên tới đỉnh?
– Nó bị chôn – Dibs vừa nói vừa nghiêng về phía tôi- Không những
nó bị chôn, mà em còn đắp một trái đồi thiệt lớn, thiệt cao, thiệt kiên cố trên
cái gò má ấy. Sẽ không bao giờ có cơ hội leo lên ngọn đồi nào nữa!
Em xúc cát bằng hai tay đầy và đắp ngọn đồi trên ngôi mộ –
trên người lính bị vùi lấp. Khi ngọn đồi đắp xong, em phủi tay sạch cát, ngồi xếp
bằng, nhìn vào đấy. “Tên này là Ba” – em điềm đạm nói rồi leo ra ngoài bể cát.
– Ba được chôn dưới ngọn đồi ư?
– Vâng. Đúng là Ba.
Chuông nhà thờ vang lên, Dis đếm tiếng chuông điểm giờ. “Một.
Hai. Ba. Bốn. Bốn giờ rồi. Ở nhà em có chiếc đồng hồ và em biết coi giờ”.
– Em có đồng hồ ư? Và em cũng biết xem đồng hồ à?
– Vâng. Có nhiều loại đồng hồ khác nhau. Có thứ phải lên dây,
có thứ chạy điện, có thứ có chuông reo, có thứ điểm nhạc.
– Của em loại nào?
Dibs dường như rút lui khỏi việc chôn cất bằng câu chuyện trí
tuệ này. Tôi sẽ hướng theo em. Cần phải có thời gian để em giải tỏa những tình
cảm này đối với người cha. Nếu như em cảm thấy ông ta đã len lỏi vào đầu óc em,
nếu như em cảm thấy hơi hoảng sợ cái trò em vừa chơi, và nếu như em tìm thấy đường
tháo thân vào sự an toàn của câu chuyện về những thứ vật chất – như em đã nói về
đồng hồ – tôi không hối thúc em vào việc thăm dò tình cảm của em. Em đã tự xác
định rất rành mạch về tâm tình của em trong trò chơi vừa qua.
– Đồng hồ báo thức của em có chuông nhạc. Em lên dây cót. Em
cũng có một đồng hồ đeo tay. Và một chiếc ra-đi-ô gắn đồng hồ.
Em cầm trống lên và đánh chầm chậm. “Em gõ trống cho Ba”.
– Như vậy những tiếng trống chầm chậm này là đánh cho Ba?
– Vâng.
– Bây giờ tiếng trống nói gì vậy?
Dibs đập trống mạnh và chậm. “Ngủ, ngủ, ngủ, ngủ. NGỦ – NGỦ –
NGỦ NGỦ – NGỦ – NG-U-U-U-U-U!” và mỗi chữ em đều tăng dần nhịp độ. Em kết thúc
bằng một hồi trống sôi nổi.
Dibs ngồi đó, đầu cuối xuống. Tiếng trống im bặt. Lúc đó em đứng
lên và lặng lẽ cất trống vào rạp hát nhỏ và đóng cửa lại. “Tao để mày vào đây
trống ơi” – em nói- “Cất trống vào phòng nhỏ và đóng cửa lại”.
Rồi em vào rạp hát nhỏ, đóng cửa lại đằng sau em. Có một cửa
sổ nhỏ trong rạp hát ba góc này, nhìn ra bãi đậu xe. Đứng chỗ cửa sổ này, Dibs
có thể nhìn thấy phía sau nhà thờ. Tôi không nhìn thấy Dibs nhưng nghe tiếng em
nói rõ ràng.
“Đây là phía sau nhà thờ” – em nói- “Nhà thờ lớn, lớn quá.
Nhà thờ nhô cao đến tận trời. Nhà thờ đánh nhạc. Nhà thờ đánh chuông – một,
hai, ba, bốn, lúc bốn giờ. Nhà thờ lớn có những bụi cây chung quanh và người ta
vô đó”. Sau một lúc lâu im lặng, em tiếp tục nói. “Và vòm trời. Có khoảng trời
cao trên kia. Và một con chim. Có chiếc máy bay. Có khói”. Thêm một hồi im lặng
nữa. “Và Dibs đứng bên cửa sổ nhỏ, nhìn ra bao la”.
– Thế giới nhìn từ chỗ em đứng rộng lớn lắm nhỉ? – Tôi góp
chuyện.
– Đúng lắm – em nhẹ nhàng nói – Lớn lắm! To lớn lắm!
– Cái gì cũng lớn lắm à?
Dibs từ rạp hát nhỏ bước ra. Em thở dài. “Nhưng Dibs thì
không. Dibs không lớn cỡ nhà thờ đâu.”
– Cái gì cũng lớn cả, khiến Dibs cảm thấy mình nhỏ phải
không?
Em trèo vào bể cát. “Ở đây lớn lắm” – em nói – “Em bạt đồi.
Em sang bằng nó”, em làm đúng lời. Em san bằng ngọn núi. Em để cát chảy qua kẻ
tay. “Ồ, ngọn đồi bình địa” – em nói – “Ồ, ngọn núi bình địa!”
Em nhìn tôi và mỉm cười. “Chúng em đã đến tiệm sửa giày để lấy
giày cho Ba” – em nói- “Chúng em đi dọc đại lộ Lexington. Chúng em xuống đường
bảy mươi hai. Có xe buýt, có xe tắc xi và ở đại lộ số Ba, có đường chạy ngang
trên đầu. Chúng em có thể đi xe buýt. Chúng em có thể đi tắc xi. Chúng em có thể
đi bộ. Nhưng chúng em không làm như vậy. Chúng em đi xe nha.”
– Em có thể đi được bằng nhiều cách, nhưng em đi bằng xe
riêng à?
Dibs cuối sát vào tôi. Mắt em long lên.
– Ồ, cô quên rồi sao – em trách nhẹ tôi – Chúng em đã phải lấy
giày cho Ba.
– Ông thợ vá lại và sửa lại nữa.
– Này Dibs tới giờ phải đi rồi.
Tới giờ phải đi – Dibs đồng ý. Em đứng dậy – Tới giờ từ năm
phút trước đây rồi.
Dibs nói rất đúng. Tôi không muốn ngắt quãng chuyện của Dibs
kể về chuyện đi lấy giày cho Ba. “Đúng, em nói đúng” –tôi bảo. “Quá năm phút rồi.”
Dibs lấy nón ra khỏi rạp hát nhỏ. “Cái phòng con này ngộ lắm”
– em nói khi ra khỏi đó, vừa đội nón, mặc áo vừa nói – “Một cái phòng nhỏ ngồ
ngộ với cái lỗ ở cửa ra vào và một khung cửa sổ trong đó”. Em băng qua căn
phòng và nhặt đôi giày lên. “Đôi giày mới” – em khoe. Em ngồi xuống tự mang lấy
giày không cần có sự tiếp tay. Trước khi em mang giày, em đưa cả đôi chân về
phía tôi. “Cô xem thấy chưa?” –em nói - “Vớ mới nữa, không có lỗ. Không có lỗ thủng.
Ở phòng mạch bác sĩ mà mắc cỡ quá”. Em cười. Em cột dây giày rất chặt và gọn.
Em đứng dậy. Lúc em ra khỏi cửa em đứng lại, quay ngược tấm bảng nhỏ lại. “Bây
giờ tha hồ làm rộn” – em nói – “Chúng ta đi thôi.”
CHƯƠNG 11
Thứ năm tuần sau đó khi Dibs trở lại, em vui vẻ bước vào phòng
chơi. Em bỏ nón, bỏ áo quăng lên một chiếc ghế! “Văn phòng của của cô A số mười
hai” – em tuyên bố! – “Phòng này số mười bảy. Chiếc ghế này có số ở lưng ghế. Số
mười ba. Cô thấy không?” Em nhanh nhẹn quay ghế lại, lấy ngón tay phớt nhẹ lên
con số.
“Đúng vậy” – tôi nói theo. Có nhiều lúc em có vẻ tỉ mỉ chú ý
đến chi tiết cụ thể.
Em đi đến tủ đựng đồ đạc và chọn một cái hộp chứa căn nhà nhỏ
của một làng búp bê. Em ngồi xuống sàn lựa ra những căn nhà con con, những cửa
tiệm, nhà máy, những ngôi nhà thờ, và những tòa nhà khác. Có những cây con để
trồng khắp làng. Sau khi xây cất xong Dibs hoàn toàn bị những vật dụng này thu
hút. “Đây là một làng búp bê” – em nói – “Xem chúng ta có những thứ gì nào. Nhà
thờ. Nhà ở. Cây cối. Em sẽ xây dựng một làng với những thứ này”. – “Đây là hai
nhà thờ. Em sẽ khởi công bằng những nhà thờ. Em sẽ đặt ngôi nhà thờ lớn này làm
trung tâm giữa làng. Và em để ngôi nhà thờ nhỏ ở chỗ này. Em lựa ra những ngôi
nhà ở và xếp thành những dãy nhà thẳng hàng lối. Đây sẽ là một khu xã nhỏ, để
có nhiều khu trống quanh các khu nhà. Cô có thấy ngọn tháp nhà thờ không? Đây sẽ
là một thế giới đầy nhà cửa.”
Em nằm dài trên sàn, má áp xuống sàn nhà. Em di chuyển một ít
tòa nhà. “ Em đã tạo nên một thị xã nhỏ này” – em nói – “Chỗ này em đã tạo ra một
thế giới nhỏ đầy nhà. Em đã trồng cây quanh đó. Em tưởng tượng ra vòm trời,
mưa, những luồng gió nhẹ. Em mơ tới bốn mùa. Và bây giờ em gợi ra mùa xuân. Cây
ra lá. Ở trong thị xã nhỏ yên tĩnh này, cái gì cũng dịu dàng, tốt đẹp và yên ấm.
Có những người đi bộ dọc theo đường phố. Những cây lặng lẽ mọc lên theo đường
đi.”
Em đặt thêm nhiều cây chung quanh làng. Cây này có những cành
lá xanh” – em nói – “Nó mọc ở đây, vươn lên thẳng, thẳng lên trời. Nó thì thào
nhiều điều bí mật khi gió thổi qua. “Hãy nói cho ta biết mi đi đâu?” – Cây hỏi
gió- “Hãy nói cho ta biết mi đã từng thấy những gì? Bởi vì ta có rễ chôn chặt
chân ta vào đất và ta phải vĩnh viễn đứng lại. Và gió thì thầm trả lời. “Ta
không khi nào đứng lại. Ta thổi đi xa. Xa, xa, xa mãi, xa thật xa. Và cây kêu
lên. Ta muốn đi với mi, ta không muốn đứng đây một mình buồn bã. Ta muốn đi với
mi. Mi có vẻ vui ghê! Ô, này…”
Dibs đứng dậy đi về phía bàn. Em nhặt lên bộ tranh lắp ráp,
em ngồi xuống sàn dưới chân tôi và mau chóng ráp những mảnh lại thành hình.
“Đây là Tom, Tom con trai ông thổi sáo” – em nói – “Ở trường em có bài ca về bức
tranh này. Để em hát cô nghe”. Dibs hát, lời và nhạc thật đúng. “Hết” – em báo,
khi vừa hát xong.
Em học bài này ở trường phải không?
– Vâng. Cô Jane là cô giáo em. Cô Jane là một phụ nữ đã lớn.
Cô A là một phụ nữ đã lớn. Có nhiều người đã lớn.
– Em có quen những người đã lớn khác không?
– Lẽ dĩ nhiên là có – Dibs đáp – Cô Hedda nè. Có các cô khác ở
trường nữa. Có bác Jacke làm vườn cho nhà em. Có cô Millie giặt đồ. Bác Jacke
chặt một cành cây lớn trong sân nhà em. Cây đó ở ngoài cửa sổ phòng em, nó xòe
cành gần đến nỗi em có thể đưa tay qua cửa sổ và sờ được. Nhưng Ba em muốn chặt
cành ấy đi. Ba nói là cành đó cọ vào nhà. Em nhìn thấy bác Jacke leo lên cây,
cưa cành. Em mở cửa sổ phòng và nói với bác ấy rằng cây ấy là bạn em và cần cây
ấy. Bác Jacket nói là em thích cành ấy, bởi vì nó rất gần, em có thể với qua cửa
sổ và sờ nó. Ba nói là ông vẫn muốn cành đó được chặt. Ba nói ông không muốn em
nghiêng mình qua cửa sổ. Ông nói là ông không biết em làm chuyện ấy và ông sẽ gắn
lưới an toàn trên cửa sổ để em không bị té. Rồi ông bảo bác Jacke phải chặt
cành ấy ngay. Bác Jacke bảo bác có thể chặt một chút ở đầu cành để nó đứng cọ
vào tường nhà vì bác biết em thích cành ấy. Nhưng Ba nói rằng em có nhiều thứ để
chơi. Ông bắt bác Jacke phải chặt cành xa cửa sổ để em không còn với tới nữa.
Nhưng bác Jacke dành cho em cái ngọn cây mà em vẫn thường vuốt. Bác Jacke bảo
em có thể giữ cành cây này trong phòng em – không phải cây nào cũng có được một
cành thân yêu được sống trong nhà đâu. Bác nói với em đó là một cây du du cổ thụ.
Bác bảo nó khoảng hai trăm năm và trong thời gian đó có lẽ không một người nào
đã thương yêu n tha thiết như em. Như thế nào em cũng giữ lại cái ngọn cành
cây. Bây giờ em vẫn còn giữ nguyên.
– Việc đó xảy ra lâu mau rồi?
– Cách đây một năm. Nhưng bác Jacke cũng không giúp gì được.
Bác đã chặt cành đó.Và rồi có người đến gắn lưới an toàn. Một cái ở cửa sổ
phòng em, một cái ở cửa sổ phòng Dorothy.
– Có ai biết là bác Jacke cho em cái ngọn cành ấy không?
– Em không biết. Em không kể cho ai nghe cả. Em vẫn giữ cái
ngọn ấy, em không cho ai mó vào. Em sẽ đá, sẽ cắn nếu có người nào đụng tới nó.
– Cành này đối với em quí lắm phải không?
– Vâng, quí lắm.
– Em có ưa chơi với bác Jacke không?
– Có, bất kỳ lúc nào được ra sân là em đến với bác Jacke. Bác
nói chuyện cho em nghe. Em lắng nghe những điều bác nói. Bác kể cho em nghe đủ
thứ chuyện. Bác nói cho em nghe về thánh Francis ở thành Assisi. Ông Francis sống
từ thời xưa, ông cũng yêu chim, yêu cây, yêu gió, yêu mưa. Ông nói mấy thứ đó
là bạn. Chúng là bạn thật đấy. Còn dễ thương hơn người nữa – Dibs nói thêm, nhấn
giọng thật mạnh.
Em xốn xang đi vòng quanh phòng chơi. “Em ngắm cây” – em nói
– “Bây giờ em vẫn ngắm cây. Vao mùa Xuân lá trổ xòe ra và xanh ra vì mưa đem lại
cho chúng màu xanh tươi. Chúng nở ra vì vui mừng thấy mùa Xuân trở lại. Và suốt
Hè chúng che bóng mát thân yêu. Rồi đến mùa Đông, lá bay xa. Bác Jacke nói rằng
vào mùa Thu gió đến với chúng đem chúng đi du lịch vòng quanh thế giới. Một lần
bác kể em nghe chuyện về một chiếc lá bỏ sót trên cành cây ấy. Bác nói chiếc lá
nhỏ buồn lắm vì nó nghĩ rằng nó bị bỏ rơi và nó sẽ không được đi đâu nữa. Nhưng
gió đã trở lại để đón chiếc lá nhỏ cô đơn và thổi nó đi một chuyến du lịch tuyệt
vời nhất mà chưa được ai hưởng. Bác nói rằng chiếc lá nhỏ này được thổi quanh
trái đất và được nhìn thấy tất cả những kỳ lạ trên thế giới. Và sau khi nó đã
đi khắp thế giới, nó trở lại sân nhà em, bác Jacke nói, bởi vì nó nhớ em. Và một
ngày mùa Đông bác Jacke gặp nó dưới gốc cây nhà em. Nó mệt hết sức, gầy yếu,
khô cằn sau một chuyến du lịch dài. Nhưng bác Jacke nói rằng nó muốn trở về với
em vì nó không gặp được một người nào khác trên thế giới nó có thể thích như
em. Vì thế bác cho lại em. Dibs đi lại một vòng nôn nao quanh phòng. Em dừng lại
trước mặt tôi. “Em giữ lại chiếc lá đỏ” – em nói – “Nó mệt và già lắm. Nhưng em
giữ chiếc lá ấy, em lồng nó vào khung kính. Em tưởng tượng ra một số đồ vật mà
nó được xem trong khi bay cùng thế giới với gió. Và em đọc trong những cuốn
sách của em về những nước mà nó đã từng thấy”.
Em đi lại chỗ tôi.
– Giày của em – em nói với giọng điệu nhõng nhẽo hồi trước –
Cô A, buộc dây cho em đi.
– Được, Dibs. Để cô buộc cho em.
Em cầm bình chai lên và bú. Em thở dài.
– Em cảm thấy buồn hay sao?
Em gật đầu. “Buồn”.
– Bác Jacke còn làm vườn cho nhà em không?
– Không. Không làm nữa. Ba nói bác ấy già quá rồi và từ khi
bác lên cơn đau tim thì không làm việc này nữa. Nhưng đôi khi bác vẫn lui tới.
Em và bác ấy gặp nhau ở ngoài sân. Bao giờ bác cũng kể một chuyện cho em nghe.
Nhưng lâu nay không thấy bác tới nữa. Em nhớ bác ấy quá.
– Đúng rồi. Cô cũng chắc vậy. Dibs, chắc bác là người tử tế lắm.
– Ồ, đúng đấy. Em thích bác ấy lắm. Em đoán, có lẽ bác ấy là
một người bạn? – Em hỏi với vẻ tư lự
– Cô đoán bác ta là người bạn thật đấy. Một người bạn rất tốt.
Dibs đi ra cửa sổ im lặng nhìn ra ngoài một hồi lâu. “Bác
Jacke chúa nhật nào cũng đi nhà thờ”. Em nói và chỉ tay về phía nhà thờ -“Bác
nói là bác đi nhà thờ.”
– Còn mười phút nữa phải không cô?
– Không.
– Còn chín phút nữa?
– Không.
– Tám phút nữa?
– Phải. Tám phút nữa.
– Vậy để em chơi với gia đình búp bê và căn nhà trong ít phút
còn lại.
“ Sửa soạn cho mấy người lớn vô giường” – em nói và lựa những
con búp bê và xếp vào những phòng ngủ – “Bây giờ đến con nít. Đây là em bé. Chị
bếp nằm đây. Và đây là chị giặt đồ. Chị giặt đồ than là mệt. Chị muốn nghỉ
ngơi. Đây là những chiếc giường. Đây là phòng của Ba. Mi không được vô đây. Mi
không được quấy rầy ông. Ông mắc bận. Đây là phòng của Má. Đây là giường của
Ba. Và mỗi người con có phòng riêng. Chị bếp có phòng riêng, có giường. Chị
cũng than là chị mệt. Và chị giặt đồ không có giường. Chị phải đứng coi máy, và
đứa trẻ này đôi khi chạy xuống nhà giặt và hỏi chị ấy tại sao chị không vào giường
ngủ nếu chị mệt.Chị trả lời rằng người ta mướn chị để làm việc chứ không phải để
nghỉ, nhưng Má nói rằng chị có thể kê chiếc ghế xích đu dưới đó. Chẳng có lý do
gì cấm chị nếu chị thích ngồi xích đu như vậy. Chị đã giặt đồ cho gia đình này
cả bốn mươi năm rồi. Đôi khi chị có thể ngồi đu một lúc, có phải thế không? Chị
bếp hỏi vậy. Nhưng chị giặt đồ nói rằng không được, bởi vì sẽ quấy rầy ông chủ
và chỉ có trời mới cứu được chúng ta nếu chúng ta quấy rầy ông ta. Nhưng chị bếp
nói rằng cứ để ông vô xối nước xà bông lên cái đầu già nua ấy. Rồi chị đuổi thằng
bé lên lầu, nói rằng trong nhà giặt chẳng có gì làm cho nó vui cả.Thế là thằng
bé trở lại lên lầu”.
Lúc ấy tôi vô ý vấp phải bức tranh mà Dibs đã ráp lại trên
sàn dưới chân tôi. Tôi cúi xuống, xếp ngay ngắn lại. Dibs liếc mắt nhanh nhìn
tôi.
– Cô đang làm gì thế?
– Cô đạp phải tranh hình của em và tấm hình Tom Tom, con trai
người thổi sáo bị bung ra.
Dibs tò mò nhìn tôi.
– Cô nói gì cơ? – Em hỏi lại – Em chẳng hiểu cô nói gì cả.
– Cô nói là cô vô ý đạp phải bức tranh lắp của em và bức
tranh Tom Tom, con trai người thổi sáo bung ra.
“Ồ” – Dibs nói. Chắc chắn là Dibs biết từng cử động diễn ra
trong phòng này dù em mải miết đến đâu với công việc riêng đi nữa. Dibs quì gối
xuống để xem tôi ráp lại đúng chưa. Em cho là đã được. Em đứng dậy và cầm lấy ổ
khóa của cửa phòng chơi. “Khóa lại nhé?” – em hỏi.
– Em không muốn khóa cửa?
– Đúng vậy – Em khóa cửa lại – Khóa rồi.
Sau đó một lúc, tôi bảo:
– Phải, cửa khóa rồi. Bây giờ em mở khóa cho cô đi, vì bây giờ
là giờ ra về!
– Vâng, dù cô biết là em không muốn về.
– Phải, dù cô biết là em không cảm thấy muốn về, nhưng có những
lần, Dibs, em phải về! Và đây là một lần ấy.
Em đứng trước mặt tôi, nhìn đăm đăm vào mắt tôi. Em thở dài.
“Vâng” –em nói- “Em biết. Ở đây em có thể làm được nhiều việc, nhưng rồi, cuối
cùng bao giờ em cũng phải về.” Em bắt đầu đi ra cửa.
– Còn nón áo của em này.
“Vâng. Nón áo của em” – em đáp. Em quay lại nhặt nón và đội
lên. Em kéo nón sụp sâu xuống đầu. “Nón áo của em” – em nói. Em nhìn tôi. “Em
chào cô A. Rồi thứ năm lại tới. Tuần nào cũng có một thứ năm. Tạm biệt cô”. Em
đi dọc dãy hành lang xuống phòng tiếp nhận. Tôi nhìn theo em. Em ngoái cổ lại vẫy
tay. “Chào cô”. Em chào thêm lần nữa.
Trẻ như thế, bé như thế, mà giàu nghị lực đến thế! Và tôi
nghĩ đến bác Jacke và tự hỏi liệu bác có biết là sự thông cảm và từ tâm của bác
đã trở thành yếu tố quan trọng giúp cho sự phát triển của em nhỏ này không? Tôi
nghĩ đến cái ngọn cành cây biểu tượng và chiếc lá nhỏ mong manh héo úa, tàn tạ ấy.
Tôi nghĩ đến câu nói đầy tư lự của Dibs: “Em nghĩ, có lẽ, lúc ấy là người bạn
không chừng?”
CHƯƠNG 12
Tuần nào cũng có một Thứ Năm và tuần lễ sau đó cũng không phải
là một biệt lệ. Nhưng, Dibs không thể tới phòng chơi được. Em bị lên sởi. Mẹ em
gọi điện thoại lại xin huỷn buổi hẹn. Vào thứ năm tuần kế tiếp em đã khá bình
phục nên đã hăm hở xuất hiện để được tham dự buổi trị liệu bằng trò chơi. Mặt
em còn mét và còn chấm đỏ, nhưng khi em đến phòng tiếp nhận, em tuyên bố: “Sởi
bay rồi, em khỏe nhiều rồi”.
– Bữa nay em hết sởi rồi ư?
– Vâng. Khỏi rồi, hết rồi. Cô cháu mình về phòng chơi đi.
Khi chúng tôi đi qua văn phòng tôi, Dibs ngó vào. Có hai người
đàn ông đang sửa máy ghi âm. “Có hai ông trong phòng chúng ta” – em nói.
– Em có ý nói là có hai ông trong văn phòng cô?
– Đúng. Mấy người đó sẽ làm việc ở đây trong khi chúng ta ở
phòng chơi.
– Cô cho người khác ở phòng cô à?
– Đúng. Đôi khi cô cho phép họ làm vậy.
– Họ làm gì trong đó?
– Họ đang sửa cái máy ghi âm.
Khi chúng tôi bước vào phòng chơi, Dibs bỏ nón, bỏ áo, quẳng
lên một chiếc ghế.
– Em tiếc thứ năm tuần trước quá – em nói.
– Ừ, cô biết chứ. Cô cũng biết là em bị lên sởi không đến được.
– Em có nhận được tấm cạc cô gởi cho. Tấm cạc làm em sung sướng.
Nhận được tấm cạc này làm em thích lắm.
– Như vậy thì cô cũng vui lắm.
– Cạc viết lời chúc em mau khỏi. Cạc viết là cô nhớ em.
– Đúng vậy.
– Em thích bó liễu lá bạc cho em. Nó là cả một mùa xuân. Những
cành liễu đẹp. Với những nụ non trên mỗi cành. Em thích những cành này. Ba nói
là chúng sẽ mọc rễ sau một thời gian dài ngâm trong nước và em có thể đem trồng
trong vườn. Ba nói chúng có thể mọc thành bụi. Chuyện đó có thể xảy ra được
không?
– Em nói là Ba em bảo như vậy. Còn em thì nghĩ thế nào?
– Em hy vọng là ông nói đúng. Nhưng để em tự quan sát xem
sao?
Tôi chú ý đến việc Dibs đá động tới sự nhận định của ba em.
Khó mà biết là lời kể lại này có phải là cách thức mới để người cha gần gũi với
Dibs không – hoặc giả là cha em đã có nhiều phen cố tình giải thích cho Dibs về
nhiều điều, mặc dù ông ta không nhận được sự đáp ứng nhất mực của em. Như thể
cô Jane đã từng làm ở trường. Như bác Jacke đã từng làm nhiều phen khi Dibs “chỉ
biết nghe thôi”. Nhưng bây giờ em đã học lại điều ấy cho tôi nghe nói một cách
mặc nhiên.
– Em đã nói gì khi ba em nói cho em nghe về những cành liễu
lá bạc? – Tôi hỏi, hy vọng thu thêm một chút hiểu biết nữa chăng.
– Em chẳng nói gì cả. Em chỉ biết nghe thôi.
Em lượn quanh phòng chơi, nhìn vào những hũ màu, nhìn vào những
vật dụng để trên bàn. Rồi em đi ra chỗ bể cát và bằng một cử động hồn nhiên và
thoải mái em nhảy vào cát. Em nằm dài ra. “Có muốn lột giày ra không Dibs?” –
em tự hỏi. “Không” – em đáp. “Vậy mi muốn làm gì, Dibs?” – em hỏi- “Tùy mi!”.
Em trở mình và úp mặt lên cát. “Em không có gì phải vội” – em nói – “Bây giờ em
cứ thế này thôi!”. Em thọc tay vào cát và lôi lên mấy căn nhà nhỏ đã được một
em nhỏ nào đó vùi xuống. Ồ, em tìm thấy đồ vật trong cát. Những ngôi nhà nhỏ.
Những thứ vụn vặt”. Rồi đột ngột em đi tới đầu kia của bể cát và bắt đầu đào
cát. Sau cùng, xẻng của em cào phải đáy bể bằng kim loại. Dibs với tay xuống
cát lôi lên một tên lính. Em nâng cao nó lên.
“Ố, là là! Thằng này đây!” – Em reo lên –“Thấy không? Thấy thằng
lính này không? Đây là thằng người mà em chôn dưới ngọn đồi của em. Em vui mừng
thấy nó vẫn bị chôn mấy tuần nay. Xin Ngài về ngay, về ngay! Về ngay mộ Ngài!”
Em lại chôn vùi tên lính nhỏ đi. Vừa làm, em vừa cất tiếng hát:
Anh biết không anh
Bác bán bánh bao
Bác bán bánh bao
Anh biết không anh
Bác nằm bơ vơ
Sống bên bụi bờ
Em nhìn tôi, mỉm cười. “Em học bài hát ấy ở trường” – em nói-
“Bây giờ em hát cho người bị chôn nghe:
Anh biết không anh
Cái thằng ma lanh
Cái thằng ma lanh
Anh biết không anh
Nó sống bơ vơ
Sống trong lòng mồ.
Dibs lớn tiếng cười. Em lấy xẻng nện trên nấm mồ để nhấn mạnh.
– Không. Em không nói chuyện nhiều với Ba.
– Em không nói à?
– Không
– Tại sao em lại không?
– Em không biết. Em đoán là chỉ vì em không nói thôi.
Em ngân nga một đoạn nhạc êm dịu.
– Em cũng học được ca khúc này ở trường – em khoe.
Ở trường em có hát ca khúc này không?
– Em học được ca khúc này ở trường. Em hát đây cho cô nghe
thôi.
– Ạ!
Đặt những câu hỏi trong trị liệu là điều rất hữu ích nếu có
người nào trả lời những câu hỏi đó một cách chính xác. Nhưng không có ai trả lời
nỗi đâu. Tôi thường băn khoăn tự hỏi không biết ở trường Dibs có sự thay đổi
tác phong nào không. Dường như không có sự thay đổi đáng kể nào, bởi vì giáo
viên chưa báo cáo gì cả. Đó là điều chúng tôi đã thỏa hiệp với nhau. Nhưng Dibs
đang học được nhiều điều ở trường, ở nhà và ở những nơi mà em tới, mặc dù em
không có tác phong như thế nào đó khiến những điều em học tập được có thể đem
ra đánh giá hoặc trắc nghiệm.
“Tháo giày ra, Dibs” – em tự bảo mình. Em tụt giày ra. Em đổ
cát đầy giày, xúc cát bằng những cử chỉ thận trọng. Rồi em tháo một chiếc vớ ra
nhồi đầy cát. Em kéo căng một bên chiếc vớ còn lại ở chân và xúc cát đổ vào, giữa
vớ và chân. Rồi em tụt nốt chiếc vớ đó ra và dụi chân dưới cát. Em xúc cát đổ
lên chân cho tới khi có cả một mô cát chôn lấp hai chân và phần dưới cẳng.
Đột nhiên em rút chân khỏi cát, đứng dậy, nhảy ra khỏi bể cát
và mở cánh cửa phòng chơi. Em kiểng chân lên, gỡ tấm bảng khỏi móc treo, trở lại
phòng, đóng cửa, đưa tấm cạc cho tôi.
– Trị liệu là gì hả cô?
Tôi ngỡ ngàng. “Trị liệu ư?” – tôi nói- “À, để cô nghĩ một
phút đã”. Tại sao em lại hỏi câu này, tôi băn khoăn suy nghĩ. Giải thích làm
sao cho có nghĩa lý đây?
– Cô xin nói thế này nhé: trị liệu là có may mắn lại đây chơi
và nói về bất kỳ điều gì, theo cách thức mà em muốn chơi, muốn nói. Đó là khoảng
thời gian mà em có thể dùng làm gì tùy ý em. Là khoảng thời gian mà em có thể
là em. Đó là lời giải thich hay nhất mà lúc đó tôi nghĩ ra. Em lại lấy tấm cạc
từ tay tôi. Em lật sang mặt kia.
– Em biết câu này có nghĩa gì rồi. “Đừng làm rộn” có nghĩa là
yêu cầu mọi người để cho họ yên. Đừng làm phiền họ. Đừng vô. Cũng đừng gõ cửa.
Để mặc cho hai người thôi. Mặt này có nghĩa họ đang sống đó. Và mặt kia nói rằng
để yên cho hai người sống. Như vậy phải không?
– Phải. Như vậy đó.
Có người đi dọc hành lang. Dibs nghe tiếng chân đi.
– Có người đang đi dọc hành lang. Nhưng đây là phòng của
chúng ta. Họ sẽ không vào chứ?
– Cô không nghĩ là họ sẽ vào.
– Căn phòng này dành riêng cho em, có phải không? Chỉ dành
riêng cho mình em. Chứ không dành cho ai khác. Có phải không?
– Chỉ dành riêng cho em giờ này mỗi tuần nếu em muốn vậy.
– Cho Dibs và cho cô A. Không phải chỉ cho mình em. Mà cả cho
cô nữa.
– Như thế là cho cả hai người chúng ta.
Dibs mở cửa. “Em treo tấm bảng lại” – em nói – “Họ sẽ không
làm rộn”. Em treo lại tấm bảng vỗ vỗ cánh cửa, trở vào và đóng cửa lại. Một nụ
cười sung sướng nở trên nét mặt em. Em đi lại chỗ tấm giá vẽ.
Em mỉm cười. Rồi sau khi đã mang vớ, mang giày và thắt dây
giày đàng hoàng, em trở lại bể cát. “Hồi em bị bệnh sởi em phải nằm trong giường”
– em kể – “Người ta buông hết màn cửa sổ xuống và phòng tối om. Em không thể đọc,
vẽ và viết được”.
– Vậy thì em làm gì?
– Người ta mở dĩa nhạc cho em nghe. Má kể cho em nghe mấy
chuyện. Em có nhiều dĩa đọc chuyện. Em nghe đi nghe lại dĩa ấy. Nhưng em thích
nhất là nghe dĩa nhạc.
– Chuyện và nhạc giúp em giết thì giờ, phải không?
– Nhưng em nhớ những quyển sách em ghê.
– Em thích đọc lắm à?
– Ồ, thích, thích lắm. Em thích viết những chuyện về những điều
mà em thấy và những gì mà em nghĩ tới. Em cũng ham vẽ tranh. Nhưng thích đọc nhất.
– Em thích đọc gì? Em có những loại sách nào?
– Ồ, em có đủ mọi loại sách. Em có sách về chim, về các loài
vật, cây cối, thảo mộc, về cá, về người ta, về tinh tú, về khí hậu, về các nước
và hai bộ bách khoa, một cuốn tự điển – cuốn tự điển hình em có lâu rồi, và cuốn
tự điển khổng lồ, trước là của Ba. Em có mấy ngăn sách dài. Và những cuốn thơ.
Mấy cuốn truyện cổ tích. Nhưng em thích nhất là sách khoa học hơn bất kỳ sách
nào khác. Em thích tấm cạc cô gởi cho em. Người ta cho em để trên giường. Người
ta để em bóc lấy. Má để em đọc trước. Để em giữ và đọc đi đọc lại.
– Cô đoán là em dành nhiều thời giờ đọc sách lắm, phải không?
– Dạ. Nhiều khi em chỉ làm có thể thôi.
– Nhưng em mê lắm. Em mê đọc về những điều em nhìn thấy. Rồi
em thích được xem những thứ mà em đã đọc. Em có đủ mọi loại đá, loại lá và các loại
côn trùng, các loại bướm ướp khô. Rồi ống dòm và máy ảnh. Đôi khi em chụp ảnh
các vật trong vườn. Và ở trên cây bên ngoài cửa sổ nhà em. Có điều em chụp ảnh
không đẹp lắm. Em vẽ hình đẹp hơn. Nhưng em thích phòng chơi của cô hơn – em
nói và gật gù đầu như muốn nhấn mạnh.
– Em thích căn phòng này hơn ư? Mọi thứ đều khác phòng chơi của
em, có phải không?
– Dạ đúng. Khác, khác lắm.
– Khác ở chỗ nào? Tôi không thể không theo đuổi đề tài này.
– Đúng như cô nói – Dibs nghiêm chỉn đáp- Khác như vậy đó.
Tôi bỏ dỡ vấn đề đang nói. Tất cả chi tiết có thêm này thật
là hay, nhưng không giải thích được bằng cách nào. Dibs đã học đọc, học viết, học
đánh vần và học vẽ được. Theo tất cả những lý thuyết về học hỏi hiện hành, em sẽ
không thể học được những kỹ năng ấy, nếu không chế ngự được ngôn ngữ nói và có
những kinh nghiệm căn bản thích hợp trước đã. Ấy vậy mà Dibs có được những kỹ
năng này tới một mức độ cao.
Tiếng chuông nhà thờ bắt đầu điểm. Dibs quay lại nhìn tôi. “Ồ,
nghe kìa” – em nói. “Bốn giờ tới nơi rồi. Đúng bốn giờ rồi”. Em đếm từng tiếng
chuông điểm. “Một. Hai. Ba. Bốn. Còn bao lâu nữa?” – Em hỏi.
– Còn mười lăm phút nữa.
– Ồ, thế hả? Em đếm ngón tay như một anh chàng hà tiện, chậm
chạp, kỹ lưỡng cho tới mười lăm – Mười lăm phút à? Năm phút và mười phút phải
không? Mười phút và năm phút phải không?
– Phải.
– Có khi chúng nó vui vẻ. Có khi chúng nó buồn. Những phút buồn
và những phút vui.
– Phải có những lúc buồn và những lúc vui.
– Bây giờ em đang vui.
– Em vui à?
– Vâng. Vui lắm.
Em mở cửa sổ và nghiêng mình ra. “Ồ, bữa nay trời đẹp quá!” –
Em nói – Ồ một ngày vui sướng, trời xanh biếc. Chim đang bay. Ồ, nghe tiếng máy
bay không? Ồ, vòm trời vui. Ồ chiếc máy bay bay theo hướng tây vui vẻ. Ồ, con
chim vui vẻ. Ồ thằng Dibs vui vẻ. Ồ, Dibs, với những cành liễu lá bạc để trồng
và nhìn chúng mọc lên! Ồ, Dibs ơi, nói cho ta biết mi vui tới mức nào?” Em quay
lại nhìn tôi. Rồi em lại quay ra cửa sổ mở rộng. “Vui quá, em sẽ phun nước miếng
qua cửa sổ trước khi em đóng nó lại!” – Em reo lên. Và em làm như vậy.
– Khi chuông reo lần tới là tới giờ về – tôi nhắc.
– Ồ, vậy hả?
Em lại gần tôi và lặng lẽ sờ tay tôi. Rồi em lại đi tới giá vẽ.
Em mau mắn sắp xếp màu vẽ lại theo thứ tự. Em lấy hộp đựng những con thú ở nông
trại. Em lấy ra những thanh gỗ làm hàng rào và xem xét thật kỹ. “Em sẽ làm một
nông trại đẹp” – Em tuyên bố. Em bắt đầu hát:
Em xây nông trại!
Em xây nông trại!
Nông trại thật đẹp
Cho cô cho em!
Em nhìn tôi. “Còn lại bao nhiêu phút nữa?”- em hỏi. Tôi viết
con số năm lên một mảnh giấy và đưa cho em xem. Em nhìn và cười. Em lấy cây viết
chì của tôi, đợi ít giây, viết số bốn, đợi một giây, rồi viết con số ba, đợi
thêm một giây nữa, viết con số hai, đợi một giây nữa, viết con số một. “Tới giờ
về” – em hô lên – “Chỉ có chuông nhà thờ chưa reo”.
– Em chạy trước chuông – tôi nhận xét.
– Vâng, em cố tình đó – Em nhìn xuống hàng rào mà em đã dựng
lên trên sàn – Cô thấy gì không? – Em chỉ hàng rào, hỏi.
– Hàng rào dài.
– Ồ, này! Chưa dài đủ đâu! Em bắt đầu hát lại.
Em dựng hàng rào
Hàng rào dài lắm
Em không nhìn tới
Đầu hàng rào kia
Tại sao có rào?
Rào nằm tận đâu?
Em không thích rào
Đừng rào quanh em!
Em cười. “Em sẽ nhốt những con thú vật bên trong vòng rào” –
em tuyên bố. Em đặt một con ngựa và một con bò cái đằng sau hàng rào. “Bây giờ
đến con bò này” – em nói và cầm lên cho tôi xem – “Con bò cái này cho sữa. Đây
là con bò thân hữu. Tất cả những con bò cái đứng thành hàng ngang, sẵn sàng cho
sữa”. Rồi em đổi giọng, nói the thé. “Vào hàng, bò. Đứng thẳng lên. Mày có nghe
tao nói không? Đừng có làm như con ngốc vậy!”
Em cầm lên một chú gà trống. “Đây là chú gà trống” – em nói.
Chuông bắt đầu vang lên.
– Nghe kìa, Dibs.
– Vâng. Một giờ. Còn ba giờ nữa mới tới bốn giờ.
– Ô kìa, Dibs. Bộ em tính đùa với cô đấy à? Chưa tới giờ về
hay sao?
– Dạ, tới rồi. Nhưng mình giả bộ đi.
– Giả bộ à?
– Vâng. Mình giả bộ là mới có một giờ.
– Liệu sự giả bộ có thực sự thay đổi giờ này không em?
– À, không đâu. Có hai loại giả bộ được. Và sự giả bộ thật là
ngốc.
Em đứng lên và đi bộ lại chỗ tôi.
– Và nhiều khi chúng lẫn lộn với nhau mình không thể bảo cái
nào là cái nào.
Em ra về rồi, tôi ở lại với những nghĩ ngợi và suy đoán mà
tôi có thể rút ra từ một số dữ kiện của cuộc nói chuyện với Dibs. Em có vẻ thoải
mái hơn trong sự giao tiếp với mẹ em. Có những dấu hiệu cho thấy là ở nhà Dibs
được đối xử tôn trọng, thông cảm và hiểu biết hơn. Ngay cả “Ba” cũng có vẻ nhân
hậu hơn. Nhưng họ đang thay đổi cách cư xử đối với Dibs? Hay là Dibs đã thay đổi
trong khả năng tiếp xúc với cha mẹ em để em có thể đón nhận tình cảm của họ một
cách tự nhiên hơn?
Chắc chắn là họ đã cung cấp đầy đủ những phương tiện để nuôi
dưỡng khả năng trí tuệ sắc bén của em. Chắc chắn họ đã cố gắng cảm thông với em
và dạy em nhiều điều. Rất khó hiểu làm sao họ có thể tin rằng đứa trẻ này bị
thiểu năng, trong khi họ tiếp tục cung cấp những tư liệu giáo dục vượt xa khả
năng của một đứa trẻ trung bình ở tuổi Dibs. Chắc chắn họ phải biết rằng: vấn đề
của Dibs không phải là sự thiểu năng trí tuệ. Nhưng tại sao em lại cứ giữ hai
loại tác phong hoàn toàn trái ngược nhau - một bên là tác phong tài ba lỗi lạc,
một bên lại khiếm khuyết đến thế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét