LỜI NÓI ĐẦU
Năm 1935, hồi mới vào đời, làm ở Sở Thủy lợi Nam Việt, những
lúc lênh đênh trên kinh rạch miền Hậu Giang, nhớ mặt nước xanh rêu của Hồ Gươm,
con đê thăm thẳm của sông Nhị, tôi viết hồi ký, chép lại những hình ảnh của người
thân, những vui buồn của tuổi thơ và tuổi niên thiếu. Viết được khoảng sáu trăm
trang vở học trò, không có ý in thành sách mà chỉ để vài người thân đọc. Tập đó
còn lại được vài trăm trang, gần đây đọc lại, không có gì đáng giữ. Năm nay,
1980, gần tới lúc cuối đời; thực hiện xong chương trình biên khảo về triết học
Trung Hoa thời Tiên Tần - tập cuối cùng: Kinh Dịch, Đạo của người quân tử, hoàn
thành năm ngoái - cũng trong cảnh xa quê và người thân như 45 năm trước, tôi lại
viết hồi ký, cũng không có ý in thành sách mà chỉ để cho vài người thân đọc. Viết
lần này không say mê như lần trước, mà tôi chắc cũng không có gì đáng lưu lại.
Để qua những dư niên, thế thôi.
Chép sử, dù có tinh thần khách quan, khoa học tới mấy, dù tra
cứu được đủ tài liệu, dù đích thân được sống thời đại mình chép, thì cũng không
sao ghi đúng được sự thật. Chỉ có loại sử biên niên chép những biến cố, những
việc lớn xảy ra từng năm từng tháng, sắp đặt theo thứ tự thời gian mà không
thêm bớt gì hết, nhất là không phê bình hoặc ghi cảm tưởng của mình hay của người
trước, chỉ có loại đó là không sai, nhưng nó lại câm, không cho ta biết chút gì
về dân tình, không khí của thời đại, như vậy đâu phải là sự thật! Vì người chép
không thể nào ghi hết mọi việc được, tất phải lựa chọn, bỏ bớt, và nội công việc
đó cũng có tính cách chủ quan ít nhiều rồi. Cho nên tôi nghĩ không có gì là sự
thật thuần túy cả.
Chép hồi ký về đời mình, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ
nêu những cái hay của mình mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu
của mình ra thì nếu không phái do lòng tự cao, cũng là để tự biện hộ. Dù là tập
Confessions của J.J. Rousseau hay tập Autobiography của Bertrand Russel thì
cũng chỉ đáng tin một phần nào thôi.
Tôi lại nhận thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên,
tôi bỏ đi gần hết nhũng điều tôi đã chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây
nếu chép từ năm 1974, đầu năm 1975, thì nội dung tất khác bây giờ nhiều; nếu
trái lại tôi được sống đến năm 1985-90, và lúc đó mới chép thì nội dung cũng lại
khác, có thể khác xa nữa.
Tôi đã ghi một số biến cố, một số tình cảm, suy tư của tôi
lúc này về một số việc xảy ra trong đời tôi mà tôi đã được nghe hoặc thấy. Có
nhiều chỗ tôi đã vô tình chép sai sự thật, hoặc bỏ sót, điều đó không sao tránh
được, lỗi ở ký tính con người: nó bị tình cảm sai khiến; lại thêm ở tuổi 70 như
tôi, nó suy giảm nhiều rồi.
Một đời người 70 năm dài thật chứ! Có bao nhiêu việc tưởng
như ngẫu nhiên mà xét cho kỹ thì đều có ý nghĩa như đã được an bài từ trước để
mỗi người đóng cho xong vai trò của mình.
Ngày nay, ôn lại dĩ vãng, tôi thấy ngoài hai đấng sinh thành
ra tôi, và bà ngoại tôi; còn ba bốn vị nữa tiếp tay nhau dắt dẫn cho tới khi
tôi thành người, cứ vị này xong thì lại giao cho vị khác. Ra đời rồi, tôi được
hai người bạn cùng chia xẻ những khổ vui, thành bại với tôi; lại giúp mọi việc
nhà cho, để tôi có thể đem tất cả tâm trí vào việc trứ tác.
Hai hạng người trên đều ảnh hưởng rất lớn đến đời tôi, đều là
ân nhân của tôi. Tiếng ân nhân này tôi thấy nhẹ quá, vì ân nhân hàm cái nghĩa
là người khác với mình, còn những người thân của tôi đó đều tạo nên tôi, là một
phần của tôi.
Ngoài ra, tôi lại may mắn gặp được khoảng một chục bạn cùng
đi một quãng đường dài hay ngắn với tôi, hợp tác với tôi mỗi người một cách; và
một số khá đông bạn bốn phương kẻ xa người gần; nhiều người tôi không biết mặt
mà cũng không biết cả tên, nhưng hết thảy đều theo dõi con đường của tôi, gợi ý
cho tôi hoặc khuyến khích tôi, khiến tôi vững bước - cái duyên đó, duyên văn tự,
thật bất ngờ mà thích thú, không bao giờ tôi quên được.
Tính sổ đời, tôi chỉ mừng rằng đã không làm gì khiến các bậc
trưởng thượng của tôi phải xấu hổ và các bạn của tôi phải thất vọng.
Long Xuyên, ngày 12 tháng 9 năm 1980
(Mùng 4 tháng 8 năm Canh Thân)
(Ngày giỗ ông Nội tôi)
PHẦN I - SINH TRƯỞNG VÀ HỌC Ở BẮC (1912-1934) CHƯƠNG 1 - NƠI
SINH VÀ TỔ QUÁN
MỘT CÂU THƠ CỦA TÂN KHÍ TẬT
Hai năm trước, hai ông bạn tôi đều trên dưới thất tuần, một ở
Paris, một ở Gia Định gần như cùng một lúc nhắc đến câu thơ này:
Vạn sự qua như mây khói mà tôi đã dịch của Tân Khí Tật: "Vạn sự vân yên hốt
quá" trong bài Tây giang nguyệt. Câu đó ở thế kỷ XII, đời Tống đã là sáo rồi,
vậy mà thời này đọc lên chúng tôi vẫn xúc động, buồn mang mang. Nghĩ cho kỹ,
khó kiếm được một hình ảnh nào diễn đúng được cái ý trong câu đó hơn nữa.
Lịch sử nhân loại ngày nay tiến với một tốc độ siêu thanh.
Các thế kỷ trước, hoàn cầu như mặt hồ thu lâu lâu gợn sóng; qua thế kỷ này
thành một mặt biển trong cơn giông tố. Khoan nói tới thế giới, chỉ xét riêng nước
ta: Thời biến động nhất trong lịch là thời cuối Lê. Trong 30 năm anh em Tây Sơn
nổi lên dẹp họ Nguyễn ở Nam, diệt họ Trịnh ở Bắc, đuổi quân Thanh về Tàu, chấm
dứt nhà Lê, nhưng thống nhất quốc gia mới được mấy năm thì giang sơn đã về họ
Nguyễn ở Nam. Biến cố dồn dập, khiến Phạm Thái thời đó phải than thở:
Ba mươi tuổi lẻ là bao tá,
Năm sáu đời vua thật chóng ghê!
Chúng ta ở thời này, cũng chỉ trong 30 năm, từ 1945 đến 1975
đã chứng kiến biết bao sự thay đổi. Chúng ta đã thấy ba bốn trào thực dân cũ và
mới: Pháp rồi Nhật, rồi lại Pháp, sau cùng là Mĩ; non chục đời thủ tưởng - cũng
không khác chi đời vua thời Phạm Thái - hai cuộc cách mạng với hai cuộc đảo
chánh hụt; cổ nhân chỉ đuổi quân Thanh, chúng ta đã đuổi Pháp, đuổi Mĩ, đuổi
Miên rồi bây giờ lại phải đương đầu với Trung Hoa nữa; chúng ta đã biết xã hội
nông nghiệp của tổ tiên, xã hội tư bản rồi xã hội kỹ nghệ của phương Tây, lại
được thấy hình ảnh xã hội hậu kỹ nghệ - cũng gọi là xã hội tiêu thụ của Mỹ. Còn
chế độ chính trị thì chúng ta từ quân chủ dưới quyền thực dân chưa kịp tiến lên
quân chủ lập hiến đã nhảy qua chế độ dân chủ Tây phương, rồi bây giờ là chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Tôi không biết các bạn năm đã 50 tuổi trở lên, mục kích những
biến chuyển đó có hãnh diện được làm chứng nhân trong một thời đại cực kỳ quan
trọng của lịch sử nước nhà không; có vui hoặc buồn rằng mình đã đóng góp hoặc
không đóng góp được chút gì trong thời đó không; nhưng tôi chắc người nào cũng
phải nhận rằng mọi sự qua mau quá, như mây khói và ôn lại thì không khác chi đã
sống trong một giấc mộng.
Tôi sinh ngày 20 tháng 11 ta, giờ Dậu, năm Tân Hợi 1 (nhằm
ngày 8 tháng 1 năm 1912 2 nhưng khai sinh ghi là 8-4-1912), ở nhà số 4 ngõ Phất
Lộc, Hà Nội.
Năm Tân Hợi là năm có cuộc cách mạng đầu tiên ở Trung Hoa
(ngày 10-10-1911) mà ngày nay người ta gọi là cuộc cách mạng tiểu tư sản; cuộc
cách mạng sau, năm 1949, là cuộc cách mạng vô sản. Tới nay, sau non 70 năm,
Trung Hoa cũng có biết bao cuộc cách mạng lớn lao như Việt Nam, nhưng xét về mức
sống của nhân dân thì gần như không có gì thay đổi, khiến tôi nhớ lời một chính
khách phương Tây nói mươi năm trước ở Sài Gòn trước một nhóm trí thức Việt Nam:
"Muốn biết một xã hội hai mươi năm nữa ra sao thì cứ coi xã hội đó lúc
này, sẽ không có thay đổi gì lớn đâu". Lời đó trước tôi cho là bi quan,
nay tôi thấy có phần đúng và bên cạnh những cái biến chuyển rất mau khiến Tân
Khí Tật và Phạm Thái phải than thở, cho ta thấy nhiều cái gần như không thay đổi
gì cả. Xã hội Trung Hoa bây giờ tương đối quân bình hơn thời trước, không còn sự
cách biệt quá lớn giữa người giàu và người nghèo, không còn nạn chết đói hăng
triệu người như dưới thời quân chủ; nhưng mức sống của nhân dân sau ba chục năm
cách mạng vô sản vẫn rất thấp: không chết đói chớ vẫn thiếu ăn, thiếu mặc, ăn
thì ăn độn, quanh năm chỉ có món bắp cải như ở mình món rau muống, mặc thì mỗi
năm mỗi người được phát cho không tới một thước vải, mà vải hầu thì hầu hết là
màu lam. Xã hội mình ở Bắc khá hơn họ một chút, nhưng đại khái cũng vậy. Đó là
một sự bất biến chung cho các nước kém phát triển trong cuộc đại biến của nhân
loại. Còn nhiều sự bất biến nữa trên thế giới: sự bất quân, bất bình đẳng giữa
các nước phát triển mạnh và "thế giới thứ ba" ở Á, Phi, đời sống xa xỉ
của Âu, Mĩ: sản xuất cho nhiều để hưởng thụ cho thích, và hưởng thụ thật phí phạm
để có thể sản xuất được nhiều; rồi tinh thần tranh giành nhau ảnh hướng giữa
các nước mạnh, sự ganh đua chế tạo vũ khí mỗi ngày một mới hơn, mạnh hơn, tàn
sát được nhiều hơn...; nhưng ở đây tôi không muốn bàn đến vấn đề đó, mà chỉ muốn
ghi lại ít cảm nghĩ liên miên của tôi do một câu thơ của Tân Khí Tật gợi nên.
NƠI SINH TRƯỞNG: NGÕ PHẤT LỘC
Ngõ Phất Lộc, nơi tôi sinh cũng là một cái bất biến, nhưng thứ
bất biến này có điểm khả ái: nó là di tích của một thời cổ, may mắn không bị
tàn phá, nên tôi muốn ghi lại vài nét ở đây sợ một ngày kia, hai ba thế hệ nữa,
nó cũng sẽ qua "như mây khói".
Từ ngày nước nhà thống nhất đến nay, tôi chưa có dịp ra Hà Nội,
nhưng theo các bạn tôi ở ngoài đó thì nó vẫn như hồi tôi còn đi học nửa thế kỷ trước.
Nằm sau lưng phố Bờ Sông (Quai du Commerce), đầu trông ra Cột
đồng hồ ở bờ Sông Nhị, đuôi trở ra phố hàng Mắm, ngõ Phất Lộc rất hẹp độ hai
thước, dài non hai trăm thước, lát đá gồ ghề, chỉ có một dãy nhà nhìn ra phía
sau một dãy nhà mới hơn, cao hơn ở sát ngay trước mặt. Đã không có gì đẹp mà lại
bẩn thỉu nữa, chỉ có đặc điểm là cổ.
Nhà nào cũng xây cất có lẽ từ thời Tự Đức, thấp hơn mặt đường
khoảng một thước - vì đường được đắp sau - và từ đường phải xuống ba bốn bực gạch
mới vào được phòng ngoài. Thời xưa có vài nhà bằng lá, nhưng từ hồi tôi lớn lên
thì nhà nào cũng bằng gạch. Nhà đa số hẹp, chỉ hai ba thước, và sâu có chỗ tới
trên 30 thước. Đi ngoài đường nhìn vào thường thấy một căn phòng hun hút thấp
kê một án thư với hai tràng kỷ hai bên, và một ông già ngồi với chiếc điếu thuốc
lào mà xe điếu là một cần trúc uốn cong. Trước năm 1930 thỉnh thoảng còn thấp
thoáng một thiếu nữ mảnh khảnh, trắng trẻo, xanh xao, ăn mặc theo lối cổ, tóc để
đuôi gà, từ phía trong đi ra nhà ngoài rồi lại trở vào ngay. Những nhà đó vào hạng
khá phong lưu, chủ nhân là một ông phán hay một ông đồ. Nhà nào cũng có sân nhỏ
ở trong, trồng cây cảnh; tường hai bên xây thành từng bực đi xuống như cầu
thang, tôi nhớ như chỉ có một nhà là có tường thấp phía trước, từ trong ló ra một
ngọn cây đào, cây lựu hoặc khế, và khách qua đường không thể không ngừng bước
trước cánh cửa đóng kín mà tưởng tượng vẻ yêu kiều, thướt tha của một hai thiếu
nữ chơi với em nhỏ ở phía trong.
Ngõ có một ngôi đền kiến trúc sơ sài, cửa gỗ luôn luôn đóng,
trên cửa là một mái nhỏ với một bầu rượu lớn ở giữa. Tôi chỉ vô đền có một hai
lần thuở nhỏ, thấy sân khá rộng nhưng rất vắng, vắng cả bóng ông từ. Ông lủi thủi
như một bóng ma, không ai thấy ông ra khỏi đền. Tôi không biết đền thờ ai mà
quanh năm cơ hồ không có người đến lễ. Lạnh lẽo mà buồn, nên tụi nhỏ chúng tôi
chỉ ghé mắt nhìn vào chỗ thờ phụng tối om om rồi chạy ra liền.
Hai căn nhà số 2 và số 4 ở đầu ngõ do cụ ngoại tôi cất trong
đời Tự Đức (không rõ năm nào) có thể tiêu biểu cho những ngôi nhà cổ tương đối
phong lưu ở Hà Nội. Mái ngói, tường gạch, rui, cột, xà đều bằng danh mộc, năm
sáu chục năm không mọt. Ngôi nhà số 2 chiều ngang ba thước, chiều sâu 32 thước,
ngoài đường bước vào là một căn bếp thấp hơn mặt đường ba bốn tấc, qua khỏi bếp,
xuống ba bốn bực nữa, tới nhà trong thông thống từ trước tới sau, không ngăn
thành từng phòng; có một sân nhỏ mỗi chiều chừng hai thước cho nhà khỏi tối; tiến
vô sâu nữa, gặp một sân dài bốn thước và choán hết chiều ngang của nhà, sân đó
có một bể con chứa nước. Gần cuối nhà có một khúc quẹo qua bên trái thuộc về
nhà số 4, rộng hai thước rưỡi, sâu mười thước, gồm hai phòng 2,5x3 thước, cách
nhau bằng một cái sân dài bốn thước.
Nhìn bản đồ, chúng ta thấy hai ngôi nhà thông với nhau bằng cửa
A đó, thật là ngoắt ngoéo như một mê thất, không tiện cho người thường ở, mà rất
tiện cho các nhà làm cách mạng. Trong cuốn Đông Kinh Nghĩa Thục tôi đã nói các
bác tôi dùng căn nhà số 2 làm chỗ tiếp các đồng chí - Nói đôi khi vài nhà cách
mạng Trung Hoa, và giấu các đồ quốc cấm: sách, báo, truyền đơn, súng lục. Mật
thám của Pháp tới xét thì mới còn mò từng bước ở nhà ngoài, các cụ ở nhà trong
đã kịp trốn hoặc chuyển đồ qua nhà số 4 bằng cửa C, xong rồi khóa trái cửa đó lại;
từ nhà số 4 có thể leo tường qua nhà bên cạnh được. Nhưng trong thời các cụ hoạt
động (1906-1910), mật thám không tới xét lần nào cả. Thời đó hai ngôi nhà của
chúng tôi thật là nơi kín đáo, lý tưởng. Tôi nghe nói cuối năm 1946, đầu năm
1947, các nhà ở ngõ Phất Lộc đều đục tường thông với nhau để tự vệ quân dễ dàng
lưu thông mà chống Pháp, sau cùng rút lui về phía cầu Long Biên, vượt sông Nhị,
qua bên Gia Lâm.
TỔ QUÁN: LÀNG PHƯƠNG KHÊ
Tôi sinh trưởng ở Hà Nội, nhưng tổ quán ở Sơn Tây, phủ Quảng
Oai, làng Phương Khê, nay là tỉnh Hà Sơn Bình (Hà Đông - Sơn Tây - Hòa Bình hợp
lại), huyện Ba Vì, làng Phú Phương (Phương Khê với Phương Châu hợp lại).
Phương Khê nằm trên hữu ngạn sông Hồng Hà, cách khoảng năm cây
số về phía Bắc phủ lị Quảng Oai, và hai cây số về phía Nam bến đò Vân Sa, bến
này đối diện với Việt Trì.
Sơn Tây là một tỉnh trung bình ở Bắc Việt, không giàu mà cũng
không nghèo, từ xưa tới nay ít khi bị nạn đói như Thái Bình, Hưng Yên, vì dân
tương đối thưa thớt. Phương Khê lại là một làng trung bình - có phần hơi nhỏ -
trong tỉnh Sơn Tây; so với các làng chung quanh thì kém Vân Sa (nơi có tiểu
công nghệ nuôi tằm, dệt tơ) và Phú Xuyên (nơi giàu có nhờ nhiều ruộng); nhưng lớn
hơn làng Hạc Sơn (ít ruộng, dân đông).
Làng có một ngôi đình và một ngôi chùa nhỏ. Năm 1920 điền và
thổ được hơn trăm mẫu ta (mỗi mẫu là 3.600 mét vuông), khoảng 30 héc ta; số
đinh (trai tráng) độ 300; số gia đình (hộ) khoảng 200, như vậy mỗi gia đình
trung bình 5 người được nửa mẫu ta (1.800 mét vuông). Họ Phùng lớn nhất được độ
200 đinh, rồi tới họ tôi, độ 60 đinh, còn những họ khác chỉ có từ 10 đến 30
đinh.
Ruộng phần lớn là ruộng mùa, phần nhỏ là chiêm. Ngoài lúa ra
chỉ trồng ít khoai lang và đậu. Không có công trình thủy lợi, gặp lúc nắng hạn
phải tát nước từ một lạch nhỏ, hẹp mà sâu, nhưng cạn, đưa lên thước rưỡi mới tới
mặt ruộng.
Không có một tiểu công nghệ nào, không có chợ, không ai buôn
bán gì; vườn lại ít, cho nên quanh năm gia đình nào cũng chỉ trông vào mấy thửa
ruộng. Gia đình giàu nhất, làm tiên chỉ, chỉ có sáu mẫu ta (khoảng hai héc ta);
có nào có được ba mẫu như gia đình ông bác tôi kể là đã có máu mặt. Nhà nào
cũng có tháng phải ăn độn (ngô, khoai) kể cả hạng giàu nhất, chỉ trừ nhà bác
tôi vì cụ có nghề dạy học, trước làm ông đồ, sau làm Hương sư, lương tháng năm
1930 là 10 đồng.
Về phong tục, làng tôi cũng có đủ những hủ tục và thói xấu
như các làng khác ở Bắc Việt mà Ngô Tất Tố, Nam Cao, Tô Hoài, Trần Tiêu... tả
trong các tiểu thuyết tiền chiến: cũng ham ngôi thứ, ham ăn uống những khi có
việc làng, cũng cho vay nặng lãi, cũng phe đảng, lớn hiếp bé, cũng tranh giành
nhau, gian lận từng tấc đất, tấc vườn, từng gầu nước, gốc lúa; cũng bạc ác giả
dối, phản phúc, nhỏ nhen...(tôi nói số đông). Dân tộc nào, thời nào hễ nghèo
đói thì cũng như vậy hết. Nhưng vì trong làng không có người giàu quá, cũng ít
kẻ nghèo tới nỗi không có cái bát mẻ, cho nên những cái xấu xa kể trên so với
các làng khác cũng vào mực trung. Không có kẻ hống hách quá, cũng không có kẻ
hung tợn. Sự bóc lột, lừa gạt lẫn nhau không quá tàn nhẫn, trắng trợn.
Cả làng chỉ có bốn năm gia đình đi làm ăn nơi xa: hoặc xuống
Hà Nội sinh sống như nhà tôi, hoặc lên Hoàng Xá, chợ Bờ (Hưng Hóa) buôn bán,
làm rẫy. Những gia đình đó, tết nhất vẫn trở về làng, vẫn nộp thuế cho làng,
nhưng không dự việc làng. Họ thường đủ ăn; vì ra ngoài biết nhiều hơn nên tổng
lý nêu nể thì cũng không ăn hiếp họ.
Về văn học, làng tôi kém hai làng Phú Xuyên và Vân Sa, nhưng
hơn mấy làng khác trong tổng, nhờ có gia đình tôi.
Từ giữa thế kỷ 18 đến đầu thế kỉ 20, làng tôi chỉ có mỗi một
cụ Tú, tức ông nội tôi, và trong nửa đầu thế kỷ 20 cũng chỉ có một mình tôi tốt
nghiệp đại học.
Về kiến trúc, Phương Khê chỉ có một ngôi đình, một ngôi chùa
nhỏ hơi cổ, độ trăm năm và một từ chỉ thờ Khổng tử, cất giữa đồng sau khi ông nội
tôi đậu tú tài; từ khi cụ mất, trong làng không còn ai là khoa bảng nữa, nên
không cúng tế nữa, bỏ hoang. Vân Sa, Phú Xuyên có những kiến trúc lớn hơn, cổ
hơn; nhất là làng Hạc Sơn, giáp làng tôi về phía bắc, có một ngôi đình nhỏ
nhưng rất đẹp, cột, rui, mè chạm trổ rất khéo, được liệt vào hàng cổ tích đáng
bảo tàng của Quốc gia.
Phong cảnh Phương Khê còn tầm thường hơn nữa. Con đê Hồng Hà
từ phủ Quảng Oai lên Vân Sa, cắt đôi làng tôi: bên phải là bãi, ở phía ngoài
đê, ruộng tốt nhưng năm nào tới tháng 7, mùa nước lớn cũng bị ngập nhiều hay
ít, bên trái là đồng ở phía trong đê, ruộng trung bình không bị ngập. Tương truyền
khoảng cuối thế kỷ 18, phía đồng có tới 72 cái gò, sau bị san bằng lần lần để
làm ruộng, và khi tôi lớn lên chỉ còn năm sáu cái: cái lớn nhất, cao hơn mặt ruộng
non một thước, dài vài 30 thước, rộng 7, 8 thước, bỏ hoang, gọi là gò Cá vì giống
hình một con cá, đuôi hưởng về mộ tổ cụ Lê Anh Tuấn (1671-1736) ở làng Thanh
Mai, giáp làng tôi về phía Tây. Cụ nổi tiếng thần đồng, đỗ tiến sĩ năm 1694,
làm tới chức tham tụng thời Trịnh Cương, nhận Đoàn Thị Điểm (1705-1746) làm con
nuôi vì thấy bà thông minh. Cụ rất thanh liêm, cương trực, văn thơ hay; nhưng
sau bị Trịnh Giang hãm hại (có sách nói là buộc phải tự tử) vì khi Trịnh Cương
muốn lựa Trịnh Giang làm thế tử, cụ biết Giang hoang dâm, tàn bạo, khuyên Trịnh
Cương lựa người khác, Cương không nghe. Các nhà phong thủy (xưa gọi là địa lý)
cho rằng tại kiểu đất mộ tổ của cụ tuy đẹp nhưng bị gò con Cá vẫy đuôi vào nên
cụ hiển đạt nhưng bất đắc kỳ tử.
Ngoài gò đó ra, các gò khác chi cao hơn mặt ruộng 1, 2 tấc,
dài năm ba thước như gò Mèo, nơi có mộ tổ chi chúng tôi.
Cả một cánh đồng dài, rộng mấy cây số mà không có một ngọn đồi,
một cây cao như cây đa, cây gạo, toàn là ruộng lúa. Chỉ ở chân trời phía bắc có
ngọn núi Hùng, phía tây có dãy núi Lưới Liềm, dài mà thấp; và phía tây nam có
núi Tản Viên, hết thảy đều cách xa làng tôi từ 15 đến 25 cây số, là làm cho
phong cảnh bớt tẻ.
Núi Tản, cao nhất và đẹp nhất. Hình dáng, nhất là màu sắc lúc
xám, lúc xanh nhạt, xanh đậm hoặc tím có sức thu hút tôi lạ lùng. Nó cũng có
tên là Ba Vì, vì có ba ngọn núi nhọn, cao đều nhau; ngọn thứ ba ở phía bắc khuyết
một mảnh, tương truyền là sau một lần sụp núi thời Lê Mạc, báo hiệu một thời vận
suy của dân tộc. Thật đáng tiếc, nếu không thì có lẽ không núi nào vừa thanh tú
vừa hùng vĩ uy nghi như núi đó, Phú Sĩ sơn ở Nhật cũng không bằng được.
Tháng 6 âm lịch, trời Bắc Việt thường trong mà cơ hồ không
lúc nào không có một đám mây trắng vắt ngang làm nổi bật màu xanh lam đậm của
núi trên nền trời thanh thiên và trên một cánh đồng màu lá mạ. Đứng ở dưới gốc
muỗm, tại cổng xóm, tôi nhìn thấy rõ mồn một những vạch trắng như những ô nhỏ
hình chữ nhật, tức dãy nhà nghỉ mát trên núi. Thỉnh thoảng một đàn cò vẫy cánh
bay qua đầu tôi, tiến về phía núi và tôi ao ước được như chúng.
Khi ánh tà dương đã tắt hẳn, núi đổi ra màu tím đen thì ở
lưng núi hiện lên những đám lửa hồng chập chờn, nhấp nháy của người dân tộc đốt
rừng làm rẫy; tôi tưởng đâu như một dạ hội của quần tiên, và núi lúc đó có vẻ
huyền bí nhắc cho tôi huyền thoại thần Tản Viên từ mấy ngàn năm trước.
Ở Hà Nội, mỗi khi nhớ quê hương, tôi thường lựa một ngày
trong sáng lên đường Cổ Ngư - nay là đường Thanh Niên - nhìn ngọn núi Tản sau
làn nước nhấp nhô, bên kia Hồ Tây, phía làng Bưởi, nhưng ở đây nó kém cao mà
màu kém tươi nhiều lắm.
Một cảnh nữa tôi cũng lưu luyến là cảnh sông Hồng ở bến đò
Vân Sa qua Việt Trì.
Phải qua sông vào mùa nước đổ - tháng 6, tháng 7 âm lịch - mới
thấy được sự bát ngát, hùng vĩ của núi sông. Chỗ ngã ba Bạch Hạc này - một nơi
danh tiếng trong lịch sử - đã được Nguyễn Bá Lân (1701-1785), một ông nghè làng
Cổ Đô làm thượng thư đời Lê, tả trong bài phú Nôm bất hủ "Ngã ba Hạc":
Xinh thay ngã ba Hạc; lạ thay ngã ba Hạc.
Dưới hợp một dòng; trên chia ba ngác.
Ngóc ngách khôn đo rộng hẹp, dòng biếc lẫn dòng đào;
Lênh lang dễ biết nông sâu, nước đen pha bạc.
Sông vào mùa lụt rộng mênh mông, có tới ba cây số, nước chảy
băng băng và ta liên tưởng tới câu: "Đại giang đông khứ" của Tô Đông
Pha. Chiếc thuyền thúng chỉ dài hai ba thước bập bồng tránh làn sóng không khác
chi một cánh bèo. Phải ngược dòng một khúc xa rồi mới qua sông, có khi mất hai
giờ mới tới bờ bên kia. Cây gạo cổ thụ trơ trọi, gốc lớn không biết mấy ôm,
cùng với nhà cửa ở Việt Trì nhô lên lần lần.
Cảnh ở đây sao hợp với cảnh trước Phượng Hoàng đài ở Kim Lăng
thế:
Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại,
Nhị thủy trung phân Bạch lộ châu.
Lý Bạch
Ba non 3 rớt nửa ngoài trời biếc,
Hai nước chia đôi bãi Lộ 4 bồi.
Cũng hai dòng nước: dòng sông Đà (quê hương Tản Đà ở trên bờ
con sông này) nước trong veo và dòng sông Hồng cuồn cuộn nước đỏ như son, cũng
một bãi cò trắng (bạch lộ), tức bãi Vân Sa chạy lên tới Chiểu Dương, nơi có một
vườn vải danh tiếng nằm sát bờ sông, dài mấy cây số còn núi thì phía tây nam có
ba ngọn núi Tản, phía bắc có ngọn núi Hùng. Kim Lăng là cố đô của Trung Hoa,
thì đây trên bờ con sông Hồng này có làng Cổ Đô (không rõ là kinh đô thời nào),
lại có huyện Bạch Hạc, xưa là đất Phong Châu, nơi Hùng Vương đóng đô. Nỗi hoài
cổ của ta bát ngát như dòng sông.
Sông Hồng và núi Tản thật hùng vĩ xứng nhau, mà lại ở gần
nhau như vậy thì dây chính là đất thiêng của dân tộc; tổ tiên ta lựa nơi đây
làm nơi phát tích thì dòng giống tất trường cửu và uy hùng như sông núi.
Trường cửu thì nhất định là trường cửu, uy hùng thì đã có nhiều
thời rất uy hùng, nhưng cho tới bây giờ, thời nào dân chúng cũng nghèo, nghèo
quá. Năm 1930, làng tôi có khoảng 200 nóc nhà thì chỉ có độ mươi nhà ngói, còn
toàn là nhà tranh vách đất.
Nhà thờ của chi chúng tôi do cụ tổ bốn đời của tôi cất vào thời
1840-1850, có thể tiêu biểu cho những ngôi nhà gọi là phong lưu ở nông thôn Bắc
Việt thời Tiền chiến, nên tôi cũng ghi lại dưới đây vài nét.
Cũng vẫn là kiểu nhà ba gian hai chái rất thông dụng, chỉ
khác mái ngói, tường gạch dày 10 phân. Ba gian ở giữa thông với nhau, không có
vách ngăn, mỗi gian rộng hai thước, sâu năm thước, gian giữa là bàn thờ, hai gian
bên kê giường, án thư, với bốn chiếc ghế dựa, và một cái hòm (rương) lớn, cao để
chứa những đồ vật hơi có giá. Hai chái hai bên hẹp hơn, chỉ độ một thước rưỡi,
một chái là phòng của đàn bà, một chái dùng làm kho chứa thực phẩm. Hai chái đó
có vách gỗ ngăn cách với ba gian giữa. Không có cửa sổ. Phía ngoài hiên rộng
khoảng thước rưỡi, kê được hai bộ phản, một ở giữa làm chỗ dạy học và tiếp
khách, một ở bên trái làm chỗ ăn; bên phải dựng một bồ lúa. Một dãy cửa gỗ ngăn
cách hiên với các gian, chái.
Hai bên nhà, cách đầu nhà độ vài thước là hai căn nhà lá nhỏ,
một ở bên trái làm bếp, một ở bên phải làm phòng khách. Cối xay lúa đặt ở trong
bếp, cối giã gạo đặt ở bên hông bếp.
Cả nhà lẫn vườn, rộng non hai sào (mỗi sào 360 thước vuông).
Hai sào nhà, vườn đó với ba mẫu ruộng là sản nghiệp các cụ
tôi xây dựng trong khoảng một trăm năm, ba đời liên tiếp; vậy mà khi suy, sau
ngày bác Hai tôi mất thì chỉ trong mười năm, hai người con trai lớn bán hết,
không chừa một chút gì. Việc này tôi sẽ kể kỹ hơn trong chương VII.
Chú thích:
Chú thích:
1. Đổi ra bát tự, bốn can bốn chi để lấy số Tử bình hay Hà Lạc
thì tôi sinh năm Tân Hợi, tháng Tân Sửu, ngày Quý Mùi, giờ Tân Dậu.
2. Trong phần này tôi tính theo tuổi ta, vì tôi sinh gần cuối
năm âm âm lịch.
3. Trỏ dãy núi phía nam thành Nam Kinh.
4. Tên một bãi nay trong thành Nam Kinh.
CHƯƠNG 2 - TỔ TIÊN
TRUYỀN THỐNG VÀ MÔN PHONG THỦY
Trong xã hội ta ngày xưa, gia đình nào cũng gốc gác nhà nông
và tuy có bốn giới: sĩ, nông, công, thương, nhưng có thể gom làm hai: sĩ và
bình dân (nông nhiều nhất, công, thương rất ít) ít học. Sĩ và bình dân trà trộn
với nhau, chứ không cách biệt: trong một gia đình, có thể một người con là sĩ
còn ba bốn người khác là bình dân; hơn nữa một người là bình dân, ít năm sau có
thể trở thành kẻ sĩ. Một gia đình bình dân, nếu làm ăn phát đạt do cần kiệm, có
dư một chút mà biết trọng sự học, quyết tâm nuôi con ăn học thì tới đời con hay
đời cháu thế nào cũng có được một vài kẻ sĩ; đã có một thế hệ là sĩ rồi thì các
thế hệ sau rất dễ nối được nghiệp sĩ; nói cách khác là cha đã đỗ ông cử, ông tú
thì con cháu cũng dễ thi đỗ, một phần nhỏ do di truyền, phần lớn do không khí học
hỏi trong nhà, do kinh nghiệm và sự dạy dỗ của ông cha. Gần đúng như câu:
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa lại quét lá đa
Ở thời đại dân chủ, bình đẳng ngày nay, khắp thế giới đâu đâu
cũng vậy: thanh niên trong các gia đình trí thức (giáo sư, luật sư, kỹ sư...)
hay cán bộ cao cấp vô đại học vẫn đông hơn thanh niên trong các gia đình nông
dân hay thợ thuyền ít học, chính là do ảnh hưởng kể trên trong gia đình. Không
phải là các gia đình trí thức có nhiều con thông minh hơn đâu, lấy số đông thì
tỷ số trẻ thông minh trong giới nào cũng ngang ngang nhau: từ 10 đến 20 phần
trăm (tùy cách định nghĩa thế nào là thông minh). Chỉ nhờ được hoàn cảnh tốt
hơn, có nhiều phương tiện tốt hơn để học nên họ thành công hơn, vô đại học dễ
dàng hơn thế thôi.
Cổ nhân rất tin môn phong thủy - xưa gọi là địa lý - có kinh
nghiệm hằng ngàn năm, lưu lại nhiều sách; chúng ta ai cũng được nghe nhiều truyện
để đất rất linh nghiệm. Tôi hồi niên thiếu cũng đã được một ông bác dắt đi coi
vài kiểu đất phát ở quê hương, như kiểu đất mộ tổ cụ Lê Anh Tuấn đã kể trên; rồi
lớn lên, trong một hồi thất nghiệp, đã bỏ ra vài tháng đọc hết bộ Địa lý hám
giá 1 nhưng tôi phải thú thực rằng ra ngoài đồng thì không sao nhận ra được
"long mạch" mà bác tôi chỉ cho cả. Tuy nhiên tôi cũng không dám ngờ rằng
cổ nhân hoàn toàn bịa đặt, vì không ai bịa ra cả một môn học đầy đủ lý thuyết,
chứng cứ, khiến cho biết bao người trong cả ngàn năm tin tưởng, nếu nó hoàn
toàn sai. Hơn nữa có nhiều chuyện ứng nghiệm, cổ nhân kể lại mà tôi không thể
ngờ rằng các cụ đặt ra để biện minh một cách hậu nghiệm (a postériori) một thuyết
trong sách, chẳng hạn chuyện ngôi mộ thủy tổ họ Nguyễn Triệu Luật trong cuốn
Ngược đường Trường Thi.
Theo các bác tôi kể lại thì gia đình chúng tôi khá nhất trong
họ, trong làng, phát về văn học là nhờ hai ngôi mộ kết: ngôi cụ tổ sáu đời của
tôi ở Gò Mèo được kiểu "bút gối sau đầu, học giỏi mà không đậu"; và
ngôi cụ tổ năm đời của tôi ở Gò Dù phát phú quý, nhưng con cháu phải ly hương
và càng xa càng tốt. Một điều lạ lùng tôi không sao hiểu nổi là có lần các bác
tôi lấy một cục đất ở ngôi mộ Gò Dù đem lên Trung Hà, trên bờ sông Đà, cách
làng tôi 15 cây số, nhờ một thầy bói mù nổi tiếng gieo cho một quẻ xem ngôi mộ
đó có "động" không, thì thầy bói đó không hề quen biết gia đình tôi,
bảo ngôi đó không động mà kết, nhưng con cháu phải đi xa mới khá (y như lời thầy
địa lý đã nói) vì hào tử tôn (con cháu) không hiện trong quẻ, mà trong nhật tuần
nguyệt kiến, tức trong ngày tháng coi quẻ.
Hai cái gò đó, chỉ một cái năm 1945 còn nhận ra được vì cao
hơn mặt ruộng độ hai tấc, còn một cái thành ruộng rồi, không cao hơn các ruộng
chung quanh. Nếu là đất kết thì chỉ kết nhỏ thôi: vài cụ nổi tiếng học giỏi
trong tổng nhưng thi rớt, một cụ đậu tú tài và tới đòi tôi thì hai ông anh con
bác tôi hơi nổi tiếng về văn thơ, nhưng không đỗ đạt. Tôi xuất thân đại học ở
Hà nội, con tôi xuất thân một trường lớn (Grandes écoles) ở Paris, trường
Hautes Etudes Commerciales. Bảo là nhờ kiểu đất thì cũng được. Nhưng tôi thì
tôi cho là nhờ công các cụ chúng tôi rẩt săn sóc sự học của con cháu, mà gia
đình nào có được truyền thống trọng học đó thì kết quả cũng đạt được như vậy,
không sớm thì muộn. Tôi tin ở sức người hơn.
CÁC BÁC TÔI
Ông bà tôi sinh được bốn người con trai.
Con cả tên là Nhuận, hiệu là Tùng Hương, thông minh, văn thơ
hay nhưng ghét khoa cử, không chịu cưới vợ, gia nhập Đông Kinh nghĩa thục rồi
sau lẻn qua Trung Hoa, theo cụ Phan Bội Châu, chết ở đâu, năm nào, không rõ.
Người thứ nhì tên là Cổn, tự Đạo Quýnh, hiệu là Kế Phương học
cũng khá, không thi cử, giữ tổ nghiệp ở Phương Khê, suốt đời dạy học, mới đầu
làm tổng sư, sau làm thầy đồ dạy tại nhà, cuối cùng là hương sư, mất năm 1933.
Người thứ ba tên là Cổn, hiệu là Phương Sơn, thông minh, có
văn tài nhất, thi Hương một khoa, rớt, rồi bỏ luôn, gia nhập Đông Kinh nghĩa thục,
làm rể cụ Lương Văn Can, thục trưởng, sau lẻn vào Nam Kỳ, đổi tên là Khôn, định
tiếp tục hoạt động mà không được, mất năm 1960 ở Chợ Thủ (Long xuyên).
Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục tôi đã chép hoạt động của ông
Cả và ông Ba; ngôn hành ông Hai tôi cũng ghi rải rác trong cuốn Tổ chức gia
đình, Tựa cuốn Cổ văn Trung Quốc, cuối cuốn Nhà giáo họ Khổng.
Người con thứ tư tên là Bí, hiệu là Đặc Như, tức cha tôi.
Chú thích:
1. Nghĩa đen là "Địa lý ăn mía". Ăn mía thì hít hết
nước rồi bỏ bã. Nghĩa bóng là sách đó rút hết tinh túy môn địa lý rồi. Người
Trung Hoa dùng nhiều hình ảnh ngộ nghĩnh mà đúng.
CHƯƠNG 3 - TUỔI THƠ
SONG THÂN VÀ BÀ NGOẠI TÔI
Cha tôi ra đời năm Đinh Hợi (1887). Việt Nam hoàn toàn mất hết
chủ quyền từ ba năm trước, năm ký hòa ước Patenôtre (1884) và triều đình Huế chỉ
còn những vua quan bù nhìn.
Ông nội tôi không phải là nhà cách mạng, chỉ giữ khí tiết của
một nhà nho bất hợp tác. Như tôi đã nói, cụ bỏ thi cử sau khi đậu Tú tài, cũng
không muốn ra làm quan; cụ lại chán cả việc khuyến khích các con thi cử, chắc
trong thâm tâm cụ nghĩ rằng dù có đỗ ông cử ông nghè thì cũng chỉ thêm cái hư
danh, chẳng giúp được gì cho nước. Cụ để các con tự do lựa con đường đi, miễn
là không làm gì nhục cho tổ tiên. Bác Cả tôi không muốn lập gia đình để hi sinh
cho tổ quốc, cụ không cản; bác Hai tôi muốn dạy học, bác Ba tôi muốn kinh doanh
về thương nghiệp, tùy ý.
Cha tôi là con út. Hồi bà nội tôi còn, chắc cụ cũng dạy vỡ
lòng cho cha tôi, rồi sau cha tôi học với các anh, vì lúc đó ông nội tôi đã
già. Cha tôi ham chơi mà trong nhà không ai ép học, nên sức học chưa đủ để thi
hương thì đã bỏ, học chữ Quốc ngữ. So với các anh trong nhà, sức học cha tôi tầm
thường nhất, nhưng so với người trong làng, trong họ, cả với họ bên vợ nữa, thì
người vào hạng giỏi. Vì vậy ông nội tôi cũng không buồn. Trước khi mất, cụ cưới
vợ cho cha tôi.
Thân mẫu tôi tên là Sâm, con dòng thứ cụ phủ Nguyễn Khắc Chước
làng Hạ Đình (Hà Đông). Nghe các bác tôi kể lại thì cụ đỗ cử nhân, văn thơ hay,
nét chữ tươi, có tài hoa. Mẹ tôi mồ côi cha từ nhỏ, bà ngoại tôi không ưa thói
khinh bạc của một người con chồng lúc đó làm tri huyện, khảng khái dắt con về ở
với em ruột, làm lược để nuôi con. Mẹ tôi tập buôn bán và khi người có chồng
thì bà ngoại tôi theo con về ở với rể, tại số 4 ngõ Phất Lộc, trong mấy phòng ở
bên phải và sau lưng nhà thờ. Nhà số 2 để cho các bác Cả và bác Ba tôi; sau khi
bác Cả lẻn sang Trung Hoa, bác Ba lẻn vào Nam, thì nhà đó cha tôi cho thuê.
Cuộc đời vất vả và tận tụy của bà ngoại và mẹ tôi, tôi đã
chép trong tập Cháu bà nội, tội bà ngoại (nhà xuất bản Lá Bối). Tôi chỉ trích lại
dưới dây một đoạn ngắn để con cháu nhớ công của bên ngoại:
"Bà đã thay má tôi, nuôi nấng, săn sóc chúng tôi, lại
thay cả ba tôi trong sự dạy dỗ chúng tôi nữa. Ngày nay, anh em tôi, con cháu
tôi, có ai giữ được một chút cái tính khí khái của bà, không chịu lụy ai, cái đức
cần cù, tiết kiệm, cố chiến đấu để vượt khỏi cảnh nghèo, cái nếp sống đạm bạc,
cái tinh thần thanh khiết của nhà Nho, phần lớn là nhờ bà".
Cha tôi thấp người, không gầy, không béo, nước da trắng trẻo,
trán cao, chỉ có tai là xấu nhất, như cái vẩy ốc, theo sách tướng thì không thọ.
Từ vẻ mặt đến cử chỉ, y phục đều nghiêm trang, nhã nhặn. Đi ra ngoài thì chiếc
khăn xếp bao giờ cũng ngay ngắn, áo dài đen bằng the ở ngoài, áo dài trắng ở
trong, quần là (ủi) sạch sẽ, giày Gia Định đánh bóng. Ít nói mà có lễ độ, nên
được mọi người nể.
Mẹ tôi khác hẳn, dong dỏng cao, nước da tối, mặt lại rỗ hoa,
trán thấp như bà ngoại tôi - tướng đó vất vả - nhưng tai có thùy châu, mũi cao
và nụ cười tươi. Tôi giống cha ở trán, giống mẹ ở nước da, mũi, tai, nụ cười và
bề cao. Mẹ tôi ăn mặc rất giản dị: quần áo, khăn đều bằng vải thâm hay nâu, đi
đôi dép quai bằng da, nhiều khi đi chân không. Tính tình rất ngay thẳng, khảng
khái, không chịu nhờ cậy ai, rất cần cù - quanh năm buôn bán từ tinh sương, tối
mịt mới về, nhưng có tính dễ xúc động, tủi thân, mau nước mắt, đôi khi nóng nảy.
Khéo cư xử với họ hàng, biết tính toán nên cũng được nhiều người nể.
Ở trong nhà thì có hiếu với mẹ và biết chiều chồng. Mẹ tôi chỉ
lo buôn bán thôi, công việc bếp nước về phần bà ngoại tôi, công việc dạy con về
phần cha tôi. Hầu hết sự chỉ tiêu trong nhà do người đảm đương cả; số tiền cho
thuê nhà số 2 (năm 1925 được khoảng 5, 6 đồng một tháng 1 cha tôi giữ để tiêu
riêng, làm giỗ tết, đóng thuế.
Nhờ vậy mà cha tôi sống khá ung dung: dạy chữ Nho và Quốc ngữ
cho anh em chúng tôi và vài đứa cháu bên nhà vợ, hoặc con bạn bè; còn thì chơi
hoa, lâu lâu đánh một vài ván tổ tôm, tài bàn; thỉnh thoảng đi coi hát chèo ở rạp
Quảng Lạc, đi thăm bà con, bạn bè.
Tuy có tinh thần nghệ sĩ - một chút thôi - người sống rất có
ngăn nắp, điều độ, không bao giờ say rượu, không bao giờ về quá khuya, và khi mất,
còn để lại cho mẹ tôi ba chục đồng bạc trắng mà người cất kỹ trong tủ không cho
vợ hay. Tôi còn nhỏ tối hôm đó, chôn cất cha tôi xong rồi, trước khi về Phương
Khê, bác Hai tôi gọi mẹ tôi và tôi vào phòng trong cùng, mở một cái tủ xem có
giấy má gì không, và tìm được một gói bạc, đếm từng đồng rồi đưa cho mẹ tôi. Nhờ
có số tiền đó mà mẹ tôi trả hết được công nợ để làm ma chay.
Cái vui nhất của người có lẽ là chơi hoa. Năm nào, gần Tết
người cũng ham mê gọt thủy tiên và săn sóc (ngắt lá) hai gốc đào trồng trong
sân nhỏ sau lưng nhà thờ. Một gốc nhỏ cao độ một thước, trồng ngay dưới mái
hiên trong một cái thống, là loại đào thất thốn chỉ có hoa, không có quả, hoa
kép, đỏ thắm và rất nhiều, kín cả cành trong mấy ngày Tết, cánh rụng xuống mặt
sân, đẹp vô cùng. Một gốc nữa lớn hơn trồng trong một cái bệ, sát sau bức tường
nhà thờ, là loại đào ăn quả, hoa đơn, cánh phơn phớt hồng, không nhiều, lác đác
trên cành, xen với những lá non mới nhú, xanh tươi, trông cũng đẹp.
Thủy tiên thì năm nào cha tôi cũng mua một hai giò con của tiệm
Hoa kiều phố hàng Buồm, đem về gọt, ba mươi Tết lựa lấy hai giò đơn đẹp nhất và
nở kịp Tết để bày trong hai cái cốc thủy tinh có chân như cốc Champagne, miệng
lớn bằng bàn tay xòe ra, một cốc màu hồng, một cốc không màu. Giò thủy tiên đặt
trong những cốc đó thật vừa khít, mà nhìn qua thành thủy tinh thấy rõ những rễ
trắng muốt của hoa. Ai tới chơi cũng trầm trồ khen và bảo không thấy nhà nào
khác có thứ cốc đó.
Người Pháp cũng có thủy tiên, họ gọi là narcisse, nhưng tôi
ngờ rằng thủy tiên của họ không giống của mình, và chắc chắn là họ không có nghệ
thuật gọt thủy tiên như mình, không quý nó bằng mình.
Thủy tiên quý cả về sắc lẫn hương. Lá xanh, rễ trắng muốt,
hoa thì như cái chén vàng đặt giữa một cái dĩa bạc, hương nó thật là thanh quý (hương huệ và sen thì thanh cao). Nó thật xứng với danh: tiên trên nước. Cụ
Phan Sào Nam vịnh nó trong bài hát nói mà dưới đây tôi trích tám câu đầu:
Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh,
Tiên trên non mà hiếm có đã đành.
Chân thị thủy trung tiên càng hiếm hiếm.
Muôn tía nghìn hồng thây tục phẩm,
Năm hồ bốn biển nhớ tiền sanh.
Nét điểm trang con tạo khéo đa tình.
Nhụy kia vàng, hoa kia bạc, lá kia xanh,
Trên mặt nước long lanh trôi với bóng
Một người bạn kể cho tôi nghe ở Chapa, gần Lào Cai (Bắc Việt)
có những ngọn đồi toàn đào, đầu xuân, ở xa nhìn như những mâm hồng kế tiếp nhau
trên cả cây số; cánh đào hồng nhạt rụng xuống mặt cỏ xanh, bay lả tả trên dòng
suối, đẹp như cảnh tiên. Đúng là cảnh Đào hoa nguyên của Đào Tiềm.
Vào Nam, tết năm nào tôi cũng nhớ đào, và tôi viết bài Hoa
đào năm trước (Lá Bối xuất bản) chính là để cho vơi lòng nhớ đó.
Ở Sài gòn, từ mười năm trở lại đây, gần Tết, đường Nguyễn Huệ
thường bày bán ít cành đào chở bằng máy bay vào; có năm bạn bè cho chúng tôi một
cành hoa đơn phơn phớt hồng, nhưng tôi không thích lắm! Loài hoa nào cũng phải
hợp với thủy thổ của nó thì mới đẹp. Hoa đào mà đày vô miền nắng cháy này thì
lam lũ, đáng thương như thiếu nữ đài các, mơn mởn mà phải tát nước hay nhổ mạ
dưới nắng hè. Ở xứ nào chỉ nên chơi hoa xứ đó, miền Nam có mai vàng, tuy không
đẹp bằng đào, nhưng rực rỡ, có vẻ phú quý, lại có ám hương thoang thoảng lúc
ban mai, mà một gốc mai vàng thịnh khai nổi bật trong vườn lá xanh, coi thật
hòa nhã.
Cha tôi không chính thức gia nhập Đông Kinh nghĩa thục như
bác Cả, bác Ba tôi, và nhà cách mạng Đỗ Cơ Quang (hiệu là Chân Thiết - con cụ Đỗ
Uẩn - và là em con cô con cậu với cha tôi) nhưng cũng giúp đỡ ít nhiều cho
nghĩa thục. Trong cuốn Đông Kinh nghĩa thục, chương VII, tôi có chép một chuyện
vui về việc cắt tóc một cụ Đồ mà bác Ba tôi, cụ Đỗ Chân Thiết và cha tôi dự
vào.
Sau khi nghĩa thục bị đóng cửa, bác Ba tôi và cụ Chân Thiết
(mà trong nhà chúng tôi gọi là chú Ba Đỗ), kẻ trước người sau bỏ quê hương, người
qua Tàu, người vô Nam, lính mật thám Hà Nội có lần lại nhà bắt cha tôi nhốt vào
Hỏa Lò (tức Khám lớn Hà Nội) để bắt khai tung tích của ông anh. Cha tôi không
khai gì cả, và một tuần sau chúng thả ra. Có thể cha tôi hồi đó không liên lạc
với các anh và không biết gì nhiều. Lần đó bà ngoại tôi hằng thường đến Khám lớn
để hỏi thăm tin tức về cha tôi. Việc đó tôi có chép trong tập Cháu bà nội, tội
bà ngoại. Nhưng sau cha tôi cũng bắt được liên lạc với bác Ba tôi.
Vào khoảng 1919, khi một ông bạn thân tên là Khoa, làm cho một
nhà in Pháp, đổi vào Sài Gòn, cha tôi làm tiệc tiễn biệt, dặn dò bạn vô Nam thì
tìm chỗ ở của bác Ba tôi rồi cho tin tức. Hồi đó, bác Ba tôi - cụ Phương Sơn - ở
làng Tân Thạnh, quận Chợ Mới, Long Xuyên (trong Đồng Tháp Mười). Chắc lần đó cụ
Khoa tìm được, vì sau này tôi được biết rằng những biến cố lớn trong gia đình ở
Hà Nội và Sơn Tây, bác Ba tôi đều rõ cả.
Cha tôi ít nói, mà hồi đó tôi còn nhỏ, cũng không thể nói gì
với tôi được. Tôi chỉ đoán được rằng người không hoạt động chính trị nhưng giữ
được nếp nhà, giữ được tư cách một nhà nho yêu nước, không hợp tác với Pháp. Một
người em dị bào của mẹ tôi làm thông phán, khuyên cha tôi học chữ Pháp độ một
năm rồi sẽ giới thiệu cho làm ở sở Đốc lý (tòa Thị sảnh) Hà Nội, cha tôi không
chịu.
Hình như các bác tôi và cha tôi đã phân công với nhau: hai
người làm cách mạng ly hương, hai người ở lại, một ở Phương Khê, một ở Phất Lộc
để giữ tổ nghiệp và mồ mả ông bà.
TÔI HỌC VỠ LÒNG
Tôi mồ côi cha sớm, năm đó mười tuổi ta, nhưng tuổi tây chỉ mới
có tám tuổi rưỡi, vì vậy mà hồi ký về cha tôi không được nhiều.
Tôi thấy đức quí nhất của người là săn sóc sự học của con rất
chu đáo. Chính người hồi nhỏ không ham học, mà khi có con thì lại không tiếc
thì giờ, tiền bạc vào việc học của con.
Người dạy vỡ lòng chữ Hán cho tôi, tôi không nhớ vào hồi mấy
tuổi, và cũng không nhớ được học chữ Hán trong mấy năm - tôi đoán chỉ độ một
năm rưỡi thôi.
Sau chữ Nho, người dạy cho tôi chữ Quốc ngữ và làm bốn phép
toán. Tôi còn nhớ một lần tôi phải học lại bảng cửu chương cho thuộc làu rồi mới
được đi coi hội. Tôi ham chơi như mọi trẻ vào tuổi đó nên nhiều lần bị đòn vì
quên lời cha dặn. Về việc học, cha tôi rất nghiêm, rất dữ đòn, và bà ngoại tôi
thường phải xin cho tôi. Hình như sau mỗi cơn thịnh nộ - mỗi năm chắc chỉ độ
vài lần thôi - cha tôi ân hận. Trong tập Làm con nên nhớ (Lá Bối) tôi đã kể một
lần cha tôi nọc tôi ra đánh dữ cũng chỉ vì tội ham chơi, quên học; nhưng tối
hôm đó người dắt tôi lại đường Paul Bert mua cho tôi một gói kẹo Tây rồi hai
cha con quay về bờ hồ Hoàn Kiếm, ngồi nghỉ trong một chỗ ít ánh đèn, người đùa
giỡn với tôi, giấu gói kẹo, bảo tôi kiếm, kiếm được mới cho ăn. Một lần khác,
đêm hè, người thuê giờ một chiếc xe kéo, bảo xe chạy chậm chậm dọc đường Bờ
Sông, về phía Cầu Đất để hóng gió.
Ngồi xe, người không nói gì cả, có vẻ trầm ngâm. Nên tôi
không dám gợi chuyện. Mỗi năm ba bốn lần người dắt tôi đi xem hát chèo ở rạp Quảng
Lạc. Được đi chơi với cha, tôi thích, nhưng nghe hát được một lúc, tôi buồn ngủ,
nằm ngay trên ghế bên cạnh mà ngủ vì rạp rất vắng. Ngày nay thỉnh thoảng tôi
cho chạy một băng nhạc Chèo cải lương của Nguyễn Đình Nghị để nghe các giọng
ngâm thơ, than của đào Nhã mà nhớ lại ngày trước. Nhưng tôi phải thú thực không
thích nghe hát chèo, hát tuồng và cả cải lương nữa. Tôi thích những kịch có ý
nghĩa, loại này hiếm lắm. Những kịch trên tivi chỉ nghe dăm ba phút là tôi
chán.
CÁCH DẠY TRẺ XƯA VÀ NAY
Đi thăm bà con bên nội bên ngoại ở phố hàng Đường, làng Thịnh
Hào, hoặc thăm một vài bạn thân, cha tôi thường dắt tôi theo (em trai tôi kém
tôi ba tuổi, hồi đó còn nhỏ quá), một phần để tập cho tôi có lễ phép. Mỗi lần một
ông bác tôi ở Thịnh Hào, ông Hy Thanh, con cụ Đỗ Uẩn, anh ông Ba Đỗ lại chơi,
cha tôi pha trà và bắt tôi đứng ở bên để "hầu trà" các cụ, nghĩa là để
nghe các cụ nói chuyện với nhau. Đứng như vậy khá lâu, các cụ chẳng sai bảo mà
cũng chẳng hỏi han gì cả, tôi thấy bực bội, nhưng không dám không tuân. Lớn lên
tôi hiểu nhà Nho dạy trẻ như vậy là tập cho chúng cư xử với người trên, nhất là
học tự chủ, rán làm những bổn phận mà mình không thích; nhưng dạy con tôi, tôi
cho nó tự do hơn, không bắt nó vào khuôn phép quá khi nó dưới mười, mười hai tuổi;
lớn lên vài tuổi nữa, nó đã hiểu biết rồi, tôi mới giảng cho nó rằng ở đời bất
kì ai và vào tuổi nào cũng thỉnh thoảng có những việc mình không thích làm mà
phải làm, và nó nghe ra, không tỏ vẻ khó chịu nữa. Mặc dầu vậy, tôi vẫn rán
tránh cho nó những sự bó buộc như vậy. Tôi không biết tôi có dễ dãi quá với nó
không.
Bị đòn dữ, nhưng tôi không oán cha, vì tôi cảm thấy người yêu
tôi một cách kín đáo theo lối nhà Nho. Nhưng có một lần tôi thấy người nghiêm
quá cái mức cần thiết. Hôm đó trưa mùng một Tết, cả nhà quây quần chung quanh
mâm cơm. Tôi ngồi ngay ngắn, xếp bàn tròn, gắp một miếng măng khô kho thịt, vừa
bỏ vào miệng nhai thì nhè ra liền vì chưa quen với mùi khó tả của nó. Cha tôi
giận, tát cho tôi một cái. Tôi tiu nghỉu suốt ngày quan trọng nhất trong năm
đó. Bà tôi, mẹ tôi đều làm thinh, không nói gì cả, nhưng chắc đều thương hại
tôi.
Cha mẹ ai cũng có những lúc bất công với con - vợ chồng với
nhau cũng vậy - nhưng tôi nghĩ dạy con, thà mắc lỗi về nghiêm còn hơn là mắc lỗi
về khoan, như hào 3 quẻ Gia nhân trong kinh Dịch đã khuyên.
Và bây giờ tôi mừng rằng nhờ được cha nghiêm khắc mà tôi tự
chủ, có nghị lực được một chút, không mang tiếng là kẻ thiếu giáo dục.
Nửa thế kỷ trước, các nhà giáo dục Âu, Mĩ đưa ra một đường lối
có lẽ chịu ảnh hưởng của Léon Tolstoi: cho trẻ hoàn toàn tự do muốn làm gì thì
làm, không cấm đoán, chỉ khuyên răn thôi; và ở nước mình có nhiều người cho như
vậy là văn minh, tấn bộ, mạt sát thậm tệ lối dạy con của ông cha, là làm cho trẻ
hoá nhút nhát, không có cá tính, không hoạt bát hóa giả dối... họ không biết rằng
khi họ bắt chước phương Tây thì chính ở phương Tây người ta đã nhận thấy người
ta đã lầm rồi, mà đã bắt đầu sửa lại chính sách phóng nhiệm đối với trẻ. Tôi đã
xét vấn đề đó trong bài "Vấn đề đánh trẻ" in ở sau cuốn Dạy con theo
lối mới (Thanh Tân - 1958), và đã dịch cuốn Ba mươi ba câu chuyện với các bà mẹ
của Benjamin Spock, một tác phẩm bán rất chạy ở Âu, Mỹ, khuyên phải cương quyết
với trẻ, không nên để cho chúng quá tự do. Trẻ có nhu cầu được an toàn, được
cha mẹ cương quyết cho biết điều gì chúng được phép làm, điều gì không, có vậy
chúng mới khỏi hoang mang, khổ sở. Mấy năm nay tôi thấy nhiều phụ huynh ở Bắc
khen trẻ trong Nam ngoan, dễ thương hơn trẻ ngoài Bắc nhiều, xin các thầy giáo,
cô giáo trong Nam nghiêm khắc với con họ, và nếu cần thì cứ trừng trị. Có thực
là trẻ trong Nam kém hoạt bát, thiếu cá tính hơn trẻ ngoài Bắc không? Điều chắc
chắn không ai chối cãi được là chúng siêng năng. Tôi nghe nói từ niên khóa
1979-1980, đường lối dạy trẻ có thay đổi: người ta đã muốn trẻ có kỷ luật hơn,
nghe lời cha mẹ và thầy cô hơn.
BUỔI ĐẦU TIÊN HỌC TRƯỜNG YÊN PHỤ
Tôi chỉ có tội ham chơi chứ học không đến nỗi dốt lắm, vì cha
tôi dạy tôi chữ Nho rồi chữ Quốc ngữ chung với vài đứa em họ tôi và con một người
bạn của mẹ tôi. Chúng đều hơn tôi 2, 3 tuổi mà học kém tôi.
Học như vậy được khoảng hai năm, rồi cha tôi nhờ một thầy ký có bằng Tiểu học Pháp Việt dạy vần Tây cho tôi. Đầu năm Canh Thân (1920) cha
tôi xin cho tôi được vào học lớp dự bị (cours préparatoire) trường Yên Phụ. Lúc
đó vào giữa năm học, chắc tôi không được chính thức ghi tên vô sổ.
Buổi học đầu tiên của tôi nhằm ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch.
Cha tôi dậy sớm, sắp xếp bút mực, thước kẻ, sách vở vào cái cặp da nhỏ - một xa
xỉ phẩm thời đó - rồi khăn áo chỉnh tề, thuê một chiếc xe kéo bánh sắt (chưa có
bánh cao su) để đưa tôi tới trường ở dưới chân đê Yên Phụ, cách nhà tôi hai cây
số, dắt tôi lại chào thầy Hà Ngọc Chử, gởi gắm tôi với thầy.
Ngày nay đọc lại hai trang đầu bài Tựa cuốn Thế hệ ngày mai
trong đó tôi chép lại một buổi học đầu tiên của tôi và buổi học đầu tiên của
con tôi ngoài hai chục năm sau vẫn còn bùi ngùi: tình cha tôi đối với tôi, và
tình vợ chồng tôi đối với con tôi, sự săn sóc của chúng tôi đối với con y như
nhau, hai thế hệ một tấm lòng, một tinh thần.
Tôi còn thấy rõ nét mặt của cha tôi, của thầy Chử, cảnh sân
trường, cảnh lớp học, tưởng đâu như việc mới xảy ra tháng trước, thế mà đã sáu
chục năm qua rồi. Bài Tựa đó đã làm cảm động nhiều độc giả, có người định lựa
cho vào một tập Văn tuyển.
Hôm đó cả sáng lẫn chiều, cha tôi đưa tôi tới trường, rồi đợi
tan học lại đưa tôi về. Nhưng chỉ ngày hôm sau, cha tôi kiếm được một bạn học
cùng lớp với tôi, lớn hơn tôi một hai tuổi, nhà ở hàng Mắm gần nhà tôi, và nhờ
em đó hễ đi học thì rẽ vào nhà tôi, đón tôi cùng đi. Từ đó người khỏi phải đưa
tôi nữa, và mỗi ngày tôi với bạn đi đi về về bốn lượt, từ nhà tôi tới trường, từ
trường về nhà. Mùa hè để tránh nắng, chúng tôi theo bờ đê Nhị Hà, qua phố hàng
Nâu, ô Quan Chưởng gần cầu Doumer (cầu Long Biên), bến Nứa để hưởng hương thơm
ngào ngạt của vài cây đuôi chồn (loại lilas) ở khỏi dốc hàng Than, lá mùa xuân
xanh như ngọc thạch, mùa đông đỏ như lá bàng. Mùa đông để tránh gió bấc từ sông
thổi vào, chúng tôi theo con đường ở phía trong, xa hơn, qua phố hàng Đường,
hàng Than, sau nhà máy nước, nhà máy thuốc lá. Có lẽ nhờ đi bộ như vậy mỗi ngày
tám cây số luôn năm sáu năm trời, nên thân thể cứng cáp, mặc dầu thiếu ăn thiếu
mặc.
TRƯỜNG YÊN PHỤ
Thời đó Hà Nội có độ mươi trường tiểu học Pháp Việt (chuyển
ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt chỉ dạy mỗi tuần 3 giờ tập đọc, luận văn), mỗi
trường trung bình mười lớp từ cours enfantin tới cours supérieur (lớp năm tới lớp
nhất). Trường Yên Phụ ở xa trung tâm, không nổi tiếng bằng trường Bờ Sông, trên
Quai du Commerce, không lớn bằng trường Sinh Từ hay hàng Than, nhưng tôi thích
nó nhất vì nó đẹp nhất.
Nó nằm ở chân đê Nhị Hà, bên bờ hồ Trúc Bạch. Nó vốn là một
ngôi chùa (?) của làng Yên Phụ, xây cất thêm một dãy phòng kiểu mới dùng làm lớp
học.
Phía trước là một bức tường cổ, bằng gạch làm hàng rào. Phía
trong là một khu rất rộng gồm ba cái sân ở ba mực khác nhau. Có lẽ xưa là một
ngọn đồi người ta cuốc, xén, để xây cất. Từ cổng vào là khu sân giữa, thoai thoải,
bên trái có một dãy lớp học từ lớp ba tới lớp nhất. Sau những lớp đó là nhà của
người lao công quét trường.
Từ sân đó, ở bên phải có nhiều bực đưa lên sân trên cao hơn độ
một thước; sân này có hai tòa chùa hay đình cổ, nóc uốn cong, cột gỗ rất lớn,
tường gạch có đắp hình hai ông tướng tô màu. Hai tòa đó sửa sang lại một chút,
đục thêm cửa, lắp thêm kính, dùng làm lớp năm và lớp tư. Bên hông tòa bên phải
và lùi về phía sau là nhà của ông giáo lớp năm kiêm giám thị. Bên trái còn một
tòa nữa, nhìn xuống sân dưới và mặt hồ. Sân dưới ở sát mí hồ, thấp hơn sân trên
độ hai thước, và thấp hơn sân giữa độ một thước. Có hai thang đá đưa từ sân giữa
xuống sân dưới, và một thang gạch ít bực hơn đưa từ sân giữa xuống sân dưới.
Vườn rất rộng, trồng sấu, me, nhất là nhãn. Có tới chục gốc
nhãn già. Người ta nói ở dưới chân những gốc nhãn đó và chân các tượng ông tướng
đắp trên tường, có những lỗ sâu, hang của mấy con rắn có mào.
Tôi thích vẻ cổ kính của trường, thích ba khu sân rộng tha hồ
cho chúng tôi chạy nhảy, leo lên, leo xuống; nhưng thích nhất là hồ Trúc Bạch.
Ngồi ở mí nước, chúng tôi nhìn mây nước, những thuyền đánh cá vào mùa đông, con
đường Cổ Ngư ngăn hồ Trúc Bạch với hồ Tây ở bên phải, và nhà cửa trong làng Ngũ
Xã (?) ở bên trái một làng đúc đồ đồng trên một cù lao ở giữa hồ Trúc Bạch.
Gió từ hồ hiu hiu thổi vào, sóng bập bềnh vỗ nhẹ dưới chân và
cánh chim lướt qua trước mặt, trong đám mây hồng.
Tôi cũng thích cây gạo ở bên đường, trên đầu dốc đưa xuống
trường. Gạo là một loại cây đặc biệt của đồng quê Bắc, cũng như cây sao đặc biệt
của miền Nam. Không nên lầm nó với cây gạo ở miền Quy Nhơn, cùng tên mà khác
loài. Nó y hệt cây gòn nhưng lớn hơn nhiều, thân có thể tới vài ôm, nhiều gai
hơn gòn, cao tới hai chục thước, hoa như hoa gòn nhưng đỏ như hoa vông và lớn bằng
chén ăn cơm. Khoảng đầu xuân, lá rụng hết, cành đầy nụ trông như những trái ổi
đen; độ một tháng sau, hoa nở chi chít, đỏ ối cả cây, ở xa như một khối lửa lớn
in lên nền trời xanh. Nhụy hoa có một thứ nhựa hơi ngọt, chim bay lại từng đàn,
ríu rít trên cành. Khi có một rặng gạo bên đường thì mặt đường đỏ vì hoa rụng.
Giữa mùa hè, quả gạo nứt vỏ và gặp cơn gió, bông túa ra, bay như tuyết, rất đẹp
mắt.
Trước năm 1920, miền quê tôi, hầu hết làng nào cũng trồng một
cây gạo ở vệ đê, ngay đầu dốc đưa vào xóm. Cây gạo đó đánh dấu ranh giới của
làng. Phụ nữ đi chợ thường đợi nhau ở dưới gốc gạo để cùng đi; ở chợ về cũng ngồi
nghỉ tại đó nói chuyện với nhau một lát. Ở gần đó thường có một cái quán hay điếm
canh. Những ai ly hương trở về, xa xa trông thấy gốc gạo của làng mình, lòng
cũng hồi hộp như người Nam trông thấy ngọn sao ở đình làng.
Tôi không hiểu tại sao cây gạo có một địa vị quan trọng như vậy
mà ít ai nhắc tới nó trong thơ văn. Tôi chỉ gặp nó bốn năm lần trong thơ của
Cao Bá Quát và trong thơ mới thời Tiền chiến, mỗi lần chỉ trong một câu hay nửa
câu.
Gạo trồng ở vệ đê có một điểm bất lợi là khi nó già, những rễ
lớn của nó mục đi, thành hang những cho chuột hay cua, hại cho sự vững chãi của
đê, cho nên nhà nước bắt đốn hết, làng quê và con đê mất đi một vẻ đẹp.
Cây gạo ở đầu dốc xuống trường Yên Phụ vì ở xa chân đê nên
không bị đốn. Nó đánh dấu trường tôi, và hồi nhỏ chúng tôi thường kiếm cách bẻ
những nụ của nó để lấy dao chạm thành đầu người, lượm những hoa rụng để đá cầu.
CHA TÔI MẤT
Tôi mới học được bốn năm tháng thì đã tới nghỉ hè. Hè năm đó
cha tôi đau ruột, đại tiện ra huyết. Nhiều thầy lang trị mà không bớt. Tôi ở
nhà coi chừng siêu thuốc và hầu hạ cha tôi. Bệnh trầm trọng thêm, cha tôi nằm
liệt trong màn suốt một tháng. Mẹ tôi bỏ việc buôn bán, và sáng ngày 26 tháng 8
âm lịch, cha tôi tắt thở, mới 34 tuổi. Lúc đó tôi đau mắt, đương nghỉ học.
"Hai ngày sau đưa cha tôi tới huyệt rồi, trở về nhà lúc
năm giờ chiều. Trời gần cuối thu, u ám, lá bàng bay lả tả dưới gió lạnh. Tôi buồn
và lo, nghĩ bụng: "Mới hai tháng trước cậu còn mạnh, và mới tuần trước ông
lang còn bảo bệnh sẽ hết, mà bây giờ... mình đã hóa ra con côi. Nếu chẳng may mẹ
lại đau nữa thì bốn anh em mình "Lần đó là lần đầu tiên trong đời, tôi cảm
thấy thấm thía sự bất an toàn của kiếp người. Tôi chỉ lo thầm như vậy thôi,
không dám thố lộ với ai".
Ngày nay nhớ lại, tôi cho rằng cha tôi hoặc vì biết số mình
hoặc vì linh cảm rằng khó thoát được năm đó, nên rán vận động xin cho tôi vô học
trường Yên Phụ ở giữa niên khóa, khác hẳn với lệ thường, để có nhắm mắt thì người
được yên bụng.
BỐN ANH EM TÔI
Cha tôi mất đi, để cho mẹ tôi bốn đứa chúng tôi. Tôi là trưởng,
10 tuổi ta, em trai tôi là Hữu Hùng 7 tuổi, rồi tới hai em gái: Oanh 5 tuổi, và
Mùi 2 tuổi, mới được 8, 9 tháng.
Khi lớn lên tôi nghe trong nhà kể lại: trước ngày sinh ra
tôi, cha tôi nằm mộng thấy một ông già tóc bạc phơ, chống gậy cầm một trái lê
đưa cho cha tôi bảo giữ lấy, vì vậy mà đặt tên cho tôi là Hiến Lê: dâng trái
lê; và trước người sinh em trai, cha tôi nằm mộng thấy vào sở thú cõng con gấu
về, vì vậy mà đặt tên là Hữu Hùng: có con gấu.
Tôi không tin mộng mị, suốt đời cũng chỉ nằm mộng vài ba lần
thời nhỏ và thời trẻ, mà đều là những mộng vô nghĩa như tìm thấy một đống bi (hồi
tôi ham chơi bi) hoặc gặp một người bạn. Có thể rằng đêm nào tôi cũng mộng nhiều
lần như mọi người - các nhà sinh lí học nói vậy - nhưng khi tỉnh dậy, không nhớ
gì cả, nên tưởng rằng mình không nằm mộng bao giờ.
Em tôi không có vẻ gì hùng dũng như con gấu cả, có lẽ mộng thấy
gấu chỉ có nghĩa là sinh con trai. Còn mộng được ông lão tặng trái lê thì có thể
giảng rằng tôi sẽ hiền lương (lê là một loại trái thơm, ngọt mà lành) và thọ
như ông lão. Tôi không tin hai mộng đó, chép lại đây để con cháu hiểu ý nghĩa
tên của tôi và em tôi thôi.
Nhưng có điều dưới đây thì tôi nghiệm thấy đúng.
Khi tôi mới sinh, nhỏ bé, yếu đuối và đen, coi xấu xí. Cha
tôi chắc thất vọng, thấy không hợp với mộng; bác Ba tôi lúc đó chưa vô Nam, lấy
số tử vi cho tôi, bảo cha tôi: "Số thằng này dễ nuôi, sau sẽ phú quý, chú
thím không muốn nuôi thì cho tôi".
Sau một người khác coi số cho cả bốn anh em tôi, bảo: Số tôi
tốt nhất, số em trai tôi non; còn hai em gái tôi thì một người (Oanh) được nhờ
chồng, một người (Mùi) được nhờ con.
Ngày nay, tôi thấy đúng như vậy: em trai tôi cũng yểu như cha
tôi, 32 tuổi đã chết; em Oanh tôi chồng cũng khá giả, còn em Mùi tôi thì ngoài
50 góa chồng, nhưng ba đứa con đều học khá, hiện nay đã có một đứa giúp mẹ.
Bốn lá số đều đúng cả bốn, vậy khoa tử vi có chỗ đáng tin, ít
nhất là về vài nét chính. Tôi sẽ nhận xét về khoa đó trong một phần sau.
Chú thích:
1. Thời đó giá vàng khoảng 25 đồng một lượng.
CHƯƠNG 4 - NHỮNG NĂM Ở TIỂU HỌC
CẢNH NHÀ SAU KHI CHA TÔI MẤT
Cha tôi mất là bắt đầu thời suy của gia đình tôi. Mẹ tôi buồn
khổ nhưng không than thở, không thất vọng, âm thầm chống với nghịch cảnh. Người
lại đi bán hàng, tôi lại đi học, không có gì thay đổi, chỉ khác có thêm bàn thờ
của cha tôi và dải khăn sô trên đầu mẹ tôi.
Trước kia mọi việc trong nhà như cúng giỗ, giao thiệp với họ
hàng bên nội bên ngoại, thu tiền nhà, cha tôi lo hết; nay mẹ tôi phải đảm đương
lấy, bà ngoại tôi đi chợ nấu cơm, giặt giũ, săn sóc bốn anh em tôi, mà em út
tôi lúc đó chắc mới thôi bú.
Người ra đi từ mờ đất, mùa đông cũng như mùa hè, ngày mưa
cũng như ngày nắng, ra bến sông ở gần Cầu Đất 1 cách nhà tôi độ một cây số, đón
ghe để mua trái cây: dưa hấu, dứa, bưởi, mía tùy mùa, rồi thuê xe kéo chở về chợ
Đồng Xuân, chia lại cho bạn hàng để lấy chút huê hồng, còn thì bán buôn cho những
người ở những chợ nhỏ, cũng bán lẻ nữa.
Bốn giờ chiều tan chợ, người nghỉ bán, đi đòi tiền bạn hàng
thiếu, tối mới về tới nhà, lâu lâu đội về một thúng gạo. Có hồi đội về một
thúng lạc để bóc vỏ thuê cho người ta: cả nhà ăn cơm xong, xúm lại bóc độ một
giờ là xong, tiền công không biết được bao nhiêu, lợi là vỏ lạc về mình để đun
bếp, đỡ mua củi. Mùa hè, anh em chúng tôi đi lượm những quả bàng chín, rụng về
phơi khô, bửa hột ra, lấy nhân ăn bùi, béo hơn lạc, còn cùi cũng để đun bếp; cuối
thu, lá bàng rụng, chúng tôi lượm về từng thúng. Khi bà cháu, anh em làm chung
thì chỉ thấy vui và thương yêu nhau chứ không thấy khổ.
Nhà tôi ở Long Xuyên hiện nay, trước cửa có một cây nính cao
15, 16 thước, thân lớn hai ôm, cứ tới đầu xuân là thay lá: ban đêm tôi nằm nghe
thấy lá rụng ào ào, sáng dậy sân và đường đã đầy những lá đen, và một cô giáo với
hai đứa con bảy tám tuổi, đã tới từ hồi nào để quết và hốt thồn vào những cái
bao ni lông lớn. Cô giáo cột vào xe đạp chở về. Có khi mẹ bận, hai đứa nhỏ phải
đội những bao đó đi bộ về nhà. Chúng thật dễ thương, có trái cây hay một miếng
bánh tráng chúng cũng chia nhau: con chị cắn trước rồi chìa cho thằng em, em cắn
một miếng rồi đưa lại cho chị. Nhìn họ tôi vui được sống lại tuổi thơ. Thì ra
thời này củi quế gạo châu như 60 năm trước. Lượm lá cây như vậy mỗi ngày đỡ được
hai đồng bạc củi, mà lương giáo viên được 60 đồng mỗi tháng. Nhưng chỉ được nửa
tháng, trút hết lá, cây nính lại mơn mởn dưới ánh nắng ban mai, lại phải đợi đầu
xuân năm sau mới được cái vui quét lá.
Chúng tôi phải tiết kiệm, rút mọi chi tiêu xuống mức tối thiểu.
Anh em tôi không được ăn kẹo tây nữa, không được dắt đi chơi, đi xem hát, không
có áo mới; bà tôi nhịn ăn trầu. Nhưng còn may là không phải ăn độn, và mỗi sáng
đi học tôi còn được một xu hay một trinh (nửa xu) để mua một củ khoai lang
tròn, lớn bằng nắm tay, hoặc một khúc sắn (khoai mì) dài non một gang tay, nhiều
bột, bở, trắng tinh, ngon hơn khoai và sắn ngày nay nhiều.
Mẹ tôi cũng lo việc học cho chúng tôi, có ai đâu để nhờ cậy?
Tôi còn nhớ buổi trưa hôm đó, không rõ là ngày thất tuần hay trăm ngày của cha
tôi, mẹ tôi bưng một cái quả (thứ tráp lớn, tròn) đựng xôi và thịt quay, cùng với
tôi ngồi xe lại nhà thầy giáo tôi ở trên một gác nhỏ, khu hàng Bún (?) để biếu
thầy, và kể tình cảnh mẹ goá con côi của chúng tôi, nhờ thầy săn sóc sự học của
tôi.
Người lại tìm thầy dạy vần Quốc ngữ và vần Tây cho em trai
tôi để sau xin cho nó vào học lớp Năm cũng trường Yên Phụ.
Hơn nữa, người còn cho tôi, con trưởng, thỉnh thoảng có dịp
nào tiện thì về thăm quê nội ở Phương Khê. Lần đầu tôi theo một người anh họ,
đi tàu thủy từ Hà Nội lên Sơn Tây, rồi từ Sơn Tây đi xe kéo về làng; lần thứ
nhì chúng tôi đi xe kéo suốt từ Hà Nội về phủ Quảng Oai, rồi đi bộ về làng. Sau
khi đoạn tang chồng, mẹ tôi nhân dịp Tết, người lại đưa tôi và em út tôi về
Phương Khê nữa. Như vậy là phải nghỉ bán hàng sáu ngày vì đi đường mất hai
ngày, về mất hai ngày rồi.
Tết nào không về được thì người gởi thì người gởi biếu bác
Hai tôi trái cây, đồ nấu, hương thơm, trà mứt để cúng tổ tiên, y như hồi cha
tôi còn sống, không thay đổi gì cả. Trên bàn thờ cha tôi thì tết nào cũng có
hai giò thủy tiên đặt trong hai cái cốc quý bằng thủy tinh như trước chỉ khác
thủy tiên không đẹp bằng vì mua ở chợ chiều 30 tết cho rẻ.
Ngày nay nhớ lại đời sống và ngôn hành của người, tôi thấy
người không kém bà Tú Xương. Bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở ven sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
thì mẹ tôi cũng quanh năm mua ở ven sông, bán ở chợ, và cũng
nuôi đủ bốn con - có khi thêm một đứa cháu ở bên chồng nữa - với một mẹ già.
Việc gì người tính toán cũng kín đáo và chu tất, xử sự ngay
thẳng và đàng hoàng. Tôi nghiệm thấy phụ nữ người nào từ dung mạo tới tính
tình, có nhiều nam tính hơn nữ tính thì hầu hết đảm đang, gây dựng nổi cơ đồ,
nhưng đời thường vất vả. Mẹ tôi thuộc hạng người đó. Thật là một phúc lớn cho
chúng tôi và cả cho gia đình bên nội tôi nữa. Nếu người tái giá thì chắc anh em
chúng tôi phải ly tán, kẻ về Sơn Tây ở với ông bác, kẻ đi ở nhờ một bà dì, nếu
không thì cũng phải sống tủi nhục với người chồng sau của mẹ; cả trong hai trường
hợp đó, chúng tôi đều không học hành được gì, may lắm là biết đọc, biết viết rồi
kiếm nghề để mưu sinh. Nhưng dù người không tái giá mà không có bà ngoại tôi
thì chúng tôi cũng không nên người được. Công của bà rất lớn.
CHẾ ĐỘ ĐẠI GIA ĐÌNH
Nhóm Tự Lực văn đoàn trong những năm 1932-1945, xuất bản một
số tiểu thuyết (Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Thoát ly, Thừa tự...) để chỉ trích chế độ
đại gia đình, bênh vực phụ nữ, nhất là những người làm dâu, những người vợ trẻ ở
góa, đề cao hạnh phúc cá nhân, chủ trương sự thoát ly gia đình. Họ có lý: chế độ
gia đình có nhiều cái bất công, cổ hủ nữa, phụ nữ đáng thương; dễ tạo ra những
con người ỷ lại, thiếu tinh thần phấn đấu, không hợp với một xã hội bắt đầu bước
qua thời đại tư bản công nghiệp; nhưng chúng ta phải nhận rằng nó rất thích hợp
với một xã hội nông nghiệp và có nhiều nét đẹp cao quý: tình gia tộc đằm thắm
hơn, đoàn kết hơn, người ta tương trợ nhau hơn, biết tôn kính cha mẹ, ông bà,
ít ích kỷ, có tình cảm, có tinh thần trách nhiệm; và thân phận đàn bà có khi
đáng thương thật, nhưng địa vị của họ cũng được xã hội tôn trọng, những cụ nào
như mẹ tôi, chịu hy sinh cho chồng con, gây được sự nghiệp cho gia đình bên chồng
thì chẳng những con cháu, họ hàng, mà đến hàng xóm, xã hội cũng đều kính nể.
Còn chế độ tiểu gia đình ở phương Tây bây giờ thì thôi, tôi
ngán quá! Chẳng phải chỉ riêng tôi, các bạn già của tôi cũng vậy, mà ngay trong
số nhà văn, nhà báo Âu, Mỹ cũng ngán nữa. Cuối cuốn Tương lai ở trong tay ta (Cảo
Thơm - 1962) tôi đã chép hai cảnh thương tâm do bà Pearl S. Buck kể lại: cảnh một
bà già muốn được ngủ một đêm với một đứa cháu nội nhỏ mà phải xin phép con trai
của mình, cha đứa nhỏ, ông con cho phép sau khi dặn kỹ: "Chỉ lần này thôi
nhé!"; và cảnh một ông già khi bước chân vào một viện dưỡng lão, quay lại
nhìn con trai, nghe nó dặn nhỏ: "Ba đừng nói hớ tên gia đình mình ra
nhé".
Người ta có thể bảo bà P.S. Buck hồi nhỏ sống ở Trung Hoa, chịu
ảnh hưởng đậm của Trung Hoa, nên lạc hậu. Nhưng một ký giả Pháp trong tạp chí
Lectures pour tous cũng phàn nàn rằng mỗi vụ hè ở Paris có cả ngàn gia đình dắt
cha mẹ già lại gởi trong một dưỡng đường để họ được rảnh rang đi tắm biển, leo
núi hoặc du lịch ngoại quốc với vợ con; rồi hết hè họ "quên" không lại
đón cha mẹ về! Một vài bộ lạc bán khai ở châu Phi, khi cha mẹ già thì khiêng
cha mẹ bỏ vào giữa rừng với một giỏ cơm, một bình nước; ngày nay người ta bỏ
cha mẹ vào dưỡng đường, vào viện dưỡng lão, kể cũng tiến bộ lắm.
Còn cảnh ông bà chết mà không đi đưa ma, cảnh nàng dâu gọi bố
chồng là con "khỉ đột" là chuyện thường quá rồi!
Già đã cô độc mà trẻ cũng cô độc. Ở Mỹ, ở Pháp - ở Paris -
kinh đô ánh sáng, có những khu trẻ dưới mười tuổi, đi học thì đeo tòng teng một
cái chìa khóa ở cổ, để chiều đi học về nhà, tự mở cửa lấy, rồi mở tủ lạnh, lấy
bánh mì và đồ hộp ra ăn, trong khi ngó tivi, vì cha mẹ chúng tám chín giờ tối mới
về. Người ta gọi chúng là "Key children" (trẻ đeo chìa khóa). Việt
Nam mình chưa có tình trạng đó, nhưng tôi đã thấy nhiều gia đình cha mẹ đi làm
việc cả, nhốt con từ 3 đến 6 tuổi ở trong nhà, khóa cửa lại, trưa về cho chúng
ăn rồi lại đi tới chiều tối.
Nhưng người ta bắt trẻ lớp Một học thuộc lòng bài này:
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Bác Hồ hơn mẹ hơn cha
và giảng cho chúng rằng công Bác Hồ nuôi chúng, dạy dỗ chúng
Ông Hồ Chí Minh biết việc này hẳn ông không vui?
Như vậy là người ta nhồi vào óc trẻ điều này: đoàn thể, đảng
quan trọng hơn gia đình, để tập cho chúng sớm thoát ly gia đình, và hễ cha mẹ
già thì đưa vào dưỡng lão viện.
Người ta không hiểu rằng không thể chỉ có đoàn thể mà không
có gia đình, rằng đoàn thể dù tổ chức hoàn hảo tới đâu, có những tiện nghi tối
tân tới đâu cũng không thể thay thế được tình yêu của cha mẹ, ông bà. Thiếu
tình yêu đó thì trẻ không sung sướng, khỏe mạnh, thông minh được, lớn lên sẽ
không giúp gì được nhiều cho đoàn thể, quốc gia. (Coi cuốn Đời mới dạy con theo
lối mới của tôi -1958). Nghe nói gần đây người ta đã bỏ câu: "Bác Bác Hồ
hơn mẹ hơn cha" rồi. Tiến bộ!.
Tôi mừng rằng ở thời đại này được sinh ở phương Đông, hồi nhỏ
được cha mẹ và bà ngoại săn sóc (ông nội, bà nội tôi đều mất trước khi tôi
sanh), lớn lên được học đạo Khổng; biết chủ trương xã hội của Khổng là
"lão giả an chi, thiếu giả hoài chi" (Luận Ngữ, Công Dã Tràng). Và
bây giờ còn thấy nhiều gia đình tôn trọng, săn sóc cha mẹ già, hoa quả trong vườn
có thứ gì ngon nhất thì để dành cho cha mẹ, cha mẹ đi xóm mà chậm về thì đi
tìm, nếu cha mẹ gặp mưa không về được thì đem áo mưa, dù đi đón; phòng của cha
mẹ thì giữ cho tĩnh mịch, sạch sẽ. Tôi lại được thấy một số học trò cũ của tôi,
nay đã gần 50 tuổi, coi vợ chồng tôi như cha mẹ.
Nhà văn Nguyễn Hữu Ngư - mất năm kia - có lần hỏi tôi:
"Anh là người cũ hay người mới?". Tôi không biết đáp ra sao, chỉ bảo:
"Cái đó tùy mỗi người nhận định". Tôi không nhất định cho rằng tục lệ,
luân lý của xã hội nông nghiệp hoàn toàn tốt đẹp; tôi cũng không bảo rằng xã hội
kỹ nghệ phương Tây sa đọa quá rồi, con người cực kỳ ích kỷ, phóng đãng, tàn nhẫn.
Tôi thấy xã hội nào có cái gì đẹp thì tôi theo, cái gì xấu thì tôi bỏ. Hai mươi
lăm năm trước, một anh bạn theo đệ tứ hay đệ tam, nghe tôi nói vậy, bĩu môi,
chê: "Vậy là anh theo éclectisme à?" Tôi đáp: "Nếu như vậy là
éclectisme thì tôi theo éclectisme" 2.
Tôi thực tình mừng rằng từ niên khóa 1979-1980 này, ở cấp một
các trường phổ thông lại có giờ luân lý hay đạo đức gì đó, và các trẻ lại được
cô giảng cho tình thương và công của cha mẹ.
MỘT THỜI LÊU LỔNG
Mẹ tôi, ngày nào cũng đi từ sáng sớm, tối mịt mới về nhà, người
lại không biết chữ, nên không thể kiểm soát sự học của chúng tôi được. Đầu năm
học, chúng tôi cần tiền mua bút mực sách vở thì người lấy trong ruột tượng ra
đưa; cuối năm người hỏi có được lên lớp không, thế thôi. Ruột tượng của người
là một cái túi hẹp mà dài khoảng thước rưỡi bằng sồi (tơ gốc, mặt sù sì, rất bền)
vừa để thắt lưng vừa để đựng tiền. Tối nào người đi thu tiền về thì ruột tượng
đầy xu đồng và trinh, phồng ở trước bụng.
Khi cha tôi mất, tôi đã biết lo về thân phận của mình, nhưng
tuổi đó chỉ ngủ một đêm, sáng dậy đã quên hết. Lo thì lo vậy, chứ không biết
siêng học. Không còn cha nhắc nhở, kiềm chế nữa, tôi bỏ bê việc học trọn một
niên khóa. Tôi vẫn đi học đều đều, không trốn buổi nào, nhưng thường đi sớm mà
về rất trễ vì cùng với bạn thơ thẩn trên bờ đê tìm cỏ gà, bắt dế. Tối tối, tôi
và em trai tôi rủ nhau ra chơi ở cột đồng hồ - một cột sắt cao khoảng 3 thước,
trên có một đồng hồ, lớn như đồng hồ chợ Bến Thành; cột dựng ở giữa ngã năm,
bên bờ sông, đầu ngõ Phất Lộc trông ra, cột đó nay vẫn còn. Thời đó đường Bờ
Sông chỉ trải đá, chưa tráng nhựa, chiều hè gió ngoài sông thổi vào, bụi mù,
thành phố phải dùng những xe bò kéo chở nước đi tưới. Tối, có ba bốn ngọn đèn
điện sáng trưng, các loài sâu có cánh bu lại, trẻ con mấy phố và ngõ chung
quanh cũng bu lại chạy nhảy trên một cái nền tròn rộng, bắt cào cào, bươm bướm,
dế, cả cà cuống nữa.
Chơi chán, chúng tôi ra bờ sông, ở phía ngoài đê, lại bến
tàu, leo lên những đống hàng - nhiều nhất là thùng rượu - hóng gió, nhìn tàu và
thuyền đậu san sát trên mặt nước loang loáng chỗ sáng, chỗ tối. Ba bốn đứa nói
chuyện láo với nhau, hoặc chơi hú tìm, đuổi bắt nhau giữa những đống hàng mới bốc
ở dưới tàu lên, chưa kịp chở vô kho. Đêm nào cũng tới lúc nghe tiếng rao:
"Bánh giò, bánh dày" của những người bán hàng đầu đội thúng, tay xách
một cái đèn dầu, đi dọc bờ sông chuyên bán cho các phu khuân vác làm khuya,
chúng tôi mới về nhà. Lúc đó vào khoảng chín mười giờ tối.
Trọn các ngày nghỉ, chúng tôi chỉ có mặt ở trong nhà trong bữa
cơm, còn thì ra ngõ, hoặc đường Bờ Sông chơi với trẻ trong xóm. Chúng là con
gia đình lao động: bố làm thợ mộc, thợ cưa, mẹ bán cháo, bán xôi, có khi cả bố
lẫn mẹ đều làm phu khuân vác ở bến tàu. Cũng có đứa biết đọc chữ Quốc ngữ, lâu
lâu chán chơi, lấy chuyện Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa của bố, ngồi đọc cho cả
bọn nghe. Chúng coi anh em tôi là cùng bọn, khi nào gây gổ với tụi con nhà giàu
theo đạo "Giê du ma" (đạo Ky Tô), có xe nhà gọng đồng bóng lộn ở dãy
nhà lầu trước ngõ thì chúng rủ anh em tôi cho thêm đông. Thôi thì đủ các trò
nghịch, mất dạy "ma cà bông" (vagabond) như người nói thời đó.
Bà chúng tôi hiền từ không mắng chúng tôi, cứ đến bữa cơm thì
đi gọi chúng tôi về ăn; còn mẹ chúng tôi thì nghiêm khắc hơn, hôm nào về nhà sớm,
gặp chúng tôi lê la ở ngoài ngõ với trẻ hàng xóm thì quát tháo, bắt phải về liền,
có khi quất nữa.
Mùa đông, tôi không ra đường chơi được thì ở nhà đọc truyện
Tàu cho cả nhà trong (tức gia đình chúng tôi), nhà ngoài (tức gia đình bà Cả
Chiêm, ăn thừa tự) nghe; hết một cuốn thì cầm hai xu chạy vù lại hiệu Cát Thành
đầu phố hàng Gai đổi cuốn khác.
Suốt một năm như vậy, bài nhà trường, tôi có học, có làm
không, tôi không nhớ nữa; tôi có học thêm được chút nào không? Có lẽ cũng được
ít chữ, nhưng không đủ để lên lớp trên, và đầu niên khóa sau tôi học lại với thầy
Chử. Cha tôi còn thì chắc chắn tôi khỏi phải "đúp".
Ngày nay nghĩ lại, một năm đó, xét về việc học, tôi đã bỏ phí
rất nhiều, đáng tiếc thật; nhưng về mặt khác - về thể chất, về tính tình chẳng
hạn - biết đâu tôi chẳng được lợi một chút: chạy nhảy nhanh nhẹn hơn, sống giản
dị, tự nhiên hơn, hiểu biết trẻ bình dân hơn?
TU TỈNH
Niên khóa sau, sau ngày nhập học độ một hai tháng, một hôm thầy
Chử chấm bài cho tôi rồi ngửng lên nói với cả lớp: "Lê marche à
reculons" (Trò Lê đi giật lùi). Bị bạn bè chế giễu, tôi xấu hổ, nhớ hoài
câu đó, quyết tâm sửa tính.
Ít bữa sau, tôi xin tiền mẹ mua ở hiệu Thụy Ký phố hàng Giấy
một "manh" giấy (main de paper) tức một xấp 25 tờ hạng tốt, dày, trắng
mịn, một cái bìa, một cây viết chì mềm Gilbert và một cây thước kẻ thật thẳng.
Thời đó chưa có những tập vở 48 hay 100 trang, chúng tôi phải
mua giấy đóng vở lấy. Giấy khổ lớn, gấp thành 21 x 31 phân, lại chưa kẻ hàng,
chúng tôi phải kẻ lấy, vì vậy cần có bút chì và thước tốt.
Một sáng mùa đông - chắc là đầu tháng mười vì trời chưa rét lắm
- tôi dậy từ lúc từ còn tối trời, đốt đèn dầu ôn lại bài học, ăn một chén cơm
rang rồi sắp tập vở mới vào cặp để tới trường. Từ hôm đó tôi giữ gìn tập vở sạch
hơn, học bài kỹ hơn; cuối niên tôi vượt lên hạng nhất hay hạng nhì. Chỉ có ba
chữ của thầy mà thay đổi được đời học sinh của tôi, điều đó, thầy tôi có ngờ được
không? Còn trong gia đình thì không ai biết cả vì tôi không hề nói với ai. Lên
lớp nhất (cours Supérieur), khi học câu đầu bài Rentreé des classes của Anatole
France: "Je vais vous dire ce que me rappellent tous les ans, le ciel
agité de l’automne, les premiers dîners à la lampe et les feuilles qui
jaunissent dans les arbres qui frissonnent 3 thì hình ảnh bữa điểm tâm dưới ánh
đèn của tôi năm đó lại hiện lên.
Tôi nhớ hoài công của thầy tôi. Trên 30 năm sau, hồi tôi ở đường
Huỳnh Tịnh Của, tự xuất bản sách của tôi, một hôm một độc giả lại thăm. Thấy
ông ta là người Bắc di cư năm 1954, sau hiệp định Genève mà lại họ Hà, tôi hỏi
ngay: "Ông có cùng họ với cụ Hà Ngọc Chử, khoảng 1920 dạy ở trường Yên Phụ,
Hà Nội và quê ở Hà Giang không?". Ông ta đáp không. Tôi lại hỏi có nghe
nói về cụ ấy không? - cũng không nữa. Tôi hơi buồn. Hồi đó nếu được tin thầy,
thì thế nào tôi cũng tìm thăm hoặc viết thư ôn lại chuyện cũ với thầy.
Năm sau lên lớp 3 tôi vẫn vào hạng giỏi trong lớp. Những môn
Sử, Địa, Thường thức (Leçons de choses) 4 dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ. Mỗi
bài dài độ 7, 8 hàng. Nhà trường không bắt học sinh mua sách. Thầy giáo chép
bài lên bảng đen để học sinh nhìn mà chép vào vở. Tôi và một anh bạn lớn hơn
tôi đến 4-5 tuổi - thời đó học sinh đều khai rút tuổi - ngồi sát nhau, vừa chép
bài vừa nhẩm từng câu, khi hết bài, đọc lại trọn bài 1, 2 lần, như vậy là thuộc.
Giờ ra chơi chúng tôi trả bài với nhau ở dưới gốc nhãn. Vì vậy mà về nhà còn dư
thì giờ nhiều lắm; không có ai dạy thêm, cũng không có sách để đọc, hình để coi
như trẻ ngày nay.
Đã sẵn đà rồi, mấy năm sau tôi học dễ dàng. Chỉ có niên khóa
lớp nhì năm thứ nhất (Moyen première année), tôi gặp một thầy bất công, giả dối,
tôi không ưa, suốt đời tôi ghét nhất bọn giả dối và bọn bán nước, lại thêm mùa
đông bị bệnh sưng đầu gối và mắt cá chân, đau nhức vô cùng, phát sốt lên mê man
cả tuần lễ, phải nằm liệt giường, uống thuốc Bắc và thuốc Nam gần một tháng mới
hết, phải bỏ mất mấy kì thi hằng tuần; nên số điểm của tôi kém, cuối năm tôi phải
"đúp", mặc dầu tôi còn sức lên lớp hơn nhiều bạn khác. Thời đó Pháp
muốn hạn chế sự học của mình, không cho cuối hè được thi lại những môn thiếu điểm.
Trong năm đó tôi đã đọc loại sách Livres roses của Pháp, muốn tra những chữ
khó, tôi đã nhịn ăn sáng 6 tháng để mua cuốn tự điển Larousse élémentaire
illustré. Ngày nay học sinh ở cấp 3 vẫn không có tự điển Việt ngữ để tra.
Hai năm cuối cùng bậc tiểu học Pháp Việt: Lớp nhì năm thứ nhì
(Moyen deuxième année) và lớp nhất (Supérieur) tôi đều nhất lớp. Lớp nhất tôi
chơi thân với hai anh Vũ Đình Hòe và Lê Huy Vân: ba chúng tôi đều vào hạng nhỏ
tuổi nhất mà học khá nhất. Hai anh Hòe và Vân sau đều học cử nhân Luật, viết
báo Thanh Nghị (anh Hòe làm chủ bút), hiện nay đều còn sống ở Hà Nội, thỉnh thoảng
cũng viết báo Dân Chủ (Hòe) và Tổ Quốc (Văn). Không ngờ ba anh em tôi đều thành
nhà văn, nhà báo cả.
LÃNH PHẦN THƯỞNG Ở NHÀ HÁT TÂY, GẦN BẾN THẢO TÂN
Thời đó, những học trò được giải thưởng nhất (Prix
d’Exellence) ở lớp nhất của các trường tiểu học Hà Nội thì được lại nhà hát Tây
lãnh thưởng, còn những trò khác lãnh tại trường mình. Đi học chúng tôi toàn đi
chân không; riêng tôi có năm bận một chiếc áo dài vải đen vá một miếng hình chữ
L trước ngực, bị Hòe và Vân chế là mang tên trước ngực. Nhưng vào rạp hát lớn
lãnh thưởng mà đi chân đất hoặc đi guốc thì không được; tôi thưa như vậy với mẹ
tôi và người mua cho tôi một đôi giày cũ của một người thợ sửa giày nào đó ở gần
chợ. Đã không quen đi giày mà giày lại lớn, xỏ chân vào bước được hai bước thì
nó đã văng ra đằng trước; vì vậy hôm đi lãnh thưởng, tôi xách giày mà đi đất, tới
gần nhà hát Tây, xuống bãi cỏ ở chân bờ đê sông Nhị rửa chân 5, xỏ vào giày rồi
rón rén từng bước đi lại nhà hát cách bờ sông độ trăm thước. Ngồi trong rạp thấy
chung quanh toàn những học sinh lớn nhỏ, nam nữ sang trọng, tôi lo ngại đi
không khéo để giày văng ra thì ê quá.
Lượt về tôi cũng rón rén từng bước vì một tay ôm chồng sách lớn,
một tay xách giày thì kỳ quá. Lần đó là lần đầu tiên tôi thấy bực mình vì sự bó
buộc của cách ăn mặc. Sau tôi còn bị một lần nữa: ngày cưới vợ, tôi phải bận bộ
smoking với chemise à plastron chỉ để chụp một tấm hình, dự một bữa tiệc rồi bỏ,
thật uổng tiền! Tôi quý bà Marie Curie ngày cưới chỉ may mỗi một chiếc áo vừa để
làm lễ ở giáo đường vừa để đi dạy học được. Suốt đời tôi chỉ thích bận bộ bà
ba, ra ngoài thì khoác thêm chiếc áo dài, xỏ đôi dép, không mất một phút. Bận đồ
Tây phải cài khuy manchette, thắt cà vạt, cột giày, tôi cho là mất thì giờ quá.
Về y phục, tôi giản dị như mẹ tôi, khác hẳn cha tôi và vợ con tôi.
Tối hôm đó, nhìn chồng sách thưởng của tôi, mẹ tôi rất vui và
chắc hãnh diện ít nhiều, nhưng người không bao giờ khoe sự học của tôi với ai cả.
HỌC GIỎI MÀ THI RỚT - HỌC TƯ
Có những sự rủi kỳ cục mà lại ảnh hưởng tốt tới đời mình, khiến
chúng ta không thể không tin rằng có số phận, một sự an bài nào đó.
Học nhất lớp mà thi tuyển vô trường Bưởi, hồi đó còn gọi là
Collège du Protectorat (trường Bảo hộ) tôi rớt, còn Hòe và Văn đều đậu. Rớt về
môn ám tả Pháp, môn này không đủ điểm thì bị loại ngay, không chấm các môn sau,
dù bài làm có hay tới mấy cũng vô ích. Cho nên rớt chánh tả, chúng tôi gọi là
"bay kinh nghĩa". (Thi Hương thời xưa, bài đầu tiên là bài kinh
nghĩa, không đủ điểm thì không được vào kỳ nhì, rớt luôn).
Tôi ngồi gần cuối phòng mà giám khảo hôm đó là một nữ giáo sư
Pháp, già, quạu quọ, đọc rất khó nghe. Đầu bài chính tả là Notre chat Casimir.
Bài đó tôi bị nhiều lỗi quá. Tiếc nhất là một tháng trước, khi học tư trường
Trí Đức, trường đã đọc bài đó cho học sinh viết, nhưng đêm đó mưa, tôi nghỉ học;
nếu đi học thì nhất định khi thi tôi không mắc một lỗi nào và đã đỗ trên hạng
trung bình, vì những bài khác tôi làm khá hết. Chương IX tôi sẽ giảng vì sự rủi
lần đó mà sau tôi mới vô trường Công chánh rồi làm việc ở Nam, điều này quyết định
cả đời tôi.
Buồn cho mẹ tôi lắm, nhưng người không hề nói gì cả, mà tôi
có tính thất bại thì chịu chứ không viện lẽ này lẽ khác để biện bạch dù là những
lẽ rất chính đáng, rất đúng. Về điểm đó tôi lầm lì, có người cho tôi là tự cao.
Một người bà con ở phố hàng Đường (tức bên mẹ tôi) vợ một ông
ấm, khuyên mẹ tôi cho tôi phá ngang, nghĩa là thôi học, kiếm một việc gì đó mà
làm. Bà ta còn hợm hỉnh bảo với nhiều người "con cái nhà tôi không học như
con cái các người", ý muốn nói học để thành ông cử, ra làm quan huyện kia,
chứ không làm thầy ký, thầy thông. Mẹ tôi nghe chỉ làm thinh và cứ cho tôi tiếp
tục học, mỗi tháng bỏ ra hai ba đồng, trả học phí trường tư.
Sau khi học thử hai trường, tôi trở lại trường Trí Đức,
chuyên luyện Pháp văn và Toán, mỗi tối hai giờ. Trong năm này tôi đọc được một
số tiểu thuyết Pháp, loại "Meilleurs livres" rẻ tiền của nhà
Hachette, mỗi tập khổ 11x17 phân, 90 trang, bán hai xu 6. Tôi say mê đọc Les
Misérables của Victor Hugo mà lúc đó Nguyễn Văn Vĩnh mới dịch ra tiếng Việt, rồi
Les travailleurs de la mer, Notre Dame de Paris cũng của Hugo. Tôi nhận thấy
Hugo hay dùng antithèse (như phép đối ngẫu của mình), mạnh mà kêu, và tôi hơi lây
bút pháp đó.
Ở trường Trí Đức, tôi xuất sắc cả về hai môn Pháp văn và
Toán. Ông hiệu trưởng mến tôi, giao một công việc sổ sách cho tôi làm trong
ngày chủ nhật, và số tiền ông cho tôi để mua sách, tôi đem về đưa hết cho bà
ngoại tôi (tôi đã chép việc đó trong Cháu bà nội tội bà ngoại).
Năm sau (1927), tôi thi lại và trường Bưởi, đậu thứ 12 trên
160 học sinh trúng tuyển (thí sinh là 650). Em trai tôi đương học trường Yên Phụ.
Lúc này mẹ tôi yên tâm rồi. Người phải tiêu pha nhiều cho chúng tôi (vì không
ai chỉ bảo cho chúng tôi để xin học bổng) mà học phí của tôi là 3 đồng mỗi
tháng, nhưng việc buôn bán của người hồi này cũng khá. Cảnh gia đình tôi, nhờ
người lại vượng lên.
Chú thích:
1. Bến đó cũng tựa như cầu Ông Lãnh ở Sài Gòn, nhưng nhỏ hơn
nhiều.
2. Có tự điển dịch là chủ nghĩa chiết trung, tôi nghĩ có thể dịch
là Trạch thiện chủ nghĩa, thì đúng hơn. Trạch thiện, chữ trong Luận ngữ (Thuật
nhi 21) có nghĩa là lựa cái hay mà theo.
3. Tôi xin kể bạn nghe, hàng năm tôi bâng khuâng nhớ những gì
khi mà trời thu mây vần, bữa ăn chiều đã bắt đầu phải thắp đèn, và lá đã ngã
vàng trên các cành run rẩy.
4. Thời đó gọi là Cách trí, do bốn chữ Cách vật trí tri trong
sách Đại học.
5. Bải cỏ đó, theo Nguyễn Triệu Luật trong Ngược dòng sông Nhị
thì thời xưa là Bến Cỏ (Thảo Tân).
6. Tiểu thuyết đầu tiên tôi đọc khi học lớp Moyen première
année là cuốn Voyage à Madagascar, loại Livres roses cho thiếu niên.
CHƯƠNG 5 - NHỮNG NĂM Ở TRUNG HỌC
TRƯỜNG BƯỞI
Năm tôi mới vào, trường Bưởi còn là trường Cao đẳng tiểu học
Pháp Việt (Collège) học bốn năm rồi thi ra lấy bằng Diplôme d’études primaires
supérieures franco - indigènes tương đương với bằng Brevet élémentaire (sau đổi
là Brevet d’études du première cycle) của Pháp. Một học sinh giỏi thi cả hai bằng
và đậu hết. Năm sau trường mở thêm ba lớp nữa để dạy tới tú tài bản xứ
(Baccalauréat local), và trường đổi tên là Lycée du Protectorat (Trung học Bảo
hộ); ban Cao đẳng tiểu học đổi là ban Trung học đệ nhất cấp.
Năm 1927, cả nước chỉ có chín trường Cao đẳng tiểu học cho
nam sinh và ba cho nữ sinh (tôi không kể những trường Sư phạm chuyên đào tạo
giáo viên tiểu học); ở Bắc có ở Hà Nội (trường Bưởi), ở Nam Định, ở Lạng Sơn
cho nam sinh; và một trường nữa (Đồng Khánh) ở Hà Nội cho nữ sinh, ở Trung có
hai trường ở Huế (một cho nam, một cho nữ), một trường ở Vinh, một trường nữa ở
Qui Nhơn, ở Nam có hai trường ở Sài Gòn: Pétus Ký cho nam, Gia Long cho nữ, một
trường ở Mỹ Tho, một trường nữa ở Cần Thơ.
Trường Tây dạy tới tú tài Pháp (Bacalauréat métropolitain)
thì cả nước chỉ có hai: Lycée Albert Sarraut ở Hà Nội và Lycée Chasseloup
Laubat ở Sài Gòn (sau mới thêm trường nữ Marie Curie).
Ngoài ra còn một số trường của công giáo và một số trường tư.
Trường Bưởi nổi tiếng nhất ở Bắc cũng như Pétrus Ký ở Nam. Đa
số học trường Bưởi ở trong giới trung lưu, ông cha có Nho học. Những gia đình
giàu có, có thế lực ít nhiều, nhất là theo Pháp thì xin cho con vào học trường
Tây, tốn kém hơn vì phải mặc đồ Tây.
Giáo sư trường Bưởi thời tôi học phần nhiều là Việt, ở trường
Cao đẳng Sư phạm Hà Nội ra. Giáo sư Pháp chỉ có hai ba người có bằng cử nhân
hay tiến sĩ, còn thì chỉ có Brevet supérieur hoặc Brevet élémentaire. Hạng ít học
này dạy rất kém, có tinh thần kỳ thị chủng tộc. Kỷ luật nhà trường rất nghiêm,
hiệu trưởng và tổng giám thị Pháp rất hách dịch, có kẻ tàn nhẫn. Ở trường
Albert Sarraut, giáo sư ít nhất phải có cử nhân, một số là tiến sĩ, thạc sĩ, dạy
giỏi hơn, cho học sinh tự do hơn.
Chính vì sinh trong các gia đình có Nho học, nhà nghèo, nên học
sinh trường Bưởi siêng hơn trường Albert Sarraut: một số đậu Diplôme d'études
pimaires supérieures (bằng Thành chung) rồi, học tư hoặc tự học một năm là đậu
được tú tài một của Pháp, và một số đậu tú tài bản xứ (chương trình gồm cả lớp
Toán và lớp Triết của trung học Tây), rồi thi ngay tú tài Pháp đậu nữa mà còn đậu
cao, cả Toán lẫn Triết, thành thử một năm đậu được ba bằng cấp tú tài.
Cũng vì là con cháu nhà Nho, nên tinh thần ái quốc xét chung
cũng cao hơn học sinh trường Tây, và chỉ ở trường Việt mới có những cuộc bãi
khóa như cuộc bãi khóa năm 1925 về vụ truy điệu nhà cách mạng Phan Châu Trinh.
Trong vụ đó nhiều học sinh trường Bưởi bị đuổi.
Nếu làm thống kê thì tôi chắc số nhà cách mạng và số học giả,
thi sĩ, nghệ sĩ, khoa học gia, chính trị gia nổi danh xuất thân từ trường Bưởi
đông hơn hết thảy các trường trung học khác ở Bắc nhập lại.
Ngay trong lớp tôi, tôi đã biết hai anh bạn làm cách mạng từ
hồi còn học năm thứ ba: anh Thiều, anh Nghiêm mà tôi đã nhắc tới trong bài Tựa
cuốn Gương danh nhân (1959); và trong khóa tôi (1927-31) có hai người bạn viết
văn khá nổi danh từ trước thế chiến: Hướng Minh (Phó Đức Vinh) và Thao Thao
(Cao Bá Thao).
Năm 1945 (hay 1946) trường đổi tên là Chu Văn An. Tôi thấy
không có tên nào hợp hơn. Truyền thống của trường là học để thành những nhà trí
thức yêu nước, có khí tiết. Điểm đặc biệt nhất, có lẽ chưa ai để ý tới, là truyền
thống đó không do chương trình học tạo nên - vì chương trình có tính cách thực
dân rất nặng: sử Pháp thì 4 năm học 3, 4 cuốn, mỗi cuốn dày 2, 3 trăm trang; sử
Việt thì cả bốn năm chỉ học một cuốn dày độ 200 trang mà do một người Pháp chỉ
có bằng Brevet élémentaire dạy, lão chẳng biết gì cả, cứ chỉ bài trong sách cho
chúng tôi học rồi tuần sau trả bài - cũng không do giáo sư truyền cho học sinh,
vì các giáo sư chỉ theo đúng chương trình, không ai muốn hoặc dám giảng thêm.
Tôi biết nhiều vị cũng yêu nước, chẳng hạn như giáo sư Dương Quảng Hàm, em ruột
nhà cách mạng Dương Bá Trạc trong Đông Kinh nghĩa thục, nhưng kỷ luật của trường
là trong lớp không nói tới chính trị và tất nhiên các vị ấy không thể làm khác.
Truyền thống của một trường mà lại do chính học sinh tạo nên, điều đó thật lạ
lùng, rất ít thấy ở phương Tây: đó là một niềm hãnh diện cho học sinh trường Bưởi,
có lẽ của vài trường trung học khác trong nước nữa mà tôi không được biết.
BỐN NĂM TRƯỜNG BƯỞI
Trường Bưởi ở cuối đường Quan Thánh, trên bờ Hồ Tây, ngó qua
vườn Bách Thảo, chỉ cách trường Yên Phụ hai làn nước, không tới 500 thước, nếu
không có hai rặng cây đường Cổ Ngư che khuất thì ở trường này nhìn thấy trường
kia được. Sau này, lên Đại học thì chỗ học và nội trú của tôi ở Sở Tổng Thanh
tra Công chánh, đầu phố hàng Vôi (?) và trong khu Đại học Bobillot; hai nơi này
đều ở bờ sông Nhị. Thành thử suốt đời học sinh của tôi dài mười mấy năm, chỉ di
chuyển dọc theo bờ đê sông Nhị, trong một khoảng dài non 4 cây số (từ trường Bưởi
tới học xá Bobillot) mà nhà tôi ở giữa đường, chỗ Cột đồng hồ Bờ sông. Quê tôi ở
Phương Khê cũng ở bờ sông Nhị. Tôi thật có duyên với con sông lịch sử đó.
Từ nhà tới trường Bưởi đường dài khoảng hai cây số rưỡi, tôi
đi bộ mất khoảng 45 phút, mỗi ngày bốn lượt, mười cây số, mất khoảng 3 giờ, vừa
mệt sức vừa mất thì giờ. Hồi đó xe đạp còn là một xa xí phẩm, cả lớp tôi không
chắc có được một chiếc. Riêng tôi thì ngay đồng hồ và áo mưa cũng không có. Những
tháng cuối niên học, trời nắng gắt, tôi phải đi xe điện, đón xe ở góc phố hàng
Buồm và hàng Ngang, mỗi chuyến hai xu. Đi xe điện thì đỡ mệt, tiết kiệm thì giờ
độ một phần ba vì phải đợi xe và vẫn phải đi bộ một quãng. Tôi đậu khá cao, nhà
lại nghèo, nếu biết mà làm đơn thì có thể được học bổng vào nội trú, có đủ tiện
nghi, phương tiện tốt để học hơn.
Hai năm đầu, tôi không thích lối dạy của vài giáo sư mà sức
khỏe cũng kém, lại bị sưng đầu gối, mắt cá chân, phải nghỉ học non một tháng. Lần
này nhờ uống một thứ thuốc ngâm rượu gồm 4, 5 vị rất nóng: quế chi, đại hồi, tiểu
hồi, xương truật và xông chân bằng khói cành dâu đốt cháy, tưới nước tiểu mà bệnh
hết luôn, không tái phát nữa. Gần đây tôi mới biết bệnh đó là bệnh phong thấp,
sưng khớp xương cấp (rhumatisme articulaire aigu), có thể biến chứng, hại cho
tim; thời đó những gia đình nghèo như nhà tôi, đau nặng thì nhờ số phận, nhờ trời
hết, chứ tiền đâu mà đi bác sĩ: mỗi lần coi mạch phải trả 5 đồng, bằng hai chỉ
vàng. Mới mạnh được ít tháng thì bị mụn ghẻ. Mụn ghẻ nổi khắp người, mưng mủ
lên, nửa năm mới hết, nên học chỉ vào hạng khá - khoảng thứ mười trong lớp
thôi, nhưng cũng được phần thưởng vì xuất sắc về môn: Toán, Sử.
Lên năm thứ ba và thứ tư tôi lại vượt lên, đứng đầu lớp, được
phần thưởng về hầu hết các môn, và cuối năm thứ tư lại được ra Nhà hát Tây lãnh
thưởng. Tôi học rất đều, môn nào cũng từ hạng tư hạng ba trở lên, nhưng không
có môn nào vượt xa bạn thứ nhì trong lớp về riêng môn đó. Tôi chỉ là một học
sinh siêng một cách vừa phải - không bao giờ tôi thức khuya để học - mà hơn hạng
trung bình, nhất là rất có quy củ, phương pháp. Trong lớp tôi thấy có anh học
mau nhớ hơn tôi, nhưng thật xuất sắc thì trong niên khóa của tôi, cơ hồ không có
ai cả. Sau này tôi nghe nói, rước chúng tôi mấy năm có một anh bạn ký tính lạ
lùng, sách gì cũng chỉ đọc qua một lượt là nhớ. Hiện nay anh ta còn sống, trên
bảy chục rồi mà trong đời chưa thấy lập nên sự nghiệp gì.
KÝ TÍNH KHÔNG PHẢI LÀ QUAN TRỌNG NHẤT
Có một kí tinh siêu đẳng là một điều rất lợi, nhưng bấy nhiêu
chưa đủ. Thế hệ nào cũng có một vài người chỉ đọc sách qua một vài lần là nhớ,
nhưng suốt thời Hán học dài ngàn năm, dân tộc ta chỉ có một Lê Quý Đôn và một
Phan Huy Chú, còn biết bao người khác bỏ uổng tài của mình, có kẻ sinh kiêu
căng hoặc tự tín quá, không chịu kiểm soát lại xem mình có nhớ đúng không, do
đó mà lầm lẫn.
Từ thời thượng cổ loài người đã tìm mọi cách để giúp trí nhớ.
Mới đầu người ta dùng cách buộc nút (kết thằng) hoặc gạch những vạch lên một
cái gậy như các bộ lạc bán khai hiện nay ở châu Phi, châu Á. Khi có chữ viết
thì người ta dùng chữ để ghi; và một số kinh của Trung Hoa như Mặc kinh, Dịch
kinh (Thoán từ, Hào từ) chỉ là những cuốn "giúp trí nhớ"
(aid-mémoire), lời rất gọn, phải có "truyện" để giải thích mới hiểu
được. Người ta phải học thuộc lòng và Đông, Tây đâu đâu cũng tìm ta được những
thuật để dễ nhớ, chẳng hạn đặt thành vè như Tam tự kinh: thiên trời, địa đất, tử
mất tồn còn Người Trung Hoa phải thuộc lòng ngũ kinh, tứ thư, người Ả Rập cũng
phải thuộc lòng kinh Coran. Thời đó trí nhớ quan trọng vào bực nhất.
Từ sau thế chiến thứ nhất, người phương Tây in mỗi ngày một
nhiều Bách khoa tự điển cho mọi tuổi (trẻ nhỏ và người lớn) cho mọi môn, mọi giới
người. Kiến thức mỗi ngày một tăng, không bộ óc nào nhớ cho hết được, và những
bộ tự điển giúp chúng ta tìm kiếm những điều muốn biết; do đó trí nhớ bớt quan
trọng, mà cách sắp xếp, tổ chức, tưởng tượng, tìm tòi thành ra cần thiết hơn.
Hiện những máy điện tử, những "bộ óc điện tử" công
hiệu gấp triệu, gấp tỷ lần bộ óc con người. Chỉ trong vài giây nó làm được những
phép toán rất khó mà các nhà toán học giỏi nhất phải vài năm mới làm xong. Nó
ghi được tất cả những kiến thức của loài người, và ta muốn hỏi nó điều gì thì
chỉ cần bấm nút là nó trả lời liền. Như vậy thì cần gì phải nhớ nữa? Hồi nhỏ
tôi phải học như cuốc kêu mùa hè không biết bao nhiêu lâu mới thuộc bảng cửu
chương, và ở trung học phải thuộc những con số như V2=1,1414, V3=1,732 để làm
toán. Ngày nay nghe nói ở Pháp học sinh tiểu học khỏi phải học cửu chương, và
tôi mới được một anh bạn cho coi một máy điện tử nhỏ bằng bàn tay, nặng độ 200
gram, do Nhật chế tạo, vừa là đồng hồ báo thức, vừa là máy tính làm được bốn
phép tính căn bản và phép lấy căn số hai (extraction de la racine carrée) với
sáu số lẻ. Mà giá chỉ vào khoảng 30 Mĩ kim. Chỉ vài chục năm nữa, những máy điện
tử như vậy sẽ phổ biến khắp thế giới, lợi biết bao cho học sinh. Nhưng tôi nghĩ
không thế nào bỏ hẳn sự luyện ký tính được. Không nên bắt trẻ nhớ những cái vô
ích, nhưng vẫn có những điều căn bản mà người nào cũng phải nhớ, nếu không thì
không gọi là có học thức được. Công việc đầu tiên là định sao cho đúng những điều
nào là căn bản.
CÁC THẦY DƯƠNG QUẢNG HÀM, FOULON, THẨM QUỲNH, NGUYỄN GIA TƯỜNG
Trong số giáo sư trường Bưởi tôi được học, tôi quý hai thầy
nhất: Thầy Dương Quảng Hàm và thầy Poulon.
Tôi đã viết một bài về thầy Dương đăng trong số Bách Khoa 236
(1-11-1966). Thầy có đủ tư cách một nhà mô phạm và một học giả. Thầy dạy Việt
văn ở ban Tú tài; Việt văn và Pháp văn ở ban Cao đẳng tiểu học, năm thứ ba và
thứ tư. Thầy nhỏ người, vui vẻ, nụ cười hồn nhiên, sống rất giản dị, làm việc rất
có quy củ và cẩn thận. Đối với chúng tôi, thầy rất công bằng, nghiêm một cách vừa
phải, có phần hơi dễ dãi nữa; một lần thầy tỏ ra đa cảm và đại độ khi cả lớp
chúng tôi làm reo không học bài thuộc lòng (récitation) tả Hồ Tây (ở Hà Nội) của
Jules Boissière, một nhà văn thực dân mà chúng tôi rất ghét. Thầy chỉ tỏ vẻ buồn
thôi chứ không hề phạt chúng tôi. Chuyện đó tôi thuật lại rõ trong số báo kể
trên.
Thầy soạn vài ba cuốn sách giáo khoa cho ban Trung học: một
cuốn về sử Việt, bằng tiếng Pháp: Abrégé d’Histoire d’Annam; hai cuốn về văn học
Việt Nam và Văn học sử Việt Nam bằng tiếng Việt, cả hai đều có giá trị.
Thỉnh thoảng thầy cũng viết bài in trên báo Nam Phong và một
nội san của một cơ quan Văn hóa Pháp nghiên cứu về Viễn Đông hay về Đông Dương.
Suốt đời, hễ thầy thôi giảng thì cầm cây bút. Tất cả học sinh trường Bưởi không
ai không trọng thầy vì vậy. Mà các bạn đồng sự Pháp, Việt của thầy cũng quý thầy
nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng Pháp ở
Hà Nội.
Thầy Foulon trái lại, cao lớn, có lẽ cao hơn một thước tám,
lúc nào cũng hấp tấp, rạp mình xuống lái chiếc xe "cuốc" (course), có
vẻ khác đời, chứ không hẳn là một triết nhân.
Thầy dạy luân lý (Morale) ở năm thứ tư cho chúng tôi và dạy
triết (hay Pháp văn) cho ban Tú tài. Thầy bắt học sinh gắng sức nhiều, giảng
cao hơn chương trình, gắt với học sinh kém, nhưng thân với học sinh giỏi. Tôi rất
chán cái lối học luân lý trong sách rồi trả lời một vài một vài câu hỏi. Thầy
Foulon không dùng sách, gần suốt giờ giảng về một đề tài nào đó, chúng tôi ngồi
nghe, ghi chép rồi về nhà viết lại thành bài, thường dài một trang rưỡi khổ giấy
lớn (21x33); giờ sau thầy gọi một vài trò lên đưa tập cho thầy coi, nếu sai thì
sửa lại. Bài nào tôi viết lại cũng kỹ, được thầy khen. Như vậy mỗi tuần gần như
chúng tôi phải làm thêm một bài luận mà mau tiến về Pháp văn được. Tôi thích lối
học đó, nó rất có kết quả. Thầy lại có tình lưu luyến với học trò, không kỳ thị
Việt. Khi sắp về Pháp nghỉ sáu tháng, thầy tới trường từ biệt chúng tôi, thấy
tôi chưa đến, nhắn các bạn tôi rằng thầy gởi lời thăm và ân hận không đợi tôi
được vì bận nhiều việc.
Cuối niên học (năm thứ 4), thầy Dương ghi vào học bạ của tôi:
"Le meilleur élève de sa classe à tous les points de vue"; thầy
Poulon ghi: "Excellent élève".
Còn hai thầy nữa sau cũng viết sách như thầy Dương: thầy Thẩm
Quỳnh, cử nhân Hán học, dịch Kinh Thư, bộ Quốc gia giáo dục xuất bản năm 1965,
bản dịch của thầy kỹ hơn bản của Nhượng Tống; và thầy Nguyễn Gia Tường, anh họa
sĩ Nguyễn Gia Trí, dạy chúng tôi suốt bốn năm về môn Khoa học tự nhiên
(Sciences naturelles - nay gọi là Vạn vật học); sau khi về hưu ở Sài gòn có viết
một cuốn mỏng về giáo dục và nhiều bài cũng về giáo dục, đăng trên tạp chí Bách
Khoa. Thầy rất buồn về sự bê bối trong các trường tư ở Nam trong những năm
1960. Thật là một người có nhiệt tâm với tiền đồ quốc gia. Thầy còn sống, năm
nay trên 80 tuổi. Thầy Thẩm đã mất khoảng 8, 9 năm trước rồi.
NGOẠI Ô HÀ NỘI
Trường Bưởi cũng ở trên bờ một cái hồ - hồ Tây - như trường
Yên Phụ, nhưng rộng lớn hơn nhiều, kiến trúc mới hơn, có nhiều dãy lớp học mà
hai dãy có lầu làm phòng ngủ cho học sinh nội trú. Tôi không thích nó bằng trường
Yên phụ vì thiếu vẻ cổ kính, nhưng nó được một điểm là ở giữa một khu có nhiều
cổ tích.
Phía bên trái là con đường xe điện lên làng Yên Thái, tức
làng Bưởi; rồi tới vườn Bách Thảo, nhỏ hơn Sở Thú ở Sài Gòn, nhưng trong vườn
có núi Nùng mà hễ nhắc tới Thăng Long thì ai cũng nghĩ ngay tới núi Nùng, sông
Nhị. Gọi là núi chứ thực sự chỉ là một cái gò cao bốn năm thước có thể là nhân
tạo. Trước hoặc sau giờ học, những hôm nào ít bài, có một giờ nghỉ giữa hay cuối
buổi, chúng tôi thường rủ nhau lang thang trong vườn nhìn những chùm nhãn, những
trái sấu trên cây hoặc hưởng hương sen trong hồ, hương hoàng lan trên mấy chuồng
khỉ. Sau vườn Bách Thảo là làng Ngọc Hà, làng chuyên cung cấp hoa cho thành phố:
đào, mai, cúc, thược dược, lan, hồng, huệ, sói, nhài Thiếu nữ làng này nửa quê
nửa tỉnh, tình tứ, thuỳ mị mà lanh lợi, được Khái Hưng đưa vào tiểu thuyết Gánh
hàng hoa. Tiến vô chút nữa tới chùa Một Cột, một kiến trúc nhỏ nhưng độc đáo,
như một bông sen nổi giữa hồ.
Góc đường Quan Thánh và đường Cổ Ngư (nay đổi tên là đường
Thanh niên) có đền Quan Thánh, tức đền Trấn Võ, cất từ ngàn năm trước, nổi tiếng
vì một tượng thánh bằng đồng đen cao bốn thước, nặng bốn tấn, đúc vào đời Trần
(?).
Xưa nay trong sân đền mỗi năm có một cuộc thi thơ. Khoảng giữa
đường Cổ Ngư, trên hồ Tây, ở gần bờ có chùa Trần Quốc, nơi mà vua Lê, chúa Trịnh
thường lại hứng gió ngắm cảnh. Hồ Tây, từ đền Quan Thánh tới chùa Trần Quốc xưa
trồng sen, mùa hè hương thơm ngào ngạt; còn hồ Trúc Bạch thì nước trong, cạn, tắm
rất mát, nghe nói ngày nay nước đục vì các cống ở chung quanh trút hết nước bẩn
vào. Tôi nhớ những buổi chiều cùng với bạn ngồi trên đường Cổ Ngư này nhìn mặt
hồ nhấp nhô, loang loáng ánh nắng, đàn chim bay về phía núi Tản xanh thẳm ở
chân trời, nơi quê hương tôi mà nhớ câu: "Nhập thế cục bất khả vô văn tự"
của Nguyễn Công Trứ, trong lòng nổi lên một ước mơ ngông ngông.
Cuối đường làng Yên Phụ ở chân đê sông Nhị; chỗ này cũng trồng
nhiều hoa như Ngọc Hà nhưng có phần thú hơn vì nằm ngay trên bờ hồ. Trong tiếng
sóng vỗ vào bờ, tôi tưởng như văng vẳng có tiếng ngâm thơ của Hồ Xuân Hương.
Chung quanh hồ, phía bên Nghi Tàm cũng như phía bên Thụy Khuê, có biết bao cổ
miếu, cổ tự, đình đài, nhiều ngôi xây cất từ đời Lý, cách nay tám chín thế kỉ,
hễ bước vào là lòng tôi rung động nhè nhẹ một cách tuyệt thú.
Những ngày lễ, nhất là đầu và cuối nghỉ hè, tôi thường đi
chơi xa hơn, như vô Thái Hà ấp, lên Đống Đa thăm đền Trung Liệt. Đây là nơi vua
Quang Trung đã chôn mấy vạn quân Thanh năm 1789, năm mà ở Pháp có cuộc đại cách
mạng. Thời cha tôi còn sống, có lần người dắt tôi leo những bực gạch lên đền
này và bảo tôi đọc ba chữ Trung Liệt Miếu ở cửa đền. Đền thờ trung thần liệt sĩ
của mình, nhưng hằng vạn vong hồn Trung Hoa mà xương chồng chất lên thành gò đó
chắc cũng được hưởng chung hương khói.
Từ ấp Thái Hà vô Ngã Tư Sở, quẹo qua tay trái theo con đường
trải đá gồ ghề bên bờ sông Tô Lịch, qua các làng Thượng Đình, Hạ Đình. Sông Tô
thời đó cạn, chỉ còn là một cái mương nhỏ, rau muống phủ đầy, nghe nói nay đã
vét, đào rộng thêm. Hạ Đình là quê mẹ tôi. Tôi nhớ những ngày thanh minh đi tảo
mộ cùng với họ hàng phố hàng Đường. Tiết thanh minh ngoài đó đã hết lạnh nhưng
cũng chưa nóng. Bảy giờ sáng chúng tôi lên xe điện ở bờ hồ Hoàn Kiếm. Xe đông
người đi tảo mộ, gia đình nào cũng có một bà già và vài thiếu nữ mang những cái
quả sơn son đựng nhang, rượu, hoa quả, xôi thịt. Họ cùng đi chuyến xe Hà Đông,
mỗi gia đình xuống một nơi: Ô Chợ Dừa, Thái Hà ấp, Ngã Tư Sở hoặc xa hơn nữa.
Chúng tôi vào làng Hạ Đình, đi thăm năm sáu ngôi mộ trên một
cánh đồng trồng hoa màu ở đầu làng, từ ngôi này đến ngôi kia có khi phải đi vài
ba trăm thước trên bờ ruộng. Đầu tháng ba, không khí trong sáng, hoa ít hơn
nhưng lá xanh hơn, chim ríu rít trên những cành gạo đỏ rực. Lác đác trên cánh đồng
có những đám năm ba người, tà áo đủ màu phất phơ trên đám cà hay cải xanh;
hương khói tỏa nhẹ trong làn gió. Gặp nhau, người ta nhìn nhau mỉm cười hoặc hỏi
nhau vài câu lịch sự.
Thăm xong các ngôi mộ rồi, chúng tôi tìm một gốc gạo, một gốc
đa ở giữa đồng hoặc trong một sân đình, ngả đồ cúng ra ăn rồi mới vào nhà bà
con nghỉ. Vui mà có ý nghĩa hơn những picnic ngày nay nhiều. Khoảng bốn giờ chiều,
bớt nắng, chúng tôi lên xe điện về nhà. Ngồi trên xe tôi thấy buồn buồn vì hết
một ngày vui, và không lần nào tôi không nhớ đoạn tả cảnh đi chơi thanh minh của
chị em Thúy Kiều. Trong văn thơ của mình, không có bài nào tả lễ tảo mộ hay như
đoạn đó, mà cũng không có bài nào tế thập loại chúng sinh bi thảm như bài của
Nguyễn Du. Lựa tiết Thanh minh để làm lễ tảo mộ, người phương Đông chúng ta yêu
đời hơn người phương Tây: họ lựa mùa thu - ngày 2-11 - để làm Fête des morts,
đi tảo mộ, và cảnh nghĩa trang của họ ngày đó dưới nền trời u ám, trong tiếng
gió xào xạc, với những ngọn nến chập chờn bên những thánh giá trắng gợi cho tôi
cảnh những cuộc hội họp của tín đồ Thiên Chúa giáo trong những hầm mộ
(catacombes) thời họ bị người La Mã đàn áp.
Ở làng Hạ Đình, tôi nhiều lần rẽ vào thăm nhà thờ cụ Lê Đình
Duyên, thầy học của ông nội tôi mà cũng là ông nội chồng một bà cô tôi, con gái
cụ Đổ Uẩn mà chương II tôi đã nhắc tới. Cụ làm Đốc học Hà Nội trào Tự Đức, thời
Hà Nội bị Pháp chiếm, có khí tiết, được sĩ phu Hà Nội rất trọng. Nhà thờ của cụ
bằng gạch nhưng rất nhỏ, chiều sâu chưa đầy ba thước, chiều ngang chỉ độ bốn
thước, giữa có một cái bệ gạch, hai bên cắm hai tấm bảng "Vinh qui"
vua ban khi cụ đậu Hoàng Giáp. Đồ thờ không có gì quí. Phía trước là một nhà
mái lá, phía sau là một căn bếp mái lá, bên trái là một cái ao nhỏ. Đất vườn rộng
độ một sào. Các nhà Nho chân chính thời xưa đa số nghèo như vậy.
Từ Hạ Đình, cũng theo bờ sông Tô Lịch, tôi tiến vô làng Lủ nổi
tiếng về cốm Lủ - không ngon bằng cốm Vòng - và những vườn ổi; rồi tới làng
Quang có loại vải quí, hột rất nhỏ, xưa để tiến vua, và có đền thờ Chu Văn An;
đi vô nữa, trên bờ sông Nhuệ, một bên là Tả Thanh Oai (tục gọi là làng Tó) quê
của Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhiệm, một bên là Hữu Thanh Oai. Tất cả khu này trên
bờ sông Tô Lịch và sông Nhuệ, lan qua các làng Nhân Mục (Mọc Chính Kinh, Mọc
Quan Nhân...) bên kia đường xe điện đi Hà Đông, từ Ngã Tư Sở quẹo qua tay phải,
xưa là đất văn vật, sinh được nhiều danh nho, đâu đâu cũng có dấu tích của cổ
nhân, gợi cho tôi một niềm cảm hoài vô hạn.
Nhưng hai cảnh tôi thích nhất là cảnh chùa Láng, u nhã mà cổ
kính, "đệ nhất tùng lâm của cố đô", nay còn hai hàng thông từ cổng
đưa vào tới một sân lát gạch bát tràng, giữa có một nhà bát giác và cảnh đền
Voi Phục với hàng chòi mòi ở bên bờ lạch, hồ nước ở giữa sân và vườn nhãn ở sau
đền. Chùa Láng thờ Từ Đạo Hạnh tương truyền là tiền thân của Lý Thần Tôn và xây
cất từ năm 1164, hiện nay ở bên đường đê Parreau, vết tích của Đại La Thành
(?). Đền Voi Phục thờ một vị hoàng tử đời Lí có công dẹp giặc, nằm bên đường xe
điện từ hồ Hoàn Kiếm đi Ô Cầu Giấy, cách Ô non một cây số.
Vì hai cảnh đó gần nhau, nên lần nào tôi cũng bỏ trọn một buổi,
từ hai giờ chiều đến tối để thăm cả hai nơi một lượt. Tôi thường đi một mình để
hưởng cái thú cô liêu, hoài cổ. Nếu có bạn thì tôi thích bạn nào ít nói, mỗi
người theo dõi tâm tư riêng của mình chỉ lâu lâu trao đổi vắn tắt cảm tưởng với
nhau thôi như Valéry trong bài Le bois amical:
Nous avons pensé des choses pures
Côte à côte, le long des chemins,
Nous nous sommes tenus par les mains
Sans dire... parmi les fleurs obscures.
Nghĩa:
Chúng tôi đã nghĩ đến những điều thanh cao, tinh khiết,
Đi cạnh nhau dài theo các quãng đường
Chúng tôi đã cầm tay nhau
Không nói năng gì giữa những khóm hoa u tối.
Thường tôi đi xe điện lên đền Voi Phục trước, ngồi dưới gốc
chòi mòi nghe chim ríu rít trên cành, rồi vào sân đền, ngồi trên một bệ cao,
nhìn hồ nước, hưởng hương sói, hương lan, hương hồng, sau cùng ra vườn nhãn ở
sau đền, mua một bó, ăn ngay dưới gốc cây.
Từ vườn tôi kiếm đường nhỏ ra đê Parreau, quẹo tay phải để lại
chùa Láng. Con đê này cao hơn mặt ruộng khoảng hai thước, trải nhựa, rợp bóng
cây, ít xe, vừa tản bộ vừa nhìn phong cảnh, rất thú. Lâu lâu gặp một quán nước
bên đường bán trà tươi và chuối, bánh gai, bánh nhợm. Đến chùa Láng thì ánh tà
dương đã xiên qua những lá thông, chiếu xuống con đường lát gạch, chỗ thưa chỗ
đậm. Thơ thẩn ở dây một lát, tôi trở ra đường Parreau đi ngang qua làng Hạ Yên
Quyết (tục gọi là Cót) một làng văn học có tiếng, để tới làng Bưởi.
Mùa thu, chiều thường có một làn sương mỏng, nhẹ như màn lụa
phơn phớt xanh lam phủ lên đồng ruộng, lũy tre, cổng xóm ở hai bên đê, cảnh vật
mờ mờ, buồn dìu dịu, thật nên thơ.
Ngoại ô Hà Nội có nhiều cảnh thiên nhiên đẹp, nhiều di tích lịch
sử, nên lần nào đi chơi như vậy tôi cũng nhớ đoạn Chateaubriand tả cảnh ngoại ô
La Mã trong tập Mémoires d'Outre tombe và tiếc trong văn thơ của mình chưa có
bài nào tương tự. Ngoại ô Huế cũng nên thơ, nhiều di tích, mà có phần lộng lẫy
hơn, nhiều dinh thự hơn (khu Kim Luông), nhưng tôi chưa được biết, ngoại ô Sài
Gòn thì kém xa, chỉ có cảnh vườn Lái Thiêu là nhã thú.
Tôi thích bài Bán bán ca của Lý Mật Am, từ hồi trẻ tôi vẫn
mong:
Sống ở nơi nửa thành thị, nửa thôn quê,
Có vườn tược ở nửa đường lên núi, nửa đường xuống sông,
Nửa đọc sách, nửa làm ruộng, nửa buôn bán,
Nửa là kẻ sĩ, nửa bà con với bình dân...
(Lâm Ngữ Đường dẫn trong The Importance of Living - Bản dịch
của tôi: Sống đẹp - Tao Đàn 1965).
Không được vậy thì cũng nguyện có một khu vườn ở ngoại ô ở Hà
Nội hay Huế, vậy mà gần suốt đời (trừ mấy năm di tản) tôi phải sống ở giữa Sài
Gòn bụi bặm, náo nhiệt.
CHƯƠNG 6 - VỀ PHƯƠNG KHÊ HỌC CHỮ HÁN
MỘT QUYẾT ĐỊNH CỦA MẸ TÔI
Ngay đầu năm tôi học trường Bưởi, mẹ tôi đã có một quyết định,
khiến đời tôi sau theo một hướng mà chính người và các bác tôi không ai có thể
ngờ được. Ngày nay càng nghĩ lại tôi càng thấy công lớn của người và càng không
hiểu đã có cái gì xui khiến người nảy ra quyết định đó.
Thời đó (1927-1931) cổ học ở nước nhà (mà ở Trung Quốc cũng vậy)
cực suy. Các nhà Nho trong nhóm Nam Phong như Phan Kế Bính, Nguyễn Hữu Tiến,
Nguyễn Đỗ Mục, Dương Bá Trạc... tự lãnh cái việc "bàn giao" cổ học
cho phái tân học (dịch và giới thiệu văn học, triết học Trung Quốc và Việt Nam)
đã cố gắng nhiều nhưng các cụ tuổi cao, sức giảm, mà tờ Nam Phong không thọ
thêm được bao năm nữa. Trần Trọng Kim cũng nhận rằng "nhà cổ học đã đổ bẹp
xuống", mà "người trong nước đang háo hức về sự bỏ cũ theo mới, không
ai nghĩ đến nó nữa", nên ông rán "vẽ lại bản đồ Nho giáo... để giữ lấy
cái di tích" (bài Tựa bộ Nho giáo xuất bản lần đầu vào năm 1929 hay 1930).
Ông là người nửa tân nửa cựu (hồi nhỏ được học chữ Hán khá lâu), tiếp tục công
việc bàn giao của các nhà cổ học trong phái Nam Phong, mà công trình của ông có
giá trị lớn, các nhà cựu học không ai hơn được. Tôi nhớ, một buổi chiều đầu mùa
hè, trong một giờ toán, thầy Quỳ, cầm cuốn Nho giáo (thượng?) đưa lên cao, giới
thiệu với chúng tôi và bảo đại ý rằng: "Học một ngàn quyển không bằng viết
được một quyển như quyển này. Nhớ nhiều bao nhiêu cũng không bằng sáng tác được
một chút thôi" 1.
Tình hình cổ học như vậy mà hè năm 1928 (tức hè cuối năm thứ
nhất của tôi ở trường Bưởi), mẹ tôi xin bác Hai cho tôi về Phương Khê ở trong dịp
hè để học chữ Nho "mà sau này đọc được gia phả bên nội bên ngoại, chứ
không lẽ con cháu nhà Nho mà không biết gốc gác ông bà". Muốn cho con cháu
biết gốc gác ông bà thì bác tôi chỉ cần dịch hoặc viết lại gia phả ra chữ Quốc
ngữ, cần gì phải học chữ Hán. Thâm ý của mẹ tôi là muốn cho tôi biết đạo Nho,
giữ được truyền thống nhà Nho chăng?
Vậy là từ đó, trong hai mùa hè liên tiếp, tôi về Phương Khê
hai tháng, trước kia chỉ về chơi một tuần hay nửa tháng.
CON ĐƯỜNG HÀ NỘI - SƠN TÂY
Lúc này ở Bắc đã có xe hơi đưa khách trên hai đường Hà Nội -
Hà Đông, và Hà Nội - Sơn Tây. Sau mới có thêm những đường Hà Nội đi Bắc Ninh,
đi Nam Định, đi Vĩnh Yên, Phúc Yên
Xe đi Hà Nội - Sơn Tây - phủ Quảng Oai - Trung Hà của hãng Mỹ
Lâm. Tiền xe mới đầu tôi nhớ đâu như năm hào đi Sơn Tây (40 cây số) sau hạ xuống
còn ba hào. Đi xe hơi vừa rẻ vừa tiện hơn đi xe kéo nhiều, sáng đi thì chiều tới
quê tôi rồi, không phải tìm nhà quen nghỉ đêm tại Sơn Tây như trước; nhưng tôi
vẫn nhớ nỗi mệt nhọc mà vui thời đi xe kéo, nhớ những buổi sáng gió hiu hiu, ngồi
xe nhìn những hàng nhãn đã có trái bên lề đường, những cảnh họp chợ ở xa xa
trong xóm dưới gốc đa cách đường lộ năm sáu trăm thước, những con đường đất đỏ ở
giữa cánh đồng lúa xanh đưa vào cổng làng bằng gạch quét vôi trắng nổi bật giữa
một lùm tre, những con ngựa đá đứng trơ trơ trước một cái lăng của một vị đại
thần nào đó - nghe nói những con ngựa đó đã qua sông, nghĩa là con sông (sông
nào tôi không biết) xưa chảy trước mặt nó, sau đổi dòng, chảy qua sau lưng -
tôi nhớ những quán lá bên đường dưới gốc một cây muỗm hay gạo ở Nhổn, ở Phùng,
và khi thấy những đồi thông xa xa, những hàng mít thân đầy trái ở bên đường thì
tôi mừng rơm: đã sắp đến Sơn Tây, sắp hết cái cực hình ngồi chen chúc suốt bảy
tám giờ trong một chiếc xe bánh sắt lắc lư dưới nắng.
Một lần đã xế chiều, trời âm u muốn mưa, anh em tôi tới một
trạm nào đó, phải đổi xe - vì đường xa phải đi từng chặng - mà chỉ kiếm được mỗi
một chiếc do một người đàn bà nhà quê kéo thay cho chồng đang đau. Thấy vậy,
lòng tôi bất nhẫn, nhưng không có cách nào khác, và ngồi xe tôi thương hại cho
chị ta quá, chỉ mong mau tới trạm sau để đổi xe. Cảnh đó có lẽ chưa thương tâm
bằng cảnh đàn bà phải làm trâu kéo cày mà tôi được nghe nói chứ chưa thấy.
LỚP HỌC CỦA BÁC TÔI
Bác tôi năm đó còn làm thầy đồ, sáng nào cũng dạy khoảng hai
chục học trò từ lớn tới nhỏ. Người lớn nhất hăm lăm hăm sáu tuổi, đã có vợ, đi
học thì chít khăn, mặc áo the dài nhưng chân đất, tới nghe bác tôi giảng nghĩa
sách thuốc cho. Bác tôi không làm ông lang, không tiếp bệnh nhân, cho nên không
dạy thực hành: "vọng, văn, vấn, thiết", mà cũng không dạy cách ra
toa, gia giảm ra sao tùy trường hợp. Người đó đem một pho sách thuốc lại đọc,
chỗ nào không vỡ nghĩa thì hỏi bác tôi, thế thôi. Học như vậy thì khó đoán bệnh,
trị bệnh được. Nhiều nhà Nho học thuốc cách đó, rồi khi hành nghề thì nghề lại
dạy nghề.
Có dăm sáu học trò non hai chục tuổi, phần nhiều ở làng khác
đi ba bốn cây số lại học; họ học kinh Thi, kinh Lễ, hoặc Bắc sử... Những trò nhỏ
tuổi hơn học Mạnh tử, Luận ngữ... nhỏ nhất học Tam tự kinh.
Họ tới rất sớm, chia nhau người quét sân, lau bộ phản ở giữa
mái hiên, người đun nước, mài nghiên son. Khi bác tôi bắt đầu dạy thì bọn lớn
đưa bài họ đã chép ở nhà cho bác tôi chấm câu, trong khi họ đứng bên trả bài
hôm trước, xong rồi, bác tôi mới giảng bài mới cho, có khi cho họ tập làm câu đối
ngăn ngắn. Không ai đủ sức để học làm thơ, làm phú. Họ chỉ cốt học được, viết
được một văn tự bán nhà bán ruộng và ký tên để sau làm tổng lý.
Những học trò nhỏ thì bác tôi phải viết chữ son cho chúng tô;
còn dạy chữ thì giao cho học trò lớn đảm nhiệm, bác tôi chỉ kiểm soát lại thôi.
Hai chục học trò mà có tới bốn năm trình độ, có một số ít học
cùng một sách như Luận ngữ hay Mạnh tử, nhưng không cùng bài, người thiên trước,
người thiên sau. Dạy như vậy khoảng ba bốn giờ mới xong, vừa kịp buổi cơm sáng,
trong ba giờ đó không được nghỉ, trừ phi có khách tới. Cuối cuốn Nhà giáo họ Khổng
(Cảo Thơm - 1973), tôi đã tả không khi vừa nghiêm, vừa thân mật trong lớp học của
người.
TÔI HỌC CHỮ HÁN VÀ DẠO ĐỒNG QUÊ
Dạy cho họ xong rồi, buổi chiều bác tôi mới dạy cho tôi. Hồi
nhỏ tôi đã được học chữ Hán khoảng một năm rưỡi; bảy tám chín năm sau vào trường
Bưởi, mỗi tuần được học chữ Hán một giờ, nên đã biết một số chữ. Năm đầu
(1928), bác tôi cho tôi học bộ Ấu học Hán tự tân thư, cuốn thứ tư (cuối) rồi
năm sau cho học bộ Việt sử, chắc cũng trong loại "tân thư" nữa.
Công việc của tôi là chép lại vào một tập giấy Tây, bằng bút
sắt và mực Tây, bài học trong sách, rồi bác tôi giảng nghĩa cho. Tôi chỉ cốt học
để "đọc được gia phả", không làm văn, thơ, nên không cần học thuộc
lòng, không cần biết cách đặt câu, chỉ nhớ mặt chữ, hiểu nghĩa là được rồi.
Bài đầu, bác tôi cho tôi học độ bảy chục chữ về đạo tu thân;
rồi lần lần bài dài hơn, hai tháng sau, cuối vụ hè, tôi đã học những bài từ hai
trăm tới ba trăm chữ.
Mỗi bài bác tôi giảng cho chừng hai chục chữ trở lại, có những
chữ tôi biết rồi nhưng cũng giảng thêm. Mỗi chữ, tôi học những nghĩa thông thường
của nó và những từ ngữ mà nó là thành phần. Chẳng hạn trong bài đầu có chữ 清 thanh là trong (nghĩa này tôi biết rồi), bác tôi giảng thêm
thanh còn nghĩa là xong, như sự thanh là việc xong rồi, và chỉ cho tôi những từ
ngữ: thanh bạch, thanh bình, thanh tĩnh, thanh minh, thanh khiết, hoàng các
thanh phong. Vậy là do chữ thanh tôi biết thêm được năm sáu chữ khác.
Mỗi ngày bác tôi bỏ ra độ một giờ riêng cho tôi. Tôi không phải
học thuộc lòng, cũng không phải phiên âm, dịch ra Việt ngữ, chỉ cần nhớ mặt chữ
và nghĩa thôi, như đã nói ở trên.
Tôi còn giữ tập chữ Hán năm đó, tất cả được 61 bài. Bài cuối
có câu: "Người đi học ngày nay nên mài bỏ hai chữ "khoa cử" đi,
phóng mắt nhìn đại dương tìm bờ bến, đừng nhận lầm lưng cá là bờ". Vậy bộ
đó do một số nhà cựu học tiến bộ soạn sau phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Năm
1960, đọc lại tôi thấy đã quên một số chữ như thủy mẫu là con sứa, và tôi ngạc
nhiên rằng: du thuyết, thuyết khách chính ra phải đọc là du thuế, thuế khách.
Nhưng tôi tiếc bác tôi không có học Tây, không giảng cho tôi
cách cấu tạo từ nguyên của một số chữ, và cho tôi biết khi nào thì đọc là thuyết
(khi là danh từ), khi nào đọc là thuế (khi là động từ) 2. Mà chẳng riêng bác
tôi, tất cả các nhà Nho thời trước, cả thầy Thẩm Quỳnh dạy trường Bưởi, có chút
tân học, đều vậy hết. Nhất là cách dùng các hư tự: chi, hồ, giả, dã... thì
không cụ nào giảng cả, để cho học sinh học nhiều, thấm lần rồi tự hiểu lấy.
Những bài luân lý trong tập "Ấu học" đó không có gì
hấp dẫn, nhưng thường trích những câu của Khổng, Mạnh, như bài đầu, có câu:
"Khổng tử viết: Thanh tư trạc anh, trọc tư trạc túc" (Khổng tử nói:
Nước trong thì người ta dùng để giặt dải mũ; nước đục thì người ta dùng để rửa
chân); lại thêm thỉnh thoảng bác tôi cũng cao hứng đọc cho tôi chép một vài câu
thơ như: "Nhất kỵ hồng trần Phi tử tiếu, vô nhân chi thị lệ chi lai",
tả nỗi mừng của Dương Quý Phi khi thấy trong đám bụi đỏ một người phi ngựa chở
trái vải ở Quảng Đông về kinh cho nàng. Nhờ vậy tôi biết được chút ít về cổ học.
Thời đó tôi ham biết văn thơ Trung Quốc, nghe những tên như
Văn tâm điêu long, Chiêu minh văn tuyển, Tiền Xích bích phú, Quy khứ lai từ là
trong lòng vang lên một điệu trầm trầm như nhớ nhung cái gì, nhưng khi gợi ý với
bác tôi thì người gạt đi: "Cháu học tiếng Tây mà muốn biết những cái đó
làm gì? Phải tốn công mười năm đèn sách mới hiểu được, mà cái học Nho bây giờ
đã thành vô dụng rồi. Thím Tư (tức mẹ tôi) muốn cho cháu về đây học bác để sau
này đọc được gia phả bên nội bên ngoại. Bác nghĩ vậy là phải, còn văn thơ cổ
nhân thì thôi. Để sức mà tìm hiểu khoa học, cháu".
Đó là tâm trạng chung các nhà nho thời đó; các cụ thấy cái hại
của thứ văn chương "tám vế", thấy tụi "bạch quỷ" chiếm được
nước mình chỉ nhờ tàu chiến của họ mạnh, súng ống của họ tốt, nên chỉ muốn cho
con cháu chuyên học kỹ thuật của phương Tây để sau này vượt họ, đập lại họ như
Nhật Bản năm 1905. Các cụ "mài bỏ" hai chữ khoa cử rồi, muốn tẩy xoá
luôn cả văn thơ Trung Quốc.
Học chữ Hán chơi bời như tôi thời đó thì mỗi ngày chỉ mất độ
hai giờ, kể cả công chép bài. Nhớ được chữ nào thì nhớ, bác tôi không ép. Cho
nên tôi rãnh lắm: đọc tiểu thuyết Pháp, ra cổng xóm ngắm núi Tản, vào chơi nhà
một người trong họ, xay lúa, giã gạo giúp anh em trong nhà, và gần như chiều
nào, ăn cơm xong cũng theo bác ra đồng thăm lúa, hóng gió, lâu lâu đi chơi chợ
Vân Sa, chợ Mơ (chợ làng Thanh Mai) chỉ để mua mấy chục tờ giấy bản, hoặc một
gói nhân đơn (thuốc tiêu), một ve dầu bạc hà. Bác tôi thích dắt tôi đi thăm các
ngôi mộ kết, như mộ tổ họ Phùng ở làng tôi, mộ tổ cụ Lê Anh Tuấn ở Thanh Mai, mộ
tổ họ tôi ở Phú Xuyên, chỉ cho tôi tay long, tay hổ, thế nào là tàng phong, tụ
thủy, đâu là án, đâu là minh đường Tôi không mấy tin, không sao nhận định được
long mạch, nhưng cũng "dạ, dạ"; mà bác tôi cũng chẳng cần biết tôi hiểu
hay không, miễn có người nghe là đủ rồi.
Bác tôi mến tôi nhất trong số mấy anh em trong nhà, đi đâu
cũng gọi tôi theo. Một phần vì tôi lanh lợi hơn cả, một phần vì biết số tôi sau
này khá hơn cả, nhưng một phần có lẽ cũng vì tôi có tính khẳng khái. Đây là
chuyện cũ. Hồi tôi học lớp nhì, về ăn Tết ở quê. Năm đó em trai tôi cũng ở
Phương Khê vì mẹ tôi nhờ bác tôi răn đe nó; nó ham đi chơi quá, sợ sẽ lêu lổng.
Nó khoảng mười tuổi, hôm mùng ba hay mùng bốn Tết, gây lộn với một đứa cháu họ
trước mặt bác tôi và vài người trong họ. Thấy em tôi bị thằng cháu ăn hiếp mà
người lớn không ai can, tôi nổi dóa, xông vào đấm cho thằng đó một cú mạnh, mắng:
"Cháu mà dám đánh chú hả?", rồi quay lại bảo em tôi: "Cứ đánh nó
đi, đừng sợ. Về Hà Nội mách mẹ, không thèm ở đây nữa". Nói xong, tôi chạy
băng ra cổng, ra đồng. Một người lớn đuổi theo ba bốn trăm thước, hụt hơi mới bắt
tôi được. Tôi hầm hầm đi về, không nói gì cả, định bụng sáng hôm sau sẽ dắt em
tôi xuống Hà Nội. Thái độ là thái độ phản kháng bác, mà bác cũng như cha. Vậy
mà bác trai, bác gái tôi không nói gì cả, coi như không có việc gì xảy ra. Sáng
hôm sau ngủ dậy, tôi nguôi rồi, không trốn về Hà Nội nữa. Tôi không nhớ sau tôi
có kể lại vụ đó cho mẹ tôi nghe vụ đó không, nhưng gần tới nghỉ hè, mẹ tôi xin
bác tôi cho em tôi về Hà Nội.
Cũng vào vụ Tết năm sau hay năm sau nữa, bác tôi cho tôi một
đồng bạc trắng để mua sách vở. Tôi nhất định không lấy, vì "con có đủ tiền
rồi", bác tôi đặt vào tay tôi, tôi cũng đặt lại xuống giường, trước mặt
nhiều người trong nhà, trong họ. Bác tôi khen: "Thằng này có hùng
tâm", hai tiếng đó tôi mới được nghe lần đầu và nhớ hoài. Tính không ham
tiền của tôi đã có từ hồi đó, và suốt đời, dù gặp cảnh nghèo túng, tôi cũng
không bao giờ mượn tiền của ai, cũng không nhận tiền của bạn bè tự ý giúp đỡ.
Con trai tôi bây giờ giữ được đức đó mà bà ngoại tôi di truyền lại.
Hai vụ đó cả họ ai cũng biết, nên về quê tôi được nhiều người
nể, nhất là khi tôi đậu tiểu học (hồi đó đậu tiểu học cũng như hồi xưa đậu khóa
sinh) rồi vô trường Bưởi.
Bác tôi biết tôi nóng tính nhưng thẳng thắn, lễ phép, mau hiểu,
nên hay khuyên bảo tôi. Tôi đã chép lại trong cuốn Tổ chức gia đình lời người
khuyên tôi khi hai bác cháu ở trên gò có ngôi mộ tổ cụ Lê Anh Tuấn (cả ngôi mộ
cụ Lê Anh Tuấn nữa) bước xuống:
"Bác đã vào thăm nhà thờ họ Lê ở Thanh Mai. Nghĩ cảnh
thanh bạch của cổ nhân mà đáng phục. Ông Lê Anh Tuấn làm Tham tụng (như tể tướng)
mà rất nghèo, suốt đời ki cóp, cất được mỗi ngôi nhà ngói, hiện nay dùng làm
nhà thờ họ Lê. Nhà đó chỉ nhỏ bằng nửa nhà mình. Cụ Cúc Hiên (tức Lê Đình
Duyên), thầy học của ông nội, cũng đậu tiến sĩ, làm đến chức Tư nghiệp Quốc tử
giám mà cũng nghèo như vậy. Cháu đã có dịp vào thăm nhà thờ cụ ở làng Hạ Đình,
có thấy chạnh lòng không? Cụ nghè làng Vẽ mà bác gọi là ông chú, còn bần hàn
hơn; khi đã khoa bảng rồi mà ở một căn nhà tranh mái dột tường xiêu, mỗi bữa
cơm chỉ có dăm con tép và bát rau muống. Chúng mình tài đức không bằng các cụ
mà ở nhà ngói, cơm thường có thịt có cá, nhiều khi bác nghĩ cũng tự lấy làm thẹn.
Đức giản dị, thanh bạch của cổ nhân, chúng ta đã đánh mất đi nhiều rồi.
"Số cháu sau này sẽ khá vì có Thiên phủ, Lộc tồn ở Thiên
di, bác ngại cho cháu dễ mắc bẫy xa hoa mà lương tâm tán tận, nên bác khuyên
cháu noi gương cổ nhân, và nhớ lời này: "Đời sống vật chất thì nên dưới mực
trung, còn đời sống tinh thần thì nên trên mức ấy".
Lời khuyên ấy tôi nhớ hoài, hồi tôi dạy học ở Long Xuyên, năm
1951-1952, đem ra khuyên lại học trò, và mới năm ngoái, một người trong số học
trò đó, đã 46, 47 tuổi, lại thăm tôi, bảo không bao giờ quên được bài học ấy.
Tôi rất mừng, thế là bác tôi vẫn còn sống trong tâm hồn tôi, tâm hồn học trò
tôi, mặc dù người đã trở về với cát bụi hơn 45 năm rồi.
GIA ĐÌNH BÁC TÔI
Không, cái đức giản dị, thanh bạch của cổ nhân, người không hề
đánh mất chút nào cả, suốt đời giữ được trọn. Thân hình mảnh khảnh, thấp, trán
rộng và cao. Vẻ mặt nghiêm, nhưng tính tình thì khoan, lúc vui thường nói đùa nữa.
Ở nhà bận một bộ áo cánh bằng vải tám, thô, dày, khuy cài bên trái theo kiểu
xưa, chứ không ở giữa ngực; đi dạy học thì chít thêm cái khăn lượt, khoác thêm
chiếc áo dài vải thâm; khi nào xuống Hà Nội - trong 13 năm tôi chỉ thấy ba lần:
lần cha tôi mất, lần bà ngoại tôi mất, và lần thay mặt bác Ba đi điếu cụ Lương
Văn Can - người mới bận chiếc áo the duy nhất của người, có lẽ may từ khi cưới
vợ và tới khi mất vẫn còn.
Bác gái tôi cũng như mẹ tôi, là con dòng thứ của một cụ phủ,
mồ côi cha sớm, ở với anh làm chánh tổng, người mảnh khảnh, trắng trẻo, hoạt
bát, môi mỏng, chỉ lo việc nhà chứ không tháo vát, cương trực như mẹ tôi; biết
sợ chồng, cưng con, và đối với tôi rất tốt. Sống cũng giản dị, ở nhà thì mặc
toàn áo vải thô nhuộm nâu, đi đâu xa mới bận chiếc áo the cũng duy nhất, may từ
hồi cưới. Rất ít giao thiệp, ở trong làng không hề lại nhà ai chơi. Cả hai bác
tôi đều là hạng người cần kiệm, trì thủ, khéo giữ tổ nghiệp, khuếch trương được
một chút, chứ không gây được cơ đồ.
Có bốn người con trai, về già mới thêm một con gái út. Không
một người nào thông minh, chỉ có người thứ nhì, kém tôi một tuổi, học tạm được,
đậu tiểu học Pháp Việt, làm hương sư trong làng, còn ba người kia học chữ Hán cả
chục năm mà không đọc nổi một bức thư, chữ Quốc ngữ thì viết sai nhiều.
Bác tôi hình như có đi thi Hương một lần, rớt rồi bỏ luôn.
Văn thơ chắc không hay, thực thà chứ không tài hoa. Cũng như hầu hết các nhà
Nho, người nhờ sách, nhưng đọc ít vì không có sách để đọc. Trong bài Kỷ nguyên
tiêu thụ và nghề viết văn, cuốn Mười câu chuyện văn chương (1975) tôi đã nói
bác tôi chỉ có hai cái "cặp" sách gồm sáu bảy chục cuốn: Tứ thư, Ngũ
kinh, Bắc sử, tự điển Khang Hy, Đường thi, Tình sử, Văn tâm điêu long, Liêu
trai..., ít cuốn truyện nôm: Kiều, Hoa Tiên.... ít sách thuốc, tử vi, địa lí,
bói Vậy mà đã vào hạng có nhiều sách nhất trong tổng. Suốt đời, người chỉ đọc
đi đọc lại mấy chục cuốn đó. Tân thư của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu người
cũng có đọc, nhưng trong nhà không có.
Nhờ biết chữ Quốc ngữ, làm được bốn phép toán, cho nên sau
khi ông nội tôi quy tiên, người làm tổng sư, dạy chữ Nho và Quốc ngữ cho trẻ
trong tổng (cả tổng chỉ có một trường). Khi trường đó dẹp rồi, người về nhà làm
thầy đồ mười mấy năm, mãi đến gần năm chục tuổi mới làm hương sư trong làng,
lương 10 đồng một tháng do làng trả.
Làm thầy đồ, tuy cả tổng đều biết tiếng, nhưng lộc không được
bao nhiêu: ngày giỗ, ngày Tết, cha mẹ học trò biếu một thúng gạo hay một con
gà, một bánh chè mạn, một cân đường, một hai trái bưởi... Đôi khi người cũng ra
toa cho một bệnh nhân, lấy số tử vi cho một đứa nhỏ, làm giùm một đôi câu đối
cho bà con, nhưng toàn là vị tình hay để tiêu khiển cả. Nhờ có vườn ruộng ông
bà tôi để lại, nên người tạm đủ sống. Cái vui của người là được khắp tổng trọng
vọng, ngay đến quan phủ và quan huấn đạo cũng nể.
Cuối cuốn Nhà giáo họ Khổng (Cảo thơm - 1973) tôi đã tả không
khi vừa trang nghiêm vừa thân mật trong lớp học của người.
Gia đình bác tôi sống cực kì thanh đạm, mà cũng không thể
khác được, vì nghèo. Mỗi ngày chỉ ăn hai bữa, bữa sáng vào khoảng 10 giờ, bữa
chiều vào khoảng 4, 5 giờ. "Tứ thời rau muống, tứ thời tương". Rau muống
nhà trồng mà tương cũng nhà làm. Đổi bữa thì tùy mùa, có cà, đậu, rau lang...
Thỉnh thoảng mới mua vài bìa đậu phụ của một người bán dạo. Lâu lâu bữa cơm mới
có vài con tép (tôi không bao giờ thấy có cá lớn như cá chép, cá quả...), một
hai cái trứng gà chiên, một dĩa thịt kho. Chỉ những ngày giỗ mới có thịt gà và
xôi vò. Bác tôi bao giờ cũng nuôi sẵn một hai con gà trống thiến "nhồi"
ngô cho mập để cúng tổ tiên. Tết năm nào mẹ tôi cũng gởi về bóng, mực, nấm
hương, hồ tiêu, mộc nhĩ, tôm he, măng khô... cho nên trên bàn thờ có được vài
món đồ nấu. Nhưng chính bác trai tôi phải nấu lấy vì bác gái quê mùa, không biết.
Tóm lại, lối sống y hệt lối sống nông dân, chỉ khác chúng tôi
không phải ăn độn, ngày Tết được ăn cỗ có đồ nấu. Có điểm này đáng ghi: quanh
năm bác tôi bận một bộ áo cánh bằng thứ vải thô như quần áo nông dân; dù cũ,
màu trắng ngả ra màu cháo lòng thì cũng mặc cho tới rách, nhưng không khi nào
nhuộm nâu. Hình như trong nhà không bao giờ dùng xà bông. Có lẽ bận đồ trắng
như vậy để tỏ rằng bác tôi thuộc giới biết chữ, làm thầy, chứ không thuộc giới
chân lấm tay bùn.
Nhưng có khi bác tôi không cần giữ thể diện. Tôi còn nhớ,
tháng sáu hay tháng bảy âm lịch, những ngày mưa lớn, châu chấu (trong Nam gọi
là cào cào) ướt cánh, đậu trên ngọn lúa, bám vào thân lúa, rất dễ bắt; mấy anh
em chúng tôi xách một cái giỏ đi bắt ngay trên mấy thửa ruộng của nhà trước cống
xóm. Đứa nào đứa nấy ở trần, chỉ bận chiếc quần, dò dò theo bờ ruộng, "chộp"
độ nửa giờ được vài trăm con, đem về vặt càng, cánh đi, cho vào một cái chảo đất,
chiên với nước muối cà, ít mỡ và ít hành, ăn rất ngon: bùi, béo.
Có đêm chúng tôi vác đuốc ra đồng vồ ếch, bác tôi dẫn dầu, vồ
được chủ nào là cười vang cả cảnh đồng. Được độ mươi con thì về. Sáng hôm sau
bác gái tôi làm món ếch xáo măng, ngon tuyệt. Ếch, bác tôi gọi là gà đồng, có lẽ
vì thịt nó trắng, ngọt như thịt gà chăng?
Nhờ những buổi bắt châu chấu, bắt ếch rất vui đó, chúng tôi
có thêm được chút protéine; vì dân quê Bắc, Trung từ xưa tới nay, thời nào cũng
thiếu protéine, lúc nào cũng thèm thịt. Đọc cuốn Việc làng của Ngô Tất Tố,
chúng ta thấy dân quê ganh tỵ nhau từng miếng thịt mỏng dính, dài hai đốt tay,
chúng ta không nên khinh họ mà nên thương hại họ. Nhiều vụ đánh nhau, gây
thương tích, kiện nhau ở phủ huyện, nguyên do là tại chia thịt không đều. Những
câu tục ngữ như "Một miếng ở làng bằng một sàng xó bếp", những tục
khao vọng, việc chẳng quan trọng gì như được lên lão, mua được chức nhiêu, xã,
đậu bằng sơ học (hết lớp ba), cũng đặt ra ăn uống linh đình, mời hương chức và
bà con tới dự, không có tiền thì bán ruộng, cầm vườn đi, nếu không thì bị làng
chê cười, không công nhận địa vị, chức vị, bằng cấp của mình; rồi như thói nhớ
ngày giỗ của bà con, hàng xóm còn hơn ngày giỗ nhà mình để lại làm giúp mà được
mời ăn; thói đâu động đũa động bát là bu lại; ăn uống no say rồi còn đem phần về
nhà nữa: một cục xôi, vài miếng thịt mỏng gói trong cái lá chuối; tất cả những
hủ tục mà nhóm Tự Lực văn đoàn và Ngô Tất Tố chế giễu tàn nhẫn, truy nguyên tới
cùng thì một phần lớn chỉ tại dân quê thiếu thịt, thiếu protéin.
Trong Nam dân quê không quá nghèo, vài chục năm trước có rất
nhiều tôm cá, rùa, chim... nên không thèm thịt như dân quê Bắc, Trung, không có
những tục, những thói xấu kể trên. Nay đã khác rồi: từ ngày Giải phóng, cán bộ
ngoài Bắc đem vô đây thói mỗi chút mỗi "liên hoan", họp nhau ăn uống,
chắc cũng chỉ vì họ thiếu protéin. Nghe nói ở Bắc có nơi chỉ đặt một trạm bơm
nước vô ruộng mà từ khi dự định tới khi hoàn thành, mổ hết 100 con heo.
Một điểm đặc biệt này nữa là bác tôi không hề dự việc làng,
không có một chức vị gì trong làng, không bao giờ ra họp ở đình, không hưởng một
chút quyền lợi gì - như phần công điền được chia - mặc dầu đóng đủ thuế điền thổ
và thuế thân cho làng. Như vậy là tự đặt mình lên trên các hương chức; nhưng vì
gia đình nào trong làng cũng có một hai đời học ông nội tôi hoặc bác tôi, hương
chức nào cũng là học trò cũ của bác tôi, nên người làng cho như vậy là tự
nhiên; có một vài người thấy chướng, nhưng không nói gì, vì biết mình lẻ loi.
Bác tôi còn sống thì gia đình được yên; người mất rồi, vì bốn
người con không ai khá, bị người làng khinh thị, chèn ép, mới sinh ra nhiều
chuyện, mà nhà cửa suy rất mau. Điểm này, sau tôi sẽ trở lại. Bây giờ tôi hãy kể
qua tình cảnh nông dân, tức toàn thể các gia đình khác trong làng, mục đích chỉ
để ghi lại vài nét về xã hội Việt Nam trong thời đại nông nghiệp.
Chú thích:
1. Mãi năm năm sau, đi làm có tiền, tôi mới mua được bộ đó
trong một tiệm tạp hóa ở Bạc Liêu.
2. Có sách bảo cách phân biệt như vậy chỉ có từ đời Đường. Thời
cổ danh từ và động từ đọc như nhau hết.
CHƯƠNG 7 - LÀNG TÔI THỜI ĐẠI NÔNG NGHIỆP
BA HẠNG DÂN: GIÀU, TRUNG LƯU, NGHÈO
Tôi rất tiếc không được biết nhiều về đời sống dân làng tôi,
vì mỗi năm chỉ về quê chơi trong bảy ngày Tết và hai năm đầu ở trung học, được
sống thêm ở làng tháng rưỡi hay hai tháng trong dịp hè nữa. Đã vậy, gia đình
tôi không phải là gia đình nông dân, lối sống hơi cách biệt với dân làng, nên
tôi chỉ thấy được bề ngoài của họ thôi.
Người giàu nhất trong làng tôi, họ Phùng, có một ngôi nhà
ngói đại khái cũng như nhà tôi, và sáu mẫu ruộng. Ông ta trước làm ruộng, có hồi
làm lý trưởng, có uy tín, được bầu làm tiên chỉ. Chức này như chức cố vấn, có
danh chứ không có quyền. Tôi không biết ông ta, nghe nói không hống hách gì mấy,
rất có tinh thần gia tộc, bênh vực người trong họ, muốn rằng họ ông luôn luôn mạnh
nhất trong làng, mà quả thật, không họ nào lớn, nhiều người làm hương chức bằng
họ ông. Sở dĩ ông giàu được phần lớn nhờ cần và kiệm: lúa dư ăn, nhưng lúc nào
giá cao, ông bán để đổi ngô, bắt cả nhà ăn độn. Ông có một người con học bác
tôi, thông minh hơn các học trò khác nên bác tôi khuyên ông cho con ông sang Việt
Trì học, ông nghe lời và sau cậu bé trạc tuổi tôi, đậu bằng cấp tiểu học, thi
vào vào trường Sư phạm, học thêm một năm, rồi được bổ làm trợ giáo (instituteur
auxiliaire) ở trường sơ học Phú Xuyên, tổng tôi, lương 20 đồng một tháng, bằng
hai lương hương sư.
Hai người nữa giàu vào hàng thứ nhì có ba bốn mẫu ruộng thì một
người cũng học bác tôi rồi cũng làm thầy đồ (dạy mươi đứa nhỏ trong xóm) kiêm
thầy lang, mua một chức phó lý hàm, mất một số tiền khao làng, để có chút danh,
khỏi bị ai ăn hiếp, chứ cũng không dự gì vào việc làng. Sống cũng giản dị, ăn độn,
vợ con phải làm vườn, làm ruộng, như mọi gia đình nông dân. Nhà ngói của tổ
tiên để lại cũng ba gian hai chái.
Còn người kia thì hoàn toàn là nông dân, học ít, hiền lương,
nhờ hai đời ky cóp nên có một ngôi nhà gạch, vài ba sào vườn và bốn mẫu ruộng.
Làm chánh hương hội nhờ được lòng nhiều người. Chức này tuy cao nhưng không có
quyền gì; có quyền nhất là lý trưởng do dân bầu.
Tóm lại, những nhà giàu trong làng tôi toàn là nông dân, chỉ
có khoảng hai héc ta ruộng, vợ con làm lấy, cũng lam lũ như ai, làm không hết
thì cho lãnh canh; nhà nào nuôi trâu hay bò thì mướn thêm một đứa bé để chăn, mỗi
năm cho một bộ quần áo nâu, rộng rãi lắm thì bố mẹ nó cuối năm được thêm một đồng
bạc. Đi họp việc làng, đi hầu quan tổng lý đều xách cái ô, đi chân không hoặc
mang theo đôi giày, tới nơi mới rửa chân, xỏ vào giày. Mãi đến năm 1927-1928,
làng tôi mới có một chiếc xe đạp, mà chủ nhân lại không phải là người giàu, chỉ
là con một nhà trung bình có được hai mẫu ruộng, được hưởng gia tài cha để lại,
huy hoạch trong hai ba năm thì hết. Cả làng chỉ có một chiếc đồng hồ báo thức mà
bác tôi mua khi làm hương sư, và sai một đứa học trò ngày hai buổi xách tới trường
rồi lại xách về nhà.
Tôi đã nói tỉnh tôi là một tỉnh trung bình ở Bắc mà làng tôi
là một làng trung bình trong tỉnh, không có nhà nào giàu lớn mà những năm mất
mùa dân cũng không đến nỗi chết đói. Vì người giàu đều gốc nông dân, do cần kiệm
mà vượt lên, mà cũng chẳng phải giàu lớn, nên nạn cường hào ác bá ở làng tôi
tương đối ít. Họ cũng ăn bớt ăn xén của dân, cũng cho vay nặng lãi, và bắt người
vay phải kí văn tự bán vườn, bán ruộng, quá hạn không trả đủ vốn lẫn lời thì họ
cũng cắm vườn, cắm ruộng; nhưng khắp đất Bắc đâu đâu cũng vậy, nên họ không thấy
vậy là tàn nhẫn, cho là thường.
Một vài làng khác chung quanh như làng La Phẩm, làng Vân Sa,
làng Phú Xuyên, đất rộng hoặc có tiểu công nghệ, nên có gia đình trung phú: mười
lăm, hai mươi mẫu ruộng, một nhà gạch hai từng; làm dân biểu, có nàng hầu, có
tàu ngựa; tôi không biết đời sống của họ ra sao, nhưng cũng không nghe nói họ
hà hiếp dân tới cái mức như nghị Hách trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng, hoặc
như hạng tổng lý trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Tất nhiên tôi không bảo họ là hạng
lương thiện cả đâu.
Hạng trung lưu trong làng tôi có từ một tới hai mẫu. Họ ở giữa,
có thể vượt lên bực trên và cũng dễ dàng tụt xuống bực dưới.
Nếu cả gia đình siêng năng, thắt lưng buộc bụng, để dành mỗi
năm một chút, nếu lại gặp may trúng luôn hai ba mùa thì thế của họ vững rồi, sửa
sang nhà cửa, tậu thêm ruộng, mua thêm con trâu cày rồi. Lúc này là lúc họ phải
khôn, đừng nghe lời dụ dỗ của họ hàng, bạn bè, đừng nóng nảy trước lời khiêu
khích, mỉa mai của những kẻ ghen ghét họ, đừng chạy chọt một chân lý trưởng, chỉ
mua một chức nhỏ hữu danh vô thực, như nhiêu, xã hay phó lý để được miễn tạp dịch,
khỏi bị gọi là bố cu, ra đình cũng có chỗ ngồi ở hàng cuối - chức đó chỉ tốn từ
một đến hai sào ruộng là nhiều - rồi chí thú làm ăn, chẳng ganh đua, gây gổ với
ai, thì thế nào hồi năm chục tuổi, họ cũng có được ngôi nhà ngói, bể nước, cây
mít, có chuồng lợn, chuồng trâu và ba bốn mẫu ruộng, lúc đó họ sẽ được mọi người
trọng nể.
Trái lại, nếu họ tức khí, ham danh, ham ganh đua, ưa nịnh, dại
dột bán đi hai mẫu ruộng để mua phiếu trong làng, đút lót quan phủ mà tranh chức
lý trưởng thì mau suy lắm. Họ "bận việc quan", vợ họ ham danh bà lý,
sinh làm biếng, bỏ bê vườn ruộng, mà ruộng bán cũng gần hết rồi, huê lợi không
có gì, làm sao sống được? Lý trưởng không có lương, chỉ được thu tiền trà nước
mỗi khi thị thực đơn từ, văn tự của dân, có thể mùa thu thuế cũng được hưởng một
số tiền nào đó do hương hội, tiên chỉ ấn định tùy theo tục lệ mỗi làng; nhưng
những số thu đó không đủ ứng những số chi tiêu khá lớn vì thường phải ra phủ,
phải đút lót cho quan, phải tiếp đãi bạn hương chức trong làng, nhất là phải tỏ
ra "lịch thiệp", văn minh, chứ không "đình dù" (tiếng này vốn
là tên một làng, Tự Lực văn đoàn dùng với nghĩa quê mùa, hủ lậu), nói trắng ra
là phải biết hút thuốc phiện và đi cô đầu. Tới cái mức đó thì bán hết gia sản
cũng không đủ, và tôi biết một ông lý - em ruột ông nhà giàu làm thầy đồ và thầy
lang kể trên - khi làm hết khóa ba năm rồi, phải bỏ làng vào Nam làm lao công,
rồi sau mua bán ve chai để sống và gởi thây luôn ở Cao Lãnh. Một ông lý khác
sau khi bán hết tổ nghiệp, bỏ làng, về quê vợ sống, không biết làm nghề gì, con
cái không đứa nào được học tới lớp nhì.
Sau cùng là hạng nghèo. Tôi kể trường hợp một người em họ
tôi, ở gần nhà tôi. Nhà chỉ có hai anh em trai. Khi cha chết, để lại cho một
ngôi nhà lá ba gian hai chái, một khoảnh vườn độ một sào, có hàng rào tre,
không biết có được thêm sào ruộng nào không, nếu có thì khi tôi lớn lên cũng
bán rồi, không còn. Vườn không trồng trọt được gì vì đất quá chai mà lại rợp
bóng tre gần suốt ngày.
Biết không sống nổi, người em chưa vợ phải bỏ làng lên Hoàng
Xá (Chợ Bờ) làm ăn. Người anh có vợ rồi ở lại giữ nhà và việc cúng giỗ. Có hai
đứa con trai còn nhỏ.
Làng tôi cũng như mọi làng khác ở Bắc, có một số công điền,
theo nguyên tắc thuộc về nhà nước, làng chia đều cho trai tráng (từ 18 đến 60
tuổi), mỗi người được độ hai sào, mỗi năm phải đóng thuế. Tôi không nhớ Marx
hay Lénine gọi chế độ đó là cách thức sản xuất của Á châu.
Người em lên Hoàng Xá để lại phần công điền của mình cho anh
làm, và anh phải đóng thuế, làm (hoặc thuê người làm) tạp dịch cho em.
Như vậy là người anh có được khoảng bốn sào công điền - hạng
xấu tất nhiên, ruộng tốt thì hạng chức sắc đã chia nhau cả rồi. Tôi không biết
cách chia đó ra sao, vì gia đình tôi, bác tôi và các anh tôi đều nhường lại
công điền cho làng để được miễn tạp dịch, nhưng vẫn đóng thuế như mọi người.
(Tôi sinh trưởng ở Hà Nội, không vào hộ tịch làng).
Nặng nhất là khoản thuế thân. Mới đầu, giàu nghèo phải đóng
như nhau, sau (không nhớ từ năm nào) phân biệt người nghèo, vô sản đóng 1,5đ,
còn những người khác 4,5đ một năm. Vào những năm 1930-1933, dân quê làm mướn chỉ
được một hào một ngày; 1,5đ tức là 15 ngày công của họ.
Vậy em họ tôi có 4 sào ruộng mà phải đóng hai phần thuế cho
mình và cho em, phải nuôi vợ và hai đứa con trai nhỏ, mà vợ yếu đuối, vụng về
không làm được gì cả, không hề ra khỏi nhà nữa. Ngoài ngày mùa ra, trong làng
không ai thuê mướn, mà trong ngày mùa, một mình làm số công điền đó cũng không
còn sức làm việc khác. Như vậy có thể nói là nghèo mạt.
Tôi thường đi qua nhà, thỉnh thoảng ghé vào chơi. Ngoài sân
không thấy một con gà, một ngọn rau. Nhà rộng mà tối om om, trống rỗng, ngoài
bàn thờ với một bát hương, hai cái chõng tre, không còn đồ gì khác. Lạnh lẽo,
hôi hám. Có lần hai vợ chồng và con cái ngồi ở mái hiên đương ăn khoai lang
thay cơm, biết rằng tôi không ăn nhưng cũng chào mời lấy lệ.
Không có công việc gì làm, người chồng suốt ngày đi dạo xóm.
Vào chơi nhà mấy người bà con, nói dăm ba câu chuyện, xin một quả khế, một vài
trái ổi, rồi đi về. Không ngày nào không vào nhà bác tôi vài lần, thấy việc gì
cũng tiếp tay, hút điếu thuốc lào, uống một ngụm trà mạn. Mỗi khi bác tôi nhờ một
việc gì như đốn một cây tre, làm một cái máng nước, dựng cây rơm, cuốc khu vườn
thì bác tôi giữ lại ăn cơm, lâu lâu cho một ít khoai, ngô.
Suốt mấy tháng hè, tôi thấy chú ấy ở trần trùi trụi. Mùa đông
tôi chắc chỉ có một manh áo, co ro, hai tay thu thu trong bụng cho ấm, và nếu
không có công việc gì phải ra ngoài thì cả gia đình ngồi trong bếp, gần đống
rơm. Mùng một Tết, lại nhà tôi thì khoác thêm chiếc áo dài vải đen. Ngoài Bắc
có câu: "Cơm ba bát, áo ba manh", cho như vậy là đủ, không cần thêm.
Nhưng ở thành thị, người giàu thì mớ bảy mớ ba, áo cánh ở trong, rồi áo dài
đơn, kép hai ba lớp, ngoài có khi thêm chiếc áo bông nữa; còn dân nghèo ở quê
thì làm gì có áo bông, may lắm được cái áo cánh độp ở trong với một cái áo cánh
tươm tất ở ngoài, nghĩa là chỉ có hai manh, không được ba manh; cơm ngày mùa
thì có thể được ba bát, còn những tháng giáp hạt, tức tháng 3, tháng 8, lúc
thóc cũ đã hết mà thóc mới chưa có, thì chỉ những gia đình có máu mặt mới được
ba bát cơm độn ngô, khoai.
THIẾU ĂN, THIẾU THUỐC
Làng tôi không có ai chết đói, nhưng không một ai không thiếu
ăn (sous alimenté), từ ông tiên chỉ trở xuống, ít nhất là sáu tháng trong năm.
Người nghèo thì may lắm có được 1.500 ca-lo thức ăn một ngày, đủ để duy trì hơi
thở. Thiếu ăn thì dễ sinh bệnh, mà hạng nghèo bị bệnh thì chỉ có cách rán chịu
dăm ba ngày, may ra tự nhiên bớt. Một sách thuốc nói: đau mà không uống thuốc,
để cơ thể tự chống với bệnh, tức là gặp được một y sĩ trung bình rồi. Trăm lần
thì có 50 lần bệnh tự nhiên hết. Dân nghèo bất đắc dĩ phải theo đúng lối đó.
Nếu dăm ba ngày không bớt thì nghe người mách, kiếm thuốc nam
trong xóm; nhưng không hiểu sao ngay thuốc nam làng tôi cũng ít nhà trồng, dễ
gì xin được một củ riềng, một quả chanh, một củ hành, một nắm kinh giới, hương
nhu... Ngay bác tôi mà cũng chỉ để sẵn trong nhà một gói thuốc tiêu Nhân đơn và
một ve bạc hà; những nhà khác tuyệt nhiên không trữ một thứ gì hết. Mà gia đình
bác tôi cả năm cũng chỉ dùng hai thứ thuốc đó, không bao giờ đi cân một lạng
thuốc Bắc vì tốn tiền và vì xa: phải đi hai cây số lên chợ Vân Sa mới có một hiệu
thuốc Bắc nhỏ bán bốn năm chục thứ thuốc thông thường như đương quy, thục địa,
xuyên khung, bạch thược, bạch truật, hoàng cầm, hoàng liên, cam thảo, phòng
phong, chỉ xác, ma hoàng, sài hồ, trần bì, cát căn...
Tây y thì phải xuống phủ, cách làng năm cây số mới có một trạm
y tế, một nhà hộ sinh. Không kiếm đâu ra một tiệm trữ thuốc Tây; dân làng tôi
không bao giờ thấy một viên aspirine. Cho nên hễ một người bị bệnh thổ tả thì cả
xóm kinh hoảng, tưởng như Diêm vương sai quỷ sứ lên bắt. Cũng may trong mười mấy
năm, làng tôi và vài làng chung quanh không bị nạn dịch tả lần nào. Có khi chỉ
bị bệnh tháo dạ (diarrhée) vì phải cảm gió hay ăn bậy mà không có thuốc, sức
suy quá, chịu không nổi rồi cũng chỉ một hai ngày là chết.
Trong khoảng mười năm, tôi chỉ thấy mỗi một năm, 1925 hay
1926, nhờ được mùa và lúa có giá mà dân làng tôi ăn tết khá vui. Gần như nhà
nào cũng may được áo mới cho trẻ, hạng thanh niên còn "diện" một đôi
vớ màu vàng như nghệ, đi đôi guốc. Trẻ con có xu đồng leng keng trong túi và chỗ
nào cũng có một đám đánh đáo. Năm đó học trò đi tết bác tôi cũng hậu hơn, và
mùng hai bác tôi cho chúng tôi hai hào mua thêm một bánh pháo toàn hồng để đốt
rời từng cái.
Những năm khác, tết tuy không vui bằng, nhưng nhà nào cũng có
bánh chưng, có thịt lợn kho (một người mổ lợn và bán cho cả xóm); còn quanh năm
trong các gia đình nghèo không khí trầm trầm, an phận, buồn tẻ. Nhóm Tự Lực văn
đoàn gọi cảnh quê là cảnh bùn lầy nước đọng, thật đúng cả về nghĩa đen lẫn
nghĩa bóng.
Từ trăm năm trước, đất đai khai phá hết rồi, bạt hết đồi, gò
để biến thành ruộng, rồi bờ ruộng mỗi ngày một xén lần tới mức chỉ còn đặt vừa
một bàn chân, không còn cách nào mở mang thêm đất cày được nữa. Xưa mỗi gia
đình có được bốn năm mẫu; dân số mỗi ngày một tăng, nay mỗi gia đình chỉ còn
trung bình được năm bảy sào để nuôi năm sáu miệng ăn. Phương pháp canh tác vẫn
cổ hủ như đời Minh Mạng, Thiệu Trị; cày bừa vẫn là kiểu cũ, phân bón vẫn là
phân chuồng, không có phân xanh, lúa giống cũng không thay đổi, công việc thủy
lợi thiếu hẳn, năng suất của ruộng không tăng mà dân số thì tăng, nên mỗi ngày
một nghèo thêm. Trong làng lại không có một công nghệ nào; ngoài những ngày
mùa, dân không biết làm gì để kiếm thêm lợi, như vậy là đa số non nửa năm ở
không, đàn ông thì thả diều, chơi bời lêu lổng, đàn bà thì ngồi lê đôi mách.
AN PHẬN, SỢ LY HƯƠNG
Có một cách cải thiện đời sống là ly hương, nhưng chỉ một số
rất ít xuống Hà Nội, hoặc lên Chợ Bờ làm ăn, còn thì người ta sợ bỏ quê cha đất
tổ lắm, vì ngại phấn đấu, ngại mạo hiểm, và một phần cũng vì người ta cho bỏ
quê là tủi nhục. 1
Trong cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười tôi đã viết:
"Hai năm trước tôi dắt sáu người bà con ở Bắc vào đây (Đồng Tháp Mười). Họ
nghèo, tôi muốn giúp họ làm ăn, xuất tiền xe cho họ rồi gởi gấm họ với một ông
chủ điền ở đây để họ làm ruộng.
Tôi dẫn họ đi coi làng xóm, chỉ những cánh đồng bát ngát, những
đống lúa chót vót cho họ thấy. Họ đều trầm trồ khen: "Chà! Ruộng thật là
thẳng cánh cò bay! Quả là lúa chất thành núi!..."
Tôi lại dắt họ vào thăm những gia đình nghèo nhất ở đây: bữa
ăn luôn luôn có cơm và cá; quần áo có vài bộ bằng hàng (lụa). Họ nhận rằng dân
miền này ít khi biết đói, rét, ít lắm. Vậy mà trong số sáu người, chỉ có một
người chịu ở hẳn trong này, nay sắp thành một thương gia nhỏ; còn năm người kia
đi làm mướn một hai năm, dư được ít tiền rồi về Bắc để thăm bà con, đình chùa,
lũy tre, cổng xóm mà không vô nữa, chịu cảnh ăn khoai trừ cơm và mặc áo đụp
quanh năm. Họ nặng lòng cố hương quá. Làm sao thay đổi tinh thần đó nhỉ?".
Thực ra, thời nào và ở đâu cũng có một số người có tinh thần
phấn đấu, nhưng dân làng tôi chỉ biết phấn đấu trong khu vực chật hẹp của làng
thôi: rán làm nhiều, tiêu ít, để dành được một số tiền mua ruộng, cho vay, mua
chức nhiêu, chức xã, tức như tục ngữ nói: "Gà què ăn quẩn cối xay".
Như vậy thì cả đời ăn độn, rốt cuộc họ cũng chỉ được bốn năm mẫu là cùng; nếu
vào Nam, nơi đất hoang còn mênh mông, sự buôn bán dễ dàng thì trong vài chục
năm có thể có được vài chục hécta (sáu chục mẫu, ngoài Bắc), hoặc một tiệm tạp
hóa ở một chợ quận.
NHỮNG CÁI VUI NHO NHỎ CỦA HỌ
Họ chịu an phận và cũng tìm được cái vui trong cảnh đói rét.
Ăn vài củ khoai, uống một gáo nước mưa trong vại, rồi qua hàng xóm ngồi xem
đánh cờ, hoặc ra cổng xóm nhìn cánh diều, đảo trên nền trời xanh, nói chuyện
phiếm dưới bóng tre, trong ngọn gió hiu hiu. Hôm nào có được dăm xu trong túi,
đi chợ Vân, chợ Mơ cách xa làng hai ba cây số, thăm cô hàng xén, mua một chùm
dâu da hoặc một túi táo vừa đi vừa ăn. Tối đùa giỡn với con ở sân, dưới bóng
trăng, hát vài câu lí giao duyên. Mùa cấy, mùa gặt có cái vui làm tập thể, vừa
làm vừa hát ví: "Ới anh Cả ấy ơi... Ới cô Hai ấy ơi!...". Vui nhất là
những ngày ra đình ăn cỗ, lấy phần hoặc ăn khao, ăn giỗ nhà một người quen. Rồi
những đêm hát chèo ở làng bên, một đám ba bốn chàng rủ nhau đi coi, coi chèo
thì ít, mà lượn để trêu các thiếu nữ làng khác thì nhiều.
Họ có nhiều cái vui nho nhỏ như vậy. Còn cái vui này nữa. Một
ông già gần lục tuần rồi, mắt mờ, không thấy rõ đường, ít khi ra khỏi nhà. Bà vợ
bé gần ngũ tuần, phàn nàn với bạn bè hàng xóm rằng ông lão vẫn chưa cho bà nghỉ
đẻ. Bác tôi một hôm khuyên ông ta thôi đi, nếu không thì "âm kiệt mà hỏa
quá vượng" sẽ mù hẳn. Ông ta đáp: "Tôi cũng biết vậy, nhưng ông nghĩ
mà xem: tôi không có danh vọng chức phận gì, chức tước gì, nhà cũng chẳng giàu
có gì, không được ăn ngon mặc đẹp, sống ở đời còn có lạc thú gì ngoài cái đó
đâu, nếu lại tự cấm mình thì sống để làm gì kìa?".
Dù trong cảnh cực khổ đến đâu, loài người cũng tìm được cái
vui này, vui khác, có vậy mới duy trì được cuộc sống và giống nòi.
Đáng thương nhất là các thôn nữ giàu cũng như nghèo. Cả đời,
họ chỉ được hưởng năm sáu năm vui tươi; từ tuổi mười lăm mười sáu, nhựa sống
trong người họ bắt đầu dồi dào, họ sắm một cái gương con bằng lòng bàn tay, một
hộp sáp Cô Ba để bôi tóc cho mướt, kiếm một cái bao hương giấy đỏ để bôi môi,
mua một cái yếm trắng cổ viền, một cái thắt lưng bằng sồi, một cái khăn mỏ quạ
bằng vải đen, láng (alpaga) và may một cái áo tứ thân bằng vải nhuộm nâu; như vậy
là sang rất mực rồi; nếu họ có được nước da bánh mật, cặp mắt tình tứ, nụ cười
tươi thì đủ làm cho trai làng mê mẩn tâm thần; và họ thấy đời họ đẹp lạ, mà tiếng
hát ví, hát lý, hát cò lả của họ những khi cấy, gặt hay giã gạo, xay lúa trong
trẻo, vui vẻ như tiếng chim sơn ca.
Cái vui nhất của họ là ngày xuân cùng với chị em đi xem hội,
lễ chùa trong tổng (làng tôi nhỏ, không bao giờ mở hội, chùa lại không có người
trụ trì, bỏ hoang, sau
dùng làm trường học), hoặc theo mấy ông già bà già đi xa hơn,
xem lễ đền Hùng ở Phú Thọ, đền đức thánh Trần ở Kiếp Bạc. Đi như vậy có khi mất
bốn năm ngày, nhà có của mới đi được. Lần nào cũng có vài ba chàng trai nhập bọn,
mà tình xuân thật phơi phới, suốt đời không quên được.
Tôi chưa thấy bài thơ nào tả cảnh xuân thôn quê và tình xuân
thôn nữ Bắc Việt đúng và hay như bài dưới đây của Nguyễn Bính:
XUÂN VỀ
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm,
Ngước mắt nhìn trời, đôi mắt trong.
Từng đàn con trẻ chạy xum xoe,
Mưa tạnh, trời quang, nắng mới hoe.
Lá nõn cành non ai tráng bạc?
Gió về từng trận, gió bay đi...
Thong thả nhân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung.
Đầy vườn, hoa bưởi hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay bướm vẽ vòng.
Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đó khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt niệm nam vô.
(Tâm hồn tôi)
Phải sống với nông dân mới tả mùa xuân trong lòng họ và trong
cảnh vật như vậy được.
Nhưng khi họ có chồng thì chỉ vài ba năm sau, có được hai đứa
con là cảnh của họ đã đáng thương rồi. Ca dao có câu:
Trai ba mươi tuổi đang xoan, (tức xuân)
Gái ba mươi tuổi đã toan về già.
Tôi thấy nhiều cô ở làng tôi mới ngoài hai mươi, sau mấy năm
quần quật làm việc nhà chồng, sau vài lần sanh đẻ, đã không còn vẻ gì xuân nữa,
tưởng như ngoài ba mươi. Nếu nhà chồng đủ ăn, chồng không hư hỏng thì họ còn được
lành lặn, còn được cái vui mang danh cô xã, cô nhiêu, bà chánh, bà phó; nếu
không thì chỉ là mẹ đĩ, lam lũ cho tới chết, nhịn ăn nhịn mặc cho chồng, con,
mà không được đền đáp chút gì cả.
TIỂU THUYẾT TIỀN CHIẾN VỀ NÔNG DÂN
Trong mấy trang trên tôi chỉ giới thiệu sơ sài đời sống dân
quê làng tôi; muốn biết rõ tính tình, phong tục, cảnh cơ cực, ước vọng của nông
dân Bắc, Trung thì phải đọc những tiểu thuyết của Trần Tiêu, Ngô Tất Tố, Nam
Cao, Bùi Hiển, Tô Hoài, Thanh Tịnh... Những tiểu thuyết đó có giá trị vừa về
tài liệu, vừa về nghệ thuật, một vài trăm năm nữa sẽ rất quí, vì là những bức
tranh của xã hội nông nghiệp cuối thời đại phong kiến.
Mấy nhà kể trên mỗi người ở một miền, mỗi người một bút pháp,
một cá tính, tác phẩm của họ bổ túc cho nhau. Thanh Tịnh tả tình hồn hậu, kín
đáo, dịu dàng của dân quê miền Quảng Trị, Thừa Thiên (hay cả Quảng Nam); truyện
Quê Mẹ của ông nên thơ, sự thực chắc không thường được đẹp như vậy.
Bùi Hiển trong Nằm Vạ và Mạ Đậu có giọng hoạt kê, cho ta thấy
vài hài kịch trong đời sống dân quê Nghệ Tĩnh.
Trần Tiêu chuyên tả phong tục hơn là đời sống nghèo nàn của
nông dân Bắc Việt (Thái Bình, Nam Định?). Trong Con Trâu và Chồng Con, chúng ta
thấy đủ các tục mua nhiêu, mua xã, cầu tự, vào đám tế đình, bốc mả, cưới nàng hầu,
cả trò chơi diều nữa... Tình tiết không có gì éo le mà văn lại có giọng bình
tĩnh, cho nên tiểu thuyết của ông không hấp dẫn lắm, nhưng là những tài liệu
đáng tin về đời sống nông dân - đời sống bề ngoài hơn là đời sống nội tâm.
Ngô Tất Tố khác hẳn, ở Bắc Ninh, vốn là nhà Nho, sau học thêm
chữ Pháp, viết như các nhà văn lớp mới, có một cá tính sắc, mạnh, không có tài
về tiểu thuyết mà nổi tiếng về phóng sự. Tập Việc Làng của ông tả tỉ mỉ, gọn mà
sắc bén, thói tranh nhau một miếng thịt, một cục xôi của hương chức trong đình,
gây ra những vụ đánh nhau chí mạng rồi đưa nhau đến phủ huyện. Thật đúng với
câu "miếng ăn là miếng nhục". Ông rất ghét hạng hương chức, không xét
do đâu mà có tục đó: một phần là tại họ luôn luôn thèm thịt, như tôi đã nói; một
phần nữa là họ có quan niệm sai về thể diện: "Một miếng ở làng bằng một
sàng xó bếp". Trái lại, ông rất thương hạng dân nghèo bị hương chức, phủ
huyện ức hiếp; nhưng ông dùng những màu tối quá, truyện Tắt Đèn của ông chỉ
đúng sự thực một phần thôi.
Theo tôi, tiểu thuyết của Tô Hoài (Quê Người) gần đúng sự thực
hơn hết, tả hạng dân nghèo làng Nghĩa Đô (gần Hà Nội) chuyên nghề dệt lĩnh
(lãnh). Họ có những lúc vui - khi nghề dệt thịnh - và những lúc khổ - khi kinh
tế khủng hoảng, lĩnh ế, họ phải tha phương cầu thực. Tác giả sống với họ, biết
rõ đời sống về tình cảm của họ, thương họ mà thỉnh thoảng cũng mỉa nhẹ họ. Đời
họ không bi đát quá như trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, cũng không nên thơ như
trong Quê Mẹ của Thanh Tịnh. Văn Tô Hoài không chuốt, nhưng giản dị, tự nhiên,
dí dỏm.
Có tài nhất là Nam Cao, nhưng Nam Cao chỉ giỏi viết truyện ngắn,
truyện dài của ông tầm thường. Khi ông tả bọn cường hào ác bá, hạng du côn làm
tay sai cho hạng trên, ông cũng dùng màu tối quá, mỉa mai cay độc nữa, nên văn
rất sắc bén nhưng không khiến ta cảm động. Chỉ những khi ông tả hạng nông dân
thấp cổ bé miệng, an phận, hiền lương, thành thực, thương vợ, thương con, là ta
thấy tài của ông cao mà lòng trắc ẩn của ông dào dạt. Ông chỉ ghi từng cử chỉ,
ngôn ngữ, rồi chép lại một cách trung thực mà gây cho ta một nỗi buồn mênh
mông.
Truyện ngắn hay nhất, bất hủ của ông là truyện Một đám cưới
đã khiến tôi đọc đi đọc lại mấy lần mà lần nào cũng bùi ngùi, rơm rớm nước mắt.
Tôi dã giới thiệu nó, lần đầu trong tập Hương sắc trong vườn văn (1961), lần
sau kỹ hơn, trong tờ Tổ Quốc số 12/1977. Phải đọc truyện đó mới yêu hạng nông
dân chất phác, hoàn cảnh của họ càng đáng thương thì họ càng dễ thương.
Ngoài ra còn một số tiểu thuyết gia khác thỉnh thoảng cũng viết
một truyện hoặc một đoạn về nông dân, như Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam... nhưng
không có gì đặc biệt, tôi ngờ rằng họ không sống với nông dân.
THỜI TRƯỚC NƯỚC MÌNH KHÔNG CÓ GIAI CẤP ĐẤU TRANH
Quan niệm giai cấp của phương Tây và người đưa ra thuyết giai
cấp đấu tranh có lẽ là Marx. Theo Raymond Aron trong La lutte des classes
(Gallimard - 1964) thì Marx đưa ra ba định nghĩa về giai cấp, mà định nghĩa dưới
đây trong Le 18 Brumaire de Louis Napoléon (Cuộc đảo chánh ngày 18 Brumaire của
Louis Napoléon, tức Napoléon III), rõ ràng, đầy đủ nhất:
"Dans la mesure où des millions de familles vivent dans
des conditions d'existence qui séparent leurs modes de vie, leurs intérêts et
leur culture de ceux des autres classes et les mettent en contraste hostile à
l'égard de ces derniers, ils forment une classe. Dans la mesure où il n'y a
qu'une solidarité globale entre petits paysans et où l’identité de leur
intérêts ne crée pas d'unité, pas d'union nationale, pas d’organisation
politique, ils ne forment pas une classe". (tr.41 - 42).
"Khi nào có nhiều triệu gia đình sống trong những điều
kiện khiến cho từ lối sống đến quyền lợi, văn hóa của họ đều cách biệt với lối
sống, quyền lợi, văn hóa của các giai cấp khác, và họ sinh ra tương phản, thù
nghịch với những giai cấp khác đó, khi nào như vậy thì những gia đình đó họp
thành một giai cấp. Khi nào chỉ có một sự đoàn kết tổng quát giữa các tiểu nông
với nhau mà sự đồng quyền lợi của họ không tạo nên sự thống nhất, đoàn kết dân
tộc, cũng không tạo nên một tổ chức chính trị, khi nào chỉ như vậy thì không
thành một giai cấp".
Vậy muốn cho có một giai cấp thì một số đông người phải sống
gần nhau, làm một công việc đại khái như nhau; bấy nhiêu chưa đủ, họ còn phải
có tương quan thường xuyên với nhau thành một sự nhất trí, cùng hòa đồng với
nhau mà cùng chống đối những nhóm khác nghĩa là họ phải có ý thức về sự đoàn kết,
thống nhất của mình mà chống đối với các nhóm khác.
Theo định nghĩa đó thì nông dân Việt Nam từ xưa tới năm 1945,
chưa bao giờ thành một giai cấp cả. Có thời họ chống một triều đại lầm than,
như hậu bán thế kỷ XIX, dân Bình Định, Phú Yên (nói chung là Đàng Trong) oán
nhà Nguyễn mà theo Tây Sơn, nhưng họ không thành một tổ chức chính trị, mà khi
nhà Tây Sơn lên ngôi thì họ theo chế độ quân chủ của nhà Nguyễn mới, rồi khi
nhà Nguyễn cũ làm chủ sơn hà, họ cũng theo nữa. Ở Nam, trước năm 1945, thỉnh
thoảng có những cuộc nổi loạn lẻ tẻ nhỏ của nông dân, như vụ đồng Nọc Nạn ở Bạc
Liêu, nhưng chỉ là để chống đối bọn điền chủ chiếm công lao khai phá đất hoang
của họ, không phải là chống cả "giai cấp" điền chủ, không có tính
cách chính trị.
Công nhân cũng vậy, từ 1930 đã có những cuộc biểu tình của thợ
thuyền, họ đoàn kết, có người lãnh đạo, có ý thức chính trị, nhưng toàn là để
chống bọn tư bản Pháp, vì lúc đó chỉ thực dân Pháp mới có những xưởng, mỏ, nhà
máy, đồn điền lớn; chưa bao giờ thợ thuyền Việt chống tư bản Việt: các nhà tư bản
Việt như Bạch Thái Bưởi ở Bắc, Trương Văn Bền ở Nam, nhỏ quá, đâu đã làm mưa
làm gió gì được?
Ở làng tôi, như trên đã nói, ngoài nhà bác tôi ra, toàn là
nông dân, mà nông dân giàu hay nghèo thì lối sống cũng như nhau, trình độ văn
hóa cũng như nhau. Có sự bóc lột lẫn nhau, nhưng giàu nghèo cứ thay đổi nhau
lên xuống, không thành được những giai cấp phú nông hay bần nông có ý thức đoàn
kết chính trị được.
ĐÁM TANG BÁC TÔI - SỰ SUY VI CỦA CON CHÁU
Bác tôi sống y như nông dân, chỉ khác họ về nghề nghiệp, văn
hóa, cách ăn nói, cư xử, giúp đỡ mọi người, không hà hiếp ai, chẳng đứng về một
phe nào, gia nhập một tổ chức nào, nên được dân làng trọng nể. Nhưng các con của
bác tôi, sức học và tư cách không hơn ai, mà vẫn được coi ở vào một hạng riêng,
hạng con nhà sang, hạng "cậu" 2 không phải chân lấm tay bùn, không phải
làm xâu, đi tuần - vì không lãnh phần công điền - nên bị nhiều kẻ ganh tỵ. Bác
tôi biết hết nhưng đáng lẽ phải cho người con cả và con thứ ba, học dở nhất, tập
một nghề tay chân, hoặc làm ruộng, hoặc làm thợ - thợ may, thợ mộc, thợ nề và sống
hòa đồng với nông dân, thì người vì thể diện, vì thương con hoặc vì một lẽ gì
khác, để cho lêu bêu, không tự lực mưu sinh được, chỉ trông vào mấy mẫu ruộng tổ
tiên để lại. Mối suy bắt đầu từ đó, mà đó cũng là tình trạng chung của bọn con
cái nhà nho lỡ thời.
Bác tôi mất năm 1933, thọ 55 tuổi (đã góa vợ từ mấy năm trước).
Đám tang thật long trọng. Trong hai ngày, hàng trăm môn sinh lớn tuổi lại thu xếp,
làm rạp để tổ chức cuộc tế tam sinh: bò, lợn, dê. Có trống, kèn, văn tế. Môn
sinh trẻ đứng đầy sân, và người tới coi chật ngõ.
Động quan vào cuối giờ ngọ hay đầu giờ mùi một ngày hè. Đích
thân mười hai môn sinh thân tín bận đồ tang ghé vai khiêng linh cữu. Một người
đi giật lùi ở phía trước để ra hiệu cho cử động của mọi người phối hợp với
nhau. Họ phải rán khiêng sao cho bát nước đặt trên linh cữu không sóng sánh. Họ
rón rén bước một bước rồi lại ngưng một chút, từ trong nhà ra tới cổng độ hai
chục thước mất đến nửa giờ. Ngừng ở đó khá lâu, rồi lại tiến từng bước ra cổng
xóm. Khúc đường này rợp bóng tre, độ trăm thước, cũng mất nửa giờ nữa. Từ cổng
xóm tới huyệt (trong một thửa ruộng của bác tôi) toàn là ruộng với những bờ ruộng
rộng không đầy gang tay, phải lội càn xuống ruộng mới cấy độ một tháng. Dưới nắng
chang chang và trong hơi nước hừng hực từ ruộng bốc lên, cả trăm người cũng lội
theo linh cữu - vì theo lễ từ đời Chu (?) bên Tàu, thì "tống tang bất khả
tỵ đồ" (đưa ma thì phải theo đúng đường của linh cữu, không được tránh qua
lối khác). Người nào người nấy mồ hôi ướt cả áo trong và áo ngoài mà nét mặt vẫn
nghiêm chỉnh. Khúc này dài độ vài trăm thước, đi cũng mất non một giờ nữa, vì rất
khó đi và khó giữ cho bát nước khỏi sóng sánh.
Tới huyệt, hạ quan, lấp huyệt, đắp nấm kỹ lưỡng cũng mất một
giờ nữa. Tính ra trước sau mất non bốn giờ mới về tới nhà. Lúc đó đã chiều rồi,
các môn sinh chia tay nhau.
Lần đó tôi được thấy cái lễ nghi nghiêm trang, cảm động của
Khổng giáo. Có phần nghiêm trang nhiều hơn bi ai.
Tình của môn sinh nếu được như vậy hoài thì đẹp biết mấy.
Nhưng chỉ sáu tháng sau, tình của họ đối với gia đình bác tôi đã khác nhiều. Ai
cũng biết trước rằng gia đình đó sẽ suy mà suy rất mau. Những môn sinh ở làng
khác, ba bốn chục tuổi, đứng đắn, vẫn giữ bổn phận, ngày giỗ tết đều nhớ lại
cúng, nói dăm ba câu chuyện rồi về; có việc gì cần thì họ cũng giúp. Còn các
môn sinh trong làng, ngay cả một số người thân tín vào hạng học trò "ruột"
của bác tôi, cũng mừng thầm rằng giậu đã đổ rồi. Mà giậu đổ thì bìm leo.
Họ muốn cho sản nghiệp của bác tôi để lại tan tành sớm, mà
con cháu bác tôi cũng sẽ nghèo khổ như họ, hay hơn họ. Hình như có một tâm lý chung: trong làng thấy nhà nào suy thì người ta mừng, thấy nhà nào thịnh thì
người ta nịnh.
Người con cả bác tôi và cả vợ nữa - con một lý trưởng ở Thanh
Mai - đều mong có một chức gì trong làng để khỏi mang tiếng là bạch đinh, bị
người ta gọi là bố cu, mẹ đĩ: ba người em trai, cả người có bằng tiểu học làm
hương sư, cũng muốn cho anh như vậy; dân làng, môn sinh cũ xúi giục thêm; và
hai ba năm sau khi bác tôi mất, nhân làng khuyết chân lý trưởng, cả bốn anh em
nghe một bọn môn sinh của bác tôi bày kế, sửa đổi chúc thư, bán ruộng đi, cả ruộng
hương hỏa để ra tranh lý trưởng. Hễ chịu tung tiền cho nhiều thì ngu dốt tới mấy
cũng thắng. Thế là vợ chồng vinh hãnh được dân làng gọi là ông Lý bà Lý. Gia sản
chỉ còn độ một nửa, bổng lộc ít, tiêu pha nhiều, lại mang thêm tật nghiện thuốc
phiện, đánh xóc dĩa nữa; vợ lại đần và làm biếng, nên còn mấy mẫu ruộng bản lần
để ăn; hết rồi thì cầm cố vườn, nhà thờ, bán hết đồ đạc trong nhà, cả câu đối,
hoành phi, khám thờ nữa, rốt cuộc chỉ còn một cái chõng tre, môn sinh tới làm
giỗ thầy phải đặt đồ cúng lên chõng mà vái. Năm 1943, mười năm sau khi bác tôi
mất, sản nghiệp của mấy đời, không còn gì cả. Gia đình tan tác: vợ chồng con
cái người con cả vô ở Thanh Mai (nhà bố vợ); người con trai thứ hai ở nhà vợ
trên Vân Sa. Còn hai người sau vào Nam, ở với bác Ba tôi.
Tôi chép lại mấy trang bi đát đó để vạch cái hại của thói giữ
thể diện, không trọng sự trị sinh; và cái kết quả rất hời hợt của sự giáo hóa:
đối với một số người, nó chi là lớp sơn lễ nghĩa ở bề ngoài, còn cái tính, cái
lòng thì không thay đổi được. Tôi giận nhất là chính một hai môn sinh trước kia
kính cẩn khiêng linh cữu bác tôi ra sao, thì nay nhà bác tôi suy rồi lại xúc xiểm
các con bác tôi đào mả ông nội tôi lên - tức cha của thầy học của họ - để xem mộ
có động gì không mà nhà mau suy như vậy! Và bọn bốn đứa cháu bất hiếu đó đã ngu
xuẩn nghe lời, quật mồ ông nội mình lên. Thấy chiếc áo gấm khi liệm còn nguyên
vẹn, sợ quá, vội lấp lại. Một tai vạ của thói tin địa lý, mà cũng là sự vô ơn,
tàn nhẫn vô cùng của mấy tên tự xưng là có "nho học". Không gì đúng bằng
câu này của Mạnh Tử: "Hễ không có hằng sản thì không có hằng tâm";
nghèo khổ thì sinh ra vô lễ, bất nghĩa, tàn nhẫn, đê tiện, vô sở bất vi.
Muốn học gì thì học nhưng trước hết phải có một nghề để sống
đã, bài học đó của ông nội tôi, mà cháu người không biết theo.
Tôi nghe nói ngày nay dân làng tôi ai cũng đủ ăn, sàn sàn như
nhau cả và những thói ham danh, xúc xiểm nhau, bóc lột nhau, tranh giành nhau địa
vị bớt rồi. Nếu đúng vậy thì thật đáng mừng, mà đó là công của cuộc cách mạng
1945. Nhưng đời sống của dân còn phải cải thiện nhiều nữa.
Chú thích:
1. Tâm trạng tủi nhục đó do tổ chức hương thôn của mình. Mỗi
làng là một địa phương tự trị, có tục lệ riêng, tài sản riêng (công điền), gần
như một triều đình riêng. Người nơi khác tới có cảm tưởng như vô một xứ lạ, bị
dân làng nghi kỵ, không muốn cho nhập tịch - vì không muốn chia công điền cho họ
- và chỉ cho ngụ cư (ngày nay gọi là tạm trú). Dân ngụ cư không có chút quyền lợi
gì cả (không được dự việc làng không được chia ruộng) nên bị khinh. Đã bị nghi
kỵ lại bị khinh, tất khó làm ăn, nên không ai muốn bỏ quê hương mà đi ngụ cư
nơi khác cả, cho việc ly hương phải ngụ cư là một tủi nhục. Ngày nay chế độ xã
hội chủ nghĩa lại áp dụng chính sách thời phong kiến, chính sách địa phương tự
trị đó cũng phân biệt tạm trú và thường (có hộ khẩu) gây rất nhiều rắc rối và
tham nhũng. Bao giờ nước mình mới văn minh được?
2. Dân làng gọi chúng tôi là "cậu". Nhiều gia đình hạng
sang gọi cha là cậu, mẹ là mợ cũng để tỏ ý đó.
CHƯƠNG 8 - TỪ KHI BÀ NGOẠI TÔI MẤT
BÀ NGOẠI TÔI MẤT
Trong một tác phẩm (cuốn Tự học để thành công, sau đổi là Tự
học, một nhu cầu của thời đại), tôi đã nói được học chữ Hán với bác tôi trong
ba vụ hè. Nay nhớ lại thì chỉ đáng kể là hai thôi: hè 1928 và 1929; còn hè
1930, tôi mới về Phương Khê được độ mươi bữa, học chưa được một tuần, thì một
người em cháu cô cháu cậu tôi, Đỗ Bàng, ở Hà Nội lên Phương Khê mời bác tôi xuống
Hà Nội có việc gấp. Thế là sáng hôm sau bác tôi, Đỗ Bàng và tôi đều rời Phương
Khê.
Tới nhà tôi mới hay rằng bà ngoại tôi ba đêm trước trúng
phong té xỉu. Mẹ tôi khiêng người vào, đánh gió, đổ nước gừng vào miệng, người
mở mắt, nhưng cấm khẩu, toàn thân tê liệt, không cử động được nữa. Chắc bà bị đứt
mạch máu. Vậy là mẹ tôi đã nhờ anh Bàng - Bàng tuy vai em nhưng lớn tuổi hơn,
nên tôi gọi là anh - về Phương Khê báo cho bác tôi hay, nhưng bác tôi giấu tin
đó.
May tôi về kịp để săn sóc người được một ngày trước khi người
mất, năm đó người trên sáu mươi. "Đi" mau như vậy, không đau đớn gì cả,
thực là một cái phước cho người. Bệnh đó có khi kéo dài hàng năm; nếu là bán
thân bất toại thì có người chịu cực hình cả chục năm.
Thế là trong mười năm tôi mất hai người thân: cha tôi năm
1920 (Canh Thân), bà tôi năm 1930 (Canh Ngọ).
Trong nhà chỉ còn bốn anh em (mẹ tôi vẫn đi buôn bán suốt
ngày); em gái lớn của tôi 15 tuổi, thay bà tôi lo việc cơm nước được rồi, em
gái út 12 tuổi cũng đã giúp được việc nhà.
Chôn cất bà tôi xong, tôi ở lại Hà Nội, bỏ học chữ Hán.
Nghỉ hè năm sau, 1931, lo thi vào trường Cao đẳng Công chánh,
tôi cũng không học chữ Hán, chỉ về quê thăm bác tôi mươi bữa, nửa tháng. Mấy
năm sau vì bác tôi yếu, rồi mất (1933) nên tôi không học thêm được gì, mãi đến
năm 1934, ở trường Công chánh ra tôi mới tự học lại.
MỘT GIA ĐÌNH CÁCH MẠNG: HỌ ĐỖ Ở THỊNH HÀO
Ở trên tôi đã nhắc đến Đỗ Bàng. Anh là cháu nội cụ Đỗ Uẩn,
anh rể ông nội tôi, là con trai út của Đỗ Cơ Quang (tức Đỗ Chân Thiết) mà trong
Đông Kinh nghĩa thục tôi gọi là chú Ba Đỗ.
Ông nội tôi có một bà chị và một bà em, cùng lấy một chồng, cụ
Đỗ Uẩn. Chú Ba Đỗ tôi là con bà thứ. Chú cưới vợ ở hàng Bạc, nhà có của, làm
nghề kim hoàn. Chú ở trong Đông Kinh nghĩa thục như các bác, thuộc nhóm bạo động
như bác Cả tôi, cũng qua Trung Hoa liên lạc với cụ Sào Nam, vô Việt Nam Quang
Phục hội, phụ trách cơ sở Vân Nam, chở tạc đạn về nước, tổ chức vụ liệng tạc đạn
vào khách sạn Coq d'or ở Hà Nội ngày 26-4-1913, bị bắt và xử tử với một số đồng
chí năm 1914.
Chú để lại vợ góa và bốn con: Xương con trai cả, tư cách tầm
thường, rồi tới hai gái - mà tôi chỉ nhớ tên người chị là Đỗ Thị Tâm - và người
con trai út, Đỗ Bàng. Hai chị em (Tâm và Bàng) mưu sinh bằng nghề kim hoàn, đều
nối chí cha, làm cách mạng, gia nhập Việt Nam Quốc Dân đảng.
Đỗ Bàng nhỏ người, miệng tươi, hoạt bát, có vẻ nho nhã - mặc
quốc phục, chít khăn, áo dài thâm, đi giày - ít học, chữ Hán và chữ Pháp chưa đủ
để đọc sách, nhưng kiến thức khá. Tính tình nhã nhận, tận tâm nhất là gan dạ.
Làm liên lạc viên cho đảng; nhiệm vụ chính mà tôi đoán được - vì tôi không tò
mò hỏi, mà Bàng cũng kín tiếng - là đưa các đồng chí qua Trung Hoa bằng con đường
xe lửa Hà Nội - Vân Nam.
Những năm 1929, 1930, hai anh em tôi vì tính tình hợp nhau
nên thường gặp nhau, hoặc ở nhà tôi - ngõ Phất Lộc - hoặc ở nhà Bàng tại làng
Thịnh Hào, hoặc trong nhà một bà chị của cụ Chân Thiết - chồng là ông cả Kiên,
cũng hy sinh cho tổ quốc - ở làng Hạ Đình.
Một buổi xế trưa mùa hè năm 1929, tôi ngạc nhiên thấy Bàng dắt
vào nhà bác tôi ở Phương Khê một anh bạn học cùng lớp với tôi ở trường Bưởi,
anh Nghiêm, cải trang làm thợ nề có đại tang. Chúng tôi ra bờ đê nói chuyện,
sáng hôm sau họ dậy sớm qua Việt Trì để đáp xe lửa lên Lào Cai.
Trong lớp tôi, hồi đó còn một anh nữa, tên là Thiều, nhỏ người,
thông minh, học lơ mơ mà cũng vào hạng trên trung bình, ít nói, hay mỉm cười bí
mật, bỗng nhiên thôi học, và mùa xuân 1930 tôi thấy anh đứng soát vé ở ga xe lửa
Việt Trì. Chúng tôi chỉ nhìn nhau, khẽ mỉm cười. Tôi hiểu rồi: anh thôi học để
làm cách mạng và lãnh nhiệm vụ đưa đón các đồng chí từ trong nước qua Trung Hoa
hoặc từ Trung Hoa về. Việt Trì là một trạm liên lạc quan trọng của đảng.
Hồi đó chắc Bàng muốn tôi vô đảng lắm, nhưng biết mẹ tôi chỉ
trông vào tôi, cái trụ chính tương lai trong nhà, nên không thúc tôi và tôi chỉ
làm một cảm tình viên ở ngoài thôi.
Sau vụ Yên Bái (1930), Đỗ Thị Tâm bị bắt ở phố hàng Bột (Hà Nội),
giam ở Hỏa Lò. Muốn khỏi bị tra khảo, chị lấy dải yếm thồn vô họng cho nghẹt thở
mà chết. Tôi nhớ ngày đó là một ngày rằm, có lẽ vào tháng bảy âm lịch, anh Bàng
sáng sớm lại nhà tôi, vẻ lo lắng, cho tôi hay tin đó và bảo tôi đốt tất cả những
gì liên quan đến anh. Mấy tháng trước đã có một người em họ bên ngoại cho tôi
hay đừng nên tiếp Bàng ở nhà nữa.
Hai năm sau, 1932, Bàng cũng bị bắt trong một nhà ở phố hàng
Bông (gần cây đa cửa Quyền), trước ngày định trốn qua Trung Hoa, rồi bị đánh chết
trong sà lim Hà Nội.
Một nhà mà ba cha con hy sinh cho cách mạng, thực không kém
nhà họ Lương (Lương văn Can, thục trưởng Đông kinh nghĩa thục) ở phố hàng Đào
(coi Đông kinh nghĩa thục). Gia đình tôi không bằng.
Hồi đầu thế kỷ, nhà Nho nào làm cách mạng thì chẳng những hy
sinh thân mình mà còn hy sinh vợ con, cả dòng dõi nữa cho nước. Sau khi tiếng
súng đã im hẳn ở Bãi Sậy (1897), Nguyễn Thiện Thuật phải lẻn qua Trung Hoa; rồi
Đề Thám phải tạm hòa giải với Pháp, lập ấp ở gần Nhã Nam để hai năm sau ra hàng
ở Nhã Nam, công việc bình định của Pháp kể như đã kết liễu, thế của họ ở Việt
Nam rất vững; lúc đó mà làm cách mạng thì mười phần chắc thất bại cả mười, và cụ
nào lẻn ra nước ngoài thì gia đình kể như chết rồi; các cụ bà tự coi như người
"vị vong" - tức quả phụ - tự lo lấy việc nuôi con, dạy con, cốt sao
cho con giữ được phần nào chí khí của cha, chứ không thể cho học hành đến nơi đến
chốn được.
Hai trường hợp điển hình là trường hợp cụ bà Phan Sào Nam và
cụ bà Nguyễn Quang Diêu.
Đây là lời cụ bà Sào Nam nói với chồng khi chồng bị bắt, giải
về Nghệ An: "Vợ chồng ly biệt nhau hơn hai mươi năm, nay được một lần gặp
mặt thầy, trong lòng tôi đã mãn túc lắm rồi. Từ đây trở về sau, chỉ trông mong
cho thầy giữ được lòng xưa, thầy làm những việc gì mặc thầy, thầy chớ nghĩ tới
vợ con".
Còn cụ Nguyễn Quang Diêu, sau mười mấy năm xa quê, qua Hương
Cảng, bị bắt giam ở Hà Nội, bị đày qua Guyane (Nam Mỹ) rồi vượt ngục trốn qua đảo
Trinidad, trở về Trung Hoa, lẻn về Sa Đéc nhắn vợ ở Cao Lãnh ra để gặp mặt ở
nhà cụ Võ Hoành cũng chỉ bảo vợ: "Tôi tưởng bỏ thân nơi đất lạ, nay may mà
được về đây, mừng rỡ gặp nhau như vầy cũng là quý lắm rồi. Thôi bà trở về lo lắng
nuôi con, còn phần tôi bao giờ việc nước chưa xong thì chắc tôi chưa sum vầy với
gia đình được".
Vợ bị hy sinh như vậy mà con không được học hành: con cụ Phan
cũng như con cụ Nguyễn chỉ biết ít chữ Nho và (vần) Quốc ngữ, rồi làm ruộng
giúp mẹ; cho nên các gia đình cách mạng đều nghèo, mỗi ngày mỗi suy, không giữ
được chút tinh anh của ông cha nữa, thành bần dân vô học như gia đình nông dân.
Thật chua xót.
Nghĩ vậy, tôi thấy bác Cả tôi rất sáng suốt: đã tính làm cách
mạng nên không chịu lập gia đình, sau khi ông nội tôi mất, lẻn qua Trung Hoa và
từ đó không cho các em biết tung tích của mình nữa; trước khi đi, bác tôi lại
phân công: bốn anh em thì hai người làm cách mạng (bác Cả và bác Ba tôi), còn
hai người ở lại thờ phụng tổ tiên bên nội, bên ngoại, dạy dỗ con cái, giữ truyền
thống của nhà (Bác Hai tôi và cha tôi).
HỌC GIỎI MÀ LẠI RỚT
Tôi nhận thấy sự học của tôi - mà tôi đoán đa số học sinh
cũng vậy - muốn cho tiến phát, cần hai điều kiện: có sức khỏe dồi dào và gặp những
giáo sư mình quý mến, khuyến khích, thúc đẩy mình học.
Hai niên khóa cuối 1929-1930, 1930-1931, ở ban Cao đẳng tiểu
học (sau đổi là ban Trung học đệ nhất cấp) tôi có đủ hai điều kiện trên nên sự
học của tôi vượt lên đều đều. Giáo sư các môn quan trọng nhất là Pháp văn: thầy
Dương Quảng Hàm mà tôi đã nhắc ở trên; Toán: thầy Vũ Tiến Sáu rất nghiêm khắc
(học sinh nào dở cũng nơm nớp lo sợ trước khi vào lớp) nhưng giảng bài rõ ràng,
kiểm soát chặt chẽ sự học của chúng tôi và ra nhiều bài tập về nhà làm, cho nên
hạng giỏi, có khiếu về toán, học thầy rất có lợi; Lý Hóa: thầy Vũ Lai Chương,
giảng bài rành mạch, bài gọn, cho nên cuối giờ một anh bạn tôi và tôi gần như
thuộc rồi, về nhà không phải học nhiều. Luân lý là một môn phụ, nhưng năm thứ
tư, nhờ giáo sư Foulon, tôi biết được kha khá và có dịp tập tiếng Pháp cho trôi
chảy. Các môn đó tôi đều nhất hoặc nhì (Toán), các môn khác cũng vậy, chỉ có một
hai môn đứng hạng ba.
Nhà ở xa trường, mỗi ngày bốn lượt đi về, mất khoảng ba giờ rồi,
thì giờ còn lại ít, nhưng tôi khéo tổ chức việc học, nên học đều đều, dễ dàng,
không phải thức khuya, dậy sớm, không phải "piocher" (cuốc) như người
Pháp nói mà cuối năm cũng được giải thưởng nhất (Prix d'Excellence), lại nhà
hát Tây để lãnh như năm cuối ở tiểu học.
Nhưng hai lần đều xui xẻo kỳ dị: lần trước nhất lớp mà thi
vào trường Bưởi rớt vì môn chánh tả; lần này nhất lớp mà rớt bằng cấp Cao đẳng
tiểu học cũng chỉ vì môn chánh tả.
Năm đó, tôi thi xong môn chánh tả buổi sáng, tin chắc là rất
ít lỗi, mà qua được môn đó, tôi sẽ đậu. Buổi chiều bỗng có tin đầu bài bị tiết
lộ nên bỏ, sáng hôm sau thi lại (Nghe nói kẻ tiết lộ đầu bài là một học sinh
ban Tú tài bản xứ trường Bưởi, được Thống sứ Bắc Kỳ yêu vì giỏi Pháp văn).
Ai cũng bực mình, từ giám khảo đến thi sinh vì phải mất thêm
một ngày nữa. Nữ giáo sư Pháp, giám khảo phòng tôi tỏ vẻ quạu quọ, đứng một chỗ
ở đầu phòng, đọc bài chánh tả cho chúng tôi viết một cách vội vàng, nhanh quá,
chúng tôi nghe không ra; cả phòng ngơ ngác mà không được phép xin giám khảo đọc
lại cho rõ ràng. Khóa đó phòng tôi rớt oan về chánh tả rất nhiều.
Tôi oán cách người Pháp dùng môn chánh tả để loại thí sinh.
Cách đó vô lý, tàn nhẫn. Một người đứng yên một chỗ đọc (lệ trường thi như vậy?),
không có người thứ nhì đứng ở cuối phòng đọc lại cho, thì chỉ những thí sinh ngồi
ở gần nghe rõ, ngồi ở xa tất bị thiệt thòi nhiều. Rồi cái lệ nghe không rõ mà
không được phép xin giám khảo đọc lại cho, thì như vậy đâu còn là môn chánh tả,
chỉ là môn nghe; thí sinh tai hơi nặng, hoặc ít được học giáo sư Pháp thì phần
rớt gần như chắc chắn. Mà rớt môn chánh tả thì những môn khác đáng được bình,
ưu cũng không chấm.
Hình như từ sau thế chiến vừa rồi, ở Pháp người ta đã bỏ môn
chánh tả trong hết thảy các kỳ thi lấy bằng cấp 1 ngay cả ở tiểu học (?). Một lối
thi cử vô lý như vậy mà các nhà giáo dục Pháp duy trì từ thời Napoléon I một thế
kỷ rưỡi, thì ta cũng đừng nên quá chê người Trung Hoa thời xưa dùng lối văn tám
vế để lựa nhân tài. Nhưng ở Pháp ngày nay người ta lại mắc cái tệ ngược lại: vì
trường học coi thường môn chánh tả nên học sinh lên Trung học đệ nhất cấp viết
sai chánh tả còn hơn học sinh lớp sáu hồi xưa nữa.
Rớt lần này, tôi không buồn như lần thi vào trường Bưởi, vì bất
quá chỉ chậm hai tháng (chứ không đến nỗi thiệt cả một năm) và tôi chắc chắn
khóa nhì thế nào tôi cũng đậu.
Tôi nhớ năm đó (1931) là năm cuối cùng các trường Cao đẳng Hà
Nội (đại học duy nhất ở Đông Dương thuộc Pháp - Indochine française - chung cho
Việt Nam, Cao Miên, Lào) tuyển sinh viên mà không buộc có bằng cấp tú tài. Có bằng
Cao đẳng tiểu học mà đủ 19, 20 tuổi là được thi. Có vài trường như Công chánh,
Bưu điện, Thương mãi lại không buộc có bằng cấp Cao đẳng tiểu học nữa.
Vì nhà nghèo, tôi không muốn học ban tú tài bản xứ, nên xin
thi vào trường Công chánh. Tôi hỏi thăm chương trình thi: chỉ có ba môn: Luận,
Pháp văn, Toán (như chương trình Cao đẳng tiểu học) và vẽ Công chánh. Môn vẽ
này rất dễ: dùng tire-ligne và compas, mực Tàu vẽ những đường thẳng và cong sao
cho nét đều, nhỏ; rồi tô màu cho nhạt và đều, không loang lỗ, sau cùng kẻ chữ.
Tôi nộp đơn thi, nhờ một anh bạn thí sinh chỉ cho môn vẽ, chỉ
vài lần là biết, tập độ sáu, bảy lần là thạo. Còn việc học ôn chương trình thì
để đến nửa tháng trước kỳ thi coi lại là đủ.
Chuẩn bị xong rồi, tôi về Phương Khê nghỉ ngơi độ một tuần, rồi
lên làng Xuân Lũng thăm hai anh bạn học, để rủ nhau đi thăm đền Hùng Vương. Tôi
tính đi độ 5, 6 ngày, chỉ mang theo một bộ áo cánh (tức bộ bà ba trong Nam) gói
trong một tờ báo cũ rồi lên bến đò Vân Sa qua Việt Trì. Ước gì bây giờ tôi cũng
sống giản dị được như vậy.
THĂM ĐỀN HÙNG
Làng Xuân Lũng ở gần con đường xe lửa Việt Trì - Phú Thọ,
cách Việt Trì độ 15 cây số, cách đền Hùng độ 7, 8 cây số, có tiếng về văn học;
mấy năm trước 1930 có một tổ chức của Việt Nam Quốc Dân đảng, chế tạo bom cho đảng.
Lần đầu tiên tôi được thấy cảnh đồi trùng trùng điệp điệp của miền trung du Bắc
Việt, trên ngọn là mấy cây chẩu (có hột để ép dầu), thân thẳng như cây cau, cao
sáu bảy thước, tàn xòe như cánh quạt, che một mái miếu cổ, dưới chân là một
thung lũng nhỏ trồng lúa. Có vài ngọn đồi trồng đầy chè xanh, làm cho tôi nhớ
câu hát của các thôn nữ quê tôi:
Rủ nhau lên núi hái chè,
Hái dăm ba lá xuống khe ta ngồi.
Tôi thích cảnh Xuân Lũng vì địa hình thay đổi, nhà cửa thưa
thớt, có những đường mòn quanh co đưa lên đồi, xuống bờ ruộng hay bờ đầm, và có
nhiều giếng nước trong mát.
Con đường từ Xuân Lũng tới núi Tổ (núi Hùng) trải đá, rất vắng,
rất sạch, đi cả cây số mới gặp một bóng người. Đường uốn khúc trong đám rừng và
các đồi chè, dứa, trên ngọn có căn nhà lá của người giữ trại. Trái thị chín
vàng trên cây, không khí thơm thoang thoảng. Tiếng bìm bịp khắc khoải làm cho cảnh
càng thêm tĩnh và buồn.
Tới một khúc quẹo, ngọn núi Hùng âm u hiện lên, sừng sững trước
mặt chúng tôi, cao và thanh tú hơn các ngọn chung quanh, tôi hồi hộp như nghẹt
thở. Đường dốc, tôi vừa bước vừa ngẩng lên nhìn cửa tam quan và cứ mỗi bước,
núi càng dâng cao lên nền trời xanh, cánh thật uy nghi. Núi có tên là Nghĩa
Lĩnh, thuộc thôn Cổ Tích, phủ Lâm Thao, dân trong vùng thường gọi là núi Đền.
Có khoảng 300 bực xây đưa lên đỉnh. Chúng tôi thăm đền Hạ,
cũng gọi là đền Giếng, thờ hai bà công chúa, con một vua Hùng; nghỉ ở tam quan
đền Trung, đây có một tấm bia nhắc lại lịch sử các vua Hùng; sau cùng lên đền
Thượng thờ 18 đức Hùng Vương, phía trước có bức hoành phi lớn khắc bốn chữ
"Nam Việt Triệu Tổ", nét rất hùng kính.
Sau đền có một cái tháp, không có vẻ cổ kính, gọi là Lăng Tổ;
tại đây nhìn qua cành lá thấy loang loáng ở xa xa, dòng nước Ngã ba Bạch Hạc.
Cái khu mấy chục cây số từ núi Hùng tới Bạch Hạc này gợi cho chúng ta biết bao
cố sự, lòng hoài cảm của tôi dào dạt.
Cuộc thăm mộ Tổ này tôi đã chép kỹ trong tập Con đường thiên
lý (chưa in), ở trên chỉ trích lại ít đoạn.2.
Ở chơi Xuân Lũng ba ngày, tôi trở về Phương Khê để xuống Hà Nội
chuẩn bị thi vào trường Công chánh trước, rồi sau thi kỳ II bằng Cao đẳng tiểu
học.
ĐẬU VÀO TRƯỜNG CÔNG CHÁNH
Có ba trung tâm thi vào trường Công chánh cùng một ngày, cùng
bài thi: Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Trung tâm Hà Nội có hơn hai chục thí sinh, Huế
và Sài Gòn chắc ít hơn. Ba môn viết thi một ngày rưỡi thì xong, không có vấn
đáp. Bài thi ở Huế và Sài Gòn gởi ra Hà Nội chấm.
Tuyển mười bảy người. Trường Bưởi, ngoài tôi ra còn hai bạn
cùng khóa với tôi cũng dự thi, anh Đỗ Văn Hách và một anh nữa tên Long.
Độ nửa tháng sau, thi bằng Cao đẳng tiểu học, hồi đó gọi là bằng
Thành chung, tôi đậu hạng bình thứ, thêm chứng chỉ chữ Hán. Giám khảo môn đó là
cụ Bùi Kỷ. Cụ bảo tôi viết chữ phụng 奉 là dâng. Tôi viết lên bảng, cụ và thầy
Dương Quảng Hàm cùng mỉm cười, cho tôi ra. Tôi tưởng đâu phải đọc một đoạn sách
rồi dịch nghĩa chứ.
Đậu bằng cấp đó rồi, ít ngày sau đi coi bảng, lại đậu vào trường
Công chánh nữa. Ngày đó là một trong những ngày vui nhất của tôi, tôi đã ghi
trong tập Cháu bà nội, tội bà ngoại, như sau:
"Hôm đó vào đầu mùa thu, tôi đi coi bảng từ buổi sáng,
thấy đậu vô trường Cao đẳng Công chánh, về nhà không báo tin cho ai cả, ngong
ngóng đợi tối, mẹ tôi về. Khoảng tám giờ tối, tôi đương nằm ở giường đọc sách
thì nghe thấy mẹ tôi gọi từ ngoài của:
- Trong nhà có đứa nào không; ra tiếp tay cho tao này.
Tôi nhảy phắt xuống đất, chạy ra, vừa thấy mẹ tôi, tôi thưa
ngay:
- Con đỗ vào trường Công chánh rồi mẹ ạ. Đỗ đầu, được học bổng.
Mẹ tôi cười rất tươi:
- Giỏi nhỉ.
Rồi hai mẹ con cùng nhau khiêng thúng gạo vào. Tới phòng, đặt
thúng xuống, tôi bảo:
- Giá còn bà thì bà mừng lắm.
Mẹ tôi thở dài, hai mẹ con ngồi yên lặng một chút rồi người hỏi
tôi:
- Có phải sắm sửa gì vào trường không?
Mười một năm cực khổ nuôi tôi từ khi cha tôi mất, bây giờ người
mới được thấy tôi không phụ lòng người, mẹ tôi được hãnh diện một chút với họ
hàng bên nội, bên ngoại, và thấy nhẹ mình vì từ nay có thể khỏi nuôi tôi nữa:
tôi được ăn ở trong trường, mỗi tháng lại được lãnh sáu đồng rưỡi để tiêu vặt
(trước kia là tám đồng, vì đương thời khủng hoảng kinh tế, nên rút xuống)".
Tôi về Phương Khê chơi ít bữa trước khi vô trường; viết thư
báo tin cho bác Ba tôi ở trong Nam, bác thưởng tôi ba chục đồng để tôi mua viết
máy, đồng hồ, giày, may một cái áo vừa đi mưa, vừa chống lạnh. Hè năm sau nhờ để
dành học bổng, tôi may được một bộ đồ Tây duy nhất, thứ rẻ tiền.
Chú thích:
1. Người ta chấm bài luận văn của thí sinh mà biết được có dốt
chánh tả quá không, dốt quá thì có thể bị rút đi ít điểm.
2. Văn Nghệ xuất bản 1987 Văn Nghệ xuất bản 1987
CHƯƠNG 9 - NHỮNG NĂM Ở ĐẠI HỌC
HỌC XÁ PAUL BERT VÀ BOBILLOT
Năm đó có ba anh bạn có tú tài Pháp hoặc bản xứ xin vô học
trường Công chánh, họ khỏi phải thi, thành thử lớp học có độ hai chục người.
Năm đầu còn học bổ túc về văn hóa, chương trình gần như ban Tú tài toán, nhưng
nhẹ hơn, và thêm mỗi tuần vài giờ vẽ, thực tập gì đó.
Tôi, anh Hách bạn cùng khóa ở trường Bưởi và một anh nữa ở
trường Khải Định (Huế) học không kém ba anh có tú tài, mặc dầu những môn trường
dạy, họ đã học cả rồi. Môn toán khá nặng, gồm cả tú tài I và nửa tú tài II, tôi
sàn sàn như ba anh ấy; chỉ có môn luận Pháp văn là tôi kém mỗi một anh, anh
Nghiêm Xuân Việt học trường Albert Sarraut từ nhỏ và đậu tú tài Pháp, ban toán,
hạng bình thứ. Tôi chép lại điều đó để chứng tỏ rằng học sinh xuất sắc các trường
Cao đẳng tiểu học Pháp Việt nếu có đủ sách, có người hướng dẫn, thì đậu Cao đẳng
tiểu học rồi, học một năm, thi nhảy tú tài I là điều không khó, nếu lại chuẩn bị
từ hồi lên năm thứ ba, tự học luôn cả chương trình tú tài I thì có thể đậu Cao
đẳng tiểu học và tú tài I cùng một năm.
Cuối năm đầu, thi lên lớp tôi đậu hạng nhì, sau anh Việt và
trên hai anh tú tài kia. Nhưng hai năm sau tôi thụt xuống hạng 5 và 6 vì tôi
không thích một số môn chỉ cần trí nhớ, nhất là không thích môn họa đồ
(topographic), gọi nôm na là môn nhắm máy, đo đất.
Năm đầu cư xá của chúng tôi và các trường Nông lâm, Kiến
trúc, Mỹ thuật ở một ngôi nhà lầu không có vườn, một tiệm buôn cũ của Pháp (?)
tại đường Paul Bert; từ năm thứ nhì, cư xá Paul Bert dời hết qua khu Đại học đường
Bobillot chung với các trường khác; đây có sân rộng, phòng ngủ ở trên lầu,
thoáng, trông ra đê Nhị Hà. Những giờ có "cua" (cours) chúng tôi phải
lại lớp học ở Sở Thanh tra Công chánh, trên bờ sông Nhị, gần đường hàng Vôi.
Giáo sư đa số là kỹ sư Pháp, khi thực tập ngoài trời thì ra bờ sông hoặc các vườn
hoa. Mỗi buổi chiều được phép ra phố từ 17 đến 18 giờ, chủ nhật được ra trọn
ngày. Một số bạn ra phố rất thường; tôi trái lại chỉ chủ nhật mới về nhà một
lúc, mặc dầu nhà chỉ cách cư xá hơn một cây số vì cảnh nhà rất buồn: mẹ tôi hồi
đó không bán trái cây ở chợ Đồng Xuân nữa mà buôn đồ lên Vĩnh Yên về Hà Nội
giao cho khách hàng, mỗi chuyến mất ba bốn ngày. Trong nhà chỉ còn ba em tôi:
em trai đã đậu bằng tiểu học, thôi học, nhưng đương thời buổi kinh tế khủng hoảng
không sao kiếm được việc làm, phải ở không; em Oanh đương học nghề kim hoàn,
cũng bỏ dở về nhà, em Mùi không học gì cả. Thế là ba anh em, sau hai bữa cơm
rau, không có việc gì, ở không suốt ngày, gia cảnh lại muốn suy. Mẹ tôi muốn tập
cho hai em gái tôi buôn bán, nhưng đứa lớn không muốn học mà đứa nhỏ thì nhỏ
quá. Người rất buồn. Ít khi tôi về nhà mà gặp người.
Vì vậy ba năm ở Đại học tôi không vui bằng những năm ở Trung
học. Nghỉ hè năm đầu, tôi được trường cho ra nghỉ mát ở Đồ Sơn nửa tháng và tôi
còn giữ được vài hình ảnh đẹp: những đồi thông rì rào bên bờ biển, một ngôi đền
ở lưng chừng núi nhìn ra biển khơi, một mỏm đá ở cuối bán đảo, ba phía là biển
mênh mông, rùng rợn dưới ánh trăng mờ mờ. Một buổi sáng tôi nhảy chuyền các mỏm
đá trên một bãi vắng, ngược làn gió theo một làn hương và rốt cuộc tìm được
trong một khe đá một bông dứa dại, ngào ngạt, bẻ đem về treo ở phòng...
Hè năm thứ nhì tôi về Phương Khê thì bác Hai tôi đau, không
rõ bệnh gì, sức suy kiệt lần lần rồi tắt thở một buổi xế trưa. Chôn cất xong,
tôi ở lại nửa tháng rồi về Hà Nội. Ở đâu không khí cũng buồn, chỉ mong sớm đến
ngày tựu trường.
Niên học thứ nhì 1932-1933 để lại cho tôi hai kỷ niệm: buổi Bảo
Đại mới ở Pháp về chưa đầy một năm, lại thăm trường. Sinh viên các trường đều tụ
họp cả ở giảng đường Bobillot, Bảo Đại bận quốc phục: khăn xếp vàng chữ nhất,
áo gấm vàng, quần lụa trắng, ngồi giữa, hai bên là Thống sứ Bắc kỳ và Viện trưởng
Đại học Thalamas.
Thân hình to lớn, khỏe mạnh, da trắng trẻo, nhưng vẻ ngượng
nghịu. Bảo Đại đứng dậy, ngoáy ngoáy cái cổ - cơ hồ khó chịu vì cổ áo - rồi móc
trong túi một miếng giấy nhỏ, cầm lên đọc. Chỉ có vài hàng tiếng Pháp, đại ý là
khuyên chúng tôi chăm học để sau này giúp nước, ông ta trông mong ở chúng tôi
nhiều và dành tất cả cảm tình cho chúng tôi. Nói không đầy một phút mà cũng phải
cầm giấy.
Một lần nữa đi nghe Phạm Quỳnh diễn thuyết buổi tối, cũng ở
giảng đường. Các quan lớn Pháp, Việt một số thân hào Hà Nội ngồi cả trên sân khấu;
sau khi được giới thiệu, Phạm Quỳnh đạo mạo trong quốc phục khăn đen, áo thâm với
cặp kính trắng, đứng dậy, tiến ra cầm một xấp giấy để đọc; lời lẽ bóng bảy,
nhưng giọng đều đều mà bài diễn văn - bằng tiếng Pháp - dài quá, nghe chán quá.
Buổi tối đó tôi chỉ nhớ cái đầu không có một sợi tóc, nhẵn bóng như trứng đà điểu
của ông Viện trưởng Thalamas.
Tôi nhận thấy tình bạn ở Đại học không đằm thắm bằng ở Trung
học. Tôi chưa thấy một hội cựu ái hữu cựu học sinh tiểu học nào cả; mà cũng
không thấy hội cựu ái hữu sinh viên Đại học, chỉ có những hội của những người
cùng nghề luật sư hay y sĩ, mục đích để bênh vực quyền lợi chung, không gọi là
hội ái hữu được. Chỉ các trường trung học là có nhiều hội ái hữu học sinh, như
hội cựu học sinh Chu Văn An (trường Bưởi), Khải Định, Pétrus Ký, Gia Long,
trung học Vinh, Cần Thơ, Long Xuyên (Thoại Ngọc Hầu) hội nào cũng rất đông, buổi
họp nào cũng rất vui. Có nhiều nguyên nhân, theo tôi nguyên nhân chính là trong
tuổi thiếu niên ở trung học, tình cảm người ta dồi dào nhất. Ở tiểu học, trí óc
chưa phát triển, tình cảm còn hồn nhiên, chưa có thắc mắc, suy tư, bạn chỉ là bạn
chơi những trò đánh bi, đánh đáo, chưa phải là bạn tâm tình. Lên tới trung học,
tới tuổi dậy thì, chúng ta mới hiểu và thích cái đẹp của thiên nhiên, của thơ
văn, của tâm hồn, của thiếu nữ, tình xuân của ta phơi phới, ta vui khi nhìn ánh
vàng ban mai trên ngọn cây, buồn khi nghe tiếng gà gáy hoặc cuốc kêu giữ trưa,
ta rạo rực trước dòng nước loang loáng ánh trăng trong một không khí thoang thoảng
hương bưởi, du dương tiếng sáo, ta mơ mộng một cuộc đời mai sau, ta tạo cho
mình một lý tưởng, lý tưởng càng cao thì lòng ta càng dào dạt, và ta muốn có bạn
tâm sự để thố lộ những thắc mắc, san sẻ những ước mơ của mình. Vì vậy mà những
bạn thân nhất của ta thường là những bạn ở Trung học.
Lên tới Đại học, qua tuổi mộng mơ rồi, chúng ta có óc thực tế
hơn. Mỗi người đã có một hướng đi rõ ràng trong đời, lo chuẩn bị cho tương lai,
cho nên ít tâm sự với nhau.
Trong số bạn học ở trường Công chánh, chỉ có anh Đỗ Văn Hách
là hoàn cảnh, tính tình hơi giống tôi, bình dị, ngay thẳng, nhưng không thích
thơ văn như tôi. Nghiêm Xuân Việt, có khiếu về thơ văn, nhưng tính tình ít hợp,
phù táo, quá cương. Sau khi ra trường, hai anh ấy đều làm việc ở trong Nam như
tôi.
Tóm lại đời sinh viên của tôi trôi đều đều, không có kỷ niệm
gì đặc biệt.
MẤY THÁNG ĐỢI BỔ - HỌC CHỮ HÁN
Tháng 6 năm 1934, thi ra trường, tôi đậu hạng 6, hơn người thứ
7 khá nhiều điểm, sáu người đều sàn sàn như nhau.
Mẹ tôi vui nhưng không để lộ ra, cũng chẳng ăn mừng gì cả.
Người mừng nhất lại là bác Ba tôi - cụ Phương Sơn - ở Long
Xuyên. Bác tôi cho rằng thời đó ở Đại học ra cũng như thời xưa đậu Cử nhân, và
tôi là người đầu tiên trong nhà đỗ đạt, nên cho tôi một bài thơ:
Người mừng nhất lại là bác Ba tôi - cụ Phương Sơn - ở Long
Xuyên. Bác tôi cho rằng thời đó ở Đại học ra cũng như thời xưa đậu Cử nhân, và tôi
là người đầu tiên trong nhà đỗ đạt, nên cho tôi một bài thơ:
MỪNG LỘC ĐÌNH 1 THI ĐẬU
Hăm sáu tháng năm 2 giữa buổi trưa,
Một phong dây thép trạm xa đưa.
Sussès 3 Hà Nội coi không chán,
Tiệp báo Sài Gòn4 chậm cũng vừa.
Bút chẩm 5 ai bàn tài bất đệ,
Dù che 6 ta chắc phúc còn dư
Mừng này biết lấy gì cho nhỉ?
Hai chữ khiêm khiêm 7 nhắc đạo xưa.
Riêng tôi thì rất buồn. Ngày đi coi bảng, bạn bè thi đậu, người
nào cũng hớn hở mà tôi thì không muốn về nhà nữa. Đậu cao hay thấp, điều đó tôi
ít quan tâm tới, nhưng "Lúc đó đương thời kinh tế khủng hoảng, tôi biết đợi
nửa năm nữa chưa chắc đã được bổ mà cảnh nhà tôi lại túng bấn. Ăn cơm với rau
tôi không ngại, ngại nhất là trông nét mặt ưu tư của mẹ tôi, và thấy mình đã
khôn lớn mà cứ nằm dài ra ăn báo cô, không giúp người được gì. Người ta chỉ chiều
mới thấy buồn, tôi hồi ấy sáng dậy đã thấy buồn rồi, ước sao được ngủ luôn một
giấc sáu bảy tháng. Nói gì đến buổi chiều nữa. Mỗi lần mặt trời gần lặn, nỗi
chán nỗi chán nản của tôi dâng lên mênh mông như bóng tối. Tôi không muốn ở
nhà, đi thơ thẩn ở ngoài đường cho hết ngày" 8.
Vì về nhà phải thấy cảnh bốn anh em ăn rồi ở không, chẳng có
một công việc gì. Mẹ tôi thì đem hàng tạp hóa lên bán ở Vĩnh Yên rồi mua hàng ở
Vĩnh Yên chở về Hà Nội, vất vả, cực nhọc, mỗi tuần đi hai chuyến, ở Hà Nội độ
hai ngày, nhưng về nhà chỉ có hai buổi tối. Cả nhà chỉ trông cậy vào tôi, mà
tôi thì nằm "ếp rệp" - tiếng thời đó dùng để mỉa hạng người thất nghiệp.
Ngay đến về Phương Khê, tôi cũng không thấy vui vì bác tôi đã
mất năm trước, tôi chỉ ở ít ngày, qua ngày giỗ rồi xuống Hà Nội.
Một người cháu của mẹ tôi ở phố Hàng Đường vỡ nợ, thiếu người
hai ngàn đồng 9 không trả nổi. Trong mười năm, người tiết kiệm được đồng nào,
không dám để trong nhà, đành gởi người cháu đó. Họ buôn bán tưởng là phát đạt
vì khách hàng đông, nhưng vì bán chịu nhiều, lại tiêu pha quá mức, nên sụp đổ rất
mau. Vụ đó đau xót cho người nhất, nhưng người không phàn nàn gì cả, âm thầm chịu
đựng và làm việc tăng lên, ít khi về nhà để rán gây dựng lại. Nghị lực của người
dẫu đàn ông cũng ít ai bằng.
Nhớ lại mấy tháng đó, chỉ có bốn ngày thăm cảnh Lạng Sơn với
hai anh bạn cùng thi đậu là vui: anh Huỳnh Diên Phú bao tiền xe lửa cho tôi, và
anh Nguyễn Văn Hợp tìm chỗ cho chúng tôi ở trọ. Đường xe lửa Hà Nội - Lạng Sơn
dài 180 cây số, đi mất gần một ngày. Từ ga Đồng Mỏ trở lên, hai bên đường toàn
là núi đá thấp, rất buồn. Nay tôi giữ được hình ảnh những con đường vắng vẻ, sạch
sẽ, mát mẻ, thoang thoảng hương long não trong thành phố; buổi chợ tám giờ sáng
đã tan với những người Mán bận quần áo tím, đeo gùi dựng sản phẩm trong rừng ra
bán; con sông Kỳ Cùng hai bờ đá dựng đứng, dòng nước cuồn cuộn ở dưới sâu sáu bảy
thước; cái hang Gió ở trên một ngọn núi đá nhìn xuống thành phố; nhất là cái
ánh sáng xanh mờ mờ như ánh trăng trong động Tam Thanh. Rất tiếc là lần đó
chúng tôi không đủ tiền để đi thăm cửa Nam Quan.
Để cho qua ngày, tôi tự học lại chữ Hán. Mỗi ngày, buổi chiều
tôi lại thư viện Trung Ương đường Trường Thi, mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào
Duy Anh mới xuất bản hai năm trước (1932) rồi bắt đầu từ chữ A, tìm những từ và
từ ngữ nào tôi đoán là thường dùng mà chưa biết thì tôi chép lại trong một tập
vở, mỗi ngày độ chép ba bốn chục từ; tôi lại mượn cuốn Grammaire chinoise của
Cordier cũng chép lại những điều quan trọng. Tôi ở thư viện từ 3 đến 5-6 giờ
chiều. Tối hôm đó và sáng hôm sau, tôi học hết những trang đã ghi đó; rồi chiều
lại ra thư viện chép bài học sau. Mỗi tuần nghỉ một ngày để ôn lại những bài
trong tuần, và đi vô làng Thịnh Hào hoặc làng Hạ Đình thăm các anh em cháu cô
cháu cậu của tôi.
Một buổi tối, một anh bạn học ở Công chánh lại chơi, thấy tôi
học dưới ngọn đèn dầu, hỏi tôi: "Anh tính thi Tri huyện à?". Tôi mỉm
cười lắc đầu, đáp: "học cho biết vậy thôi".
Học ba tháng, được độ ba ngàn từ, tôi viết thử một bài bằng chữ
Hán độ sáu bảy hàng, đưa một ông bác, cụ Hy Thanh, con cụ Đỗ Uẩn ở Thịnh Hào,
xin cụ sửa cho. Cụ đọc rồi chỉ mỉm cười, không sửa gì cả. Có thể không có lỗi,
nhưng chắc chắn là ngây ngô, "pas chinois". Nhưng người con thứ của cụ,
anh Nhiếp học chữ Hán khá, làm thợ bạc, thấy vậy, khen tôi rồi để khuyến khích
tôi, đi mượn cho tôi một bộ Tam Quốc Chí in thạch bản, có lời bình của Thánh
Thán, bảo tôi đọc. Vì đã biết truyện rồi, nên tôi đọc được, mới đầu chậm, sau
quen, và rất thích lời bình của Thánh Thán.
Vừa đọc xong bộ đó thì tôi được giấy bổ vào làm ở Sở Thủy lợi
miền Nam Đông Dương. Trước đó, một công ti khai mỏ của Pháp ngỏ ý muốn tôi làm ở
Savanakhet, nhưng mẹ tôi ngại xa lạ, không cho tôi nhận (coi bài Tựa cuốn Bảy
ngày trong Đồng Tháp Mười). Thâm ý của người là muốn cho tôi làm việc ở Bắc để
gần nhà săn sóc các em được. Tôi cũng nghĩ vậy. Nhưng lần này mẹ tôi vui vẻ cho
tôi nhận việc: Nam Việt tuy xa nhưng có bác Ba tôi trong đó, thì cũng như gần.
Người thu xếp cho tôi một số tiền (ba chục đồng) mang đi, lại đưa thêm hai chỉ
vàng (đánh thành nhẫn) để phòng khi thiếu thốn. Mẹ tôi lo cho tôi thật chu đáo.
Hôm nay gần tới buổi hoàng hôn của cuộc đời, ôn lại dĩ vãng,
tôi thấy sự thay đổi lớn lao vào giữa đời (khoảng 1950) là do một sự may và vài
sự rủi tạo nên. May vì năm 1928, mẹ tôi bỗng nảy ra ý cho tôi học thêm chữ Hán
trong hai vụ hè, tổng cộng được bốn tháng với bác Hai tôi, nếu không thì một
nhúm chữ nghĩa cha tôi dạy vỡ lòng cho tất sẽ quên hết. Rủi vì năm 1934 ở trường
Công chánh ra, gặp hồi kinh tế khủng khoảng mà tôi chỉ đậu vào hạng sáu, phải đợi
năm tháng mới được bổ, nên để qua ngày giờ, tôi tự học thêm chữ Hán, vừa tới
lúc dược bồ dụng thì tôi đã tạm đọc được sách Hán, nếu không có năm tháng đó
thì mớ chữ nghĩa học được của bác tôi chưa dùng được, để lâu cũng sẽ quên nữa.
Có số vốn nhỏ đó rồi, trong mười năm sau, cứ lâu lâu tôi lại đọc sách thêm, nhờ
bác Ba tôi chỉ dẫn, mà khi bỏ nghề Công chánh và dạy học, tôi mới quyết tâm viết
lách, nghiên cứu, thành một nhà văn. Kết quả là ba năm học nghề Công chánh tôi
chỉ dùng được hơn mười năm để mưu Sinh, mà vài năm học chữ Hán (tính số giờ thì
vài năm đó chỉ bằng 6 tháng liên tiếp chuyên học) lại dùng được suốt đời; nhờ
đó một phần lớn mà tôi đã sống trong sạch và phong lưu, lại hiểu biết thêm nhiều,
làm quen được một số bạn văn và khá nhiều độc giả, gây được một chút thanh danh
cho nhà, đền đáp được phần nào công của tổ tiên mấy đời.
Vậy trong rủi có may, mà ở đời có những cái tưởng như vô ích
lại hữu ích vô cùng. Năm 1928, ai chẳng bảo chữ Hán là vô dụng?
Trở lui lên nữa, nếu tôi không mồ côi cha sớm, sự học của tôi
chắc đã tấn tới nhiều, không bị "đúp" hai năm ở tiểu học, lại thi đậu
vào trường Bưởi ngay từ lần đầu thì năm 1931, đáng lẽ đậu Cao đẳng tiểu học,
tôi đã đậu tú tài, rồi sau đậu cử nhân hay tiến sĩ mà thành một "ông lớn"
như vài bạn tôi, chứ đâu được làm một "thư sinh" như ngày nay.
Chú thích:
1. Lộc Đình là tên hiệu của tôi, vì sinh ở ngõ Phất Lộc. Trong
nhà, bác tôi chỉ gọi tôi bằng tên đó.
2. Ngày tháng âm lịch.
3. Tôi chỉ đánh điện mỗi chữ đó, nghĩa là thi đậu.
4. Lúc đó bác tôi cũng đợi tin người con trai lớn - anh Tân
Phương - thi Tú tài I ở Sài Gòn. Tiệp báo là báo tin thi đậu.
5. Ám chỉ ngôi ngôi mộ Gò Mẹo cụ tổ sáu đời và ngôi mộ Gò Dù cụ
tổ năm đời của tôi ở Phương Khê - Coi chương III. Bất đệ là không đậu.
6. Coi cước chú 5.
7. Quẻ Khiêm trong Kinh Dịch có câu: "Khiêm khiêm quân tử,
ti dĩ tự mục", nghĩa là người quân tử nên rất khiêm tốn để nuôi cái đức của
mình.
8. Trong Tự học, một nhu cầu của thời đại.
9. Số tiền thời đó lớn lắm, bằng 40 lượng vàng, vì tôi nhớ mỗi
tháng mẹ tôi chỉ cho bốn anh em chúng tôi tám đồng để đi chợ và tiêu vặt trong
nhà. Học sinh nghèo ở trọ trả 2 đồng một tháng, và công nhựt một người thợ tầm
thường từ một đến hai hào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét