Đi vào cõi
thơ 1
Tuệ Sỹ
Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u…
Tuệ Sỹ là một vị sư. Ông viết văn nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u…
Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt.
Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng
nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết:
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng có ai ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ
có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ “Không đề” của
ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ.
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn…
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê
cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn.
Tôi hoảng vía đề nghị: Đại sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm
thơ tiếp nhiều cho. Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp: - Để về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế
chăng.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ
Xin viết xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang
trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì? - Cung trời hội cũ. Một hội đạp
thanh? Một hội nao nức? - “Giờ nao nức của một thời trẻ dại?”.
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ…
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm
niệm. Đầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát: một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ
xao xuyến, một tuổi vàng long lanh… Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ
không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi điều “phải nói” với
mọi người “muốn nghe”, với riêng mình “không thiết chi chuyện nói”.
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác
thường đó. Họ nói rất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như
chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người
mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay là chẳng nghe.
Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng có chi giống lối
vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả -
par manque de justice interne.
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta
tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa một đám tang, họ
phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn
nhẫn thô bạo.
Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn
Du: - “Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam, kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng
dụng (…) Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế?”.
Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói
thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm
trong cõi mộng thần di, hồn dịch!
Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, ơn Thánh Đế đã dồi dào với
Liệp Hộ như thế, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ
chưa vừa lòng, vẫn cứ như thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.
Đáp: Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời hội cũ.
Đôi mắt ướt? Đôi mắt của ai? Vì sao ướt? Vì lệ trào, hay vì
quá long lanh?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng
phóng niệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi
nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ.
Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối
chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã
đánh mất rồi chăng?
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang…
Áo nào màu xanh? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường,
gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối?
Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở
Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng
cũng có về Sài Gòn tới chùa viếng ông, đem quà cho ông một đôi giép riêng biệt,
một tấm khăn quàng riêng tây.
Đôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ. Thắp đèn khuya ngồi kể
chuyện trăng tàn.
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ?
Mình là thân bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng
nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ? Dám gác bỏ kệ kinh? Dám mở cuộc
thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn?
Phải có nhìn thấy gương mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới
kinh hoàng vì lời nói thăm thẳm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh
hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh
chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng.
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối
vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra “cao cách điệu” bi hùng của một Liệp Hộ,
một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzsche.
Thi nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn? Ngồi trên một đỉnh
đá? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân
trời xa xuôi đại hải?
Đỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển.
Đỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng
hải hàm của trùng dương. Đó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuế
nguyệt phiêu du:
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng “buồn chăng” lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm
ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tân thanh đoạn trường:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi:
Đếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Đủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Đi
Quanh
Tiết điệu cũng rời rạc như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời
chưa đủ? Một tuổi Xuân chưa vừa? Một tuổi vàng sớm chấm dứt? Một tuổi “đá” sớm
giã từ mọi yêu thương?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn…
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ
khép mình trong bốn bức tường vôi nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ từ
Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương.
Trương Cam Vũ
Trương Cam Vũ là người thi sĩ đã dịch Truyện Kiều ra Hán Thi.
Bản dịch đạt tới mức tối đa của tinh thể Hoa Thi. Chúng tôi
đã bàn nhiều trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở đây không tiện nói nhiều.
René Crayssac
René Crayssac là thi sĩ Pháp đã đem Truyện Kiều dịch ra thơ
Pháp.
Bản dịch huyền diệu ở chỗ: Ông đã đòi hỏi ở Pháp Ngữ một thể
điệu nào Pháp Ngữ vốn không có, và đùng một cái, Nguyễn Du trong bản Pháp mang
đầy rẫy tinh thể Cựu Hy Lạp Homère.
Sự tình này được đề cập tới trong tập Mùa Xuân Trong Thi Ca. Ở
đây không tiện nói nhiều.
Huy Cận
Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa
Yêu một người ta dâng cả tình thương
Câu thơ đó dường như là cái chìa khóa mở đường vào cung thành
Lửa Thiêng.
Huy Cận chẳng khi nào trực tiếp nói tới tình yêu một cách
quay quắt sôi cuồng như Xuân Diệu, hoặc tràn lan ra như Nguyễn Bính.
Huy Cận kín đáo ngậm ngùi. Và thỉnh thoảng vài lời chân thành
thăm thẳm của ông bỗng xô nguồn thơ tình yêu kia vào một cõi thống thiết cổ kim
chưa từng có.
Bóng đêm tỏa không lấp niềm thương nhớ
Tình đi mau sầu ở lại lâu dài
Ta đã để hồn tan trong tiếng thở
Kêu gọi người đưa tiễn nỗi tàn phai
Bốn câu đơn giản thiết tha đôn hậu thượng thừa như thế, chính
là vùng khí hậu riêng biệt để toàn thể cuốn Đoạn Trường Tân Thanh Nguyễn Du đi
về ngưng tụ hết mọi màu hương vang bóng.
Huy Cận là người đồng quận Nguyễn Du - Hà Tĩnh. Sông núi non
nước kia đẹp dị thường. Và con người đất nước kia sống lận đận làm ăn cày cấy
cũng cực nhọc dị thường. Giữa phong cảnh và con người từ đó liên miên có một cuộc
đối thoại thiết tha không lời, về một nỗi bất khả tư nghì. Tình yêu sẽ đưa con
người ta tới một cõi xót xa, là căn bản cho một cuộc phát nguyện từ bi, gây dựng
nên những thiên tài vô song của Hồng Lĩnh.
Chỉ những thiên tài Hồng Lĩnh mới thành tựu một cuộc Trùng Phục
dị thường giữa vũ trụ trời mây phong cảnh.
Phong cảnh trong thơ Huy Cận là một loại phong cảnh đã khiến
con người mở những cuộc “Lữ” huyền hoặc của Dịch Kinh. Khổng Tử đã chu du theo
một cuộc Lữ dị thường Homère Hy Lạp, mà con người ngày nay không thể nào quan
niệm được ra.
Xa nhau mười mấy tỉnh dài
Mơ màng suốt xứ đêm ngày nhớ nhung
Tâm tình một nẻo quê chung
Người về cố quận muôn trùng ta đi.
Nguyễn Du đã làm Liệp Hộ. Huy Cận đã đi muôn trùng. Mặc dù các
ông có thể ngồi im lìm giữa một triều đình, các ông vẫn cứ thành tựu cuộc “Lữ”
như thường, nơi một triều đình khác, riêng ở một góc trời miêu cương mạc ngoại.
Trông vời trời biển mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đàng ruổi rong.
Dừng cương nghỉ ngựa non cao
Dặm xa lữ thứ kẻ nào héo hon
Đi rồi khuất ngựa sau non
Nhỏ thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu.
Tiếng nhỏ thưa tràng đạc đó bàng bạc tịch liêu trong Lửa
Thiêng cũng như suốt Đoạn Trường Tân Thanh, là khởi từ một duyên do uyên nguyên
thăm thẳm, mà bấy lâu ta không ngờ tới, nên thường ngạc nhiên tự hỏi vì lẽ gì
thơ Huy Cận lại đạt tới hai chóp đỉnh huyền diệu nhất ở hai cõi chênh vênh: thơ
phong cảnh của ông không ai đi kịp; thơ tình yêu của ông khiến mọi thiên hạ đầu
hàng.
Tình yêu và lữ thứ, lữ thứ và không gian, đó là những gì quyết
định hết nguồn thơ Lửa Thiêng. Bao nhiêu màu quan san ly biệt bàng bạc trong
Truyện Kiều, bỗng nhiên về quy tụ tinh hoa trong một bài “Thuyền Đi” của Huy Cận.
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi
Sang đêm thuyền đã xa vời
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang
Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước trường giang lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau.
Lời thơ đi phiêu phiêu, tuyệt nhiên không thấy dấu vết một
chút kỹ thuật nào còn vướng sót. Tưởng như không còn một chút cố gắng tìm lời lựa
ý gì hết cả. Nguồn thơ ngập tràn dâng lên nhẹ nhẹ, len lõi thấm nhuần mọi ngôn
ngữ ly biệt Nguyễn Du và toàn thể Đông Phương Lữ Thứ, Tây Phương Lang Thang.
Các bạn thử thong dong hình dung lại cái khối Đường Thi Vương
Duy, Lý Bạch, Thôi Hiệu, Thôi Hộ, Cao Thích, Sầm Tham, Apollinaire, xem thử có
một cái gì lọt ngoài vòng lục bát Huy Cận kia chăng.
Chúng ta quen thói ngóng chạy theo đuôi mọi thứ trào lưu chủ
nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào cả để
thể hội rằng lục bát Việt Nam là cõi thi ca hoằng viễn nhất, kỳ ảo nhất của năm
châu bốn biển ba bảy sông hồ.
Cái thói học đòi vá víu thông thái đã âm thầm giết chết mất
máu me thân thể chúng ta. Hết chạy theo đuôi ông Camus, tới chạy theo đít bà
Simone Weil, rồi xô ùa chạy theo giò cẳng ông Krishnamur-ti. Nghĩ rằng cũng
đáng tủi cho cái kiếp con người. Nhục cho cái phận con ngợm.
Đó chính là cái lõi của lai rai thượng thừa, của bê bối tối hậu.
Tới bao giờ mới chịu đi về giũ áo đười ươi? Hỡi những thằng trung niên thy sỹ,
và hỡi những đứa chẳng thi sỹ trung niên. Cái trò ma quái lóc lăn nọ, kể cũng
đáng tởm hơn cuộc dập dìu mà Tú Bà đã bố trí cho Nuồng Thúy xưa kia.
Cái tinh thần nô lệ không tự biết mình nô lệ, cái tinh thần ấy
nó thấm nhập tủy xương chúng ta đến độ nào, mà mỗi phen chúng ta kêu gào tự do,
đòi hỏi tự tại, gào thét tự tôn - càng mỗi phen cho thấy hiện thị lù lù cái
linh hồn đĩ điếm.
Chúng ta thà chui vào một cái hang dế đen ngòm, một cái hang
chim đen ngộm, một cái hang chuột đen thui, cam lòng thờ phượng Brigitte, sùng
phụng Bardot, chui đầu vào tà xiêm Monroe để nằm ngủ, hơn là phải đi thức tỉnh
tự do trong cái bầu khí hậu gớm guốc kia.
Nghĩ cũng kỳ dị thật. Người Việt Nam vốn là người thơ mộng
thy sỹ nhất thế giới (Chỉ riêng cái màu da vàng Việt Nam thôi cũng đã thơ mộng
hơn mọi màu da đen trắng) thì người Việt Nam lại chẳng bao giờ đọc thơ Việt
Nam, lại luôn luôn đem trút hết cõi lòng thơ mồng của mình cho những thứ sách vở
thổ lốn tạp pí lù ở đâu đâu. Lại chạy đi si mê những da trắng Marilyn những da
đen phi châu chiêm bao bờ cỏ. Làm bao nhiêu thơ mộng lại đem gán hết cho châu
chấu chuồn chuồn. Ẩn ngữ gì mà đoạn trường ra như thế. Lâu lâu lại còn ca ngợi
tài hoa ông Kút Xếp, tài liệu ông Vương Dương Minh.
Thôi thì thôi cũng chìu lòng
Cũng cho nghỉ nghị trong vòng lai rai.
Huy Cận cũng đã có phen gián tiếp giải oan cho mọi người lưu
lạc:
Hỡi Thượng Đế! Tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang
Sầu đã chín xin người thôi hãy hái
Nhận tôi đi dù địa ngục thiên đường…
Huy Cận nói cái lời gì bao la như thế? - Nhận tôi đi dù địa
ngục thiên đường?
Đáp: Huy Cận đã khai tỏ cái chỗ u ẩn nhất trong ngôn ngữ
Jesus Christ.
Và đọc Huy Cận, chư vị Bồ Tát ắt phải gật đầu với Long Thọ Bồ
Tát mà rằng:
“Chư Phật vô lượng phương tiện lực, chư pháp vô quyết định hướng;
vị độ chúng sinh, hoặc thuyết nhứt thiết thực, hoặc thuyết nhứt thiết bất thực,
hoặc thuyết nhứt thiết thực bất thực, hoặc thuyết phi thực phi bất thực…” (Xem
Sương Bình Nguyên, trang 490).
Cũng vì lẽ đó, nên lần giở Dịch Kinh, chúng ta đọc lại ngôn
ngữ thi ca của Khổng Tử:
“Hữu thiên địa, nhiên hậu vận vật sinh yên, doanh thiên địa
chi nhàn giả. Duy vạn vật, cố thụ chi dĩ Truân. Truân giả doanh dã. Truân giả vật
chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chỉ dĩ Mông. Mông giả Mông dã. Vật
chi trĩ dã, vật trĩ bất khả bất dưỡng dã. Cố thụ chi dĩ Nhu. Nhu giả ẩm thực
chi đạo dã… Ẩm thực tất hữu Tụng. Cố thụ chi dĩ Tụng. Tụng tất hữu chúng khởi.
Cố thụ chi dĩ Sư… vân vân vân vân vân vân…”
Từ cõi Vô Ngôn của Bồ Tát tới cõi Vô Ngôn của Khổng Tử chúng
ta trở lại với Kiều, Lửa Thiêng, sẽ nhận ra một chân lý mà không có sách vở học
giả ru rú nào có thể chỉ vẽ ra. Phusis sơ nguyên Hy Lạp cũng lại lập lòe hiện
thị một cách phong nhiêu dị thường trong hai câu mở đầu bài “Thuyền Đi”:
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên.
Thuyền đi
Thuyền đi là nước đi, thời gian đi, hay đời người đi? biệt
ly, nói tóm lại?
Nhưng tại sao bài thơ “Thuyền đi” của Huy Cận lại xa vắng
mênh mông hơn bất cứ một bài thơ ly biệt nào xưa nay? Nó tiềm ẩn những tố chất
gì như thế?
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ dong miền viễn khơi
Sang đêm thuyền đã xa vời
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang
Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau
Bài thơ mười hai câu cả thảy. Mười hai câu lục bát Huy Cận
trông giống như một cung thành Đông Á, một chùa chiền Á Đông, một tượng vân thạch,
hoặc đồng đen Đông Phương đang nhô lên nhìn sang khối Sơ Nguyên Hy Lạp.
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Một cái gì bỗng dưng về giữa hai câu thơ, một cái gì đồ sộ, bất
tuyệt, vô thủy vô chung về trong một lúc? Phải là Thời Gian của Vĩnh Viễn về
trì ngự trong Phusis Mở Phơi? Về trong một lúc? Là về trong một Sát Na của Viên
Mãn Viên Dung cho âm dương tịch hạp? Cuộc Nảy Nở của Càn Khôn đang phơi mở thịnh
triều trì ngự trong tiếng “trăng lên, triều lên”. Tươi thắm của Sơ Khai hiển hiện
trong những tiếng “gió về trong lúc, trăng lên, đang chiều…”
Hai câu thơ đong đưa kỳ ảo dìu Thiên Nhiên về giữa lòng vạn vật
để thành tựu cái mà người xưa đã thể nghiệm thiên hình vạn trạng qua những tiếng
Vĩnh Thể và Tồn Lưu, Thời Gian và Thời Thể. Một cái gì nhiệm màu cũng song
trùng về trong những tiếng “là là” nhịp điệu của Nguyễn Du.
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Trong bài thơ Huy Cận, cuộc Lễ Hội ấy đang hiễn hiện trong cảnh
trời là nơi chốn của Phùng Ngộ trong chia ly. Một cuộc hôn phối dị thường mà Khổng
Tử xưa kia cũng đã từng thể nghiệm qua cuộc Lữ.
Thiên Nhiên rộng rãi đang lên lời giục giã người lên đường lữ
thứ để thành tựu cuộc Trùng Phục Quy Hồi trong mỗi bước chân đi.
Trăng lên trong lúc đang chiều
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên
Thuyền đi sông nước ưu phiền
Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơi
Ra đi như thế là kết hợp vũ trụ vào trong nhịp lưu ly của tại
thể mình. Dìu tồn lưu về để mở phơi ra và đón nhận lấy. Cái ân huệ vô ngần kia
đòi hỏi những cuộc ra đi, từ giã cõi miền đóng kín quanh quẩn trong nếp quen
thuộc nhân tuần. - “Lữ chi thời nghĩa đại hỹ tai!”.
Cái nghĩa thời của cuộc Lữ to lắm lắm thay!
Nỗi ưu phiền của sông nước kia là một niềm kỳ vọng, một niềm
chúc phúc lên đường.
Sang đêm thuyền đã xa rồi
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh lùng
Thế thì các cuộc đi kia đã khiến cho sự hiện diện của kẻ đi
càng bát ngát thêm trong cơn khiếm diện.
Kẻ đi và toàn thể cái khối gì đang đi?
Và do đó một cõi mênh mông nào đang phát hiện tinh thể? Cõi
thái hư tịch mịch? Cõi sầu bi siêu thoát?
Canh khuya tạnh vắng bên cồn
Trăng phơi đầu bãi nước dồn mênh mang
Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ
Có cuộc đi trong một tuần trăng thời thể, mới có theo về
trong một xứ sở của bỉ ngạn chon von. Thời gian được thời thể hóa. Thời thể được
thể nghiệm trong Mnemosyne Ký Ức lưu tồn. Nó giữ lại một cái gì trường lưu hằng
cửu mà con người vong thể ngày nay chẳng thể nào thể hội được nữa. Chạy theo
đuôi danh từ lí nhí, đem phân chia cắt xén thời gian ra làm khoảnh khắc tủn mủn,
rồi chối bỏ lung tung chẳng còn rõ mình đang tham dự vào cái cuộc nhảy múa ma
trơi nào thiểu não.
Thuyền người đi một tuần trăng
Sầu ta theo nước tràng giang lững lờ
Tiễn đưa dôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy bây giờ nhớ nhau
Cuộc ra đi như thế trở thành cuộc lên đường lữ thứ tìm lại
tinh thể mình. - Hãy trở thành… Nhà ngươi là gì, hãy trở thành cái ấy. “Deviens
ce que tu es” - Té ra con người phải đi một cuộc mười lăm năm, rồi ra mới nhận
chân được tinh thể mình nằm tiềm ẩn trong cung đàn ban sơ bạc mệnh: và từ đó? -
phát nguyện đại từ bi?
Đức Khổng còn khổng lồ nói lên sự đó một cách đơn sơ ẩn mật
vô ngần:
“Hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa
chi nhàn giả, vạn vật, duy cố thụ chi dĩ Truân… Truân giả doanh dã. Truân giả vạn
vật chi thủy sinh dã. Vật sinh tất Mông, cố thụ chi dĩ Mông…”
Bấy lâu chúng ta quen nghĩ rằng Huy Cận chỉ là nhà thơ có cảm
giác bén nhạy và tài hoa riêng biệt trong phép tả cảnh tả tình sầu. Nhưng thật
ra Huy Cận là khối óc vĩ đại đạt tới một cõi tư tưởng bát ngát nên tự nhiên như
nhiên, lời thơ ông đi vào trong phong cảnh bao la, dội vào đáy thẳm thiên
nhiên, và gửi lại cho ta những dư vang bất tận. Khối óc kia cũng là thông tuệ của
tâm thể thiên tài.
Chết
Chân quấn quít rồi đến ngày nghỉ bước
Miệng trao lời rồi đến buổi làm thinh
Thân có đôi chờ lúc ngủ một mình
Không bạn lứa cũng không mền ấm nóng
Tai dưới đất để nghe chừng tiếng sống
Ở trên đời - đầu ấy ngửng lên cao
Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nào
Thân bay nhảy giam trong mồ nhỏ tí
Một dáng điệu suốt trăm nghìn thế kỷ
Ngày sẽ về gió sẽ mát hoa tươi
Muôn trai tơ đi hái vạn môi cười
Làn nắng ấm vào khua trong lá sắc
Nhưng mắt đóng trong đêm câm dằng dặc
Còn biết gì đất ở trên kia
Bướm bay chi! Tay nhậy đã chia lìa
Tình gọi đó nhưng lòng thôi bắt mộng
Bỏ chung chạ để nằm khô một bóng
Chẳng ai vào an ủi nắm bàn tay
Khổ bao nhiêu cho một kẻ hằng ngày
Tìm thế giới để làm khuây lẻ chiếc.
Huy Cận tặng Thần Chết một bài thơ cảm động. Nói là tặng Thần
Chết nhưng cũng là dâng cho Cuộc Sống. Cuộc Sống ôi! Hình dạng của Thần Chết đã
ra như thế thì Thánh Sống nghĩ sao?
Ắt nghĩ rằng: nên kiệt tận miên bạc bình sinh để sống cho đậm
đà thơ mộng. Vì không làm thế, thì cái sống sẽ giống tợ tợ như cái chết.
Cái chết trông dị dạng quá. Mà hằng ngày vô tình ta sống theo
lối chết đó. Tuy không đến nỗi căm căm gớm guốc như thế, nhưng cũng tai hại
điêu linh gần bằng. Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc
sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta
làm cho méo mó đi. Và meo mốc tử khí bám đầy rẫy cái hình hài cuộc sống.
Tiếc sao! Tiếc sao! Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời
quên bẵng.
Xin một lần thử thong dong nhìn lại rõ bộ mặt cái chết, để hỏi
lại linh hồn mình nên nhớ lại chuyện chi.
Thì từ đó rất có thể rằng cái chết hãi hùng sẽ là một cơ hội
huy hoàng cho cái sống thành tựu được tinh hoa. Ta sẽ nhìn các em, các em sẽ
nhìn con chim, con cá. Con cá sẽ nhìn con giế con giun… Mọi mọi sinh vật sẽ mọi
mọi nhìn nhau bằng một nhãn quan khác hẳn. Và cõi đời từ đó sẽ đúng là đời cõi
của yêu thương.
Đức Phật ôi! Chính Ngài đã có cái dụng tâm giống như chàng
Huy Cận. Ngài đã đem những não nùng sinh lão bệnh tử ra nói lên cho kiếp phù du
thể hội cái nghĩa não nùng, là phát nguyện bi tâm để dìu tồn sinh về bỉ ngạn…
Cái chết được thể nghiệm sâu xa sẽ trở thành cái khả năng vô
thượng của con người mang một cái sống phù du. Đó là lý do (do lý) đã khiến ông
Heidegger đem cái chết mà thiết lập căn cơ cho cái sống của Dasein. Và gọi rằng:
con người ta là một sinh - thể - cho - tử - diệt.
Tinh thể của con người là: sinh - thể - cho - tử - vong?
Thì tử diệt tử vong chính là Tặng Vật vô ngần cho Sinh Thể.
Sinh Thể sẽ ôm cái Tặng Vật vô ngần đó mà đi khắp mặt biển dâu lảo đảo.
Em quốc sắc, em thiên hương, em hoàng hậu, em nữ chúa, em
giai nhân da vàng, em mọi nào da trắng, em mọi nào da đen…
Thảy thảy mọi mọi em em cùng chia nhau cái món quà kỳ ảo. Thì
can chi các em lại bảo rằng cái da vàng thơ mộng hơn cái da đen? Cái da trắng
văn minh hơn cái da đỏ?
Buổi hội trần gian sẽ từ đó mà mất vui. Thế giới mất ân tình.
Cõi đời mất đời cõi. Thì lễ hội mất đi cái gọi là. Là gì? Ban sơ xuân xanh ngày
đó, ông Nguyễn Du đã bảo rằng:
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Hội đạp thanh mất đi cái ý nghĩa vô ngần của thanh đạp, một
phen thanh đạp trở thành đạp thành, phá lũy, theo thể điệu Caligula. Ấy cũng chỉ
vì đăm đăm riêng nghĩ tới hội là đạp thanh, mà bỏ quên cái tình riêng của lễ là
tảo mộ…
Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm thế?
Kèn đám ma? Hay ấy tiếng yêu thương
Của cuộc đời…
Tiếng đau thương đó của cuộc đời dội vào cuộc sống, thì cuộc
sống đổi hình thay dạng…
Tôi nhớ lại ngày tháng chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Mối sầu dao động nỗi đời giao thoa
(Apollinaire)
Cuộc sống thay đổi hình dạng theo thể thái sầu bi ngậm ngùi
đó trong tâm hồn người ta. Cũng có thể nó đổi dạng theo lối tuyệt vô hy vọng,
hoặc điên cuồng, hoặc rồ dại. Nhưng cuối cùng, phải nên dìu nó về thể thái
thanh thản khiêm tòng… Cạo đầu sạch sẽ đi tu? Đi làm đạo sĩ? Hay tiếp tục làm
thi sĩ phiêu bồng? Làm nhà thương mãi đi buôn? Kỹ nghệ gia? Làm gì thì làm,
cũng hơn là làm Caligula vậy.
Ngày còn đi học, hai bài thơ “Chết”, “Nhạc sầu” của Huy Cận
đã gây chấn động dị thường cho tôi. Tôi bỏ học, chẳng thiết chi sách vở. Chạy về
quê làm thằng chăn bò. Bao nhiêu thơ làm ra, tôi âm thầm tặng hết cho chuồn chuồn
châu chấu!
Thế cũng là một cách chịu chơi với Thần Chết vậy. Nghe tin
Marilyn Monroe lìa đời, tôi buồn bã suốt mấy tháng. Phải chi bình sinh nàng có
đọc thơ Huy Cận, ắt nàng chẳng nên giận phận gì mà vội ngang tàn tính mệnh như
thế.
Bây giờ tôi xin chậm rãi chép bài “Nhạc Sầu” ra tặng nàng.
Mong rằng ở dưới suối vàng nàng hãy bỏ chút thì giờ đọc giải trí cho vui.
Nhạc sầu
Ai chết đó! Nhạc buồn chi lắm thế
Chiều mồ côi đời rét mướt ngoài đường
Phố đìu hiu màu đá cũ lên sương
Sương hay chính bụi phai tàn lả tả
Từng tiếng lệ ấy mộng sầu úa lá
Chim vui đâu? Cây đã gẫy vài cành
Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh
Môi tái nhạt nào cười mà héo vậy
Ai chết đó! Trục xoay và bánh đẩy
Xe tang đi về tận thế giới nào
Chiều đông tàn lạnh xuống tự trời cao
Không lửa ấm chắc hồn buồn lắm đó
Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ
Trần gian sao? Đây thành phố đang quen
Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền
Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy
Và ngựa ôi đi nhịp đằm chớ nhảy
Kẻo thân đau chưa quên nệm giường đời
Ai đi đưa, xin đưa đến tận nơi
Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi
Người đã chết. Một vài ba đầu cuối
Dăm bảy lòng thương tiếc đến bên mồ
Để cho hồn khi sắp xuống hư vô
Còn được thấy trên mặt người ấm áp
Hình dáng cuộc đời từ đây xa tắp
Xe tang đi xin đường chớ ghập ghềnh
Không gian ơi xin hẹp bớt mông mênh
Áo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt
Và ngươi nữa tiếng gió buồn thê thiết
Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn
Hàng cờ đen như bóng quạ chập chờn
Báo tin xấu dẫn hồn người đã xế
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gởi gió dường quạnh quẽ
Sầu chi lắm trời ơi chiều tận thế…
(Huy Cận)
Nhưng cố nhiên, chép xong rồi thì nên xếp giấy lại, ra đường
phố dạo một phen rong chơi. Để nhìn lại đậm đà những tà áo phấp phới. Chẳng nên
đăm chiêu dằng dặc. Chẳng nên o bế cái chết. Kéo dây dưa cuộc tình duyên với Tử
Thần, là điều tối kị. Nó có tính ăn hiếp. Ta lân la chơi đùa với nó, thì nó rút
mòn xương tủy ta.
Bây giờ nên ngâm chơi vài vần “Tặng Em Mười Sáu” của Huy Cận:
Tặng em mười sáu
Em mười sáu xuân lang vừa độ tốt
Trời trong sáng sông trôi vui chim lảnh lót
Để tay ngời nối lại với tay anh
Anh thấy mơ hồ huyền diệu mong manh
Một giải lụa quấn qua hồn đây đó
Nỗi vui cũ ngày nay anh lại có
Thêu đời hồng anh nói ít lời hoa
Em ca lừng cho bốn phía sinh ca
Đem dâng tặng mặt trời muôn thuở mới
Hãy đẹp giọng khúc huy hoàng vời vợi
Nhạc tưng bừng tuôn chảy tự hồn vui
Thuyền du dương anh cầm lái em mui
Chèo một nhịp hò khoan cùng vũ trụ
Em mười sáu ấy hoa đời đương nụ
Nở xuân quang anh vừa quá hai mươi
Ta nối tay tròn kết một vòng tươi
Mà vẫn lấy cuộc đời. Em có thấy
Trong máu thắm dòng vui luôn tiếp chảy
Suối hân hoan cuồn cuộn sóng dương hòa
Làm nụ cười cho vạn vật muôn hoa
Em! Nào ta hát bài Thiên Cổ Lạc
(Huy Cận)
Nguồn thơ vui nhất của Việt Nam nằm trong Huy Cận. Mà nguồn
thơ buồn nhất Việt Nam cũng là nơi Huy Cận. Sự đó không còn chi đáng nên ngạc
nhiên.
Huy Cận đã sống trọn vẹn với linh hồn mình, vì thế ông sống
trọn linh hồn nhân gian. Nguồn thơ ông chảy khắp mặt buồn vui của nhân thế.
Từ Nguyễn Du đến chúng ta bây giờ, chỉ có một Huy Cận mà
thôi. Một Quang Dũng mà thôi. Một J. Leiba, Kiên Giang, Hồ Dzếnh mà thôi.
Và mọi mọi chúng ta cũng từ đó mà mọi mọi được có một nguồn
thơ duy nhất của ta ta mọi mọi mà thôi.
Ta còn bận tâm chi nữa về câu chuyện xếp loại, định nguồn, nhận
riêng khuynh hướng?
Huy Cận có làm văn nghệ văn ngừng gì đâu. Thi sĩ chân chính cổ
kim có một ai chịu thiết lập trường trại gì đâu. Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian
cũng đơn sơ như con chim về Mùa Xuân ca hót. Đến từ xứ lạ? Xứ quen? Xứ xa xuôi
vô ngần thân thuộc? Ngứa cổ hát chơi? Khi gió nắng vào reo um khóm lá? Khi
trăng khuya lên ủ mộng xanh trời? Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn? Kêu tự
nhiên nào biết bởi sao ca? Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín? Khúc huy
hoàng không giúp nở bông hoa?
Họ đơn sơ hồn nhiên như thế. Sao ta lại cầu kỳ buộc họ phải cầu
kỳ gay cấn như ta? Họ có đòi hỏi chi đâu? Họ chẳng bao giờ tranh giành địa vị?
Chẳng bao giờ chịu làm thần tượng. Chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời
cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng…
Khi ta đến các ngươi đà đến cả
Có Thiên Nhiên Suối Chị với Rừng Anh
Cỏ vạn dại đã quen chiều óng ả
Liễu thiên thu từng thuộc lối buông mành
Thơ Huy Cận dịu dàng như thế đốt cháy bỏng máu me ta bởi ông
đơn giản ca ngâm. Ông chân thành khiêu vũ. Đừng ai nỡ đem gán bừa cho họ những
gì họ chẳng hề có bận tâm. Bao phen chúng ta từng tàn nhẫn một cách quá vô
tình. Và vì thế, họ đành quay lưng trốn chạy. Kêu gọi buổi chiều về bên mình để
tâm sự cô đơn:
Chiều ơi hãy xuống thăm ta với
Thiên hạ lìa xa đời trống không
Nắng xế ngậm ngùi bên mái cũ
Đìu hiu bên phố nhớ bên lòng
Thiên hạ lìa xa? Thiên hạ vẫn ngồi đó. Vẫn làm thơ tặng nhau.
Nhưng cũng bằng gấp mấy quan san trong gang tấc. Vì đã tuyệt dòng chân thành
tương ứng. Mỗi người mỗi đánh lạc mất linh hồn tinh thể mình, và mỗi mỗi đầy đọa
nhau dằng dặc…
Đã mấy năm rồi thơ nở hoa
Trang vui cũng lúc lệ buồn nhòa
Giòng đời cũng nặng sầu lưu thủy
Tóc nặng sầu tư gió thổi tà
Chiều ơi gặp gỡ đã đòi cơn
Sương lạnh dồn thêm lệ tủi hờn
Một buổi xưa kia phòng vắng bạn
Đó ngày quen biết với cô đơn
Buổi hoàng hôn dị thường nào xưa kia Nguyễn Du đã nhìn và tâm
sự? Buổi hoàng hôn nhân loại. Ngày tận thế đó chăng? Không có lẽ như thế. Vì lời
thơ thân thiết vẫn như âm thầm báo hiệu một bình minh sắp mọc trong hoang liêu:
Có lúc xa người bởi quá yêu
Than ôi sông núi lại buồn nhiều
Mây xa lạc gió bên trời vắng
Đời bạt lòng ta lại gặp chiều.
Nguyễn Du
Nguyễn Du cũng như Camus, lúc nào linh hồn ông nói đúng tiếng
nói của hồn ông, thì lời thơ biến ra làm thơ phong cảnh.
Điều nên lưu tâm là: phong cảnh Nguyễn Du tuyệt nhiên không
liên can chi tới loại thơ phong cảnh của bọn chuyên môn tả thực.
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
(Xem Mùa Thu trong Thi Ca)
Hồ Xuân Hương
Lối tả cảnh của Hồ Xuân Hương nhằm vào chỗ: phá vỡ tinh thể của
phong cảnh đi, cưỡng bức thiên nhiên, để giúp vạn vật hiện lại nguyên hình
trong tinh thể thiên nhiên phusis thiết cốt.
Đối với cảnh là vậy. Đối với người cũng vậy. Bà táo bạo gan
liền lỳ lợm như những Sade, Lautréa-mont.
Ngoạ Long Sinh
Là một thiên tài thi sĩ thâm cảnh rằng ngôn ngữ Trung Hoa
không còn sinh lực nữa để bước một bước khổng lồ thi ca ngôn ngữ Việt Nam,
Pháp, Đức, Anh.
Nên ông xô ùa nguồn thơ Trung Hoa vào văn chương vũ hiệp.
Vì lý do đó, nên ban sơ sách vũ hiệp của ông không được hưởng
ứng chan hòa như sách của Kim Dung. Nhưng một phen đã kiên nhẫn theo dõi ông một
thời gian, ắt sẽ thấy tâm tình cháy bỏng.
Trong sách ông không có những loại tên hề Shakespeare. Nhưng
có những ngôn từ “hề ngầm”. Cũng đốt cháy bỏng linh hồn ta như thế.
Sách của ông còn mở ra một khoảng vắng lặng để cho Dịch Kinh
tương ứng với Phật Giáo và thành tựu một bước đường tối hậu cho sử lịch Đông
Phương.
Rimbaud
Mỗi phen muốn nói tới thơ Rimbaud, thì lập thời ta gác bút
bình luận, nắm lấy ngọn bút tái tạo thi ca.
Để làm gì như thế?
Để có thể cho hai làn sóng bành bái cùng song song dâng lên,
đập vỡ vào nhau cho hiện ra một tinh thể nào khác.
Với Nguyễn Du, Huy Cận, Hồ Dzếnh, Quang Dũng, ta vẫn thường sử
dụng phép “cưỡng bức” kia.
Nhưng cái âm thanh riêng biệt thoát từ hai triều sóng tuôn
ra, âm thanh đó sẽ ngân lên như thế nào, và dội vào đâu để vọng lại?
Cuối cùng đành phải quay sang cuộc làm thơ vịnh sách vũ hiệp.
Paul Eluard
Là thiên tài riêng biệt Tây Phương đích đáng là hóa thân của
Đức Khổng.
Khổng Tử đi vào mê cung hiện đại, Khổng Tử biến làm Paul
Eluard, René Char, Albert Camus, hoặc André Gide.
Như Lai biến làm Saint John Perse, Walt Whit-man, Dylan
Thomas.
Trang Tử biến làm Jean Paul Sartre.
Nguyễn Du bước hụt một bước, ắt có thể biến thành Simone
Weil.
Mai Vân Thu
Mai Vân Thu rất ít làm thơ. Nhưng mỗi bài thơ của cô mang
tính chất riêng biệt - là tính chất không tuổi không tên. Không ai rõ đó là xao
xuyến hay vui tươi, buồn rầu hay hoan lạc. Thơ của cô xóa hết mọi biên giới
trong bảy mối tình cảm của con người. Độc giả thử đọc một bài sau đây:
Ra Đời
Hoa đắm đuối lìa cành rớt xuống
Mùa xuân xanh thu muộn hai hàng
Song song từ giã lên đàng
Cơn mưa chếnh choáng ngựa vàng ướt lưng
Màu thấm thoát xưa từng đã luống
Hương gây ngô cuồn cuộn quen rồi
Đường trường điểm gạch tô vôi
Non trùng điệp giục ra đời ai đi.
Trần Cũ Một
Tôi thích mấy bài thơ đơn giản sau đây của Trần Cũ Một.
Nếp áo
Đã phai nếp áo sông hồ
Chuyện vàng đá cũng nếp xô đi rồi
Âm thanh ray rứt nửa đời
Thoảng dư hương ấy về nơi vong tình
Ngủ yên hằng cửu nín thinh
Càng xa vó ngựa trường đình năm nào.
Buông rơi
Chắc gì cố quận còn nghe
Mưa xuân thấm thoát bờ tre giậu vàng
Hai bàn tay nắm một hàng
Cỏ thơm ký ức muộn màng chim kêu.
Vân hoa
Môi vàng nửa giọt máu hoa
Dấu in hằng cửu đã xa mây vàng
Trang hồng rứt bỏ từng trang
Mùa xuân cố quận nhớ nàng không tên.
Vương Quốc Quyên
Vương Quốc Quyên làm thơ nhiều, nhưng chẳng chịu in ra sách.
Cô vốn người Đà Nẵng. Chỉ thỉnh thoảng gửi cho tôi vài bài “Ngẫu Hứng”. Cô bảo
rằng bài nào cũng ngẫu nhiên làm khoảng năm giờ sáng, làm xong vài bài thì
buông bút, lo việc tảo tần, bếp núc…
Chim kêu
Nửa tiếng chim kêu lạc giọng rồi
Đồng hoang chừ cỏ lấp hai nơi
Chữ nghiêng trang giấy đêm về sáng
Gà gáy biên cương tiếng lộn lời
Nửa tiếng chim kêu nào thánh thót
Một đời quang gánh đất chia đôi
Đò giang xuôi ngược đêm trì hoãn
Nam bắc mù sương một mảnh trời.
Mưa nắng
Ngày chan chứa lục hồng thưa rậm
Giữa đêm tăm quỳ bẩm thiên tiên
Tôi nay mất cõi quên miền
Tản cư năm tháng trận phiền dây dưa
Tình phố xá cuộc mua cơn bán
Đứa con thơ khóc khản cổ rồi
Chim bay mất bóng lưng trời
Quỳ xin tiên nữ một lời cuối sương.
Tiêu Quỳnh
Cô người Thừa Thiên, nhưng gốc gác vốn là Hà Tĩnh. Chép ra
đây vài bài để độc giả thưởng thức chút khí hậu của hai vùng đất thơ mộng nhất
Việt Nam.
Tao phùng
Tao phùng bến nước đầu hoa
Xuân đi như mộng trái đà sang thu
Vườn xuân ghi chữ sa mù
Một vùng giếng ngọc giọt từ từ ngân.
Biệt ly
Biệt ly đầy rẫy can trường
Quan san nhuộm bóng vô thường nước mây
Não nùng khăn đỏ choàng vai
Nào xin một lúc nào hai ba hàng.
Đọc sách
Đọc trang khung cửa của người
Xuê xoang ngộ hội còn vui hội hè
Đường tơ bích lục sắt se
Mưa xuân sớm dứt nắng hè vội sang.
Bắc Nam hai ngả lộn đường
Đông Tây trùng ngộ phi thường âm thanh
Dẫu sao nguồn cũ sao đành
Mấy lòng hạ tứ đã thành chiêm bao?
Ngủ gục
Chạnh ngủ gục một phen buồn bã
Sầu khổ ôi em ạ em ôi
Đêm nay tờ mộng rách rồi
Máu me bồi phụng rã rời xẫu xương
Đường phía trước còn vương hoa phấn?
Nẻo phía sau từng trận tan hoang
Tâm thành thể lệ hỗn mang
Ngủ vùi tái điệp nghe tràng giang đi.
Lục Vân Bình
Bài thơ sau của Lục Vân Bình tình cờ tôi đọc được. Không rõ
thi sĩ này ở đâu.
Ngày xế
Ngày xế đi qua xóm nhẹ nhàng
Chuông chùa vọng tiếng gọi đa mang
Ai về kết áo vàng tơ cỏ
Phương trượng từ đàm có hỏi han
Chung nhật thiết tha gào tiếng cuối
Mây trời bỗng loãng mất dư vang
Mai kìa chìm tắt giòng thơ suối
Mạch động âm thầm hết thở than.
Xuân Diệu
Dường như thuở bấy giờ ông linh cảm rằng ngày mai chỉ còn đau
khổ và tan nát trên mặt đất quê hương, nên trong tiếng thơ thanh xuân của ông,
ông đã dốc hết ra một lần tất cả niềm vui và nỗi buồn của thời đại.
Gửi hương cho gió
Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phụ phàng
Mất một đời thơm trong kẽ núi
Không người du tử đến nhằm hang
Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều
Là truyền tin thắm gọi tình yêu
Song le hoa đợi càng thêm tủi
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều
Tản mác phương ngàn lạc gió câm
Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm
Tình yêu muôn thuở vẫn là hương
Biết mấy lòng thơm mở giữa đường
Đã mất tình yêu trong gió rủi
Không người thấu rõ đến nguồn thương
Thiên hạ vô tình nhận ước mơ
Nhận rồi không hiểu mộng và thơ
Người si muôn kiếp là hoa núi
Uổng nhụy lòng tươi tặng khách hờ.
(Xuân Diệu)
Xuân Diệu có chỗ đặc biệt là: ông nói tới niềm bi đát tồn
sinh, ông nói rốt ráo cùng cực, mà vẫn ẩn ẩn một chút mỉm cười mát mẻ. Những
hình tượng ông vẽ ra bay múa rộn ràng khiến cho thảm kịch trở thành một ân huệ
mưa móc. Nỗi đời gay cấn biến làm màu sắc phiêu du. Đoạn trường trở thành mùi
hương rớt hột.
Người thi sĩ vốn tiềm tàng một chứa chất một tư lự hoằng viễn
của những linh hồn thượng đạt, nên ngôn ngữ quay cuồng đủ hướng vẫn quy về thể
thái phiêu nhiên niêm hoa vi tiếu của Khổng Tử điềm đạm trang nghiêm; niêm hoa
vi tiếu của Như Lai heo hút man mác; niêm hoa vi tiếu của Long Thọ Bồ Tát và
Heidegger đi bước nghiêm mật trừu tượng trong ngôn ngữ quẩn quẩn quanh quanh
thoáng hiện thoáng ẩn: niêm hoa vi tiếu của Huy Cận suốt bình sinh thốt tiếng
ngậm ngùi; niêm hoa vi tiếu của Trang Tử “mộ tứ nhi triêu tam, triêu tứ nhi mộ
tam”. Niêm hoa vi tiếu của Xuân Diệu “lòng tôi đó một vườn hoa cháy nắng, xin
lòng người mở cửa ngó lòng tôi”…
Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phũ phàng
Mất một đời thơm trong kẽ núi
Không người du tử đến nhằm hang
Trong kẽ núi? Là nơi chốn của những hang hốc ngổn ngang um
tùm cỏ mọc. Hương hoa mất cả một đời thơm trong kẽ núi. Nghĩa là gió phũ phàng
không đem hương hoa về đồng nội thôn làng thôn ổ, cho nhân gian tiếp đón. Gió
phụ phàng đẩy hương vào trong kẽ núi tối om om, lạnh căm căm, chịu đọa đày
trong quạnh hiu tù ngục. Một đời thơm mất đi trong kẽ núi đá đờ đẫn ra như thế,
thì kể cũng đà thiểu não lắm thay. Còn khốn đốn hơn tình cảnh Thuý Kiều lênh
đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Bởi vì lênh đênh là trôi dạt. Trôi dạt thì còn
dịp được tấp vào bờ. Hoặc còn mong lưu ly thì được gặp bàn tay tế độ của Thúc,
của Từ… Mà cho dẫu không gặp bàn tay nào cả, thì riêng cái việc được lưu ly
cũng là thơ mộng. Có chìm, có nổi, có dìu dặt, có nhấp nhô.
Còn như? Còn như cái sự tình mất một đời thơm trong kẽ núi,
là cái sự tình ngột ngạt, không khác chi bị vùi chôn trong nấm mồ, chẳng khác
chi cái nhà mồ Siêu Hình Học Âu Châu đã chôn vùi sấp ngửa Nerval Hölderlin.
Bị vùi chôn ngột thở, hy vọng có người du tử nào ngẫu nhiên
đi nhằm hang trúng hố, mà cứu ra? Nhưng núi non thì trùng trùng điệp điệp, hang
hố thì hàng triệu ngổn ngang, nằm ù lỳ trong tịch mịch.
Hy vọng được cứu thoát là hy vọng của tuyệt vô hy vọng.
Biết bao hoa đẹp trong rừng thẳm
Đem gửi hương cho gió phụ phàng
Biết bao hoa đẹp? Hoa đẹp của rừng thẳm rừng thiêng? Loại hoa
đó không giống loại hoa của phồn hoa son phấn. Loại hoa đó u nùng như rừng thẳm
âm u. Loại hoa đó mọc từ uyên nguyên vũ trụ. Từ giữa lòng tịch hạp của càn
khôn.
Nó tin cậy đem ký thác tinh thể nó cho gió. Thấy gió phiêu bồng
chịu chơi, nó hân hoan gửi hương cho gió. Thì đùng một cái, vừa gửi đi, thoắt
thấy mình chết đắm. Tại sao gió không mang nó đi tỏa ra man mác bốn chân trời
chân mây tứ hải. Gió lại chơi khăm đưa nó vào trong kẽ núi bịt bùng. Cái tiếng
phụ phàng chọi lại đem gửi. Chọi một cách kịch liệt. Đem gửi? Đem ra mà gửi? Là
tin cậy mới đem ra. Gửi đi là kỳ vọng.
Bốn câu tiếp chậm rãi nói ra sự tình trớ trêu cắc cớ:
Hoa ngỡ đem hương gửi gió kiều
Lá truyền tin thắm gọi tình yêu
Song le hoa đợi càng thêm tủi
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều…
Mọi tiếng không một tiếng nào không nói ra cớ sự ảo não. Hoa
bản chất vốn là phù du. Đợi nhiều như thế thì còn gì tinh thể của hoa:
Gió mặc hồn hương nhạt với chiều
Chiều là hoàng hôn. Hoàng hôn là đêm tối. Đêm tối là dặm
khuya ngất tạnh mù khơi. Ngất tạnh mù khơi là câm nín. Không một âm thanh tương
ứng vọng lại suốt rừng cao, lũng thấp, cồn bãi lè tè.
Tản mác phương ngàn lạc gió câm
Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá
Lặng lẽ hoàng hôn phủ bước thầm
Gió câm? Gió sao lại câm? Nó câm bởi vì nó điếc. Nó không
nghe cái lời. Nếu nó có nghe cái lời thì ắt nó không điếc. Nó không điếc thì ắt
nó không câm. Nó không câm ắt nó thốt lời đáp.
Nhưng sự tình trái hẳn. Dưới rừng cũng như trên rừng, hai ngả
đều lạnh giá câm nín cả hai.
Dưới rừng hương đẹp chẳng tri âm
Trên rừng hoa đẹp rơi trên đá
Nếu rơi trên đất còn khả dĩ gọi là. Mà nếu rơi được trên
giòng khe thì càng may mắn hơn nữa. Nhưng hoa đẹp rơi trên đá? Rơi trên đá thì
còn ra cái thể thống gì?
Thì cũng tỷ như cô Marceline rơi rụng cái hồng nhan mình trên
cái hình hài anh chàng Michel (L’Immoraliste).
Hoặc cái chú Jan chạm phải cái phũ phàng cứng rắn của cô em
gái Martha. Hoặc cái cứng nuồng Caesonia Seiphion vấp phải cái khối Caligula sa
mạc.
Sa mạc phát tiết anh hoa ra ngoài một phen thì sự tình đi tới
chỗ trầm trọng bất khả vãn hồi.
Jésus Christ phải lên Calvaire, song song với hai tên trộm cướp…
Tình yêu muôn thuở vẫn là hương
Biết mấy lòng thơm mở giữa đường
Đã mất tình yêu trong gió rủi…
Cái trận gió rủi kia đã đem tai họa đến cho gia đình Nguyễn
Trãi. Đã xô Nguyễn Du về giữa triều đình Gia Long. Đó là nơi chốn phát tiết tiếng
thơ xưa kia:
Kim cổ vô cùng giang mạc mạc.
Và:
Chắc chi thiên hạ đời nay
Mà đem non nước làm rầy chiêm bao
Và:
Người đâu tá? Quê nhà chưa tỏ
Tuổi bao nhiêu? tên họ là chi?
Đã sinh cùng nước cùng thì
Cùng ta không biệt mà ly bao giờ?
Không biệt mà ly có nghĩa là: mất hết mọi tương ứng thông cảm.
Xô bồ chém giết nhau đủ lối. Thì như thế cõi đời không còn là cõi sống của con
người ta. Lúc Jésus Christ nói với Ponce Pilate: “Vương quốc ta không phải là
cõi đời này” thì ý Ngài muốn nói gì như thế?
Nói xong câu đó, thì Ngài im lặng. Ponce Pilate hỏi: “Bọn
chúng lên án Ngài lan tràn như thế, Ngài nghĩ sao?” Jésus Christ vẫn im lặng.
Ấy bởi vì câu nói trên của Ngài đã là lời đáp cho mọi câu hỏi
rồi. Ngài không phải là con dân của non nước này, thì luật lệ của non nước này
sao có thể lên án Ngài. Ngài chỉ ghé lại viếng chơi giây lát, ôn tồn tâm sự
phút giây, rồi phiêu nhiên nhi khứ, như đã phiêu nhiên như lai…
Mọi oan nghiệt trần gian thế là được gột rửa sạch sẽ vệ sinh.
Trong trận lặng lẽ kia của Ngài, chẳng còn ai giết ai, chẳng
còn ai anh hùng hữu hận…
Ngài đã đóng xong vai trò của thân thể ở trong cuộc hý trường
hư vô kim cổ vô cùng giang mạc mạc.
Bài thơ của Xuân Diệu không có nói ra như thế. Lời thơ Nguyễn
Trãi cũng không. Nhưng nó đã bao hàm tất cả những gì chuẩn bị cho linh hồn con
người ta thể hội sự tình kia, trong cái thể điệu thi ca hiu hiu hắt hắt. Nó nói
chuyện hoa rừng mà không phải chuyện hoa rừng. Nó nói chuyện người thơ, mà
không hẳn là chuyện người thơ. Nó nói một đường để người ta nghe một ngả. Nó
nói chuyện bà la mật để người ta thấy bỉ ngạn là thử biên. Mà thử biên cũng có
thể là vô biên vô tế. Vô biên vô tế cũng có thể là hư vô mà cũng có thể là
không phải là hư vô. Non nước ta không phải ở cõi đời này nhưng vì sao ta lại về
đây và gieo Phúc Âm vào cho non nước? Gieo vào cho non nước, mà vẫn biết trước
rằng non nước chẳng nghe ra. Non nước chẳng nghe ra thì công gieo là công uổng.
Công uổng là luống công lao. Thế tại sao lại bận lòng gieo rắc? Bận lòng gieo rắc
mà lòng dạ vẫn chẳng bận tâm. Chẳng bận tâm sao có sự đoạn trường. Sao có sự vụ
đoạn trường tân thanh? Đã có đoạn trường tân thanh sao còn gọi là góp nhặt lời
quê mua vui một vài trống canh cũng được? Mua vui chơi một cuộc sao còn thở
than “bất tri tam bách dư niên hậu?”.
Nêu câu hỏi lai rai ráo riết như thế rốt cuộc ta chạm phải
cái gì? Ấy là lời thơ hắt hiu đồng Bương Cấn:
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta?
Triệt ngộ cái lẽ ẩn mật trong nếp gấp thi ca, từ đó về sau chẳng
bao giờ ta còn dám trách chúa Jésus mâu thuẫn. Tại sao lúc Ngài bảo là non nước
này chẳng phai non nước của Ngài, rồi lúc lâm biệt, ngài lại thở than: “Hỡi Thượng
Đế! Vì sao Người bỏ rơi con!”. (Xem Trăng Châu Thổ).
Chế Lan Viên
Một tinh thần quân bình sáng suốt, lại cứ nói mãi chuyện
điên. Yêu đời vô lượng lại nói toàn là chuyện yêu ma.
Làm sao không than khóc yêu ma một phen đã yêu đời quá nặng,
và cõi đời đang bị phá vỡ tràn lan?
Người Chàm đã diệt vong, cũng như người Troyens đã diệt vong,
người da đỏ đã diệt vong. Người người kẻ kẻ mọi mọi da da đã diệt vong, và tiếp
tục xô ùa nhau vào diệt vong. Thì kẻ yêu đời chỉ còn biết gọi: - Thần chết ạ, lại
gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…
Nguyễn Trãi
Nghĩ tới Nguyễn Trãi, không còn can đảm đâu viết nên một lời
gì cả. Nguyễn Du đã vì Nguyễn Trãi mà dựng một tòa tân thanh lặng lẽ. Thy sỹ đời
sau cũng vì Nguyễn Trãi mà tiếp tục làm thơ không lời. Thảm kịch nhà Nguyễn
Trãi dựng lên nước mắt mọi người toàn khối bất công oan nghiệt con người phải
nai lưng ra gánh vác.
Còn đâu chỗ để nêu ra vấn đề Chiến Tranh hay Hòa Bình?
Chiến tranh cũng thế!
Hòa bình cũng thôi…
Chắc chi dâu biển nỗi đời
Mà đem non nước làm lời non sông…
Nguyên Sa
Có lẽ ông Nguyên Sa nhãn giới rộng rãi, nhìn xuôi ngược quá tỏ
rõ ngọn ngành dâu biển, nên lời thơ của ông trở thành nửa thực, nửa rỡn, nửa
thâm thiết, nửa hững hờ. Và có một sức quyến rũ khác hẳn mọi lối thơ xưa nay.
Cả thơ, cả văn của ông, đều có như là một loại thần dược của
thiên nhiên trao gửi cho trần gian bối rối. Kẻ chán đời quá độ, nên đọc thơ
ông. Ấy là để nhận chân một mối thong dong tự tại của kẻ thượng đạt, mặc dù kẻ
thượng đạt kia trong cuộc sống vẫn có thể lầm lỗi nhiều ít.
Đỗ Long Vân
Đỗ Long Vân không làm thơ, nhưng lại là kẻ có tâm hồn thơ sâu
đậm thâm thiết rộng rãi hơn bất cứ kẻ thi sĩ nào.
Trường hợp ông cũng như trường hợp Trần Trọng Kim, Đào Duy
Anh… mang tâm hồn thi sĩ dấn mình vào cuộc biên khảo ngậm ngùi.
Nhất Hạnh
Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ
gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật
Giáo Uyên Nguyên.
Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sĩ thiên tài bị vướng
phải cạm bẫy của triết học Tây Phương.
Nhưng riêng gì Thượng Tọa Nhất Hạnh lâm vào trường hợp bi thiết
đó? Còn nhiều kẻ khác. Và ngay cả một thiên tài Nhượng Tống cũng không thoát khỏi
ma lực của tinh thần khoa học đời nay.
Trần Trọng Kim
Trần Trọng Kim cũng là một thiên tài thi sĩ. Ông dịch thơ Đường
không đạt tới cái độ tài hoa của Tản Đà, nhưng trong mạch ngầm lại thâm hậu hơn
Tản Đà.
Tản Đà bị tẩu hỏa nhập ma. Trần Trọng Kim lại là người duy nhất
trong thế kỷ này, giữ vững được tâm hồn trong niềm tịch nhiên bất động giữa mọi
phong ba.
Tản Đà chú giải Truyện Kiều một cách thô thiển lệch lạc quá.
Trái lại Trần Trọng Kim có những ghi chú hoằng đại âm thầm.
Chu Mạnh Trinh
Bài “Tựa” Truyện Kiều của Chu Mạnh Trinh viết bằng Hán ngữ,
quả thật đầy đủ thâm hậu và thừa dư tài hoa để xô Hán ngữ uyên nguyên đi thêm một
bước đặc biệt.
Lời cổ kính mà tân kỳ. Bằng một cánh phấp phới, ông bay vút một
cơn. Lý Bạch phải sững sờ. Trái lại, “Chinh Phụ Ngâm Khúc” bằng Hán ngữ của Đặng
Trần Côn, ắt chẳng khiến một thiên tài Trung Hoa nào chịu sửng sốt.
Thanh Tâm Tuyền
Thanh Tâm Tuyền như một vị tướng lãnh gan lì, sử dụng một loại
võ công chỉ riêng một mình ông đạt tới quai nhai cảnh giới.
Mọi kẻ về sau học tập võ công ấy đều thất bại.
Công lực thâm hậu, Thanh Tâm Tuyền lại còn trẻ quá, do đó,
ông bước đi trên trận địa một cách quá ngang nhiên, chả bao giờ ông bận tâm tới
những môn võ công khác của những đối thủ, bất kể chúng là thiên tài hay là chẳng.
Thế Phong
Thế Phong hùng hậu ngang tàng, bướng bỉnh, khó tính. Bài thơ
đi ào ào, lúc chan hòa tâm sự, lúc cộc lốc phiêu nhiên.
Thơ cảm động vô cùng, mà cũng lắm phen khiến người ta cười bật
ra tiếng.
Thơ ông Thế Phong là chỗ kết tụ của một tâm hồn tế nhị khôn
hàn và một nỗi gàn bướng không tả. Ông làm giàu cho thi ca hiện đại không phải
ít.
J. Leiba
Trong J. Leiba có một Từ Hải thời xưa yêu Thúy Kiều, lại có một
Đạo sĩ giũ áo tơ tình, đi theo cánh hạc, mà vẫn ngoảnh đầu nhìn mãi phồn hoa
thơ mộng ở phía sau.
Đúng là một loại Thanh Tùng Tử chịu chơi:
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá
Lệ lòng mong cạn chốn am Không
Cửa thiền một đóng, duyên trần dứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng
Nói thì có vẻ như dứt khoát lắm. Đắc đạo lắm. Nhưng thử hỏi:
- Một loại Từ Hải mà đi tu, thì tu sao trót? Làm sao gột rửa cho xong trong máu
me mình, cái hình ảnh em Thúy một phen kia.
Con dẫu trần tâm đã sạch rồi
Lòng từ vương một chút thương ai
Một câu thơ như thế quả là thừa sức xô ùa hết thảy mọi thi ca
kim cổ đông tây đi mất hết.
Con dẫu trần tâm đã sạch rồi
Lòng từ vương một chút thương ai
Thương ai? Thương bằng lòng từ? Vương một chút?
Một chút kia mang toàn khối tình và tự và đạo và tôi và giáo
và lý và phù sinh hư ảo trên trang hải phiêu bồng.
J. Leiba ắt đã có diễm phúc gặp một người yêu dịu dàng. Người
yêu có lẽ mệnh bạc? Nhưng vì thuở nàng còn tồn tại bình sinh, chàng vì cớ gì đã
đi xa nàng như thế? - Quyết lòng dứt áo ra đi? Thanh gươm yên ngựa lên đường ruổi
rong?
Chúng ta chẳng rõ gì hết về J. Leiba. Ông chỉ gửi lại trong
thơ mấy lời chân thành bi thiết nhất của một can tràng hy hữu như một niềm bí mật
ngàn xưa…
Đã thế thì tôi đi cứ đi
Ta cùng hồng kiếp có vương gì
Một cười trả lại người thiên hạ
Cả tấm thân này lẫn mộng kia
… Đâu đấy mồ thu tiếng dế than
Lòng ta xao xuyến ngựa lên đàng
Hồ ly mấy bóng lan bờ cỏ
Đêm tối tìm về ngủ mả hoang.
Bùi Như Sơn
Ông không làm thơ nhiều, vì tính ông ham chơi chẳng thiết chi
chuyện thơ thẩn.
Thỉnh thoảng ông gieo vài vần ghẹo ông Nguyễn Du. Đọc phải bật
cười ra tiếng.
Gọi là gặp gỡ giữa đường
Họa là người dưới suối vàng quên nhau
Trở về chân lệch gót sau
Trâm đầu lọt giữa tư trào hoang mang
Gia đình ông xưa kia bị thảm họa vì kháng chiến. Mấy mươi người
chỉ còn sống sót dăm ba. Thuở bấy giờ ông chỉ là một thằng bé mười một tuổi đầu.
Từ đó, đối với ông đoạn trường nhân gian là chuyện cố kỳ nhiên. Chả phải nhọc
lòng nghĩ tới nữa.
Một trái bom rơi trúng miệng hầm
Đã đành sự thể lạnh căm căm
Một mình ra đứng đầu khe núi
Quên mất thân mình một với trăm
Bài thơ nào của ông cũng chỉ có bốn câu. Cưới vợ, ông cũng chỉ
tặng vợ có bốn câu. Hỏng thi, ông cũng chỉ có bốn câu vịnh cuộc:
Lăn lóc trường thi một trận rồi
Rụng rơi từ một tới hai nơi
Ra người thiên hạ cười chi thế
Tớ chẳng vui lòng cuộc chịu chơi
Nhớ lại thuở nhỏ đi câu cá ở bờ khe, ông viết:
Cá đi nguồn suối xa rồi
Buông câu tuổi dại mộng ngồi phồn hoa
Tình đi như gió giang hà
Nằm nghe giấc ngủ chan hòa tử sinh
Ông trao tôi một xấp giấy gồm hai chục bài. Mỗi bài bốn câu.
Ông bảo:
“Các hạ chậm chậm mà đọc. Tháng sau ta sẽ trao thêm cho nhà
ngươi một bài bốn câu nữa cho đủ bộ”.
Phạm Quang Bình
Phạm Quang Bình mười sáu tuổi. Nhưng vẻ mặt trông như đứa bé
mới lên năm. Phạm Quang Bình là em ruột Phạm Đình Liên, một nhân vật phong nhã
tài hoa đủ điệu, nhưng lại chẳng hề làm thơ, chỉ vùi đầu đọc truyện vũ hiệp
quanh năm.
Phạm Quang Bình trái lại. Có năng khiếu đặc biệt phi thường
toán học mà lại thích làm thơ.
Mẹ cha vất vả quanh năm
Con làm thơ mộng như tằm ăn dâu
Mai sau con sẽ bạc đầu
Mẹ cha đừng có đau sầu vì con
Đúng là một hồn thơ thanh bạch phỉ phong.
Học hành chữ nghĩa bao dong
Thương thầy nhớ bạn còn mong yêu người
Người đi lặng bóng chân trời
Quê hương phố hội còn nơi tâm tình
Đêm nay bài vở rập rình
Mùi hương phảng phất tiền trình cuối năm
Tôi chắc học sinh nào cũng phải vừa lòng với tâm sự đó của bạn
thiếu niên. Nghĩ cũng lạ. Thơ vốn hồn nhiên như thế mà sao người ta cứ chạy tìm
thơ ở đâu đâu.
Phố chiều tà áo thướt tha
Chân đi đếm nhịp tuổi già hơn tên
Mẹ cha chờ đợi xui nên
Cơn chiều chuộng bỗng về bên mơ màng.
Tuổi trẻ vốn làm thơ tươi sáng như thế nếu không bị những gò
bó chương trình cản lối.
Tựu trường mở lớp học ra
Chị em ghé hội hè hoa thanh bình
Tháng năm đoản lộ trường đình
Dĩ nhiên mộng tưởng còn trình diện kia
Chợ chiều vang bóng về khuya
Sầu dâng lãng đãng về chia tâm hồn
Lan hương hai chị hao mòn
Nửa lo học tập nửa còn lo thi
Chúng tôi mong ngày sau sẽ còn được đọc những bài thơ như thế
của đầu xanh.
Nhượng Tống
Bản dịch “Tây Sương Ký” của Nhượng Tống thật là phi phàm.
Xin trích ra đây vài đoạn hiu hắt:
Non xanh chẳng nể nang nhau
Rừng xanh thôi cũng ra mầu khẩy trêu
Mịt mùng sương bạc khói chiều
Người đi ta biết trông theo lối nào
Lên xe mà dạ xôn xao
Về sao chậm chạp đi sao vội vàng
Tà tà bóng ác xuyên ngang
Nào nghe người nói trên đường cái quan
Mông mênh đồng lúa xanh rờn
Còn nghe ngựa thét trên làn gió thu
Phong cảnh cùng tâm hồn người Trung Hoa ngày xưa hiện ra như
thế. Chẳng rõ có còn làm nao nao những cô gái Ba Tàu Chợ Lớn ngày nay chăng?
Trông nhau nào thấy nhau đâu
Non xanh bốn mặt đẫm màu tà dương
Ngủ đâu đêm vắng dặm trường
Chiêm bao hồ dễ biết đường tìm nhau
Nào khi gắn bó hôm xưa
Đêm qua cách mặt bây giờ chia tay
Mùi tương tư nếm đã bao ngày
Ai hay ly biệt lại cay gấp mười
Cuốn Mái Tây còn tràn lan những hàng châu ngọc không thể nào
đếm xiết… Nhưng cố nhiên không thể nào tham lam bóc lột đem kê khai ra đây. Hãy
để yên cho các cô gái Chợ Lớn tự tìm lấy mà mà đeo vào khắp mình mẫy hình hài của
các cô.
Bản dịch “Nam Hoa Kinh” của Nhượng Tống cũng tuyệt diệu. Vài
nhầm lẫn nho nhỏ, không đáng kể bao nhiêu.
Dương Minh Loan
Và mùa thu lại trở về rồi đó
(“Hồng Cúc”)
Bài thơ này tôi tình cờ đọc được trên báo. Tưởng như một kỳ
ngộ. Tôi đã quá quen với những vẻ đẹp tiền chiến, hậu chiến, siêu thực, tự do.
Tôi muốn gặp một vẻ đẹp khác, thật sự phiêu nhiên tự do phóng nhiệm mơ hồ. Thì
bài thơ này của ông Dương Minh Loan quả là đáp ứng.
Và mùa thu đã trở về rồi đó
Trên núi cao có từng đám sa mù
Đùng một cái, Dương Minh Loan đẩy chúng ta đối diện với một sự
trạng quen thuộc mà bất ngờ của mùa thu. Xa hẳn thu Huy Cận, thu Xuân Diệu, Lưu
Trọng Lư, Nguyễn Bính. Xa hẳn mọi kỹ thuật nề nếp phỉ phong.
Trên núi cao có từng đám sa mù
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Đúng là tuyệt diệu thật.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Làm sao có được? Một phen trên núi có từng đám sa mù hồn
nhiên như thế? Tôi hờ hững trước cái “có” hờ hững tuyệt diệu kia.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Chưa có? Nghĩa là rồi sẽ có cho sau. Có lúc nào? Lúc được cái
gì xác định? Ấy là cái một lần mộng du.
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Cánh hoa nào đang đợi lần mộng du
Chờ tới lúc lần mộng du được thành tựu viên dung cho một cành
hoa nào kia viên mãn, thì khi đó, sẽ có cũng không muộn gì.
Và mùa thu lại trở về rồi đó
Trên núi cao có từng đám sa mù
Tôi hờ hững tưởng tên mình chưa có
Cánh hoa nào đang đợi lần mộng du
Nếu như tôi không hờ hững, nếu như tôi có o bế o bồng một
hoài vọng gì được xác định rõ trong một cuộc tạm biệt, nếu tôi có mang tên Thúc
Sinh, Thúy Kiều chẳng hạn, thì ắt màu quan san sẽ làm lệch mất cái tố chất
nguyên thủy sơ khai của thu đi, và làm cho cuộc mộng du sẽ loay hoay thắc mắc
như một vầng trăng ai xẻ làm đôi, làm ba, làm bốn, vân vân.
Tại đây, trái lại, mọi sự còn trinh nguyên - mà trinh nguyên
theo nghĩa của hồi sinh tái tạo. Tái tạo theo nghĩa tự tái tạo bản thân thể
mình, cho kịp với cái đà thơ ngây tuần hoàn biến hóa của vạn vật tư lự mùa thu.
Tư lự một cách rất mực thi ca sáng lập, chứ không tư lự theo lối cằn cỗi suy tư
gớm guốc quỷ nhà ma. Đó là điều bốn câu tiếp muốn nói một cách đơn giản ra:
Từng dấu chân in hình lên rêu đá
Từng suy tư làm đen nghĩa tương lai
Có lại đây xem nỗi buồn man trá
Hình ảnh này máu đỏ vẫn chưa phai
Có những nỗi buồn man trá, cũng có những lối suy tư kềnh càng
lố bịch, vì bao giờ cũng thấy mình trang nghiêm và do đó mà dày xéo mọi thứ hồn
nhiên máu đỏ.
Nhưng lời thơ nói lên sự đó một cách thong dong bát ngát hơn
nhiều.
Kỷ niệm ấy trôi theo cơn nước lũ
Tôi bâng khuâng nhìn ngày tháng khô dần
Khóc thương mình hồn đau như có nụ
Rồi trở về cô độc giữa thanh xuân
Hồn đau như có nụ? Nụ ấy sẽ nở ra hoa gì? Sẽ phủ hết một vườn
thanh xuân? Khóc thương mình hồn đau như có nụ? Chắc là nụ đoạn trường chẳng lẽ?
Ông Nguyễn Du bảo đích thị nụ hoa đoạn trường. Ông Dương Minh Loan lại mỉm cười
lắc đầu, không chịu xác định. Ông nói nửa vời, mà ráo riết. Ông lửng lơ mà đi tới
cùng. Ông nói sự cô độc mà nghe như thong dong đi du xuân ngó bướm.
Khóc thương mình hồn đau như có nụ
Rồi trở về cô độc giữa thanh xuân
Cái giọng nói riêng biệt đó là cốt cách của những kẻ có trăm
năm đạo hạnh đầy đủ để đốn ngộ thượng thừa. Mối buồn biến chất, tình yêu biến dạng
thăng hoa:
Với vòng tay người lần theo ngày tháng
Người xóa nhòa dòng lệ ướt trên mi
Tôi nằm xuống nhìn tình tôi biến dạng
Đem loài chim buồn vỗ cánh bay đi
Loài chim buồn bay đi một cách cũng thong dong thơ mộng. Lúc
tôi nằm xuống nhìn tôi biến dạng. Nằm xuống? Nghĩa là không lao xao nữa. Tôi nằm
xuống là vào cõi tịch nhiên bất động. Là đáo bỉ ngạn như lai.
Apollinaire
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho mùa thu đã chết rồi
L’Adieu
J’ai cueilli ce brin de bruyère
L’automme est morte souviens-t’en
Nous ne nous verrons plus sur terre
Odeur du temps brin de bruyère
Et souviens-toi que je t’attends.
Và nhớ nhé! Ta đợi chờ em đó,
Bài thơ chỉ vẽn vẹn chỉ có năm câu. Năm câu phiêu hốt mang
thiên nhiên nằm giữa nền thi ca Tây Phương Hiện Đại - năm câu cũng đồ sộ như
toàn khối Đường Thi Trung Hoa hay mấy vần tứ tuyệt của một Thôi Hộ.
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ không tao phùng được nữa
Mộng trùng lai không có ở trên đời
Hương thời gian mùi thạch thảo bốc hơi
Và nhớ nhé ta đợi chờ em đó…
Dịch ra làm sáu câu, tôi có phần áy náy. Nhưng không biết phải
làm sao. Cái chất đạm nhiên bát ngát trong bài thơ Apollinaire đang trừ khử hết
mọi lối dịch diễn dịch di, dịch tinh, dịch thể.
Cứ thử liều một trận xem sao.
Ta đã hái nhành lá cây thạch thảo
Em nhớ cho, mùa thu đã chết rồi
Chúng ta sẽ chẳng nhìn nhau trên đất nữa
Hương thời gian nhành thạch thảo tí hon
Và nhớ nhé ta đợi chờ em nhé…
Cũng tạm gọi là được.
Nếu ta đem bài thơ bát ngát kia đặt vào giữa nguồn thơ mênh
mông của Apollinaire ắt ta dám dịch nó ra làm lục bát Huy Cận, lục bát Nguyễn
Du hoặc làm thất ngôn Du Nguyễn.
Đã hái nhành kia một buổi nào
Ngậm ngùi thạch thảo chết từ bao
Thu còn sống sót đâu chăng nữa
Người sẽ xa nhau suốt điệu chào
Em nhớ anh quên và em cũng
Quên rồi khoảnh khắc rộng xuân xanh
Thời gian đất nhạt mờ năm tháng
Tuế nguyệt ta đà nhị hoán tam.
Dịch như thế là diễn giải một mùi hương ẩn tàng trong nếp gấp.
Nhưng đâu có cần gì.
Nếu như cần, thì tớ cứ buông bừa bút mực viết bừa thơ.
Mùa thu chết liễu nhớ chăng em?
Đã chết xuân xanh suốt bóng thềm
Đất lạnh quy hồi thôi hết dịp
Chờ nhau trong Vĩnh Viễn Nguôi Quên
Thấp thoáng thiều quang mỏng mảnh dường
Nhành hoang thạch thảo ngậm ngùi vương
Chờ nhau chín kiếp tam sinh tại
Thạch thượng khê đầu nguyệt điểu mang
Xa nhau trùng điệp quan san
Một lần ly biệt nhuộm vàng cỏ cây
Mùi hương tuế nguyệt bên ngày
Phù du như mộng liễu dài như mơ
Nét mi sầu tỏa hai bờ
Ai về cố quận ai ngờ ai đi
Tôi hồi tưởng lại thanh kỳ
Tuổi thơ giọt nước lương thì ngủ yên.
Dịch ra như vậy thì tiếp giáp với bài thơ “Je me souvienns”:
Je me souviens de mon enfance
Eau qui dormait dans un verre
Avant les tempêtes l’espérance
Je me souviens de mon enfance
Tôi hồi tưởng tuổi thơ ngày trước
Đáy ly nào giọt nước ngủ yên
Trước khi giông bão muộn phiền
Giậy cơn hy vọng cuối miền thơ ngây.
Je songe aux métamorphoses Qui s’épanouissent dans un verre
Comme l’espoir et la tristesse Je songe aux métamorphoses C’est ma destinée que
je lis Dans les reflets incertains Les jeux sont faits rien ne va plus C’est ma
destinée que je lis
Tôi nghĩ tới tháng ngày chuyển dịch
Những thay hình đổi dạng mở phơi
Trong ly nước mộng tuyệt vời
Với sầu dao động nỗi đời giao thoa
Linh hồn định mệnh âm ba
Bóng vang khép mở đầu hoa mơ hồ
Hỡi ôi dâu biển xô bồ
Hồn trong định mện bây giờ đọc ra.
(Sương Bình Nguyên)
Quang Dũng
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Chỉ hai câu đầu đã khiến người tê lạnh. Không có gì cả, không
lời nào tha thiết, nhưng đúng như ông Huy Trân nói: “Thơ Quang Dũng ý đã nhiệt
thành, cao đẹp, mà lời thơ lại êm ái gợi cảm vô cùng. Nói về thơ nhẹ nhàng, êm
dịu, mà đọc tới đâu lâng lâng chết cả lòng đến đấy, thì thi ca hiện đại chỉ có
Quang Dũng”.
Thi ca hiện đại hay thi ca ngàn đời, thi ca Việt Nam hay thi
ca thế giới - vâng - cũng chỉ riêng một Quang Dũng thôi.
Mai chị về em gửi gì không
Mai chị về nhớ má em hồng
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Đó là chỗ sơn cùng thủy tận của ngôn ngữ. Ngôn ngữ thần tiên
hiển hiện tinh thể một cách không thấy hình hài máu me đâu cả. Người ta đã bao
đời đi tìm cõi huyền nhiệm của ngôn ngữ thơ. Mỗi phen trở về, mỗi phen như bó
tay lắc đầu, tuyệt nhiên không biết ăn nói ra sao cả. Đành chỉ nói quanh co.
Và biết bao thi sĩ hoằng viễn đã nghĩ rằng, nguyệt rằng, mình
sẽ suốt đời không làm một vần thơ nào cả - một phen để hội cái chỗ dị thường trống
trải vắng vẻ trong lời man mác thiên tiên kia.
Lại có những nhà tư tưởng như Heidegger, viết bao pho sách lịch
kịch nêu bao câu chất vấn u ẩn, đáo cùng vẫn chỉ nhằm mục đích nhiếp dẫn tư tưởng
tới chỗ mép bờ bất khả tư nghị của thi ca.
Nerval sau những lần thành tựu cõi miền ngôn ngữ đó, ông bèn
lao mình vào cõi ẩn mật vô ngần của một nguồn siêu thực không tiếng không lời
Les Chimères.
Apollineire, sau phút dị thường bước lên tột đỉnh đạm nhiên
kia, lập thời nhảy lùi làm thơ theo thể thái bông lông tầm phào, bất sá lam hồng
tố bạch.
Mai chị về em gửi gì không?
Câu hỏi cũng lửng lờ như lời đáp cũng lửng lơ. Hỏi mà cũng
không hỏi, không nói, không ngó, không nhìn nhau…
Và chỉ sau khi lên ngựa, chia bào, con người mới để lòng mình
bay tỏa khắp đường đi.
Đường đi không gió lòng sao lạnh
Bụi vướng ngang đầu mong nhớ mong
Tâm sự của người đi, nhưng nhan đề là kẻ ở. Kẻ ở hay người đi
cũng một tâm tình ly biệt. Đi giữa không gian, thì cũng như đứng ở trên dâu biển.
Lòng sao lạnh? Vì lòng mang chứa tất cả khoảng vắng lạnh? Vì lòng mang chứa tất
cả khoảng vắng lạnh không gian… Và tiếng “mong nhớ mong” kia cũng chỉ vọng vào
được trong không gian xa hút mà thôi.
Nghĩa là vọng trở lại vào lòng mình. Từ lòng mình toả vào
lòng vũ trụ. Lại từ lòng vũ trụ dội lại lòng mình. Đó là cái vòng kỳ ảo của
mong nhớ mong. Và mong nhớ mong mênh mông như thế, thì mong nhớ mong là cõi của
từ bi tế độ vậy.
Bởi vì nó mang hải lượng bao hàm. Nó bao dong rừng biển, sớm
chiều, canh gà, sương hoa, cành hoang ngựa lạc. Nó đem thương mến phủ khắp hình
hài vạn vật từ gần gũi tới xa tít dặm xa.
Quê chị về xa tít dặm xa
Vì đó là một quê hương nào riêng biệt nằm tại một bến bờ bỉ
ngạn nào vô tức vô thanh, vô biên vô tế.
Quê chị về xa tít dặm xa
Rừng thu chiều xao xác canh gà
Hoa rơi khắp lối sương muôn ngả
Ngựa lạc cành hoang qua lướt qua
Ngựa lạc? Dẫu ngựa không lạc đường vẫn cứ là lạc nẻo. Nghĩa
là: ở trong cõi hư không bao la như thế, thì đâu cũng là lênh đênh, nhưng lênh
đênh theo nghĩa vô ngần: trụ vô sở trụ.
Người ngồi trên ngựa cũng lạc ngựa luôn. Hươu trong rừng cùng
một cảnh ngộ lạc loài như nhau, lại tam trùng lạc lõng nhau, vì bất ngờ sợ hãi
nhau, quay đầu bỏ chạy. Lời thơ lại thêm một chút niêm hoa vi tiếu “theo ngó
theo”.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Nếu thác đục lầy cho một chút, ắt có phần gần gũi bụi hồng
hơn. Nhưng tại sao thác lại trong veo cắc cớ ra như thế? Thì trần gian còn biết
đem tâm sự hồng trần ký thác vào đâu? Đó là chỗ đạm nhiên huyền bí lô hỏa thuần
thanh vậy. Nó đốt cháy linh hồn bằng một tiếng trong veo. Nhưng đốt cháy mà đâu
có bỏng da bỏng thịt. Nó cháy để thăng hoa cho linh hồn về ba la mật, sau một
phút linh hồn tạm dừng trong một phen tư lự. Vì dù sao trận giũ áo cũng còn vướng
víu với nhân nghĩa nhân tình.
Ngựa chị dừng bên thác trong veo
Lòng chị buồn khi nắng qua đèo
Nơi đây lá giạt vương chân ngựa
Hưu chạy quay đầu theo ngó theo
Rồi sẽ xin khóc một cơn vô ngần cho trùng sinh trong vĩnh biệt:
Rừng đêm nhòa bóng nhớ hoang mang
Ngựa chị dừng bên thác sao vàng
Sao rơi đáy nước vương chưn ngựa
Buồn dâng đôi mi hàng lại hàng
Ta lại gián tiếp với một sự tình kỳ dị. Nói ra là buồn dưng
đôi mi hàng lại hàng, nhưng có bao giờ mối sâu mênh mông và hầu như vô đối tượng
lại tràn ra thành hàng lệ. Nhưng đây là hàng lệ riêng biệt của hư không đi về
vui chơi êm đềm với không hư thái thiên nhiên tĩnh tịch. Người ta có thể khóc,
nhưng không phải khóc vì một mối đoạn trường riêng tây trong một cảnh ngộ nhất
định.
Hoặc đâu có phải bạ đâu khóc đó như bọn thi sĩ trung niên.
Người ta khóc từ chín kiếp khóc về; như trận mưa vốn từ thiên thu rớt hột. Vì
thế nên gọi là hàng lại hàng. Vì thế nên có chuyện sao rơi đáy nước. Vì thế nên
có chuyện sao vương chưn ngựa. Chưn ngựa ở đây cũng mang đủ trùng quan thời
gian vũ trụ nên mới có thể chạm vào bóng sao rơi từ thời gian tinh thể rớt về.
Người và ngựa và sao và nước bỗng nhiên như nhiên đã đi vào cõi chung vạn vật
nhất thể. Thì từ đó trở lại với đoạn đầu, từ câu hỏi mông lung tới lời đáp nhẹ
nhõm, niềm mong nhớ mong là một tặng vật không lời, không nhất định là riêng biệt
của riêng ai trao gửi lại cho ai. Người chị và người em kia cũng không có tên
tuổi nào được hạn định nơi đâu. Đó là hai đứa con của trời và đất đẻ ra trong một
mùa xuân hôn phối. Thì mai chị về em gửi gì không, là gửi cho chị hay cho ai?
làm sao ta dám quyết định? Chỉ biết rằng: chị hãy nhớ má em hồng. Nghĩa là: mùa
xuân xanh còn tồn lưu mãi mãi trong mùa thu ly biệt. Đó là tặng vật của em trời
trao chị đất - nhớ má em hồng là ký ức kỳ ảo Mnémesyne.
Chẳng hiểu sao đọc thơ Quang Dũng, Nguyễn Du, Hồ Dzếnh, Huy Cận,
tôi thường nghĩ tới người Chiêm Thành. Tội lỗi ông cha chúng ta đối với dân tộc
ấy kể cũng được chuộc phần nào, cũng như ngày xưa Homère đã giải oan cho người
Troyens bị đắm chìm bởi người Hy Lạp.
Mấy bài thơ của Quang Dũng như giữ lại cho mọi người một niềm
tương ứng mênh mông trong thời đại ngỗn ngang oan nghiệt, thế giới cùng xô ùa
nhau vào hủy diệt, tàn phá, trong những trận tẩu hỏa nhập ma. Chiến tranh trong
thời Quang Dũng dù sao cũng còn để lại cho người một dư địa để hoài niệm nhớ
thương nhau. Nhưng dần dà, chút tình thương còn sót cũng mất đi giữa hỗn độn.
Lúc bấy giờ e chỉ còn cửa quỷ đối thoại với nhà ma. Quang Dũng cũng linh cảm sự
đó, nên bài “Đôi Mắt Người Sơn Tây” khép lại với mấy tiếng “bao giờ, bao giờ”
ngậm ngùi khôn tả:
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn?
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng
Bao giờ ta gặp em lần nữa
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Đã hết sắc màu chinh chiến cũ
Còn có bao giờ em nhớ ta
Khoảng trống lại trở về ngập khắp mép bờ ngôn ngữ. Như muốn
đánh chìm hết mọi lời thân thiết đã thốt ra. Chúng ta không còn biết phải giải
thích thơ Quang Dũng ra sao được nữa cả.
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa
Nhưng có lẽ ông không tin ở ngày ấy, ông không nghĩ rằng ngày
nở hoa ấy sẽ về. Còn có bao giờ em nhớ ta? Nghĩa là không còn có bao giờ nữa cả?
Chúng ta sẽ tiếp tục chết hết. Người ta sẽ tiếp tục giết nhau cho tới buổi
chung cục thời gian. Cuộc chiến tranh ngày nay không còn chút gì giống như chiến
tranh những thời đại trước. Có những cuộc chiến tranh huy hoàng như một trận
mưa rào rực rỡ, làm hồi sinh con người trong tâm thức từ bi. Nhưng có những cuộc
chiến tranh vốn từ trong tinh thể là làm tan rã tiêu diệt mất bản tính con người.
Ngay cả con ngợm, con đười ươi cũng không còn sống sót một mống nào hết cả. Thì
như thế? Còn có bao giờ em nhớ ta?
Người ta nhầm lẫn một cách kỳ quặc cái ý nghĩa sơ thủy của
chiến tranh. Cuộc chiến tranh bao dong của những ông Nguyễn Huệ, chiến tranh
bác ái của những ông Napoléon, chiến tranh đó không còn tự nhận diện ra mình nữa
trong cuộc chiến tranh tàn phá ngày nay. Tolstoi ngày xưa chẳng hiểu gì về
Napoléon hết cả, cũng như chúng ta ngày nay chẳng hiều gì cả về cuộc chiến
tranh của chúng ta. Thật là cắc cớ. Còn có một chân lý dị thường ẩn tàng trong
Dịch Kinh của Khổng Tử đang khiến mọi người tư tưởng ngậm ngùi không còn biết
phải thốt bất cứ một lời gi trong hiện trạng năm châu. Bài thơ Quang Dũng hiện
ra tại chỗ chênh vênh bát ngát và thê thảm nhất trong sử lịch con người. Nó chỉ
đạm nhiên và thống thiết khơi rộng những khoảng trống vắng ra để cho mọi vấn đề
được nhận định và tự tìm lời giải đáp.
Bàn luẩn quẩn mãi là vô lối. Chỉ nên thong dong đọc thơ như uống
nước mía, như dõi theo cánh chuồn chuồ, như nằm ngủ gọi em Thúy Kiều em Thúy
Vân em Đạm Tiên, em Hoạn Thư em Bạc Hạnh, em Sở Khanh, em Mã Giám Sinh, mọi mọi
em em của em Tố Như Tử em Liệp Hộ em Thanh Hiên, em Hiền em Thánh, em Cành em
Nhánh, em Trái Ớt, em Muối Tiêu, em Soài Riêng sa rụng, em Bương Cấn em Sài
Sơn…
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngóng lúa vàng
Sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắc thổi đêm trăng.
Tuy nhiên riêng đối với học sinh đang tập đi thi để cuối năm
cưới vợ thì chớ nên lẩn thẩn chiêm bao đọc thơ nhiều quá.
Huy Tưởng
Lại một tâm hồn thi sĩ thượng đẳng. Ông còn trẻ lắm chắc? Tập
thơ ông còn vài vần vướng vướng cái gì. Nhưng nhiều bài thâm thiết khôn tả. Tôi
kính yêu ông này như một hóa thân Thôi Hộ về hội diện ni cô hiện đại Việt Nam.
Tôi chưa dám bàn nhiều về ông. E sỗ sàng chăng? Chỉ xin ghi
ra đây một bài thơ xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên:
Nghe kinh
Ướt hai tà áo nâu rồi
Bên chùa mục giọng kinh hồi lệch sang
Giọng chuông rơi thấm cỏ vàng
Nghe kìa sư nữ vừa choàng áo tu
Tôi nằm ấp lá đêm thu
Mai sau nở trái sa mù pháp không.
Bùi Giáng
Những bài thơ “chuồn chuồn châu chấu” của ông quả thật là có
ý nghĩa. Nó bay nhẹ vi vu quả có đúng như là phận mỏng cánh chuồn. Vào những buổi
sáng mùa đông lạnh lạnh ở Trung Việt, vào những buổi chiều mùa thu ở Bắc Hà,
hình bóng những con chuồn chuồn bay lượn cuối ngõ, đầu xuân, quả thật là tha
thướt. Đôi phen mất cái tiết điệu riêng biệt ấy cũng còn tái hiện trong đôi vần
phồn hoa, mặc dù ở chồn phồn hoa không bao giờ có chuồn chuồn bay vòng múa lượn.
Bài thơ “Giữa phố” sau đây là một thí dụ:
Thiên tiên đẹp cũng như người
Ngẫu nhiên kỳ ngộ miệng cười nửa môi
Miền xanh đứng bóng mặt trời
Cõi xanh cung nguyệt cạn lời cảo thơm
Đi qua làn gió xanh rờn
Đi về ở lại còn hơn xanh rì
Phút giây đè nặng như chì
Thoảng qua như mộng không kỳ hạn qua
Chiêm bao nàng ghé lại nhà
Môi cười nửa miệng như là ngẫu nhiên
Nửa môi còn ngậm phi tuyền
Tuyết pha in mặt thần tiên như người.
Tuy nhiên vì Bùi Giáng là chỗ quen biết với tôi nên không tiện
bàn luận chi nhiều. Chê thì mất lòng nhau. Mà khen thì mang tiếng “mẹ hát, con
vỗ tay”.
Dù sao, bài sau đây cũng nên trích thêm vào tập:
Bóng dương buồn ngủ qua chiều
Qua sông tại hạ toan liều dấn thân
Đường sông bóng đổ cơ trần
Gẫm chông gai ấy ai từng đạp qua
Ghì môi cơn mộng la đà
Tiêu dao suốt cõi mù sa bên rừng
Nửa vời trăng rộng mông lung
Đường hoa nghi hoặc tháp tùng ni cô
Kiên Giang
“Lành mạnh, thanh cao, vị tha và ái quốc”. Ông Thiếu Sơn nói
không sai một tấc một ly nào cả, khi giới thiệu thơ Kiên Giang.
Ông Kiên Giang tuyệt nhiên “không cầu kỳ, không giả tạo” mà đạt
tới chỗ sâu thẳm nhất trong linh hồn mọi người, một cách thuần nhiên.
Bàn giải thơ ông là làm công việc thừa, vô ích. Chỉ xin chậm
rãi chép ra đây nhan đề những bài thơ trong quyển Quê Hương Thơ Ấu của ông:
Hơi Mẹ
Thuở Lên Ba
Củ Co, Nét Đồ
Rau Với Chữ
Đánh Vần Câm
Chơi Nhà Chòi
Chim Bay Cò Bay
Thả Diều
Ngựa Trúc
Manh Lụa Mo Cau
Đồng Xu Giấy Chặm
Tà Áo Tím
Đồng Tiền Duyên
Con Chờ Đèn Chợ
Niềm Khuya
Giấc Ngủ Thiên Thần
Hương Tuổi Ngọc
Gối Khuya
Năm Lần Dứt Sữa
Tình Trắng
Tóc Thề Xứ Huế
Tiếng Võng Chìm
Bong Bóng Màu
Cô Hàng Bông Cỏ
Gánh Hát Cúng Đình
Kẻ Bụi Đời
Tuổi Thơ Heo Hắt
Đếm Sao Vô Hình
Tuổi Trăng Tròn
Sa Mạc Trắng
Học Sinh Và Tổ Quốc
- Những Trang Sách Cũ
- Gió Bấc Hiu Hiu
- Niềm Riêng
Quê Hương Thơ Ấu của Kiên Giang sẽ nằm trong nước Việt như
Kinh Thi nằm trong nước Tàu. Một quê hương bình dị thiết tha, và hình như chúng
ta đang đánh mất. Chỉ kêu gọi về trong những trận chiêm bao.
Nguyễn Du và Hegel
Hegel - Ngài làm thơ rất khá, tuy nhiên ta cũng lấy làm tiếc
cho ngài.
Nguyễn Du - Tiếc gì thế Hegel?
Hegel - Tiếc rằng ngài vay mượn truyện Tàu, và ngôn ngữ Tàu.
Té ra ngài chả có tinh thần sáng tạo.
Nguyễn Du - Các hạ còn điều gì chỉ giáo thêm cho chăng?
Hegel - Có chứ. Ta khuyên ngài nên gắng thử dựng nên một triết
thuyết mới mẻ cho dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Du - Còn gì nữa chăng?
Hegel - Còn chứ. Ta khuyên ngài hãy gắng tìm hiểu triết thuyết
của ta, thì mới mong mai sau tiến bộ nhanh chóng.
Tản Đà
Nếu tiên sinh còn sống, ắt tại hạ xin được phép cùng tiên
sinh nhậu nhẹt một trận lu bù. Thơ của tiên sinh làm, chẳng có chi xuất sắc.
Nhưng bản dịch “Trường Hận Ca” của tiên sinh quả thật là vô tiền khoáng hậu.
Walt Whitman
Ngài là một bậc thánh chịu chơi. Thơ của Ngài tuôn trào cuồn
cuộn như ngôn ngữ Hoa Nghiêm Kinh. Ngài nghĩ sao về nền văn minh ngày nay trong
xứ sở của Ngài? Chắc Ngài chẳng lấy làm chi hài lòng cho lắm?
Emily Dickinson
Cô nương là một tiên nữ lạc lối ghé về trần gian. Cô nương
làm thơ vừa như cho anh hoa phát tiết, lại vừa như ghìm ẩn mật tinh thể mình,
không chịu để cho thiên hương bốc hơi ra ngoài…
Chỗ kín đáo đó của cô nương càng khiến cho kẻ phàm tục choáng
váng tê mê mất ăn mất ngủ.
Dylan Thomas
Nhà thơ phiêu bồng ríu rít nhất của Tây Phương. Thơ dại nhất
và u sầu nhất. Đọc thơ ngài, kẻ phiêu bồng đành phải bó tay, không còn tìm đâu
ra một cõi phiêu bồng khác để bước.
Tạ Ký
Bây giờ tôi muốn nói đến một người bạn. Thì tôi có cảm tưởng
rằng những điều tôi nói quanh quẩn mấy năm nay về thơ, đều có thể đem trao cho
người bạn ấy. Thơ Tạ Ký đủ mọi màu sắc. Cay đắng, não nùng, thơ ngây, thắm thiết.
Lời thơ lúc thật cũ, lúc thật mới, lúc như làn kiếm vụt ngang, lúc mơ hồ lãng
đãng. Anh sống ở mọi giai tầng xã hội, xuống lên, lên xuống, ngõ quạnh, đường
cong, phồn hoa, thôn ổ, nơi nào cũng thấy phảng phất hình bóng anh. Vậy tôi còn
biết nói sao.
Chỉ xin chép ra đây một ít tuyệt phẩm vậy. Kẻ tình nhân sẽ đọc,
cũng như người nhớ quê sẽ nhìn. Con nhớ mẹ, anh nhớ em, học sinh du học viết
thư về ngỏ ý với gia đình… ruộng đồng ngỏ ý với đô thị… sa mạc trao ân tình về
cho biển, cho non… Thượng Đế ở trời xanh cũng ngậm ngùi đưa mắt xuống, đăm
chiêu nhìn những đường ngang, lối dọc, ngõ hẻm trần gian, những mùi hương, những
meo mốc.
(Rủi sao, tập thơ của anh, tôi bỏ lạc đâu mất, tìm không ra để
chép vào đây).
Viết thêm:
Sau nhiều đêm biến động, đọc lại thơ Tạ Ký, càng nhận rõ những
âm thanh nồng hậu của riêng anh. Những nỗi vui nhẹ nhất, cũng như những nỗi buồn
sâu xa nhất trong tâm tình con người thời đại này, đã được anh nói lên một cách
chân thành thâm thiết.
Giữa một thành phố ngổn ngang, khí hậu tàn nhẫn nấu nung bức
vách, thỉnh thoảng gặp nhau vài giờ, trao đổi vài mẩu chuyện vu vơ, rồi mỗi người
quay đi mỗi ngả, nghe cuộc sống của mình dần dà xế bóng…
Nhưng lớp người sau chúng ta sẽ về, họ sẽ còn đau khổ hơn
chúng ta - làm sao nghi ngờ điều đó - họ sẽ đọc thơ anh Tạ Ký như thế nào?
Thùy Dương Tử
Ông Thùy Dương Tử là một nhân vật tài tử riêng biệt ngậm
ngùi. Ông vốn người Quảng Nam nhưng lại chẳng hề có cái chất bướng bỉnh của người
Quảng Nam. Ông chỉ thừa thu riêng cái chất thuần phác của xứ Quảng yêu dấu mà
thôi.
Thùy Dương Tử hiền hòa, bình đạm, thơ ngây, tha thiết âm thầm.
Chẳng bao giờ lên tiếng nói thị phi gì hết cả.
Xin chép ra vài bài:
Về đây giấc ngủ thiên thu
Quên đi bóng dáng sương mù tuyết cao
Âm thanh chẻ tuổi hôm nào
Giờ gay gắt gọi chiêm bao chưa về
Giật mình nóng lạnh giường se
Bàn tay nhiều chỉ mình nghe tự mình
Tôi thiết tưởng một thanh niên hai mươi lăm tuổi viết một vần
thơ thăm thẳm đến như thế ắt phải khiến phụ nữ kinh hoàng không dám bén mảng tới
thăm.
Và ắt có kẻ vừa quá yêu thương vừa quá kinh hãi, không biết
làm sao, đành mượn liều độc dược quyên sinh và để lại trên bàn ở cạnh đầu giường
một vần thơ tuyệt bút:
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan
Hoặc:
Tái sinh chưa dứt hương thề
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.
Hoặc cũng có thể là:
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan
Hoặc hơn nữa:
Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân
Sau đây là một bài nữa của Thùy Dương Tử:
Tôi nay nằm ngửa nghe mưa
Âm than vút ngược lại vừa buồn thiu
Làm thơ trong bóng mù khơi
Khắt khe càng lắm yêu đời càng thâm
Cô đơn ấp ủ bên lòng
Mưa rơi buồn chết gọi âm thanh về
Yêu đời nên mãi điên mê
Se đau từng phút kéo về trăm năm
Buồn hiu hắt nên nỗi buồn thiu
Giải sao hết được những điều thực hư.
Chúng ta tự hỏi: làm sao một thanh niên trẻ dại có thể viết
nên những câu thơ tồn lập tại Khoảng Vắng Lặng mà suốt Đoạn Trường Tân Thanh,
Nguyễn Du đã mở ra và bỏ lửng tại đó?
Tuổi xanh già trước tháng ngày
Mắt xanh già trước niềm đau hiện về
Anh viết câu thơ như thế cho ai nghe? Mọi nhân vật thượng đặng
của Nguyễn Du sẽ nghĩ sao? Giác Duyên nghĩ sao? Tam Hợp Đạo Cô nghĩ sao? Từ Hải
nghĩ sao? Kim Trọng nghĩ sao? Thúy Vân nghĩ sao? Không ai dám nghĩ sao hết cả.
Mọi người nhắm mắt lắc đầu. Rồi tiếp tục nâng chén rượu bùi ngùi uống cạn một
hơi, khẽ mời ông Lý Bạch đọc tiếp:
Đi về thăm viếng thị thành
Bàn tay năm cũ mọc nhành xương khô
Đi về còn vọng sông hồ
Bài ca tình ái phương mô tìm nàng
Đi về vườn cũ tan hoang
Thương trăng thiếu phụ úa tàn đời xuân
Anh âm thầm cảm thương quê hương vườn cũ, anh âm thầm thương
cảm một vong hồn đau đớn thiết tha Quách Thoại. Mọi người chết giữa xuân xanh
hãy ngậm cười chín suối. Tôi chép bài thơ Thùy Dương Tử ra đây để cho những oan
hồn kia đọc:
Kinh kỳ bụi hút xe đi
Thành đô nóng nực da chì nám da
Chốn này về có mình ta
Trẻ thơ òa khóc người già gậy khua
Âm thanh phá vỡ tuổi mùa
Ngày đi xuân lụn âm thừa vọng lâu
Bờ khuya đổ bến giang đầu
Người con gái khóc vó câu biệt mù
Trăng về ngự đỉnh non thu
Nửa dòng sông bạc sa mù tiết đông.
Những vần thơ như thế, ai dám đặt bút phê bình giảng giải? Những
bài viết ra đâu có phải là làm văn nghệ chuyên môn? Phải là táng tận lương tâm
mới có thể cầm cây bút học giả chen vào phân tích.
Lên cao nhìn tuổi núi sông
Lại về đồng cỏ tắm giòng hạ lưu
Tìm em mưa bão tháng mười
Cuối đông bồng biển sang thu lên đồi
Từ em hồng phận hoa khôi
Rớt rơi kỷ niệm mà tôi biệt từ
Không một lời dư. Không một tiếng thiếu. Tưởng chừng đó là mấy
lời tuyệt bút của Hồng Sơn Liệp Hộ, một đêm nào nằm ngửa mặt ngó trời trăng tịch
mịch và nguyện cầu dâu biển hãy buông tha…
Chiêm bao ngựa trắng phi về
Mây che thân thể em về hư không
Nửa đêm thức giấc phiêu bồng
Tóc bay mùa cũ chẻ lòng nhớ thương
Dâu biển ôi! Phong tình cổ lục ôi! Sự tình như thế nào như thế.
Còn đâu nữa một vần tái tạo, một khúc tái tân thanh. Chỉ còn tịch mịch hư
không.
… Đêm
Con dế kêu
Buồn đêm vắng
Buồn đêm mưa…
Nhưng làm sao dừng lại. Dư vang con dế gọi vẫn kéo dài suốt
kiếp chúng ta. Kéo dài suốt giang san nước Việt.
Mịt mờ xe đỗ đèo cao
Nẻo xa xứ Quảng lối vào Quy Nhơn
Phố khuya mưa lệch sông hờn
Ểch ương kêu với đồng trơn quê nghèo
Một mình thui thủi lần theo
Rạ tranh nhà vắng buồn teo lúc về
Lạnh lùng Đà nẵng mưa gieo
Về thăm quê nội chừ nghèo xác xơ
Bước chân lữ thứ khôn hàn bỏ lại cho mai sau những âm thanh
gì như thế:
Dép mo cau áo vải còn thương
Mùa cau trổ với mía đường tản cư
Thu Bồn Bến Cát thừa dư
Chín năm kháng chiến mình như già rồi
Anh hỏi mình quê ở đâu
Mình quê ở dưới bầu trời bao la
Tháng năm với tuổi không nhà
Chợt nghe dĩ vãng lòng ta cũng buồn
Vườn xưa hoa lá ngập đầy
Vết tay chín móng đã dày rêu in
Ta về gió lạc cung tin
Cho năm tháng lớn đi tìm đau thương
Viết chưa xong bài, đã phải bồi hồi dừng lại: cho năm tháng lớn
đi tìm đau thương… Không tìm, đau thương vẫn cứ đến. Nó đến tràn lan, thy sỹ lại
còn đòi đi tìm thêm nữa.
Thời gian chẻ tuổi nhớ mong
Tóc bay chẻ gió giục lòng đảo điên
Em về giấc ngủ linh thiêng
Vành môi khép mở xa miền nhân gian
Bỗng lời thơ đổi giọng. Vẫn là lục bát. Nhưng mang mang quá
khứ Đường Thi:
Ngủ yên giấc ngủ bình yên
Cho ta hôn nhé lên triền môi em
Rạc rời tàu hú trong đêm
Lưng đèo khói bụi chào em ga này
Riêng bốn câu với tiếng chào không thanh âm vọng lại, ắt phải
làm thiên tài Lửa Thiêng chết lặng linh hồn.
Lên non vứt bỏ sự đời
Hút âm thanh lại ngồi chơi một mình
Lấy mây làm sợi tơ hồng
Mây bay trăm nẻo như lòng đứt tim
Bây giờ không chỉ riêng một thiên tài nào linh hồn chết lặng.
Mọi mọi người người kẻ kẻ theo gót mọi thiên tài, đều cùng mọi thiên tài hiền
thánh cùng nhau đứt tim rã máu. Ta lại nhớ tới lời Mộng Liên Đường Chủ Nhân:
“Tố Như Tử có tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời…”
Những người công kích thơ một cách bừa bãi lung tung, chẳng
qua chỉ là lâm phải tình trạng “có đăng đường, nhưng chưa nhập thất”.
Trái lại, bọn thi sĩ chân chính là những kẻ bẩm sinh là “nhập
thất” và có lẽ chả bao giờ bận tâm với chuyện “đăng đường”.
Saint John Perse
Trong Sương Bình Nguyên có dịch một đoạn thơ của ông ấy. Ông
này thuộc loại thiên tài ngoại hạng, loài génie indéfinissable.
Ngày xưa có một lần tôi đã đả kích Saint John Perse. Chung
quy chỉ tại bài phê bình của Rousse-lot. Cái bài nó viết về Saint John Perse
trong tạp chí France-Asie, đã phỉnh gạt tôi khủng khiếp quá. Ngày đó rủi ro,
tôi chẳng có tiền mua tác phẩm Saint John Perse nên bị đánh lừa một cách não
nùng nhất trong bình sinh.
Lý Bạch
Cái sầu của Tản Đà dễ hiểu. Cái lối cợt nhả của Trang Tử,
cũng chẳng có gì lạ. Nhưng mỗi phen nghĩ tới Lý Bạch, lại như chạm phải một cái
gì đồ sộ quá xa xuôi. Chúng ta cũng nhiều phen thử uống rượu lu bù, xem có gần
gũi được ông Lý chăng. Nhưng lời thơ nhẹ như tơ trời của ông vẫn xa vắng quá.
Yên thảo như bích thi sĩ
Tần tàn đê lục chi
Đương quân hoài quy nhật
Thị tiếp đoạn trường thì…
Hoặc:
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương…
Rượu chúng ta uống ngày nay không phải là thứ rượu Lý Bạch
ngày xưa đã uống. Phong cảnh Trung Hoa ngày xưa cũng chẳng giống phong cảnh thế
giới ngày nay. Mà Lý Bạch lại là kẻ thi sỹ quá riêng biệt. Chúng ta có thể làm
thơ chữ Hán vượt hẳn Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Lý Thường Ẩn. Nhưng chẳng thể nào viết
được những lời đơn sơ bát ngát như mấy câu thơ của Lý Bạch.
Trí Hải
Trí Hải Ni Cô làm thơ cho trẻ con tập đọc. Đọc mấy bài của Ni
Cô, chúng ta có cảm tưởng mình biến thành trẻ bé bỏng, được phép gọi Ni Cô là Mẫu
Thân bát ngát.
dê mẹ ở hè
nó kêu be he
bé cho nó cỏ
và ba lá tre
se sẻ qua đò
cú xo té ngã
quạ ta kẻ cả
chê cú hồ đồ
chú quạ bị què
lê ra bờ đê
mổ mè no nê
trở vô ngủ lẹ
cú ho sù sụ
quạ qua vỗ về
ru cú ngủ mê
ở kề cổ thụ
mơ mơ hồ thu
gió khẽ vi vu
tứ bề ngủ cả
như là mẹ ru
gió đi lơ ngơ
gò đá bơ vơ
chả có lá gì
cho gió ru mơ
khe ca tỉ tê
mà ru đã ngủ
lá kè ủ rũ
mơ xa gió về
gió thở vi vu
nghe xa lá đổ
bò dê đi ở
cỏ mơ sa mù
AC
thu về man mác
xơ xác chim vạc
ngơ ngác nai tơ
bơ vơ chú hạc
AP
mưa sa gió táp
tiêu điều bò cạp
chó Pháp ngáp dài
nhớ nai Hy-lạp
AT
mưa sa hạt mát
giải khát lạc đà
cát vàng bát ngát
bãi xa mờ nhạt
ANG
gió đi lang thang
lá vàng mang mang
mình nghe lành lạnh
mùa thu đã sang
AY
gió nhẹ nhàng lay
lảo đảo vàng bay
ngày thu biền biệt
đất trời như say
ĂNG
băng ngàn tìm trăng
mây mù bủa giăng
như màn the rũ
che mặt ả Hằng
ĂM
gió rét căm căm
người đi xa xăm
tháng năm biền biệt
quê nhà đăm đăm
ĂP
trắng mây về khắp
núi đồi tăm tắp
gió xa sắp về
mây làm cánh chắp.
Nguyễn Thị Hoàng
Thơ Nguyễn Thị Hoàng trang nhã như thơ Bà huyện Thanh Quan,
mà lại cũng cay đắng như thơ Hồ Xuân Hương, nhiều lúc nghe thống thiết như thơ
bà Đoàn Thị Điểm. Đọc thơ Nguyễn Thị Hoàng, người ta có cảm tưởng như nữ sỹ
mang hết trong mình những khổ đau của người phụ nữ Việt Nam.
Giờ xin vĩnh biệt Nhà Chung
Chúa ơi con đã vô cùng đớn đau
Đêm đêm lắng tiếng kinh cầu
Xót thương trăm nỗi tủi sầu một thân
Mưa sa gió táp bao lần
Nhục nhằn tội lỗi nên thân xác này
Con đem số kiếp đọa đày
Đi tìm kiếm một vài giây huy hoàng
Vài giây huy hoàng, tìm kiếm một cách tuyệt vọng như thế, thật
có như là một khúc Tân Đoạn Trường.
Niềm tin vỡ nát bao giờ
Cuộc đời sớm nắng chiều mưa trở về
Tuyệt vọng mà vẫn nhẫn nại đề huề chấp nhận chuyện đời, tự tạo
cho mình niềm can đảm vui sống đó là mạch âm thầm trong dòng thơ nữ sĩ:
Chiều hôm nay thứ bảy
Trời giăng mưa trong lá me bay
Em sẽ vì anh bắt đầu từ hiện tại
Câu thơ viết như thế cũng đủ xóa tan đi bớt những u ám quá khứ:
Truyện tình đã chót đa mang…
Trái tim lở lói trăm ngàn vết thương.
Trần Thy Nhã Ca
Tôi bây giờ đứng thu thân
Sống cam phận nhỏ chia phần an vui
Thơ nghe như giọng tiên nữ xuống khép nép xin vào hội hè trần
gian. Tiên nữ nhu mỳ khiêm thuận. Đó là điều hiếm có.
Tiên nữ bỏ nhà ra đi lúc còn bé:
Tôi bỏ nhà ra đi năm mười chín tuổi
Đêm trước ngày đi nằm đợi tiếng chuông
Đợi nghe tiếng chuông gõ xong rồi mới ra đi. Đó cũng là phong
thái tiên nữ lúc còn nhỏ tuổi. Thong dong gay cấn.
Tuổi nhỏ bị bỏ quên không bao giờ ngó lại
Tôi cũng khuây dần những tình yêu đi qua
Càng gay cấn hơn nữa:
Người cũng vậy, lòng muôn nghìn dối trá
Vờ thương yêu, vờ đắm đuối ân tình
Tôi cũng dại, tin lời, trao tất cả
Đâu biết người mang nửa dạ yêu tinh
Trần Thy Nhã Ca kể ra cũng còn rộng lượng. Cô không viết:
“đâu biết người mang toàn dạ yêu tinh”. Cô giấu bớt cho người một phân nửa. Nên
chỉ còn lại “nửa dạ yêu tinh” mà thôi.
Thế thì bài thơ của nữ sỹ hình như luôn luôn muốn rằng đừng
thốt ra lời gì vượt quá cái mực điều độ. Nghĩa là phải thành tựu cho được tinh
thể của “nhã ca”? Nhưng “nhã ca” vốn là cái gì dễ chìm tắt nhất trong bụi hồng.
Vì thế phải kêu gọi nó tỉnh dậy.
“Tôi làm con gái gọi trăm lần nhã ca”.
Cái gì đã khiến nữ sĩ tha thiết nói chân tình như thế? Ấy có
lẽ cũng chính là dư vang tiếng chuông ở chùa nào ngày nhỏ đã nghe? Nghe ở “cuối
cơn điên” và “đầu giấc ngủ”:
Cuối cơn điên đầu giấc ngủ đau buồn
Tiếng chuông đến dịu dàng lay tôi dậy
Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan
Tiếng chuông tan đều như hơi thở anh em
Tiếng chuông tan rơi như lệ mẹ hiền…
Tiếng chuông lạ thường kia, nữ sĩ đã nghe? Không. Nhã Ca viết:
tôi nhìn thấy… Chỉ mình tôi nhìn thấy tiếng chuông tan…
Nhìn thấy tiếng chuông tan như thế, cũng là nhìn thấy những đổ
vỡ sắp xảy đến cho mình. Sắp xảy đến hay là đã xảy ra, thì cũng vậy. Lời thơ sắp
đi vào chỗ thống thiết với một “cao cách điệu” hy hữu:
Từ độ xa chuông, khôn lớn giữa đời
Đổi họ thay tên viết văn làm báo
Cơm áo dạy mồm ăn lơ nói láo
Cửa từ bi xưa mất dấu đứa con hư
Tháp cổ chuông xưa sông nhỏ bây giờ
Giòng nước cũ trong mắt nhìn ẩm đục
Con đường cũ trong hồn nghe cỏ mọc…
Tuổi thơ ngây bị vùi lấp hết. Mà lời thơ thật huy hoàng như
báo hiệu cuộc hồi sinh. Và quả thật như thế. Cuộc hồi sinh đã đến:
Nhưng sao chiều nay bỗng bàng hoàng nhớ
Tiếng chuông xưa bừng sống lại trong tôi
Tiếng chuông xưa. Kìa. Tuổi dại ta ơi
Chuông òa vỡ trong tôi nghìn tiếng nói
Những mảnh đồng đen như da đêm tối
Những mảnh đồng đen như tiếng cựa mình
Những mảnh đồng đen như màu phục sinh…
Lời thơ xô ùa tới trùng trùng điệp điệp như ngọn triều đại hải:
Tôi thức dậy đây, tôi thức dậy rồi
Thức dậy thật sự rồi
Thức dậy cùng giông bão, thức dậy cùng tan vỡ
Thức dậy cùng trí nhớ
Mẹ hiền ơi, thành phố cũ, chiều nay
Có tiếng chuông nào rơi như lệ trên tay
Trên mặt nước, trên mặt người, mặt lộ
Cho con trở về đứng mê sảng ngó
(“Tiếng Chuông Thiên Mụ”)
Hoài Khanh
Từ Dâng Rừng tới Thân Phận, Hoài Khanh đi một bước riêng biệt
choáng váng trong dòng lục bát của ông. Ông không bị một ảnh hưởng nào gò bó.
Ông chỉ chịu ảnh hưởng của trời, của sương, của giòng sông, bến quạnh quê hương.
Thỉnh thoảng cố nhiên, ông bị vướng lụy trong bầu khí hậu văn
nghệ của hiện tình đất nước chia năm xẻ bảy, ông ngượng gạo viết vài bài khổ nhọc
không có cách điệu bồng bềnh bất tuyệt trầm hùng của ông. Nhưng đó là trường hợp
hy hữu thôi.
Riêng biệt những bài “xuất thần” bi ca của ông, thì quả thật
vô song bát ngát.
Ngày sương thành phố dâng mùa
Bóng thu chìm tịnh cành thưa khởi vàng
Tôi hoài trên bước lang thang
Yêu em vô lượng mà mạn dại buồn
Tóc huyền đó lạnh như sương
Mắt huyền đó mộng bình thường không em
Mỗi đêm nhớ gió trăng tìm
Bãi sông triều dậy đi niềm chia phôi
Khí thơ đi trầm trầm tịch nhiên mà thống thiết như một khúc
tân đoạn trường kết tụ dưới thanh hiên.
Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh
Thường mỗi phen đọc bài thơ hay, tôi quen thói hình dung tâm
hồn ông Nguyễn Du. Tôi tự bảo: nếu ông Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, ông sẽ
nghĩ sao về bọn hậu bối.
Suốt bài thơ, dường chẳng thấy sự tình gì xảy ra hết cả. Chỉ
nghe một giòng sông đi. Một triều sóng động.
Người ta chấp nhận bài thơ như chấp nhận một trận mưa rào xuống
ruộng tình biển ái.
Người ta đi vào bài thơ như đi vào cõi như lai tịch mịch ngậm
ngùi. Như đi vào một cung đàn diễm ảo nhớ nhung khép mở, gây một trận tịch hạp
chon von, cho nảy ra một niềm đốn ngộ. Người ta không biết đâu bờ bến để phân
tích. Không còn chủ nghĩa. Không còn lập trường. Chỉ còn một niềm phiêu dật hồn
nhiên tự phóng nhiệm hòa vào cây cỏ, nước mây, là môi trường riêng tây của thi
sĩ:
Biển mù mịt đó mưa đan
Tôi ngàn năm nhớ nào tàn mộng xưa
Vi vu màu gió đi mùa
Núi non đồng vọng cũng thừa xót thương
Đà nghe đất dậy môi trường
Cõi miên viễn bỗng vô thường thanh âm
Bơ vơ chiều dựng chuông trầm
Sông dài trôi quạnh hồi âm nẻo nào
Ta nhớ lại cung bậc ban đầu của Dâng Rừng:
Lối xưa mây xám nghẹn màu
Thuyền xuôi qua mấy nhịp cầu chênh vênh
Tóc huyền chìm mấy mông mênh
Thiên thai đâu nhỉ mà quên lối về
Cố nhân chưa vẹn câu thề
Sắt son là mảnh hồn quê ngậm ngùi
Vào thu mây trắng tim rồi
Đêm sâu bỗng lạnh tiếng cười tri âm
Nhưng tại sao lại phải ghi ra nhiều nữa? Hoài Khanh đã hồn
nhiên đưa nguồn thơ mình vào lục bát, hồn nhiên dẫn lục bát về cõi uyên nguyên,
bỗng nhiên lại khơi mạch gì khiến uyên nguyên trào trở giậy trong vẻ tân kỳ
bình đạm thiết tha:
Người ơi năm tháng là gì?
Phải chăng mấy khóm tường vi héo mòn
Đố ai che mảnh trăng tròn
Đố ai đo được lòng son của đời
Thật không thể tưởng tượng. Ông bạn thuở ấy còn nhỏ tuổi, giọng
thuần phác như nhiên, đùng một cái, đứng song song lên ngang những thi bá đời
Đường mà uyển chuyển như câu hát Kinh Thi, lại pha màu cay đắng của thời đại
lao lung nhược tiểu:
Biết bao giờ! đến bao giờ
Cố nhân thì chỉ hững hờ mà thôi
Khách qua tàu đã xa rồi
Là thôi còn một góc trời chênh vênh
Nắng mưa còn thắm ân tình
Dâng đời tất cả riêng mình héo hon
Con tàu nhược tiểu đi đâu như thế? Nó trao được chút gì cho tứ
hải hay không? Nó lận đận điêu linh, nó nhẫn nại trong đêm dài bối rối, nó chắp
nhặt ân tình, nó mang trở đi đâu, nó mang về không dứt khoát, nó làm hết nhiệm
vụ mình và có thể cứ như hờ hững trước mọi tiếng tương giao:
Tàu qua tàu lại vẫn còn
Ngói trơ sương nắng dáng mòn cỏ rêu
Sáo ai buông xuống lưng chiều
Nhà ai lên khói mà nhiều đắng cay
Tàu qua tàu lại đêm ngày
Khăn xanh nào vẫy bàn tay nào mềm
Lệ ai nhỏ ướt sân thềm
Tàu qua thì cả ân tình theo qua
Theo qua là qua mất? Hay theo qua là qua về? Qua lại? Qua đi?
Qua bờ bỉ ngạn? Kết tụ tử sinh? Không biết. Không biết? không biết.
Chỉ biết rằng thy sỹ đã đặt bàn tay thân ái vào giữa cõi lang
thang. Và toàn thể quê chung đã quy về cảm thương trong cô độc.
Nát từng nếp áo hoàng hoa
Tâm tư lạnh cả bài ca độc hành
Nhịp đời lẻ khúc thơ xanh
Thế nhân chẳng khóc nhưng tình đơn côi
Lòng ga còn trọn cuộc đời
Chỉ đưa chỉ đón là thôi chứ gì?
Đón đưa gì nhỉ? Tại sao vừa như Tố Như Tử, vừa như Tử Tố Như?
Vừa không phải Tố Như Như Tố gì cả?
Chút riêng chọn đá thử vàng
Biết đâu mà gửi can tràng vào đâu
Còn như vào trước ra sau
Ai cho kén chọn vàng thau tự mình?
Mặc người mưa sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?
Thế ra Hoài Khanh đã chạm vào chỗ cốt yếu mà Nguyễn Du đã
dành riêng cho tâm sự Thúy Kiều? Anh định làm cái gì thế?
Mùa thu chừ đã đi qua
Lá khô bớt rụng sương sa lại nhiều
Lơ đễnh một chút, ắt ta không ngờ rằng những dư vang thâm hậu
Nguyễn Du đã được âm thầm khơi dẫn trở lại một cách kín đáo u nhã u nùng?
Lần lần tháng trọn ngày qua
Nỗi gần nào biết đường xa thế này
Song sa vò võ phương trời
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng
Lần lần thỏ bạc ác vàng
Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn.
Thì chính đó là mạch sầu riêng biệt đã đi về ám lấy núi non.
Hoài Khanh ngày xưa không đọc gì nhiều Nguyễn Du, nhưng anh đã hồn nhiên nằm
ngay vào giữa mạch sầu thiên cổ của thiên tài Hồng Lĩnh.
Gió lên cuồn cuộn lưng đèo
Chao ôi tâm sự biết chiều hay đêm
Ấy bởi vì quê hương Phan Thiết của anh, với sông, núi, đèo,
truông hiu quạnh, những “chiều gió nồm” quả chứa chan màu sắc núi sông Hà Tịnh.
Tâm hồn con người cũng được hun đúc trong bầu khí hậu long lanh ngang trái phảng
phất những oan nghiệt biển dâu, thôi thúc con người đi suốt xứ tìm trong viễn vọng
chiêm bao những ân tình chung thủy:
Em ơi tháng sẽ về năm
Tình ơi chung thủy về thăm mộng lành
Ngàn ngày núi biếc hương xanh
Cho nhau một tấm lòng thành mà thôi
Chúng tôi tưởng, nếu người đọc thơ không có một ý niệm gì hết
về phong cảnh núi đồi Hà Tịnh, Phan Thiết, Phan Rang, Tipasa… những phong cảnh
bao la ngậm ngùi, đất nước quá đẹp và quá đau thương, nếu không nhìn bằng hai
con mắt những sự tình đó suốt bình sinh, ắt sẽ không rõ từ đâu mà những bản bi
ca lại xuất hiện trong Dâng Rừng giữa xuân xanh như thế.
Ngàn sâu lắng xuống mịt mùng
Lãng du đêm quạnh lại chùng bước chân
Từ đó chúng ta miên man đọc lại những chiều “xa quê hương
nghe gió nồm”, chúng ta trở lại với Dâng Rừng, cùng thi sỹ gọi lại những âm
thanh không lời, những lời không có tiếng:
Cố nhân ơi đã đành xa
Thâm u vọng tưởng bài ca sang mùa
Khói hương còn quyện mái chùa
Sắt se chi nữa mà mua tị hiềm
Rừng thiêng mòn mỏi cánh chim
Cũng không giết chết buồng tim đợi chờ
Rồi mai lá rụng cành trơ
Cuốn bao nhiêu gió chép thơ tặng đời
(Dâng Rừng)
Ngậm ngùi một nửa quê hương
Lạnh lùng một dáng chiều buông rủ sầu
Hồn về sáng lại đêm thâu
Lửa hương cầu nguyện cho nhau thâm tình
Không gian chiều xuống thay hình
Thời gian giữ mãi tâm tình trong ta
(Sầu Chiều)
Tập Dâng Rừng cố nhiên có vài chút tạm gọi là “khuyết điểm”
theo quan điểm văn nghệ thời nay. Nhưng những khuyết điểm hoặc nhược điểm kia,
chính là những đặc ân, ưu điểm của tuổi trẻ. Ngày mai lớn lên, ta khắc phục được
những nhược điểm kia, thì cũng chính ngày đó chúng ta đành mất cõi thanh xuân,
linh hồn bắt đầu tàn tạ, khép kín. (Kín là kín bưng, kín bít, chứ không phải
kín đáo u huyền).
Nhưng làm sao có thể khép kín mãi được? Hãy thư thả nghe lại
cung bậc lục bát dị thường trong Thân Phận:
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa chiều đã lênh đênh mấy mùa
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn
Thôi xuân nào cũng mộng tàn đêm thâu
Ngùi thương bóng nhỏ giọng sầu
Cõi kia cũng quạnh quẽ màu lưu linh…
Màu lưu linh
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Màu lưu linh là màu lưu ly, linh đinh, hay lung linh sương
bóng. Màu lưu linh là một tiếng lãng đãng chia phôi.
Nếu nghĩ tới Kiều, thì đó là màu sắc nhuộm suốt một đời lưu lạc
của nàng. Và trong đó không chỉ có đoạn trường thôi? Ly biệt, chia phôi? Nhưng
còn ý nghĩa riêng của tu hành trong cuộc Lữ.
Nếu nghĩ tới Nerval, thì màu lưu linh của Hoài Khanh chính là
màu của huyễn mộng Les Chi-mères, màu của el desdichado (kẻ lang thang trần trụi,
không chỗ dung thân khắp bến bờ đất trích).
Je suis le ténébreuxe le veuf l’inconsolé
Le prince d’Aquitaine à la tourablie
Ma seul etoile est morte - et mon luth constellé
Porte le Soleil noir de la Mélancolie…
(Ta là kẻ âm u, kẻ góa vợ, kẻ khôn nguôi Hoàng tử của một
cung thành vùi lấp).
Đã tử diệt là Ngôi Sao duy nhất
Mặt trời đen là cung bậc ta ca
Vừng Hắc Ô bám chặt cây đàn ngà
Ảo mộng của mối Sầu U suốt kiếp)
Màu lưu linh của Hoài Khanh ngân lên cung bậc dị thường kia của
ông Chúa Siêu Thực Tây Phương, mà ngân lên trong tiết điệu dịu dàng đôn hậu của
lục bát. Cái mới thật là kỳ.
Chim bay tàn bóng xa mù
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Hai câu đơn giản như thế cũng đủ sức xô ùa những Nerval
Hölderlin vào cuộc hội đàm vô thanh vô tức với Nguyễn Du. Cuộc hội đàm của bọn
người cô độc. Và tuổi tôi chỉ riêng sương lạnh ở lại đền bù.
Người ta có thể hỏi: giọt sương hao mòn như thế, hột sương ở
lại đền bù, thì đền bù được bao lăm?
Nhưng thi sĩ vẫn hồn nhiên tha thiết bảo:
Thôi sương ở lại đền bù tuổi tôi
Sương của mùa thu dằng dặc? Vì mùa xuân đã chết? Mùa xuân đã
tàn phai theo cánh chim bay tàn bóng xa mù. Tôi còn biết làm sao buộc cánh nó lại?
Mà buộc lại để làm gì? Tôi xin chấp thuận cuộc chuyển dịch kia và đem lời thơ
trao nhau làm tặng vật.
Dâng đời tất cả riêng mình héo hon
Đó là ý nghĩa của câu thơ Dâng Rừng.
Nằm đây lạnh suốt mặt trời
Hoài thương quá khứ đã ngùi phiêu linh
Phố xưa hồn đẫm lệ mình
Sông xưa triều đã lênh đênh mấy mùa.
Phố xưa sông xưa, là sông phố ở một tỉnh lị nhỏ miền Trung?
Gió biển thổi vào từng trận, những chiều hè tha thướt hoang liêu, những buổi
sáng mùa đông thảm đạm. Một giai nhân dị thường như những Sylvie, có lẽ đã cư
lưu tại phố đó. Và một mối tình tuyệt vọng có lẽ đã đem lệ về làm đẫm ướt phố
xưa. Sylvie, Adrienne, Diotima, Alissa… vân vân… Những con người như thế vốn từng
đã khiến những thiên tài Hà Tịnh viết nên những lời:
Ví chăng duyên nợ ba sinh
Làm chi đem thói khuynh thành trêu ngươi
Hoặc:
Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa
Yêu một người, ta dâng cả tình thương
Nhưng tình thương đó đã vô vọng và vì thế nó đã biến thành một
thứ gì không tuổi không tên, nhân gian không có lời gì để gọi nó ra được nữa. Gọi
nó là màu lưu linh. Màu lưu linh đã giết con người ta chết từ sơ ngộ, người ta
sẽ bỏ phố xưa sông cũ ra đi để suốt đời nghe tiếng chim thuở ban sơ về hót…
Nghe tàn cõi mộng hoang thưa
Con chim lại hót trên mùa lang thang
Mắt em hồ vỡ cung đàn…
Trên bước lang thang người thơ gieo những cung bậc vào cung
đàn mà mỗi phen mỗi thấy hiện ra trước mắt mình hai con mắt thiên tiên của công
chúa, và hai con mắt u huyền đó đã làm vỡ cung đàn bất tuyệt của tài hoa. Và mỗi
phen lại nghe cung đàn mình chết lịm trong cung đàn sơ khai kỳ ảo.
Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini, tout Mozart et tout Weber
Un air très vieu languissant et funèbre
Qui pour moi seul a des charmes secrets
Hoài Khanh chẳng bao giờ đọc Nerval, và có lẽ ngày xưa anh
cũng chẳng đọc gì Nguyễn Du, Huy Cận.
Nhưng tâm hồn anh mang chứa tinh thể thi nhạc những tâm hồn
kia. Những Mozart, những Chopin, những, những…
Tôi vốn là kẻ rủi ro thuở mười lăm mười sáu đã gặp Huy Cận
Nguyễn Du Nerval. Tôi đã giã từ hết sách vở meo mốc nhà trường về quê sống với
chuồn chuồn châu chấu. Thì cái ngày lạc lối vào Sàigòn, bỗng nhiên tao ngộ tiếng
thơ Dâng Rừng, tôi tưởng mình được phép nói vài lời tuyệt đối, mặc dù ngày đó
tôi chưa quen biết Hoài Khanh. Tôi nói với ông Tạ Ký dịp nào gặp Hoài Khanh thì
dẫn anh tới nhà chơi một cuộc. Từ bấy tới nay ngót mười năm.
Hoài Khanh là hồn thơ thuần nhiên điền dã.
Vậy thì cái bản “hòa âm điền dã” của anh tất nhiên ngân lên một
âm thanh gì khó lọt vào thính quan người văn nghệ phồn hoa. Mỗi người hãy xin
mang trọn cái nghiệp mình trong cái vũ trụ riêng mình. Rồi mai sau, sẽ có dịp bất
ngờ cái vũ trụ riêng mình sẽ chan hoà vào cái càn khôn chung thiên hạ. Chẳng
nên sớm vội vã cưỡng cầu.
Chỉ thử tưởng tượng xem. Những kẻ hồn lạc loài ngay từ thuở
sơ sinh bỗng một hôm gặp Nàng Thơ đẹp nguy nga như hoàng hậu trong bầu không
khí ba cha bảy mẹ thế kỷ này… Thì từ đó?
Il est un air pour qui je donnerais
Tout Rossini tout Mozart et tout Weber…
Bùi Giáng
Đi vào cõi thơ
Ghé chơi một trận
Bằng bước gót phiêu bồng
Cõi thơ là cõi bồng phiêu Bùi Giáng
Thi ca tư tưởng
Đi vào cõi thơ
Ghé chơi một trận
Bằng bước gót phiêu bồng
Cõi thơ là cõi bồng phiêu
Hoặc phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Hoặc phiêu bồng tâm ý du dương tiếu
Hoặc phiêu bồng tâm mộng trúc loạn ty
Hoặc sao thì hoặc
Dù sao thì dù
Thể thái sao thì thể thái
Cốt cách nghiễm nhiên rất mực
Vẫn là bất tuyệt phiêu bồng
Vậy kẻ nào
Tự xét mình
Từ trong tinh thể mà ra
Chả có chi là phiêu bồng tí chút
Thì chả nên cưỡng cầu
Tự ép uổng
Ghé vào thi ca thâm xứ làm chi
Cho luống cái công lao trí hải
Cho phí cái công trình bình sinh tâm nguyện
Nay kính cẩn đề kê khai vô dữ ngữ
(Bùi Giáng)
Ví đem vào Sổ Đoạn Trường
Thì treo giải Một mà nhường cho hai
(Thúy Vân và Tam Hợp Đạo Cô)
Phạm Hầu
Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận
Chẳng biết xa lòng có những ai
Đó là hai câu thơ cuối bài “Vọng Hải Đài”. Đó cũng là bầu khí
hậu mênh mang sầu cô độc bàng bạc khắp mấy bài thơ của Phạm Hầu còn rơi rớt lại
chúng ta ngày nay.
“Chúng tôi đã cố công sưu tầm nhưng chỉ được đãi ngộ sáu bài
thơ. Âu cũng lấy đó là niềm vui vậy.” (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến)
Hai ông Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng đã viết một bài
hoàn hảo về Phạm Hầu.
Chẳng biết trong lòng ghi những ai?
Thềm son từng dội gót vân hài
Hỡi ơi! Người chỉ là du khách
Giây phút dừng chân vọng hải đài
Kể từ ngày gặp Phạm Hầu trong Thi Nhân Việt Nam (của Hoài
Thanh Hoài Chân) tới nay đã ngót một phần tư thế kỷ. Thằng học sinh đầu xanh
nay tóc đã bạc. Nó xin đọc ôn lại thơ Phạm Hầu.
Mãi dân trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằn co trong tử biệt
Phạm Hầu viết những lời như thế thuở ông hai mươi mấy tuổi đầu.
Hai mươi mấy tuổi mà dường như đã có đủ trong hồn một trăm năm đạo hạnh. Ông đi
vào thi ca, nghệ thuật, với tâm hồn con người thanh tu đạt đạo. Người thanh
niên ấy đã biết khước từ hết mọi thứ “dưỡng chất trần gian” và âm thầm gửi cho
trần gian một chút tặng vật nho nhỏ.
Ngờ đâu tặng vật nho nhỏ kia lại khổng lồ như một Kim Tự Tháp
nằm giữa sa mạc mênh mông để ghi lại ngấn tích một nền văn minh huyền ảo nhất
thế gian.
Ông là con nhà thế phiệt trâm anh. Ông được kế thừa “y bát” của
phụ thân Phạm Liệu. Y bát chân truyền kia đã đặt toàn khối văn học tư tưởng
Trung Hoa tới đứng trước trận gió Tây Phương thổi lại. Thơ Phạm Hầu từ đó là
cái vùng kết tinh của hai thể tinh văn minh. Hai văn minh đang gặp gỡ nhau, gùn
ghè gắn bó hay tương tranh tiêu diệt nhau chơi? Chẳng rõ. Nhưng cái Tại Thể Thi
Nhân của Phạm Hầu đã chịu hiến dâng thân mình ra làm Trường Sở Trụ cho cuộc cơn
kia. Ông chấp thuận cuộc hôn phối cũng như cuộc giằng co. Và đem thân mình làm
chiếc dương cầm cho ngân lên những cung bậc mênh mang chưa từng thấy trong văn
chương kim cổ.
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt
Trong Thi Ca Tiền Chiến, đã có một Xuân Diệu làm người thanh
niên ráo riết, một Huy Cận làm người thanh niên ngậm ngùi, một Hàn Mặc Tử làm
người thanh niên đau khổ cực độ, Chế Lan Viên làm người chứng nhân cho điêu
tàn, Hồ Dzếnh làm người đề huề giao hảo…lại thêm một Phạm Hầu làm người nghệ sỹ
cao vời trang trọng mang một thánh tính u u ẩn ẩn như Nerval. Phạm Hầu mở ra trở
lại chân trời bát ngát của Nguyễn Du trong giai đoạn cuối buổi Hoàng Hôn. Ông
nói ít hơn Nguyễn Du, ông không đi vào giữa những thiên vạn thể của biển dâu,
ông chỉ đơn sơ có mấy lời, nhưng mấy lời đào sâu khôn tả trong mạch giếng tân
thanh. “Mãi Dâng Trọn Hồn Vui” là một kỳ tác muốn chìm sâu xuống mạch thẳm sinh
tồn. Rồi khi ta cũng chịu ngập mình xuống đáy thẳm kia, thì kỳ tác nọ bỗng hiện
thị như một Tòa Cổ Tháp nguy nga. Xin chép hết ra đây bài thơ đấy.
Mãi dâng trọn hồn vui
Mãi dâng trọn hồn vui muôn độ trước
Chưa đủ sao? Đời đòi hỏi thêm chi?
Tai đờ nghe, mi trĩu nặng từ bi
Gió bốn hướng dằng co trong tử biệt
Tiếng rên siết giờ tàn khi chấm hết
Cảnh thường xuyên đêm sáng đổi thay màu
Tim nhói lên nức nở những Ban Đầu
Những giờ cuối rơi rơi thầm tuyệt vọng
Hay đời hỏi thịt êm và tủy nóng
Tôi xin nằm yên ổn cả chân tay
Nắng có lên không mượn rợp cây bày
Mưa có xuống thêm băng hàn chút nữa
Trong đầy ải mình trần tê ngọn lửa
Tiệc chim bằng rỉa rói một lòng đơn
Nếu tôi đau mà người nhẹ căm hờn
Chắc hoa núi vui lay ngàn đóa mộng
Muôn miệng thắm tươi nụ cười hé rộng
Muôn chân say lay động khúc quân thiều
Nếu tôi đau mà người được tin yêu
Trang sách nhỏ nâng niu hồn xứ lạ
Trên đêm thúy hoa nô liều áp má
Đôi bạn đời tay dính nhựa a-giao
Nếu tôi đau, Trời đẹp! Nếu tôi đau
Mà muôn đời mưa nắng hiểu lòng nhau.
Jesus Christ lúc lên Calvaire, ắt Ngài cũng âm thầm nguyện cầu
như lời đó. Ngài đã về giữa bụi hồng, rửa chân cho bụi hồng nhân gian, bây giờ
Ngài vĩnh biệt nhân gian, bây giờ Ngài vui lòng vĩnh biệt, và lời chúc phúc tối
hậu của Ngài hẳn nhiên là: bụi hồng ở lại hãy tiếp tục rửa chân cho nhau.
Còn Như Lai? Như Lai ỡm ờ niêm hoa vì tiếu: - “Ta có thấy bụi
hồng nào đâu? Ta đâu nào thấy đâu có bàn chân chi đâu mà rửa với chẳng rửa? -
Tu Bồ Đề! Ư ý vân hà?..”.
Như Lai có cái tài tình trong phép đánh trống lảng. Đọc mấy bộ
kinh Phật, ta xin xóa hết những nhan đề “Kim Cương Kinh, Bát Nhã Kinh, Bà Là Mật
Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Pháp Hoa Kinh, Diệu Hoa Kinh, Huyễn Hoa Đệ Nhị Kinh, Ảo
Hoặc La Treizième Kinh…” Xóa hết và chép lại là: “Như - Lai - đích - đánh - trống
- lảng - tài - tình - tuyệt - kỹ - kinh.
Hồ Dzếnh
Ta không muốn nắn cung đàn
Đêm xưa dạo dưới trăng vàng đợi em
Bền gì thấp thoáng hương duyên
Đẹp gì mấy sợi mây huyền gọi mơ
Thơ dâng ngùn ngụt sắc cờ
Máu tươi hoen ố những giờ ái ân
Quên chân là khách dương trần
Trái tim đau xót bao lần vì yêu
Bình minh về ánh cao siêu
Lên thay lửa sống tiêu điều ngày xưa
Ta cười thấy cháy duyên mơ
Hân hoan khi xé những tờ… rất thơm
Ý thiêng choán hết linh hồn
Còn đâu gió nhớ cung buồn mà ca
Lần đầu trước bóng em xa
Không nghe run trái tim và…rất vui
(Hoa Xuân Đất Việt)
Nguyễn Du
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân…
Những câu thơ đẹp thiên hình vạn trạng, Nguyễn Du đã dành
riêng cho Thúc Sinh một bồ rất lớn.
Mày xanh trăng mới in ngần
Phấn thừa hương cũ bội phần xót xa…
Lưu tâm tới những vần riêng biệt Nguyễn Du dành riêng cho
Thúc Sinh, ắt ta sẽ nhận ra một ngụ ý sâu thẳm của Nguyễn Du. Người ta sẽ không
xô bồ đứng trên quan điểm tâm lý học để bảo rằng Nguyễn Du đã tả được linh động
một nhân vật nhu nhược, sợ vợ, hèn nhát, v.v…
Hình ảnh Thúc Sinh sẽ đứng tại Trung tâm cái vùng tư tưởng
thăm thẳm của Liệp Hộ, mà Dịch Kinh sẽ chiếu cố tới bằng những tiếng chả hạn
như: “nhứt tịch nhứt hạp vị chi Biến, vãng lai bất cùng vị chi Thông…”
Hoặc: “phù kiền thiên hạ chi chí kiện dã. Đức hạnh hằng dị
trĩ tri hiểm. Phù khôn thiên hạ chi chí thuận dã. Đức hạnh hằng giản dĩ tri trở…”
Hoặc: “Nguy giả, an kỳ vị giả dã. Vong giả báo kỳ tồn giả dã.
Loan giả hữu kỳ trị giả dã. Thị cố quân tử an nhi bất vọng nguy, tồn nhi bất vọng
vong, trí nhi bất vọng loạn…”
Vân vân vân vân. Và mọi thứ vân vân đều có thể lược giảm về một
tiếng đơn sơ “vô khả, vô bất khả”.
Riêng một sự nhầm lẫn dị thường của học giả bấy nay về Thúc
Sinh, đủ khiến chúng ta kinh dị hãi hùng, chẳng còn biết ăn nói gì ra gì được cả.
Chẳng còn biết phải đặt vấn đề từ đâu ra đâu.
(Đã như vậy, còn biết rớ vào đâu mà bừa bãi nêu câu hỏi về
Shakespeare, Homère, Lý Bạch, vân vân?)
Cái cuộc Kim Kiều dễ hiểu. Cuộc Từ Hải Kiều, cũng không rắc rối
gì lắm. Nhưng cái cuộc Thúc Sinh Kiều, Hoạn Thư Kiều, lại là cái cuộc hàm hỗn
gây náo động nhiều nhất trong tác phẩm Nguyễn Du.
Đừng nói chi xa xôi. Chỉ thử hỏi: - Riêng cái việc Kiều tắm
hoa trong một mùa Hè, lúc lửa lựu lập lòe đơm bông ở đầu tường, riêng cái việc
cô Thúy tắm thôi, đã có gì như một “biến cố” hãi hùng, đến nỗi Nguyễn Du đã phải
để chàng Thúc vịnh vào chỗ đó, bằng một bài Đường Thi - nghĩa là bằng cả lịch sử
thi ca Trung Quốc? Đem cả một khối lịch sử kia về mở đối thoại với cái tòa
thiên nhiên dày sẵn đúc kia, Nguyễn Du có dụng ý gì? Và từ đó Thiên Nhiên
(Phusis) đã thành Tượng?
Người ta sẽ xô bồ đáp một cách nông nổi rằng: - Nguyễn Du chả
có đặc biệt dụng ý gì hết cả. Ông phỏng theo truyện Tàu, trong truyện Tàu có
bài thơ vịnh Kiều tắm, thì ông Nguyễn Du cũng nhắc qua loa cái chuyện Thúc Sinh
Vịnh Kiều tắm đấy thôi. Hỡi ôi! Nếu xét cho cùng kỳ lý, thì trong truyện Tàu lại
còn tỷ mỷ ghi chép bài thơ nảy lửa nọ ra:
Dạ nguyệt thanh lâu đảo ngọc hồ
Mỹ nhân thừa túy khiết cù du
Băng cơ thỏ phách tranh minh mỵ
Tuyết thái hoa âm bán hữu vô
Sở khởi đái tu hô bạn thức
Dạ hành hàm tiếu thiến nhân phò
Lâm ty khoái nhập phù dung trướng
Chẩm thượng đê thanh xướng chá cô….
Bây giờ chúng ta nghĩ sao? Có phải rằng bấy lâu nay những lời
bàn tán của chúng ta về Nguyễn Du, chẳng qua chỉ là tán hươu tán vượn? Nếu có
đúng chăng nữa, thì cũng phải nên trả hết những lời ấy về cho truyện Tàu của
Thanh Tâm Tài Nhân?
Nếu câu hỏi não nùng ra như thế, bỗng nhiên chúng ta chạm phải
một ẩn ngữ không cách gì trực tiếp giải đáp.
Trong truyện Tàu, quả thật Thanh Tâm Tài Nhân đã có dành cho
cặp Thúc Sinh Thúy Kiều một chỗ nằm ngồi rộng rãi tình tứ miên miên. Há đâu phải
đợi tới ông Nguyễn Du mới có!
Kiều tiễn Thúc Sinh đi, đề mười bài miên man những tán thán
“kim tịch thi hà tịch?” những thở than “vấn quân hà nhựt tái quy đầu? Bất tri
hà nhựt thị quy kỳ?”, chiêm vọng hương quan hà xứ thị?”…Thúc Sinh đi rồi, Thúy
Kiều nằm trong giường mê man hoài niệm ngâm vịnh sáu bài trùng trùng điệp điệp
những “tự quân chi xuất hỹ”, những “bất cảm thượng thanh lâu”, những “bất ngôn
diệt bất ngữ”, những “vô nhựt bất nam tư”, “tư quân quân bất chí… vân vân…
Kinh khủng thật.
Những lời nồng nàn cháy bỏng máu me liên tồn thốt ra như thế,
quả thật không còn coi trời đất ra gì. Chúng ta không dám nấn ná ở lại lâu. Ở lại
lâu trong bầu khí hậu đó, ắt sẽ loạn mất tâm thần, tiêu ma tinh thể, còn đâu
bình tĩnh sáng suốt mà nhận định đâu vào đâu để bàn tới dụng ý ông Nguyễn Du
hay là dụng tâm của ông Du Nguyễn. Xếp lại mọi thứ đó, câu hỏi được nêu thành
chất vấn như sau: “Cả ông Nguyễn Du, cả ông Thanh Tâm Tài Nhân, cùng có dụng
tâm dụng ý gì, mà lại tả cái cuộc Thúy Kiều Thúc Sinh một cách não nùng thiết
tha như thế?”
Phạm Hầu
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân
Bốn câu thơ đầu bài “Lý Tưởng” của Phạm Hầu dường như kết tụ
cả mối sầu của lớp người ngày trước… Sầu trong Lửa Thiêng, sầu trong những vần
tịch mịch nhất của Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… cùng tìm về đây hội họp.
Bốn câu quá sức mênh mang trầm tịch. Dường như tất cả những buổi chiều cô tịch
Việt Nam đã ngưng đọng lại một lần. Những buổi chiều Thừa Thiên, chiều Hà Tịnh,
chiều Quảng Ngãi Nam, chiều Sơn Tây…
Nhưng mà thật ra trong bài thơ kia Phạm Hầu không có dụng ý tả
buổi chiều gì cả. Nhan đề là “Lý Tưởng”. Người thy sĩ đi theo bóng lý tưởng đã
bắt gặp màu sắc chiều tàn. Lý tưởng ở đâu? Thiết tha theo đuổi, nhưng chỉ nhìn
thấy hoang vu. Chẳng ra lý tưởng là hoang vu hư không? Phải o bế hư không? Hôn
phối với hư không, để thành tựu mộng hờ lý tưởng? Lý tưởng là mộng hờ? Biết rõ
mộng hờ mơ góa bụa, sao vẫn cứ đeo đai đòi giao hoan với góa bụa?
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ tươi
Cổ kim có một thi nhân, nghệ sỹ, hiền nhân chân chính nào, lại
chẳng nhận ra chính mình trong lời thở than đó của Phạm Hầu?
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ
Nói theo ngôn ngữ bình dân thì ấy chính là cái cuộc:
Thả mồi bắt bóng
Bóng bắt chẳng được
Mồi kia không còn
Há chẳng là
Đáng tiếc lắm ru?
Vâng. Biết rành rành rằng thế là đáng tiếc, mà sao vẫn cứ lu
bù mài miệt trong cuộc đáng tiếc kia? Vì sao như thế?
Ấy bởi lẽ trầm trọng sau đây:
Thằng thi sĩ có cái cảm tưởng cắc cớ rằng: nếu từ bỏ cái cuộc
cặm cụi loay hoay bắt bóng nọ, đã đành là trách được một cuộc đáng tiếc, nhưng
vì lẽ gì, hỡi ôi! Chính cái sự tình tránh được cuộc đáng tiếc, lại chính đó là
điều đáng tiếc khôn hàn, gay cấn trong mọi sự đáng tiếc ở đời.
Do đó, dù biết rằng đuổi đeo là đáng tiếc, là mòn thân mỏi thể,
thân tàn ma dại, v.v… vẫn cứ ù lỳ đuổi theo mãi mãi suốt một bình sinh.
Thì cũng chẳng khác chi ông già Heidegger suốt một bình sinh
cố công nhọc sức chạy đi kiếm tìm hư vô, để nắm lấy cái hư vô mà dắt dìu dẫn nó
về cho Tại Thể đem nó ra mà thiết lập căn cơ cho Siêu Hình Học!!! Một hai lận đận
nói mãi rằng Tồn Lưu chỉ có thể nhận diện mình là lúc Tồn Lưu chịu soi bóng
mình trong tấm gương vô dạng của Hư Vô!
Một trận hiện diện dị thường trong khiếm diện gây nên một
tình tự vừa hoang vắng vừa chan hòa, một khuyết phạp thường hằng lại để mọc ra
xum xuê những lá cây viên mãn cứ xô ùa nhau rụng mãi.
Đó là cái tạm gọi là rappochement des extrêmes: participation
totale et solitude.
Bây giờ chúng ta nên thư thả đọc lại bài “Lý Tưởng” kia, suốt
từ đầu tới cuối, thử đọc thuộc một trận chơi, để xem mai sau trong chiêm bao,
có còn cơ hội điều tra ra manh mối chập chờn kia của “Lý Tưởng”.
Lý Tưởng
Sầu hương hoa gạo đỏ bên chân
Xa nắng chiều hoe nhạt mấy phần
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân
Tôi theo tư tưởng vô cùng tận
Chỉ gặp vô cùng nỗi quạnh hiu
Sáng sớm: rạng đông, chiều: chạng vạng
Những giờ mới lạ có bao nhiêu?
Thuở nhỏ đêm mơ nằm thấy bướm
Giờ không mơ bướm lại mơ thơ
Đời tôi nếu rụng bao nhiêu sắc
Cũng bởi vì tôi quá mộng hờ.
- Ao ước ngày mai sắc nắng thơm
Chiều mai thôi ráng nhuộm cô đơn
Chiều qua gió thổi lời tôi nguyện
Quên thổi giùm tôi hận chập chờn.
Tôi đợi người đây, Tuyệt Đích ơi!
Dẫu xa, xa cách mấy phương trời
Biết rằng vô ích sao tôi vẫn
Phung phí đời tôi mấy độ tươi.
Nếu bây giờ chúng ta đem cái tiếng “lý tưởng” của Phạm Hầu ra
bài xích theo lối thô thiển của những người chuyên môn đẽo gọt từ ngữ theo lối
phân tích tủn mủn “hợp thời trang”, thì ắt cái lý tưởng kia không còn đất đứng.
Phải xóa sạch nó đi để dọn đường cho khoảnh khắc hiện tại. Người ta quên mất rằng
mọi ngôn ngữ thi ca là của riêng thi ca. Chúng không có liên can chi tới cái
ngôn ngữ máy móc. Chúng nằm trong cái mạch sinh động tuôn trào như một làn phi
tuyền từ lòng đất uyên nguyên. Chúng nói lên cái niềm ngạc nhiên nguyên thủy của
con người đối diện với cõi thế lưu ly. Nó quên bẵng mọi thứ nhân tuần cập kè
trong xã hội ganh đua. Vì thế nó khai trừ cái “ký ức” lếu láo, cái “kinh nghiệm”
bon chen, để phục hồi cái ký ức mênh mông, cái kinh nghiệm bát ngát trong những
cuộc Lữ dị thường “trải qua một cuộc biển dâu…”
Muốn quên, thì phải có nhớ. Muốn nhớ thì phải có quên. Nhưng
quên cái gì và nhớ cái gì? Người ta xao lãng sự xác định đó. Người ta hí hửng a
dua lao đầu tới ghì chộp viên kẹo “mới” và cứ tưởng mình tân kỳ biết coi thường
cái bánh cũ.
Nếu bây giờ chúng ta thử quên hết mọi giáo lý mà Ki Tô Giáo
cũng như Phật Giáo ngày nay nói với ta, thì ắt cái hình ảnh nguyên thủy của
Chúa Ki Tô và Như Lai sẽ hiện ra trong một niềm kinh thán bao la. Nếu ta quên
đi hết mọi bài giảng giải chuyện Kiều của giáo dục nhà trường và của mọi ông học
giả, ắt Nguyễn Du uyên nguyên sẽ hiện trở lại với cái vùng sương bóng của cuộc
Lữ mênh mông Liệp Hộ, và của cơn Tịch Nhiên bất động của Thanh Hiên. Từ đó sẽ nảy
ra một cuộc Hiện Diện vô ngần trong một cuộc Đối Thoại vô tức vô thanh. Vô tức
vô thanh, vì nó không liên can chi tới những âm thanh của học giả. Vô ngần
nghĩa là vô ngấn tích. Cuộc hiện diện vô ngấn tích vì nó nằm trong một trận khiếm
diện dị thường đối với mọi thứ mưu toan thủ đoạn.
Bài thơ của Phạm Hầu đi về giải thích cho Gia Long cái thái độ
im lìm của Nguyễn Du. Giải thích cho Gia Long? Nhưng có đời nào Gia Long hiểu.
Những ông vua Gia Long là những ông Chúa Tể Vạn Vật, Những ông ấy không bao giờ
chịu làm Kẻ Láng Giếng thơ mộng của Tồn Lưu. Biết rõ rằng những ông ấy không
bao giờ nghe ra gì gì cả, nhưng Khổng Tử xưa cũng cứ mở cuộc Lữ Chu Du tới bên
gùn ghè đối thoại. Đó cũng là một cách chịu chơi với Sa Mạc. Cuộc Chu Du của Khổng
Tử từ đó mang trọn cái ý nghĩa câu thơ:
Một cột đèn cao mơ góa bụa
Đường dài toan nối hận gian truân.
Ngân Giang nữ sĩ
Xin tặng bà mấy câu thơ tôi lắp lại thơ bà một buổi chiều lỡ
dở:
Hoa đào ngỏ vắng rụng mong manh
Tỉnh giấc trà suông liễu rủ mành
Đất lạnh xóm nghèo hoa chậm nở
Can tràng ai hẹn với ngày xanh
Ngày xưa chúng tôi không được đọc thơ bà. Sách Hoài Thanh
Hoài Chân đã bỏ sót. Nay gặp bà trong sách của Nguyễn Tấn Long, Nguyễn Hữu Trọng.
Thấy ông Bùi Khánh Đản họa thơ bà, tôi cũng xin nối điệu chút ít. Tôi không biết
họa thơ. Xin gieo vài lời vịnh lạc lõng:
Mưa thu buổi sáng ướt thềm
Tiếng rên rỉ nọ còn thêm nỗi gì.
Dâng lên từng đợt lỗi nghì
Mùa xuân đã chết ai về gọi thu
Tôi đọc kỹ những bài thơ và văn xuôi của bà trong cuốn sách ấy.
Tôi biết nói gì bây giờ? Chẳng lẽ lại lảm nhảm nói một điều quá hiển nhiên rằng
thơ bà cũng quan trọng như thơ bà Huyện Thanh Quan? Đằm thắm não nùng như linh
hồn Đoàn Thị Điểm? Bà hiện giờ ở đâu? Nếu quẩn quanh có mặt ở Sài Gòn? Thì chắc
tôi xin rúc ra khỏi gian nhà, đi tìm thăm viếng bà.
Bài “Xuân Tưởng”, bà có ghi: “Dám mong các bạn thơ trả lời bằng
những câu hỏi thơ này”.
Tôi cũng không thể trả lời bằng thơ. Trả lời bằng văn xuôi
cũng không thể. Chỉ có thế viết câu hỏi của bà đã nêu ra:
Hoa đào múa cánh cuối đông rồi
Một vẫy tay tiên đủ tám bài
Ngày muộn trường văn tàn nét bút
Người làm thơ muộn đấy là ai?
Là ai? tôi không biết. Nhưng người làm thơ muộn có thể biết.
Vậy để nhờ người ấy đáp.
Cách mấy mươi năm giấy mực già
Bất ngờ trùng hiện gió xưa hoa
Người làm thơ muộn nêu câu hỏi
Kẻ muộn làm thơ họa há là…
Tạm đáp dở dang như thế. Bây giờ tạm gọi là bình tĩnh yên ổn.
Xin chậm rãi chép lại vài bài thơ của bà ra đây.
1. Ngày xưa
Ngày xưa có một người thơ
Vào rừng thông lạnh đợi chờ gió reo
Chim hôm loáng thoáng qua đèo
Cảnh chiều buông tiếng chuông chùa ngân nga…
2. Thế ra
Thế ra thu đã đến rồi
Thảo nào mưa gió tơi bời mấy hôm
Xa xôi ai đấy có buồn?
Thôn Dương ngành liễu võ vàng tương tư
3. Đêm mưa
Gió mưa ướt áo đủ rồi
Sao còn ngấm lạnh lòng tôi thế này
Ốm đau đã mấy tuần nay
Nét cười đã với tháng ngày trôi xa
Giờ không gạn chút vui thừa
Tựa song quạnh vắng nhìn mưa rơi buồn
Nhờ ai chắp hộ mảnh hồn
Đã vì đau giận rũ tan khắp trời
Mưa rơi từng giọt mưa rơi
Lòng ai có lạnh như tôi thế này
Kính thưa Ngân Giang nữ sỹ!
Vãn bối nhận thấy rằng thơ và văn xuôi của tiền bối đều đạt tới
mức lô hỏa thuần thanh. Tiền bối hồn nhiên đạt tới như thế là vì tâm hồn tiền bối
mênh mông? Hay là tiền bối có chịu khó luyện tập nhiều năm nên mới đạt được thập
thành công lực?
Nay mai nếu tôi làm được bài thơ nào, tôi xin đề tặng tiền bối.
Và nếu tiền bối cần thỉnh giáo điều gì, tại hạ cũng sẽ sẵn sàng chỉ vẽ cho. Chả
hạn? - Chả hạn: tại hạ vốn là thằng thy sỹ đi khắp cõi uyên nguyên, siêu thực,
gặp từ con chuồn chuồn nguyên thủy bão giông, tới con hùm thiêng thủy nguyên
giông bão, vì lẽ gì tại hạ lại còn chiều chuộng những bài thơ chả có chi bão tố
phong ba? - Đáp rằng: tại hạ đã chán ngấy hết mọi thứ phong ba bão tố rồi. Tại
hạ thấy nó cũng ù lý le lói ra một thứ nhà ma đó thôi. Ích gì mà triền miên lâu
ngày ở trong đó. Nên bế mạc sớm cho xong. Tại hạ tìm tới viếng thăm tiền bối,
xin uống một tách nước trà đạm nhiên là đủ. Chỉ cầu mong một điều: trà kia
không có pha thêm những bột phấn phồn hoa, và bàn tay pha trà không phải là bàn
tay của một kẻ tốt nghiệp chuyên môn nơi một trường cao đẳng Trà Đạo, Trà Lý gì
gì hết cả.
Vân Đài
Đọc ông Nguyễn Du mãi cũng chán. Rồi từ Đường Thi, nhảy vọt
qua Tây Phương, chạy tìm những Tượng Trưng, Siêu Thực, Siêu Thể, Siêu Hình, hơn
hai mươi năm, kể cũng đà tới lúc ớn khắp linh hồn. Thơ Nguyễn Công Trứ là một
con zéro. Thơ Cao Bá Quát là một con zéro rưỡi. Thơ theo thể Đường Luật của các
ông Nho học uyên bác, toàn là rờ rẫm cóp nhặt Tàu, những bộ xương khô quái gỡ.
Hàng vạn bài na ná giọng điệu giống nhau.
Chỉ còn mấy bài của Ngân Giang nữ sĩ và Vân Đài nữ sĩ là có
linh hồn. Hai bậc tiền bối này quả có chân thành. Có sống trọn linh hồn. Bài
thơ hai bà làm đúng là bài thơ sông núi. Dù có sáo chăng nữa, thì đấy cũng là
cái sáo của sông núi phát tiết ra.
Yêu thương dậy lại đầy trời
Lòng ơi! Đường cũ núi đồi còn đây
Đọc câu thơ như thế, quả thật tại hạ muốn làm đứa bé xách
giép cho bà, đi sau chân bà, ủng hộ bà trong cuộc ngao du sơn thủy.
Kể chuyện Nerval! Heidegger cho bà nghe.
Bà cũng biết uống rượu
Giốc cạn duyên thơ quá chén rồi
Men nồng thắm đỏ khắp hồn tôi
Vui không có bạn sầu không có
Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời
Đầu ngã cành xanh vai vũ trụ
Tay ôm hương sắc những mùa tươi
Quên nghe thời khắc quên năm tháng
Say uống hương hoa giữa suốt đời
Cái thứ rượu bà uống say kia té ra không phải la de hoặc rượu
đế. Tại hạ mừng hụt. Phải chi tiền bối uống rượu thật sự, thì mỗi phen nhậu nhẹt,
ắt tiền bối gọi tại hạ tới cho nhấm chút ít.
Dù sao hai câu thơ đồ sộ bát ngát của tiền bối cũng an ủi vãn
bối phần nào:
Vui không có bạn sầu không có
Nằm giữa lòng trăng khóc giữa trời
Quả thật bốn ngàn năm văn hiến Việt Nam, chỉ có thể cho nảy hột
tinh hoa ra hai câu thơ như thế. Phải chi ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Trãi còn sống
thì vãn bối đem hai câu thơ ấy đọc cho hai ông nghe.
Lục bát của bà trong bài “Biệt ly” cũng thật dịu dàng. Ta phải
coi Vân Đài nữ sỹ như bà ngoại bà nội chúng ta, thì mới cảm hết cái chỗ mênh
mông trong mấy vần này:
Lòng ta tràn ngập nỗi buồn
Như người đứng ngã ba đường nhớ ai
Trái tim hồi hộp thở dài
Hòa theo với tiếng bốn trời tiễn đưa
Sáng nay mây trắng bơ phờ
Gió ngừng mặc rặng lau thưa bên nguồn
Thuyền đi sông nước ngại ngùng
Bến xanh xanh vẫn ngóng trông tháng ngày
Giang lăng cách trở đâu đây
Nghe đêm vượn hót nghe ngày chim kêu.
(“Tặng cảnh Cát Bà”)
Xuân Diệu
Nếu đọc Vân Đài và Ngân Giang, phải nghĩ rằng đó là lời thơ của
bà ngoại bà nội chúng ta, mới cảm thấy hay thấm thía - thì đọc Xuân Diệu, ắt
nên nghĩ rằng đó là thơ của một thằng em. Sự tình tứ đó sẽ đổi hẳn tính cách.
Sau ba mươi năm dài, trải bao trận phiêu du ngoài đời, cũng
như lưu ly trong thi ca tư tưởng, ngày nay cầm lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy
một cái gì không thể tả. Đọc lại thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể
không bồi hồi chi mấy. Nhưng đọc Thơ Thơ, lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi
xuân bỗng sống dậy kêu gào.
Xóa đi những lời lếu láo lải nhải, còn lại những lời chân thật
riêng biệt chân thành của tuổi trẻ:
Không có cánh nhưng vẫn thèm bay bổng
Đi sâu trong sân mà nhớ chuyện trên trời
Trút thời gian tong một phút chơi vơi
Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ
Thơ hồn nhiên rộng rãi như thế đúng là thơ của thiên tài tuổi
trẻ.
Đi trong sân mà nhớ chuyện trên trời
Ngắm phong cảnh giữa hai bề lá cỏ
Chúng ta đã ngột ngạt vì thơ đoạn trường của Nguyễn Du, thơ
đìu hiu của bà huyện Thanh Quan, thơ ồ ạt lếu láo của Nguyễn Công Trứ, thơ trắng
trợn của Trần Tế Xương… thơ già trước tuổi của những thi tài nảy ra trong vòng
mười năm nay…
Thì bây giờ cũng đã tới lúc xua ùa đi hết mọi thứ thơ não
nùng kia, và đọc lại Xuân Diệu:
Vì sao giáp mặt buổi đầu tiên
Tôi đã đày thân giữa xứ phiền
Không thể vô tình qua trước cửa
Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên
Kể từ sau 1945, các loại thơ này vốn không mảy may rung động
chúng ta được nữa. Chúng ta đứng trước những phong ba, linh hồn chúng ta mang
những ưu tư khắc khoải khác. Thơ trữ tình, thơ yêu đương vớ vẩn nhớ nhung kia,
chúng ta bỏ trôi mất hút, không một chút bận tâm.
Nhưng rồi phong ba cứ dồn dập, càng ngày càng mang tính cách
nhố nhế thêm ra, tủn mủn đầu độc thêm ra, thì ưu tư khắc khoải trở thành chuyện
tầm phào, siêu thi, siêu tưởng, siêu triết… trở thành chuyện đĩ điếm. Văn
chương văn nghệ trở thành chuyện bán cá ngoài trợ. Nợ tang bồng vay trả trả
vay, trở thành chuyện phỉnh phờ con nít. Lưu thủ đan tâm, trở thành chuyện tán
gái đâm toang. Chiếu hãn thanh, trở thành chiếu chăn mài cọ lầu xanh meo mốc.
Ngót hai mươi năm rồi, ngụp trong đó, chúng ta lừa lọc nhau
và tự lừa dối mình. Bây giờ đã thấm mệt với cái trò nhảy nhót nhấp nháy kia.
Thôi xin từ giã mọi thứ đó. Xin chạy theo sau thằng thanh niên ngây ngô ngày
trước chơi một trận.
Hồ Dzếnh
Bài “Rằm Tháng Giêng” của Hồ Dzếnh quả thật là một bài thơ
hay:
Chị tôi vào lễ trong chùa
Hai chàng trai trẻ khấn đùa hai bên
Lòng thành lễ vật dâng lên
Cầu cho tiểu được ngoài giêng đắt chồng
Chị tôi phụng phịu má hồng
Vùng vằng suýt nữa quên bồng cả tôi
Tam quang ngoài mát chị ngồi
Chị nghe đoán quẻ chị cười luôn luôn
Quỷ thần thóc mách mà khôn
Số này chồng đắt đẻ con cũng nhiều
(“Rằm tháng Giêng”)
Người Việt Nam có thể không đọc Nguyễn Du, nhưng không thể
nào không đọc bài thơ kia của Hồ Dzếnh.
Bài “Lời Về” của ông riêng bốn câu cuối cũng đủ là một tuyệt
tác cổ kim:
Vó ngựa từ ngày vỗ xuống Nam
Truông mòn đưa lối Hải Vân San
Áo nâu phai nhạt màu cây cỏ
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm
Một bài tứ tuyệt như thế đúng là một tặng vật của Đường Thi.
Nhưng Đường Thi ghé xuống Việt Nam, Đường Thi đã nhảy một bước vô biên. Không
còn Lý Bạch, Thôi Hiệu, Tô Đông Pha nào chạy kịp được nữa.
Vì trong đó có ba sử lịch đang gùn ghè nhau. Sử lịch Trung
Hoa, sử lịch Việt Nam, sử lịch Chiêm Thành:
Lá rụng hoa rơi đất nước Chàm
Một câu thơ đơn giản như thế mang toàn khối Như Lai trong mấy
trăm bộ kinh Phật. Và thừa dư công lực hư vô để thiết lập căn cơ cho Siêu Hình
Học Tây Phương. Ông Heidegger khỏi phải bận tâm hỳ hục lôi cả Hoelderlin,
Sophocle, Parménide, vào trong cuộc thiết lập cơ sở mới làm gì.
Cái cuộc Lữ dị thường của Khổng Tử bỗng nhiên tiếp giáp với
Thái Hư Tịch Mịch trong bốn câu thơ kia của Hồ Dzếnh. Đó là điều mà trong tập
Điêu Tàn của Chế Lan Viên, ta mỏi mắt tìm không thấy.
Đinh Hùng
Nguồn thơ của Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất
trong thi ca Việt Nam.
Tới Đường Vào Tình Sử, thì nguồn thơ kia bỗng như tắt ngấm.
Đinh Hùng trở thành kẻ rờ rờ rẫm rẫm. Tuy nhiên, trong Đường Vào Tình Sử cũng
còn mấy bài bát ngát ở lại buồn bã vô song.
Trần Thy Nhã Ca
Chợt tiếng buồn xưa động bóng cây
Người đi chưa lại dấu chân này
Bàn tay nằm đó không ngày tháng
Tình ái xin về với cỏ may
Rồi lá mùa xanh cũng đỏ dần
Còn đây niềm hối tiếc thanh xuân
Giấc mơ choàng dậy tan hình bóng
Và nỗi tàn phai gõ một lần
Kỷ niệm sầu như tiếng thở dài
Khuya chìm trong tiếng khóc tương lai
Tầm xa hạnh phúc bằng đêm tối
Tôi mất thời gian lỡ nụ cười
Đời sống ôi buồn như cỏ khô
Này anh em cũng tựa sương mù
Khi về tay nhỏ che trời rét
Nghe giá băng mòn hết tuổi thơ
Bài “Thanh Xuân” của Trần Thy Nhã Ca nghe như lời chiếu cố của
một vị Quan Âm Bồ Tát.
Tưởng chừng như nếu các vị Tổng Thống phu nhân ở thế giới
tình cờ đọc được, ắt các phu nhân vui lòng cạo đầu sạch sẽ để đi tu.
Tôi tiếc mình không có tài bàn giải như Kim Thánh Thán Mái
Tây, nên tìm không đủ lời tuyệt đối viết ra. Ngày mai ắt tôi sẽ chết không nhắm
mắt được.
Thử nêu câu hỏi: Nếu như những ông Khổng Tử đọc bài thơ đó, ắt
sẽ gây ra sự gì? Tất nhiên là các ông sẽ chẳng bận tâm hỳ hục soạn Kinh Thi,
Kinh Dịch làm gì nữa.
Martin Heidegger
Ông ở lại trên mảnh đất đai Siêu Hình Học Âu Châu, ông cày bừa
trên mảnh đất ấy. Suốt hơn một phần ba thế kỷ, ông cặm cụi vạch gai góc và gieo
vài hạt giống trên mảnh đất ngổn ngang.
Những hạt giống đầu tiên gieo vào mảnh đất đầy chướng ngại,
phải là những hạt giống thích hợp.
Thích hợp với cái gì? Với mảnh đất đai kia với những hàng rào
vây bọc mảnh đất đai kia, với bầu khí hậu phong tỏa mảnh đất đai kia. Những gai
góc đủ loại đã mọc đầy, bầu khí hậu bị vẩn đục, con người Siêu Hình Học Âu Châu
không còn có thể nhìn ra tinh thể những “hàng cây sơ thủy” vốn đã mọc trên đó.
(Trong tập thơ Lá Hoa Cồn ngày trước, tôi có ý muốn nói tới sự tình đó, trong
những bài “Hàng Cây Sơ Thủy”, “Vào Nguyên Thủy Giục”, “Logos”, vân vân).
Những “hàng cây” nọ cần phải được nhìn ngó trở lại, muốn nhìn
ngó trở lại, trước tiên phải tẩy gột những gì làm vướng nhãn quan.
Nhìn ngó trở lại để làm gì? Để đừng sa vào tình trạng vong bản.
Quên mất cội nguồn bát ngát ban sơ, đó là lý do đã khiến những triết gia cận đại
Âu Châu không cách gì mở đối thoại với Đông Phương.
Heidegger luôn luôn bảo rằng ông chẳng có ý dựng triết thuyết
gì cả. Tư tưởng của ông chỉ là một tư tưởng chuẩn bị - nhứt điều chuẩn bị đích
tư tưởng. (Xem Sương Bình Nguyên và Trăng Châu Thổ).
Chuẩn bị cho cái gì? Đáp: cho một trận đối thoại về sau giữa
Tây Phương và Đông Phương.
Do đó Heidegger lập ngôn trong một Nếp Gấp Nhị Bội, mà các
triết gia Âu Châu ít chịu lưu ý tới. Cái điều đối với Heidegger chỉ là điều tạm
thời, tạm bợ, người ta cho đó là điều cốt yếu. Cái điều cốt yếu thì Heidegger lại
nói thoảng qua trong những mệnh đề phụ - là những hạt giống lơ thơ gieo ra
trong một vùng sương bóng vô tức vô thanh tiếp giáp với lục bát thi ca Việt Nam
bất tuyệt.
Waehlens theo dõi tư tưởng Heidegger nhiều ngày, vẫn không nhận
ra điều cốt yếu nọ. Mọi triết gia bàn tới Heidegger đều bàn lui bàn tới những
thứ ở ngoài mép rìa. Nghĩa là: đăng đường thì có, mà nhập thất thì không.
Chung quy có lẽ chỉ vì họ mãi mãi ở trong cái tình trạng: thấy
sự vụ đương nhiên là thế, mà không rõ đâu là nguyên do sử lịch đã quyết định sự
vụ là thế.
Hoặc nói theo ngôn ngữ người Trung Hoa:
“Tha môn hiển nhiên thị chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất tri kỳ
sở dĩ nhiên”.
Khổ thay. Nếy bây giờ chúng ta lò dò chạy hỏi ông Heidegger
xem sự tình gay cấn đó có phải có nguyên nhân éo le như thế chăng, thì
Heidegger ắt lửng lơ niêm hoa vi tiếu theo lối Khổng Tử ỡm ờ: - Tại hạ quả thật
cũng chả rõ đâu vào đâu cho lắm… Kính thưa các hạ ạ! Kỳ trung nguyên nhân, lão
hủ nhứt thời giả thuyết bất thanh sở. Phản chính cứ lão hủ sở kiến, tam thành tựu
thị giá dạng đích lặc…”.
Đó là phong thái của những nhà đại tư tưởng cổ kim. Họ đáp
theo lối lửng lơ. Trong khi học giả xô bồ, bao giờ cũng tấp nập nối đuôi nhau tấn
công ông già kia một cách ráo riết.
Cái thái độ ráo riết kia đã bao phen khiến cho mọi cuộc đối
thoại chân chính đành phải chịu phần chấm dứt ngay khi mới vừa khởi đầu.
Nếu bây giờ chúng ta thử bỏ ra khoảng chín mươi chín năm đọc
lại Heidegger, ắt là chúng ta sẽ dần dà nhận thấy rằng: cái hạt giống mong manh
mà Heidegger đã gieo vào mảnh đất Siêu Hình Học Âu Châu, cái hạt giống bé bỏng
đó quả thật đã manh nha mọi thứ cây cối đồ sộ, mà về sau thiên hạ sẽ thi đua
nhau về leo trèo hái ngắt mọi thứ hoa quả và có thể tưởng lầm rằng hoa quả ấy
là của riêng mình trồng trọt ra, chứ chẳng phải của ông Heidegger hoặc Martin
gì ráo!
Định mệnh của những tư tưởng hoằng viễn xưa nay, vẫn mãi mãi
là như thế. Những kẻ gieo giống chả bao giờ thấy cây mọc, chẳng bao giờ thấy
đâm hoa kết quả, chẳng bao giờ thu hoạch mùa màng. Họ chỉ phụng bồi cho cuộc
gieo hạt, và hơn nữa, phụng bồi cho cuộc soạn sửa gieo hạt mà thôi.
Il ne servent qu’aux semailles, et même, plutôt à là
préparation de celles-ci. Sie diene der Aussaat und eher noch der Vorbereitung
dieser.
(Xem Trăng Châu Thổ, trg 467-468).
Heidegger là kẻ nhìn thấy rất rõ duyên do cuộc tẩu hỏa nhập
ma của những Nietzsche, Hoelderlin, và - nhẹ hơn - của Rilke. Ông muốn tránh
cho những nhà tư tưởng, những kẻ sáng tạo mai sau khỏi lâm vào tình trạnh tẩu hỏa
nhập ma - đó cũng là một trong những duyên do dã khiến ông lập ngôn một cách dị
thường ẩn mật.
Nếu bây giờ chúng ta suy gẫm về Đoạn Trường Tân Thanh của
Nguyễn Du, nếu ta nghĩ rằng viết Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du tuyệt nhiên
chẳng có ý ký thác tâm sự riêng tây của “di thần triều Lê” gì gì cả, thì sự vụ ắt
còn rọi vài tia sáng vào cuộc lập ngôn của Heidegger. Nếu như Nguyễn Du viết
Truyện Kiều với cứu cánh trực tiếp mở đối thoại với Gia Long? Gián tiếp mở đối
thoại với Trung Hoa? Và rộng rãi hơn: mở đối thoại với sử lịch Đông Phương? Hoặc:
mở đối thoại với tứ hải? - Thì từ đó, những nếp gấp khôn hàn nào trong Truyện
Kiều sẽ chậm rãi mở ra? Và từ đó chúng ta sẽ “làm thơ” theo thể thái nào để đáp
ứng?
Bây giờ để thử tránh lỗi tư tưởng một chiều. Chúng ta hãy nêu
vài câu hỏi liên can tới tới Nietzsche.
Sự tình “đương nhiên” là Nietzsche có xô bồ công kích Jésus
Christ. Nhưng đâu là cái lẽ “sở dĩ nhiên” của cuộc đó? Sau cuộc đó, Nietzsche bị
tẩu hỏa nhập ma. Ông thật “bị” tẩu hỏa nhập ma, hay là ông cố tình lao đầu vào
chịu trận tẩu hỏa nhập ma? Nếu ông có cố ý, thì đâu là duyên do sự cố ý ấy? Nếu
đem sự tình kia ra hỏi Nguyễn Du, thì Nguyễn Du sẽ đáp bằng câu thơ nào trong
Truyện Kiều? Khổng Tử sẽ phụ họa vào câu thơ đó bằng cái lời nào của Ngài? Thằng
thi sỹ Việt Nam ngày nay có nên nêu mọi sự đó ra bàn luận trực tiếp? Nietzsche
có bằng lòng thuận để cho nó nêu ra hay là Nietzsche sẽ bảo rằng: “vấn đề đối với
các hạ bây gờ là nên sớm đánh mất tại hạ đi!” Đánh mất bằng cách nào? Sao gọi
là đánh mất? Lặng lẽ giũ áo ra đi, hay là lao mình tới công kích? Hay là vừa
công kích, vừa bỏ đi, vừa thân tặng ông vài vần thơ lây lất? Hay là chịu chơi
gay cấn bảo rằng: - Nhân danh là thi sỹ Việt Nam, tôi xin nguyện làm nô lệ ông
suốt đời?
Nguyễn Du
Từ rằng: ân oán hai bên
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh
Nàng rằng: nhờ cậy uy linh
Hãy xin báo đáp ân tình cho phu
Báo ân rồi sẽ trả thù
Từ rằng: việc ấy để cho mặc nàng
Hai lần Từ Hải dùng tiếng “mặc nàng”. Để cho mặc nàng. Mặc
nàng xử quyết báo đền cho minh.
Rồi Từ Hải im lặng suốt buổi. Trong cơn im lặng, Từ Hải đã
nhìn thấy Kiều chẳng minh mẫn gì hết. Nhưng không hề gì. Điều trầm trọng là cái
tiếng “mặc nàng” Nguyễn Du đã để cho Từ Hải thốt lúc bấy giờ.
Hai tiếng “mặc nàng” đó ngày sau sẽ quyết định cuộc đầu hàng
của Từ Hải. Việc bây giờ để cho mặc nàng, thì mọi việc về sau cũng sẽ để cho mặc
nàng quyết định.
Nghe lời nàng nói mặn mà
Thế công Từ mới đổi ra thế hàng
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng
Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh
Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng. Nguyễn Du dùng tiếng “vội vàng”
một cách thật kỳ bí. Càn khôn vũ trụ gì cùng theo nhau điên tam đảo tứ hết cả,
trong hai tiếng vội vàng kia. Cái “triều đình riêng một góc trời” của Từ Hải
đang lăn lóc quay lông lốc trong hai tiếng vội vàng.
Từ Hải “chịu chơi” đến cái mức bất khả tư nghị. Tuyệt đỉnh của
thiên tài Từ Hải là ở chỗ đó. Trong một nháy, đem xô ùa hết cả cứu cánh đời
mình để đáp lại những lời “nhạt như nước ốc” của Kiều. Nhạt như nước ốc, mà
chàng thấy mặn mà khôn tả, ấy bởi vì cõi lòng của kẻ anh hùng vốn là: đã chịu
chơi, thì bất kể lam hồng tạo bạch. Từ Hải và Tú Bà là hai thái cực. Nhưng đáo
cùng, hai thái cực khác nhau ở hai điểm:
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Từ Hải đã vì Thúy Kiều mà nghênh ngang dựng một cõi biên
thùy, theo chàng nói:
Bao giờ mười vạn tinh binh
Tiếng loa giậy đất uy linh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường
Bấy giờ ta sẽ rước nường nghi gia
Nhưng bây giờ Kiều đã bảo “Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng
Sào” thì lập thời Từ Hải vội vàng xóa bỏ hết cái cuộc kia.
Tin lời thành hạ yêu minh
Cái niềm tin thật sự của chàng đã mất, thì bây giờ chàng trở
thành đứa bé thơ ngây, tin mọi thứ tầm phào vậy.
Tin lời thanh hạ yêu minh
Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng…
Từ công hờ hẫng biết đâu
Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên
Những tiếng “hờ hẫng, trễ tràng, ngơ ngác”, Nguyễn Du dùng một
cách não nuột quỷ khốc thần sầu.
Tôi viết vội vã. Tôi không có một ngàn năm ở trước mặt. Nhưng
kẻ nào có được trước mặt một ngàn năm, thì hãy thư thả đọc lại Nguyễn Du và sẽ
khám phá ra nhiều thứ thiên thu vạn đại khác.
Heidegger bảo rằng: “nhà tư tưởng càng hoằng viễn, thì phần
vô ngôn trong sách họ càng khôn lường”. Lúc nói câu đó, Heidegger ắt là có nghĩ
tới Nguyễn Du vậy.
Phần vô ngôn khôn lường? Khôn lường đối với mọi người và khôn
lường tự mình đối với mình. Người tư tưởng (cũng như thi nhân) không bao giờ lường
được hết tư tưởng mình. Đọc tư tưởng, đọc thi ca, từ đó chúng ta chỉ có thể nêu
những câu hỏi đại khái kỳ dị như sau:
1. Vì sao con đường đi trong đó không bằng phẳng?
2. Đó có phải là một lối cưỡng bức không?
3. Nguyễn Du đã cưỡng bức đủ điều. Heidegger đi tới đâu cũng
cưỡng bức tràn lan tới đó. Cưỡng bức Nietzsche, Rilke. Rồi quay lại tự mình cưỡng
bức chính mình.
4. Cổ kim có nhà tư tưởng nào tự mình cưỡng bức mình nhiều
như Nietzsche, như Heidegger, như Sade? Sự đó có liên can mật thiết gì tới Khổng
Tử, Jésus Christ hay không?...
Hoài Khanh
Qua sông là một nhịp cầu
Qua tôi là một kiếp sầu vô chung
(“Tự Tình” - Dâng Rừng)
Thế ra tôi đứng ra để đón lấy kiếp sầu vô chung? Tôi là Tại
Thể? Da-sein? Tôi đón lấy sầu kia và thể nghiệm mối tương quan giữa Dasein và
Sein? Giữa Tại Thể và Tồn Thể?
Qua sông là…
Qua tôi là…
Thy sĩ hai lần dùng tiếng là. Hai lần dùng tiếng qua.
Nhịp cầu là cái gì qua sông. Sầu vô chung là cái gì qua tôi.
Ông Hedeigger trong cuốn Siêu Hình Học Là Gì, đã từng đem cái sầu, khắc khoải,
làm tinh thể của Dasein, trong mối sầu đã “nhảy vọt” một cái, băng qua mọi thể
hiện của dung nhật thường lệ, và tiếp giáp với mạch tồn thể uyên nguyên.
(Đó cũng là mối sầu bàng bạc khắp Truyện Kiều)…
Nhịp cầu là cái gì giúp qua sông, thì sâu vô chung cũng là
cái gì giúp đáo bỉ ngạn.
Dịch
Từ trong tinh thể của nó, dịch là tái tạo. Sự ấy dường như
quá hiểu nhiên. Ông Nguyễn Du, ông Nguyễn Khắc Hiếu đều tái tạo triệt để trong
các bản dịch chuyện Tàu của các ông.
Nhưng nói gì xa xôi. Thử nói gần gũi hơn. Nếu bây giờ ta đem
Truyện Kiều dịch trở lại bằng văn xuôi Việt Ngữ, hoặc bằng thơ thất ngôn, ngũ
ngôn, thì ấy cũng là tái tạo.
Một ca nhi đem một bài ca, ca lên, cũng là tái tạo bài ca.
Xét cho cùng, mọi hành động và vô vi, cũng là tái tạo. Tái tạo
bằng hơi thở riêng biệt một lần.
Tôi có cảm tưởng rằng lúc thật sự “sáng tạo”, tôi lại cũng
đang dịch. Tôi viết vần thơ “độc đáo” nào, cũng là đang dịch. Tôi dịch lại ông
Nguyễn Du, ông Hồ Dzếnh. Cũng như ông Nguyễn Du ông Hồ Dzếnh đã từng dịch người
trước, và người trước đã từng dịch người xưa, hoặc dịch một cái gì đó ở trong vạn
vật đang muốn hiển hiện liên tồn trong âm thanh ngôn ngữ.
Và những người cho rằng kẻ dịch không có tinh thần sáng tạo,
những người ấy cũng đang dịch.
Vậy bây giờ chúng ta hay thi đua nhau dịch, và thi đua nhau bỏ
dở dang cuộc dịch, và đừng thi đua gì hết cả, để cho cuộc dịch tự nó thành tựu
thể thân nó. - “Trời có nói gì đâu… bốn mùa vẫn chuyển nhịp tuần hoàn… Trời có
nói gì đâu…” (Khổng Tử)
Kể từ Nguyễn Du và Shakespeare
Hai ông này giống nhau nhiều nhất ở điểm: nêu sự tình bi đát
cùng độ, để thỉnh thoảng cho len lỏi vào những lời thơ phiêu bồng thơ ngây khôn
tả. Nghĩa là nói cách khác: nêu ra sự chấn động của toàn khối hiện thể để khiến
người ta khơi lại mạch nguồn tồn thể (Đó cũng là dụng ý của Nietzsche).
Ông Khổng Tử ngày xưa thì lại cố tình che dấu hết mọi cuộc chấn
động hỗn độn. Chẳng phải là ông không biết. Ông biết cùng cực nhưng ông không
nói - tri hiểu nhi bất ngôn chi.
Ông Camus Nietzsche cốt cách giống như Khổng Tử, muốn sống và
lập ngôn như Khổng Tử, nhưng không thể nào được. Lịch sử đi tới một buổi hoàng
hôn riêng biệt.
Trong nền thi ca Việt hiện đại, Nguyễn Thị Hoàng và Trần Thy
Nhã Ca là hai hình ảnh biểu hiện nỗi thống khổ cùng cực của lịch sử nhân loại.
Những Thánh Nữ Simone Weil không còn lối bước đành làm miếng mồi mềm mại cho những
trận Tẩu Hỏa Nhập Ma. Hình như ngành Y Khoa hiện đại đủ sức trị liệu chứng bệnh
đó.
Dịch
Từ trong tinh thể nó, Dịch là làm điều cưỡng bức. Dịch văn
xuôi là điều cưỡng bức. Dịch thơ lại càng là cưỡng bức triệt để hơn nữa.
Đừng nói chi tới sự vụ dịch thơ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ
khác. Chỉ thử hỏi: Có thể nào đem thơ Việt, dịch ra trở lại làm thơ Việt được
không? Có thể nào đem thơ lục bát dịch ra làm thơ thất ngôn, hoặc ngũ ngôn, hoặc
song thất lục bát, hay là thơ tám chữ?
Nói triệt để hơn nữa: Có thể nào đem thơ lục bát dịch trở lại
làm thơ lục bát? Chính ông Nguyễn Du, ông có thể nào tự mình đem thơ lục bát của
mình dịch trở lại làm thơ lục bát?
Không. Lời thơ kia chỉ hiện ra một lần trong phong thái riêng
biệt của anh hoa phát tiết một lần. Buộc nó phải hiện ra trở lại trong phong
thái khác, thì anh hoa tài tử có thể cho phát tiết một lần nữa, nhưng lần sau
không còn là lần trước.
Màu xanh của biển chiều thu năm nay không phải màu xanh của
biển chiều thu năm ngoái. Màu xanh biển phút trước, không phải màu xanh biển
phút sau. Luôn luôn trong vạn vật cũng như trong sinh hoạt tâm linh, có một trận
tái tạo không ngừng. Phải chấp nhận sự đó như là điều hiển nhiên, thì mọi cuộc
dịch dy mới có thể còn chút gì chính đáng trong cơn liên tồn cưỡng bức.
Trái lại, nếu quan niệm hẹp hòi, nếu cho rằng dịch phải thật
“sát”, không được cưỡng bức dịch dy, thì mặc nhiên người ta đã cưỡng bức một
cách không chính đáng. Vì cuộc cưỡng bức nọ không đưa tới tái tạo tinh hoa, mà
dẫn tới nô lệ ngục tù, nghĩa là sát phạt tinh hoa.
Thử đưa một thí dụ. Truyện Kiều mở ra với bốn câu:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Nếu người dịch là kẻ tài hoa, ắt nhận thấy rằng điều cốt thiết
trong mấy câu thơ kia, chẳng phải là cái ý tưởng nó hàm ngụ - ý tưởng “tài mệnh
tương xung”, “cõi người ta trăm năm ngắn ngủi”, “cuộc biển dâu thương hải tang
điền”… là những ý tưởng sáo. Trái lại, cái chỗ bất tử, cái chỗ huyền diệu của
câu thơ kia lại là ở những điệp thanh, điệp âm, đối ngữ…
Trăm năm - một cuộc - những điều…
Trong cõi - trải qua - trông thấy…
Chữ tài - chữ mệnh…
Khéo là ghét nhau - mà đau đớn lòng…
Một cuộc tương tranh, một cuộc xô xát, trong một cõi trăm
năm, được âm ỷ nêu ra âm thầm triền miên trong những đối ngữ, điệp âm nọ. Đó là
cái chỗ thần diệu phát tiết của thơ. Vậy lời dịch làm sao tái lập được cái chất
linh diệu đó?
Ông René Crayssac, ông Trương Cam Vũ, vô tình hoặc hữu ý đã
tái tạo được trong hai bản Pháp Ngữ và Hoa Ngữ cái chất thơ âm thầm triền miên
trong cốt cách lục bát Việt Nam. Mỗi ông theo mỗi lối, thuận theo tinh hoa ngôn
ngữ mình, đã thể hiện trở lại trong bản dịch được chín phần mười tinh hoa ngôn
ngữ.
Hãy xét bốn câu của Trương Cam Vũ trước:
Nghịch lữ nhân sinh bách tuế trung
Mệnh tài lưỡng tự xảo tương xung
Nhất kinh thương hải tang điền biến
Mục kích tâm thương kỷ vãng tung
Có thể nghĩ rằng đó là do ngẫu nhiên mà Việt Ngữ và Hoa Ngữ
đã hôn phối chặt chẽ. Cũng có thể nghĩ rằng ấy là do cuộc tương giao hằng bao
thế kỷ mà nảy ra kết quả đẹp đẽ kia. Dù sao thì dù, lời thơ dịch đã không bỏ lạc
cái cốt yếu trong thơ Nguyễn Du. Xin ghi ra những ngôn ngữ gùn ghè tịch hạp:
Bách tuế - lưỡng tự - nhất kinh (trăm năm - hai chữ - một trải
qua.)
Đó là những đối ngữ. Và đây là những điệp thanh:
Tuế - tài - tự - tương - tang - tâm - tung nhất kinh - mục
kích - thương hải - tâm thương…
Bốn câu dịch bốn câu, Trương Cam Vũ có thể tái lập được chừng
đó điểm đặc biệt, lại còn dịch được tiếng “khéo là ghét nhau” ra làm “xảo tương
xung” - Thế là người dịch đã thể hội huy hoàng cứu cánh của công việc vậy. Ông
vừa thong dong đi sát ý, lại còn thể hiện được viên mãn cái hồn thơ.
Bây giờ xét tới lời dịch của René Crayssac. Crayssac sử dụng
Pháp ngữ, Crayssac không thừa thụ những thuận lợi như Trương Cam Vũ - những thuận
lợi do những tương giao lâu ngày giữa Hoa Ngữ và Việt Ngữ đem lại - Crayssac đã
phải cưỡng bức như thế nào, theo đường lối nào, trong lời dịch?
Những đối ngữ đi mật thiết sát gót nhau trong bốn câu nguyên
tác, Crayssac không cách gì thể hiện lại được, thì ông thể hiện theo lối khác bằng
cách dịch dôi ra và đưa vào những điệp thanh phong phú.
Bốn câu của Nguyễn Du, ông phải dịch ra làm mười hai câu cả
thảy mới tạm gọi là lột được phần nào tinh hoa nguyên tác:
Cent ans - le maximum d’une humaine existence!
S’écoulent rarement sans qu’avect persistance
Et comme si le Sort jalousait leur bonheur,
Sur les gens de talent s’abatte le malheur
Subissant l’âpre loi de la métamorphose,
On voit naitre et mourir si vite tant de choses!
Bien peu de temps suffit pour que fatalement
Surviennent ici-bas d’étranges changements,
Pour que des vert muriers la mer prenne la place
Tandis que, devant eux, ailleurs, elle s’efface!
Or, dans un temps si court, ce que l’observateur
Peut bien voir ne saurait qu’endolorir son coeur.
Nhận định thấy gì?
Những tiếng “trăm năm, một cuộc, những điều” của Nguyễn Du
không còn có thể đi sát nhau đẻ gùn ghè mật thiết, vì chúng bị loãng mất trong
mười hai câu dài dậm duộc.
Nhưng Crayssac ngược lại đã biết tận dụng những điệp thanh
lai láng để thể hiện chất thơ bàng bạc của Nguyễn Du. Xin chép ra đây những âm
thanh âm vận láy đi láy lại:
Cent ans - s’écoulent - sans que - comme si - le sort - sur
les - s’abatte - subissant si vite - suffit - surviennent - s’efface - si court
- ne saurait - son coeur -
Ngoài ra, những đối ngữ thật sự của Nguyễn Du mà Crayssac
không thật sự tái lập được, thì ông cũng đã tái lập đối ngữ theo cách khác:
Sans qu’avec - et comme si - Bonheur - malheur
Nâitre - mourir
Tant de choses - bien peu de temps
Prenne la place - elle s’efface
Trên đây chỉ là một trong muôn ngàn thí dụ khác có thể đưa ra
khi bàn tới chuyện dịch. Dù sao, điều cốt yếu, chẳng phải là đạt hay không, có
lẽ… Điều cốt yếu, là ý thức về cái chỗ gay cấn kia, lúc khởi sự đọc văn thơ.
Thơ Nerval, thơ Apollinaire, Baudelaire, Whitman, Dickinson, Rilke, Nietzsche,
Heidegger, vân vân, đã bao phen khiến người dịch đành phải bó tay, bó chân, xin
nhảy lùi từng trận.
Vậy nên kẻ biết dịch là kẻ biết nhảy lùi. Vì dịch là tư tưởng
một cách nghiêm mật. Kẻ tư tưởng thâm viễn bao giờ cũng nhảy lùi. Kẻ biết dịch
tối cao, là kẻ không bao giờ chịu dịch. Trường hợp buộc phải dịch, thì đành cưỡng
bức. Cưỡng bức để đưa tới đề huề. Trường hợp không thể đưa tới đề huề, thì đành
tái điệp nhảy lùi, song trùng bỏ cuộc. Bỏ cuộc thì kể cũng đìu hiu. Bèn nhảy vô
cuộc trở lại. Rốt cuộc? Rốt cuộc, con người tẩu hỏa nhập ma sa vào giữa một
vòng lẩn quẩn kỳ quặc. Trong cái vòng lẩn quẩn kỳ quặc ấy, hốt nhiên lời thơ
Nguyễn Du lại thị hiện một cách não nùng:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Thơ Nguyễn Du thị hiện một cách đoạn trường như thế, thì sự cố
nào xảy ra cho thằng tài tử? Ấy là sự cố Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn… Mọi bài thơ tôi
viết ra, đều là vịnh thơ Nguyễn Du tại chỗ gay cấn âm thầm nhất. Dịch thơ từ đó
biến ra làm Vịnh Kiều, trong từng cơn cưỡng bức. Thơ Nguyễn Du cũng là tự mình
cưỡng bức mình. Người ta công kích thơ tôi, chẳng qua chỉ vì người ta tưởng rằng
tôi làm thơ đưa ra cái gì độc đáo lắm.
Lại có kẻ cho rằng thơ tôi làm u ẩn, súc tích, hơn thơ Nguyễn
Du. Ấy chẳng qua là người ta không chịu đọc thơ Nguyễn Du trong nếp gấp của nguồn
thơ ông đấy thôi.
Người Tàu dịch Tây
Có một số ngôn ngữ tôi dùng trong mấy cuốn sách dịch bị độc
giả nhận lầm là ngôn ngữ lập dị. Chẳng hạn như: nhị bội, song trùng, tồn lưu,
lưu tồn, khiêu dược, phản chạng, tẩu xuất lai, tòng đầu bột khởi, đột nham, sầm
lãnh, kiền tình, kiệt tận miên bạc, phục quy, đàn hồi, vô sở thố trí v.v…
Đọc giả tìm trong Tự Điển Hán Việt Đào Duy Anh, có lẽ tìm
không thấy. Nhưng trong các Từ Điển Anh Hoa hoặc Đức Hoa lại có đầy đủ.
Tiện đây xin trích dẫn vài thí dụ rút từ cuốn Deutsches
Chinesisches Standard-Handwörterbuch.
Zweimal: nhị bội, nhị thứ
Zweifach: nhị bội đích, song trùng đích.
Zweiachsig: song trục đích, lưỡng trục đích
Zweiblumig, Zweiblütig: song hoa đích
Zweideutig: mô lăng lưỡng khả đích
Zweidoppelt: trùng phục đích; song sinh đích
Zweieckig: song giác đích
Zweifächerig: song tế bào đích
Zweiflüglig: song xí đích; hữu song xí hình đích.
Zweifrüchtig: song quả đích
Zweigesang: nhị bội hợp xướng (hoặc hợp tấu) chi ca khúc
Zweigestaltig: (đồng chất) nhị hình đích
Zweihenkelig: song bỉnh đích
Zweihöckerig: song phong đích
Zweiseitig: lưỡng diện đích, tương hỗ đích
Zweisilbig: song âm tiết đích
Zweistimmig: song âm đích
Wieder: tái, phục, trùng tân
Wiederanfang: tái hành khai thỉ (thủy), canh thủy, canh tân
Wiederholung: thu hồi, thu hoàn, trùng phúc, phục tập
Wiederanknüpfen: trùng hành kết hợp, trùng hành liên lạc
Wiederanmachen: tái hành hệ phược
Wiederanregen: tái hành kích thích, trùng đề
Wiederanschaffen: trùng hành trù biện
Wiederauffinden: trùng hoạch, thất nhi phục đắc
Wiederaufforsten: trùng thực sâm lâm
Wiederaufgehen: tái khai, trùng khải
Wiederaufnehmen: tái hành thụ lý, tái hành biện lý
widerbekehren: tái hành chuyển hoán, trùng hành cải tông
wiederberufen: trùng hành chiêu tập
Wiederbesinnen: tái phản tỉnh, tái hồi tưởng, tái khảo lự
Wiederbringen: quy hoàn, đái hoàn, huề hoàn
Wiedereinbringen: trùng hành bổ nhập
Wiedererinnern: trùng ức, hồi ức, truy tưởng
Wiedererzählen: trùng thuật, phục thuật, chuyển thuật
Wiedereröffnen: tái khai, trùng khai hành mạc
Wiedererreichen: tái hành để đạt, tái cập đáo
Wiedererscheinen: trùng kiến, tái xuất hiện
Wiedererzeugen: trùng tân sinh sản, tái tạo
Wiedergewinnen: trùng đắc, trùng hoặch, hoàn nguyên, hồi phục
Wiederhervorbringen: sử tái sinh sản, sử tái xuất hiện
Wiederhinaufsteigen: trùng hành thượng thăng, tái đăng
Wiederhinengehen: trùng hành nhập nội
Wiederkommen: quy lai, tái lai
Wiedersagen: trùng thuyết, trùng thuật
Wiedersammeln: tái tập họp
Wiederrsuchen: tái tầm mịch
Wiedervereinigen: tái liên họp, tái đoàn kết, tái hòa hảo
Wiederwählen: tái chuyển
Wiederzulassen: trùng hứa gia nhập, tái hứa nhập nội
Heraus: hướng ngoại lai, xuất lai
Herausarbeiten: chế tạo xuất lai
Herausbekommen: miễn lực thủ xuất lai
Herausbringen: huề đái xuất lai
Herausfinden: tầm xuất lai, phát hiện xuất lai
Herausfühlen: cảm giác xuất lai
Herausgreifen: bạt xuất lai
Herausgucken: hướng ngoại khuy vọng xuất lai
Heraushängen: huyền xuất lai, quải xuất lai
Herausheben: cử xuất lai, đề xuất lai
Herauslassen: dung hứa xuất lai, thích phóng xuất lai
Herauslegen: trí ư ngoại biên lai
Herauslocken: dẫn dụ xuất lai
Herausmüssen: tất tu xuất lai
Herausplatzen: bạo liệt xuất lai
Herauspoltern: hoang trương nhi xuất lai Heraussagen: thân
thuyết xuất lai, minh ngôn
Heraussollen: lý ưng xuất lai
Herausstürzen: phao trịch xuất lai
Heraustreiben: khu trục xuất lai
Herauswollen: nguyện ý xuất lai
Hoài Thanh
Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt
Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh. Hoài Thanh bình Kiều, Hoài Thanh viết
Thi Nhân Việt Nam, có những lời bất hủ. Thiên tài Hoài Thanh đủ tư cách dựng sừng
sững những thiên tài đứng lên chót vót. Và ông mở ra không biết bao nhiêu con
đường cho những thi sỹ và phê bình gia đi sau. Dù thỉnh thoảng cũng phải bài
bác ông trong phép “cưỡng bức chịu chơi”, nhưng phải nhìn nhận rằng nếu không
có Hoài Thanh, thì có lẽ ngày này chúng ta chẳng có thể viết nên một cái gì ra
cái gì gì cả?
Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Trần Đình Đàn… là ba ông thầy cũ của
tôi. Ba ông thuộc nòi giáo sư xuất chúng. Rủi thay ngày học với ba ông, tôi đã
thuộc Huy Cận, Nguyễn Du, Nerval, nên bài vở nhà trường của các ông chẳng đem lại
chút gì đáng kể cho tôi. Nhưng cái phong thái trang nhã thâm viễn của các ông,
vô hình trung, lại giúp đỡ tôi rất nhiều. Và vì thế sách vở của các ông, về sau
tôi chịu khó đọc chậm rãi.
Bây giờ các bạn thử tưởng tượng. Nếu không có sách Hoài
Thanh, Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim… thì ngày này có quả rằng chúng ta giống như
những con gà con mất mẹ.
Riêng nói về Hoài Thanh, cái tâm hồn thi nhạc nơi ông còn cao
xa hơn hầu hết mọi thi sĩ tôi đã gặp.
Tiện đây tôi xin tặng ông Hoài Thanh một bài thơ.
Cỗi nguồn quá vắng lặng sao
Câu kinh trầm thống phương nào dậy tuôn
Mộng thừa nhị bội bắt buông
Lừng vang tử trúc điệu buồn như mai
Đào Duy Anh
Trong buổi học, Đào Duy Anh trầm giọng buồn buồn bảo học
sinh:
“Các anh nên nhớ rằng dù tôi có gắng giảng giải cách gì đi nữa,
vẫn không thể nào khiến các anh ngờ ra hết những gì huyền diệu trong tác phẩm
Nguyễn Du. Ngày sau nếu các anh có thể đi quanh một vòng thi ca thế giới, các
anh đón nhận tinh hoa những nguồn thơ lạ thế gian, rồi các anh quay về với Nguyễn
Du lúc đầu đã bạc, ngày đó họa chăng các anh mới rõ thiên tài Nguyễn Du cao độ
nào”.
Hỏi ông về cuốn sách của Nguyễn Bách Khoa (Nguyễn Du và Truyện
Kiều) ông lơ lửng đáp:
“Nguyễn Bách Khoa có tài, nhưng anh ta mới bước chân vào một
vài học thuyết Tây Phương, anh ta say mê quá, tưởng đó là cái gì tân kỳ lắm lắm.
Tuổi trẻ có những cái lầm đồ sộ”.
Tiện đây tôi xin tặng Đào Duy Anh một bài thơ:
Tiều phu đắn gỗ khô trên núi
Em bán than gánh củi một vài
Sau lưng ngày tháng chạy dài
Trận nhìn tiền diện an bài nắm xương
Tung bốn vó dặm trường ngựa ruổi
Mừng sát na theo đuổi máu xuân
Xương thu tủy hạ luống từng
Phổi tim quỹ đạo quây quần sang đông
Khổng Tử
Chất thơ tiềm ẩn trong ngôn ngữ Đức Khổng quả thực phi phàm.
Nhưng muốn nhận ra phải có đủ đầy trăm năm đạo hạnh. Tại hạ chỉ mới có một phần
tư rưỡi tuế nguyệt thôi. Nên chẳng thể dám nhận ra.
Có lẽ một vị bồ tát, một vị linh mục ngày sau sẽ tìm ra cái mạch
nguồn âm thầm giao tiếp Dịch Kinh và Evangile, Luận Ngữ và Evangile, Luận Ngữ
và Kim Cương Kinh, Dịch Kinh và Holzwege vân vân.
Ông Lý Bạch
Nhứt chi nùng diễm lộ ngưng hương
Vân vũ vu sơn uổng đoạn trường
Riêng hai câu ấy thôi của ông cũng đủ khiến tại hạ đem Truyện
Kiều đề tặng ông chơi một trận.
Người Trung Hoa đã điên rồ thêu dệt những giai thoại ngơ ngẩn
tưởng làm vinh dự cho ông, nhưng thực ra đã bôi nhọ ông một cách cổ kim chưa từng
có. Tại hạ đã nhiều phen muốn nêu sự vụ kia ra, những vừa nghĩ tới đã cảm thấy
buôn nôn gớm guốc khôn tả.
Dưới chín suối, ông hãy yên lòng. Bọn thi sĩ ngàn năm sau mãi
mãi tự nhiên biết rằng những sự tình kia không hề có thật. Không thể nào thi sĩ như ông lại bắt kẻ khác cởi giày dép cho mình. Còn bài “Phượng Hoàng Đài” ông
làm ra không phải vì ganh tài Thôi Hiệu, mà vì tương ứng với Thôi Hiệu.
Rỡn
Khổng Tử rỡn dịu dàng bao dong, Shakespeare rỡn toe toét
thiên hình vạn trạng, Homère rỡn bát ngát phiêu bồng. Kim Cương Kinh rỡn ôn tồn
thân ái, Nguyễn Du rỡn ngậm ngùi, Camus rỡn thống thiết, Malraux rỡn ráo riết
chịu chơi. Xuân Diệu rỡn tào lao, Nerval Huy Cận dường như không thể rỡn, Hồ
Xuân Hương rỡm tùm lum, Bà Huyện Thanh Quan không biết rỡn, Nguyễn Thị Hoàng rỡn
xót xa, Trang Tử rỡn độc đáo gay cấn, Trần Thy Nhã Ca rỡn như thiên nữ lưu đày,
Saint-Exupéry có định rỡn chút ít, nhưng bỗng nhiên dừng lại tê buốt, Gide rỡn ỡm
ờ cò ke tỷ mỷ, Sade rỡn điên cuồng. Nietzsche rỡn chết gục, Nguyễn Thị Hoàng rỡn
tan hoang, Hồ Xuân Hương rỡn đo rồi đếm, đếm lại đeo, đeo xong thì đắp xéo, Như
Lai rỡn từ bi, Jésus Christ rỡn bác ái, Sophocle rỡn trang nhã thâm trầm kỳ tuyệt,
Euripide rỡn ẩn ẩn hiện hiện, Ngoạ Long Sinh rỡn u nùng, Kim Dung rỡn bất tuyệt,
Hồ Dzếnh rỡn nên thơ chân thiết, Tú Mỡ rỡn như đười ươi, Shakespeare rỡn như
phượng hoàng, Nietzsche rỡn tan hoang xương máu, Gide rỡn lúc giật lúc buông
lúc chùng lúc thẳng, Tô Man Thu rỡn não nùng, đốt cháy máu tim. Whitman rỡn như
thánh hiền thi đua lội bơi với con nít, Apollinaire rỡn như thiên thần yêu dấu
gái trần gian, Emily Dickinson rỡn kín đáo thơm tho, Faulkner rỡn cho vừa lòng
ma quỷ, Goethe rỡn trung hòa đôn hậu, Heidegger rỡn với phong thái thần thánh
đóng vai trịnh trọng giáo sư, Whitman rỡn cho thánh hiền chịu thua con trẻ,
Gide rỡn cà gật uyên bác chịu chơi, Apollinare rỡn như dòng suối xuân ghẹo khe
mùa thu sầu mộng, Tản Đà rỡn trong từng trận tẩu hỏa nhập ma, Mỹ Nga rỡn thi
đua lên thăm chị Nguyệt, Việt Nam ngày xưa biết rỡn, ngày nay hết cơ hội để
cùng tứ hải rỡn rồi rồi, Trung Hoa rỡn bất khả tư nghị, ông Kút Xếp rỡn chỉ được
một thời gian ngắn, cô Phùng Khánh không thích thiên hạ đùa dai. Vì sao như thế?
Vì đùa dai thì cái rỡn ắt biến thành cái rỡmmm…
Hồ Dzếnh
Giếng vàng ánh ngọc nghìn xưa
Giở trang sách cũ hương thừa còn bay
Mà sao người đó ta đây
Tình duyên phảng phất như ngày đã xa
Người về ta mới nhớ ra
Yêu là thế đấy, mơ là thế thôi
(“Phong Châu” - Quê Ngoại)
Lửa thơ bừng cháy giữa đời
Tình thơ thắm thiết cho người bán mua
Ý thiêng người thiếu ta thừa
Nghìn kho ân lộc trăm mùa mạnh Xuân
Khinh nẻo hẹp, ghét nơi gần
Mắt xa thẳm hỏi muôn lần dặm băng
Dẫu tàn trên đỉnh kiêu căng
Còn hơn muôn thuở cao bằng ngọn cây
Thơ về nắng sáng lừng lay
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra
Cõi trần vẳng tiếng thiên nga
Thơ không tuổi ý không già muôn năm
Gối lên bắc đẩu ta nằm
Nghe rung chân lạ thơ thần mười phương
Non cao nên dáng non buồn
Tuyết sương thắm mãi linh hồn quạnh hiu
Non tuy run rét bao chiều
Vẫn đem cao cả tiêu điều gửi mây
(Hoa Xuân Đất Việt)
Phạm Thị Lan
Phạm Thị Lan là em ruột Phạm Quang Bình. Mười lăm tuổi. Làm
thơ tuy không vững bằng Phạm Quang Bình, nhưng quả thật cùng nòi thiên tài nhỏ
tuổi. Xin chép ra đây hai bài tiêu biểu.
Chị Hai
Chị hai xuống chợ tồi tàn
Ướt hai tấm áo một hàng nước mưa
Buổi đi sớm, buổi về trưa
Ướt một tấm áo còn chưa vừa lòng
Ở trên tôi tạm nói là “không vững bằng”. Thật ra sao gọi là vững?
Sao gọi là không? Chất thơ thiên tài tuổi nhỏ phải là như thế mới được.
Cô Bạn
Cô bạn học không thuộc bài
Nghe mưa nghe nắng thở dài ngoài kia
Đầu hôm cho đến giữa khuya
Học bài không thuộc vở bìa giấy khô
Sợ thầy hay là sợ cô
Sáng nay không dám bước vô nhà trường
Đáng lẽ ra, đối với một học sinh còn nhỏ, ta chẳng nên nói với
nó rằng nó là thiên tài. Nhưng trường hợp Phạm Thị Lan, thì lại khác. Bảo nó là
thiên tài thì nó cười rộ đáp: “Thiên tài hay không, không cần thiết. Cháu chỉ
xin bác mua cho cháu một quyển văn phạm thế là đủ”.
Albert Camus
Ông nêu vấn đề “cõi phi lý” cốt để nói cái gì khác? Nghĩa là
nếu bây giờ ta thật sự muốn mở cuộc đối thoại chân chính với tư tưởng Camus,
thì điều trước tiên là phải khai triển phần vô ngôn trong tư tưởng của ông.
(Xem mấy quyển Tư Tưởng Hiện Đại).
“Thoại trung hữu thoại”, lời nói đơn giản đó của người Tàu
xưa, dường như tới ngày này vẫn chẳng học giả nào lưu tâm tới.
Với Camus, với Heidegger vân vân, suốt mấy mươi năm, nói
quanh quẩn vẫn không rồi. Heidegger nêu vấn đề Être và étant, vấn đề pensée
méditante và pensée calculante, vân vân, ấy là ông muốn nhân đó mà đặt ra vấn đề
khác. Nếu chỉ phải phân biệt đơn giản có thế thôi, thì hà tất phải lắm lời -
cái “huyền ngoại chi âm” - thì dù tẩu hỏa nhập ma có tự nhận mình rõ biết cái
điều Heidegger nói, ta vẫn ù lì nằm vĩnh viễn trong cõi pensée calculante.
Cái pensée calculante đó đã khiến người ta cứ tiếp tục ngộ giải
Camus, Gide, là những nhà tư tưởng tương đối không có quá u uẩn trong phép lập
ngôn. Và cho dẫu người ta không ngộ giải một cách quá hồ đồ, dẫu cho người ta
thể hội được cái điều Camus Gide muốn nói, người ta cũng chỉ mới thấy cái
“đương nhiên” mà chưa nhận ra cái “sở dĩ nhiên” - chỉ tri kỳ đương nhiên, nhi bất
tri kỳ sở dĩ nhiên.
Chung quy vẫn cái pensée calculente cứ ám mãi, ngay trong lúc
người ta tuyên bố chống lại nó.
Bấy giờ nếu chúng ta chịu sực bàng hoàn, chợt hồi tỉnh một
chút, thì câu hỏi lù lù hiện ra trong đầu óc máu me, ấy là: - Sao gọi là mệnh đề
phụ?
(Trong mấy tập một vài nhận xét về Truyện Kiều, một vài nhận
xét về Lục Vân Tiên - Tân Việt xuất bản 1957 - có vài mệnh đề phụ đồ sộ, mà cho
tới ngày nay vẫn chẳng có một ai lưu ý tới).
Bây giờ nếu thử một phen triệt để dứt khoát với mọi thứ luận
lý chi ly của triết học Âu Châu, (chúng cứ ám lấy chúng ta tại chỗ vô hình
trung, ngay khi ta nguyền rủa chúng), thật sự thử đọc Camus và những thi sĩ thiên tài Tây Phương hiện đại với những con mắt của những nhà tư tưởng và thi
nhân Đông Phương (trong đó có Nguyễn Du), thì mọi nhận định của ta sẽ đổi khác
từ ngọn ngành tới cội rễ. Và chúng ta sẽ càng hiểu được nguyên do cuộc lập ngôn
tam bành của những ông Nietzsche, và trận cưỡng bức nghiêm mật của những ông
Heidegger.
Người ta không bao giờ thật sự chiêm niệm, nên những điều đơn
giản hiển nhiên, đối với người ta cứ như trở thành hồ đồ, không chính xác. Người
ta thường chỉ trích tôi tư tưởng võ đoán, không mạch lạc, hoặc sai lệch điểm
này, khuyết điểm nhầm lẫn chỗ kia. Không bao giờ người ta giật mình sực tỉnh
trong thâm để linh hồn, để thể hội rằng: lúc bo bo công kích theo lối “đam đam
khuy tứ” đó, thì chính người ta đã đang chịu làm miếng mồi mềm mại cho cái tinh
thần máy móc hỗn độn của chính cái tinh thần duy lý thô thiển mà người ta đang
công kích. Cái tư tưởng “calculante” nó luôn luôn còn cò kè xúi giục tủy não
người tẩu hỏa nhập ma, bằng một đường lối luẩn quất kỳ dị. Nó cũng có cái tính
chất “nhị bội” riêng biệt của nó
Hầu hết những điều Heidegger, Nietzsche, Gide, Camus… đã nói,
là nói với Âu Châu Triết học, nơi giữa mảnh đất đai Siêu Hình Học. Thì dù nói
cao, dù nói thấp, là chỉ cao thấp đối với Siêu Hình Học Âu Châu, vạch một đường
cày trong mảnh đất Âu Châu. Không thể đem ra công kích hoặc tán dương theo lối
tư tưởng một chiều, bỏ lạc cái lẽ “sở dĩ nhiên” trong phép lập ngôn của họ.
Càng không thể đem ra ca ngợi nhằm chủ đích gián tiếp tàn phá ngôn ngữ bọn tài
tử Đông phương.
Cho đến ngày nay người ta vẫn bảo rằng Nguyễn Du ký thác tâm
sự “di thần triều Lê” trong tác phẩm của ông - thì như thế tư tưởng còn bước đi
bước đứng như thế nào? Rồi những điều Nguyễn Du nói với ma, thì quỷ lại tưởng
là nói với quỷ, lại tưởng là nói với thánh thần. Những ngộ giải chạy tràn lan.
Quỷ không hài lòng về Nguyễn Du, thần thánh bực bội vì Nguyễn Du, thánh thần lại
hoan hỷ vì Nguyễn Du!!! Thật không còn biết làm sao dò cho ra manh mối.
Minotaure tha hồ chạy đú đỡn trong mê cung “hỗn thủy” đó để triệt để “mô ngư,
tróc giãi”, từ trong Khung Cửa Hẹp tới mọi lối quanh quẩn của l’Étranger. Trong
khi đó, Rilke bó tay, cặm cụi dịch thơ Valéry, dịch văn Gide. Chỉ một mình
Rilke biết Gide muốn nói gì trong Khung Cửa Hẹp. Thì Minotaure lại vồ lấy Rilke
để nuốt chửng La Porte Étroite.
Thế thì sao gọi là L’Immoraliste? Gide viết tiếp La Symphonie
Pastorale. Camus viết tiếp La Peste.
Chạy đuổi theo Gide, Camus, Minotaure quay về o bế Walt
Whitman. Lợi dụng Lá Cỏ để tàn phá Lá Cồn. Học đòi vài thể điệu Mưa Nguồn để
xua đuổi Ngàn Thu Rớt Hột.
Vậy xin viết vài câu thơ lai rai.
Hoàng Hậu luống muộn màng Công Chúa
Nảy hoa xuân cành múa lộn vòng
Ba thu càng lắc càng đong
Càn đầy tâm sự cõi lòng càng vơi
Đỗ Long Vân
Cuốn sách của ông bàn về Kim Dung nằm trong vùng tư tưởng
thâm viễn như cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim. Chẳng những giúp người Việt Nam
hiểu tư tưởng lớn của thiên tài Trung Hoa, mà còn khiến người Trung Hoa, người
Đông Phương, Tây Phương nói chung ngày sau sực tỉnh. Tầm quan trọng của cuốn
sách kia quả thật rộng rãi không cùng.
Tôi có thể đưa ra vài nhận định khác của ông ở đôi chi tiết.
Nhưng không cần. Điều cốt yếu, ông đã nói xong, và những dư vang vô số sẽ tỏa
khắp mọi chốn. Và sẽ còn khiến người ta thể hội cái mạch thẳm trong những tác
phẩm của những thiên tài xưa nay, bất luận là Đông Phương hay Tây Phương.
Sách tôi bị cháy hết, nhưng tôi sẽ tìm riêng cuốn Trương Vô Kỵ
Giữa Chúng Ta để đọc lại nhiều lần. Tiện đây tôi xin tặng ông một bài thơ lếu
láo:
Chân hai gót bước đi sè sẹ
Bác tiều phu có lẽ nào quên
Lá rừng rậm rạp xuôi nên
Cây rừng cũng rậm ở trên rú rừng
Làm học giả nửa chừng biếng nhác
Vẳng đâu đây câu hát ngày xưa
Một hai ba bốn khôn người
Chép lời lá cỏ gọi bừa lá cây.
Lê Đình Thám
Ngày xưa ở Huế làm học sinh, tôi có tới chùa Từ Đàm nhìn và
nghe ông Lê Đình Thám.
Về sau lại tình cờ nhìn thấy ông ngồi trên ghe ở một mặt hồ
nước vùng núi Vĩnh Trinh. Ông tản cư qua làng tôi một độ. Trông ông như một đạo
sĩ ngồi trên ghe tĩnh mịch như Nam Hải Điếu Đồ.
Tiện đây xin tặng ông một bài thơ:
Chân người ta gót người ta
Ma men sờ soạng cá hòa chan chim
Giây leo giậu đổ bìm bìm
Chim đêm gọi cá về tìm mưa sa
Giật mình đếm một hai ba
Trời xanh Thượng Đế Christ là Jésus
Trí Hải Ni Cô
Ngày ông Lê Đình Thám ở chùa Từ Đàm Thừa Thiên, chắc là Trí Hải
Ni Cô chưa bao nhiêu tuổi.
Ngày nay trông ni cô còn đẹp hơn cả mấy người con gái của Ông
Lê Đình Thám. Vậy tôi xin tặng ni cô một bài thơ:
Bạc mệnh diên trường dư nhất nhật
Tam sinh quyên đảo thất điên tam
Tiền đường hô hấp hội đàm
Trùng sinh tâm tự từ đàm tiểu lâm
Chân bước một tử phần riêng rẽ
Cánh tung đôi cô lẻ nhạn trời
Giỏ hoa người hốt nhiên rơi
Giậy lừng cung bậc ra đời điệu xoang
Ông Whitman ôi
Tại hạ làm thở nửa phần giống thơ ông, nửa phần giống thơ ông
Dylan Thomas. Nhưng giống theo thể thái bê bối đười ươi chứ không có được cái
phong độ thiên tiên cốt cách. Vậy bây giờ tôi cố gắng làm một bài thơ rất mực cốt
cách thiên tiên để tặng ông chơi một trận. Tuy nhiên càng hì hục bắt chước
thiên tiên càng lộ ra cái nết na đười ươi phong thói. Vậy tôi xin ngậm ngùi dừng
bút, chẳng dám ký tên dưới tờ thư cay đắng.
Nietzsche Hölderlin Rilke
Rilke may mắn hơn Hölderlin Nietzsche, vì Rilke gặp những bạn
bè thiên tài chân thành bắt tay ở Pháp. Trái lại Nietzsche Hölderlin. Hai ông
này toàn gặp bạn bè phản phúc. Kẻ chân thành thì tư tưởng lại quá thấp, chẳng
hiểu hai ông nói cái gì. Nietzsche rú lên một tiếng. Hölderlin lặng lẽ âm thầm
đi vào cõi điên. Trong cõi điên, ắt ông chỉ gặp riêng oan hồn Nerval mà thôi.
Chỉ riêng Nerval là kẻ đồng thanh khí, cùng chia với Hölderlin cái thảm kịch dị
thường.
Shakespeare
Những hài kịch hý hước của ông đã đành là vui đáo để. Nhưng
những bi kịch âm u nhất của ông cũng pha cái điệu cười ngầm bất tuyệt. Những
nhân vật bê bối nhất cũng chịu chơi trong tấn tuồng quỷ loạn, và có cái vẻ khả
ái riêng biệt.
Cũng vì lẽ đó nên đọc Shakespeare có cái chỗ nguy hại là:
sách ông khiến cho người ta mất ngủ trong những trận cười suốt đêm.
Chỉ riêng một điều: ngôn ngữ Tây Phương không có phép nói
lái. Do đó Shakespeare đã tiêu hao tài nghệ trong những trận cưỡng bức dữ dội.
Ngôn ngữ không nói lái, mà những Tên Hề của ông, ông buộc chúng phải nói lái bằng
bất cứ giá nào. Thì thử hỏi: làm sao thành tựu viên mãn cuộc nói lái cho được?
Thế mà Shakespeare vẫn cứ thành tựu được cuộc ấy như thường.
Có lẽ ông đã tận dụng khả năng Anh ngữ trong cái kho văn chương bình dân bát
ngát. Từ đó, những kịch bản của ông vượt hết mọi kịch bản Hy Lạp Eschyle
Sophocle Euripide. Bởi vì trong kịch bản của ông có bao hàm mọi thứ dị thường của
kịch bản Hy Lạp được đẩy tới tột cùng cuống rốn, mà còn thêm những màu sắc
riêng biệt của thiên tài ông, không một thiên tài cổ kim nào bì kịp trong lãnh
vực kịch trường.
Shakespeare có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ
suốt cả nghìn đời - đó là điều mà học giả Tây Phương không thể nào ngờ tới. Mọi
sách biên khảo về Shakespeare đều bưng bít trong những nhận định tủn mủn, gò bó
trong những nhận xét về tâm lý nhân vật, về nghệ thuật kịch bản - những định kiến
bám sâu trong tủy não người học giả Âu châu trải mấy thế kỷ - trong khi anh hoa
thiên tài là tái tạo, là tái lập mọi quy chế, là phá vỡ những lề luật vớ vẩn chỉ
cần thiết cho bọn tài năng thông thường.
Những bản dịch Shakespeare ra Pháp ngữ đều chịu đầu hàng vô
điều kiện trước phép nói lái của Shakespeare.
Hoài Thanh
Nếu cuốn sách của Hoài Thanh (Thi nhân Hiện đại) không ra đời,
thì thi ca hiện đại Việt Nam ắt phải tang hoang tinh thể do sức tàn phá của cuốn
sách Nhà văn Hiện đại Vũ Ngọc Phan. Trong thế hệ trước, ngoài Hoài Thanh ra,
không còn một kẻ nào có thể ngờ ra thiên tài Huy Cận. Dẫu có ngờ ra ắt cũng
không thể viết được như Hoài Thanh.
Hoài Thanh am hiểu thi ca Tây Phương, mà vẫn dám coi nhẹ Tây
Phương trước thiên tài Huy Cận Nguyễn Du. Đó là điều hy hữu.
Hoài Thanh thừa biết rằng những thứ ta quen gọi là “chủ đề”
trong thơ Huy Cận - những suy tư về thân phận con người, về cái chết, về tình
yêu v.v… - những thứ đó chả có chi tân kỳ. Cũng như Truyện Kiều của Nguyễn Du
chả có chi bí ẩn, nhưng thiên tài chính là kẻ làm “mới” lại những chủ đề cũ kỹ
trong ngôn ngữ đơn giản của mình.
Thơ Xuân Diệu tràn lan những chất liệu thi ca Pháp. Nhiều
phen ông nói toàn chuyện rỡm. Nhưng thiên tài của ông là ở chỗ: vì quá thâm hậu,
nên đùa chơi suốt kiếp với chuyện rỡm.
Hoài Thanh cũng là kẻ riêng biệt âm thầm cảm thấy sự đó.
Huy Cận
A thân thể! một cái bình tội lỗi
Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy
Một ý tưởng chẳng có chi mới lạ. Nhưng câu thơ của Huy Cận lại
tươi mát như bầu trời.
Và cổ đứng như mình cây vững chãi
Và vai ngang như mặt nước xuôi dài
Viết câu thơ lai rai như thế mới đích thật là thiên tài. (Còn
như bài “Tràng Giang” của ông chính ông cũng lấy làm đắc ý lắm, thật ra còn vướng
vướng, không có chi huyền ảo cả.)
Và cái câu:
Tôi đội tang đen và mũ trắng
Ra đi không hẹn ở trên đường
Ông viết hai câu thơ kỳ tuyệt như thế, thì thử hỏi: còn chi
đáng kể nữa? Ông thừa sức xô ùa Đường Thi chạy mất hút. Toàn khối thi ca Trung
Quốc, toàn khối thi ca Tây Phương, hầu như bị nổ bung lông lốc, vì trái lựu đạn
đơn giản đó của ông tung ra.
Và đôi mắt ấy biết nhìn xa
Khi ngoảnh gần bên biết đậm đà
Nhưng cũng biết gieo buồn khía cạnh
Lạnh đồng tê giá nét thu ba
Tại hạ mấy mươi năm nay đọc cũng nhiều loại thi ca ngoại quốc,
mà tuyệt nhiên chẳng thấy một vần nào dám ngang nhiên đứng vững trước mấy vần
thất ngôn của Việt Nam nọ.
Ấy bởi vì? Bởi vì thơ Huy Cận vốn là sầu, nhưng đó là loại sầu
thượng đẳng Như Lai, nên chi trong cái nỗi sầu có pha chất gay cấn chịu chơi.
Thơ Homère, Sophocle, Shakespeare, Nietzsche cũng thường có chất đó. Trái lại,
thơ hoằng viễn như không của Nerval, Hoelderlin, Eluard, lại dường như không
có. (Ấy bởi vì họ chịu chơi theo lối từ bi khác).
Dù sao ta cũng có thể nói rằng thơ Huy Cận quả có như là cõi
miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương
Martin Heidegger
Ông nằm giữa mê cung triết học Âu Châu, ông rỡn rỡn đùa đùa với
mọi con Minotaure trong đó. Ông độ lượng bao dong, dù biết nó ngoan cố ông vẫn
chậm rãi dạy dỗ nó, kiên nhẫn với nụ cười của ông nội, ông ngoại. Ông biết rằng
mình thừa thãi công lực thâm hậu, không bao giờ có thể bị nó ám hại đến nỗi phải
lâm vào tình trạng tẩu hỏa nhập ma và bị nó vồ nuốt, nên ông thong dong đi sát
bên nó mà gùn ghè, ông đú đỡn nhảy lui nhảy tới, thỉnh thoảng ông giả vờ như
mình bị bế tắc đầu hàng, để có thể ngấm ngầm bày vẽ cho nó những thế võ mới để
nó có thể kéo dài cuộc tranh chấp với ông, nhiếp dẫn nó tới cõi đốn ngộ cuối
cùng. Cổ kim, Tây Phương chỉ có một mình ông thượng đạt tới tót vời như Khổng Tử.
Thượng Đế
Nếu Thượng Đế quả thật yêu thương loài người, thì Thượng Đế
nên tạo ra nhiều nương tử khổng lồ. Ấy là cốt để làm gì? Ấy là cốt phòng khi
nào bọn chán đời muốn lọt vào lòng mẹ trở lại thì có chỗ để lọt đầu chui vào.
Và như vậy sẽ còn cơ hội được sinh ra đời lần khác, khởi sự làm trở lại một thằng
bé sơ sinh tuyệt nhiên không biết sao gọi là chán đời.
Tuy nhiên vì trái đất nhỏ hẹp quá, nếu tạo ra Nương Tử khổng
lồ thì các nàng sẽ không có chỗ trú. Vậy trước tiên, Thượng Đế nên thổi phồng
trái đất to ra gấp mười lần, thì sự tình sẽ được dàn xếp viên mãn về sau.
Ông Trời xanh
Ông trời xanh đã bắt đầu có địa vị trong nền thi ca Việt Nam,
kể từ ngày cái chất bê bối của ông đượm thiên tài Nguyễn Du dựng lên sừng sững
khắp chốn trong Truyện Kiều.
Gẫm hay muôn sự tại trời
Mọi biến cố xảy ra trong tác phẩm huyền diệu nhất nhân gian,
đều do ông Trời Xanh bài bố.
Gauguin
Gauguin bỏ Âu Châu, dứt khoát với mọi trường trại lố nhố Tây
Phương, thẳng tới một hải đảo Thái Bình Dương dựng lên một trận hỏa hoạn vô tiền
khoáng hậu. Ông dựng toàn khối thảm kịch nhân gian trong con mắt thơ ngây người
gái đảo. Thảm họa chạy tràn lan, ngập khắp mùi hương cây cỏ giữa sa mạc đại
dương.
René Crayssac
René Crayssac dịch Truyện Kiều ra Pháp Ngữ, vướng vào những lối
sống sượng không thể tránh được.
Nhưng với tất cả những khuyết điểm khổng lồ kia, vì lẽ gì bản
dịch của ông vẫn sừng sững nằm trong văn học Tây Phương như một tòa lâu đài Hy
Lạp?
Qua cuốn sách của ông, người Tây Phương có thể nhìn thấy toàn
khối văn minh Đông Phương lấp lánh trong sương mù.
Và người Đông Phương ngày mai sẽ nằm trong định mệnh: chỉ còn
có thể nhìn ra thiên tài Nguyễn Du là qua bản dịch của Crayssac mà thôi.
Hồ Dzếnh
Phải quên mấy bài lục bát của ông Hồ Dzếnh thì mới còn can đảm
làm thơ. Hoặc còn chịu khó đọc thơ Tây thơ Tàu.
Nhưng mỗi phen đang giữa cơn chịu khó liên trì mà chợt sực nhớ
cái bài “Phút Linh Cầu” của Hồ Dzếnh, thì ối thôi! ối thôi! Chẳng còn thể nào
tiếp tục công việc gì nữa cả. Linh hồn bỗng nhiên xô ùa máu me chạy tuột đi hướng
khác, vô phương nắm cầm lại…
Khói trầm bén giấc mơ tiên
Bâng khuâng trăng rải qua miền quạnh hiu
Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam
Không còn một loại thơ kim cổ nào đứng nổi trước cái trận
chiêm bao kỳ ảo kia. Tôi thách các bạn tìm bất cứ trong thi ca cổ kim một bài
thơ nào đứng vững nổi trước mấy vần lục bát của ông bạn Minh Hương kia.
Hễ thong dong tự tại thả mình theo thơ đó, thì cảm thấy như
mình biến làm thiên thần. Mà hễ hì hục cố bàn giải vào, thì bỗng nhiên tức thở,
ngột hơi, cảm thấy mình là một con đười ươi lếu láo trơ trẽn, không biết xấu hổ
là gì.
Lỡ viết ra đôi lời giải thích thì về sau sẽ ân hận, sẽ mòn mỏi
máu me kịch liệt.
Cũng may cho ông Nguyễn Du sinh ra ở thế kỷ trước. Nếu sinh
ra đồng thời với Hồ Dzếnh, ắt ông Nguyễn Du không còn chịu viết Đoạn Trường Tân
Thanh làm gì.
Mọi thi sỹ ngày nay đều là kẻ bất hạnh. Bị đọa đày làm thi sỹ,
trong khi cõi thơ không còn lối để bước. Mấy chục bài lục bát của Hồ Dzếnh là đại
dương thi ca. Ta còn đem vài giọt nước rót vào đại dương làm gì?
Có lẽ Hồ Dzếnh cũng rõ điều ấy, và vì lòng từ bi, ông bèn làm
thêm nhiều bài thất ngôn xoàng xoàng in xen lẩn vào. Cốt để che bớt cõi bao la
của đại dương. Nếu không làm thế, thì mặc nhiên lên án tử hình hết mọi thi sỹ
năm châu.
Ấy có nghĩa rằng: tập thơ Quê Ngoại của ông cho người đọc
nhìn ra ẩn ngữ thơ mộng của mặt đất chỗ này: một tâm hồn nhỏ dại, quanh quẩn với
những nhớ nhung nhõng nhẽo tâm tình bê tha, mỗi phút xuất thần kỳ ảo bỗng nhiên
nhảy vọt một bước lên tột đỉnh thiên tài, không có gì giải thích được.
Tiêu Quỳnh
Lần này gặp lại tâm hồn của hai non nước Thừa Thiên Hà Tịnh
giao thoa sương bóng.
Sương Bóng
Ngày qua tháng đưa năm về nguyệt
Tuyết rung rinh cự tuyệt thời gian
Đi qua hàng xóm xin hàng
Chữ trong nét bút đầu trang khuynh thành
Hẹn với nước màu xanh nguyên thủy
Góp chùm bông hương dị dị phai
Lời theo đẫm gió xuân dài
Đầu hôm cá biển cuối ngày chim non.
Mai Vân Thu
Tôi đọc lại nhiều lần mấy chục bài thơ của Mai Vân Thu, vẫn hồn
hộn ngạc ngạc như lần đầu. Tuyệt nhiên không thể xác định được tinh thể điệu
thơ của cô. Gắng hồi tưởng xem mình đã từng gặp điệu thơ ấy ở chân trời nào
chưa, vẫn quả như là chưa hề gặp. Thơ của cô có vẻ như màu xanh nước biển quanh
một vùng hải đảo nào tôi chưa có dịp tới. Hoặc như màu mây gió ở một hành tinh
nào không giống như ở trái đất chúng ta. Xin trích ra đây một vài bài.
Chiêu hoa
Chiêu hoa mạch mạch hai dòng
Trổ xum xuê ngọn ngoài trong như vàng
Lục thành tam nguyệt vừa toan
Tấm thanh sam cũ chìm tan sương đồng
Tiểu nhi ý nguyện như hồn
Còn trong ý tứ khuôn tròn đong đưa
Một rằng thốt một rằng thưa
Bình minh trăng mọc ngọn dừa ngủ say
Tỳ tử hát
Tỳ tử hát tiếng ngang lời dọc
Cho yên vui màu tóc nữ vương
Một mai má đỏ môi hường
Rẽ sang bến khác còn mường tượng nghe
Chấm ngòi bút sắt se vào mực
Viết ra câu thúc giục sương mù
To son điểm phấn hư phù
Bước ra bờ cõi đất trù hoạch chi
Vui nhất và buồn nhất
Có lẽ thơ nói được cái buồn nhất. Nhưng làm sao nói được nỗi
vui nhất? Nó như mây như khói, hay là như cái gì?
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Nhưng sao gọi là vui nhất? Có cái vui rộn ràng nhất. Nô nức
nhất. Hồi hộp nhất. Xao xuyến nhất. Cuống quýt nhất. Thanh bình tự tại nhất.
Nhưng sao gọi là nhất?
Ví đem vào sổ nhất trường?
Thì treo giải một mà nhường cho hai?
Cực độ của vui nhất, rất có thể khiến người ta vỡ toang linh
hồn, rồi chết mất. Thế thì trong bình sinh con người ta, không bao giờ có cái
gì gọi là nhất hết cả? Có lẽ…
Hölderlin
Cây trong rừng lớn mạnh mỗi cây
Cọp trong hang mỗi hang mỗi cọp
Tỳ tử ngậm bóng sương huếch hoác
Nữ vương đùa toe toét miệng môi
Ra đi hết đứng lại ngồi
Khung trăng lữ thứ trong đời cõi ma
Tam bành nhị bội tăng gia
Hàng chân chữ bát bước qua giậu rào
Chùm nộ phóng lũy hào phồn thịnh
Lam phù dung núng nính lưng tôm
Môi son miệng mở đỏ lòm
Diotima ạ, ngó dòm cái chi?
Sinh đã biệt thì ly luôn tử
Rượu hư vô nốc thử ly này
Hai hàng tay chắp trong tay
Mnemosyne ạ sau này gặp nhau.
(“Thơ Vịnh”)
Hàn Mạc Tử
Làm sao nói gì về Hàn Mạc Tử? Ông gào kêu trong thơ thảm họa
của đời ông. Mà đời ông là chỗ về tụ tập của mọi thảm họa nhân sinh.
Thơ ông là một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy
máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc
phách xiêu hồn.
Tôi không đọc thơ ông. Tôi đứng xa xa, người ta hỏi tôi về
thơ ông thì tôi xin đánh trống lãng.
Thơ tôi làm, một lần tôi tặng ông trong Mưa Nguồn - ngoài ra
mọi làn sóng bành bái trong mấy cuốn thơ của tôi chỉ là một cách dìu ba đào về
chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ
thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó
thác thảm họa trần gian mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay
về Sương Hy Lạp, ghé Clavaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về
đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá
phách mùa màng khoai sắn,thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn
chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dong phương trượng. Ni cô
xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao.
Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm
bao:
Một hôm đếm một ra hai
Lộn là lạ lắm lai rai bốn lần
Trăng Châu Thổ rất mực gần
Mà ra tại hạ vô ngần chiêm bao
Đinh Hùng
Chúng ta khóc như một bầy thú dữ
Lòng dã man nghe trái đất tan tành
Câu thơ như thế đủ giúp mọi người bước vào cung cấm Mê Hồn
Ca, chậm rãi đón nghe cái lời gì trong linh hồn vân thạch.
Tặng ông Đinh Hùng vài vần cảm khái:
Bị thường bách tân toan dự khổ
Ngọc vẫn hương tiêu tộ thử thân
Vẳng nghe hàng xóm lối gần
Chân đi gót bước cơ trần đa đoan
Hoàng hậu luống muộn màng công chúa
Nảy hoa xuân cùng múa lộn vòng
Ba thu càng lắc càng đong
Càng đầy tâm sự nỗi lòng càng vơi
Ngày ông còn sống, tôi gặp ông mấy lần. Câu chuyện cứ lạc
lõng âm thanh. Ông đánh mất ông, tôi đánh mất tôi. Không hề gì, không hề gì.
Tặng ông một bài nữa:
Tam thiên thủ lạc thiên trường đoản
Tiểu viên hương vũ loạn mông lung
Cuồng ca túy hậu điệp trùng
Diệu từ tiền diện bách tùng tiểu tiên
Hà xứ khán minh niên minh nguyệt
Thử sinh hòa thử tuyết thử sương
Vô thanh ngân hán đoạn trường
Mộ vân thu tận vô thường vân tiêu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét