Thứ Năm, 3 tháng 9, 2020

Đời viết văn của tôi 1

Đời viết văn của tôi 1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bộ HỒI KÝ dầy trên bảy trăm trang tôi chép về gia đình tôi, đời sống, đời viết văn của tôi, và ghi những nét chính về xã hội Việt Nam từ sau thế chiến thứ nhất tới nay.
Tôi theo thứ tự thời gian nên những trang về đời viết văn rải rác trong suốt bộ, chỗ thì vài trang, chỗ thì trọn một chương, có chỗ năm chương liên tiếp. Nay tôi tách những đoạn, chỗ đó ra, gom chung vào tập này. Để nối những đoạn, chương rải rác, tôi đã phải thêm đó đây ít hàng hoặc một đoạn mà tôi viết lùi vào trong một chút cho dễ nhận. Tôi đã bỏ nhiều đoạn nhưng cũng thêm nhiều chi tiết không chép trong bộ HỒI KÝ.
Đời tôi có thể tóm tắt trong hai chữ HỌCVIẾT. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau gần suốt đời, tôi viết để học, và học để viết. Cho nên chép về đời văn của tôi, tôi phải nhắc trước hết đến việc tự học, mà hai môn quan trọng nhất tôi tự học là Hán tự và Anh ngữ, nhờ đó tôi mới có những chìa khóa để mở mang thêm kiến thức, mới viết được nhiều và được độc giả chú ý tới.
Long Xuyên, ngày 15.10.1980
Phần I
HỌC CHỮ HÁN
HỌC VỚI CHA, BÁC VÀ THẦY
Cha tôi (huý Nguyễn Văn Bí - hiệu Đặc Như - sinh năm Đinh Hợi 1887, mất năm Canh Thân - 1920 giữ được truyền thống của tổ tiên mấy đời trước, săn sóc sự học của con rất chu đáo. Người dạy vỡ lòng chữ Hán cho tôi, tôi không nhớ vào hồi mấy tuổi, cũng không nhớ trong bao lâu, chỉ đoán vào khoảng một năm rưỡi.
Người mua cho tôi mấy cái thẻ bằng gỗ rộng chừng năm phân, dài chừng ba tấc, trên mặt khắc chìm những chữ Hán dễ, lớn như chữ: thiên, trung, lập, môn… Tôi dùng một cây bút lông chấm vào nước lã rồi tô những chữ đó. Như vậy ít lâu cho quen tay rồi mới tập viết phóng. Những thẻ bằng gỗ đó hình như không thông dụng, tôi không thấy ở các nhà khác. Ngày nào tôi cũng phải trả bài, hễ còn ngắc ngứ thì phải học lại cho thuộc kỹ rồi mới được đi chơi. (ch. III, tức chương III trong bộ Hồi Ký - sau cũng vậy).
Sau người dạy cho tôi chữ Quốc ngữ và bốn phép toán rồi nhờ một thầy ký có bằng cấp Tiểu học Pháp-Việt dạy cho tôi vần Tây. Đầu năm 1920, giữa niên học, người xin cho tôi vô lớp Dự bị (Préparatoire trường Yên Phụ, Hà Nội. Tháng 8 âm lịch, ngày 26 năm đó người mất. Hồi đó tôi 10 tuổi ta nhưng tính theo Tây mới được 8 năm rưỡi.
Thế là luôn 9, 10 năm, mãi đến năm 1927, vào năm thứ nhất trường Bưởi, tôi mới được học chữ Hán mỗi tuần một giờ. Nhờ được được cha tôi dạy, cho nên tôi trội hơn các bạn về Hán tự, mỗi bài độ 20-25 chữ, thì chỉ có dăm ba chữ tôi không biết, tôi viết đã "ngang bằng, sổ ngay" và không lầm thứ tự các nét. Thầy dạy là cụ Thẩm Quỳnh, cử nhân Hán học.
Mùa hè năm 1928, nghĩa là cuối năm thứ nhất (1ère année), mẹ tôi (huý Nguyễn Thị Sâm, sinh năm Bính Tuất - 1886 có một quyết định khiến đời tôi sau này theo một hướng mà chính người và các bác tôi không ai ngờ được. Ngày nay càng nghĩ lại, tôi càng thấy công lớn của người và không hiểu đã có cái gì khiến người nảy ra quyết định đó (có lẽ chỉ tại người là con nhà Nho và cũng trọng Nho học như cha tôi). Thời đó Nho học đã tàn tạ mà người xin bác Hai tôi (huý Cổn, tự là Đạo Quýnh), cho tôi về Phương Khê (quê bên nội thuộc phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây), ở trong dịp hè để nhờ bác tôi dạy chữ Nho cho, mà "sau này đọc được gia phả bên nội, bên ngoại, chứ không lẽ con cháu nhà Nho mà không biết gốc gác ông bà". Muốn cho con cháu biết gốc gác ông bà thì bác tôi chỉ cần viết lại gia phả bằng Quốc ngữ, chứ cần gì phải dạy tôi chữ Hán. Thâm ý của mẹ tôi là muốn cho tôi biết đạo Nho, giữ được truyền thống của nhà Nho chăng? Vậy là từ đó trong hai mùa hè liên tiếp, tôi về Phương Khê hai tháng, trước kia chỉ về chơi một tuần hay nửa tháng (ch. VI).
(… Bác tôi năm đó còn làm thầy đồ, sáng nào cũng dạy khoảng 20 học trò từ 25 tuổi trở xuống đến 9-10 tuổi (1) (Từ 6 sáng đến khoảng 10 giờ thì xong, nghỉ trưa, chiều mới dạy riêng cho tôi).
Năm đầu, người cho tôi học bộ Ấu học Hán tự tân thư, cuốn thứ tư, rồi năm sau cho tôi học bộ Việt sử, chắc cũng trong loại tân thư nữa. Tôi chép lại trong một tập giấy Tây bằng bút sắt và mực Tây bài học trong sách rồi bác tôi giảng nghĩa cho (Cũng như cụ Thẩm Quỳnh, người không hề cho biết ngữ nguyên của mỗi chữ, ngữ pháp, cách dùng các hư tự chi, hồ, giả, dã…). Tôi chỉ cốt học để "đọc được gia phả", không làm văn thơ, nên không cần học thuộc lòng, không cần biết cách đặt câu, chỉ cần nhớ mặt chữ và nghĩa là được rồi.
Bài đầu dài độ 70 chữ về đạo tu thân, rồi lần lần bài dài hơn, cuối vụ hè tôi đã học những bài từ 200 đếm 300 chữ. Mỗi bài bác tôi giảng chừng 20 câu, có những chữ tôi biết rồi nhưng cũng giảng thêm. Chẳng hạn bài đầu có chữ thanh là trong, bác tôi cho biết thêm nghĩa nữa là xong, như sự thanh là việc xong rồi, và chỉ cho tôi những từ thanh bạch, thanh bình, thanh tĩnh, thanh minh, thanh khiết, hoàng các thanh phong. Vậy là do một chữ mà tôi biết thêm được ít nhiều chữ khác, lợi hơn với cụ Thẩm Quỳnh.
Tôi còn giữ tập chữ Hán năm đó, tất cả được 61 bài. Bài cuối có câu: "Người đi học ngày nay nên mài bỏ hai chữ khoa cử đi, phóng mắt nhìn đại dương tìm bờ bến, đừng nhận lầm lưng cá là bờ". Vậy bộ đó là do một số nhà Nho tiến bộ soạn sau phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Năm 1960 đọc lại, tôi thấy đã quên một số chữ như thuỷ mẫu là con sứa và tôi mới biết du thuyết, thuyết khách, đúng ra phải đọc là du thuế, thuế khách.
Những bài luân lý trong tập Ấu học đó không có gì hấp dẫn, nhưng thường trích những câu của Khổng, Mạnh như bài đầu có câu: "Khổng Tử viết: Thanh tư trạc anh, trọc tư trạc túc" (Khổng Tử nói: Nước trong thì nước dùng để giặt giãi mũ, nước đục thì dùng để rửa chân); lại thêm thỉnh thoảng bác tôi cũng cao hứng chép cho tôi một câu thơ như: "Nhất kỵ hồng trần Phi tử tiếu, vô nhân tri thị lệ chi lai" tả nỗi mừng của Dương Quý Phi khi thấy trong đám bụi đỏ một người phi ngựa chở trái vải ở Quảng Đông về kinh cho nàng; hoặc câu "Lê hoa nhất chi xuân đái vũ" (mà Nguyễn Du trong Kiều dịch thoát là: Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa để tả một người đẹp giọt ngắn giọt dài. Nhờ vậy mà tôi biết được chút ít về cổ học.
Thời đó, tôi ham biết văn thơ Trung Quốc, nghe những tên như Văn Tâm điêu long, Chiêu Minh văn tuyển, Tiền Xích Bích phú, Quy khứ lai từ là trong lòng vang lên một điệu trầm trầm như nhớ nhung cái gì, nhưng khi gợi ý với bác tôi thì người gạt đi: "Cháu học tiếng Tây mà muốn biết những cái đó làm gì? Phải tốn công mười năm đèn sách mới hiểu được mà cái học Nho bây giờ đã thành vô dụng rồi. Thím Tư (tức mẹ tôi muốn cho cháu về đây học bác để sau này đọc được gia phả bên nội bên ngoại, bác nghĩ như vậy là phải, còn văn thơ cổ nhân thì thôi, thôi đi. Để sức mà tìm hiểu khoa học, cháu". Đó là tâm trạng chung các nhà Nho thời đó. Các cụ thấy cái hại của thứ văn chương "tám vế", thấy tụi "bạch quỷ" chiếm được nước mình chỉ nhờ tàu chiến của họ mạnh, súng ống của họ tốt, nên chỉ muốn cho con cháu chuyên học kỹ thuật phương Tây để sau vượt họ mà đập lại họ như Nhật Bản năm 1905.
Các cụ mài bỏ hai chữ khoa cử rồi, muốn tẩy xoá luôn cả văn thơ Trung Quốc.
Học chữ Hán như vậy thì mỗi ngày tôi chỉ mất độ hai giờ, kể cả công chép bài. Nhớ được chữ nào thì nhớ, bác tôi không ép. (ch. VI).
Hè năm sau, 1929, tôi lại về Phương Khê học được 2 tháng nữa, học bộ Việt sử. Qua hè 1930, tôi mới về được nửa tháng, chưa học được gì thì bà ngoại tôi đau nặng rồi mất, tôi trở xuống ở luôn Hà Nội nên phải bỏ chữ Hán. Hè 1931, tôi mắc học thi vô trường Cao đẳng Công chánh, nên chỉ về Phương Khê chơi nửa tháng. Rồi từ đó bác tôi yếu, không dạy học nữa. Hè năm 1933 người mất, khoảng 55 tuổi. Vậy trước sau tôi học với bác tôi được bốn tháng, mỗi ngày hai giờ. Học được độ bốn ngàn chữ, nhưng sau nhớ độ một nửa. Đọc gia phả chắc hiểu lõm bõm, chưa đủ tra tự điển Trung Hoa như Từ Hải, Từ Nguyên, nhưng trong lớp tôi đứng đầu về môn Hán tự; cuối năm thứ tư, thi bằng Thành Chung, tôi đậu "Mention Caractères Chinois". Tôi tưởng giám khảo là cụ phó bảng Bùi Kỷ, sẽ đưa cho tôi một đoạn văn dễ, bảo tôi đọc và dịch; nhưng cụ chỉ bảo tôi viết chữ "phụng" (là dâng, vâng lên bảng đen rồi cười cho tôi ra. Cụ Dương Quảng Hàm dạy tôi Pháp văn, Việt văn, cũng ở trong phòng, theo dõi cuộc "hạch vấn" đó và cũng cười. Hai cụ làm sao ngờ được sau này học trò của mình thành một nhà nghiên cứu về cổ học Trung Quốc (2). Học hai vụ hè đó, cái lợi về kiến thức tuy đáng kể, nhưng theo tôi không bằng lợi về tinh thần. Nhờ sống sau luỹ tre xanh giữa nông dân, tôi hiểu đời sống vất vả, thiếu thốn của họ, cả những tật xấu của họ nữa, mà tôi đã ghi lại vài nét trong chương VII bộ Hồi Kí; tôi có cảm tình với hạng dân nghèo chất phác mà ghét hạng tổng lý hách dịch, xảo trá. Tôi lại yêu quê hương tôi hơn: cảnh núi Tản hùng vĩ, cảnh ngã ba Bạch Hạc mênh mông vào mùa nước lớn, cảnh đồng ruộng văng vẳng tiếng sáo diều và thoang thoảng hương lúa, cảnh chợ quê lèo tèo mấy gian cột tre mái rạ với những quán chè tươi ở dưới gốc muỗm, lồng lộng gió đồng. Nhưng cái lợi nhất là ở gần bác tôi, tôi được thấm nhuần tinh thần gia đình và gia tộc, lòng thành kính trong sự thờ phụng tổ tiên, (Bác tôi, mấy tháng trước giỗ ông nội, bà nội tôi, luôn luôn chuẩn bị sẵn, cho thiến một con gà trống rồi nhồi bắp cho nó thật mập để mổ thịt, lấy mỡ làm xôi vò…). Tôi dần dần nhận định được địa vị và bổn phận của một người có học trong nhà, trong họ, trong làng, nên sớm có thái độ đúng đắn. Tôi được thấy nếp sống giản dị, nghiêm cẩn của nhà Nho và được nghe nhiều lời dạy dỗ của bác.
Trong số anh em trong nhà, tôi lanh lợi và mau hiểu nhất, nên bác tôi đi đâu cũng dắt tôi theo; và tôi được biết tính khoan hồng của người: bênh vực một thiếu phụ xấu số, mới có chồng được mấy tháng thì chồng bị tê liệt, không có con, nên khuyên mẹ chồng người đó tha thứ một lỗi nặng của con dâu để cho gia đình khỏi tan nát (việc đó tôi đã chép lại trong một tác phẩm của tôi, không nhớ cuốn nào); tôi ngạc nhiên về đức tín của nhà Nho: người hứa với một bạn xa cách nhau đã lâu năm ngày nào đó sẽ lại thăm, thì ngày đó, dù mưa gió, người cũng dắt tôi theo và hai bác cháu che ô lội qua một cánh đồng rộng hai cây số, nước ngập tới mắt cá để giữ chữ tín với bạn, một ông ấm ngồi dạy học ở làng Thanh Mai; tới nơi hai bác cháu phải hơ lửa bếp một lúc lâu quần áo mới khô, rồi một giờ sau, nói hết chuyện, bác tôi lại cáo từ ông ấm, ra về "kẻo trẻ ở nhà mong". Lại lội đồng hai cây số nữa, may mà trời đã tạnh. (Việc này tôi chép lại trong cuốn Tương lai trong tay ta (? của tôi).
Lần khác người lại dắt tôi đi thăm mộ cụ Nghè đời Lê ở làng Phú Xuyên, cách làng tôi ba cây số, và nhìn ngôi mộ cổ dưới gốc đa trên cái gò giữa đồng, tôi phục tinh thần thanh khiết, ẩn dật của nhà Nho (coi bài Tựa cuốn Cổ văn Trung Quốc của tôi).
Bài học để lại ấn tượng sâu nhất là bài học trọng tinh thần hơn vật chất mà tôi đã chép lại trong cuốn Tổ chức gia đình. Chiều hôm đó, chúng tôi đi thăm mộ cụ Lê Anh Tuấn, một vị tham tụng thời Trịnh Cương, ở làng Thanh Mai, bác tôi khuyên tôi sống thanh bạch như cổ nhân: cụ Lê Anh Tuấn chức như Tể tướng mà nhà rất nghèo, chỉ cất được mỗi ngôi nhà rất nhỏ; cụ Lê Đình Duyên, thầy học của ông nội tôi, đậu Tiến sĩ, làm chức Tư nghiệp Quốc tử giám mà nhà thờ còn nhỏ hơn nhà thờ cụ Lê Anh Tuấn nữa; cụ Nghè làng Vẽ mà bác tôi gọi là ông chú còn bần hàn hơn: nhà lợp ra, dột, bữa cơm chỉ có dăm con tép và một bát rau muống. Tôi nhớ hoài lời này của bác tôi: "Đời sống vật chất nên dưới mực trung bình còn đời sống tinh thần thì nên trên mức ấy".
Hồi dạy học ở Long Xuyên năm 1951-1952, tôi đem ra khuyên lại học trò tôi và mới năm ngoái (1979), một người trong số học trò đó đã 46-47 tuổi lại thăm tôi, nhắc lại lời đó (tóm tắt trong ch. VI).
TỰ HỌC
Từ cuối hè 1929 đến hè 1934 (ở trường Công chánh ra tôi không học thêm chữ Hán nữa (Tuy ở trường Bưởi có những bài của cụ Thẩm Quỳnh nhưng đối với tôi dễ quá, tôi không học thêm được gì cả). Số chữ bác tôi dạy, sau non sáu năm đó, tôi quên mất chắc khá nhiều, nhưng vẫn còn dư cho tôi tự học một cách dễ dàng.
Bác tôi mất năm 1933 thì tháng 6-1934, tôi thi ra trường Công chánh (… Tôi không mừng vì biết trước thế nào cũng đậu, mà trái lại rất buồn. Ngày đi coi bảng, bạn bè thi đậu, người nào cũng hớn hở mà tôi thì không muốn về nhà nữa (…)
"Lúc đó đương thời kinh tế khủng hoảng, tôi biết đợi nửa năm nữa chưa chắc được bổ mà cảnh nhà tôi lại túng bấn. Ăn cơm với rau tôi không ngại, ngại nhất là trông nét mặt ưu tư của mẹ tôi (3) và thấy mình cứ nằm dài ra ăn báo cô, không giúp người được gì. Người ta chỉ chiều mới thấy buồn; tôi hồi ấy sáng dậy đã thấy buồn, ước ao sao được ngủ luôn một giấc sáu bảy tháng. Nói gì đến buổi chiều nữa. Mỗi lần mặt trời lặn, nỗi chán nản của tôi dâng lên mênh mông như bóng tối. Tôi không muốn ở nhà, đi thơ thẩn ở ngoài đường cho hết ngày" (trích trong Tự học, một nhu cầu của thời đại – tr. 28).
Vì về nhà phải thấy cảnh bốn anh em ăn rồi ở không. Mẹ tôi thì đem hàng tạp hoá lên bán ở Vĩnh Yên rồi mua hàng ở Vĩnh Yên chở về Hà Nội, mỗi tuần hai chuyến, ở Hà Nội độ 2 ngày, nhưng về nhà chỉ có hai buổi tối. Cả nhà chỉ trông cậy vào tôi mà tôi thì nằm "ếp rệp" (tiếng thời đó dùng để mỉa hạng thất nghiệp.
Để cho qua ngày, tôi tự học lại chữ Hán. Mỗi ngày, buổi chiều tôi lại thư viện Trung ương đường Trường Thi, mượn bộ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh mới xuất bản hai năm trước (1932 rồi bắt đầu từ chữ A, tìm những từ và từ ngữ nào tôi đoán là thường dùng mà chưa biết thì chép lại trong một tập vở, mỗi ngày độ ba bốn chục từ. Tôi lại mượn cuốn Grammaire chinoise của Cordier cũng chép lại những điều quan trọng – Cuốn này bổ túc sự dạy chữ Hán của bác tôi, nhờ nó mà tôi biết cách người xưa dùng những hư từ chi, hồ, giả, dã…, biết cách đặt câu mà so với ngữ pháp Pháp, tôi thấy giản dị hơn nhiều. Tôi ở thư viện từ 3 đến 5-6 giờ chiều. Tối hôm đó và sáng hôm sau tôi học hết những trang đã ghi chép, rồi chiều lại ra thư viện chép bài học sau. Mỗi tuần nghỉ một ngày để ôn bài trong tuần, và đi vô làng Thịnh Hào hoặc làng Hạ Đình thăm các anh em cháu cháu cô cậu của tôi (…). Học ba tháng được độ ba ngàn từ, tôi viết thử một bài bằng chữ Hán, độ sáu bảy hàng, đưa một ông bác tôi, cụ Hy Thanh ở Thịnh Hào, xin cụ sửa cho. Cụ đọc rồi chỉ mỉm cười, không sửa gì cả. Có thể không có lỗi, nhưng chắc là ngây ngô, "pas chinois". Nhưng người con cả của cụ, anh Nhiếp hơn tôi 15-16 tuổi, chữ Hán khá, làm thợ bạc, thấy vậy khen tôi và để khuyến khích tôi, đi mượn cho tôi bộ Tam Quốc Chí in thạch bản có lời bình của Thánh Thán, bảo tôi đọc. Vì đã biết truyện rồi, nên tôi đọc được, mới đầu chậm, sau quen, càng ngày càng thích, thích nhất là lời bình của Thánh Thán. Lối phê bình đó mới mẻ với tôi quá.
Vừa đọc xong bộ đó thì tôi được giấy bổ vào làm việc Sở Thuỷ lợi ở Nam Việt. Mẹ tôi rất mừng vì vào trong đó tôi được gần bác tôi – huý Côn, sau đổi là Khôn từ khi vào Nam, hiệu Phương Sơn, một giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục, rể của Thục trưởng, cụ Lương Văn Can. Người thu xếp cho tôi một số tiền, và ngày rằm tháng chạp năm Giáp Tuất – tháng 1.1935 – tôi lên xe lửa vô Sài Gòn nhận việc. (ch. IX).
Giai đoạn đầu, khó khăn nhất, trong việc học chữ Hán của tôi chấm dứt ở đây. Từ nay tôi có thể đọc sách, tra tự điển Trung Hoa để tự học thêm được rồi. Tính lại thì tôi được cha tôi dạy cho một năm rưỡi hồi nhỏ; khoảng 9, 10 năm sau bác Hai tôi dạy cho tôi được hai vụ hè, cộng là bốn tháng; cụ Thẩm Quỳnh dạy bốn năm, mỗi tuần một giờ; nhưng chỉ trong hai vụ hè là tôi học được nhiều hơn cả vì hồi nhỏ học vỡ lòng chưa biết được gì, còn bài học của cụ Thẩm Quỳnh thì dễ quá, không học thêm được mấy. Mà trong hai vụ hè, học "tài tử" mỗi ngày chỉ hai giờ. Lại năm năm sau nữa tôi mới quyết tâm học ba bốn tháng trong khi đợi bổ.
Gom cả ba thời gian đó chỉ bằng một người học liên tiếp sáu bảy tháng, mà đọc được Tam Quốc Chí (dĩ nhiên không hiểu hết). Cho nên năm 1940-1941, một kỹ sư Thuỷ lợi Trung Hoa qua tu nghiệp ở Sài Gòn hỏi tôi học chữ Hán bao lâu mà đọc được sách, tôi đáp khoảng sáu tháng. Ông ta ngạc nhiên… Tôi giảng: "Non nửa từ ngữ Việt của chúng tôi mượn của Trung Hoa, mà phát âm theo Việt, nên gọi là tiếng Hán-Việt. Cách phát âm đó hơi giống cách phát âm của giọng Quảng Đông. Vì vậy học Hán tự nhiều chữ chúng tôi không cần học nghĩa, cũng không cần học cách đọc vì chúng tôi đọc theo giọng của chúng tôi; chỉ cần nhớ mặt chữ thôi. Tôi không thông minh gì đâu mà tôi tin rằng nếu chịu khó thì tất cả các bạn học của tôi có thể chỉ trong sáu tháng là đọc được Tam Quốc Chí".
Hôm nay gần tới buổi hoàng hôn của cuộc đời, ôn lại dĩ vãng, tôi thấy sự thay đổi lớn lao vào giữ đời tôi (khoảng 1950 quyết tâm bước vào đời viết văn), là do một sự may và một sự rủi tạo nên. May vì năm 1928 mẹ tôi bỗng nảy ra ý cho tôi học thêm chữ Hán trong hai vụ hè với bác Hai tôi, nếu không thì một nhúm chữ nghĩa cha tôi dạy vỡ lòng cho sẽ quên hết. Rủi vì năm 1934 ở trường Công chánh ra, gặp hồi kinh tế khủng hoảng, tôi phải đợi 5 tháng mới được bổ, nên để qua thì giờ, tôi học thêm chữ Hán, vừa tới lúc được bổ dụng thì tạm đọc được sách chữ Hán; nếu không có mấy tháng đó thì mớ chữ nghĩa học được của bác tôi chưa dùng được, bỏ lâu cũng sẽ quên dần hết. Có số vốn nhỏ đó rồi, cứ lâu lâu tôi đọc thêm sách, nhờ bác Ba tôi ở Tân Thạnh (Long Xuyên chỉ dẫn, mà khi bỏ nghề Công chánh và dạy học tôi mới quyết tâm viết lách, nghiên cứu, thành một nhà văn. Kết quả là ba năm học nghề Công chánh, tôi chỉ dùng được hơn mười năm để mưu sinh, còn vài năm học chữ Hán (tính theo giờ học thì chỉ bằng 6 tháng lại dùng được suốt đời, giúp tôi sống trong sạch và phong lưu mà lại hiểu biết thêm nhiều, làm quen với một số bạn văn và khá nhiều độc giả, gây được một chút tiếng tăm cho nhà, đền đáp được phần nào công của tổ tiên mấy đời.
Vậy trong cái rủi có cái may, mà ở đời có những cái tưởng như vô ích mà hữu ích vô cùng. Năm 1928, ai chẳng bảo học chữ Hán là vô dụng? (…)
Tới đây chấm dứt đời học sinh của tôi, cũng chấm dứt cuốc sống ở Bắc, quê hương thứ nhất, để bắt đầu cuộc sống ở Nam, quê hương thứ nhì của tôi. (ch. IX).
Chú thích:
Tôi đã nhắc tới không khí trong lớp học đó ở cuối cuốn Nhà giáo họ Khổng.
(2)
Sau tôi được học một năm Việt ngữ với cụ Bùi ở trường Công chánh. (Coi Nửa thế kỷ chánh tả Việt ngữ trong cuốn Mười câu chuyện văn chương). Còn cụ Dương thì tôi viết bài: Cụ Dương Quảng Hàm, trong Bách Khoa số 230 năm 1996.
(3)
Một người cháu của mẹ tôi ở phố Hàng Đường thiếu người hai ngàn đồng (bằng ngày nay bốn chục lượng vàng, công nhật của một người thợ tầm thường chỉ có hai hào không trả nổi. Trong mười năm, người tiết kiệm được đồng nào, không dám để trong nhà đành gởi người cháu đó. Họ buôn bán tưởng phát đạt vì khách hàng đông, nhưng vì bán chịu nhiều, lại tiêu pha quá mức nên sụp đổ rất mau. Vụ đó đau xót cho người nhất, nhưng người âm thầm chịu đựng và làm việc tăng lên để ráng gây dựng lại. Nghị lực của người, đàn ông cũng ít ai bằng.
Phần II
THỜI LÀM CÔNG CHỨC SỞ THUỶ LỢI
LÊNH ĐÊNH TRÊN SÔNG RẠCH MIỀN TÂY
Trưa ngày rằm tháng chạp năm Giáp Tuất (19.1.1935), mẹ tôi, em trai tôi và một người em họ đưa tôi ra ga Hàng Cỏ để đáp xe lửa vô Nam. Hôm đó trời u ám, mưa phùn lất phất. Buồn vô hạn. Ở sân ga mẹ tôi chỉ dặn tôi vào Nam thế nào cũng đi thăm bác Ba tôi ở Long Xuyên (làng Tân Thạnh rồi viết thư ra để người biết mà yên lòng. Anh Đỗ Văn Hách, bạn học trường Bưởi và trường Công chánh, cũng được bổ vào cùng sở với tôi và cùng đi một chuyến xe. (ch. X).
Thời đó đường xe lửa xuyên Đông Dương chưa hoàn thành, còn khúc từ Quy Nhơn tới Nha Trang phải đi bằng xe ca. Tôi được thấy cảnh rừng dừa bát ngát ở Tam Quan, cảnh núi non hùng vĩ và biển cả mênh mông ở Đèo Cả, cảnh vườn cao su âm u ở Biên Hoà. Sáng 22.1, tới Sài Gòn tươi sáng và náo nhiệt; ánh sáng tưng bừng trên ngọn những hàng sao, dầu cao vút, đường phố nhộn nhịp người qua lại, phụ nữ hầu hết bận áo cụt, cảnh đó, sau tôi ghi lại rải rác trong các tác phẩm của tôi.
Lãnh việc ở Sở Thuỷ lợi miền Nam Đông Dương xong, từ Sông Cầu trở vào (gồm cả Cao Miên và một vài tỉnh Nam Lào thì tới Tết âm lịch, tôi về Tân Thạnh thăm hai bác và các anh chị tôi. Bác cháu, anh em mừng mừng tủi tủi, nói chuyện với nhau suốt ngày hôm đó. Hai hôm sau bác tôi đưa tôi đi chào vài người bà con trong họ, mùng 3 tôi qua Long Xuyên để bắt đầu làm việc. Công việc chúng tôi là đo mực đất cao thấp ở miền Tây từ Châu Đốc, Long Xuyên qua Rạch Giá, xuống Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau; từ mực đất đó mà đo xuống mực nước sông rạch để tính ra đường nước chảy khi thảo kế hoạch thuỷ lợi (… Công việc phải làm ban đêm, dùng đèn khí đá. Có hai kíp thay phiên nhau, một kíp từ 6 giờ chiều tới nửa đêm, một kíp từ nửa đêm đến 6 giờ sáng (… Mỗi đêm chúng tôi đo được từ 3 đến 4 cây số, đo tới đâu, ghe dời chỗ theo tới đó vì chúng tôi ăn ở trong những chiếc ghe hầu, dài khoảng 4 thước, rộng non thước rưỡi, cứ như vậy tiến hoài, mỗi ngày ăn chợ một nơi. (ch. X).
Nhờ vậy mà trong hai năm 1935-36 tôi biết được gần hết cảnh miền Tây. Sau tôi lại biết thêm cảnh miền Đông, và trong ch. X tôi đã ghi lại vắn tắt đặc điểm của mỗi miền. Tôi nhận thấy:
(… Nam Việt có nhiều vẻ, có đi nhiều mới biết được và có ở lâu mới thấy thích. Xét chung thì miền Tây đẹp nhờ trăng và nước. Ở đây nhiều sông rạch hơn Hàng Châu và càng gần Xích đạo thì trăng càng tỏ. Thi sĩ Trung Hoa thích cảnh trăng ẩn hiện sau đám mây, nửa mờ nửa tỏ; tôi cho rằng trăng vằng vặc trên sông nước mới đẹp.
Trăng ở đây tỏ nhất vào giữa tháng giêng và tháng hai âm lịch. Vào những khoảng đó nếu làm việc ở miệt vườn như Long Xuyên, Cần Thơ, mà lại nhằm ngày rằm, làng nào cũng cúng đình thì thế nào tôi cũng dạo trên bờ rạch để ngắm cảnh (… (ch. X).
Làm việc ban đêm ở ngoài trời, chúng tôi được tự do, dân chủ (…), lại có nhiều thì giờ rảnh. Nếu làm kíp đầu hôm thì cả ngày hôm sau không biết làm gì cho hết ngày. Ở gần một châu thành, có thể đi dạo phố, vào tiệm tìm sách mới, rủ nhau đi coi cảnh chùa, thánh thất Cao Đài, chụp hình… Nhưng ở giữa đồng, gặp hồi mưa gió liên tiếp cả tuần thì rất buồn, suốt ngày nằm co trong chiếc ghe hầu, cửa đóng kín, trên những kinh Xà No, Phụng Hiệp, xa chợ, xa bạn, xa nhà!
Những lúc đó tôi phải kiếm cái gì để đọc, đọc bậy bạ, hỗn độn: Ngày nay, Phổ thông bán nguyệt san, tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn – chỉ có tiểu thuyết của Lê Văn Trương, các hoạ đồ trong bọn tôi rất mê là tôi không đọc nổi – phóng sự của Maurice Dekobra, truyện trinh thám của Conan Doyle, La Sonate à Kreutzer của Tolstoi, các sách Phật học, Thông thiên học… Vẫn không sao hết được 7-8 giờ một ngày. Lại chỉ có cách học chữ Hán như năm 1934 là phương thuốc thần hiệu hơn hết.
Bác tôi đưa cho tôi bộ Mạnh Tử, một bộ Ẩm Băng Thất của Lương Khải Siêu. Ẩm Băng Thất là một trong những bút hiệu của Lương có nghĩa là ông phải uống nước đá (băng nếu không thì lòng ông cuồng nhiệt về việc cứu nước cứu dân, nóng quá không chịu nổi.
Không có tự vị để tra, cho nên gặp chữ nào, câu nào không hiểu, tôi gom lại, chép gởi về bác tôi nhờ người giảng. Cách đó bất tiện, nhưng cứ mót từng chút như vậy, lần lần cũng biết thêm mà vỡ nghĩa.
Hồi đi đo ở Cần Thơ, thấy một Hoa kiều ngồi lề đường bán bộ Văn tâm điêu long mà tôi muốn biết từ hồi học với bác Hai tôi ở Phương Khê, tôi mua liền, về ghe lật ra coi, đọc không nổi. Bộ đó của Lưu Hiệp (thế kỷ thứ VI viết theo thể biền ngẫu, là bộ phê bình văn học đầu tiên của Trung Hoa.
Tôi thường kiếm những bộ cổ văn có dịch ra bạch thoại và chú thích kỹ lưỡng như bộ Cổ văn quan chỉ (tuyển những bài cổ văn hay nhất từ thời Chiến Quốc đến đời Minh; quan chỉ có nghĩa là coi (quan bộ đó rồi thì có thể ngừng (chỉ), không coi cổ văn nào khác nữa vì bao nhiêu tinh tuý của cổ văn ở cả trong đó rồi), vì chỗ nào đọc cổ văn không hiểu thì tôi coi bản bạch thoại, may ra đoán được; cũng có chỗ bí bạch thoại thì cổ văn giúp tôi học thêm được bạch thoại. Bộ đó tiện hơn bộ Cổ văn bình chú.
Một hôm, vào trú mưa trong một tiệm tạp hoá ở Bạc Liêu, tôi mua được bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim để lẫn lộn với các hộp đèn cầy: bộ đó rất có lợi cho tôi vì tác giả khi trích dẫn, chép cả nguyên văn chữ Hán rồi phiên âm và dịch.
Học chữ Hán cũng không hết thì giờ, tôi xoay ra viết hồi ký, nhật ký… Viết hồi ký để cho vơi lòng nhớ quê (…). Say mê vô cùng. Cầm bút lúc nào là tâm hồn tôi rung động nhè nhẹ lúc đó, như được nghe một bản nhạc êm đềm, bản nhạc của cố hương và dĩ vãng.
Viết hồi ký để ôn lại cái vui đã qua thì viết nhật ký để ghi lại cái vui hiện tại: cái vui những đêm trăng rạo rực, thả thuyền trên rạch Cái Răng hay Bình Thuỷ mà nghe tiếng đàn tranh, đàn nguyệt văng vẳng bất tuyệt trên bờ, cứ tiếng phía sau gần tắt thì lại tiếp tiếng ở phía trước; cái vui nhìn mặt trời đỏ như than hồng, lớn như chiếc mân, từ từ hạ xuống một cánh đồng mênh mông phẳng lì, mờ mờ khói toả ở Bạc Liêu hay Rạch Giá; rồi cảnh âm u "trong rừng đước, rừng vẹt ở Cà Mau, cảnh phồn thịnh, vườn tược mát rượi thoang thoảng hương thơm ở Cần Thơ, Sa Đéc…".
Tôi cứ nhớ đâu chép đấy, viết bừa đi, chẳng cần bố cục, cũng chẳng sửa, viết có khi quên giờ giấc, mỏi tay đặt cây bút xuống nhìn lên bờ thì làng xóm đã nhoà nhoà sau làn sương mỏng.
Viết xong tôi không coi lại, cất đi, có dịp về Tân Thạnh sẽ đưa bác tôi coi. Mỗi tháng trung bình tôi viết cho bác tôi một bức thư cũng để kể những việc hàng ngày: cảm tưởng sau khi thăm ai, khi vào một thánh thất, nghe người giữ thánh thất gọi tôi bằng "anh", tức coi tôi như người đồng đạo; hoặc khi vào một chùa ở Rạch Giá nhìn một vị hoà thượng thản nhiên ngồi như Phật trên toà cho Phật tử già trẻ sụp xuống lạy, bên cạnh là một bàn đầy những trái ngon nhất, quý nhất với bức tượng nhỏ của Napoléon bằng thạch cao… Bác tôi thường khen là viết hay.
(… Tóm lại, hai năm đo đường ở Hậu Giang là những năm vui nhất trong đời tôi mà cũng có ích nhất: vui vì thấy những cảnh mới, gặp được bạn mới, nhất là được ở gần bác; có ích vì nhãn quan, kiến thức được mở mang, và cũng vì học được thêm chữ Hán, sử dụng ngòi bút cho quen tay. (ch. X).
ĐỜI CÔNG CHỨC Ở SÀI GÒN
Năm 1937, tôi cưới vợ - cô Trịnh Thị Tuệ, sinh ở Hà Nội năm 1915, tổ quán ở Mọc Chính Kinh, Hà Đông, con một cụ Tham làm việc ở Giá Rai - Bạc Liêu - năm sau sinh con trai đầu lòng đặt tên là Nguyễn Nhật Đức, rồi sau không sinh nữa.
Cưới vợ rồi, tôi đổi về làm việc ở Sài Gòn luôn cho tới 1945. Công việc phòng giấy rất chán; đời sống lại đắt đỏ, gánh gia đình nặng vì từ 1940, mẹ tôi mất, hai em gái tôi vô ở chung với hai vợ chồng tôi. Mới đầu nhà ở Khánh Hội đường Guillaume Martin, sau dọn lại 50 Monceau (Huỳnh Tịnh Của), khu Tân Định.
Mỗi năm tôi đi kinh lý ba bốn lần khắp các tỉnh hoặc bằng xe hơi, hoặc bằng tàu thuỷ của sở; có lần lên Nam Vang, Siemreap, nơi có cổ tích Đế Thiên Đế Thích, có lần lên tới thác Khône ở Hạ Lào. Thường mỗi năm tôi xin nghỉ nửa tháng, một tháng về Tân Thạnh thăm bác tôi hoặc ra Tuy Hòa (Trung Việt thăm ông nhạc tôi đã đổi ra làm việc ở Sở Thuỷ lợi tại đó và nhân tiện ghé thăm cảnh Nha Trang, Đại Lãnh (Đèo Cả), Sông Cầu, Qui Nhơn.
Tôi lại có ba dịp về quê ở Bắc; lần đầu khi mẹ tôi đau nặng rồi mất năm 1940; lần thứ nhì để gả em gái tôi, cô Nguyễn Thị Mùi năm 1943 và nhân tiện xây mộ tổ tiên; lần thứ ba để thi vấn đáp và thực tập kỹ sư năm 1944.
Chỉ những dịp nghỉ, đi xa như vậy là tôi thấy vui; còn ở Sài Gòn, ngoài giờ làm việc, ngoài những lúc vui chơi với con, dạy học nó, tôi không có một tiêu khiển nào cả; không thích coi cải lương, lâu lâu mới coi hát bóng và tôi lại đọc sách để qua ngày, nhân đó mà tôi tập viết.
Dưới đây, tôi chép lại trọn chương XIII - Tôi tập viết - trong bộ Hồi Ký.
TÔI ĐỌC SÁCH ĐỂ TIÊU KHIỂN VÀ HỌC THÊM
Hồi học trường Bưởi có lần ngồi trên đường Cổ Ngư ngắm mây nước Hồ Tây với bạn, tôi cao hứng ngâm câu "Nhập thế cục bất khả vô văn tự". Nhưng đó chỉ là một ý tưởng thoáng qua, nhiều lắm thì cũng chỉ là một mơ mộng chung của thanh niên khi nhớ một áng văn hay trước một cảnh đẹp, chứ chưa gọi là một ý muốn, một quyết định được.
Tổ tiên tôi bên nội cũng như bên ngoại không ai viết sách. Thời xưa, nhà Nho nào cũng vậy, không nghĩ tới việc viết sách vì số người đọc được rất ít, mà sách in ra không có lệ trả tác quyền: viết sách không phải làm một nghề. Bác Hai tôi còn muốn tôi đừng học văn thơ nữa mà chuyên tâm vào khoa học. Tôi lại không được một giáo sư nào khuyến khích viết văn như hai bạn Võ Phiến, Nguyễn Hữu Ngư. Cho nên khi ở trường Công chánh ra tôi đã quên từ lâu câu "Nhập thế cục bất khả vô văn tự" rồi.
Hai năm lênh đênh trên sông rạch miền Tây, sở dĩ tôi chép hồi ký và nhật ký chỉ là để giải muộn, cho nên chép xong rồi bỏ, không hề đọc lại, nay cũng không giữ lại nữa.
Từ năm 1938 về Sài Gòn làm việc, tôi không được rãnh như hồi đo mực đất, nhưng việc nhà chẳng có gì, mỗi ngày có cả một buổi tối và mỗi tuần cả một ngày ở không. Tôi không có khiếu về âm nhạc, không thích đánh cờ, rất ghét đánh bài, cũng không ưa họp bạn tán chuyện, nhậu nhẹt hoặc rủ nhau nhảy đầm như hầu hết thanh niên thời đó. Rốt cuộc, chỉ còn có cách là đọc sách, học thêm. Một anh bạn trường Công chánh sau bốn năm xa cách gặp tôi ở Sài Gòn, thấy tôi dịch Hán văn, ngạc nhiên hỏi: "Anh học chữ Hán hồi nào vậy", tôi đáp: "Học trong khi các anh nhảy đầm" – Anh ta cười.
Nhiều người từ bạn bè đến độc giả bảo tôi sống như một nhà sư khổ hạnh. Tôi không biết nhà sư khổ hạnh có thấy khổ hay không khi họ nhịn ăn, nhịn uống, nhịn ngủ, tự quất vào thân tới rớm máu, hoặc khi họ tĩnh toạ cả chục năm nắm chặt bàn tay tới nỗi móng tay mọc dài, xuyên thấu lòng bàn tay (chắc phải có người đút cho họ ăn, đổ nước vào miệng cho họ uống?); chứ riêng tôi chẳng hề thấy lối sống của tôi là khắc khổ.
Năm 1946 hay 1947, tôi làm đôi câu đối:
- Trị ái thư, loạn ái thư, thư trung hữu hữu,
- Bần dĩ đạo, phú dĩ đạo, đạo ngoại không không.
mà một ông bạn dịch là:
- Trị yêu sách, loạn yêu sách, trong sách chi chi cũng có,
- Nghèo giữ đạo, giàu giữ đạo, ngoài đạo thảy thảy đều không.
"Thư trung hữu hữu". Trong sách có nhiều thứ lắm chứ.
Chương I cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại, tôi đã trích nhiều danh ngôn về thú đọc sách, như:
"Sự tiếp xúc với sách an ủi tôi trong cảnh già và cảnh cô độc (... Những nỗi đau khổ nhờ nó mà bớt nhói. Muốn tiêu khiển, tôi chỉ có cách đọc sách" (Montage).
"Sự học đối với tôi là phương thuốc công hiệu nhất để trị những cái tởm ở đời, vì tôi chưa lần nào buồn rầu đến nỗi đọc sách một giờ mà không hết buồn" (Montesquieu).
"Sự học trang hoàng đời sống và làm cho ta mến đời hơn. Nó là một thú vui không khi nào giảm" (J. Viênnt).
Còn Khổng Tử thì suốt đời "học bất yếm" (học không chán).
Tôi cũng như Montaigne, muốn tiêu khiển chỉ có cách đọc sách và cũng như Khổng Tử, học bất yếm. Etiemble, tác giả cuốn Confucius (Gallimard – 1960), bảo đã mang ơn Khổng Tử ngang với Montaigne, chắc cũng là hạng ham đọc sách. Bác Hai tôi từ hồi tôi 16-17 tuổi, bảo rằng tôi "đam thư" nghĩa là mê sách. Chữ "đam" đó dùng theo nghĩa gốc là quá mức, mưa dầm. Đó là một tính bẩm sinh có lẽ do di truyền của ông nội, bà nội tôi. Tôi nghĩ không có gì đáng khen cả, ở đời thiếu gì người mê sách.
Về Sài Gòn dễ kiếm sách báo để đọc. Sách báo Việt thời đó không có bao nhiêu, tôi lựa mua hết thảy những gì đáng đọc được: báo Ngày nay, Thanh nghị, Tri tân, Tao đàn, Phụ nữ tân văn; sách của Tự Lực văn đoàn, nhóm Hàn Thuyên, nhà Tân dân (một số mà thôi)…
Sách Pháp, vì ít tiền, tôi chỉ mua một số nhỏ còn thì mượn của thư viện thành phố. Chính ở thư viện này, tại phòng riêng cho mượn sách, tôi thường gặp ông Nguyễn Ngọc Thơ mà tôi đã quen ở Rạch Giá, hồi ông còn làm tri huyện. Cũng mắc một bệnh đọc sách nên chúng tôi lần lần thân với nhau, chỉ thân trong tình sách vở mà thôi.
Sách Trung Hoa thì mỗi tháng độ một lần tôi vào Chợ Lớn, đường Lính thủy - Rue de Marins – để tìm mua. Muốn tiết kiệm, tôi mua những sách rẻ tiền, in xấu, nhiều lỗi, không có chú thích. Đó là một lầm lớn: vừa tốn tiền, vừa mất thì giờ đọc. Cũng có vài nhà xuất bản lớn, in những sách hay, không lỗi, không chú thích, giá bình dân, như Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải, nhưng thời đó tôi chưa biết. Tôi cũng không biết viết thư xin thư mục của các nhà xuất bản lớn ở Trung Hoa, Pháp.
Tóm lại trên con đường tự học, tôi thiếu phương tiện, tốn công nhiều mà kết quả ít. Vì nghĩ vậy, sau này tôi viết cuốn Tự học để thành công (sau sửa chữa, đổi nhan đề là Tự học, một nhu cầu của thời đại để hướng dẫn thanh niên tránh lỗi lầm của tôi. Khi thế chiến xảy ra, sách ngoại quốc không vô được nữa, mỗi chủ nhật tôi lại một tiệm sách cũ ở đường Gia Long và mấy quán sách cũ ở trước Nhà hát Thành phố đường Catinat, thỉnh thoảng cũng kiếm được một cuốn lý thú như cuốn Le Roman russe của E.M Vogué; nhưng không có sách Trung Hoa. Ở những nơi đó tôi thường gặp nhiều người ham đọc sách, nhưng tôi không làm quen; đó cũng là một sở đoản; vì ít giao du nên không học được kinh nghiệm của người.
Tôi vào hạng đọc sách chứ không chơi sách như ông Vương Hồng Sển: không mua những sách đẹp, quý, hiếm, tiền đâu mà mua? – chỉ lựa những cuốn có ích hoặc tôi thích thôi. Sau này, vào khoảng 1960, tôi thấy lối chơi sách khá đặc biệt: một độc giả lại thăm tôi bảo bất kỳ tác phẩm nào của tôi ông cũng mua, chẳng những vậy, cuốn nào tái bản mà tôi có thêm bớt, sửa chữa dù ít, cũng mua đủ, như vậy phải đọc các báo, phải đều đều lại tiệm sách để theo dõi sự xuất bản sách của tôi. Ông ấy để sách tôi vào một chỗ, không cho ai mượn. Tôi lấy làm hân hạnh lắm; nhưng nghĩ bụng có những cuốn tầm thường thì giữ làm gì (1). Ông ấy chỉ lại chỗ tôi một lần đó thôi. Trong nước không biết có được ba người như vậy chăng. Từ đó tôi không gặp lại ông, cũng không nhận được bức thư nào của ông. Người khiêm tốn, thành thực, nhã nhặn. Tôi cũng vô tình không hỏi tính danh, địa chỉ của ông nữa. Không biết hiện nay ông ở đâu và tủ sách của ông còn không.
Sách nào mua về tôi cũng đọc, dù chán tôi cũng ráng, để biết qua nội dung. Tôi biết nhiều người mua về, lật coi qua rồi để đó, rất ít khi đọc, rồi lần sau lại mua thêm, số sách mỗi ngày một tăng tới lúc quên không biết mình có những cuốn gì nữa. Đặc biệt nhất là một ông bạn tôi, cử nhân luật, cứ ít tháng lại gởi mua một chồng sách ở Pháp; nhận được sách ông xếp thật ngay ngắn trên một cái bàn gần đầu giường rồi ngắm nghía, một lát thiu thiu ngủ. Ngày nào cũng vậy mà không cuốn nào đọc được mười trang. Mỗi cuốn ông chỉ coi cái bìa, vài trang đầu và bảng mục lục. Hễ gói sau ở Pháp tới, ông dẹp chồng cũ đi, thay vào chồng mới. Kiểu chơi đó thật kỳ cục.
Tôi coi sách chỉ là một phương tiện để học, để tra cứu. Khi đọc tôi luôn luôn có một cây bút chì để đánh dấu những chỗ đáng nhớ hoặc có thể dùng tới sau này; cuốn nào thường phải đọc lại thì tôi ghi những ý quan trọng cùng số trang trên mấy trang trắng (page de garde ở đầu sách.
Trước năm 1950, tôi không có ý chuyên viết sách, sống về nghề viết văn, cũng không có ý khảo cứu, mà số sách trong nhà lại ít, độ dăm trăm cuốn, nên tôi thấy không cần phải làm thẻ cho mỗi cuốn, cũng không cần đóng tủ để chứa. Tôi chỉ có mỗi cái tủ nhỏ cao độ một thước, bề ngang nửa thước, bề sâu bốn tấc, với một giỏ mây lớn bằng cái rương, mua ở Chợ Cũ. Những sách có giá trị tôi sắp vào trong tủ, còn bao nhiêu cho cả vào trong giỏ mây. Về sau sách mỗi ngày mỗi nhiều, tới ba ngàn cuốn, mới thấy bất tiện vì thiếu thẻ, nhưng lúc đó tôi bận công việc viết lách, không thể bỏ ra vài ba tháng để làm thẻ mà cũng không thể nhờ ai được, nên đành để như cũ, chỉ mua thêm ít tủ nữa. Tuy nhiên sách nào thường dùng tôi để riêng, sắp theo từng loại, không cho ai mượn, vợ con muốn coi cũng phải hỏi tôi. Có những cuốn cả năm tôi không dùng tới, nhưng bất thần tôi chỉ cần tra trong mươi phút thôi mà kiếm không ra thì bực lắm; có cuốn mất rồi, không sao mua được nữa, dù có cả ngàn đồng; như vậy sách đối với tôi còn quan trọng hơn cái cày đối với người làm ruộng, cái búa cái đe đối với thợ rèn, cho nên không thể cho ra ngoài được. Điều đó, tôi phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần với vợ con và phải nhiều năm họ mới hiểu được.
Những sách tôi đã đọc rồi mà cho là không quan trọng, hoặc dùng rời, không dùng tới nữa thì tôi để riêng, nhưng cũng sắp sơ sơ vào từng loại.
MUỐN HIỂU RÕ MỘT NGOẠI NGỮ THÌ PHẢI DỊCH
(… Trên tôi đã nói, tôi đọc sách chỉ để tiêu khiển và vì tò mò, nhân đó mà học thêm. Môn tôi muốn học thêm làm môn chữ Hán, đạo Khổng và văn thơ Trung Hoa. Năm 1938-1939, tôi đã lem nhem đọc được vài cuốn cổ văn dễ dễ và vài cuốn bạch thoại, mười phần hiểu được sáu bảy. Học một ngoại ngữ, khi còn "ba chớp ba nhoáng" như người miền Nam nói, thì đọc sách ai cũng mắc cái lỗi tưởng mình hiểu rồi mà thực ra là chưa hiểu. Muốn kiểm soát sự hiểu biết của mình, muốn hiểu cho rõ thì phải dịch ra tiếng Việt. Khi dịch, bắt buộc ta phải tra tự điển; câu nào dịch rồi mà còn lúng túng, ý nghĩa không xuôi, có điểm nào vô lý hoặc mâu thuẫn với đoạn trên thì bắt buộc ta phải soát lại xem mình dịch sai ở đâu, phải tra tự điển thêm, suy nghĩ, lý luận, tìm ra chỗ sai. Dù cẩn thận tới đâu cũng có chỗ sơ sót vì mình không ngờ. Cái khổ tâm của người tự học ở chỗ đó. Tục ngữ có câu: "Không thầy đố mày làm nên". Tôi không có thầy vì không ở gần bác tôi mà mỗi lúc mỗi hỏi được. Lại không có sách hướng dẫn, toàn là mò lấy, cho nên mệt sức lắm mà sở học có nhiều khuyết điểm.
Để học bạch thoại tôi tập dịch Nam du tạp ức và bài Tam bất hủ của Hồ Thích. Văn Hồ Thích giản dị, minh bạch nên tôi dịch không sai lắm. Tập trên chép những điều Hồ Thích mắt thấy tai nghe khi ông đi từ Thượng Hải xuống chơi Quảng Tây theo lời mời của các nhà cầm quyền Quảng Tây: Lý Tôn Nhan, Bạch Song Hy… Hồ khen cảnh thịnh trị của Quảng Tây, trên dưới thân ái nhau, trên làm gương cho dưới, cần kiệm, giản dị, dưới kính yêu trên; Hồ lại chép phong cảnh rất đẹp ở Quảng Tây, chép một số bài dân ca nữa. Bản dịch đó tôi còn giữ.
Bài Tam bất hủ là một áng văn hay của Hồ, sau đó tôi cho in vào phần Phụ lục cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng. Trong tập Hồ Thích văn tuyển, ngoài bài đó ra còn vài truyện ngắn nhưng không hay, kém xa truyện ngắn của Lỗ Tấn nên tôi bỏ.
Đọc cổ văn Trung Quốc tôi dùng bộ Cổ văn quan chỉ. Nhờ có lời bình chú và bản dịch ra bạch thoại nên tôi mò lần cũng ra. Và tôi cũng dịch độ một trăm bài ra tiếng Việt, không phải để tập dịch mà để học, bản dịch đó sau bỏ, không dùng. Công việc thật mệt, mỗi ngày tôi dịch được một bài. Nhờ dịch mà tôi thấy được cái hay của cổ văn: bài nào bố cục cũng kỹ, mở thường đột ngột mà kết thường gọn, mạnh; ý nhiều khi khoáng đạt, có chút triết lý, mà lời cô động, hàm súc, du dương. Sau này mỗi khi muốn có cái cảm giác nhẹ nhàng của người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên ngọn đồi thì cứ phải lật bộ cổ văn ra chứ không tìm được trong một tác phẩm hiện đại nào cả. Tới bây giờ tôi vẫn cho những bài Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú, Hỷ vũ đình ký của Tô Đông Pha, Túy ông đình ký của Âu Dương Tu, Lan đình tập tự của Vương Hy Chi, Nhạc Dương lâu ký của Phạm Trọng Yêm… là những viên ngọc nhỏ trong văn học Trung Quốc.
Tôi mua một bộ tặng ông bạn Pháp lai Paul Schneider bút hiệu là Xuân Phúc – lúc đó mới bắt đầu học chữ Hán; mới rồi ở Pháp ông viết thư cho tôi bảo thỉnh thoảng vẫn mở ra đọc lại. Ông đã dịch thơ Việt ra tiếng Pháp, đặc biệt là Truyện Kiều (chung với Xuân Việt), do Unesco in và đương nghiên cứu về chữ Nôm, hiện đã xuất bản được vài ba cuốn.
Ở trung học tôi không được học các luyện văn, viết một bài luận cho có nghệ thuật; đọc cổ văn tôi mới tìm được nghệ thuật của cổ nhân. Trong mấy năm đầu thế chiến, tôi tập viết mười bài tuỳ bút và trên mười bài phê bình nhân vật lịch sử như Hồ Quý Ly, Trần Danh Án, anh em Tây Sơn… Một số bài bác Ba tôi bảo đáng được "bình", riêng bài Hương và Sắc, bác tôi phê "ưu" với hàng chữ: Hạ bút thành văn, bút cũng thơm". Bài này tôi đã cho in vào tập Hương sắc trong vườn văn (1961 và được một số bạn khen. Đa số những bài khác gần đây đọc lại tôi không vừa ý vì lý luận thiên lệch, bất công với cổ nhân, có giọng một hủ Nho, không chịu hiểu hoàn cảnh, tâm lý người xưa, cứ đưa đạo lý ra để bắt bẻ. Tật đó tôi lấy của cổ nhân nhưng đã biết sớm bỏ.
Viết Triết học Trung Quốc, tôi chỉ đọc được bộ Tứ thư Chu Hy chú giải; tôi không có bàn dịch ra Việt văn và bộ giúp tôi nhiều nhất là bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim. Tôi cũng mua những cuốn Lão Tử, Mặc Tử của Ngô Tất Tố (Mai Lĩnh xuất bản).
Tôi mừng khi kiếm được những cuốn về Văn học sử Trung Quốc như: Trung Quốc văn nghệ tự trào sử lược của Chu Duy Chi, Trung Quốc văn học sử đại cương của Dương Triệu Tố, Tân trước Trung Quốc văn học sử của Hồ Văn Dực, Bạch thoại văn học sử của Hồ Thích, Histoire de la litérature chinoise của Margouliès, La Littérature chinoise của O.K. Ghéquier.
Nhờ những cuốn đó mà tôi thoả mãn được lòng tò mò của tôi từ hồi học trường Bưởi vì sách Việt chưa có cuốn nào viết về văn học Trung Quốc cả, trừ cuốn Hán văn khảo quá sơ lược của Phan Kế Bính.
Đọc những sách chữ Hán kể trên, mới đầu tôi hiểu được một phần nào thôi vì sách không có chú thích; mà đọc hai cuốn sách Pháp thì không cuốn nào in chữ Hán, chỉ phiên âm ra tiếng Pháp, lối này tôi chưa quen, chưa nhận ra được tên người và tên tác phẩm chữ Hán nên hết hứng thú. Nhưng lần lần rồi cũng quen và hiểu được gần hết.
DỊCH SÁCH
Cũng vào đầu thế chiến, một số nhà văn ở Hà Nội đã bàn đến giáo dục như Vũ Đình Hòe trên tờ Thanh Nghị, Thái Phi trong cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới. Tôi quan tâm ngay đến vấn đề đó vì hồi ấy con tôi mới được vài tuổi. Một người bạn cho tôi mượn cuốn L’Éducation des sentiment của P. Félix Thomas, được giải thưởng của Học viện Luân lý - Chính trị ở Pháp.
Khi phân tích một tình cảm nào, tác giả cũng xét qua hết thảy những thuyết của các triết gia cổ kim, rồi dùng những kinh nghiệm, hiểu biết của ông về trẻ em - ông là một nhà giáo dục - để xét những thuyết đó chỗ nào sai, chỗ nào đúng, rồi bày tỏ chủ trương của mình, chủ trương này có tính cách trung dung, không quá thiên về trí dục - và khuyên ta cách thực hành ra sao trong sự giáo dục trẻ.
Lòng yêu trẻ của ông thật nồng nàn, nên văn ông có nhiều chỗ cảm động, chỗ nào cũng sáng sủa, có khi hoa mỹ, đọc rất thú. Cho nên tôi hăng hái dịch ngay, lược dịch thôi, có chỗ tóm tắt đại ý, có chỗ bỏ hẳn, chỉ cốt sao không phản ý tác giả là được. Tuy nhiên những đoạn hay tôi đều dịch sát, không bỏ một câu, cốt lột được nghệ thuật viết của tác giả. Nhờ vậy bản dịch đầu tay đó được anh em trong nhà đều khen là trôi chảy, sáng sủa mà có văn. Về sau tôi giữ lối dịch đó khi dịch những sách trong loại Học làm người.
Tôi còn dịch một chương trong cuốn Un Art de vivre của A. Maurois nhưng không nhớ chương nào vì không giữ được bản thảo.
Năm 1944, tôi không thỏa mãn về cuốn Một nền giáo dục Việt Nam mới của Thái Phi nên viết một cuốn khác dày khoảng trăm rưỡi trang đánh máy, mới đưa cho bác tôi và thi sĩ Việt Châu (con trai thứ của bác tôi coi. Tập đó thất lạc trong Đồng Tháp Mười, hồi tản cư năm 1946, tôi không nhớ tên nó nữa. Thời đó tôi viết bản nháp trong những vở học trò 100 trang, xong rồi mới sửa lại và chép tay trên giấy đánh máy, chép một mặt thôi mà cũng chỉ chép một bản vì khan giấy. Thời chiến tranh, các nhà máy giấy trong nước chỉ sản xuất một thứ giấy rất xấu, đen, dày, một mặt láng, một mặt nhám; rồi sau thứ giấy đó cũng hiếm, các nhà xuất bản phải dùng thứ giấy bản của làng Bưởi (gần Hà Nội).
VIẾT DU KÝ
Làm ở sở Thủy lợi, tôi có dịp đi kinh lý nhiều nơi, được biết Đồng Tháp Mười, thác Khône ở Lào, Long Hải, thác Trị An, Đế Thiên Đế Thích, Nam Vang. Thấy cảnh nào đẹp tôi chép vào nhật ký hay du ký.
Tôi tiếc không giữ được nhật ký thác Khône, nay chỉ nhớ đại khái… Sở phái tôi đi lên đó để đo lưu lượng (débit sông Cửu Long cuối mùa nắng, lúc mực nước thấp nhất. Từ Sài Gòn tôi đi xe hơi của sở hai ngày mới tới, làm việc ba ngày rồi về.
Không phải chỉ có một cái thác mà có tới 6, 7 cái nằm ngang một dãy. Ở đó lòng sông toàn đá nổi lên ngăn dòng nước, nước sông ứ lại ở phía trên rồi trút xuống thành thác, cái cao nhất có thể tới chục thước. Vì là mùa cạn nên nước không chảy xiết, nhưng tiếng thác ầm ầm dội cũng rất xa. Bên bờ sông là những ngọn núi cao đầy cổ thụ, cảnh thật hoang du, hùng vĩ. Có một đường xe lửa nhỏ dài bảy cây số nối quãng trên với quãng dưới thác. Tàu thủy Luang Prabang xuống phải ngừng ở quãng trên, chuyển hàng hoá và hành khách lên xe lửa để xuống quãng dưới, từ đây có tàu khác đưa xuống Nam Vang.
Khône có một nhà bưu điện và một nhà thương, một sở hiến binh, vài biệt thự cho công chức, còn toàn là nhà sàn bằng gỗ, lá của người Lào. Có mỗi một cái quán của Hoa kiều bán sữa, cà phê và vài thứ bánh ngọt. Cảnh rất buồn.
Một nhân viên công chánh ở đó coi đường xe lửa mời tôi về nhà thầy ta ở và tổ chức một buổi hòa nhạc của người Lào cho tôi xem. Có hơn một chục người Lào lại nghe, họ ngồi xổm cả xuống sàn, bà già cũng nhai trầu như mình, thiếu nữ thì không. Họ gầy, yếu, đen đủi, y phục xấu xí, không có một chiếc xà rông nào rực rỡ cả, khác xa những hình ảnh xinh tươi, tình tứ trong các tiểu thuyết Pháp tả xứ Lào. Chủ nhà bảo tôi muốn thấy mỹ nhân Lào thì phải lên phía Bắc, ở Vientiane, Luang Prabang. Tiếng khèn (một thứ sáo có nhiều ống không réo rắt mà cứ đều đều một điệu buồn buồn, giọng hát cũng không hay, tôi chỉ nghe một lát là chán.
Tối hôm đó chủ nhân dắt tôi đi coi "bun" ở một ngôi chùa. Chùa nhỏ, rất ít tượng Phật. Một ông lục ngồi trên cao, độ hai chục thanh niên nam nữ Lào tay cầm cây nến đỏ, nhỏ, nối nhau chạy theo một vòng tròn trước mặt ông lục. Ông như nhập định, không hề nhúc nhích. Đứng coi độ mười phút rồi tôi ra về. Tôi nghĩ mỗi năm lên bờ thác Khône độ vài tháng viết sách thì thú, ở lâu chịu không nổi.
Khi về Sài Gòn, ngoài cảnh thác hùng vĩ, tôi chỉ giữ được vài hình ảnh một đám thiếu nữ Lào để cả xà rông tắm, lội trên dòng sông khi tà dương gần tắt, chỉ lưu lại ít ánh vàng trên ngọn cây rừng.
Bác tôi lánh mặt ở làng Tân Thạnh, ven Đồng Tháp Mười từ đầu thế chiến thứ nhất để tránh mật thám Sài Gòn và liên lạc với các nhà cách mạng trong miền, hoặc ở Trung Hoa, Thái Lan về, nên biết được cảnh hoang vu ở Đồng Tháp hồi đầu thế kỷ, kể cho tôi nghe nhiều chuyện dân tình, lối sống, thổ sản miền đó; sau tôi lại đi đo trong Đồng Tháp một thời gian, rồi đi kinh lý nhiều lần từ Hồng Ngự đến Tân An; về Sài Gòn tôi đọc thêm được nhiều tài liệu của sở Thuỷ lợi, mua được cuốn La Plaine des Jonc của V. Delahaye, nhờ vậy tôi biết được khá nhiều về Đồng Tháp.
Năm 1944, sau khi nhận lời anh Vũ Đình Hòe, bạn học cũ trường Yên Phụ, viết giúp tờ Thanh Nghị (ở Hà Nội mà anh là chủ nhiệm kiêm chủ bút, tôi tham khảo thêm các cuốn sử, địa phương chí, các số báo Courrier de Saigon năm 1965-66, đọc tất cả những gì liên quan đến Đồng Tháp để viết cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Sáu bảy tháng viết xong thì sở Bưu Điện Sài Gòn không nhận đồ bảo đảm ra Hà Nội nữa vì đường giao thông trắc trở, tôi đành cất bản thảo, đợi cơ hội khác. Sau cuốn đó mất ngay trong Đồng Tháp hồi tôi tản cư về nhà bác tôi năm 1946. Tôi rất tiếc và tám năm sau tôi phải viết lại. Tôi sẽ trở lại việc đó trong một chương sau.
Thích nhất là cuộc du lịch Đế Thiên Đế Thích. Năm 1943, viên kỹ sư sở tôi thấy tôi làm việc đắc lực, tạo cơ hội cho tôi đi kinh lý ở ngay trong vùng có cổ tích hoang tàn của Cao Miên đó mà có người gọi là "kỳ quan thứ tám của thế giới".
Tôi mang theo cuốn Guide Groslier rồi lên xe đò đi Nam Vang. Ở Nam Vang một ngày thăm Chùa Vàng Chùa Bạc, làm vài công việc cỏn con cho sở rồi năm giờ chiều lên xe đi Siemreap, khoảng hai giờ khuya tới nơi. Hồi đó vào hạ tuần tháng giêng dương lịch năm 1943, mùa tốt nhất để đi coi cảnh Đế Thiên Đế Thích vì trời rất trong, không mưa và hơi có gió bấc, không khí không nóng lắm, đêm hơi lạnh.
Ở Siemreap, tôi ghé nhà anh Hách – anh đã đổi lên đó để xây một cái đập cho sở Thuỷ lợi – và anh và hai bạn công chánh nữa đưa tôi đi thăm các di tích hoang tàn.
Trong hai ngày, chúng tôi đi coi thành phố Siemreap và một khu rừng chu vi trên ba chục cây số, chỗ nào cũng có phế tích không thể đi coi hết được, chúng tôi chỉ thăm độ mười lăm ngôi đền lớn nhỏ kiến trúc đẹp nhất và ba cái hồ, mà coi vội vì không đủ thì giờ.
Trong suốt hai ngày du lịch đó, lòng tôi lúc nào cũng phơi phới như nghe một bản nhạc êm đềm. Cảnh thật thanh tĩnh, nên thơ, gây biết bao hoài cảm. Tôi thích cảnh stung (sông Siemreap dưới trăng với những cầu gỗ khom khom có tay vịn như cầu Thê Húc ở hồ Hoàn Kiếm nhưng dài hơn. Trăng vằng vặc chiếu qua cành lá thưa, lấp lánh trên một dòng nước con con, mùa này nước stung cạn, thoang thoảng có mùi hương dịu và tí tách có tiếng nước nhỏ giọt từ cái guồng nước – thứ guồng dùng ở Quảng Nam – cứ đều đều, chậm chạp quay, như gạn từng giọt nước pha lê vào những máng nước dài đưa vào vườn hoa trong các biệt thự trên bờ.
Tôi mê cảnh đền Bayon mà Doudart de Largée bảo là "thần tiên lạ lùng" với 50 tháp, 43 đầu Phật, mỗi đầu có bốn mặt, mặt nào cũng có nụ cười hiền từ, khoan hòa, bí mật.
Đền Angkor Vat dưới ánh nắng tà dương làm tôi xúc động mạnh, khi qua cái hào rộng trên 200 thước mà lục bình như muốn giữ mây chiều lại, vừa bước tới cửa tây thì đền hiện lên, đè nặng lên tâm hồn tôi. Ở đây, kiến trúc Miên đã đạt tới tuyệt đỉnh; hàng triệu phiến đá hợp thành một khối cân đối rất hài hoà để diễn một ý tưởng vừa hùng vừa diễm.
Nhưng hợp với tâm hồn tôi nhất là đền Ta Phrom, kiến trúc khác hẳn các đền kia, không cao, không đồ sộ mà trải rộng ra trong một khu rừng và ở sâu trong rừng, có một lối đi lát đá dài 500 thước đưa vào. Chỉ riêng đền này còn giữ vẻ hoang vu. Trường Viễn Đông Bác Cổ đã có sáng kiến lựa nơi đây mà bảo tồn cảnh thiên nhiên để ta được hưởng cái cảm giác rùng rợn của các nhà thám hiểm thời trước.
"Ở đây mới thực là cảnh hoang tàn. Ở đây ta mới thấy sự chiến đấu giữa cây và đá, giữa loài người và hoá công. Có những rễ cây lớn mấy tấc, dài hàng chục thước, uốn khúc ôm lấy bệ của toà đền và nổi gân lên như muốn vặn cho nó đổ mới chịu thôi. Có cây lại kiêu căng ngồi xếp bằng trên một tòa khác, ung dung thả hàng trăm rễ xuống, như hàng trăm tay của loài bạch tuộc, ghì chặt lấy mồi của mình, không cho nó cựa rồi hút dần tinh tuý của nó, cho thịt nó rã, xương nó tan mà hiện nay ngôi đền cũng đã gần tan gần rã. Có cây độc ác hơn, đâm một rễ lớn từ đỉnh đền xuống như cắm lưỡi gươm vào đầu quân thù". (trong Đế Thiên Đế Thích).
Mấy chục năm nay, tôi vẫn ao ước chiến tranh trên bán đảo chữ S này chấm dứt, sẽ đi thăm lại Đế Thiên Đế Thích, cũng như tất cả cảnh đẹp ở Việt Nam, nhưng nay không còn hy vọng gì nữa. Về Sài Gòn, tôi chép ngay lại cảm tưởng khi du lịch, và trong khi viết tôi được sống lại những lúc vui đã qua, như được du lịch lần thứ hai. Khoảng giữa tháng hai năm 1943, tôi hoàn thành tập du ký Đế Thiên Đế Thích (2). Tập này tôi viết kỹ, trên hai chục năm sau cho xuất bản, không phải sửa gì cả.
Ngoài những cuộc kinh lý kể trên, tôi còn thường xin nghỉ mỗi năm nửa tháng hay một tháng để về thăm quê hương hoặc đi thăm ông nhạc tôi ở Tuy Hòa, nhân tiện ghé thăm Nha Trang, Quy Nhơn. Chính trong những chuyến nghỉ đó mà tôi được thấy cảnh đẹp mê hồn của miền duyên hải Trung Việt. Và lần nào về nhà tôi cũng ghi lại, định cứ mỗi năm đi tiếp một quãng: Quy Nhơn – Tourane, Tourane – Huế, Huế - Nghệ An, Nghệ An – Ninh Bình, khi nào đi hết bờ biển Trung Việt sẽ viết một cuốn nhan đề là Trên con đường thiên lý tả những cảnh đẹp, những cổ tích, phong tục trên dãy đất đó. Cuốn đó sẽ là cuốn tôi viết say mê nhất và sẽ là tác phẩm chính của tôi. Nhưng tôi chỉ mới ra được tới Quy Nhơn thì thế chiến đã nổ và không có dịp đi tiếp những chặng sau; và tôi chỉ ghi vội được bốn tập mỗi tập ba bốn chục trang nhỏ: Về Bắc lần đầu, Về Bắc lần nhì, Về Bắc lần ba, Nha Trang – Tuy Hoà – Quy Nhơn.
Cũng may mà mấy tập đó không thất lạc và tôi đã trích lại dưới đây đoạn tả cảnh đèo Hải Vân mà tôi cho là hùng vĩ nhất:
"Hôm sau, ra khỏi Tourane, gặp trời nắng tôi được ngắm cảnh đèo Hải Vân (cũng gọi là Ải Vân cao hơn, dài hơn đèo Cả, thay đổi nhiều hơn.
Ở đây xe lửa chạy theo bờ biển 39-40 cây số, non ba giờ liền, tôi được nhìn một cuốn phim chụp cảnh thiên nhiên, quay chậm chậm trong một không gian đầy âm nhạc là gió rừng và sóng.
Vì đèo rất cao, một đầu máy kéo không nổi chuyến xe, nên phải móc thêm một đầu máy ở phía sau để đẩy tiếp. Cả hai đầu máy phì phì nhả khói, nặng nhọc lắm mới lên nổi đèo và chuyến xe như con rắn khổng lồ uốn khúc, đứng ở giữ thấy cả hai đầu máy trước và sau.
Ở đây cũng như ở đèo Cả, xe chạy ở giữa, một bên là vách đá dựng đứng, một bên là biển thẳm mênh mông. Nhưng cảnh ở đây thay đổi luôn luôn, nhiều vẻ đẹp hơn; chỗ thì cây cối thưa thớt, thoải mái mà chỉnh tề; chỗ thì chen chúc nhau, cố bám lấy nhau trên một sườn núi cho khỏi tuột xuống thung lũng. Có nơi rừng bị một giống dây leo lá tròn trùm kín hàng mấy chục mẫu trông xa như một tấm màn xanh phơi trên sườn núi, cỏ cây chống ở dưới.
Thỉnh thoảng xe qua những chiếc cầu nho nhỏ bắc qua suối. Dòng nước trong leo lẻo xô đẩy nhau trên những phiến đá nhẳn rồi chui vào một cửa tò vò chuối màu xanh non, sau cùng thoát ra tại một bãi cát vàng ở xa xa. Đẹp nhất là những thảm cỏ có điểm hoa tím, vàng rung rinh như cánh bướm.
Xe phì phì uốn khúc gắng lên kịp con đường Quốc lộ số 1 (đường xe hơi nó vờn mây ở dãy núi bên kia. Xe chui vào hầm – quãng này có 7-8 cái hầm – và mỗi lần ở hầm ra thì cả một cảnh trời cao biển rộng hiện ra trước mắt: trời xanh lơ, biển xanh màu ngọc thạch như ở đèo Cả (Tôi nghe nói từ Huế trở ra biển mới đục, mất màu thần tiên đó). Biển ôm những hòn (cù lao ở ngoài khơi, liếm những bãi cát vàng cánh cung ở bờ, vỗ vào những gốc si bám vào chân vách đá. Nó gần tới bờ lại lùi ra, để lại một viền bọt trắng.
Xe vẫn phì phì lên, cảnh vẫn thay đổi; có khi xe lùi vào trong để cho ta ngắm những vùng nho nhỏ có dăm nóc nhà ngói đỏ giữa vài thửa ruộng, sau một bãi cát, có khi nó lượn bên một bãi cỏ rộng lưa thưa vài gốc dương đương hoà nhạc với sóng biển: đây hẳn là chỗ hẹn hò của những con nai vàng trong đêm trăng và xe như hữu tình cũng chạy chậm lại.
Nó vẫn phì phì leo dốc. Càng lên núi càng cao, ngọn núi càng xích lại gần nhau. Núi đã mờ mờ. Xe đã chui vào mây. Lạ thay tôi có cảm giác biển cũng dâng lên để được gần trời. Mây lờn vờn ở ngoài khơi, bóng mây làm cho mặt biển lốm đốm như mai con đồi mồi.
Xe vẫn uốn khúc, nặng nề leo mà không theo kịp Quốc lộ 1 nó đã khuất trong mây rồi. Chung quanh chỉ thấy biển và mây (goi đèo này là Hải Vân phải quá), đương giữ trưa mà có sương mai.
Tôi nhìn về phía sau: đầu máy thứ nhì đã rời chuyến xe quay trở về lúc nào rồi. Xe đã lên đỉnh đèo. Tôi tiếc ngơ ngẩn. Quốc lộ 1 và đường xe lửa lại cùng nhau xuống, một đường chạy sát bờ biển như mê cảnh biển, một đường lùi vào trong như không muốn rời núi mây.
Nhưng đến Lăng Cô (một ga nhỏ thì hai đường gặp nhau như cùng nhận rằng có thể không ngắm mây nhưng không thể không ngắm Lăng Cô.
Có người cho rằng Lăng Cô là cảnh đẹp nhất trên đường Tourane – Huế. Từ trên cao nhìn xuống, nó y hệt như một bức tranh thuỷ mạc của Trung Hoa. Một cù lao nhỏ ở gần bờ, bằng phẳng, trồng toàn dương, có nhà, có chùa, có ghe đánh cá và lưới đánh cá phất phơ dưới gió. Một cây cầu dài nối với bờ. Những buổi chiều mây ngũ sắc in trên mặt nước, những chiếc ghe giương buồm ra khơi, hay trong những đêm trăng sóng bạc nhấp nhô vạch một đường sáng tới một đảo nào ở chân trời mù mịt, ngồi ở gốc dương đầu cầu này mà ngắm trời nước thì ai mà không mơ tới cảnh Bồng Lai ở cuối con đường sáng đó?
Trên hai giờ liên tiếp được thưởng cảnh thần tiên như vậy, tâm hồn tôi nhẹ nhàng lên, tuổi trẻ lại (… Non sông Việt Nam sao mà đẹp thế!" (đoạn này trích trong Hồi Ký, ch. XII).
(… Viết xong tập nào tôi cũng đưa bác tôi đọc. Bác tôi rất khen tập Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đế Thiên Đế Thích và trong tập đó tôi đưa ra một chính sách giáo dục cho thanh niên, cho rằng hơi chịu ảnh hưởng của cổ văn Trung Quốc (…).
Tôi cũng đưa ba tập đó cho thi sĩ Việt Châu đọc, lúc đó anh giữ phụ trương văn thơ một tờ nhật báo do Bùi Thế Mỹ làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Anh khuyên tôi nên xuất bản hoặc đăng báo, tôi đáp: "để thủng thẳng, lúc nào in chẳng được, đợi chiến tranh kết thúc rồi sẽ hay".
BẢN THẢO TỪ 1937 ĐẾN 1945
Tính lại, trong những năm ở Sài Gòn – từ 1937 đến 1945 – tôi đã tự học mà biết thêm một ít chữ Hán, một ít văn học và triết học Trung Quốc; và đã viết được trên ngàn trang, mục đích chỉ là để tiêu khiển, tự học, chứ chưa có ý xuất bản, tuyệt nhiên không phải vì lợi hay vì danh. Viết để tiêu khiển thì tất nhiên chưa có chủ trương, đường lối rõ rệt, thích cái gì viết cái đó, tuỳ hứng. Tuy nhiên cũng đã có xu hướng: tôi không làm thơ, không viết tiểu thuyết, mà thích loại ký (du ký, hồi ký), luận (nghị luận, cảo luận, tuỳ bút và chú ý tới các vấn đề giáo dục, văn học, nhưng chưa có ý bước vào khu vực biên khảo. Hồi đó, tôi trên dưới ba mươi tuổi, sự hiểu biết còn hẹp, lý luận chưa vững, nhưng nhận định không đến nỗi hời hợt, tự xét không kém những nhà văn thời đó trạc tuổi tôi và viết những loại như tôi mà đã có chút danh trên văn đàn, mà bút pháp đã định rồi: văn cần sáng sủa, bình dị, nếu hơi hoa mỹ thì càng quý (đẽo gọt quá thì tôi không ưa), cần nhất là cảm xúc phải chân thành. Những nét đó sau này tôi vẫn giữ.
Đến năm 1945, tôi đã có được khoảng chục bản thảo. Không kể những tập Hồi ký tuổi xuân (viết từ hồi đi đo đất ở Hậu Giang), Ba lần về Bắc (năm 1949, 43, 44), tập Du Ký Nha Trang – Quy Nhơn, tập dịch Cổ văn Trung Quốc, tập Tuỳ bút cảo luận, tất cả đều chưa sửa lại, chỉ coi như tài liệu, còn sáu tập nữa:
- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười (mất)
- Đế Thiên Đế Thích
- Giáo dục thanh niên (mất)
- Huấn luyện tình cảm, dịch P. F. Thomas
- Nam du tạp ức, dịch Hồ Thích
- Dịch văn nước ngoài (một chương trong Un Art de vivre của A. Maurois (mất), bài Tam bất hủ của Hồ Thích tôi đều sửa kỹ, định sau sẽ in, nhưng bản thảo Đồng Tháp Mười, Giáo dục thanh niên, dịch văn A. Maurois đã thất lạc trong hồi tản cư.
Trong số những bản còn lại, nhà P. Văn Tươi năm 1951 in tập Huấn luyện tình cảm, năm 1968 nhà Thời Mới in tập Đế Thiên Đế Thích; bài Tam bất hủ tôi cho vô phụ lục cuốn Nghệ thuật nói trước công chúng (P. Văn Tươi xuất bản – 1951), tập Nam du tạp ức để lâu quá, mất thời gian tính, tôi bỏ; còn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười năm 1954 tôi phải viết lại và xuất bản cùng năm đó. (ch. XIII).
VIẾT BÁO
Từ 1943, Nhật thua Mỹ ở Thái Bình Dương; năm 1944 Mỹ dội bom xuống các căn cứ quân sự của Nhật ở Đông Dương, xuống đường xe lửa xuyên Đông Dương, xuống Hải Phòng, Hà Nội, Sài Gòn. Gần cuối năm 1944, tôi cho vợ con tản cư xuống nhà vợ chồng cô em gái nhà tôi ở làng Long Điền, quận Giá Rai, Bạc Liêu. Cháu đương học lớp tư (cours préparatoire) trường Tân Định phải xin nghỉ để xuống Long Điền học. Tôi ở Sài Gòn với em trai tôi, và hai anh Tân Phương và Việt Châu (con bác tôi làm trong cơ quan thông tin Domei của Nhật.
Đêm 9.3.1945, Nhật lật đổ Decoux (Toàn quyền Pháp làm chủ Đông Dương. Bảo Đại tuyên bố Việt Nam độc lập: Trần Trọng Kim lập nội các. Pháp thua, tôi mừng, nhưng tôi không tin người Nhật mà cũng không thích họ, nên không học tiếng Nhật, không hoạt động gì cả, vẫn tiếp tục viết lách, dịch thuật, nhìn xem Nhật hành động ra sao. Tôi tưởng họ còn chịu đựng được một năm, trong thời gian đó nội các Trần Trọng Kim tổ chức xong hành chánh, kinh tế và quân đội mà nền độc lập của mình sẽ được thế giới công nhận.
Tháng 5 hay tháng 7.1945, ông giám đốc nhà Tín Đức thư xã cho ra tờ tuần báo Tân Việt Nam, mời ông Nguyễn Văn Nho làm chủ bút. Ông Nho thuộc lớp sau Nguyễn Văn Tố, nổi tiếng học giỏi trong tỉnh Bắc Ninh, ở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội ra, đã viết ít bài đăng báo Pháp và lúc đó dạy Việt ngữ ở trường Pétus Ký, được giáo giới quý, học sinh trọng.
Tờ Tân Việt Nam 16 trang, khổ như tờ Tri Tân, có tính cách chính trị (số nào cũng có một bài xã luận lời già giặn của Nguyễn Văn Nho), bán không chạy bằng tờ Thanh niên của Huỳnh Tấn Phát vì hơi đạo mạo, có ít cây viết trẻ, thiếu phần văn nghệ. Tôi nghĩ nước nhà đã đi vào vận hội mới nên gởi ông Nho vài bài tuỳ bút, tiểu luận đã viết từ trước, ông đăng và mời tôi lại nhà nói chuyện ở đường Boresse (?). Từ trước cửa bước vào là một phòng hẹp với một bàn viết, mấy cái ghế, cái tủ. Sách vở giấy tờ ngổn ngang trên mặt bàn, dưới chân bàn, thật lộn xộn. Ông Nho khoảng 50 tuổi, lúc đó có lẽ đã bắt đầu bệnh cùi, mặt có vết đỏ hơi sần sùi, nhất là ở tai. Ông thông minh, hoạt bát, cởi mở, hiểu đời. Tôi nhớ ông viết một bài về việc cứu đói ở Bắc Việt, đại ý bảo những kẻ yếu quá rồi thì đành hy sinh họ đi, chỉ cứu những người còn có thể cứu được, nếu không thì rốt cuộc chẳng cứu được ai hết. Tôi khen ông có óc làm chính trị. Một hôm, ông ngỏ ý muốn giao cho nhiệm vụ chủ bút cho tôi vì ông mắc nhiều công việc chính trị. Tôi chưa kịp trả lời thì báo đình bản. Trước sau tôi đăng được 4-5 bài. Đó là lần đầu tiên tôi ra mắt độc giả. (ch. XV).
Ngày 15.8.1945, Nhật đầu hàng Đồng Minh không điều kiện. Tình hình biến chuyển thật quá mau. Đồng minh để cho Anh giải giới Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vô. Một đạo quân viễn chinh của Pháp theo gót quân đội Anh, đổ bộ lên Sài Gòn mong chiếm lại Việt Nam. Ngày 2.9, Việt Minh xuất hiện ở Sài Gòn, toàn dân miền Nam trong các mặt trận, các giáo phái nổi lên chống Pháp. Ngày 23.9, Pháp chiếm các công sở ở Sài Gòn. Hai bên giao tranh vài trận nhỏ, ngừng rồi lại đánh. Khu tôi nhà nào cũng đóng cửa, cũng có một cây tầm vong vạt nhọn, cũng tích trữ gạo, muối, nước mắm, hột vịt muối… Tôi đóng cửa nằm nhà hơn nửa tháng.
TỰ HỌC TIẾNG ANH
Lần này cũng như mùa thu 1934, không có công việc gì làm, tôi lại học ngoại ngữ. Tôi học tiếng Anh trong cuốn L’Anglais en 100 leçons (không nhớ tên tác giả mà tôi đã mua từ 1931, bắt đầu học được ít bài rồi sau đó bỏ vì thi đậu vào trường Công chánh. Tôi chỉ nhờ anh Tân Phương chỉ cách đọc cho đúng giọng thôi vì anh đã du học ở Hồng Kông, Thượng Hải hai năm.
Loại sách đó thời tiền chiến rất thịnh hành, giúp những người tự học muốn thi Tú tài Pháp. Mỗi bài có độ ba chục từ mới, có chỉ cách đọc, sau mỗi bài học có một bài tập ngắn: dịch Anh ra Pháp hoặc ngược lại; cuối sách có bài corrigé (sửa lại để người học coi mà tự sửa lấy bài của mình. Học như vậy chỉ ba bốn tháng có thể viết được ít câu tiếng Anh thông thường, ngắn, đọc được những loại sách dễ (loại cho trẻ em), nhưng nói thì người Anh không hiểu mà người Anh nói mình cũng hiểu. Ngày nay phương pháp học đó đã lỗi thời. Ở Âu My, người ta dùng phương pháp thính thị (audio-visuelle), chỉ sáu tháng là tạm nghe được, nói được, viết được những câu thông thường.
Nhưng mới học độ nửa tháng thì ngưng vì tất cả ba chúng tôi (Việt Châu đã đi Cần Thơ), sáng ngày 10.10.1945 cùng nhau tản cư về Tân Thạnh, nhà bác tôi. Tôi ngây thơ quá, tưởng đi độ một tháng rồi trở về vì tin rằng Đồng Minh cho Anh giải giới Nhật ở miền Nam, Trung Hoa giải giới ở miền Bắc, nghĩa là không cho Pháp trở lại Đông Dương. Pháp đổ bộ càn lên Sài Gòn rồi thế nào cũng phải thương thuyết với mình. Nghĩ vậy tôi chỉ mang theo một cái va ly nhỏ chứa ít quần áo và bản thảo. Đồ đạc, sách vở bỏ lại Sài Gòn hết (kể cả cuốn Anh văn đương học cũng vậy); khoá cửa lại, nhờ bà láng giềng coi chừng giùm. Vì đi không lâu, mà đường xuống Long Điền, chỗ nhà tôi tản cư xa quá, xe cộ không có, nên tôi về Tân Thạnh với Tân Phương, nhân tiện thăm bác tôi. Không dè lần đó, tám năm sau mới trở lại Sài Gòn.
Chú thích:
(1)
Sau đó, tôi mới biết những cuốn sách dù tầm thường mà của một tác giả có tên tuổi thì để lâu năm cũng thành quý và tôi đã thấy một người mua một cuốn Luân lý loại giáo khoa tiểu học của Trần Trọng Kim với một giá rất đắt, trên vỉa hè đường Lê Lợi.
(2)
Đã tái bản năm 1992 tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
Phần III
THỜI TẢN CƯ Ở TÂN THẠNH VÀ LONG XUYÊN
VỀ TÂN THẠNH – HỌC ĐÔNG Y
Tôi ở Tân Thạnh khoảng một năm rưỡi từ mùa đông 1945 đến mùa xuân 1947. Sau hai tháng đầu ở không, thấy tình hình trong nước mỗi ngày một găng thêm, tôi buồn bả và sốt ruột, nhưng vững bụng vì được tin vợ con ở Long Điền yên ổn. Để qua thì giờ tôi ngưng học tiếng Anh vì sách để ở Sài Gòn, mà xin bác tôi dạy Đông y cho.
Tôi học bộ Y học toản yếu gồm 6 quyển của Lưu Thánh Tuyền. Tôi đọc rồi bác tôi cắt nghĩa. Thỉnh thoảng có bệnh nhân xa gần lại nhờ bác tôi trị (bác tôi không nhận tiền của ai cả nên tôi có dịp tập coi mạch.
Sau chín mười tháng tôi nhận ra được một số bệnh, biết chút y lý, phân biệt được hàn nhiệt, hư thực trong những trường hợp dễ, sử dụng được một số toa thuốc căn bản, cổ điển: loại bổ, loại tán (làm cho tan tà khí đi, phát hãn), loại hàn (thuốc mát), loại nhiệt (thuốc nóng), loại công (công phá, như thuốc xổ); biết được tính cách non trăm vị thuốc thường dùng: biết gia giảm những vị nào cho hợp với bệnh nhân, lại biết nấu thục địa, sao tẩm một số thuốc.
Đọc các sách thuốc khác như bộ Hải Thượng Lãn Ông, tôi hiểu được, nhưng chưa thể làm y sĩ được vì thiếu kinh nghiệm. Sự hiểu biết của tôi chỉ dùng cho người trong nhà về những bệnh thông thường.
Tôi thấy y lý của Đông phương phân biệt hàn và nhiệt, hư thực thật tinh tế và rất có lợi. Tôi lấy thí dụ bệnh ho do phải cảm hay thời tiết thay đổi. Nếu phân biệt được hàn nhiệt thì chỉ một hai thang là hết, trong khi nhiều bác sĩ thử hết thuốc nước này, thuốc hoàn khác mà bệnh không dứt. Mới mươi năm trước đây, đọc một số báo Pháp hay Mỹ thấy một bác sĩ chỉ dùng cách này mà trị được một bệnh ho dai dẳng: bảo bệnh nhân vẩy nước trong phòng cho không khí ẩm thấp, mát mẻ; và ngày sau bệnh nhân hết ho. Trường hợp đó Đông y cho là do nhiệt mà ho, uống thuốc mát phổi thì hết. Bệnh đi tiêu chảy, Đông y cũng phân biệt hàn nhiệt và nhiều khi trị rất mau. Bệnh lỵ Đông y phân biệt hàn nhiệt, Tây y phân biệt dysenterie amibienne và dysenterie bacillaire; hai cách phân biệt đó có gì khác nhau không?
Đông y có kinh nghiệm lâu đời (trên mấy nghìn năm và rộng rãi (trên miền Đông Á rộng bằng cả châu Âu không kể Nga tất có nhiều điều đáng cho Tây y tìm hiểu. Ngày nay ai cũng biết công dụng của hà sa (nhau), đồng tiện (nước tiểu trẻ em), cam thảo (để trị loét bao tử mà Trung Hoa đã tìm ra được hàng ngàn năm trước; phương Tây đang nghiên cứu khoa châm cứu của Trung Hoa và bây giờ đã có nhiều bác sĩ nhận rằng thận có nhiều tác dụng khác nhau ngoài tác dụng lọc máu, tiết ra nước tiểu, rằng Đông y có lý khi bảo trẻ em và người già cần bổ thận. Nhưng chúng ta vẫn chưa hiểu rõ quan niệm khí (khí huyết), quan niệm thận thuỷ, thận hoả… của Trung Hoa. Nghiên cứu theo khoa học để tìm hiểu Đông y là việc lý thú và rất có ích cho nhân loại.
Tuy nhiên chúng ta phải nhận rằng Đông y chỉ giúp cho Tây y được thôi chứ không thể nào tiến mau như Tây y được, mà cũng không thể phổ biến rộng rãi được. Tây y dùng thuốc hóa học, chế tạo rất nhiều và rất rẻ; Đông y gần như chuyên dùng thảo mộc mà thảo mộc trồng đã lâu, lại phải tùy đất, tùy thời tiết, phải bào chế; phương pháp dạy, nghiên cứu của Đông y cần phải canh tân. (ch. XVI).
Sẵn trong nhà có sách, tôi lại tò mò tìm hiểu các môn Tử vi, Tử bình (gần đây thêm môn Hà lạc để coi số: môn bói và cả môn địa lý nữa. Những môn đó không giúp gì cho công việc viết lách cho tôi cả, nhưng tôi cũng muốn biết qua để mở mang kiến thức, hiểu văn minh Trung Hoa hơn. Tôi tự học lấy, chỗ nào không hiểu mới hỏi bác tôi.
Về môn địa lý, cổ nhân nói phải có "lòng thần, mắt thánh, cẳng tiều phu" (đi bộ giỏi thì mới lành nghề; tôi không có lòng thần, cũng thiếu mắt thánh, lại sẵn có thành kiến rằng những miền khai phá từ lâu đời rồi như miền đồng bằng nước mình, mặt đất đã thay đổi hẳn vì những công việc đào kinh, cất đường, xây nhà cửa, canh tác…, nếu có long mạch thì cũng không sao nhận ra được, vì vậy mà tôi chỉ đọc bộ Địa lý hám giá cho biết lý thuyết thôi. Đọc sách bói (Dã hạc, bốc phệ chính tôn tôi thấy thích hơn. Khi đã chấp nhận một số nguyên tắc căn bản mà ta phải tin như những định lý không thể chứng minh được (1) mà nguyên tắc quan trọng nhất là sự sinh khắc của ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ thì ta phải nhận rằng môn bói hợp lô-gích. Nhưng thực hành thì tôi thấy đôi khi gặp một quẻ ứng nghiệm lạ lùng như quẻ tôi xin về bệnh của mẹ tôi: quẻ cho biết sẽ khó qua, nhưng tới ngày đó tháng đó mới mất; và nhiều khi quẻ sai be bét. Một bạn tôi có mấy chục năm kinh nghiệm về môn đó cũng nhận rằng quẻ nghiệm hay không còn tuỳ nhân duyên hay tâm trạng của người xin quẻ, của người gieo tiền, tuỳ lúc, tuỳ giờ hoặc cái gì đó nữa. Về sau tôi bỏ môn đó, nhưng vẫn nhận nó là kỳ dị, huyền bí, chứ không phải là chuyện nói láo.
Về ba môn Tử vi, Tử bình, Hà lạc cũng vậy, có khi đúng, và có khi sai hẳn; mà đúng nhiều lắm chỉ được sáu phần mười. Tôi lại nhận thấy cùng một người, ba môn đó đoán có thể khác xa nhau, trái ngược nhau nữa, có giống nhau thì cũng chỉ được 5-6 phần 10. Như vậy, không thể tin riêng môn nào được cả. Tôi cho Tử vi có nhiều điều vô lý, mâu thuẫn hơn hết. Tứ bình hợp lý hơn hết; Tử vi thích hợp với đàn bà, họ muốn biết nhiều chi tiết, mà càng đi vào chi tiết thì càng dễ sai; Tử bình hợp với trí thức, có phần đúng hơn Tử vi (ở Trung Hoa người ta gần như chỉ dùng Tử bình, không dùng Tử vi); còn Hà lạc chỉ cho biết sơ sơ về số mạng, hạn nào tốt, hạn nào xấu, chứ không cho biết gia đình, vợ con ra sao, mà chú trọng nhất đến cách cư xử, tiến thoái nên ra sao cho hợp với ý nghĩa, tuỳ thời của Kinh Dịch, do đó nó thích hợp với người sống theo đạo hơn. (Tóm tắt ch. XVI).
QUA LONG XUYÊN DẠY HỌC VÀ TỰ HỌC
Mùa xuân năm 1974 tôi qua Long Xuyên chỉ mang theo hai bộ bà ba và hai trăm đồng, một là để coi tình hình, hai là để cân thuốc Bắc về làm một hai tể thuốc. Tôi lại tá túc nhà cô Nguyễn Thị Liệp, 26 đường Gia Long. Tôi quen cô từ 1935 hồi mới vô Nam. Cô là một người bà con của bác gái tôi ở Tân Thạnh, ở trường Gia Long ra, làm giáo viên trưởng Nữ Long Xuyên. Thấy người tính tình bình dị, tự nhiên, sau hai lần gặp mặt, tôi ngỏ ý cầu thân, cô từ chối vì muốn ở vậy nuôi mẹ già; từ đó chúng tôi thỉnh thoảng thư từ với nhau; và khi lập gia đình rồi tôi cho nhà tôi hay, tìm cơ hội cho hai người tiếp xúc với nhau một hai lần. Hồi ấy cô ở với bà thân và một người chị dâu goá chồng có hai con.
Tôi tính ở Long Xuyên độ nửa tháng, không dè khi sắp về thì cả miền quê hương thầy Tư Hòa Hảo (tên Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập tôn phái Hoà Hảo, có đông tín đồ ở miền Tây, và hoạt động chính trị, 1945-46 hợp tác với Việt Minh từ phía Chợ Mới xuống tới phía dưới Mỹ Luông, hai bên bờ Tiền Giang, tín đồ Hòa Hảo rất xôn xao, rục rịch nổi dậy, vì có tin thầy Tư bị Việt Minh thủ tiêu trong một cuộc họp ban đêm ở địa phận làng Tân Phú, cách nhà bác tôi độ hai cây số. Hình như thầy quá tin họ, chỉ dắt theo vài vệ sĩ nên bị hại (…). Anh Việt Châu theo thầy, cũng bị Việt Minh giết ở Cần Thơ cuối 1945. Vậy là tôi không thể trở về Tân Thạnh được, phải tạm ở lại Long Xuyên ít lâu nữa.
Sau đêm 19.12.1946, Việt Minh tấn công thình lình Pháp ở Hà Nội rồi rút ra ngoài, hai bên không thể hòa giải với nhau được nữa, chiến tranh sẽ kéo dài. Nhà tôi với cháu đã rời Long Điền lên Sài Gòn, nhà ở đường Monceau đã bị lính thuỷ Pháp chiếm, đồ đạt mất hết mà tư trang cũng đã bị giặc Miên ở Long Điền đào lên lấy nhẵn; mới đầu phải ở nhờ nhà một người bạn ở đường Sabourain, may quần áo trẻ em để độ thân, sau dạy học giúp cho một người bạn khác chủ một trường tư nhỏ, trường Aurore. Tôi không thể lên Sài Gòn được vì tiền tiết kiệm hết nhẵn mà Sài Gòn lại đương có phong trào đả đảo người Bắc.
Ở Long Xuyên tôi gặp ba người bạn cũ: anh Hách ở Siemreap về cũng tản cư ở Long Xuyên, ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc này làm chủ quận Châu Thành Long Xuyên, và một thầy hoạ đồ trước giúp việc cho tôi ở sở Thuỷ lợi. Tôi chưa đủ kinh nghiệm để làm đông y, cũng không muốn trở về nghề công chánh, ba lần từ chối lời mời ra giúp việc của một kỹ sư tôi quen từ trước; chỉ nhận dạy thêm Pháp văn và Toán cho dăm trẻ của vài người bạn ở Long Xuyên, mỗi tháng kiếm được 5-6 trăm đồng, đủ ăn. Tôi dạy kỹ, vừa sức của chúng, hết hè 1947, có hai đứa thi đậu vào trường trung học Cần Thơ, tôi nổi tiếng và từ đó số học sinh mỗi ngày mỗi đông, mỗi ngày chỉ dạy hai ba giờ, kiếm được vài ngàn đồng một tháng. (tóm tắt ch. XVIII).
Có dư tiền tôi gởi mua sách ở Pháp: vài cuốn dạy tiếng Anh, bộ đĩa Linguaphone, sau thêm bộ đĩa nhựa Assimil nữa đều dạy nói tiếng Anh; một số sách Anh, Pháp về Culture humaine, và khá nhiều sách về văn học, giáo dục, tâm lý, khoa học, xã hội học… Sau mấy năm thiếu sách, gặp sách nào tôi cũng muốn mua. Tôi lựa những cuốn sách giới thiệu trong 2 cuốn: Quels livres faut-il avoir lus? của A. Souché, La Bibliothèque de l’Honnêtre homme của một nhóm học giả ở Bỉ…
Mới đầu đọc lung tung, sau thấy vấn đề nào thích thì tôi mua thêm. Lần lần tôi hướng về giáo dục, về ngữ học, văn học Trung Hoa, tiểu sử danh nhân, loại tự luyện đức, trí (culture humaine, tiếng Anh gọi là seft improvement), môn tổ chức.
Nhân đọc một cuốn sách Pháp, tôi được biết năm 1926 người ta lập ở Paris một ủy hội Quốc tế để nghiên cứu sự tổ chức công việc theo khoa học. Mỗi nước lập một ủy hội Quốc gia nữa. Ở Pháp gọi là Comité de l’Organisation française. Hội mở một trường dạy môn tổ chức công việc, lấy tên là École d’Organisation scientifique du travail, có lớp hàm thụ cho những người ở xa Paris.
Học phí khá cao. Tôi rủ anh Hách hùn tiền ghi tên học. Tôi yêu cầu trường gởi một lần hết các bài giảng và bài tập cho tôi. Mục đích của chúng tôi là học cho biết chứ không cần được bằng cấp của trường vì muốn được bằng thì phải làm một luận án (mémoire và qua Paris tự biện hộ cho chủ trương của mình trước mặt các giám khảo của trường. Như vậy bằng cấp được chính phủ Pháp công nhận, rất có giá trị.
Tôi học môn đó rất kỹ, mỗi bài dài chừng 10-15 trang lớn (21x31 chữ in, tôi đọc vài lần rồi tóm tắt đại ý trong một vở riêng. Mỗi bài thuộc về một đề tài, do một giáo sư giảng. Có giáo sư giảng về 2-3 đề tài. Họ đề là những nhân viên quan trọng trong hành chính hay xí nghiệp, có nhiều kinh nghiệm. Mỗi ngày tôi bỏ ra một buổi để học, ba tháng thì hết khoá. Mới đầu tôi làm được vài bài tập gởi qua cho họ chấm; sau thôi vì có bài muốn làm thì phải có tài liệu mà ở Long Xuyên tôi không thể kiếm được. Tôi lại gởi mua những sách mà trường giới thiệu để nghiên cứu thêm.
Mùa thu 1947, bà cụ Ngô Thị Lựu, thân sinh cô Liệp quy tiên, tôi đã nhắc tới đức nhân từ của cụ trong bài Tựa cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, cô vẫn tiếp tục cho tôi ở đậu, dạy học trong nhà. Tháng 11 năm 1950, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã làm tỉnh trưởng Long Xuyên và đã mở trường trung học Thoại Ngọc Hầu ở thị xã, hai lần khẩn khoản mời tôi dạy thay giáo sư Kính phải về bộ tư pháp; vì giữa niên học không dễ gì kiếm được người thay nên tôi vì tình bạn cả hai ông ấy, nhận lời giúp với điều kiện là cuối niên khóa muốn thôi thì phải cho thôi.
Tôi dạy Pháp văn, Văn học, Đức dục, sau thêm cả Hán văn nữa ở nhiều lớp từ năm thứ tư xuống tới năm thứ nhì. Tôi soạn bài kỹ, giảng cho rõ ràng, bắt buộc học sinh làm nhiều bài tập, nghiêm nhưng công bằng, thẳng thắn, nên ai cũng nễ, tuy có một số người không ưa. Tôi dạy được gần ba khoá, tới hết niên học 1952-53 mới thôi. Trong ba năm đó tôi làm việc rất nhiều, vừa tự học, vừa dạy học, vừa viết sách, hễ miệng thôi giảng thì cầm cuốn sách lên, đặt cuốn sách xuống thì cầm cây bút lên (nhưng tôi cũng hưởng được nhiều lúc vui vì lòng tin cậy của cha mẹ học sinh, làm kính mến của học sinh).
Dạy mỗi tuần 16 hay 18 giờ thôi, không bận mấy. Học tốn thì giờ hơn. Tôi học môn tổ chức, học Anh ngữ, lại học thêm về văn học Trung Hoa nhờ có mấy bộ văn học sử mua được (chỗ nào không hiểu thì nhờ bác tôi giảng, vì từ 1948 gia đình bác tôi cũng tản cư ra qua Long Xuyên, ngôi nhà ở Tân Thạnh, chính phủ kháng chiến bắt phải dỡ, vào ở xa trong đồng, chịu không nổi). Ngoài ra còn học các lớp hàm thụ ở Pháp: Cours d’édition et de libraire, Cours de technique littéraire; Institut Pelman (về culture humaine). Những bài hàm thụ đó đều giúp tôi tài liệu để sau này viết sách, như Nghề viết văn, Hương sắc trong vườn văn, nhiều cuốn trong loại Học làm người.
Trong chương XIII (bộ Hồi Kí tôi đã nói muốn học một ngoại ngữ thì phải dịch. Tôi muốn nói thêm: học môn nào thì nên viết về môn đó. Điều này tôi đã trình bày trong cuốn Tự học, một nhu cầu của thời đại. Chương XII cuốn sách đó tôi viết:
"Có người nói: khi chưa biết về một vấn đề nào thì người ta viết sách về vấn đề ấy". Nếu lời ấy là mỉa mai thì là mỉa mai một cách vô lý. Khi đọc bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim hoặc bộ Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn, không ai tự hỏi hai học giả ấy trước khi viết sách đã biết rõ về đạo Khổng hoặc triều Lý chưa? Điều chúng ta đòi hỏi ở tác giả là tài liệu phải đích xác, lý luận phải vững vàng, văn phải sáng sủa và tươi nhã; còn tác giả phải học thêm nhiều trong khi soạn sách thì ta không cần biết tới.
Vì có học giả nào không vừa học vừa viết? Trần Trọng Kim đâu phải là nhà cựu học, Hoàng Xuân Hãn đâu có bằng thạc sĩ về sử học. Và trước khi soạn hai bộ ấy, họ Trần và họ Hoàng có lẽ cũng không biết gì về Khổng Tử hoặc Lý Thường Kiệt hơn bạn và tôi, vậy mà tác phẩm của họ vẫn có giá trị.
Tôi muốn đổi câu dẫn trên như sau cho nó chứa một lời khuyên chí lý và nghiêm trang:
"Khi muốn học về một vấn đề nào thì cứ viết sách về vấn đề ấy".
Chúng ta ai cũng có tính làm biếng, học cái gì cũng chỉ mới biết qua loa mà đã mãn nguyện, không chịu suy nghĩ kỹ, tìm tòi thêm. Nhưng khi viết sách ta cần kiểm soát từng tài liệu, cân nhắc từng ý tưởng, rồi bình luận, sau cùng sắp đặt lại những điều ta đã tìm kiếm, hiểu biết để phô diễn cho rõ ràng. Trong khi làm những công việc ấy, ta nhận thấy có nhiều chỗ tư tưởng còn mập mờ, ta phải tra cứu để hiểu thêm, đọc thêm nhiều sách nữa, do đó sự học của ta cao thêm một bậc. Càng được nhiều sách thì càng gặp những ý tưởng mâu thuẫn nhau và ta lại phải xem xét đâu là phải, đâu là trái và ta lại đào bới cho sâu thêm; nhờ vậy ta hiểu thấu triệt được vấn đề, nhớ lâu hơn, có khi phát huy được những điều mới lạ.
Cho nên muốn học một cách kỹ lưỡng không gì bằng viết về điều mình học. VIẾT SÁCH LÀ TỰ RA BÀI CHO MÌNH LÀM. Học mà không làm bài thì chỉ là mới đọc qua chứ không phải học.
Song tôi xin dặn bạn: khi viết nên nhớ mục đích của ta là tìm hiểu chứ không phải cầu danh. Đừng cầu danh thì danh sẽ tới. Cầu nó, nó sẽ trốn và sự học của ta cũng sẽ hoá ra nông nổi".
Một anh bạn thân, học giả Lê Ngọc Trụ, mất năm 1979, nhà ngôn ngữ học có công nhất với chính tả Việt ngữ, tác giả cuốn Việt ngữ chánh tả tự vị, ngay khi cuốn Tự học của tôi vừa mới phát hành được mấy tháng, một hôm gặp tôi ở thư viện đường Gia Long, bảo tôi: "Lời anh nói rất đúng: chính tôi viết về chính tả Việt ngữ là để tự học đấy". Tôi nắm chặt tay anh cười: "Anh em mình giống nhau quá. Tôi viết cuốn Tổ chức công việc cũng để tự học".
VIẾT SÁCH
LOẠI TỔ CHỨC CÔNG VIỆC – CHÍNH THỨC BƯỚC VÀO LÀNG VĂN
Học xong mỗi bài của trường Tổ chức công việc theo khoa học ở Paris gởi cho, tôi tóm tắt đại ý trong một tập vở rồi tôi lại đọc thêm những sách gởi mua từ Pháp về môn đó để bổ túc những bài học ấy, cũng ghi chép những ý chính. Được vài tập 100 trang vở học trò.
Tôi sắp đặt lại những điều ghi chép ấy, chia thành chương, lập một bố cục, viết một cuốn về môn tổ chức, chủ ý để tổng hợp mà hiểu rõ môn học và khi coi lại, đỡ mất thì giờ tìm trong một chồng tài liệu, bài giảng của trường và trong non một chục cuốn khác nữa.
Tôi viết kỹ lưỡng, sáng sủa, mạch lạc. Viết xong tôi thấy tập đó có ích vì ít người biết về môn tổ chức. Đọc nó, đủ biết được những nguyên tắc quan trọng cùng cách thực hành; nó luyện cho ta được tinh thần khoa học, giúp ta làm việc mau hơn, có hiệu quả hơn mà đỡ tốn thì giờ, đỡ mệt sức. Mà nó lại dễ đọc, dễ hiểu hơn sách Pháp. Nghĩ vậy tôi đem cho ông Paulus Hiếu, chủ Kho bạc Long Xuyên, cha hai học sinh của tôi. Ông thích nó, đề nghị với tôi để ông xuất bản giúp; ông bỏ tiền ra tìm nhà in ở Sài Gòn, in xong ông sẽ gởi cho một số tiệm sách ở Sài Gòn và Hà Nội, ông sẽ thu tiền, tóm lại là mọi công việc ông đảm đương hết. Ông thật là một người tốt, yêu văn hóa, nhờ ông mà tôi chính thức bước vào làng văn, công đó tôi không quên.
Cuốn đó in chỉ hai ngàn bản, phí tổn khá nặng vì phải làm nhiều bản kẽm (cliché), ra mắt độc giả cuối năm 1949, hai năm sau bán hết, nhưng không lời bao nhiêu. Đó là cuốn đầu tiên tôi ra mắt độc giả. May mắn nó được hoan nghênh liền. Một nhà giáo ở Long Xuyên bảo tôi: "Tôi mong có một cuốn như vậy từ lâu".
Nhà văn Thiên Giang ở Sài Gòn chưa hề quen biết tôi, đọc xong viết thư cho tôi khen là viết sáng sủa và bảo tôi sẽ thành công ở nghề cầm bút. Ông giám đốc nhà xuất bản P. Văn Tươi ở Sabourain (Sài Gòn do có cuốn đó mà để ý đến tôi. Tôi mừng rằng không là "mẻ" cái vốn của ông P. Hiếu.
Sau đó tôi "khai thác" thêm môn tổ chức, áp dụng vào công việc hằng ngày như việc học và việc vặt trong nhà.
Tháng 11.1950, tôi nhận dạy cho trường Thoại Ngọc Hầu. Nguyên tắc của tôi là chỉ cho học sinh cách học rồi hướng dẫn họ để họ có thể tự học. Điều đó rất quan trọng vì hết thảy các học sinh không biết cách ghi chép lời giảng của thầy, không biết cách học bài, làm bài, không biết tìm ra trọng điểm của bài, không biết cách học ôn, tìm tài liệu, không có một thời dụng biểu ở nhà. Họ không hiểu rằng các học một bài ám độc (récitation khác cách học một bài toán; một bài sử ký, địa lý khác một bài sinh ngữ… Họ không có cả một sổ tay ghi chép những điều cần nhớ để thường coi lại.
Dạy được vài tháng, tôi nghĩ công việc cần nhất là phải chỉ cho học sinh cách học đã, và ngày 29 tết năm Tân Mão (tháng février 1951) tôi khởi sự chép những lời khuyên học sinh, mới đầu chỉ định viết 50 trang để toà hành chánh quay ronéo chừng 100 bản phát cho học sinh của tôi. Nhưng khi đã hạ bút thì ý này gợi ý kia và số trang rốt cuộc tăng lên gấp ba.
Tập đó tôi viết dễ dàng và vui, chỉ trong ba tháng là xong. Tôi áp dụng môn tổ chức vào việc học để cho đỡ phí sức, đỡ tốn thì giờ mà mau có kết quả; tôi dẫn nhiều kinh nghiệm bản thân từ hồi tôi học ở trường Yên Phụ và trường Bưởi. Tôi sớm có tinh thần phương pháp, ngay từ hồi học lớp Sơ đẳng (cours élémentaire) đã có lối học riêng của tôi: ở trong lớp vừa chép bài vừa học thầm, vừa đi từ trường về nhà vừa nghĩ cách làm một bài toán, tìm ý cho một bài luận, rồi về tới nhà là làm, học ngay bài trong ngày, nhờ vậy tôi tốn rất ít thì giờ. Lên trung học tôi có một sổ tay tóm tắt những ý quan trọng trong mỗi bài sử, địa, vật lý, hoá, toán…, tức những điều tôi cho rằng lúc nào cũng phải nhớ; như vậy khi học ôn để thi trong lớp hoặc thi ra trường, tôi chỉ cần coi lại những sổ tay đó, ít khi phải coi lại trong sách. Những kinh nghiệm đó và nhiều kinh nghiệm khác nữa tôi đều chỉ lại cho học sinh.
Viết xong thấy tập đó có thể in thành sách được, tôi đặt cho nó nhan đề Kim chỉ nam của học sinh. Lúc này tôi đã có được một số tiền tiết kiệm, khỏi phải nhờ ông Hiếu nữa. Tôi mướn nhà in duy nhất ở Long Xuyên in cho 1.000 bản, không nhớ phí tổn bao nhiêu (khoảng 8.000 đồng? Vàng lúc đó 3.400 đồng 1 lượng). Nhà in chỉ có máy đạp chân (pédale in rất chậm, mà mỗi "cahier" chỉ được bốn (hay tám? trang nhỏ, cho nên công in và khâu đã cao mà sách lại rất xấu. Họ chỉ in các mẫu giấy tờ cho công sở và quảng cáo cho nhà buôn, chưa bao giờ in sách, thiếu nhiều phương tiện.
Tôi bán được một số ít cho vài tiệm sách ở Long Xuyên còn thì gởi lên Sài Gòn cho nhà P. Văn Tươi. Ông Tươi chê sách in xấu quá nhưng khen có giá trị, bán trong mấy tháng đã hết và xin tôi cho phép tái bản. Cuốn đó bán chạy hơn cuốn Voulez-vous que vos enfants soient de bons élèvres? của giáo sư Lavarenne mà ông Thiên Giang lược dịch, nhan đề là Muốn thành học sinh giỏi cũng do nhà P. Văn Tươi xuất bản, ra trước cuốn của tôi khoảng một năm, và không bao giờ tái bản.
Kim chỉ nam của học sinh rất được hoan nghênh. Nhiều phụ huynh học sinh sau gặp tôi, cảm ơn tôi vì con họ nhờ cuốn đó mà học tấn tới. Một giáo sư bảo học trò: "Nếu theo đúng cuốn đó thì học rất giỏi, nhưng ít người theo đúng được lắm". Cần gì phải theo đúng. Cứ hiểu nguyên tắc, hiểu phương pháp rồi chịu khó áp dụng tuỳ khả năng, hoàn cảnh của mỗi người, cũng đủ có lợi nhiều rồi.
Tôi mừng nhất là nó đã thay đổi hẳn cuộc đời của một thanh niên hiếu học nhưng nhà nghèo, không cách tiến thân, sau thành một bác sĩ, một nhà văn, trước 1975 đã ra được một hai tập thơ, hai cuốn dạy cách đề phòng các bệnh của thiếu nhi và của học sinh. Trong tạp chí Bách Khoa số 20.4.75, thanh niên đó, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc viết:
"Kim chỉ nam đã mở cho tôi chân trời mới. Đọc xong, tôi thấy mình gần gũi với ông (Nguyễn Hiến Lê kỳ lạ. Có những điều tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ thống hoá, đặt ra những nguyên tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp thực hành, không có những lý thuyết viễn vông nhàm chán."
Thanh niên đó từ mười năm nay đã thành một bạn thân của tôi.
Kim chỉ nam của học sinh được tái bản bốn năm lần, lần nào cũng in 3.000 bản.
Sau Kim chỉ nam, cũng trong loại tổ chức, tôi viết cuốn Tổ chức gia đình (1953), chỉ cách tổ chức công việc trong nhà, dự tính, sắp đặt, chỉ huy, cư xử với người giúp việc… Nhưng cuốn của tôi khác những sách trong loại đó của Âu Mỹ ở điểm tôi khuyên độc giả sống giản dị như cổ nhân, đừng để "cái hình hài làm tội cái tâm"; mà "đời sống vật chất thì nên dưới mức trung, còn đời sống tinh thần nên trên mức ấy". Cuốn đó được tái bản hai ba lần.
Lại mười năm sau (1964), tôi mới viết một cuốn nữa về Tổ chức công việc làm ăn. Cũng vẫn áp dụng những nguyên tác tổ chức theo khoa học, nhưng cuốn này chỉ in được một hai lần, mỗi làn in 2.000 bản. Thời đó giới kinh doanh không cần biết môn tổ chức. Họ chỉ cần chạy chọt, xin được cái "lít xăng" (licence: giấy phép xuất nhập cảng, vay ngân hàng một số vốn để "khai thác" là đủ làm giàu. Có kẻ chỉ cần bán lại "licence" cũng đủ sống phong lưu. Trong công việc đấu thầu, hễ "quen lớn", có phe cánh là lãnh được những lô "bở". Không biết tới cuối thế kỷ này người mình đã có được tinh thần "làm ăn" như phương Tây chưa. Cuốn đó của tôi ra sớm quá.
Ngay cuốn Tổ chức công việc theo khoa học mặc dầu in trước sau ba lần, mỗi lần 2.000 bàn, cũng vẫn "được ra sớm quá". Hiện nay (1980 từ Nam ra Bắc vẫn còn nhiều cơ quan không biết cách quản lý, tổ chức; làm việc luộm thuộm như tổng lý, hương chức thời tiền chiến. Mà ở phương Tây thì khoa tổ chức của Taylor, Fayol đã bị coi là lạc hậu từ hai chục năm nay rồi. Ngày nay họ tìm cách thích ứng công việc với người chứ không thích ứng người với công việc; tập cho thợ có sáng kiến, tự lãnh trách nhiệm, giúp thợ tự giải quyết lấy vấn đề. Rồi đây các máy điện tử (ordinateur sẽ làm thay đổi hẳn cách quản lý nữa; sự quyết định sẽ không tập trung vào ban giám đốc mà phân tán cho các phòng, xưởng, nghĩa là cho cấp dưới.
Chỉ một khóa hàm thụ mà giúp tôi viết bốn cuốn như trên, môn tổ chức quan trọng thật. Để giúp học sinh có phương pháp, sau tôi còn dịch và viết mấy cuốn nữa, có thể coi như thuộc về loại tổ chức, như:
Muốn giỏi toán Hình học phẳng (dịch J. Chauvel), 1954.
Muốn giỏi toán Hình học không gian (dịch J. Chauvel), 1956.
Muốn giỏi toán Đại số (tôi viết), 1957.
Bí quyết thi đậu, 1955.
Mấy cuốn đó đều viết theo tinh thần cuốn Kim chỉ nam, tinh thần giúp đỡ thanh niên, nhắc họ nhớ rằng cần nhất là có phương pháp, có chủ đích, làm việc đều đều. Trong đời có nhiều người rất thông minh mà thiếu những đức đó nên không làm được gì cả; trái lại có những người thông minh chỉ trên trung bình một chút mà lập được sự nghiệp nhờ những đức đó.
Một số độc giả quá yêu tôi bảo giá tôi đừng viết những cuốn đó mà chuyên khảo cứu thì có lợi hơn. Phải, có thể có lợi cho tôi về kiến thức, nhưng chắc là ít lợi cho thanh niên. Không thấy ai viết sách chỉ phương pháp làm việc cho học sinh thì tôi phải viết. Và học sinh thấy có ích, nên cuốn nào cũng được tái bản nhiều lần. Còn công việc khảo cứu, tôi vẫn song song làm với công việc huấn luyện thanh niên, đâu có xao nhãng.
LOẠI VIỆT NGỮ
Vì dạy Việt ngữ cho lớp đệ tứ niên, tôi phải đọc kỹ cuốn Văn phạm Việt Nam của Trần Trọng Kim và vài cuốn như Nhận xét về văn phạm Việt Nam của Bùi Đức Tịnh… Đọc xong tôi thấy những sách văn phạm (nay gọi là ngữ pháp đó, nhất là cuốn của Trần Trọng Kim phỏng theo ngữ pháp của Pháp quá, không hợp với đặc tính tiếng Việt. Tôi lại thấy tất cả các giáo sư và học sinh đều miễn cưỡng dạy và học môn đó, chứ không tin tưởng, không thấy ích lợi chút nào cả. Và tôi viết cuốn Để hiểu văn phạm, đưa ra vài ý kiến, mặc dầu tôi chưa hề nghiên cứu về ngữ pháp.
Đại khái tôi cho rằng Việt ngữ không có phần biến di tự dạng (morphologie, cũng gọi là từ pháp; cùng một từ dùng làm danh từ, động từ thì viết cũng vậy: cái cuốc, cuốc đất), cho nên nhiều từ (mot không có từ loại nhất định, ta không nên chú trọng quá đến việc phân biệt từ loại, mà nên chú trọng đến việc phân biệt từ vụ (fonction des mots), đến vị trí của mỗi từ trong câu. Chính từ vụ, vị trí và ý nghĩa cho ta biết loại của mỗi từ.
Tôi lại đề nghị không nên dùng gạch nối, vì Việt ngữ có tính cách đơn âm (ngày nay gọi là ngôn ngữ cách thể - langue isolante), rất khó để gạch nối cách nào cho hoàn toàn hữu lý được lắm, mà chỉ làm rối trí thêm cho học sinh. Viết liền những từ ghép (mots composés lại cũng không nên.
Tập này dày khoảng hơn trăm trang, tôi viết trong hai tháng. Nhà P. Văn Tươi không nhận xuất bản vì khó bán. Tôi đề nghị bỏ vốn ra in 1.000 hay 1.500 bản để họ độc quyền phát hành (nhà P. Văn Tươi đứng tên), bán được bao nhiêu, trừ hoa hồng rồi còn về phần tôi. Bán hai ba năm chưa hết nhưng tôi không lỗ vốn in. Lợi vật chất không có gì, nhưng lợi về tinh thần thì đáng kể. Chính nhờ cuốn sách mỏng đó mà mấy năm sau ông Trương Văn Chình (bút hiệu Trình Quốc Quang tác giả hai cuốn Hội nghị Đà Lạt, Hội nghị Fontainbleau ở Hà Nội di cư vô, lại đường Monceau kiếm tôi, đề nghị viết chung với nhau về ngữ pháp Việt Nam vì chủ trương của tôi có nhiều điểm hợp với ông. Rồi hơn hai chục năm sau, miền Nam được giải phóng, một số học giả trong viện Khoa học Xã hội (ban Ngôn ngữ ở Bắc vô cũng lại thăm tôi, bảo họ để ý đến tôi từ khi đọc cuốn đó. Nó được chú ý như vậy vì là cuốn đầu tiên vạch một hướng mới cho công việc nghiên cứu ngữ pháp Việt, thoát ly ảnh hưởng của các sách ngữ pháp Pháp dùng trong các trường học.
Cũng vì dạy Việt văn, nên tôi có ý viết một cuốn chỉ cho học sinh trung học và những người lớn tự học cách viết văn và sửa văn, nhan đề là Luyện văn.
Để viết cuốn này, tôi đọc khá nhiều tác phẩm văn chương Việt, Pháp, và một số sách Pháp về môn nghệ thuật viết như cuốn L’Art d’écrire của Antoine Albalat, La Formation du style của tu viện trưởng Moreux, Le Style au microscope (3 cuốn của Criticus…
Không kể thì giờ đọc sách và thu thập tài liệu để dẫn chứng, chỉ nội công việc viết kỹ ba trăm trang cũng mất sáu tháng làm việc từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối, trừ những lúc dạy học, chấm bài, giờ ăn, giờ nghỉ trưa. Nhưng tôi không thấy mệt vì viết rất có hứng.
Viết xong cuối năm 1952, nhà P. Văn Tươi in ngay, sau tái bản được hai ba lần. Sách in ra đúng lúc Việt ngữ đương được trọng dụng, ai cũng thấy cần viết và nói tiếng Việt cho đúng, cho hay, còn tiếng Pháp chỉ là một ngoại ngữ ở các trường trung học, cho nên được độc giả hoan nghênh, cho là "gia đình nào cũng phải có"; có vị còn khuyến khích tôi, buộc tôi viết thêm nữa: "ông Lê, ông phải soạn ngay một cuốn Luyện văn thứ nhì và phải xuất bản gắp, nội trong ba tháng, không được trễ, để hè này tôi có sách đọc mà quên cái nắng nung người đi nhé. Vấn đề còn rộng, ông chưa xét hết và ông không được từ chối".
Tôi không từ chối, nhưng còn bận nhiều việc khác, nên năm 1956 tôi mới viết được cuốn II, 1957 mới ra nốt cuốn III. Hai cuốn sau này cao hơn cuốn I nên chỉ in được một lần thôi. Sau tôi lại viết thêm bộ Hương sắc trong vườn văn nữa. Tôi sẽ trở lại vấn đề này.
Ngày nay nghĩ lại, ba năm dạy học ở Long Xuyên, mới đầu chỉ vì tình bạn, mà không ngờ đã gợi cho tôi viết ba cuốn cho học sinh (Kim chỉ nam, Để hiểu văn phạm, Luyện văn và sau này cả chục cuốn nữa về toán, phê bình văn học, ngữ pháp… Trong đời có những cái duyên may thú vị như vậy như có một sự an bài nào đó.
DỊCH DALE CARNEGIE VÀ VIẾT LOẠI SÁCH HỌC LÀM NGƯỜI
Để học tiếng Anh, tôi tập dịch sách Anh ra tiếng Việt cũng như trước kia để học bạch thoại tôi dịch Hồ Thích.
Thật may mắn, ông Paulus Hiếu giới thiệu cho tôi hai cuốn How to win friends and influence people và How to stop worrying đều của Dale Carnegie và kiếm cho tôi được cả nguyên bản tiếng Mỹ với bản Pháp dịch.
Hai cuốn đó cực kỳ hấp dẫn, tôi say mê đọc, biết được một lối viết mới, một lối dạy học mới, toàn bằng kể chuyển. Mỗi chương dài từ 10 đến 20 trang chỉ đưa ra một chân lý, một lời khuyên; và để cho người đọc tin chân lý, lời khuyên đó, Carnegie kể cả chục câu chuyện có thực, do ông nghe thấy hoặc đọc được trong sách báo, nhiều khi là kinh nghiệm bản thân của ông, kể bằng một giọng rất có duyên, cho nên đọc thích hơn tiểu thuyết mà lại dễ nhớ. Tiếng Anh của tôi hồi đó còn non lắm, học trước sau chỉ được sáu tháng tích cực nên nhiều chỗ phải dựa vào bản Pháp dịch, và dịch xong How to win friends tôi đưa ông Hiếu coi lại, sửa chữa. Do đó mà chúng tôi ký tên chung. Tôi đặt cho nhan đề Đắc nhân tâm.
Chủ trương của tôi dịch loại sách Học làm người như cuốn đó thì nên dịch thoát, có thể cắt bớt, tóm tắt, sửa đổi một chút cho thích hợp với người mình, miễn không phản nguyên tác; nhờ vậy mà bản dịch của chúng tôi rất lưu loát, không có dấu vết dịch, độc giả rất thích (2).
Cuốn Đắc nhân tâm bán rất chạy, từ 1951 đến 1975, in đi in lại 15-16 lần, tổng cộng bán được trên 50.000 bản. Có người mua trước sau ba bốn bản hoặc vì mất hoặc để tặng bạn. Năm vạn bản ở nước mình là nhiều thật, nhưng không thấm vào đâu với Âu Mỹ. Ở Pháp, nhà Hachette lần đầu in 200.000 bản dịch, nhan đề là Comment se faire des amis; còn ở Mỹ không biết mấy triệu bản. Hiện nay (7-1980 ở chợ sách cũ đường Cá Hấp Sài Gòn có người chịu mua một bản với giá 40 đồng ngân hàng (20.000đ cũ). Năm 1975 giá chỉ có 2 đồng ngân hàng.
Quy tắc đắc nhân tâm gồm trong câu "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" mà tất cả các triết gia thời thượng cổ từ Thích Ca, Khổng Tử, Ky Tô… đều đã dạy nhân loại, nhưng trình bày như Dale Carnegie thì hơi có tính cách vị lợi, và tôi nghĩ trong đời đôi khi chúng ta cũng cần phải tỏ thái độ một cách cương quyết chứ không thể lúc nào cũng giữ nụ cười trên môi được. Cho nên tôi thích cuốn How to stop worrying mà tôi dịch là Quẳng gánh lo đi hơn.
Đúng như Đoàn Như Khuê nói:
- … Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
- Coi lại cùng trong biển khổ thôi.
Dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng có ưu tư, phiền muộn; chỉ hạng đạt quan, triết nhân, quân tử mới "thản đãng đãng" (thản nhiên, vui vẻ được như Khổng Tử nói. Nhưng làm sao có thể thản nhiên, vui vẻ thì Khổng Tử không chỉ cho ta biết. Dale Carnegie bỏ ra bảy năm nghiên cứu hết các triết gia cổ kim đông tây, đọc hàng trăm tiểu sử, phỏng vấn hàng trăm đồng bào của ông để viết cuốn Quẳng gánh lo đi.
Tôi bắt đầu đau bao tử từ khi phi cơ Pháp bắn liên thanh xuống miền Tân Thạnh (1946), năm sau qua Long Xuyên, để quên tình cảnh nước và nhà tôi phải trốn vào trong sách vở, nhưng viết và đọc suốt ngày thì bệnh bao tử lại nặng thêm mà bác sĩ không biết, cứ cho là gan yếu, uống thuốc Tây, thuốc Bắc, thuốc Nam đều không hết.
Rồi khi đọc cuốn Quẳng gánh lo đi, tôi thấy hết ưu tư, nhẹ hẳn người đi. Suốt thời gian dịch và trong năm sáu tháng sau nữa, tôi có cảm giác "đãng đãng" đó. Vì vậy mà tôi rất mang ơn tác giả, viết một bài Tựa tôi lấy làm đắc ý để giới thiệu với độc giả, và cuối bài, đề:
"Long Xuyên, một ngày đẹp trong 365 ngày đẹp năm 1951"
Nhiều độc giả đồng ý với tôi là cuốn đó hay hơn Đắc nhân tâm, và ngay từ chương đầu đã trút được một phần nỗi lo rồi, cho nên chép nhan đề chương đó "Đắc nhất nhật quá nhất nhật" để trước mặt, trên bàn viết. Mới đây, một độc giả, bác sĩ, bảo từ hồi đi học, đọc xong chương đó, thì đổi chữ ký, không ký tên thật nữa mà ký là "Today" (Hôm nay). Tôi còn giữ một bản của chữ ký đó của ông ta.
Quẳng gánh lo đi trước sau chỉ bán được độ 30.000 bản, nhưng tôi chắc nó đã đem lại niềm vui ít nhất là của trăm ngàn người. Nó ra rất đúng lúc chiến tranh gây biết bao nỗi lo lắng cho biết bao gia đình!
Cũng trong năm 1951 tôi dịch thêm cuốn nữa: Give yourself a chance (The Seven steps to success của Gordon Byron. Nhan đề tiếng Việt: Bảy bước đến thành công. Cuốn này nhà P. Văn Tươi cũng cho vào loại Học làm người, ích lợi cho thanh niên, gọn, sáng, dễ theo, nhưng không có gì đặc biệt. Có lẽ vì nhan đề hấp dẫn nên cũng được tái bản nhiều lần tuy thua xa hai cuốn trên.
Ngoài ra tôi viết xong nhưng chưa sửa mấy cuốn này:
+ Nghệ thuật nói trước công chúng: tài liệu đa số lấy trong cuốn Public speaking của Dale Carnegie mà tôi cho là tác phẩm thực tiễn nhất trong loại. Phần phụ lục có vài bài diễn văn rất hấp dẫn. Sách bán rất chạy, tới nay vẫn còn người tìm mua.
+ Thế hệ ngày mai: tôi tổng hợp các phương pháp tân giáo dục của phương Tây để tìm ra một đường lối mới trong việc dạy trẻ. Bài tựa rất cảm động. Tác phẩm được hoan nghênh, tái bản nhiều lần. Thiên Giang đọc xong trở nên thân với tôi. Nhờ cuốn Kim chỉ nam của học sinh và cuốn đó mà giới hiệu trưởng, giáo sư tư thục để ý đến tôi.
+ Hiệu năng, bí quyết của thành công: trong loại Doanh nghiệp của nhà P. Văn Tươi.
+ Bí mật dầu lửa: dịch cuốn Le Secret de l’or noir của Robert Gaillard kể vụ tìm ra mỏ dầu lửa đầu tiên ở Mỹ. Truyện có tính cách mạo hiểm cho trẻ em đọc. Trên 15 năm sau, cuốn đó mới xuất bản.
VĂN HỌC TRUNG QUỐC
Công trình mệt cho tôi nhất nhưng thú nhất là viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc gồm ba cuốn: I. Từ thượng cổ đến đời Tuỳ, II. Đời Đường, III. Từ Ngũ đại đến hiện nay.
Viết bộ đó chủ ý của tôi cũng là để tự học. Trong bài Tựa mà tôi lấy làm đắc ý, tôi nói hồi ở trường Bưởi tôi đã tò mò muốn biết về văn học Trung Quốc. Nền cổ học Trung Quốc như có sức gì huyền bí thu hút tôi, một thanh niên theo Tây học. Mỗi lần nghe những tên như Văn tâm điêu long, Chiêu Minh văn tuyển, Tiền Xích Bích phú, Quy khứ lai từ… Dù chẳng hiểu nghĩa, tôi cũng thấy trong lòng vang lên một điệu trầm ngâm như nhớ nhung cái gì. Phải chăng đó là tiếng vang những giọng ngâm nga của tổ tiên tôi còn văng vẳng trong lòng tôi?
Muốn tìm hiểu văn học Trung Quốc mà sách báo Việt chỉ làm tôi thất vọng. Cuốn Việt Hán văn khảo của Phan Kế Bính sơ lược quá; còn đọc những bài dịch cổ văn, thơ Đường đăng lác đác trên tạp chí Nam Phong và một số báo khác thì không khác gì coi mấy bông sói, bông hồng, bông ngâu mà mấy chị bán hoa ở phố Hàng Đường (Hà Nội gói trong chiếc lá chuối, chứa trong cái thúng để bán cho các bà nội trợ mua về cúng rằm, làm sao biết được vườn làng Ngọc Hồi, làng Yên Phụ ra sao. Tôi chỉ còn cách học chữ Hán để đọc sách người Trung Hoa viết. Khi đã có một số vốn độ 3.000-4.000 chữ, đủ để mò trong các tự điển Trung Quốc, tôi kiếm mua mấy bộ Cổ văn, Đường thi, Văn học sử… như tôi đã nói, rồi mò mẫm lần. Thật khó nhọc vô cùng. Đọc một bài trong Cổ văn quan chỉ độ 20 hàng tôi thường mất cả buổi mà chỉ hiểu lờ mờ (…). Còn những cuốn Văn học sử thì tuyệt nhiên không có chú thích, nhiều chỗ tôi phải viết thư hỏi bác tôi, nhưng không dám hỏi nhiều, vì mất công bác. Đành đọc nhiều sách, nhiều lần rồi vỡ nghĩa dần dần.
Học tới đâu tôi tóm tắt, ghi tới đấy, so sánh các sách, sắp đặt rồi chép trong những tập vở 100 trang. Sau cùng dịch một số bài văn thơ, viết thành chương. Nội công việc dịch này mất 9-10 tháng. Các bài cổ văn thì tôi dịch lấy, thơ tôi dịch được một số, bác tôi dịch cho một số lớn. Bài thơ nào không đề tên người dịch là của tôi, đề "Vô danh dịch" là của bác tôi. Hai bác cháu đều chú trọng nhất đến đức "tín", nghĩa là dịch sao cho đúng, cho sát, không dám sửa lời, thêm ý. Chúng tôi biết nhiều bài người trước dịch rồi mà hay, nhưng vì ở Long Xuyên thiếu sách, không kiếm được nên không dẫn vào.
Tôi viết như vậy cốt để học chứ không nghĩ đến việc in. Viết xong thấy có thể giúp cho các bạn hiếu học có một khái niệm về văn học Trung Quốc, nên mới sửa lại cho xuất bản. Sự nhận định của tôi chắc không sai nhiều, tôi đã tham khảo kỹ bằng những tài liệu tôi có; bố cục có mạch lạc, sáng sủa nhưng tôi nhận rằng chắc có những chỗ dịch sai, phiên âm sai, nhưng cũng cứ cho ra mắt độc giả. Sở dĩ "tôi cả gan như vậy là vì tin lòng quảng đại của các vị cựu học không nỡ trách kẻ hậu tiến học thức nông cạn mà sẵn lòng hạ cố chỉ bảo cho những chỗ sai lầm, hầu giúp bọn tân học chúng tôi hiểu thêm cái cổ học của các cụ, tức là cái nền tảng văn hóa dân tộc chúng ta" (trích trong bài Tựa).
Văn học Trung Quốc ảnh hưởng rất lớn đến văn học Việt Nam mà các cụ quá khiêm tốn không chịu viết thì bọn xẩm như tôi đành phải mò kim vậy.
Viết xong tôi chép lại, mất ba tháng nữa (vì có nhiều chữ Hán và bài nào cũng có phần phiên âm). Ngày 20 tháng mạnh đông năm Quý Tỵ (26-XI-1953), mọi công việc hoàn thành tôi thấy khoan khoái, thảo bài Tựa, cuối bài ghi cảnh trăng khuya trong vườn hoa ở phòng viết trông ra:
"Trăng mới ló dạng. Cảnh vật đang tối tăm, bí mật, bổng hoá ra êm đềm nên thơ. Nhành liễu là đà lấp lánh bên dòng nước. Giò huệ rung rinh toả hương dưới bóng dừa. Đêm nay tôi muốn thả hồn tìm thi nhân cùng danh sĩ Trung Hoa thời trước.
Hỡi hương hồn chư vị ấy! Tôi mang ơn chư vị rất nhiều, gần bằng mang ơn văn nhân nước tôi; vì từ hồi mới sinh, tôi đã được nghe lời ngâm Chinh phụ, Thuý Kiều xen lẫn với lời bình văn thơ của chư vị và ngay trong văn học nước tôi cũng thường thấy ẩn hiện nỗi lòng chư vị. Tâm hồn tôi ngày nay một phần cũng do chư vị đào luyện nên.
Viết cuốn này tôi muốn có cơ hội gần chư vị thêm một chút. Tác phẩm của chư vị quá nhiều, tôi không đọc hết, nên ngoài cái lỗi giới thiệu vụng về tất còn mang thêm cái tội vô tình xuyên tạc. Xin chư vị lượng thứ".
Mới có 27 năm mà cảnh tôi tả trong đoạn đó nay đã thay đổi hẳn: dòng kinh đã lấp, gốc liễu đã không còn, nhưng thêm được ba cây hoàng lan, chiều tối toả hương thơm ngào ngạt cả một xóm.
Để mùng tôi hoàn thành tác phẩm, bác tôi cho tôi hai bài thơ tứ tuyệt và hai câu đối, tôi đã chép trong bộ Hồi Kí, dưới đây chỉ trích lại một bài thơ và một câu đối:
Thơ:
- Nễ tự biên chi ngã duyệt chi
- Nhất gia lạc sự tại tương tri.
- Hà tu cánh hướng đông tây vấn,
- Kế vãng khai lai cánh thuộc thuỳ?
- (Cháu cứ viết đi, bác duyệt cho,
- Cái vui trong gia đình ở chỗ bác cháu hiểu nhau.
- Cần chi phải hỏi người bên đông bên tây,
- Việc kế vãng khai lai còn tuỳ thuộc vào ai nữa)
Câu đối:
- Cổ sắc cổ hương văn tự cổ
- Tân tâm tân bút thế phương tân.
- (Sắc cổ, hương cổ, văn thời cổ
- Lòng mới, bút mới, đời vừa mới)
Bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, ông P. Văn Tươi nhận là có giá trị nhưng không chịu xuất bản vì in rất tốn (phải sắp chữ Hán mà khó bán. Năm 1955 tôi lại phải bỏ vốn ra in, 1956 mới xong. Chỉ in 1.500 bản, tốn 75.000đ (mỗi cuốn 25.000đ). Giá vàng hồi đó vào khoảng 4.000đ - 5.000đ một lượng. Bán một năm được khoảng 500-600 bộ, đủ vốn; số còn lại bán bảy tám năm sau mới hết. Vậy, làm cái nghề viết văn cũng cần có vốn kha khá thì mới giữ được chí hướng, làm được những việc mình thích mà chẳng phải tuỳ thuộc ai. Nếu không có tiền xuất bản lấy thì 10-15 năm sau chưa chắc đã có nhà chịu in cho, mà lòng ham viết tất phải nguội dần.
In xong tôi mang về Long Xuyên để trình bác tôi. Tôi buồn rằng cha mẹ tôi và bác Hai tôi không còn. Tôi đã không phụ công các cụ. Trang đầu sách tôi đề:
- Kính dâng
- Hương hồn thân mẫu tôi
- Người đã cho tôi học thêm chữ Hán
- ở giữa thời tàn tạ của Nho học.
Bộ đó năm 1964 nhà Khai Trí tái bản; tôi chỉ sửa được một phần lỗi trên bản flan (bản để đổ chì thôi, vì sắp chữ lại thì tốn công lắm. Lần này in 2.000 bản, năm 1975 bán vẫn chưa hết, mặc dầu được viện Đại học Huế khuyên sinh viên đọc.
THÔI DẠY HỌC, TẠM TỪ BIỆT LONG XUYÊN
Vậy trong 5 năm (1949-1953 làm việc tích cực, nhất là ba năm cuối, tôi đã xuất bản được chín cuốn:
- Tổ chức công việc theo khoa học
- Kim chỉ nam của học sinh
- Tổ chức gia đình
- Luyện văn I
- Để hiểu văn phạm
- Đắc nhân tâm (dịch)
- Quẳng gánh lo đi (dịch)
- Bảy bước đến thành công
- Huấn luyện tình cảm (dịch từ 1941)
Lại có sẵn:
- Đại cương văn học sử Trung Quốc
- Nghệ thuật nói trước công chúng
- Thế hệ ngày mai
- Hiệu năng
- Bí mật dầu lửa (dịch)
Tính ra vừa học, vừa dạy học vừa viết, mỗi năm trung bình tôi xong được 3 cuốn. Tác quyền được khoảng 100.000đ, cộng với số lương giáo sư, số tiền dạy tư tại nhà, tiêu pha rồi (tôi sống rất giản dị, ăn uống đạm bạc, hút toàn thuốc rê; chỉ tốn tiền học hàm thụ và mua sách), đưa cho nhà tôi một số tiền để sang một căn nhà nhỏ ở trong hẻm khu Hãng Sáo (Tân Định mà mẹ con khỏi phải ở chung với bạn và các em nữa, cuối năm 1953 còn dư non 200.000đ, mà hồi mới qua Long Xuyên (1947 trong túi chỉ có 200đ.
Đáng kể nhất là tôi có chút danh trên văn đàn, được độc giả tin cậy. Tôi đã thành cây viết chính của nhà P. Văn Tươi.
Được vậy một phần là nhờ nhà tôi đã can đảm một mình làm việc nuôi con, dạy học; một phần là nhờ thân mẫu cô Nguyễn Thị Liệp và cô cho ở đậu trong nhà để dạy học, học và viết. Thấm thoát mà tôi ở nhà cô non bảy năm. Trong đời dễ gì gặp được người bạn như vậy, nếu không phải duyên trời.
Ngày nay ôn lại tôi thấy số phận tôi một phần do tôi quyết định, nhưng phần lớn thì do may rủi, do những cái ngẫu nhiên xảy ra, không sao ngờ được, nhất là do thời cuộc.
Như trên tôi đã nói, ông cha tôi không ai viết sách, mẹ tôi và các bác tôi cũng không có ý định cho tôi thành nhà văn, chính tôi tới năm 1951, hồi bốn chục tuổi, tuy đã chính thức bước vào làng văn mà vẫn chưa có ý sống bằng nghề cầm bút. Còn số tử vi của tôi, nhiều người đã coi, không ai đoán được là số của một nhà văn. Bác Ba tôi chỉ đoán được ngay từ khi tôi mới sinh là tốt, giàu và sang; và tôi thấy một người số tử vi giống tôi đến tám phần mười mà làm thầu khoán, giàu lớn.
Một ông bạn già bảo số tôi nổi danh vì được cách "tứ linh hội phi liêm, thanh danh viễn chấn", nhưng trong nghề nào cũng có người nổi danh, mà cứ theo các chính tinh ở mạng và chiếu mạng của tôi, thì tôi làm một kỹ thuật gia hoặc một nhà kinh doanh như ông thầu khoán nói trên mới hợp, vì mạng tôi có Vũ khúc, Sát, Phá, Liêm, Tham; thân tôi ở cung Thiên di có Thiên phủ, Lộc tồn. Mạng, thân đều không có Khôi, Việt (văn tinh), còn Xương khúc, Hoá khoa (cũng văn tinh thì đều ở cung thê, bàng chiếu về cung thân.
Chỉ bạn nào biết tôi là nhà văn rồi, coi tử vi cho mới bảo rằng chính Xương khúc, Hoá khoa chiếu cung thân đó mà ngoài 40 tuổi, tôi đổi nghề thành nhà văn. Như vậy là giảng một cách cưỡng ép, chứ không phải là đoán số. Cho nên tôi không tin hẳn môn số; nhiều lắm nó chỉ đúng được sáu phần mười thôi; sự di truyền của tổ tiên, giáo dục trong gia đình hoàn cảnh và thời cuộc mới có ảnh hưởng lớn tới đời sống con người. Số chỉ cho ta biết đại khái tư cách, tư chất ra sao, vào hạng nào trong xã hội, có khuynh hướng nào trong nghề nghiệp…; còn thì tự ta phải xây dựng lấy cuộc đời của ta. Quan niệm về số đó, tôi đã diễn trong bài Tựa cuốn Bảy bước đến thành công năm 1951.
Về di truyền thì ông nội, ông ngoại tôi đều có tiếng là hay chữ, bà nội tôi lại ở trong một thế tộc mười đời khoa hoạn. Tới thế hệ cha tôi thì có hai bác Cả và Ba của tôi học cao. Tới thế hệ của tôi thì hai anh Tân Phương, Việt Châu và tôi đều có khiếu về văn. Về giáo dục thì trong gia đình tôi, đời nào cũng trọng sự học, cũng cha (có khi cả mẹ nữa như bà nội tôi rồi nhà tôi dạy cho con, mẹ tôi tuy không dạy tôi nhưng lại cho tôi học chữ Nho với bác Hai tôi. Do hai nguyên nhân đó, tôi thích đọc sách, thích văn học, mặc dầu học nghề công chánh, đúng như số đoán.
Rồi hoàn cảnh và thời cuộc đưa đẩy tôi vào nghề cầm bút:
- Ở Long Xuyên tôi gặp ông P. Hiếu một người cũng thích văn; ông giúp tôi xuất bản tác phẩm đầu tiên, lại cùng dịch với tôi hai cuốn của Dale Carnegie.
- Tôi viết những cuốn đầu đó đúng lúc nhà xuất bản P. Văn Tươi cho ra loại sách Học làm người. Thực ra ông Tươi không phải là người mở đường. Trong thế chiến, tôi nhớ đâu vào khoảng 1943, nhà Hàn Thuyên ở Hà Nội cho ra vài cuốn về thực nghiệm. Trước hay sau đó, một người soạn một cuốn về tinh thần khoa học được giải thưởng Alexandre de Rhodes; nhóm Tự Lực cũng xuất bản cuốn Mười điều tâm niệm của Hoàng Đạo và dịch ít đoạn trong cuốn Le chemin du bonheur của bác sĩ Victor Pauchet, được thanh niên chú ý.
Lúc đó người ta đã thấy phải cải tạo tinh thần của thanh niên để thích ứng với thời mới; thời từ nông nghiệp chuyển qua kỹ nghệ, và lớp thanh niên được cải tạo đó sẽ là lớp người mở đầu cho giai đoạn phát triển sắp tới. Ý đó "phảng phất trong không khí" từ đầu thế chiến. Ông Tươi cho tôi hay hồi đó ông viết một cuốn rồi xuất bản nhưng bán không chạy; có lẽ vì lẻ loi.
Năm 1949-50 ông tụ tập được một số cây viết cùng chủ trương, như Thiên Giang, Nguyễn Duy Cần, mở nhà xuất bản, mới đầu chuyên ra loại Học làm người, và rất mau chỉ trong một năm, nhà xuất bản ông nổi tiếng, được sự tin cậy của nhiều độc giả. Ông đáng được coi là một nhà xuất bản lớn trong nước hồi đó. Tác phẩm nào của tôi lúc đó gởi ông cũng được ông tiếp nhận liền.
- Một điều may nữa là cũng vào lúc đó năm 1951-52, Việt ngữ được dùng làm chuyển ngữ ở tiểu học rồi trung học, từ nhà giáo đến học sinh đều cần sách Việt; mà số học sinh tăng gấp ba gấp bốn năm 1948, số độc giả cũng tăng theo tuy chậm hơn, nên sách của tôi rất dễ bán.
- Nhưng cuộc cách mạng tháng 8-1945 mới làm thay đổi hẳn cuộc đời tôi. Khi quân đội Pháp đổ bộ lên Sài Gòn, muốn tái chiếm nước mình, tôi đã quyết tâm bỏ nghề công chánh, không trở lại làm việc nữa nếu Pháp vẫn làm chủ nước mình. Một phần vì vậy mà tôi học nghề Đông y, học chưa rành thì phải qua Long Xuyên rồi dạy học chờ thời, vừa dạy học vừa học thêm vừa viết sách. Không có cuộc cách mạng đó, tôi vẫn làm sở Công chánh thì viết chỉ làm tiêu khiển, không thành một nghề được.
Vậy hoàn cảnh đưa tôi vào nghề cầm bút, ở trên tôi mới kể 5-6 việc lớn, còn khá nhiều sự việc nhỏ nữa nhưng quan trọng nhất vẫn là tôi đã chuẩn bị sẵn sàng (mở mang kiến thức, tìm một bút pháp riêng… để nắm liền lấy cơ hội, có khi để chuyển bất lợi thành lợi nữa. Biết bao người cũng ở vào hoàn cảnh đó mà không tiến cùng đường với tôi. Cho nên tôi tin rằng tương lai mỗi người do chính mình tạo nên.
Đầu năm 1953 tôi thấy nghề viết sách giúp tôi sống được, tôi chuẩn bị để chuyển nghề. Vừa đúng lúc này việc dạy học không còn hứng thú nữa vì đa số nam sinh chán nản không muốn học. Tình hình hồi đó khá nguy cho Pháp; từ 1952 họ đã ra lệnh bắt tất cả thanh nhiên Việt từ 18 tuổi phải nhập ngũ, người nào học hết năm thứ tư cao đẳng tiểu học, thi đậu hay rớt cũng phải vào học một khoá quân sự ở Thủ Đức trong sáu hoặc chín tháng rồi ra làm chuẩn uý. Như vậy gắng học để làm gì? Đằng nào thì cũng thành bia đỡ đạn cả. Phụ huynh học sinh lo lắng, không muốn thúc con học, chỉ tìm cách chạy chọt để con được miễn dịch thôi.
Tôi khuyên học sinh đừng chán nản. Không ai biết chắc được tương lai ra sao. Có thể sắp có sự thay đổi. Dù không thay đổi ngay thì có bằng Cao đẳng tiểu học vẫn hơn; nhập ngũ có thể được chuyển qua một ngành chuyên môn, không phải ra mặt trận, rồi khi giải ngũ có bằng cấp đó, muốn tiếp tục học nữa cũng dễ. Tuy khuyên chứ tôi cũng biết rất ít trò chịu nghe.
Lớp học vẫn còn kỷ luật nhưng không khí rất buồn, tinh thần học sinh xuống thấp, đa số đãng trí không nghe lời giảng, làm bài qua loa cho xong. Dạy học mà không có hứng, không thấy kết quả thì thà làm nghề khác còn hơn, để lương tâm khỏi bứt rứt.
Giữa niên học tôi làm đơn gửi lên ông Thơ xin thôi dạy từ cuối niên khoá đó, không ký lại giao kèo nữa. Ông giữ lời đã hứa với tôi, không bác đơn nhưng cứ ngâm đó.
Đơn gửi rồi, tôi chuẩn bị ngay.
Tôi tính kỹ: đã có một số vốn khoảng 200.000đ, bỏ ra một số để sửa sang nhà ở Sài Gòn, một số nữa để làm vốn xuất bản, vẫn còn 70-80 ngàn đồng đủ sống một năm mà khỏi phải làm gì. Ấy là chưa kể số tác quyền nhà P. Văn Tươi sẽ trả.
Tôi lại có sẵn non chục tác phẩm kể cả bản thảo viết trước 1945: Đế Thiên Đế Thích (du ký), Nam Du tạp ức (dịch của Hồ Thích), và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc viết sắp xong.
Tôi lại có gần đủ tài liệu để viết mấy cuốn nữa như Tự học để thành công, Nghề viết văn, Bí quyết thi đậu, Đông Kinh nghĩa thục…
Như vậy là có đủ việc làm, đủ tác phẩm để xuất bản trong vài ba năm, hễ qua được hai năm đầu rồi thì cứ theo đà đó mà tiếp tục ít nhất cũng được năm, mười năm.
Tôi dự định tự xuất bản lấy; công việc không tốn thì giờ bao nhiêu: chỉ được đưa cho nhà in, họ lo việc kiểm duyệt và in cho mình, mình chỉ sửa bản vỗ (morase lần cuối cùng; in xong họ chở lại nhà rồi mình đem giao cho bốn năm nhà phát hành ở Sài Gòn như Nam Cường, nhà Yiễm Yiễm, nhà Á Châu… với vài nhà sách lớn như Khai Trí, thu ngay được một số tiền gần bằng nửa vốn in; các nhà đó khi bán gần hết sẽ lấy thêm. Như vậy mỗi tháng mất độ bốn năm ngày, còn nhiều thì giờ để viết. Mà số lợi trung bình gấp ba - có khi gấp bốn gấp năm nếu sách bán chạy - số tác quyền trong trường hợp bán bản quyền cho người khác.
Tôi tính mỗi năm viết ba cuốn, mỗi cuốn dày độ 200 trang, bán được từ 2.000 đến 3.000 bản thôi mà xuất bản lấy cũng bằng có chín mười cuốn bán cho nhà xuất bản. Không dạy học nữa mà cũng không mua tác phẩm của ai, chỉ viết rồi đưa in, bán ở nhà như vậy tôi có thể viết mỗi năm được số đó và sống ung dung với cây viết. Tính kỹ rồi tôi vững bụng, tin chắc sẽ thành công.
Mùa hè năm đó, ông Thơ thấy tôi không trở lại dạy trường Thoại Ngọc Hầu đành phải cho tôi thôi, nhưng ông vẫn cố níu tôi ở lại "cho vui, bạn bè ở đây có bao người". Ông bảo:
- Nhà văn làm nghề xuất bản thì nhất định thất bại. Anh không nhớ Balzac phải bán nhà in, nợ như chúa chổm rồi viết đêm viết ngày đến khi chết vẫn trả chưa hết nợ đó sao?
Tôi đáp:
- Tôi làm sao dám ví với Balzac. Ông ta là một nghệ sĩ, tôi chẳng có chút máu nghệ sĩ nào trong người cả. Ông ta là một thiên tài và tự cho rằng một thiên tài thì đáng sống cuộc đời lộng lẫy của bọn công hầu, tóm lại là ông ham cái chữ de, Honoré de Balzac, nên mới mắc nợ, phải viết như mọi để trả nợ. Tôi không cần nhiều anh ơi, miễn kiếm được một số tiền bằng lương giáo sư hay kỹ sư là mãn nguyện rồi; mà tôi đã tính kỹ, có thể kiếm được số đó nếu chịu làm việc gấp hai một giáo sư, kỹ sư. Tuy mệt nhưng được tự do, chẳng phải tuỳ thuộc ai, đi đúng giờ về đúng giờ.
Sáng ngày tựu trường năm đó, ngồi bàn viết trông ra ngoài đường, thấy học sinh dắt nhau ríu rít đi ngang tôi cũng buồn buồn, nhớ bạn, nhớ trẻ, nhớ cảnh trường. Mới dạy ba năm mà tôi đã quyến luyến với nghề rồi!
Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng bài 20 bảo: Người quân tử có ba điều vui. Trong ba điều ấy không có điều làm vua thiên hạ, mà có điều: được bọn anh tài trong thiên hạ để dạy dỗ.
Tôi nghiệm thấy ở nước ta, người nào là con cháu nhà Nho chân chính, con cháu giai cấp sĩ phu cũng có vài nét chung dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học, có khiếu dạy học nữa. Tôi được dăm ba ông bạn trong giới ấy mà ông Đông Hồ là một. Ông với tôi thân nhau, quí nhau một phần vì vậy.
Dạy học mà được một số trò thông minh, hiếu học, lại có thì giờ viết sách nữa thì thật là lý tưởng. Hai năm đầu tôi được hưởng cái vui đó mà bây giờ tôi còn giữ được nhiều kỷ niệm đẹp. Đầu năm 1974, trong một buổi tiệc tất niên âm lịch của Hội cựu học sinh Thoại Ngọc Hầu, tổ chức tại sân trường, tôi được gặp lại vài bạn giáo sư cũ và nhiều học trò cũ của tôi, bác sĩ, dược sĩ, hiệu trưởng…; được thấy tình niềm nở thân mật kính mến của họ đối với tôi, tôi càng thấy lời Mạnh Tử là đúng. Giá tôi không viết sách thì chưa chắc năm 1953 tôi đã bỏ trường Thoại Ngọc Hầu vì mặc dầu không khí năm đó kém trước nhưng học trò vẫn còn tình nghĩa với thầy. Làm nghề viết văn tôi may mắn được một số độc giả thanh niên coi tôi như thầy, gọi tôi bằng thầy tuy không học với tôi một giờ nào. Điều đó an ủi tôi rất nhiều. Và chung quy tôi vẫn là một nhà giáo tới ngày nay.
Trong mấy tháng cuối ở Long Xuyên, tôi ráng chép cho xong bộ Đại cương triết học Trung Quốc rồi thu xếp để lên Sài Gòn. Tôi chỉ đem theo bản thảo và một rương sách cần dùng, còn thì để lại cả. Tôi không đi chào ai ngoài bác Ba tôi. Bác tôi có vẻ buồn, nhưng tôi thưa rằng chỉ ít tháng tôi sẽ về thăm. Gặp ai tôi cũng nói lên Sài Gòn tính việc làm ăn, chứ không vĩnh biệt Long Xuyên (…).
Khoảng cuối tháng 11-1953 tôi rời Long Xuyên. Tình hình chiến sự ở Bắc lúc đó bất lợi cho Pháp, ai cũng biết sắp có sự thay đổi (ch. XVIII).
Chú thích:

(1) Chẳng hạn tại sao bính, đinh lại là hào và trong quẻ này là hào cha mẹ, quẻ khác là hào con, hào tài…
(2) Đã xuất bản năm 1995, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. Và ngoài ra cuốn này cũng được xuất bản ở nhiều Nxb khác. (BT)
Phần IV
LÀM LẠI CUỘC ĐỜI – CHUYÊN SỐNG BẰNG CÂY VIẾT
TRỞ VỀ SÀI GÒN – CHUẨN BỊ LẬP NHÀ XUẤT BẢN
Thời đó con đường Long Xuyên – Sài Gòn không được yên. Có vài khúc quẹo cứ dăm bữa nửa tháng quân kháng chiến lại đặt mìn mà Pháp không có cách gì ngăn được, mặc dù cứ vài ba cây số lại có một đồn canh, vì đêm lính không dám ra khỏi đồn. Nhiều khi quân kháng chiến ngang nhiên đi thành hàng băng qua lộ cách đồn vài trăm thước, bắt loa khiêu khích mà lính trong đồn làm thinh, vì hễ nổ một phát súng thì đồn bị san phẳng liền. Như có một sự thoả thuận ngầm với nhau: một bên cứ canh gát ban ngày, vô làng xóm bắt gà bắt vịt, bẻ dừa, mận – vừa vừa thôi thì yên; một bên cứ đào đường, đặt mìn ban đêm. Tới chỗ đường bị đặt mìn, đoàn xe đò phải ngừng lại hai ba giờ đợi quân đội tới gỡ mìn, lấp lại đã. Ở mỗi đầu đường, xe đò, xe du lịch, xe nhà binh dồn lại cả trăm chiếc, thành hai dãy dài cả cây số. Hai ba giờ sau đường mới khai thông lại được. Nếu có một chiếc cầu sắt bị phá thì hôm sau xe mới tới Sài Gòn (…).
Hôm tôi đi may mắn không gặp trở ngại gì ở dọc đường, nên khoảng hai giờ chiều đã tới Sài Gòn.
Nhà ở trong một ngõ sau Hãng Sáo Tân Định, xóm này hầu hết là tiểu tư chức và công nhân. Cháu năm đó đã lớn, đậu bằng Trung học đệ nhất cấp của Pháp rồi. Nhà tôi vẫn dạy học ở số 50 đường Monceau (tên mới là Huỳnh Tịnh Của), do cô bạn chủ trường Aurore sang lại của tên lính thuỷ Pháp đã chiếm của chúng tôi.
Ở trong ngõ đó không thể làm ăn gì được. Tôi bàn với nhà tôi xin cô bạn trả lại cho chúng tôi nhà ở Huỳnh Tịnh Của. Họ tốt bụng, trả, mà không đòi tiền sang nhà (…). Nhà này hẹp chỉ có hai phòng 3,5 x 3,5 thước, phía sau là một khoảng 3,5 x 5 thước vừa là sân, bếp, cầu tiêu, phòng tắm. Chúng tôi giữ nguyên hai phòng trước làm chỗ cho nhà tôi mở lớp kèm trẻ em ban tiểu học trường Pháp, một lớp nữa cho lớp mẫu giáo tiếng Việt. Khoảng 3,5 x 5 thước phía sau tôi dời bếp, cầu tiêu, phòng tắm ra chỗ đất trống sau nhà, rồi bỏ sân, lợp mái fibro-ciment thành một phòng rộng non hai 20 thước vuông vừa làm chỗ ăn, chỗ tiếp khách, chỗ ngủ, chỗ tôi viết lách và con tôi học. Tôi chỉ xuất bản tác phẩm của tôi thôi nên không phải xin phép, không phải đóng môn bài, nhưng tôi cũng đặt tên cho nhà xuất bản. Nhà tôi mở lớp mẫu giáo thì xin phép, nhưng đợi cả năm người ta không cho phép, sau nhà tôi dẹp lớp đó. Cả nhà xuất bản lẫn lớp mẫu giáo đều lấy tên tôi.
Năm đó tôi 42 tuổi tây (43 tuổi ta), lập lại cuộc đời không phải là sớm, nhưng cũng không trễ vì từ 40 đến 50 là tuổi già giặn, đủ kinh nghiệm, sức làm việc còn mạnh. Ngoài 50 tuổi, sức bắt đầu suy nhưng tôi đã thấy nhiều người quá tuổi đó mà vì hoàn cảnh thúc đẩy, phải lập lại cuộc đời và thành công. Quan trọng nhất là nghị lực chứ không phải tuổi tác. Trước khi lao vào con đường mới, ai cũng lo lắng về những trở ngại này nọ, nhưng khi đã cương quyết tiến được bước đầu thì ta thấy sự thay đổi cuộc đời không có gì khó khăn cả. Vì đã tính toán chuẩn bị kỹ như trên tôi đã nói, nên tôi vững tâm, không e ngại chút gì cả.
GẶP CÁC BẠN VĂN: HƯ CHU, THIÊN GIANG, ĐÔNG HỒ, NGUYỄN HỮU NGƯ
Khi ở Long Xuyên tôi đã thư từ với hai nhà văn: Hư Chu và Thiên Giang. Hư Chu tên thật là Nguyễn Kỳ Thuỵ, sinh năm 1923 ở làng Hành Thiện (Nam Định), nổi tiếng về đỗ đạt. Con một cụ cử, sớm thôi học chữ Pháp, về làng học thêm một ít chữ Hán rồi phiêu bạt, làm khá nhiều nghề: buôn bán, nuôi gà, thư ký, thầu rừng, dạy học, chế trà, nghề nào cũng thất bại, năm 1950 có vợ rồi, vào Sài Gòn thử nghề cầm bút, viết truyện feuilleton cho tờ Việt Thanh được ông chủ nhiệm Văn Hoàn có thanh nhãn, biệt đãi, giao cho coi phụ trương Văn chương. Từ đó được tiếp xúc với nhiều văn nhân, danh dần dần lên. Chính lúc ấy (1952 tôi thỉnh thoảng góp ông một bài tạp luận hoặc phê bình văn chương. (Tôi cũng gởi bài cho tập san Giáo dục Việt Nam).
Những truyện ông đăng trên Việt Thanh tình tiết ly kỳ, giọng văn cổ kính, du dương, cho nên được một số người để ý tới ngay như Nhất Linh và một vài anh em chúng tôi ở Long Xuyên. Những truyện ấy sau gom lại thành tập Nam Hải truyền kỳ.
Ông mất hồi 50 tuổi (năm 1973 vì đứt mạch máu. Tôi đã ghi sự nghiệp của ông trong bài Hư Chu đăng trên tạp chí Bách Khoa số 392, tháng 6-1973.
Năm 1953 lên Sài Gòn tôi mới gặp mặt ông. Cảm tưởng đầu tiên là con người ấy giản dị, dễ thương. Ông cởi mở, tự nhiên, thành thực, sẵn sàng giúp bạn mà nụ cười của ông tươi, cặp mắt cận thị của ông hiền. Ngay buổi đầu ông đã tươi cười thú thật với tôi: "Cái vốn chữ Hán của tôi có gì đâu anh; tôi chỉ có một con dao găm, chứ đâu có lưỡi kiếm cây đao nào đâu, múa bậy mà được các anh khen đấy thôi".
Chúng tôi thành đôi bạn thân từ đó, và năm 1954 khi tôi mở nhà xuất bản, ba bốn tháng mới ra một cuốn thì ông giúp tôi: lái chiếc xe máy dầu Peugeot sơn đen đưa tôi lại các nhà in, cùng tôi giao sách, thu tiền, sửa ấn cảo… Có lời, chúng tôi chia nhau để sống. Luôn hai năm, khi tờ Việt Thanh đình bản, ông túng bấn mà vẫn vui. Ông Văn Hoàn thiếu ông bộn, ông đòi mà không được mà cũng không giận. Dễ thương ở chỗ đó.
Từ năm 1955, ông dạy Sử Địa cho vài trường trung học tư ở Sài Gòn, không có thì giờ giúp tôi nữa. Đời sống ông từ đó ung dung hơn.
Ông Thiên Giang (Trần Kim Bảng khác hẳn Hư Chu, không phải là một nghệ sĩ mà là nhà cách mạng. Ông cùng tuổi với tôi, gốc ở Quảng Nam, học hết Cao đẳng tiểu học, theo nhóm Đệ tứ, bị Pháp giam ở Lao Bảo một hai năm, mà sau ông viết một tập hồi ký nhan đề là Lao tù, bán khá chạy. Trong những năm 1947-62 ông hợp tác với vài tờ báo, viết chung với Thê Húc, Tam Ích và tập mỏng hơi có tư tưởng xã hội. Hồi tôi gặp ông thì ông dạy Sử Địa cho vài trung học tư ở Sài Gòn và cùng với vợ là Vân Trang coi một tiệm sách ở đường Đinh Tiên Hoàng, phía Đa Kao. Em gái ông, bà Hợp Phố thỉnh thoảng viết truyện cho trẻ em.
Bà Vân Trang viết truyện ngắn tả giới phụ nữ nông thôn và tiểu thư trong Nam, văn giản dị, có duyên, khá có tiếng. Bà là con út trong một một gia đình nhà Nho tiểu điền chủ ở Cần Thơ (?). Chị cả là vợ nhà văn và chính trị gia Hồ Hữu Tường. Sau bà này tới bà Tân Sinh, chủ tiệm sách đường Đinh Tiên Hoàng. Bà Tân Sinh biết làm thơ, và chồng viết một tiểu thuyết nhan đề Nọc Nạn, tả bằng một giọng cảm động sự nổi dậy của một số nông dân bị bọn điền chủ cướp công khai phá đất ruộng của họ ở Nọc Nạn. Rồi tới bà Mộng Trung người có tài nhất trong bốn chị em, biết đàn ca, viết văn, có nhiều bài đăng trên tờ Bách Khoa, bạn thân của nhạc sĩ Trần Văn Khê, đáng tiếc là chết sớm. Bốn chị em người nào cũng thông minh, có khiếu về văn, thật hiếm thấy một nhà như vậy.
Tôi lên Sài Gòn được ít lâu thì Thiên Giang dắt tôi lại thăm thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phát ở nhà sách Yiễm Yiễm thư trang đường Nguyễn Thái Học. Tôi biết danh ông từ 1929-30 mà mãi năm đó mới được gặp mặt. Tôi đã ghi lại cuộc gặp gỡ đó trong bài "Trên mười năm cầm bút và xuất bản" đăng trên Bách Khoa năm 1967, rồi sau in lại trong tập Mười câu chuyện văn chương (Trí Đăng 3-1975). Dưới đây xin trích một đoạn:
"Cảm tưởng đầu tiên của tôi là phòng khách - hay phòng sách? của chủ nhân tối quá, hẹp quá, ngổn ngang đồ đạc. Nhưng chỉ mộ lát sau tôi thấy phòng đó thân mật. Nó chỉ cách tiệm sách có một bước chân mà sao không khí ở đây khác hẳn: tôi quên hết ồn ào náo nhiệt ở bên kia bức vách, như vào một thế giới khác. Mấy cô coi cửa hàng ngoài kia khi bước vô đây cũng không còn vẻ giúp nhà buôn nữa mà lễ độ, khép nép như những danh gia tử đệ. Ngày nay nhớ lại không khí ấy, tôi cho phần lớn do tính tình và cách tiếp khách của chủ nhân. Nhiều người đã viết, nói về Đông Hồ, nhưng tôi chưa thấy ai nhắc tới điểm này: ông có lúc như trịnh trọng, nhưng thực ra rất tự nhiên, hồn nhiên nữa; dù là một kẻ đàn em vô danh như tôi mới gặp ông lần đầu tiên, cũng thấy rất thư thái, như đã biết nhau từ lâu. (Người thứ nhì cho tôi cảm giác đó là ông Vi Huyền Đắc, ông này thì thật xuề xoà, dễ thương). Và tôi nghĩ đó là cảm giác chung của nhiều người vì tôi thấy ông tiếp nhiều người, già trẻ, thân sơ, ai cũng niềm nở như ai. Có khi ông dí dỏm nữa. Một nhà cổ nhạc có danh lại thăm ông, ông hỏi ngay: "Hôm nay lại dạy bảo điều gì nữa đây?". Lần khác, nhà trai lại rước dâu, đã tới giờ "lành" rồi, nhắc đi nhắc lại hai ba lần mà cô dâu – Yiễm, con gái ông – chùng chình mãi không ra, nhà trai nhắc nữa, ông cười bảo: "Gấp gì? Đào mà!". Tôi suýt bật cười. Đào là đào kép – Mấy hàng này tôi mới thêm vô đây.
"Lần ấy chúng tôi nói chuyện với nhau khá lâu – mà những lần sau cũng vậy, không lần nào dứt ra về sớm được. Tôi còn nhớ ông bảo tôi:
- Ở Long Xuyên có thể viết nhiều được, chứ lên đây, mà nhất là làm việc xuất bản nữa thì bận rộn suốt ngày, không viết được đâu, chỉ vài ba năm sẽ cạn hứng.
Tôi không tin nhưng cũng không cãi. Nếu lúc đó tôi thưa với ông rằng tôi phải viết trong một căn phòng ba thước rưỡi chiều rộng, bốn thước rưỡi chiều dài, vừa làm phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách, phòng học của cháu, một bên là căn bếp khói mù, một bên là lớp học độ hai chục em bé thì chắc ông sẽ khuyên tôi nên mua vé xe về Long Xuyên gấp đi cho rồi!".
Tôi có thói này: trước khi làm một việc gì quan trọng ít nhiều, tôi tính toán kỹ rồi mới quyết định, đã quyết định rồi thì dù ai khuyên gì tôi cũng không đổi ý, vì tôi nghĩ người ngoài không thể nào biết rõ khả năng, hoàn cảnh của tôi bằng tôi. Tôi cho đức tự tin rất cần, không có nó không làm được gì cả.
Một buổi tối, khi còn ở hẻm Hãng Sáo, một người gầy, lưng hơi khòm lại chơi tôi, tự giới thiệu là nhà văn, nhà báo, nhà giáo Nguyễn Hữu Ngư, bút hiệu là Ngu Í; vợ là cô Dung cùng dạy trường Aurore với nhà tôi. Tôi chưa hề biết ông mà cũng chưa đọc bài nào của ông cả, thấy ông rất thân mật. Ông viết giúp tờ Phương Đông của Hồ Hữu Tường. Tờ này đương làm một cuộc phỏng vấn các nhà văn Bắc, Nam, mỗi nhà đăng trên một số báo vào ngày chủ nhật. Lần đó ông lại phỏng vấn tôi và tờ báo đầu tiên nhắc đến tôi là tờ ông cộng tác. Lần lần tôi thân với ông, mến ông, ông thường lại tôi chơi mà tôi thì cả năm chỉ lại ông độ một hai lần.
Tính tình tốt, hay giúp đỡ người; nhờ ông việc gì ông cũng tận tâm, dù giữa trưa cũng gò lưng đạp chiếc xe cũ mà đi liền; nhất là sách báo ông xin được rất nhiều, đem cho tôi đọc tới ngán, mà ông xin của tôi cũng rất nhiều để tặng các bạn khác.
Ông là con một nhà Nho làm ông đồ ở Hàm Tân (Bình Tuy), một hội viên trong Đông Kinh nghĩa thục. Hồi học Pétus Ký (Sài Gòn), có khiếu về văn, được giáo sư Phạm Thiều khuyến khích. Năm 1944-45 giúp việc cho tờ Thanh niên nên quen nhiều người sau làm cách mạng, theo kháng chiến như Lưu Hữu Phước, Huỳnh Tấn Phát…
Có tài về phỏng vấn: bao nhiêu bài phỏng vấn văn nghệ sĩ đăng trên Bách Khoa đều do ông viết cả, vì trong toà soạn không ai quen biết nhiều nhà văn như ông, cũng không ai như ông chịu đạp xe đi khắp Sài Gòn tìm các nhà văn, có người hai ba lần mới gặp để phỏng vấn. Những bài hay nhất đã được gom lại thành một cuốn nhan đề là Sống và Viết với… 1 do ông tự bỏ vốn ra xuất bản năm 1966.
Thỉnh thoảng ông bị khủng hoảng tinh thần, bỏ nhà đi lang thang, nói bậy nói bạ, chửi không chừa ai: Ngô Đình Diệm, các thượng toạ lãnh đạo Phật giáo năm 1963… Mới đầu một hai năm mới lên cơn một lần, sau 6-7 tháng một lần, phải đưa vào Dưỡng trí viện Biên Hoà độ nửa tháng, một tháng để điều trị. Sau ngày Giải phóng, bệnh nặng hơn, ông nằm luôn ở viện, khi gần mất mới đưa về nhà. Ông mất đầu năm 1978. Lại điếu ông xong rồi về tôi bùi ngùi nghĩ bụng: "Xong một kiếp người".
Trong bài Tựa cho tập Quê hương (2) của ông, tôi kể một lần ông lại thăm tôi khi bắt đầu lên cơn:
"Tôi nhớ là một buổi sáng đầu đông (năm 1967). Tôi mới ngồi vào bàn viết thì anh ôm một chồng sách, loạng choạng bước vào, lưng khom khom, đầu đưa ra phía trước. Anh đặt chồng sách lên mặt bàn, kéo ghế ngồi, móc túi lấy ra một gói thuốc rê, xé một mảnh giấy quyến, lặng thinh quấn. Tôi biết rồi, dẹp tất cả công việc lại, sẵn sàng ngồi nghe anh. Trông chiếc sơ mi nhầu nát, cả tuần chưa thay kia, tôi đoán anh mới ở Châu Đốc, Hà Tiên, Tây Ninh, Chợ Giữa hay Hàm Tân về, chưa biết chừng mới được một ty cảnh sát ở đâu đó thả ra hôm trước nữa. Anh vừa hút thuốc luôn miệng - bình thường anh không hút - vừa kể chuyện. Đủ thứ chuyện. Từ những mộng thời thanh xuân tới những mộng hiện thời, từ chuyện nhà đến chuyện nước, từ chuyện văn thơ tới chuyện chính trị, rồi chuyện bạn thân, bạn sơ, bạn trai, bạn gái, chuyện em chuyện cháu, chuyện hồi kháng chiến, chuyện bị an trí trong bưng… Toàn là những chuyện tôi được nghe anh kể nhiều lần rồi, mà lần này nghe lại, tôi vẫn thấy buồn vô hạn. Tôi gần như không xen vô một lời nào cả, mặc anh thao thao để anh trút bớt nỗi bất bình, nỗi căm phẫn của anh đi. Anh căm phẫn xã hội, anh căm phẫn thời đại, anh căm phẫn mọi người. Anh nhiều lý tưởng, nuôi nhiều mộng cao đẹp mà gặp toàn những điều bất như ý, cứ phải cố nén xuống và sức nén càng mạnh thì sức bùng ra cũng càng mạnh. Có lúc anh nghiến răng, nắm chặt tay vung ra như muốn thoi tôi; có lúc anh mếu máo muốn khóc, rồi bỗng chồm lên, chua chát, cay độc mạt sát phũ phàng người bạn già mà anh quý nhất. Lúc đó tôi chán đời biết bao! Có lúc anh cười gằn ghê rợn rồi ngâm thơ, những bài thơ lục bát hay thất ngôn, ngũ ngôn, thường là bốn câu anh làm rất mau (…).
Hôm đó ngồi nghe anh suốt hai giờ, tôi thấy buồn lạ lùng, không phải chỉ buồn cho anh, mà còn buồn cho chính tôi, cho tất cả loài người. Hết thảy chúng ta bề ngoài đều rất nhã nhặn, lễ độ, nhiều khi vui vẻ thỏa mãn nữa, nhưng trong đáy lòng vẫn có những khát vọng cao cả lẫn thấp hèn bị dồn ép hằng mấy chục năm, và có thể một sớm một tối phát ra mà không sao ngăn lại được…".
Tôi gặp vài nhà văn nữa như Lê Văn Siêu, Nguyễn Duy Cần… ở toà soạn tuần báo Mới (mà tôi viết giúp mấy bài cũng của ông Phạm Văn Tươi, tại trên lầu nhà sách của ông. Tôi lại thăm Lê Ngọc Trụ ở thư khố Sài Gòn đường Gia Long; học giả Lê Thọ Xuân ở nhà in Maurice, gần chợ Bến Thành. Hai ông này rất chú trọng đến chánh tả, và nhờ ông Thọ Xuân mà sách báo của nhà P. Văn Tươi ít mắc lỗi chánh tả cũng như sách của Yiễm Yiễm thư trang.
KHÔNG DẠY TƯ – CHỈ XUẤT BẢN SÁCH CỦA TÔI
Ông Lê Thọ Xuân không viết lách gì cả. Vừa quản lý nhà in Maurice, vừa làm giám đốc trường trung học tư Cửu Long, thấy tôi đã dịch mấy cuốn của Dale Carnegie, lại nhà tôi nhờ dạy giúp môn Anh văn. Tôi thú thực dịch Anh văn thì tạm được, chứ nói không được. Ông bảo giáo sư Anh văn ở Sài Gòn thì ai cũng như vậy hết, vừa học vừa dạy. Tôi cương quyết từ chối. Ông có vẻ không vui.
Ông Thiên Giang giới thiệu với ông Phan Ngô hiệu trưởng một hai trường trung học tư có tiếng ở Sài Gòn. Ông Ngô nhờ tôi dạy Việt văn cho trường ông, tôi cũng từ chối. Lớp học thì đông 70, 80 học sinh không có kỷ luật, phải hò hét từ đầu giờ đến cuối giờ; dạy như vậy chỉ để kiếm ăn thì ở Long Xuyên còn hơn, lên đây làm gì.
Trường trung học tư hồi đó phát triển rất mạnh ở Sài Gòn. Trường nào có được vài giáo sư giỏi, nổi tiếng về Việt văn, Pháp văn, nhất là Toán Lý Hóa thì thanh niên đổ xô tới xin học. Nhiều ông hiệu trưởng chỉ vài ba năm làm giàu rất mau, như Phan Ngô, Vương Gia Cần… Vài anh bạn mới quen của tôi trong giới giáo sư đề nghị hùn với tôi mở trường trung học, chia nhau dạy, người nào cũng có danh tiếng ít nhiều lại có lương tâm thì chắc trường mau thịnh. Rất có thể sẽ thịnh đấy, nhưng thịnh bao nhiêu thì lo lắng, mệt óc bấy nhiêu, tôi từ chối.
Một thầy ký giúp việc tôi ở sở Thuỷ lợi thời trước, lúc đó làm thư ký cho một nhà xuất bản sách giáo khoa tiểu học, nhà Việt Hương, đề nghị với tôi mở một nhà xuất bản sách giáo khoa tiểu học và trung học, thầy ấy sẽ giúp vì quen nhiều người ở Bộ Giáo dục, nhiều hiệu trưởng trường. Tôi đáp là chỉ cốt viết và xuất bản ít cuốn đủ sống thì thôi.
Vậy là tôi bỏ qua hai cơ hội làm giàu; sau 1965, khi nửa triệu quân Mỹ ồ ạt đổ bộ lên nước mình, tôi lại bỏ một cơ hội nữa: không cất nhà cho Mỹ mướn như vài người đã khuyên. Số tử vi của tôi (giàu lớn nhờ kinh doanh như làm thầu khoán chẳng hạn đã sai chăng? Mà số tử bình của tôi (tuy có tiền của và danh vọng mà sống thanh đạm, một đời giữ được phong vị một hàn nho đã đúng chăng?
Ngày nay tôi mừng rằng không làm chủ một trường tư, một nhà xuất bản lớn, gia sản chỉ có mỗi ngôi nhà ở đường Kỳ Đồng, chứ nếu tôi làm ăn lớn, có dăm sáu biệt thự, dăm ba kho sách lớn thì sau ngày giải phóng tất không được sống yên ổn mà sản nghiệp cũng tiêu tan gần hết.
Vợ chồng tôi, người dạy học, người viết sách xuất bản, đều theo công thức "tiểu công nghệ", tự sức mình làm hết, không mướn ai, nên không mang tiếng là tư sản bốc lột. Tôi đã theo đúng lời khuyên của ông nội tôi, luôn luôn nhớ rằng chữ tiền gồm một chữ kim mà hai chữ qua (một thứ binh khí), lợi bất cập hại. Tôi biết tri túc. Tôi cũng theo lời bác Hai của tôi nữa: đời sống vật chất nên dưới mực trung, mà đời sống tinh thần nên trên mực trung. Tôi còn nghĩ rằng đồng tiền do mồ hôi nước mắt làm ra thì mới bền; nếu nó vô rất dễ dàng thì cũng sẽ ra rất dễ dàng, chỉ đáng coi như của phù vân thôi. Các bạn tôi cho rằng tôi có tân học mà sống như một nhà Nho. Tôi chịu ảnh hưởng của đạo Nho về điểm đó, và mừng đã được sinh vào một gia đình Nho học.
Sau cùng tôi đi thăm vài nhà xuất bản, hỏi cách thức làm ăn: cho họ hay tôi dự định tự xuất bản lấy sách của tôi chứ không mua tác phẩm của ai, không cạnh tranh với ai cả. Riêng ông Phạm Văn Tươi, tôi xin lấy lại bản quyến tất cả các tác phẩm của tôi (khoảng 10 cuốn), khi mãn giao kèo. Tôi nói thẳng với ông rằng tôi muốn sống bằng cây viết thì tôi sẽ bỏ vốn ra nhờ in. Ông có vẻ buồn, nhưng hiểu tôi, hứa sẽ phát hành sách của tôi như sách của ông. Từ đó tới khi ông dẹp nhà xuất bản, trở về nghề thợ may Âu phục, ông đối với tôi rất sòng phẳng, nhã nhặn.
Một ông bạn bảo tôi:
- Một mình anh rút ra khỏi nhà xuất bản P. Văn Tươi mà làm cho nhà này rung rinh.
Tôi đáp:
- Anh nói quá. Tôi đâu muốn làm nhà xuất bản; phải có kho chứa sách, phải giao thiệp, phải đòi tiền, tính tiền… toàn là những công việc mà nhà văn chúng mình không ai thích cả. Giá có một nhà xuất bản nào thấy cuốn nào của tôi bán chạy mà tự ý tăng tác quyền cho tôi, và mỗi năm ráng in cho tôi một cuốn giá trị mà hơi khó bán, miễn đừng lỗ chứ không cần lời, như vậy tôi có thể đủ sống lại viết theo sở thích của mình được thì tôi còn cầu gì hơn nữa, tự xuất bản làm gì cho thêm mệt. Ở bên Pháp đã có trường hợp như vậy: nhà xuất bản Michel Léguy chịu bao tất cả những tác phẩm của Renan sẽ viết và tự ý tăng tác quyền cho Renan nữa, nên Renan ung dung viết lách. Tình hình xuất bản nước mình chưa sáng sủa, chưa có nhà nào theo chính sách đó được, nên tôi phải xuất bản lấy.
Tôi đã giữ đúng chủ trương của tôi: trong mấy năm đầu có 5-6 người đem tác phẩm lại bán cho tôi, tôi đều từ chối. Họ hầu hết mới cầm viết, chỉ có một người là học giả khá nổi tiếng. Còn các bạn văn như Hư Chu, Bàng Bá Lân, Đông Xuyên… thì tôi đề nghị các bạn ấy bỏ vốn ra in, mượn tên nhà xuất bản của tôi, tôi sẽ bán giùm như sách của tôi, được bao nhiêu tôi sẽ trả họ hết. (Coi thêm bài Trên 10 năm cầm bút và xuất bản trong cuốn Mười câu chuyện văn chương).
Trong công việc làm ăn tôi không tranh với ai nên không ai tranh với tôi. Chẳng những vậy, tôi còn giúp một số nhà văn: gợi đề tài, đưa tài liệu cho họ viết, hoặc đề Tựa cho họ, hoặc giới thiệu họ với một nhà xuất bản.
Năm 1960, tác phẩm của tôi đã khá nhiều (trên 50 cuốn), tôi xuất bản không hết vì mỗi năm tôi chỉ in 3-4 cuốn (cả mới lẫn cũ để có đủ tiền chợ thôi; tôi phải nhường lại cho các nhà xuất bản khác; và có hồi trên thị trường có 4-5 chục cuốn của tôi do một chục nhà xuất bản. Trong một chương sau tôi sẽ nói rõ hơn về điểm ấy.
TÁC PHẨM VIẾT NĂM 1953, 1954
Khi lên Sài Gòn, tôi đã định năm đầu xuất bản vài cuốn bán chạy rồi sau mới cho ra cuốn Đại cương văn học sử Trung Quốc mà tôi thích. Tôi đã có đủ tài liệu để viết cuốn Tự học để thành công, và hồi ở sau Hãng Sáo, tôi viết ngay cuốn đó, đem chút ít kinh nghiệm của tôi giúp những bạn trẻ ít học mà muốn mở mang kiến thức, và những bạn mới ra trường muốn bổ túc sự học ở trường. Trong bài Tựa tôi viết:
"Hồi mới làm sở Thuỷ lợi, đi đo đất ở miền Tây Nam Việt, có nhiều thì giờ rảnh, không biết làm gì cho hết người, tôi đành phải đọc sách… Gặp sách gì tôi cũng đọc, đọc hỗn độn, vô phương pháp, vô mục đích (…). Thành thử trong hai năm, đọc hàng trăm cuốn mà thực sự có ích lợi chỉ có mỗi một bộ Nho giáo của Trần Trọng Kim mà một người mưa dầm, vào trú chân trong một quán tạp hoá ở Bạc Liêu, tôi tình cờ kiếm được trong một tủ kính ở góc tiệm, bên cạnh những hộp nhang và đèn cầy.
Bây giờ nghĩ lại mà tiếc! Thì giờ nhiều mà không biết dùng, chịu đọc sách mà không biết cách đọc… Giá hồi đó, tôi biết phương hướng, tự vạch sẵn một con đường để đi tới đích, thì đã chẳng tốn thì giờ mà còn ích lợi gấp mấy. Làm sao trẻ lại được hai chục năm nhỉ?"
Tôi muốn cuốn Tự học bổ túc cuốn Kim chỉ nam của học sinh, cả hai đều chỉ cách tổ chức việc học cả, một cuốn dùng khi học, một cuốn dùng khi ra đời. Vì vậy tôi bàn về những vấn đề rất thực tế: Có những cách nào tự học? - Nên đọc sách cách nào? - Nên học ngoại ngữ ra sao? - Nên viết sách và dịch sách vì như vậy là một cách tự học. - Nên dùng thẻ ra sao? v.v… Có tính cách thực tiễn như vậy nên cuốn Tự học được tái bản nhiều lần; sau tôi sửa chữa, đổi nhan đề là Tự học, một nhu cầu của thời đại.
Vì là cuốn đầu tiên tôi tự xuất bản, nên đầu sách tôi có mấy hàng "phi lộ":
"Bốn năm trước, trong bài Tựa cuốn Đắc nhân tâm, chúng tôi đã tự vạch một chương trình hoạt động: viết những sách để giúp các bạn thanh niên bổ túc nền giáo dục ở nhà trường, vì chúng tôi nghĩ học đường chỉ dạy ta cách học và khi ở trường ra ta mới bắt đầu học, học cho tới suốt đời, học để hành, hành để học.
Nay lập nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi có mục đích tiếp tục thực hiện chương trình đó một cách có hiệu quả hơn. Những sách chúng tôi dự định xuất bản thuộc nhiều loại, nhưng hết thảy đều có tính cách chung này là không cách biệt với đời sống mà trái lại, rút bài học ngay trong đời sống để thanh niên hiểu thêm đời, hầu sống một cách đầy đủ hơn.
Vậy chúng tôi chú trọng đến thực hành hơn là lý thuyết. Chúng tôi lại để ý đến chính tả, giữ câu văn cho được sáng sủa và có tính cách Việt Nam".
Cuốn đó dày 200 trang, tôi viết bốn tháng mới xong, vì một tháng đau, phải nghỉ viết. Và tôi đưa cho nhà in Việt Hương ở đường Lê Lợi hồi đó là Bonard sắp chữ liền.
Sau cuốn đó tôi viết cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Như trên tôi đã nói, cuốn này tôi đã viết xong từ 1944, chưa kịp đăng báo thì phải tản cư về Tân Thạnh và một đêm cướp vào nhà ôm cái va ly của tôi đi trong đó có bản thảo Đồng Tháp. Tôi rất tiếc, định sẽ viết lại.
Đầu năm 1954, tôi lại sở Thuỷ lợi gặp các bạn cũ và họ cho tôi tra cứu trong các tài liệu của sở về Đồng Tháp, dùng các bản đồ của sở. Tôi lại thư khố Nam Kỳ đường Gia Long, nhờ ông Lê Ngọc Trụ tìm cho những tài liệu sử địa về Đồng Tháp, nhất là các số Courrier de Saigon năm 1865-66 về cuộc chống Pháp của Thiên Hộ Dương. Tất cả các tài liệu đó đều ghi trong mục Sách báo để tham khảo ở cuối sách.
Đọc lại những tài liệu của sở Thuỷ lợi, tôi nhớ lại rành mạch những lần tôi đo đất và kinh lý trong Đồng Tháp, cho nên viết lại lần này tôi thấy dễ dàng và thích như lần trước. Những đoạn có tính cách nên thơ mà năm 1944 tôi đã say sưa viết, bây giờ dần dần hiện lại trong óc, tôi chỉ việc chép lại, chắc chắn là không đúng hẳn nhưng cũng không khác mấy. Chẳng hạn đoạn Tiếng nói sông Cửu Long mà sau vài sách Việt văn cho trung học đã trích; đoạn tả các ghe đậu lại chỗ giáp nước Thủ Thừa; tả chỗ kinh Lạc Giăng (Largange và kinh Cát Bích (4 bis gặp nhau ở Gẫy mà nhà văn Bình Nguyên Lộc bảo "không đi tới chỗ thì không sao tả được như vậy"; rồi cảnh tìm vàng chung quanh Tháp Mười, cảnh đầm sen ở giữa đồng mà thi sĩ Quách Tấn thích; cảnh uống rượu dưới trăng trên giồng Lâm Vồ; đời sống một em giữ trâu khiến tôi nhớ truyện Các vì sao (Les Étoiles của A. Daudet; cảnh sông Cửu Long, cảnh Chợ Thủ; cảnh trăng và nước ở Cao Lãnh (Hàng Châu của Nam Việt gợi cho tôi nhớ bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, thi sĩ đời Đường; và truyện Ghen vì hò mà một cô em đọc xong rồi buồn rười rượi trách tôi: "Anh thật tàn nhẫn, truyện thương tâm như vậy mà anh kết một cách thản nhiên, chỉ tả công dụng của cái phảng, không một lời than thở cho người vợ và trách người chồng". Tôi đáp: "Người viết chỉ cốt gợi lòng thương tâm của người đọc chứ không kể lòng thương tâm của chính mình. Tôi đã đạt được mục đích rồi đấy và đã không nói thay cô, để cô suy nghĩ, như vậy mới có dư âm trong lòng cô!".
Đồng tháp chỉ dày hơn 100 trang, vừa là du ký, vừa là biên khảo, tôi viết hai tháng xong, gởi vào trong đó cả tấm lòng yêu cảnh, yêu người Nam của tôi. Viết lại xong, tôi khoan khoái như làm xong một bổn phận với quê hương thứ hai của tôi. Tôi cũng thích bài Tựa mà tôi mở một các đột ngột.
"Người xưa nói: "Phải có duyên mới viết được một cuốn sách". Tôi muốn nói thêm: "Cũng phải có duyên mới xuất bản được một cuốn sách".
Tôi đã có duyên được bổ vào làm ở Nam, ngay trong Đồng Tháp; lại có duyên được một anh bạn cũ – anh Vũ Đình Hoè – gợi ý cho tôi viết, nhờ vậy mới viết được cuốn Đồng Tháp nhưng rồi vô duyên nên đã không gởi ra Bắc đăng vào tờ Thanh Nghị được, lại vô duyên bị cướp lấy mất bản thảo, nên không xuất bản được.
Nhưng may rủi là cái duyên, cái số phận; có may rủi, có số phận mà cũng có ý chí con người. Tôi đã quyết định viết lại cuốn đó và tôi đã viết lại được. Một ký giả mà tôi quên tên, khi nhã nhặn giới thiệu cuốn ấy với độc giả đã khen nghị lực ấy của tôi.
Sở dĩ tôi có nghị lực vì như trong bài Tựa tôi nói:
"Viết cuốn này, tôi có ý tặng các bạn Bắc và Trung để các bạn ấy biết thêm một miền trên đất Việt, nhưng cũng là để tặng các đồng bào miền Nam của tôi nữa.
Non 20 năm sống trên đất Đồng Nai này, tới đâu tôi cũng được tiếp đón một cách chân thành và thân mật. Một đêm ở trên kinh Phong Mỹ, trong Đồng Tháp, vào đụt mưa trước cửa một căn nhà lá. Lúc đó đã quá hai giờ khuya. Một bà già trong nhà đằng hắn hỏi tôi. Tôi đáp. Tức thì có tiếng lục đục, rồi tiếng quẹt; một tia sáng lọt qua tấm vách lá và một bà cụ mở cửa, mời tôi vào. Căn nhà nhỏ quá, chừng sáu thước vuông, kê mỗi một bộ ván gỗ tạp. Một cô độ mười bảy, mười tám, xếp vội mùng, mền, chào tôi rồi đứng nép một bên. Tôi ân hận làm mất giấc ngủ của chủ nhân, xin lỗi cụ rồi ra đứng trước cửa, nhưng bà cụ không chịu, nhất định bắt tôi vào ngồi nghỉ trong nhà vì "ngoài đó gió lạnh lắm".
Hai bà cháu thức trên một giờ, tiếp chuyện tôi cho tới khi mưa ngớt. Đưa tôi ra cửa bà cụ nói: "Tội nghiệp thầy Hai, đường trơn, coi chừng té đấy". (…).
Tôi nhớ hoài một bà cụ khác rất nghiêm khắc mà rất nhân từ, đã giúp tôi trong lúc tản cư được yên ổn học hỏi và viết sách. Cụ rất ít nói nhưng có những cử chỉ cảm động vô cùng. Một hôm gần Tết, cụ bảo tôi: "Tôi biết thầy có học Nho, không quên tổ tiên, nên bảo trẻ mua đồ cúng, thầy dọn bàn này đi mà cúng ông bà". Tôi muốn rưng rưng nước mắt. Hương hồn cụ lúc nầy chắc tiêu diêu ở cõi Phật. Một thi nhân vịnh Nam Việt có câu: "Tối khả hoài nhân duy lão mỗ". Lời ấy thật đúng! Không ai quên được tấm lòng rộng rãi, thương người của các bà già miền Nam".
Viết xong tôi đưa cho nhà Ban Mai ở gần chợ Tân Định in liền. Bán khá chạy. Năm 1971 tôi sửa chữa lại, nhường bản quyền cho nhà Trí Đăng xuất bản.
Một thanh niên ở Nha Trang đọc cuốn đó rồi nảy ra ý dùng xe đạp đi thăm cao nguyên miền Trung và viết bài đăng trên báo Tự do ngày 15-9-61. Tôi trích dưới đây một đoạn: "Du ký viết về xứ người thì nước mình không hiếm. Nhưng viết về chính lòng đất thân yêu thì vỏn vẹn chỉ có một cuốn: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê. Mà theo tôi thấy, không có cuốn địa lý nào có thể hấp dẫn thanh niên và gây tác dụng mạnh bằng những thiên du ký (… Vì nó dễ kích thích tinh thần yêu nước của thanh niên hơn những bài địa lý khô khan ở nhà trường (…)".
Đa số các bạn văn của tôi cho cuốn đó tuy mỏng nhưng là một tác phẩm có giá trị, văn tươi mà hấp dẫn, có chỗ nên thơ, gợi tình yêu quê hương đất nước trong lòng người đọc. Ông Đào Duy Anh ở Hà Nội rất thích cuốn đó, bạn văn nào tới chơi ông cũng đem ra giới thiệu và cho mượn đọc. Có thể nói nó mở đầu cho loại địa phương chí xuất hiện khá nhiều trong khoảng 1960-1970.
Năm 1954 tôi còn viết một cuốn mỏng: Săn sóc sự học con em, độ hơn trăm trang, một tháng rưỡi xong, để bổ túc cuốn Thế hệ ngày mai. Một nhà chuyên bán sách ở đường Gia Long xin tôi cho ông xuất bản cuốn đó, chịu trả tác quyền cao: 20% giá bán. Cuốn này có ít cho những phụ huynh có con ở tiểu học, sau được tái bản vài lần. Nó đặc biệt ở điểm nhà sách đó – nhà Văn Chánh – cho in ở Paris ba hay năm ngàn bản tôi không nhớ, chữ đẹp, giấy tốt, và giữ đúng lối viết quốc ngữ của tôi hồi đó: ph in là f, bỏ dấu sắc trong những vần at, ac, oc, ec… như phát, phúc in là fat, fuc. Nha Thông tin định cấm bán, không cho lưu hành, sau nhà Văn Chánh thu xếp cũng êm. Những người chơi sách chắc quý bản in đó vì ngày nay kiếm không ra nữa. Tủ sách của tôi còn vài bản.
Tôi không hiểu nhà Văn Chánh in tốn kém như vậy (gửi qua Pháp in rồi từ Pháp lại gửi về), trả tác quyền cao như vậy làm sao có lời được. Lạ nhất là sách không bày bán ở nhiều nơi, không làm quảng cáo gì cả. Có người cho tôi hay ông ta mua sách ở bên Pháp không cốt bán – sách ở tiệm ông ít người mua, nhiều cuốn rất cũ – mà cốt để chuyển ngân. Không rõ điều đó đúng không. Ít năm sau nhà đó đóng cửa và tôi không gặp ông ta nữa.
Năm đó tôi còn thêm hai sự may mắn.
Một hôm vào tiệm Khai Trí tôi thấy cuốn Méthode de recherche rationnelle des problèmes de Géométrie plane của J. Chauvel, một giáo sư Pháp. Coi kỹ cuốn ấy tôi thấy phương pháp dạy toán của tác giả rất hợp với phương pháp tôi dùng khi dạy tư ở Long Xuyên: dùng cách phân tích khi chứng minh một định lý và cuối năm dùng cách tổng hợp để ôn lại chương trình. Ông Chauvel đã làm trước công việc tôi định làm, lại làm một cách đầy đủ, rất kỹ lưỡng: bài tập sắp làm hai loại dễ và khó, bài nào khó thì có vài lời hướng dẫn, một học sinh trung bình nếu chịu khó học cuốn đó sáu tháng sẽ giỏi toán Hình học phẳng. Tôi vui vẻ như gặp một tri kỷ, vội vàng xin phép tác giả dịch. Và tôi dịch liền, nhan đề là Muốn giỏi toán Hình học phẳng. Sách bán rất chạy: in 5.000 bản, rồi mười ngàn bản, trước sau sáu lần trong 15 năm. Học sinh rất thích. Tôi cho hai đứa cháu trong nhà, cuối năm đệ ngũ và đệ tứ (thi Trung học đệ nhất cấp đọc kỹ bài giảng rồi làm hết 450 bài toán trong sách, chúng làm được dễ dàng và từ đó vượt hẳn các bạn về môn hình học.
Mấy năm sau tôi dịch tiếp bộ của Chauvel về môn Hình học không gian; và tự soạn cuốn Muốn giỏi toán Đại số cũng giúp học sinh ôn lại chương trình đại số ở trung học đệ nhất cấp và hướng dẫn họ làm toán đại số. Hai cuốn đó bán cũng khá chạy, hiện nay còn có người tìm mua. Đó là điều may mắn thứ nhất.
Điều may mắn thứ nhì là có cơ hội tốt để tôi thực hiện một điểm trong chương trình mở mang kiến thức của thanh niên. Từ mấy năm trước tôi đã mua được mấy bộ Histoire universelle của Wells, Histoire de l’humanité của H. Van Loon… đọc rất hấp dẫn, tôi tính sẽ dịch hoặc tóm tắt. Đầu niên khóa 1954-55 trong chương trình Trung học đệ nhất cấp có thêm môn Lịch sử thế giới dạy trong 4 năm. Ông Thiên Giang lúc đó dạy sử các lớp đệ lục, đệ ngũ. Tôi bàn với ông soạn chung bộ sử thế giới càng sớm càng tốt cho học sinh có sách học, khỏi phải chép "cua" (cours). Ông đồng ý. Chúng tôi phân công: tôi viết cuốn đầu và cuốn cuối cho lớp đệ thất và đệ tứ; ông viết hai cuốn giữa cho lớp đệ lục và đệ ngũ. Chúng tôi bỏ hết công việc khác, viết trong 6 tháng xong; tôi bỏ vốn ra in; năm 1955 in xong trước kỳ tựu trường tháng chín. Bộ đó khá chạy, sau tôi nhường cho nhà Khai Trí tái bản.
Một chuyện đáng ghi là vì bộ đó mà năm 1956 bị một độc giả ở Cần Thơ mạt sát là đầu óc đầy "rác rưởi" chỉ vì chúng tôi nhắc qua đến thuyết Darwin về nguồn gốc loài người. Chẳng cần nói ai cũng biết độc giả đó là một tín đồ Công giáo (3).
Sau một linh mục ở Trung yêu cầu bộ Giáo dục cấm bán và tịch thu hết bộ sách vì trong cuốn II viết về thời Trung cổ, chúng tôi có nói đến sự bê bối của một vài Giáo hoàng. Bộ phái một viên bí thư có bằng cấp cử nhân tiếp xúc với tôi. Ông này nhã nhặn, khen tôi viết sử có nhiệt tâm, cho nên đọc hấp dẫn như bộ sử Pháp của Michelet; rồi nhận rằng sách tôi được bộ Thông tin cho phép in, lại nạp bản rồi, thì không có lý gì tịch thu, cấm bán được, chỉ có thể ra thông cáo cho các trường đừng dùng thôi; cho nên ông ta chỉ yêu cầu tôi bôi đen vài hàng trên hai bản để ông ta đem về nộp bộ, bộ sẽ trả lời linh mục nào đó, còn bán thì tôi cứ bán, không ngại gì cả. Tôi chiều lòng ông ta. Ông ta lại hỏi lớp mẫu giáo của tôi đã được phép của bộ chưa. Tôi đáp: Đơn nộp cả năm rồi, giấy tờ đủ cả, tôi đã nhắc Nha Tư thục và Bình dân giáo dục mà người ta cứ làm thinh, không cho phép mà cũng không cấm. Ông ta chỉ gật đầu.
Hồi đó bộ Lịch sử thế giới của tôi chỉ còn một số ít. Tôi hỏi các nhà phát hành, được biết có lệnh cấm các trường ngoài Trung dùng nó, trong Nam thì không. Chỉ ít tháng sau bộ bán hết, tôi không tái bản. Công giáo thời đó lên chân như vậy. Nghe nói một ông tỉnh trưởng ở miền Tây không dám cho hội Phật giáo cất chùa trong thị xã và bảo: "Công giáo cất nhà thờ, bây giờ Phật giáo cũng xin cất chùa, bộ các người muốn kình với Công giáo hả?"
Một hôm bà láng giềng của tôi cho hay: "Ít lâu nay tôi thấy ngày nào cũng có một hai người ngồi ở quán cà phê bên kia đường nhìn về phía nhà thầy và nhà tôi, như rình cái gì. Hôm qua một người vào nhà và hỏi tôi: "Ông Lê ở nhà bên lúc này đi đâu mà không thấy?" Tôi đáp: "Ông ấy đau, nằm ở trong phòng, chứ đi đâu? Thầy cứ vô mà hỏi". Rồi họ đi.
"Vậy là mật vụ rình tôi mà tôi không biết. Vì tôi là công chức thời Pháp mà tản cư lâu quá, về lại không hợp tác với chính phủ Diệm, hay vì bộ Lịch sử thế giới mà họ theo dõi như vậy? Có lẽ vì cả hai.
Hơn một chục năm sau, một giáo sư ở Huế vô thăm tôi, hỏi: "Tại sao hồi đó ông không làm đơn trình bày rằng ông đã dùng sách nào để viết về các Giáo Hoàng thời trung cổ đó rồi xin cho bộ sử của ông được dùng trong các trường?". Tôi đáp: "Tôi không khi nào làm việc xin xỏ đó".
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, giáo sư đó lại thăm tôi nữa, bảo: "Tôi phục tư cách ông từ hồi đó".
Vậy từ khi lên Sài Gòn, tôi bận nhiều việc mà viết lại nhiều hơn ở Long Xuyên mặc dầu chỗ viết chật hẹp, ồn ào, tối tăm. Chỉ trong hơn một năm tôi có thêm tám cuốn (bộ Lịch sử thế giới viết chung, gồm 4 cuốn), cộng với những bản thảo ở Long Xuyên đem lên, như vậy đủ để xuất bản trong 3-4 năm rồi. Sau ba bốn năm đó tôi lấy lại tác quyền cả chục cuốn P. Văn Tươi xuất bản, hầu hết đều tái bản được, không còn sợ thiếu tác phẩm để in nữa. Thế của tôi đã vững.
Tôi có tính gặp cơ hội là nắm liền, thấy việc đáng làm, phải làm thì làm ngay và làm cho xong, nhờ vậy tôi thành công, nhưng cũng vì vậy mà sức tôi suy nhiều. (ch. XX).
Cuối năm 1953, bệnh loét cuốn bao tử (duodénum của tôi vẫn còn, lại thêm bệnh lao, khạc ra máu. Tôi cương quyết trị hai bệnh đó một lúc, mà bệnh lao gấp nhất. Thời đó bác sĩ Nguyễn Văn Tạo có tiếng nhất ở Sài Gòn về bệnh lao, ông chích cho tôi Streptomycine, cho tôi uống Rimifon rồi sau chích P.A.S. Thử đàm, thử máu không có vi trùng lao, nên tôi không lo gì cả, chỉ nghe lời bác sĩ hoàn toàn nghỉ một tháng, sau lại làm việc như thường. Từ đó đến nay, tôi khạc ra máu hai lần nữa, chỉ uống thuốc bắc hoặc thuốc nam để cầm máu, và uống thuốc bổ, nghỉ ngơi mươi bữa, không cần đi bác sĩ nữa.
Bệnh loét bao tử khó trị hơn nhiều. Tôi uống trước sau 6-7 thứ thuốc, kiêng cơm tẻ, ăn cơm nếp trên chục năm, kiêng đồ cay, chua, rau sống, và bớt dần. Gần đây tôi chỉ uống Gélusil và Tagamet, hai năm không bị một cơn nào nữa. Cần nhất là kiêng ăn, đừng làm việc quá sức. Vì vậy mà tôi không dự các đám tiệc, không thức quá 10 giờ khuya.


NHÀ XUẤT BẢN BẮT ĐẦU HOẠT ĐỘNG
Tháng 8-1954 cuốn Tự học của tôi in xong thì hiệp định Genève đã ký kết từ ngày 20-7. Việt Nam bị cắt hai: Từ Bến Hải (vĩ tuyến 17 trở ra, thuộc chính phủ Cộng hoà Dân chủ Việt Nam; từ đó trở vào thuộc chí phủ Cộng hoà Việt Nam. Sau hai năm phải có cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc để thống nhất quốc gia.
Ở Nam hiệp định Genève không gây xúc động gì lớn, nhưng ở các thánh phố ngoài Bắc thì đôi người tỏ ra e ngại.
Hư Chu và tôi đem Tự học đi "chào" các nhà phát hành ở Sài Gòn. Theo thường lệ, loại Học làm người như cuốn đó, mỗi nhà mua tiền mặt ngay cho được 100 cuốn, hoa hồng là 40% giá đề trên bìa sách. Giá in mỗi cuốn khoảng 20%. Nếu in bao nhiêu bán hết bấy nhiêu thì chúng tôi lời tới 40%, bằng 4 lần tác quyền (10%). Khéo tính thì không khi nào lỗ tiền in, và trung bình mỗi cuốn lời 30% giá để ngoài bìa.
Tôi lấy thí dụ cuốn Tự học, in 3.000 bản, đề giá 46đ. Bán hết trong một năm hay năm rưỡi, lời được:
- (46đ x 3.000 x 30 / 100 = 41.400đ,
tính chẵn là 40.000đ, bằng 8 tháng lương giáo sư của tôi ở Thoại Ngọc Hầu, mà soạn cuốn đó tôi mất 3-4 tháng, vậy số lợi của tôi gấp hai lương giáo sư. Nếu cuốn đó tái bản một lần thôi – sự thực nó tái bản 2 lần – thì chẳng tốn công gì thêm mà số lợi gấp 4 lương giáo sư.
Người nào chuyên nghề viết văn ở nước mình thời đó mà có một số vốn, tự xuất bản lấy thì sẽ sống ung dung, miễn là mỗi năm phải viết đều đều hai tác phẩm bán được.
Tự xuất bản lấy có lợi như vậy. Về sau có nhiều nhà văn làm như tôi nhưng hầu hết không chuyên nghiệp mà chỉ viết tài tử được một hai cuốn nên không thành công.
Năm 1953 sách của tôi bán chạy ở Bắc, một người có một sạp nhỏ ở bờ hồ Hoàn Kiếm cho tôi hay nhờ chuyên bán đủ mặt sách của tôi mà dần dần khá lên. Vì vậy sau khi đi chào các nhà phát hành ở Sài Gòn, tôi viết thư và gởi một cuốn cho một nhà phát hành ở Hà Nội. Ông ta trả lời rằng ngoài đó ai cũng lo bán đổ bán tháo hàng hoá, sản nghiệp để vào Nam, không còn làm ăn gì cả, nhưng ông ta cũng mua giùm cho tôi 100 cuốn và bảo gửi ra ngay. Vậy nhà xuất bản của tôi ra đời không gặp thời: thị trường đã thu hẹp ít nhất là một phần ba.
Ít tháng sau tôi phát hành luôn cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười. Tôi biết cuốn này bán không chạy bằng cuốn trên, cho nên chỉ in 2.500 bản, giá 29đ. Mới phát hành độ 1 tuần thì nhà Nam Cường đã bán hết 100 cuốn, bảo tôi giao thêm vì "sách bán chạy như tôm tươi". Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao độc giả hoan nghênh như vậy. Sau hỏi ra mới biết chỉ nhờ nhan đề. Lúc đó các anh em kháng chiến ở Nam đương tập kết tại hai điểm: Cà Mau và Cao Lãnh thuộc Đồng Tháp để chờ tàu Ba Lan và Pháp chở ra Bắc. Đọc nhan đề sách, nhiều độc giả tưởng lầm rằng tôi vào Đồng Tháp làm một cuộc phỏng vấn về cuộc tập kết đó; về nhà họ đọc họ mới thất vọng. Thành thử chỉ trong tháng đầu bán được ngàn cuốn, đủ vốn in; còn 1.500 cuốn bán lai rai hai năm sau mới hết.
Ai cũng biết nhan đề sách ảnh hưởng tới sự bán sách. Có người bảo tôi cuốn How to win friends của D. Carnegie mà tôi không khéo dịch ra là Đắc nhân tâm, cứ dịch sát là "Làm sao kiếm được nhiều bạn" thì không chắc bản dịch của tôi bán chạy đâu. Tôi cũng nhận như vậy: nhan đề cần gọn và đập mạnh vào tâm lý độc giả, nhưng nó phải hợp với nội dung nếu không thì là gạt độc giả và độc giả chỉ bị gạt một lần thôi; quan trọng nhất vẫn là nội dung. "Chiếc áo không làm nổi thấy tu" thì bìa sách cũng không làm nổi một cuốn có giá trị.
Nửa năm hay một năm sau, khi 140.000 Việt Minh (theo W. G. Burchett đã tập kết ra Bắc rồi và 860.000 đồng bào Bắc di cư vào Nam đã được định cư rồi thì đời sống ở Nam trở lại bình thường, có phần đắt đỏ hơn, nhưng ổn định: giao thông đã dễ dàng mà buôn bán đã bắt đầu thịnh. (ch. XX).
Sách của tôi bán được đều đều, cả những thời khó khăn cũng không khi nào phải bán xon. Cuốn nào mới ra cũng chỉ trong một tháng là thu lại được nửa vốn in, còn lại thì bán 2-3 năm, có cuốn 5-6 năm cũng hết. Nhà tôi dạy học, được phụ huynh tín nhiệm, nên lớp dạy kèm (đã bỏ lớp mẫu giáo rồi mỗi ngày mỗi đông. Nhờ vậy năm 1957 chúng tôi có tiền cho cháu Nguyễn Nhật Đức qua Pháp học để dự bị vào trường Hautes Études commerciales de Paris, rồi năm 1960, mua được ngôi nhà đường Kỳ Đồng số 12/3C, sửa sang lại thành một lớp học và một kho nhỏ chứa được độ 10-12 ngàn cuốn sách, tôi tính hạn chế ở số đó thôi (nhiều nhà xuất bản có 3-4 kho lớn chứa cả triệu cuốn), không phát triển thêm, để thì giờ viết sách. Tôi theo đạo tri túc của cổ nhân. Năm 1956, bà cụ thân sinh cô Nguyễn Thị Liệp quy tiên được 9 năm, tôi lập lại lời cầu thân từ hai chục năm trước, cô vì cảm lòng tôi mà miễn cưỡng nhận lời. Tôi hỏi ý nhà tôi, nhà tôi không do dự, chấp nhận. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của gia đình tôi từ 1975 đến nay. Sau khi làm lễ cưới ở Long Xuyên, tôi vẫn ở Sài Gòn viết sách và xuất bản, cứ hai tháng lại về Long Xuyên nửa tháng có khi để nghỉ ngơi hoàn toàn, có khi mang theo tài liệu để viết.
Chú thích:
(1)
Bài viết về tôi trong tập đó là bài thứ nhì ông phỏng vấn tôi, đăng trên Bách Khoa số 215-216, ngày 15.12.1965 và ngày 1.1.1966.
(2)
Theo cách viết của tác giả (Ngu Í): chữ "Quê".
(3)
Đã tái bản năm 1994, tại Nxb Văn hoá-Thông tin. (BT)
Phần V
NHỜ ĐÂU TÔI VIẾT ĐƯỢC NHIỀU?
TÔI GẶP HOÀN CẢNH THUẬN TIỆN VÀ THỜI CUỘC THÚC ĐẨY
Khi thi sĩ Đông Hồ bảo tôi lên Sài Gòn sẽ không viết được nhiều như ở Long Xuyên và chẳng bao lâu sẽ cạn hứng, tôi không tin như vậy, nhưng cũng chỉ mong viết được vài ba chục cuốn nữa thôi, không ngờ luôn hai chục năm tôi viết mạnh hơn hồi ở Long Xuyên, chẳng những viết sách mà còn viết báo, khiến một bạn văn phải ngạc nhiên: ốm yếu, bệnh tật liên miên như tôi: loét bao tử, viêm khí quản, mất ngủ, lao phổi, trĩ, sao mà viết được nhiều hơn cả Trương Vĩnh Ký nữa. Có người bảo tôi là cái "máy viết"; một thanh niên ở Trung Việt còn ngờ tôi đã "mướn người viết" rồi tôi coi lại và ký tên!
Tôi không mướn người viết mà cũng chẳng mướn người giúp tôi trong việc xuất bản, bán sách, sửa ấn cảo; chẳng nhờ vợ con giữ sổ sách, sắp đặt tủ sách; mà lại còn sửa giùm bảo thảo cho vài bạn thân, đọc rồi đề tựa cho khoảng hai chục tác phẩm của các bạn văn nữa.
Sở dĩ được vậy một phần là vì tôi biết tổ chức công việc, tiết kiệm thì giờ, một phần nữa là nhờ tôi được nhiều thuận tiện hơn đa số các nhà văn khác. Gánh gia đình tôi rất nhẹ; tôi chỉ có mỗi một đứa con, năm 1957 qua Pháp học và mỗi tháng tôi chỉ phải gởi cho nó một số tiền; hai người vợ của tôi đều dạy học và trông nom việc nhà được, tôi khỏi phải bận bịu gì về gia đình cả.
Tôi được trời phú cho tính giản dị, rất ít nhu cầu, mà cũng không có một đam mê gì ngoài sách vở. Tôi lại may mắn có một số độc giả khá đông, nên tác phẩm nào của tôi cũng in được dễ dàng, có một số cuốn "kén độc giả" như Đại cương triết học Trung Quốc, Cổ văn Trung Quốc, Một niềm tin… thì bù lại có rất nhiều cuốn bán rất chạy; mà những cuốn kén độc giả đó, các nhà xuất bản ngại không muốn mua thì tôi có đủ vốn để xuất bản lấy, hoặc để hùn với một nhà xuất bản như Cảo Thơm: họ bỏ công, tôi góp một phần vốn, rốt cuộc không ai lỗ mà còn được lợi ít nhiều về mặt này hay mặt khác. Có một số độc giả tin mình, cuốn nào in ra cũng tiêu thụ được, đó là điều kiện quan trọng nhất để viết được nhiều.
Sau cùng thời cuộc nước nhà bắt buộc tôi phải viết, không nghỉ được. Đầu năm 1971, thi sĩ Bàng Bá Lân có lần hỏi tôi đã tính nghỉ viết chưa, tôi đáp trong một bức thư:
"Mấy năm nay, tôi thấy sức suy, cứ mùa mưa thì cứ ba ngày đau mất một ngày, mùa lạnh chịu cũng không nổi. Anh dư biết nghề viết văn mệt hơn nghề công chức, tư chức nhiều, óc không lúc nào nghỉ được, công việc cứ ám ảnh mình hoài tới khi hoàn thành tác phẩm mới thôi. Mà chưa xong tác phẩm này đã chuẩn bị cho tác phẩm khác rồi".
"Viết đều đều trên hai chục năm, tôi muốn nghỉ lắm chứ, nhưng còn chiến tranh thì không thể nghỉ được (… Chẳng những việc nước không yên mà việc nhà của chúng ta cũng không yên, không thể quyết định gì trong tương lai cả, ngay đến đời sống của mình cũng không có gì bảo đảm. Sở dĩ tôi phải cặm cụi viết, một phần lớn là để tạm quên những ưu tư đó đi. Năm Mậu Thân, tôi dịch Chiến tranh và Hoà bình của L. Tolsoi, nhờ vậy mà khỏi phải nghĩ đến những trận đánh đẫm máu ở khắp nước, những trận pháo kích ác liệt vào Sài Gòn".
"Khi quân Nhật đánh Lạng Sơn, nước mình bắt đầu chịu cái hoạ chiến tranh, con tôi mới hai tuổi; nay con đầu lòng của nó đã năm tuổi; ba chục năm rồi, hơn một thế hệ rồi mà chiến tranh vẫn còn, mỗi ngày mỗi thêm khủng khiếp. Năm nào đêm Giao thừa tôi cũng hy vọng qua năm sau tình hình sẽ sáng sủa hơn, mà năm nào tôi cũng thất vọng. Chỉ khi nào hoà bình vãn hồi rồi, tôi mới có thể nghỉ được".
Ai cũng biết câu: "Tái ông thất mã, an tri phi phúc?" của Trung Hoa và câu "À quelque chose malheur est bon" của Pháp. Chiến tranh Việt-Pháp, Việt-Mỹ là cái hoạ lớn cho dân tộc ta, là một nỗi đau khổ cho mọi người, nhưng tôi lại nhờ nó mà viết được nhiều. Vì nếu không có nó thì mỗi năm tôi cũng đi thăm các thắng cảnh trong nước một hai tháng, về quê ở Phương Khê sống lại một thời gian tuổi thiếu niên, và chắc tôi sẽ viết ít hơn, chứ tội tình gì mà giam mình trong phòng viết liên tiếp hơn hai chục năm như vậy?
Trong thư cho Bàng Bá Lân tôi bảo khi hoà bình vãn hồi tôi mới có thể nghỉ viết được. Bốn năm sau, hoà bình được vãn hồi, và tôi nghỉ viết gần một năm, nhưng rồi biết bao nhiêu điều khiến tôi phải suy nghĩ, lo lắng, bực mình, lại phải viết nữa cho qua ngày, cho quên những chuyện xảy ra ở chung quanh và tôi lại sống cuộc đời trước năm 1975 với cây bút và trang giấy. Hôm nay tôi lại tự hỏi như năm 1971: bao giờ mới thôi viết đây?
LÀM VIỆC ĐỀU ĐỀU, BỀN BỈ - CÓ HƯỚNG RÕ RỆT - TẬP TRUNG NĂNG LỰC
Tự biết có nhiều thuận tiện như trên, tôi tận dụng những thuận tiện đó. Độc giả còn tin mình, thì mình viết được bao nhiêu cứ viết, càng nhiều càng tốt, miễn là cuốn nào cũng phải có ích không cho giới này, tuổi này thì cho giới khác, tuổi khác.
Nhà văn Pháp Jules Renard bảo: "Bậc thiên tài là những người cặm cụi làm việc 18 giờ một ngày". Lời của ông cũng giống như lời một nhà kinh doanh Mỹ: "Muốn thành công thì cần 5% hứng và 95% toát mồ hôi" (5% d’inspiration et 95% de transpiration). Rất ít người có thể làm việc 18 giờ một ngày năm này qua năm khác. Chỉ cần làm việc đều đều mỗi ngày tám giờ thôi cũng đủ, nhưng phải liên tiếp trong vài ba chục năm.
Điều quan trọng là phải có một hướng rõ rệt, một mục đích để nhắm và phải tập trung tất cả năng lực, thì giờ vào công trình của mình. Trong thế chiến thứ nhì, dầu lửa và đá lửa đều thiếu, bác Ba tôi nhồi bông gòn vào một ống tre, đưa ra chỗ có nắng, lấy một kính hiển vi (loupe tập trung ánh nắng vào một điểm trên bông gòn, chỉ trong mười giây, bông cháy, bốc khói lên, châm thuốc hút được, lại có thể mồi lửa vào một mảnh giấy. Biết tập trung năng lực và thời giờ của mình thì kết quả gấp hai gấp ba; vì vậy trong hai mươi hai năm liên tiếp; từ khi mở nhà xuất bản, tôi bỏ hết các hoạt động khác để chuyên tâm viết.
Nhiều trường đại học mời tôi dạy Ngữ Pháp Việt Nam, Triết học hoặc Văn học Trung Quốc, tôi đều từ chối. Một lần thi sĩ Đông Hồ lúc đó đương dạy Đại học Văn khoa Sài Gòn, sáng sớm từ trong Gia Định ra chơi tôi ở đường Kỳ Đồng, bảo tôi:
- Tôi nghe nói người ta mời bác dạy Văn khoa. Tôi vội ra để cản bác. Mất thì giờ lắm. Tôi dạy thì được, bác thì không nên. Thì giờ của bác quí hơn của tôi.
Tôi đáp: Bác thật là tri kỉ của tôi. Vâng, tôi đã từ chối rồi.
Thấy mấy lần mời mà tôi đều từ chối, có người cho tôi là làm cao. Không phải vậy. Tôi thấy dùng thì giờ vào việc viết có lợi cho thanh niên hơn là dạy học. Một vị phó viện trưởng một Đại học tư nọ ở gần nhà tôi hai lần phái người lại nhờ tôi dạy, tôi cũng từ chối. Ông ta phật ý, phê bình tôi ra sao đó, người ta kể lại, tôi nghe rồi gật đầu, mỉm cười.
Chính phủ Ngô Đình Diệm và chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ba lần mời tôi làm giám khảo trong cuộc thi văn chương toàn quốc, tôi từ chối hết. Một lần tôi hơi ân hận khi người lại mời tôi, một học giả lớn tuổi hơn tôi, khá có tiếng tăm, rầu rầu nét mặt, bảo tôi: "Ông không nhận lời cho, là một điều buồn cho ban tổ chức giải thưởng mà cũng buồn cho chính tôi nữa".
Tôi đành làm mất lòng ông bạn đó để giữ vững nguyên tắc: Không phí thì giờ vào các công việc khác. Chính phủ Thiệu còn mời tôi vào Uỷ ban dịch thuật, Uỷ ban điển chế văn tự của bộ Văn Hoá; sau lại mời tôi vào Hội đồng giáo dục toàn quốc, tôi cũng từ chối, hội đồng đó chỉ có tính cách tư vấn, không có quyền hành gì cả, mà đề nghị Cải tổ giáo dục của tôi, tôi đã cho đăng trên Bách Khoa từ 1962 (coi loạt bài Cải tổ nền giáo dục trong 5 số Bách Khoa 128-132), tôi có gì đâu để nói thêm? Có họp bàn mấy tháng đi nữa thì cũng cũng chỉ phí thì giờ, không đi tới đâu vì không thể thực hiện được một cải cách nào quan trọng trong hoàn cảnh chiến tranh đương khốc liệt.
KHÔNG ĐỂ PHÍ THÌ GIỜ
Cũng vì không muốn mất thì giờ và muốn được độc lập, tôi không vào một hội nhà văn nào cả, cũng không dự các cuộc hội họp, diễn thuyết của các cơ quan Văn hóa. Nhiều người ghét tôi về điều đó, trách tôi sống cách biệt hẳn với anh em, sống ra ngoài xã hội, cho tôi là khinh người. Những bạn văn nào chỉ tiếp xúc với tôi vài lần cũng nhận thấy điều đó sai.
Ngay toà soạn báo Bách Khoa cách nhà tôi không tới một cây số mà cả tháng tôi mới ghé một lần, lần nào cũng vui vẻ trò chuyện với anh em. Bạn nào có việc gì nhờ tôi, tôi giúp được thì sẵn lòng tận tâm giúp. Một số bạn ở xa gởi tác phẩm đầu tiên, nhờ tôi cho ý kiến và nếu có thể được thì đề tựa cho. Tôi thấy đáng giúp thì giúp và tôi đã giúp được nhiều người. Còn những nhà gởi tác phẩm tặng tôi thì bao giờ tôi cũng đọc hết, thành thực đưa ý kiến, rán kiếm một vài chỗ để khen, vì tôi cho đó là một cách nhã nhặn đáp lại lòng kính hay mến của người gởi.
Không, tôi không khinh người. Tôi chỉ quí thì giờ và sức khoẻ của tôi, thế thôi. Và một vài nhà văn cũng nhận rằng tôi có lý mà không dự các cuộc hội họp có tính cách văn hóa vì những buổi đó chỉ để gặp mặt nhau chẳng giải quyết được gì, mất thì giờ lắm. Tôi lại bị bệnh loét bao tử, ăn phải kiêng cữ, phải đúng giờ ăn cũng như giờ ngủ, và ăn xong phải nghỉ ngơi, ngả lưng một giờ nên càng ngại các buổi tiệc tùng. Các bạn văn đều hiểu và miễn thứ cho cả. Nhưng khi có một buổi tiệc long trọng như bạn bè làm lễ thành hôn cho con thì tôi cũng nhận lời tới dự, và các bạn thường có nhã ý cho xe hơi lại đón tôi rồi đưa tôi về nhà. Tôi nhớ trong hai chục năm ở Sài Gòn, chỉ dự độ 4-5 tiệc cưới.
Riêng với thi sĩ Đông Hồ thì khác. Mỗi năm hai ông bà có lệ vào khoảng Tết Táo quân, mời độ bảy tám bạn văn họp cuối năm ở Yiễm Yiễm thư trang hoặc Quỳnh Lâm thư thất. Những buổi họp đó có tính cách rất thân mật, thanh nhã đã được nhà báo Ngu Í khéo tả trong tập Sống và Viết (Ngèi Xanh 1, 1966), nên năm nào tôi cũng cùng với Giản Chi, Hư Chu tới dự và chủ nhân lần nào cũng tế nhị, cho làm món xôi rất ngon vì biết tôi đau bao tử, kiêng cơm tẻ. Họp từ 9 giờ sáng tới hai giờ chiều. Mệt nhưng vui.
Được các bạn văn hiểu và mến như vậy, tôi cho là một vinh dự lớn hơn được giải thưởng văn chương toàn quốc của chính phủ mà tôi đã từ chối hai lần. Về việc từ chối này, ai trách tôi ra sao tôi cũng nhận. Nguyên tắc của tôi là không nhận một vinh dự gì do một chính quyền tôi không trọng ban cho 2. Suốt đời tôi cầm viết, tôi chỉ mong giữ được lòng quí mến của một số bạn văn và lòng tin cậy của độc giả bốn phương. Viết mấy hàng này tôi bùi ngùi điểm lại những bạn văn đó thì già nửa đã không còn ở trên đất Việt mà những bạn còn lại cũng không ai được vui. Thật là "vạn sự tan như mây khói".
HY SINH VIỆC XUẤT BẢN, ĐỂ CÓ THÌ GIỜ VIẾT
Vào khoảng 1961, khi đã mua được ngôi nhà và khoảnh vườn nhỏ ở đường Kỳ Đồng, tôi hạn chế cả công việc xuất bản để hết thì giờ vào việc trứ tác, thành thử có nhiều cuốn độc giả đòi hỏi mà tôi không in lại. Mấy năm sau nhà xuất bản Khai Trí, rồi nhà xuất bản Thanh Tân thấy vậy, xin tôi để cho họ tái bản. Tôi bằng lòng liền, để cho nhà Khai Trí trên 10 cuốn, nhà Thanh Tân trên 20 cuốn, vài nhà khác mỗi nhà dăm ba cuốn.
Ngay một số tác phẩm mới viết xong tôi cũng không muốn tự xuất bản nữa và bán bản quyền cho các nhà Lá Bối, Cảo Thơm, Tao Đàn, Ca Dao, Trí Đăng… Năm 1974 nhà Lá Bối có trên chục tác phẩm của tôi, nhà Cảo Thơm cũng vào khoảng đó, còn các nhà khác mỗi nhà được 4,5 cuốn. Có hồi trên thị trường có khoảng năm chục tác phẩm của tôi bày bán, khiến ông Vương Hồng Sển phải bảo: "Vào tiệm sách nào cũng chỉ có sách của anh". Lúc đó có 10-11 nhà xuất bản sách của tôi.
Tôi sẽ nói qua về các nhà xuất bản đó trong một chương sau, ở đây tôi chỉ xin kể lại lời tôi nói với anh bạn Trần Thúc Linh vào khoảng 1969-1970:
"Tôi tri túc theo đạo Nho, cho sống như vầy là quá đủ rồi (ông ấy gật đầu không cần hơn, chứ nếu muốn thì tôi có thể tăng lợi tức gấp ba một cách rất lương thiện và dễ dàng.
Ông Linh ngạc nhiên, hỏi:
- Bằng cách nào?
Tôi đáp:
- Hiện tôi có trên 50 tác phẩm bán trên thị trường mà trong số đó chỉ có mươi cuốn là do tôi xuất bản, còn thì để cho các nhà khác cả. Nếu tôi lấy về, tự xuất bản lấy, tôi có đủ vốn, thì mỗi ngày chỉ tốn thêm một hai giờ là số lợi tức của tôi tăng lên gấp ba được".
Như trong cuốn Tương lai ở trong tay ta tôi đã nói, đời tôi chỉ muốn làm một thư sinh, không muốn làm một nhà kinh doanh hay chính khách:
"Tôi không có cao vọng lãnh một trách nhiệm gì lớn lao mà cái đời một thư sinh sống trong một gia đình êm ấm, bên cạnh sách và hoa cũng có cái thú, có lẽ còn thú hơn là được hoan hô nhiệt liệt trong những đám đông hàng vạn người".
Gần đây tôi được đọc câu này của Cô Hồng Minh, một học giả Trung Hoa đồng thời với Lương Khải Siêu: "Cứ làm một học giả, thân mình được rảnh mà có khi lại hữu dụng hơn". Lương Khải Siêu hồi trẻ hăng hái làm chính trị, rồi về già làm một giáo sư, một học giả; Lâm Ngữ Đường hồi trẻ cũng muốn làm chính trị, nhưng chỉ nửa năm là chán, tự nhận không phải là "hạng ăn thịt" – thực nhục giả - nên không làm chính trị được và từ đó bỏ luôn chính trị mà chuyên làm một học giả. Tôi không biết đời các nhà đó với đời của Quách Mạc Nhược, đời ai sướng hơn và hữu dụng hơn.
Nhiều bạn cho tôi là sống một cuộc đời khắc khổ, quanh năm chúi đầu vào sách vở. Có lẽ khắc khổ thật, nhưng cho tới bây giờ tôi vẫn không thấy có cách nào khác để tiêu cho hết 24 giờ một ngày. Những lần về Long Xuyên, ra vườn nhổ cỏ, thay đất, bón phân cho mấy gốc cây, mươi chậu kiểng, tôi cũng thấy thích, nhưng vườn hẹp quá, chỉ đủ công việc cho tôi làm mỗi ngày độ một giờ; rồi thì vẫn phải đọc sách, mà sách cũng không thể có nhiều đọc suốt ngày, quanh năm, lại phải viết. Viết đối với tôi thành môn tiêu khiển rẻ tiền nhất. Nhưng tôi đôi khi ân hận rằng vì tôi chúi đầu vào sách, vợ con tôi nhiều lúc cũng thấy buồn.
Chú thích:
(1)
Nguyễn Hữu Ngư bút hiệu là Ngu Í muốn cải cách chữ quốc ngữ: Ngày viết là Ngèi.
(2)
Tôi không vơ đủa cả nắm mà khinh hết thảy các "ông lớn" trong chính quyền, và có vài ông là bạn thân của tôi. Nhưng ông nào tự cho chức bộ trưởng của mình là lớn lắm, sai nhân viên tới mời tôi lại bộ hoặc lại "tư dinh" nói chuyện riêng thì tôi hỏi sứ giả: "Ông ấy lấy tư cách gì mà mời tôi như vậy? Tôi không thuộc quyền của ông ấy. Nếu ông ấy mến tôi là nhà văn thì sao lại mời tôi lại thăm ông ấy?". Có lần tôi không thèm trả lời thư riêng của một Bộ trưởng vì ông ta không kí tên mà để viên bí thư ký thay!.
Phần VI
CÁCH TÔI LÀM VIỆC
GIỜ LÀM VIỆC MỖI NGÀY
Tôi làm việc đều đều mỗi ngày, có giờ nhất định như một công chức, chỉ khác công chức là không có ngày nghỉ nhất định, không có chủ nhật, không có cả ngày lễ, ngày tết. Buồn thì ngày nguyên đán âm lịch tôi cũng viết. Lúc nào tôi muốn nghỉ, cần phải nghỉ thì nghỉ. Thường thường, mỗi khi viết xong một cuốn vài trăm trang, tôi nghỉ độ nửa tháng; và cứ vài tháng tôi lại về Long Xuyên nửa tháng.
Mệt nhất là công việc khảo cứu về văn học, triết học Trung Hoa; còn việc dịch các tiểu thuyết của phương Tây như Chiến tranh và Hòa bình của Léon Tolstoi, Kiếp người (Of Human bondage của Somerset Maugham thì không mệt mấy, tôi thấy thú, coi như một việc để tiêu khiển. Hồi dịch cuốn Kiếp người tôi đem bản tiếng Anh về Long Xuyên để hẳn ở dưới đó, mỗi lần về tôi lấy ra dịch ba bốn chục trang.
Tôi tự đặt cho tôi một kỷ luật, trừ khi đau ốm còn thì ngày nào cũng dậy từ sáu giờ hay sáu giờ rưỡi, điểm tâm lúc 7 giờ, rồi nằm đọc sách, chín giờ là lại ngồi vào bàn viết để viết luôn tới 12 giờ, giờ bữa trưa.
Ăn trưa xong, tôi nằm nghỉ khoảng 1 giờ, nhắm mắt lại, chợp được độ nửa giờ là nhiều; một giờ rưỡi thức dậy, nằm ở giường đọc sách đến 3 giờ. Chiều lại viết từ 3 giờ đến 5 giờ rưỡi, 6 giờ; tắm xong, ăn bữa tối lúc 7 giờ. Cả buổi tối, cho tới 10 giờ, tôi chỉ nằm đọc sách báo. Hồi chưa lên Sài Gòn, còn dạy học ở Long Xuyên, tôi có thể viết cả buổi tối, nhưng sau khi bị loét bao tử và lao phổi, tôi mất ngủ, thường phải uống thuốc an thần (thứ nhẹ, Equanil Transquanil nên buổi tối tôi không viết, cũng không đọc những sách cần suy nghĩ nhiều, không tiếp khách mà cũng không đi xem hát, cho rằng không gì quí bằng giấc ngủ. Tôi ngủ mỗi đêm được 7 giờ, thường thẳng một giấc. Bây giờ (1980), mỗi đêm chỉ được 5 giờ và phải thức giấc một lần.
Như vậy mỗi ngày tôi viết nhiều nhất khoảng 5-6 giờ, đọc sách báo cũng 5-6 giờ, nhưng còn phải trừ mỗi ngày độ 1 giờ vào công việc xuất bản (sửa ấn cảo, giao thiệp với nhà in, nhà sách, viết thư cho bạn và độc giả… rốt cuộc còn thực sự làm việc được mười giờ. Mỗi năm viết cả sách lẫn báo trung bình được ngàn trang trở lại, mỗi ngày trung bình ba trang.
Tôi ráng ngày nào cũng phải viết ít nhất cho được một trang, nếu không thì có cảm giác như ở không.
Nhiều bạn hỏi tôi làm sao có thể viết trong trên 30 năm được 120 nhan đề (100 đã xuất bản, 20 còn là bản thảo). Tôi đáp: 120 nhan đề đó được khoảng 30.000 trang, chia cho 33 năm chỉ có khoảng 900 trang một năm, trung bình mỗi ngày chưa được 3 trang mà!
Tuy nói là mỗi ngày làm việc vào khoảng mười giờ, nhưng sự thực thì trí óc không lúc nào thảnh thơi. Gần như tuần nào cũng phải làm việc cả 7 ngày, mỗi ngày 12 giờ; vì khi đã có một đề tài để viết mà tôi bao giờ cũng có vài ba đề tài trong đầu thì tiềm thức luôn luôn làm việc, cả trong bữa ăn, giấc ngủ, cả trong lúc đi chơi, tiếp khách hay đọc sách báo để tiêu khiển. Những lúc đó tôi đâu có muốn kiếm tài liệu để viết, nhưng gặp một câu, một lời hay thấy một việc gì, một cảnh nào có liên quan xa gần đến đề tài thì tự nhiên tiềm thức của tôi hoạt động mà tôi không hay và bắt tôi nghĩ tới, nhớ lấy. Biết bao đêm thức giấc, sực nảy ra một ý gì, tôi phải vén mùng, sờ soạng mặt tủ nhỏ ở đầu giường, lấy cây bút chì và một cuốn sách đương đọc; rồi không bật đèn, sợ làm mất giấc ngủ của vợ con viết nguệch ngoạc ít chữ bất kỳ trang nào trong sách, để ghi lại ý đó kẻo quên mất, sau cùng gấp trang đó lại để đánh dấu, sáng dậy sẽ chép lại.
KIẾM TÀI LIỆU – ĐỌC SÁCH BÁO
Làm nhà biên khảo thì việc đầu tiên là kiếm tài liệu. Viết về nhiều môn như tôi thì cần phải đọc nhiều sách báo. Tôi vốn có óc tò mò cho nên loại sách nào tôi cũng muốn đọc cho biết, chỉ trừ loại "chưởng" của Kim Dung. Một bạn trẻ tặng tôi bộ Cô gái đồ long, mong rằng tôi sẽ nhờ bộ đó mà thần kinh dịu xuống, bớt đau bao tử. Tôi ráng đọc năm, 5-6 chục trang rồi phải bỏ, không thể thích nổi.
Tôi rất ngại đến thư viện để đọc sách, kiếm tài liệu; vả lại thư viện rất ít tài liệu mới, cho nên hầu hết các sách tôi dùng để biên khảo đều phải mua ở nước ngoài. Tôi gởi một số tiền dự trữ độ 200 quan cho nhà Rayonnement du livre français ở Paris. Họ gởi đều đều cho tôi tập Livres du mois, thư mục đủ các loại sách Pháp xuất bản mỗi tháng, sắp thành từng loại: ngôn ngữ học, triết học, sử học, luật học, kinh tế học, tiểu thuyết, thơ, kịch v.v… Thấy cuốn nào muốn đọc, tôi báo họ gởi cho; họ sẵn sàng kiếm cả những sách ngoại quốc cho nữa. Mỗi năm họ gởi cho tôi khoảng 50-60 cuốn.
Ngoài ra tôi mượn sách, nhất là báo định kỳ của Pháp như Esprit, Express, Paris Mach, Life, Historia, Science et Vie… của vài bạn văn, nhất là của toà soạn Bách Khoa.
Sách Trung Hoa thì tôi hỏi thẳng một tiệm sách ở Hương Cảng hoặc nhờ ông Tạ Trọng Hiệp kiếm giùm.
Lựa sách ngoại quốc theo cách dò trong thư mục, chỉ thấy tên sách, tên tác giả, chứ không biết nội dung ra sao thì có một số dùng không được; cho nên tôi phải nhờ nhà Rayonnement du Livre français giới thiệu cho.
Riêng sách về cổ học Trung Hoa, tôi yêu cầu tiệm sách Hương Cảng tìm cho những bản tốt nhất, chú giải kỹ nhất của một học giả có tiếng, do một nhà xuất bản có tiếng in ra. Dùng những bản đó dù giá tiền đắt gấp hai, gấp ba cũng có lợi hơn là dùng những bản tầm thường, không tin được, chỉ làm mất thì giờ của mình.
Khi đã có một chủ đích, định tìm hiểu hoặc viết về vấn đề nào, tôi bắt đầu gom hết các tài liệu mà tôi đã kiếm được về vấn đề đó, liên tiếp trong nhiều năm. Như về Kinh dịch, tôi gom từ 960 đến 1975 được khoảng 15 – 16 cuốn của Trung Hoa, Việt, Pháp, Anh, đọc qua 1 lượt, xem giá trị ra sao, giúp tôi được gì; đánh dấu những chương quan trọng rồi để riêng vào một chỗ; năm 1978 – 1979 khi định viết, tôi mới đọc kỹ lại một lượt, so sánh các thuyết, các bản dịch… để định cái hướng nghiên cứu, cách làm việc.
Một cuốn mỏng, gồm toàn những "chuyện sống" (histoires vécues, tức những chuyện thực đã xảy ra ghi một tình cảm đẹp, một ý cao thượng mà tôi đã để ra non hai chục năm để gom góp lần lần trong các sách, báo Pháp. Việc đó không tốn thì giờ gì cả; thấy truyện nào đáng lựa, tôi đánh dấu, rồi sắp vào một chỗ riêng, khi đã được vài ba chục truyện, thành một cuốn dầy vài trăm trang, tôi đem ra dịch một hai tháng là xong.
Trước 1963 tôi không bao giờ có ý viết về kinh tế, và còn cho môn kinh tế học dạy trong các trường luật là không sát thực tế, chỉ gây thêm hoang mang cho tôi thôi; nhất là những thuyết về tiền tệ, giá cả, về thặng dư giá trị không làm cho tôi tin được. Chẳng hạn người ta bảo rằng thặng dư giá trị của một sản phẩm do sức lao động của thợ thuyền cả, phải chia hết cho thợ thuyền, tư bản không có công gì trong đó, mà ngay những người quản lý xí nghiệp cũng không có công vì họ không sản xuất; nếu không chia hết cho thợ thuyền thì là bóc lột họ.
Nhưng cùng một xí nghiệp mà người này quản lý thì lỗ, người khác quản lý lại lời thì giải thích ra sao? Ai tạo nên thặng dư giá trị? Lại như trường hợp sáu nhân viên điều khiển một nhà máy lọc dầu tối tân, vốn cả trăm triệu đô la, thặng dư giá trị rất lớn, thì số thặng dư đó phải chia hết cho sáu nhân viên đó ư? Chỉ họ mới có công ư? Hay còn là công của các nhà khoa học đã tìm ra cách lọc dầu, các kỹ sư đã chế tạo ra máy lọc dầu, tổ chức công việc trong xưởng, của người bỏ vốn ra mua máy móc, của nhân viên quảng cáo, thương mãi, tìm thị trường v.v…
Rồi một hôm (năm 1962-63 ngẫu nhiên tôi đọc một cuốn rất mỏng (trong loại Que sais-je? của J. Fourastié, cuốn La civilisation de 1975, tôi bắt đầu để ý tới ông và tìm thêm những tác phẩm khác của ông để đọc, càng đọc càng ham, tới những cuốn Le Grande espoir du 20è siècle, Machinisme et bien être, Pourqoi nous travaillons, thì những thành kiến trước kia về môn kinh tế tiêu tan hết. Từ đó gặp cuốn nào của Fourastié tôi cũng mua rồi lại tìm đọc thêm mươi cuốn của mấy nhà khác về kinh tế, xã hội học, nhất là về vấn đề kém phát triển trên thế giới, do đó tôi nảy ra ý viết cuốn Một niềm tin, Thế giới trong tương lai, Việt Nam trong hiện tại. Cuốn đó do ngẫu nhiên mà viết, chứ hoàn toàn không có trong chương trình hoạt động của tôi.
Sự ngẫu nhiên đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp một nhà văn, tôi sẽ trở lại điểm đó trong một chương sau.
Có lần một độc giả trẻ tuổi hỏi tôi nghĩ sao về lời Erskine Caldwell trả lời một nhà báo như sau: "Có những người đọc, có những người viết, có những người vừa đọc vừa viết. Tôi chỉ viết cho những người khác đọc thôi, chứ không đọc sách của ai cả".
Tôi đáp: "Tiểu thuyết gia Mỹ đó là một anh chàng ngông. Ông ta có một bút pháp khá độc đáo, nhưng tôi biết những người có tài hơn ông ta nhiều, viết nhiều gấp mấy ông mà đọc sách rất nhiều, như Tolstoi, Proust, Anatole France.
Viết văn thì phải theo dõi văn trào và thời sự trong nước, trên thế giới cho nên dù bận việc tôi cũng ráng đọc một số nhật báo, tạp chí và những tác phẩm Việt quan trọng xuất bản trong năm, để kịp thời góp ý kiến với đồng bào về những việc xảy ra và để cuối năm tổng kết tình hình xuất bản. Những báo, tạp chí, sách đó một số do tôi mua, một số do bạn văn tặng, một số mượn của toà soạn Bách Khoa.
Vì vậy mà thi sĩ Quách Tấn bảo nội việc tôi đọc sách cũng đã khó có người bì kịp, chứ đừng nói đến chuyện đọc rồi còn viết. Nhưng tôi tự so sánh với một số nhà văn Pháp thì số sách tôi đọc kém họ xa. Họ có những tủ sách 5 ngàn, 10 ngàn cuốn; tủ sách của tôi chưa được ba ngàn cuốn. Ngay ở Sài Gòn, cũng có vài học giả tủ sách lớn hơn của tôi nhiều.
Đọc sách bao giờ tôi cũng có một cây bút chì và một cục gôm bên cạnh. Trong nhà có hai chỗ tôi thường nằm để đọc sách, tại hai chỗ đó, bao giờ tôi cũng có sẵn hai vật đó. Hễ thấy có đoạn nào đáng đọc lại, có ý gì đáng ghi thì tôi làm dấu bằng bút chì ngay ở ngoài lề; rồi ghi số trang, tóm tắt đại ý ở trang đầu bỏ trắng của sách.
LẬP BỐ CỤC
Sau khi đọc và ghi chú tất cả tài liệu kiếm được về một vấn đề, tôi bỏ ra một thời gian để suy nghĩ, thời gian này có thể là một tuần hay nửa tháng rồi mới lập một bố cục sơ sài cho tác phẩm. Tôi chia làm mấy phần, mấy chương, tạm đặt nhan đề cho mỗi phần, mỗi chương. Tôi nói tạm vì sau khi viết xong cả tác phẩm, tôi mới đặt lại nhan đề cho sát với nội dung.
Rồi tôi bắt đầu từ chương I. Tôi ghi lại vắn tắt trên những tờ giấy rời ý và tài liệu tôi tính đặt vào chương đó. Thường phải vài trang giấy lớn mới ghi được đủ. Ghi đủ rồi tôi đánh dấu ý nào tài liệu nào cho vào đoạn đầu, đoạn hai, đoạn ba v.v… Đó là công việc chia thành đoạn. Trong mỗi đoạn tôi sắp lại ý nào để trước, ý nào để sau; tôi rất coi trọng công việc này vì tôi muốn các ý nối tiếp nhau một cách tự nhiên. Công việc lập bố cục cho từng chương đó, luôn luôn tôi phải làm hai hay ba lần. Hồi mới viết, từ khoảng 1955 trở về trước, tôi lập bố cục tỉ mỉ cho từng chương, lập xong chỉ việc theo bố cục mà viết, rất ít khi phải sửa đổi, thêm bớt. Về sau tôi thấy không cần phải chặt chẽ quá như vậy: chỉ có một bố cục đại khái thôi; rồi trong khi viết, có thể ý nọ gợi ý kia, nảy ra ý mới, hoặc thấy nên đảo một vài ý trong bố cục, nhất là có thể bỏ một ý nào đó đi, thêm vào một ý khác; tóm lại là có thể xáo trộn bố cục ít nhiều, như vậy có lợi là ý đột ngột hơn, văn tươi tắn hơn, viết thú hơn, chứ không có hại gì cả; và tôi giữ lối viết đó cho tới ngày nay.
VIẾT
Khi đã bắt đầu viết, tôi không thể nhởn nha được, ít nhất phải viết cho hết chương, chứ không bỏ dở để làm một công việc khác. Nếu có công việc khác gấp thì tôi cũng phải diễn tất cả các ý trong chương, dù là vội vàng, rồi sau sẽ sửa lại.
Thường một cuốn độ 200 trang mà dễ viết – loại Học làm người chẳng hạn – thì tôi viết một hơi hai tháng là xong; rồi tôi nghỉ một tuần hay nửa tháng trước khi bắt tay qua cuốn sau. Thời gian nghỉ đó là thời gian tôi tha hồ đọc sách báo vừa để tiêu khiển, vừa để kiếm tài liệu. Luôn luôn tôi có sẵn vài đề tài để viết, nên không lúc nào thiếu công việc.
Gặp những cuốn khó viết, loại văn học, triết học Trung Quốc, phải 9-10 tháng, một năm mới xong, tôi chia làm từng chặng, từng đợt hai ba tháng một.
Văn Chiến Quốc sách rất cổ, rất khó hiểu mà tôi lại không kiếm ra được một bản chú giải nào vừa ý, nên phải so sánh ba bốn bản, dùng cả bản bạch thoại, lại phải tra hai bộ từ điển Trung Hoa, có khi mất cả một ngày mới dịch được một trang. Trong khi dịch bộ đó tôi đau bao tử liên miên, phải vừa xoa bụng vừa viết, đau quá thì nằm nghỉ một chút rồi ngồi lên viết tiếp. Năm đó nhà tôi qua Pháp, tôi phải dạy thay mấy tháng, nên tôi làm việc quá sức. Bộ đó tôi phải dựa vào ba chặng, cuối mỗi chặng nghỉ nửa tháng.
Cuốn Văn học Trung Quốc hiện đại cũng tốn sức rất nhiều. Năm 1953, tôi đã viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc để tìm hiểu, tự học, in bộ đó rồi, tôi tự hẹn sẽ tìm hiểu kỹ hơn về văn học hiện đại Trung Quốc để bổ túc, và từ khoảng 1960 tôi nhờ vài người bạn thân kiếm cho một số sách báo ngoại quốc viết về văn học Trung Quốc từ cuối Thanh đến nay, nhưng chỉ có mỗi một ông bạn, ông Tạ Trọng Hiệp ở Paris, kiếm cho được cuốn History of Modern Chinese fiction của C.T Hsia. Rốt cuộc trong 5-6 năm, tôi chỉ thu thập được 6-7 cuốn, một số của cộng sản, một số của Mỹ và Pháp, tuyệt nhiên không có cuốn nào của vùng quốc gia (Đài Loan). Thành thử tài liệu về thơ và kịch hiện đại tôi gần như không có gì, nên không thể giới thiệu hai loại đó cũng tương đối kỹ như giới thiệu tiểu thuyết được. Khuyết điểm đó rất nặng, nhưng tôi cũng miễn cưỡng soạn cho xong. Miễn cưỡng chứ không phải cẩu thả; trái lại là khác, mỗi chương, nhất là trong tập II, tôi tốn nhiều công, viết xong thấy rất mệt, có cảm giác như leo một ngọn núi. Và trước sau tôi cũng phải nghỉ 2-3 lần sau mỗi chặng đường. Độc giả làm sao biết được nỗi khó khăn đó.
Viết xong cuốn nào, tôi sửa lại liền, trước khi in. Có thể là 5-6 tháng sau hoặc mười năm sau tôi mới sửa lại một lần nữa.
Nhiều nhà văn phải đợi lúc có hứng rồi mới viết được. Họ gợi hứng bằng nhiều cách: uống cà phê, trà đậm, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác; có người nghe một bản nhạc hoặc đọc vài trang trong một cuốn mà họ thích, rồi mới bắt đầu viết. André Maurois có hồi đọc Tolstoi, Tourguéniev để gây hứng.
Tôi thì dù không có hứng cũng cứ đúng giờ ngồi vào bàn viết, viết bừa vài câu, nửa trang rồi hứng tự nhiên tới. Khi đã mải mê viết rồi thì tôi không để ý tới những tiếng động ở chung quanh; tuy nhiên tôi vẫn thích làm việc ở một chỗ tĩnh mịch và luôn một hơi 2-3 giờ liền mà không bị quấy rầy.
BÚT PHÁP CỦA TÔI: TỰ NHIÊN THÀNH THỰC
Có một số rất ít nhà văn tự tạo một bút pháp (style đặc biệt, không giống một ai. Ở Pháp ta có thể kể La Bruyère (thế kỷ XVII), văn cô động, linh động, dùng những câu rất ngắn, gần như châm ngôn; Marcel Proust trái lại, dùng những câu rất dài, xen nhiều mệnh đề phụ để phân tích tỉ mỉ tâm lý con người, mô tả mọi nét đặc biệt của một cảnh vật.
Ở nước ta, khoảng năm 1930, Hoàng Tích Chu tạo một lối văn viết báo gồm những câu cụt ngủn, trái với lối nặng nề của Phạm Quỳnh. Gần đây có Hư Chu và Mai Thảo.
Hư Chu chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, thường dùng chữ cổ, những câu ngắn có những vế nhỏ đối nhau, và rất chú trọng đến nhạc, đọc lên ta thấy cứ một vế, hoặc một câu bổng thì lại tới một vế, một câu trầm, giọng văn cứ đều đều lên xuống. Ví dụ:
"Nguỵ lại nghèo lắm. Cơm không đủ hai bữa, áo chỉ độc một manh. Nhà cửa thì vách đất giường tre; cả gia sản duy chỉ có một bụng chữ thánh hiền là đặng giá. Người vợ Nguỵ không chịu được nỗi cơ hàn, đã phải bỏ chồng mà đi mất. Những là chê chồng chẳng tốt đẹp bằng người, huống chi còn lấy sự hỏng thi của Nguỵ làm điều xấu hổ. Nhưng chàng cũng chẳng buồn. Đêm ngày vẫn khổ công học tập, sinh nhai về nghề vẽ tranh, viết trướng kiếm ăn". (Nam Hải truyền kỳ - tr. 161).
Mai Thảo đặc biệt hơn, bỏ cả ngữ pháp để có một lối viết mà người ta chê là "làm duyên, làm dáng":
"Chỉ một câu hò mái đẩy ai oán đã dư thừa làm hứng cho Phạm Duy nhạc và Lưu Trọng Lư thơ" (Căn nhà vùng nước mặn - tr. 127).
Nhạc và thơ ở đây dùng làm động từ.
"Yêu chùa Hương cách một con suối, ngăn một triền núi, cao một mênh mông, thấp một thăm thẳm". (Căn nhà vùng nước mặn - tr. 141).
Hai tiếng một sau dùng rất cầu kì, không có nghĩa gì cả, chỉ để thành hai vế, mỗi vế 4 tiếng như hai vế trên.
Một số nhà văn khác chịu ảnh hưởng rất đậm của một bậc thầy, và theo đúng bút pháp của thầy, như nữ sĩ Mộng Tuyết với thi sĩ Đông Hồ; nữ sĩ Nguyễn Thị Vịnh với tiểu thuyết gia Nhất Linh. Hạng này nhiều hơn hạng trên.
Nhiều nhất là hạng thứ ba: có một bút pháp tự nhiên. Tôi thuộc vào hạng này. Tôi nhận thấy trong số các bạn văn của tôi, người nào to lớn bệ vệ thì văn nặng nề; người nào nhanh nhẹn, nóng nảy thì văn nhẹ nhàng, sắc bén; người nào hóm hỉnh thì văn tươi, người nào kiểu cách thì văn bóng bảy mà đa xảo…; tóm lại, cá tính ra sao thì bút pháp như vậy. Tôi gọi như vậy là bút pháp tự nhiên. Cá tính nào cũng có điểm dễ thương, không bao giờ hoàn toàn xấu thì bút pháp cũng có thể có ưu điểm miễn là thành thực.
Trong bài Bút pháp và cá tính (Giữ thơm quê mẹ - số 7, năm 1965, sau in vô cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa –Tao Đàn – 1967), tôi đã viết: "Chính cá tính quyết định bút pháp. Mà cá tính thì do bẩm sinh, và tuỳ thể chất một phần lớn, một phần nữa thì chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, của sự tôi luyện. Cho nên tôi có thể nói rằng bút pháp của ta đã định trước từ khi ta chưa tập viết, chưa biết viết: nó là vóc người, là dáng đi, là nhịp điệu của hơi thở, là sự tuần hoàn trong huyết quản, là sự tác động của các hạch nội tiết. Tất nhiên càng sống thì tư tưởng có thể càng tiến, kỹ thuật có thể càng già, nhân sinh quan có thể thay đổi, nhưng giọng văn, lối viết thì không thay đổi mấy, vẫn nhận ra được. Thơ của Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương chẳng hạn, ngày nay vẫn giữ được những nét riêng của mỗi nhà thơ từ thời trước; mà những nét riêng trong thơ ấy chính là những nét riêng trong tính tình, thể chất của mỗi nhà… (1).
Đứng về phương diện khoa học, không có cá tính nào là xấu, mà đứng về phương diện nghệ thuật cũng không có bút pháp nào là bản nhiên dở. Uỷ mị có cái đẹp của nó, hùng hồn có sức lôi cuốn của nó; đẽo gọt là một nghệ thuật mà tự nhiên cũng là một nghệ thuật (… tất cả vấn đề là diễn được đúng những cái mà chúng ta muốn diễn và gây được trong lòng độc giả những cảm xúc như chính ta cảm xúc.
Hiểu được như vậy rồi thì (… ta sẽ can đảm nhận cá tính của ta, dùng bút pháp nó đã lựa, định cho ta, (… đừng ngại sẽ không bằng nhà này nhà khác (…), cần nhất là phải dám là ta, phải thành thực với ta đã. Có thành thực mới cảm được người. Có thành thực mới đáng cầm cây viết (…)".
Thành thực có hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất: không cảm xúc thì đừng viết. Những bài văn mà tôi đắc ý và được bạn văn cùng độc giả thích hầu hết là những bài tôi rất thành thật với tôi, nghĩ sao viết vậy, cảm xúc ra sao thì diễn ra như vậy, như những hồi ký, tạp bút: Làm con nên nhớ, Cháu bà nội, tội bà ngoại, Con đường hoà bình, Hoa đào năm trước (Lá Bối in trong loại Bông hồng cài áo), Cụ Phan và lòng dân (Trình bày – 1967), Ý nghĩa cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh. (Bách Khoa – số 254, ngày 1.8.67)…
Nghĩa thứ nhì là khi viết, phải quên hết danh sĩ cổ kim, quên hết mọi kỹ thuật làm văn, mà chỉ theo cá tính của mình. Phải như anh em họ Viên trong phái Công An đời Minh, "để cho miệng và tay tự nhiên"; hơn nữa phải như Hoàng Sơn Cốc đời Bắc Tống, "để cho chương cú ngẫu nhiên thành như đường do sâu đục trong khúc cây" thì văn mới thực là cảm mạnh và thú vị; đôi khi còn nên, như Jules Renard đã khuyên, cứ phóng bút mà viết, đừng trao dồi, để cho văn được uyển chuyển, mềm mại. Văn của Tô Đông Pha được người đời khen là "hành vân lưu thuỷ", chính là do ông phóng bút mà viết.
Viết như vậy thì là một việc tự nhiên như thở, nhẹ nhàng, dễ dàng; tuỳ cảm xúc mà văn lúc thì bình tĩnh, lúc thì bồng bột, lúc vui, lúc buồn, lúc phẫn nộ, lúc mỉa mai…; lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến lúc lui; giọng thay đổi có khi đột ngột, lôi cuốn được độc giả.
Viết được đoạn đầu rồi thì cứ cho ngọn bút theo cái đà tư tưởng, cảm xúc của ta mà phần trước lôi kéo phần sau cho tới khi diễn hết những điều ta muốn nói rồi thì ngừng, đừng thêm gì cả.
SỰ BÌNH DỊ
Tôi như phần đông, hồi trẻ hơi mắc tật khoa trương khi tập viết những bài tùy bút, tiểu luận theo lối cổ văn Trung Quốc; những bài đó hầu hết đã hủy bỏ không cho in. Dần dần, tuổi càng lớn, tôi càng trọng sự bình dị hơn, khi sửa lại văn, thường xóa nhiều hơn là thêm. Nhất là những hư từ ở cuối câu, những tĩnh từ (adjectif đặt sau một danh từ, nếu không thật cần thiết thì gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng tôi không theo Renan được; ông bỏ ra một năm để sửa bộ Vie de Jésus cho văn hết bóng bảy mà thật giản phác. Có thể vì cá tính của tôi khác ông mà cũng có thể vì những đề tài tôi viết không có tính cách cổ kính như tác phẩm đó của ông.
Tôi trọng sự bình dị mà cũng trọng cá tính của tôi nữa. Đã lâu rồi, có lần viết xong một tác phẩm, tôi đưa cho một anh bạn thân coi lại giùm để góp ý kiến về nội dung và hình thức. Anh bạn đó đối với tôi rất chân thành mà viết văn rất kỹ: uống cà phê đặc và hút thuốc để thức đến một hai giờ khuya đẽo gọt vài câu văn là cái thú thường ngày của anh. Lần đó anh bôi cả một đoạn văn ký sự của tôi rồi chịu khó viết lại giùm: đảo lên đảo xuống, tỉa bớt cho cô lại, thêm cho có nhạc hơn. Tôi khen anh sửa khéo, nhưng khi in, tôi vẫn giữ đoạn văn của tôi vì tôi nghĩ nó tự nhiên hơn, diễn đúng ý của tôi, cảm xúc của tôi, nhất là vì nó có giọng của tôi, mang cá tính của tôi. Nó là tôi.
Lâm Ngữ Đường trong cuốn The importance of living có những nhận xét sâu sắc về đức bình dị trong văn. Ông viết:
"… Sự bình dị là điều khó đạt được nhất (… trong văn chương (…). Muốn được bình dị thì trước hết phải tiêu hoá nổi tư tưởng và óc cũng phải già giặn: khi chúng ta về già, tư tưởng của chúng ta sáng sủa hơn; ta bỏ ra một bên những phương diện không quan trọng mà có lẽ sai lầm của vấn đề, không băn khoăn về nó nữa; ý tưởng ta hình thành một cách rõ ràng hơn và những chuỗi tư tưởng dần dần tự hiện lên thành những lời văn gọn gàng, giản dị (…). Ta không thấy phải cố gắng sức nữa mà sự thực hoá ra sáng sủa và do đó hoá ra bình dị. Sự tự nhiên của tư tưởng và bút pháp đó mà các thi sĩ và phê bình gia Trung Hoa rất tôn trọng, được coi là một sự già giặn tiệm tiến. Khi chúng ta nói đến sự già giặn tiệm tiến trong văn xuôi của Tô Đông Pha là chúng ta muốn bảo rằng họ Tô đã dần dần tiến lại sự tự nhiên, tiến gần tới một bút pháp thoát ly được cái thói phù hoa, thói dởm, cái thói khoe tài, thói dàn cảnh của tuổi trẻ".
Theo tôi văn bình dị khó nhất ở điểm phải có ý cao, tình đẹp nếu không thì hoá ra nhạt nhẽo, vô vị. Phải từng trải cho nhiều, đau khổ cho lắm như Tư Mã Thiên, Hàn Dũ, Dostoievski – "cùng nhi hậu công" là nghĩa vậy; phải coi được nhiều kỳ quan của vũ trụ như Lý Bạch, J. London; phải học thật rộng như Tô Thức, Vương Dương Minh, Tagore; phải suy nghĩ cho thật chín như Thích Ca ở dưới gốc Bồ Đề, như Ki Tô ở trong núi, lại phải được trời phú bẩm cho một tâm hồn thanh cao, một trí óc sáng suốt; tóm lại phải vào hạng siêu nhân lại tốn công tu luyện – J. London thiếu công đó – mới đạt được cái nghệ thuật siêu đẳng là bình dị, tự nhiên, biết thế nào là không thừa, không thiếu, không non nớt mà cũng không phóng đại.
Khó như vậy nên từ xưa tới nay những nhà văn bình dị mà bất hủ mới rất hiếm: Lý Bạch được độ mươi bài thơ và bài cổ văn, Đỗ Phủ ít hơn. Tô Đông Pha được mươi bài cổ văn, dăm bài thơ, Nguyễn Du được vài chục câu trong Kiều, chục câu trong Văn tế thập loại chúng sinh… còn những nhà khác chỉ được vài bài. Những nhà lưu danh nhất trong lịch sử nhân loại lại chính là những nhà có những tư tưởng cao siêu nhất, tình cảm cao thượng nhất mà những nhà đó không hề làm văn bao giờ.
Platon không sánh được mấy nhà kể trên, nhưng nhờ được chứng kiến cái chết của thầy học là Socrate – một triết gia tâm hồn rất cao thượng – mà cũng lưu lại được một trang bất hủ tôi đã dẫn trong bộ Hương sắc trong vườn văn, chương XIII.
Đọc trang đó ta thấy Platon không sắp đặt gì cả, việc xảy tới đâu chép tới đấy; lập đi lập lại những tiếng và, rồi, người, có vẻ lôi thôi nữa, và chúng ta nghĩ bụng: "Ai mà viết chẳng được như vậy". Phải, chúng ta đều viết được như vậy miễn là được chứng kiến cái chết cao cả và cảm động của Socrate. Cái "đẹp" ở đây là cái đẹp tự nhiên, không cần tô điểm, mà làm cho tâm hồn ta cao thượng lên. Khi một hành vi, một thái độ đã tột bực cao đẹp thì càng tô chuốt càng hỏng, nên Platon không dùng một hình ảnh nào cả. Phải có điều kiện như vậy thì văn bình dị và tự nhiên mới khỏi vô vị.
KHÔNG QUÊN ĐỘC GIẢ - YÊU ĐỀ TÀI
Tôi viết nhiều loại sách cho nhiều hạng độc giả; từ người già tới thanh niên và cả trẻ em nữa; cho nên khi viết tôi phải nghĩ đến hạng độc giả của mỗi loại sách, viết sao cho họ hiểu được, nếu cần thì phải chú thích.
Cũng là viết về văn học Trung Quốc, mà bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc thuộc loại phổ thông, cho nên trình bày như một sách giáo khoa khác hẳn bộ Chiến Quốc sách và Sử kí thuộc loại biên khảo viết cho những độc giả đã hiểu biết ít nhiều về Trung Hoa.
Soạn sách tôi chỉ nhắm mục đích tự học và giúp độc giả tự học. Tôi nghĩ đến cái lợi của độc giả trước hết, chẳng hề tự cho mình có "sứ mạng" gì cả, mà cũng không hề mong được nổi tiếng, chỉ cần được một số độc giả tin mình thôi.
Có thích vấn đề nào thì tôi mới viết: Thấy vui trong khi viết, bấy nhiêu đủ cho tôi rồi. Khi viết tiểu sử danh nhân, tôi lựa những nhà có tâm hồn đẹp, có công với nhân loại: tôi gom góp càng nhiều tài liệu về họ càng tốt (tôi bỏ nhiều năm kiếm tài liệu về Helen Keller tìm hiểu những đau khổ, gắng sức, thành bại của họ rồi rung động, say mê kể lại cuộc đời của họ để làm gương cho đời; tóm lại tôi thực tâm yêu quý những vị mà tôi viết, nhờ vậy loại Gương danh nhân của tôi (gồm khoảng chục cuốn được độc giả hoan nghênh, khen là hấp dẫn, cảm động hơn những cuốn người khác viết. Phải chính mình thích cái gì mình viết thì độc giả mới thích nó được. Đó là qui tắc của tôi.
Tôi biết có những đề tài viết ra, bán sẽ rất chạy, nhưng tôi nhất định không viết, vì tôi không thích (chẳng hạn đời của hạng người như Thành Cát Tư Hản, Hitler); hoặc vì tôi thấy có hại cho độc giả (như tư tưởng của nhóm Hiện sinh ở Âu mà tôi cho là không hợp với dân tộc mình, xã hội mình lúc này).
Trái lại có những đề tài tôi biết là rất ít người đọc, nhưng thấy có lợi cho kiến thức của độc giả thì tôi cũng viết như cuốn Một niềm tin, chỉ in 2.000 bản mà bán sáu bảy năm chưa hết. Tôi không cầu danh hay lợi; có một số bạn hiểu mình, có dư một số tiền là đủ rồi.
CHÍNH TẢ - DÙNG CHỮ
Tôi rất chú trọng đến chính tả và sự dùng chữ cho đúng. Chỗ ngồi viết, sau lưng tôi kê một cái tủ mà hai ngăn chứa toàn tự điển, non hai chục bộ, lớn nhỏ: Việt, Pháp, Anh, Hán: tự điển văn liệu, điển tích, đồng âm, đồng nghĩa…, tôi chỉ cần quay lại, với tay là lấy được liền.
Cuốn tôi hay dùng hơn cả là cuốn Việt ngữ chánh tả của Lê Ngọc Trụ (Thanh Tân - 1960), nhất là cuốn Việt ngữ chính tả đối chiếu tự vị giản yếu của Phạm Trọng Kiên và Nguyễn Văn Tòng (Thế Giới – 1950). Trước khi có cuốn sau tôi cũng làm một cuốn sổ tay chép những tiếng tôi chưa thuộc chánh tả, sắp theo ba mục: tiếng bắt đầu bằng CH, TR; tiếng bắt đầu bằng D, GI, R; và tiếng bắt đầu bằng S, X.
Kiếm được cuốn của Phạm Trọng Kiên và Nguyễn Văn Tòng rồi, tôi bỏ sổ tay của tôi mà dùng cuốn đó. Chỉ dày 100 trang khỗ 11 x 15 phân, giá có 12 đ, mà nó giúp tôi được rất nhiều, cơ hồ không ngày nào tôi không tra nó; chỉ khi nào tra mà không thấy, chẳng hạn tiếng "nước ròng", "lúa sạ", "xối nước", "dẽ đất"… tôi mới phải dùng cuốn của Lê Ngọc Trụ vì cuốn này tra mất công hơn.
Cuốn đó thiếu nhiều, lại soạn riêng cho người Bắc nên có lần tôi đề nghị với một nhà xuất bản in một cuốn cũng giản yếu và đối chiếu như vậy nhưng khá đầy đủ, soạn chung cho người Bắc và Nam: người Bắc thường viết sai phụ âm đầu, người Nam hay lầm các vần và hai dấu hỏi, ngã. Những công việc nho nhỏ, tầm thường như vậy mà lại hữu ích vô cùng, tiết kiệm cho người dùng được nhiều thì giờ.
Hồi mới xuất bản được vài cuốn, mỗi lần sách phát hành rồi, đọc lại còn thấy sót lỗi của thợ sắp chữ hoặc lỗi của chính tôi, tôi bực mình lắm. Nhưng chỉ vài ba năm sau tôi đâm chai ra, cho rằng nhận lỗi là phải còn ân hận, thắc mắc về lỗi của mình thì chỉ hại cho tâm thần, công việc của mình thôi, và tôi tự an ủi bằng câu này của người Hồi giáo: "Chỉ có Allah – Thượng Đế - mới hoàn toàn".
Tôi nhớ một nhà xuất bản phương Tây quyết tâm in cuốn Thánh Kinh (Bible không có một lỗi nào. Sắp chữ xong một số trang, họ vỗ một bản dán ở trước cửa, yêu cầu tất cả nhân viên đọc, hễ thấy lỗi thì chỉ cho để sửa lại, rồi mới in. Vậy mà khi in xong, đóng bìa rồi, một người mới tìm ra được một lỗi nặng ở ngay đầu sách: chữ Bible đã sắp chữ lầm ra Bilbe.
Một người Ả Rập dệt xong một tấm thảm, soát lại từng đường dệt, không thấy một lỗi nào, cho như vậy là xúc phạm Allah (vì chỉ có Allah mới hoàn toàn), liền tháo một mối dệt, sửa lại cho thành một lỗi nhỏ.
Hai chuyện đó có thể chỉ là những giai thoại không có thực, nhưng cả hai đều có ý nghĩa, và khuyên ta cứ làm hết sức mình, đừng cầu toàn ở mình và trách bị ở người. Tôi còn nghĩ rằng Thượng Đế cũng không hoàn toàn nữa: cái thế giới mà Thượng Đế tạo ra này có biết bao điều khó hiểu, vô lý, mâu thuẫn, đâu phải là hoàn toàn. Khi học được cái khôn của người Ả Rập rồi, tôi bình thản hơn, hễ thấy lỗi nào trong tác phẩm đã in của tôi thì tôi sửa ngay trên một bản để tôi dùng riêng rồi quên nó đi.
Ngày nay, nếu có thì giờ đọc lại trăm tác phẩm của tôi thì thế nào trong mỗi cuốn cũng thấy được ít nhất là vài ba lỗi nặng, không kể những lỗi sai chính tả hay in lầm. Nhưng tôi sẽ không phí công sửa chữa, vì có sửa ba bốn lần nữa thì hết được lỗi nặng mà vẫn còn những chỗ không vừa ý, lại ngứa tay muốn sửa nữa. Để thì giờ làm công việc khác lợi hơn nhiều.
DỊCH LOẠI PHỔ THÔNG KIẾN THỨC
Số trang tôi dịch cũng ngang với số trang tôi viết, và những sách dịch của tôi có thể chia đại khái làm hai loại: loại Học làm người, loại Văn học, Triết học.
Xét chung về loại Học làm người và phổ thông kiến thức, giáo dục v.v… thấy đề tài nào nhiều người ngoại quốc hoặc Việt viết rồi thì tôi kiếm càng nhiều càng tốt những sách người ta đã viết, đọc cho biết, so sánh, châm chước ý mỗi nhà, thêm những nhận xét của tôi, rồi viết lại một cuốn cho thanh niên của mình.
Thí dụ cuốn Luyện lý trí. Tôi đọc trên mười cuốn Pháp, Việt về vấn đề đó, nhưng tôi không theo một tác giả nào cả vì không thấy một cuốn nào vừa ý; và tôi đã viết lại, nhấn mạnh vào điểm phải có tinh thần phán đoán, đừng vội tin những điều thiên hạ tin, lại phải nghi ngờ cả lời dạy của cổ nhân nữa. Có thể nói rằng tôi đã thành công: tác phẩm của tôi tuy mượn tài liệu trong nhiều tác phẩm mà không giống một tác phẩm nào. Nó hợp với xã hội mình hơn, có ích cho thanh niên mình hơn; nó thực là của tôi. Ngay khi mới xuất bản, một nhân viên trong một cơ quan, du học ở Mỹ đã mấy năm, đọc nó, thích và lại làm quen với tôi.
Có trường hợp tôi không cần phải khảo cứu, cứ rút những kinh nghiệm trong đời sống của tôi để viết, như cuốn Tương lai trong tay ta mà độc giả rất hoan nghênh vì lời khuyên thiết thực, giọng chân thành và cảm động. Nó cũng hoàn toàn là của tôi, trình bày nhân sinh quan của tôi.
Có thể kể vào loại này những cuốn Kim chỉ nam của học sinh, Tự học một nhu cầu của thời đại v.v… trong đó tôi đưa những kinh nghiệm riêng của tôi, chứ không như một số tác giả chỉ thu thập những ý kiến của phương Tây rồi viết lại.
Một độc giả, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, nhận thấy điểm đó, viết trong bài Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi (Bách Khoa số 426 – 20.4.75):
"Tôi biết có những tác giả còn "sản xuất" mạnh hơn ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng là những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt. Ở ông Nguyễn Hiến Lê thì không. Ở ông là con người. Tác phẩm của ông là con người ông. Ông "dạy" cho thanh niên rèn nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực; ông viết về tổ chức thì chính nếp sống của ông là một sự tổ chức; ông viết về tự học thì chính ông đã nhờ tự học mà thành công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều ứng dụng được".
Và cũng nhờ vậy mà loại "Học làm người" của tôi được độc giả tin cậy.
Sau cùng, có những tác phẩm đặc biệt, của một danh sĩ như André Maurois (Thư ngỏ tuổi đôi mươi, Thư gởi người đàn bà không quen biết), B. Russel (Chinh phục hạnh phúc), Lâm Ngữ Đường (Sống đẹp), A. Bennett (Sống hai mươi bốn giờ một ngày hay một tác giả không phải là danh sĩ, nhưng chứa nhiều ý rất mới như Xây dựng hạnh phúc của L.A. Huxley, vợ nhà văn Aldous Huxley; hoặc viết rất hấp dẫn, đào sâu một vấn đề như Đắc nhân tâm, Quảng gánh lo của Dale Carnegie… thì tôi phải dịch, vì tự xét viết không thế nào bằng tác giả được. Dịch loại này, trừ các tác phẩm của danh sĩ, tôi thường dịch thoát, có thể cắt bớt, có thể sửa đổi vài chỗ cho hợp với người mình. Nếu sửa thì cho độc giả biết.
DỊCH TRIẾT HỌC, VĂN HỌC
Loại triết học, văn học thì luôn luôn tôi dịch sát (đức tín và xuôi (đức thuận), sáng sủa, nếu cần thì chú thích.
Tôi dịch nhiều nhất là sách triết Trung Hoa, công việc tương đối dễ, không phải tạo danh từ mới để diễn những ý niệm mới như dịch sách triết Tây phương. Cần nhất là hiểu kỹ ý trong sách và muốn vậy phải có những bản chú thích tốt.
Dịch sách văn học khó hơn dịch sách triết học vì chẳng những dịch sát ý mà còn phải giữ cả thể văn, có khi cả phép hành văn của tác giả nữa. Tôi rất ngại việc dịch thơ Trung Hoa, nhất là thơ luật, phải dịch ra thơ luật mà tôi không làm thơ bao giờ. Trong bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc, chỉ có một số ít bài do tôi dịch, mà toàn là những bài dễ, còn hầu hết đều do bác ba tôi dịch cho và ký tên là Vô danh. Nhưng thơ cổ phong loại "từ" (một thể thơ và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì không bị trói buộc vào niêm luật.
Trái lại, cổ văn Trung Quốc thì tôi tự dịch lấy hết, diễn được đúng ý và thể (biền ngẫu, phú của nguyên tác, nhiều độc giả cho là thành công.
Dịch tiểu thuyết phương Tây, tôi nghĩ rằng muốn thành công thì phải lựa một tác phẩm hay, mà bút pháp tác giả không trái với bút pháp của tôi, bình dị, tự nhiên như Léon Tolstoi, Somerset Maugham… vì có vậy thì dịch mới thú, độc giả mới thấy thích. Tôi sợ nhất là dịch Marcel Proust: có lần tôi chỉ dịch một trang của ông mất cả một buổi, sửa đi sửa lại mấy lần vẫn không vừa ý. Tôi chắc bất kỳ người Việt nào dịch văn hào đó cũng thấy khó nhọc như tôi.
Dịch tiểu thuyết Âu Mỹ khó hơn dịch tiểu thuyết Trung Hoa. Mỗi ngôn ngữ có một lối phô diễn tư tưởng, không thể áp dụng bừa bãi lối của người vào ngôn ngữ của mình được. Giữa Việt ngữ và Hoa ngữ, sự cách biệt không là bao vì cả hai đều thuộc loại ngôn ngữ cách thể (langue isolante – xưa gọi là đơn âm và hai dân tộc đồng văn với nhau; nhưng giữa Việt ngữ và Pháp ngữ hoặc Anh ngữ có một bức tường, không phải chỉ phủ nhận bức tường đó là làm cho nó biến đi được.
Không những vậy, tâm hồn của người Âu cũng khác của mình, lối suy nghĩ, nhìn đời của họ cũng vậy, họ lại có những dụng ngữ, ý niệm mà chúng ta không có (chẳng hạn những tiếng gentlement, honnêtre homme, bourgeois chúng ta không thể dịch cho thật đúng được); ngược lại chúng ta cũng có những dụng ngữ, ý niệm mà họ không có (như tiếng quân tử, sĩ phu, âm dương…).
Vì vậy, dịch sách Pháp, Anh chúng ta thường phải dịch thoát, đảo lên đảo xuống, thay đổi tổ chức của câu, có khi ta bắt buộc phải tìm hiểu ý của tác giả rồi quên nguyên tác đi, diễn lại ra sao cho hợp với tinh thần tiếng Việt, để những đồng bào không biết ngoại ngữ hiểu được như ta, hiểu mà không thấy bỡ ngỡ, chướng tai. Dịch các sách khoa học mà như vậy thì không có hại, dịch văn thơ mà phải theo lối đó thì cái hay trong nguyên tác mười phần mất đến sáu bảy, như trường hợp dịch Chateaubriant, Anatole France, hai nhà này là những nghệ sĩ, văn du dương như thơ.
Cách xưng hô, nói năng của họ khác mình, Pháp có những tiếng je, vous, il, mình phải khéo chuyển ra tiếng Việt cho hợp với mỗi hạng người. Vợ chồng họ thường gọi nhau chéri (e cả trước mặt người lạ; chúng ta không thể dịch sát nghĩa ra là anh yêu dấu hoặc em cưng được, chỉ có thể dịch ra là "mình" hoặc "em", trừ khi hai vợ chồng ở trong phòng riêng tỏ vẻ âu yếm với nhau.
Rồi những câu tục ngữ của họ nữa, dịch sát thì cũng được, nhưng như vậy thì không khéo mà phải chú thích, tôi phải ráng tìm một tục ngữ Việt tương đương để chuyển. Chẳng hạn trong bộ Chiến tranh và Hoà bình, L. Tolstoi cho một nhân vật trong truyện bảo một thiếu nữ: "Sao em không ở nhà mà quay xa", một bản tiếng Pháp chuyển ra thành: "Sao em không yên ổn trồng rau, chúng đánh đau thì chịu"; tôi tìm được câu tục ngữ tương đương mà gọn: "trêu có, cò mổ mắt". Nhưng mười lần, may lắm là tìm ta được dăm ba lần, như vậy cũng là may rồi.
Ông Vi Huyền Đắc không dịch câu: "Nous nous connaissions depuis l’âge des chausesettes" là "Chúng tôi biết nhau từ khi còn đi vớ ngắn" (vì trẻ em Việt rất ít khi đi vớ), cũng không dịch là "chúng tôi biết nhau từ khi còn để chỏm" (vì trẻ em Pháp không để chỏm); mà dịch là "chúng tôi biết nhau từ khi hỉ mũi chưa sạch". Cũng đã là khéo chuyển lắm. Độc giả đọc chỉ thấy xuôi tai thôi, ít ai nhận được công phu của người dịch.
DỊCH MỘT TIỂU THUYẾT DÀI
Tôi rút ra được kinh nghiệm này khi dịch những tiểu thuyết dài 7- 8 trăm trang trở lên của Anh, Pháp, Nga.
Muốn cho bản dịch được nhất trí, và đỡ mất thì giờ, nên chép lên một tờ giấy riêng tên những đồ dùng của họ mà mình không có, như cái samovar, cái traîneau… tìm một cách dịch, rồi ghi ngay ở bên cạnh, chẳng hạn: ấm lò, xe trượt tuyết… để sau gặp lại kiếm được ngay, khỏi phải dịch lại.
Những tiếng có nhiều nghĩa như tiếng animé, tuỳ chỗ phải dịch là có hồn, có sinh lực, náo nhiệt, khởi sắc, hung hăng, hoạt động, hoạt bát, nhiệt tâm, linh động, hồng hào, hăng hái, kịch liệt… cũng nên ghi tất cả những nghĩa đó trên một tờ giấy riêng để sau dễ lựa nghĩa nào hợp với đoạn văn phải dịch.
Nhất là phải lập một bảng ghi tên các nhân vật chính và phụ trong truyện với địa vị xã hội, nghề nghiệp, tuổi tác, tình bạn bè hoặc họ hàng giữa những nhân vật này với nhân vật khác; định cho nó một cách xưng hô với nhau hồi trẻ ra sao, về già ra sao… để khỏi mắc lỗi mâu thuẫn trong cách xưng hô. Vì không lập bảng ngay từ đầu bộ Chiến tranh và Hoà bình mà tôi đã tốn rất nhiều thì giờ, có khi dịch cả ngàn trang rồi phải lật lại những trang trước để tìm xem nhân vật này gọi một nhân vật khác là gì: anh hay cậu, chị hay cô, bác hay chú… Dịch xong mỗi chương cũng nên tóm tắt truyện trong chương để sau tra lại cho dễ.
Văn dịch của chúng ta ngày nay so với ba chục năm về trước đã tiến bộ, bớt lai căng, nhưng vẫn còn một số dịch giả cả ở Nam lẫn ở Bắc làm việc cẩu thả, dịch đúng từng chữ, không chịu tìm cách chuyển qua tiếng Việt, thành thử lời đã sượng, ý lại rất tối. Năm 1968, trong tạp chí Bách Khoa số 281, tôi đã nêu vấn đề đó, đưa ra nhiều thí dụ. Muốn mau trừ cái tệ đó, tôi nghĩ các nhà xuất bản và nhà báo phải từ chối tất cả các bản dịch có giọng lai căng, không xuôi tai, chỉ có cách đó mới bắt người dịch phải tìm ra những cách phô diễn mới mà thích hợp với Việt ngữ. Công việc này rất có lợi cho Việt ngữ, phải tốn sức trong một thời gian dài, có thể vài ba chục năm.
DỊCH MỘT TÁC PHẨM NHƯ DIỄN MỘT BẢN NHẠC
Đã hơn 15 năm rồi, một buổi tối mùa xuân tôi được nghe một dàn nhạc từ Mỹ qua hoà tấu ở Sở Thú cho giới trí thức, văn nhân, học giả Sài Gòn thưởng thức. Họ bắt đầu bằng bản Quốc thiều Việt Nam. Tôi thấy rất du dương, từ bỗng xuống trầm rất dịu dàng; như có tiếng gió thổi nhẹ trong cành lá trên đầu chúng tôi vậy (thính giả ngồi giữa trời). Dĩ nhiên họ tấu rất đúng nhưng nó không làm cho máu tôi sôi lên như biết bao nhiêu lần trước tôi đã nghe các nhạc công của mình tấu.
Tôi có băng cổ nhạc Nam Bình, lâu lâu tôi cho chạy để nghe bài Vọng cố hương và bài Lan và Điệp. Cũng là bản vọng cổ, cũng do ba nhạc công: Bảy Bá, Năm Cơ, Văn Vĩ hoà, chỉ khác bài Vọng cố hương là dùng đàn tranh, đàn guitare, đàn kìm, bài Lan và Điệp dùng đàn tranh, đàn guitare và đàn sến (có lẽ còn khác cách lên dây nữa), mà bài Lan và Điệp ai oán hơn bài Vọng cố hương nhiều.
Tôi lại nhớ năm 1935, khi đi đo mực nước miền Tây, có một người giúp việc cho tôi tên Tám quê ở làng Tân Thạnh, làng bác tôi, chơi đàn kìm rất hay, đặc biệt nhất là bản Vọng cổ, anh có một lối nhấn không giống ai, khiến bản Vọng cổ dưới ngón tay anh có giọng lâm ly mà vẫn hùng, tôi nghe thích như bản Văn Thiên Tường.
Vậy nhạc trưởng và cả nhạc công nữa, nếu có tài thì đều có công sáng tác khi trình diễn một bản nhạc. Cũng là bản nhạc đó, những nốt nhạc đó, mà không một nghệ sĩ nào trình diễn giống nghệ sĩ nào, tài đã khác nhau mà cảm xúc và lối diễn cũng khác nhau, vẫn có cái gì riêng của mỗi người, dễ nhận ra được.
Tôi không biết gì về nhạc, hiểu như vậy không biết có đúng không, và tôi nghĩ rằng văn thơ cũng như nhạc, dịch một bài văn một bài thơ cũng như diễn một bản nhạc, cũng là làm công việc sáng tạo, mặc dù dịch rất sát không thêm bớt. Dịch giả nếu có tài, cũng là một nghệ sĩ mà mỗi bản dịch cũng là một nghệ phẩm. Không một bản dịch nào đúng hẳn với nguyên tác; bản dịch nào cũng mang ít nhiều cá tính, tài năng của người dịch, tinh thần của ngôn ngữ người dịch; cũng để lộ tâm tư của người dịch, cái không khí thời đại của người dịch.
Muốn thấy rõ điều đó, chúng ta chỉ cần so sánh nguyên văn bài Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị với bản dịch Phan Huy Vịnh (nhà xuất bản Nam Việt – 1952 hoặc bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn với bản dịch của Đoàn Thị Điểm (có người bảo là của Phan Huy Ích). Dưới đây tôi lựa bài Tỳ bà hành vì tác giả và dịch giả không phải là người cùng một nước, cũng không sống cùng một thời.
Mới câu đầu chúng ta đã thấy hai bản có cái gì khác nhau rồi, mặc dù cũng bảy chữ và bản dịch rất sát nguyên bản:
Tầm dương giang đầu dạ tống khách
Không buồn, không vắng vẻ, du dương, mông lung bằng:
Bến tầm dương canh khuya đưa khách.
Như vậy có lẽ do nhạc của câu tiếng Việt, và do hai chữ canh khuya. Dạ (đêm không gợi ý bằng canh khuya. Tài năng của họ Phan, tinh thần của tiếng Việt là ở chỗ đó.
Bốn năm trước, một bạn văn ở Trung Việt cho tôi hay rằng một độc giả của tôi nói với ông: "Đọc bản dịch Guerre et Paix của Pháp tôi thấy hùng, mà đọc bản dịch của ông Lê tôi thấy buồn và đẹp".
Tôi chưa hề nhận thấy vậy mà tôi cũng không có cơ hội xin độc giả chỉ cho tôi một vài đoạn trong bản của tôi và bản tiếng Pháp ông ấy đã đọc để tôi so sánh. Nếu lời ông ấy đúng thì thật là ngoài ý muốn của tôi, vì khi dịch không bao giờ tôi mong rằng dịch đẹp hơn, buồn hơn bản tiếng Pháp mà tôi dùng. Nhưng điều đó có thể hiểu được: tiếng Việt có thể không hùng bằng tiếng Pháp, mà du dương hơn tiếng Pháp nhờ những âm bằng trắc, bổng trầm.
Một độc giả khác cũng ở Trung bảo đọc bản tiếng Pháp cuốn Il est un pont sur la Drina của nhà Plon, chỉ được vài chục trang chán quá phải bỏ; mà đọc bản dịch Chiếc cầu trên sông Drina (Trí Đăng – 1972 thì say mê từ đầu tới cuối. Điều này rất dễ hiểu: người Việt dù thông thạo tiếng Pháp, đọc tiếng Việt vẫn thích hơn đọc tiếng Pháp nếu hai bản có giá trị ngang nhau vì chúng ta dễ cảm được những tế nhị, những âm hưởng, tiết điệu trong tiếng Việt hơn của tiếng Pháp.
Mà đọc sách Trung Hoa thì cũng vậy, mặc dù ngôn ngữ, văn thơ Hoa, Việt có nhiều điểm giống nhau. Vì thế mà các nhà Nho của ta thích bản Tì Bà Hành của Phan Huy Vịnh hơn, thuộc nó hơn nguyên bản của Bạch Cư Dị.
Đọc câu thứ hai của bài đó:
Phong diệp địch hoa, thu sắt sắt
và câu dịch:
Quạnh hơi thu, lau lách dìu hiu
thì câu của họ Phan làm tôi rung động hơn nhiều, nhờ những chữ: lau lách dìu hiu, cả chữ quạnh, chữ hơi nữa vì ta thấy lau lách buồn hơn địch hoa; hơi thu, đìu hiu gợi cảm hơn thu sắt sắt.
Nhưng một người Trung Hoa đọc câu của Bạch chắc cũng thích hơn câu của Phan vì phong diệp (cây phong cứ mùa thu thì trút lá vàng), sắt sắt (tiếng gió vi vút gợi cho họ một cảnh thu thê thảm hơn. Mà cảnh thu ở Trung Hoa thê thảm hơn ở Việt Nam thật.
Mỗi tác phẩm bất hủ của một dân tộc nào nếu khéo dịch cũng thành một tác phẩm bất hủ của một dân tộc khác, thành một bảo vật trong kho tàng chung của nhân loại. Bản Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị và bản dịch của Phan Huy Vịnh thật là hai kiệt tác diễn được cả tâm sự của Bạch lẫn của Phan làm rung động tâm hồn hai dân tộc Hoa và Việt. Tôi ao ước có một đào nương cũng mang tâm sự của hai nhà đó ca lên để thu băng lưu lại cho hậu thế.
Chúng ta phải khuyến khích việc dịch, luyện văn dịch, và ráng dịch nhiều văn thơ của ngoại quốc để làm giàu văn hóa của mình. Người Pháp khen Baudelaire dịch Histoires extraordinaires (Truyện Quái đản của Edgar Poe là rất sát và rất hay, quí nó không kém những tập truyện ngắn nổi tiếng nhất của họ.
Trong một số tác phẩm, tôi đã bàn về nhiều vấn đề trong chương này:
- Vấn đề nguyên tác – (Nghề viết văn - Phần II, ch. III).
- Bút pháp và cá tính – (Vài vấn đề xây dựng văn hóa – tr.8).
- Văn chương và dân tộc tính – (nt – tr.16).
- Viết – (Nghề viết văn – Phần II, chương V).
- Bí quyết luyện văn – (Luyện văn III, tr.148).
- Dịch là một cách luyện văn – (Luyện văn III, tr.149).
- Dịch văn ngoại quốc (Bách Khoa số 281 - năm 1968).
Chú thích:
(1)
Tập du ký Đế Thiên Đế Thích, tôi viết từ 1943; năm 1968. hai mươi lăm năm sau mới xuất bản, nhà văn Võ Phiến đọc rồi, bảo văn tôi trong hai mươi lăm năm đó không có gì thay đổi.
Phần VII
HAI CHỤC NĂM LÀM VIỆC TÍCH CỰC
SÁCH TÔI VIẾT TỪ 1955 ĐẾN 1975
Cuối năm 1954, khi thành lập nhà xuất bản ở 50 Huỳnh Tịnh Của, tôi đã có được khoảng mươi tác phẩm và mười bài trên các báo Việt Thanh, Giáo dục phổ thông, Mới (của nhà P. Văn Tươi), không kể những bài trên tờ Tân Việt Nam (1945).
Những tác phẩm đó thuộc các loại:
- Tổ chức công việc.
- Giáo dục, Học làm người.
- Văn học.
- Ngữ pháp - Luyện văn.
- Lịch sử (Lịch sử thế giới).
- Du ký.
Non hai phần ba số đó đã ra mắt độc giả, còn thì hai ba năm sau mới in.
Từ 1955, liên tiếp hai chục năm:
a. Một mặt tôi mở rộng, đào sâu các đề tài đã viết, như về:
- Tổ chức công việc, tôi viết thêm những cuốn Tổ chức công việc làm ăn, Lợi mỗi ngày được một giờ…
- Giáo dục và Học làm người, tôi viết thêm trên ba chục cuốn: Thời mới dạy con theo lối mới, Tìm hiểu con của chúng ta, Thế giới bí mật của trẻ em…
Rèn nghị lực, Luyện lý trí, Tương lai ở trong tay ta, Nghệ thuật nói trước công chúng, Cách xử thế của người nay, Xây dựng hạnh phúc, Chinh phục hạnh phúc, Giúp chồng thành công, Giữ tình yêu của chồng, Con đường lập thân…
Trong loại này có thể kể hơn một chục cuốn Tiểu sử danh nhân: Gương danh nhân, Giương hi sinh, Gương kiên nhẫn, Gương chiến đấu, Ý chí sắt đá, Những cuộc đời ngoại hạng, Einstein, Bertrand Russell, Đời nghệ sĩ.
Khi dịch cuốn Huấn luyện tình cảm của P. Félix Thomas (năm 1941 tôi để ý đến đoạn này ở chương XXI:
"Đời các vĩ nhân cho ta một lý tưởng, một kiểu mẫu để bắt chước (… Nhờ có gương của họ mà ta trở nên khá, có can đảm, kiên nhẫn để đi đến mục đích mà không sa ngã. Điều đó Auguste Comte hiểu rõ lắm, cho nên ông khuyên ta nên in tên các danh nhân của nhân loại lên trên lịch để cho chúng ta mỗi ngày có dịp trầm tư về các vị ấy.
Lòng sùng bái vĩ nhân (như Emerson nói còn là một thứ thuốc nó tẩy sạch cái bệnh tự tôn ở mắt ta đi và cho ta thấy được người khác và những công nghiệp của họ.
"(… Vì vậy không có gì bổ ích bằng những truyện ký dạy ở trường. Biết chọn những truyện đó và lựa lúc để đọc cho học sinh nghe thì những truyện đó là những bài học dễ hiểu, vui vẻ, cụ thể, dạy cho chúng can đảm, có đức hạnh. Những truyện ký về các danh nhân đó, khéo viết thành sách còn có ích cho thiếu niên nữa. Người nào biết làm cho thiếu niên bỏ những sách nhạt nhẽo, nhảm nhí và hướng cả về những truyện có ích ấy, thật là giúp được một việc lớn nhất trong nước. Công của tất cả các nhà đạo đức gom lại cũng không lớn bằng công răn dạy quần chúng ấy".
Đoạn trên đó kích thích tôi mạnh và ngay từ hồi đó đã có ý thức theo lời khuyên bảo của Thomas. Nhưng mãi đến năm 1959, nhờ thu thập được một số khá nhiều tiểu sử danh nhân, tôi mới lựa chọn mà viết được cuốn đầu nhan đề là Gương danh nhân. Rồi từ đó cứ một hai năm tôi lại viết thêm một cuốn với tất cả sự chân thành nhiệt tâm của tôi. Tôi lựa toàn là những nhà tài đức cao, như tôi đã nói ở trên. Những người có danh lớn, có tên trong lịch sử nhân loại mà đức kém thì tôi cũng loại bỏ. Vì vậy trong số trên bảy chục danh nhân tôi viết tiểu sử, không có Thành Cát Tư Hản, César, Napoléon… mà có bà La Fayette. Đọc tiểu sử bà này và tiểu sử bà Curie (1) tôi viết, một nhà văn ở Trung Việt bảo đã xúc động đến rơm rớm nước mắt. Và độc giả nào cũng nhận Tiểu sử danh nhân của tôi có tác động giáo dục lớn.
- Về Văn học Trung Quốc tôi viết thêm bộ Văn học Trung Quốc hiện đại, Tô Đông Pha, Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Cổ văn Trung Quốc, Chiến Quốc sách, Sử ký của Tư Mã Thiên…
- Về Luyện văn, tôi viết thêm bộ Hương sắc trong vườn văn, Tôi tập viết tiếng Việt.
- Về Ngữ pháp, tôi viết chung với ông Trương Văn Chình thêm cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam.
- Về Lịch sử, thêm Đông kinh nghĩa thục, Bài học Israël, Bán đảo Ả Rập và dịch năm cuốn trong bộ Lịch sử văn minh của Will Durant, trong đó có cuốn: Lịch sử văn minh Trung Hoa.
b. Mặt khác, tôi bước vào vài khu vực mới:
- Triết học Trung Quốc: Mới đầu chỉ là một cuốn mỏng: Nho giáo, một triết lý chính trị; sau nhờ duyên văn tự và cũng nhờ Hiệp định Genève, tôi gặp được ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn, lại nhờ ông bạn ở Pháp, ông Tạ Trọng Hiệp, tìm kiếm cho tài liệu ngoại quốc, tôi tiến sâu vào khu vực đó, tới đầu năm 1975 đã xuất bản được bộ Đại cương triết học Trung Quốc 2 cuốn (chung với Giản Chi), Nhà giáo họ Khổng, Liệt Tử và Dương Tử, Mạnh Tử, và tới nay (1980 tôi có thêm được bảy tám bộ nữa về các triết gia thời Tiên Tần: Tuân Tử, Hàn Phi (cả hai chung với Giản Chi), Mặc Tử, Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Luận Ngữ, Kinh Dịch (tất cả đều chưa xuất bản).
- Tôi xông cả vào khu Chính trị, kinh tế: Một niềm tin, Xung đột trong đời sống quốc tế...
- Thấy tiểu thuyết hay, tôi cũng dịch, một phần do ý muốn của tôi, một phần do lời yêu cầu của vài nhà xuất bản: Lá Bối, Ca Dao, Trí Đăng, như các bộ Chiến tranh và Hòa bình, Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu…
c. Ngoài ra, từ 1957, tôi còn viết đều đều mỗi tháng một hay hai báo cho các tạp chí định kỳ Bách Khoa (nhiều nhất), Mai, Tin Văn, Văn… và mỗi năm trung bình viết một bài Tựa cho một tác phẩm của bạn văn.
Tính sổ lại trong hai chục năm hoạt động, tôi đã cho ra được khoảng chín chục nhan đề, cộng với những nhan đề đã xuất bản trước 1955, được chẵn một trăm, có bốn nhan đề chỉ là một tập mỏng vài chục trang (loại Bông hồng cài áo của nhà Lá Bối), nhưng cũng có 7-8 nhan đề gồm 2, 3, cuốn, từ 400 đến 2.000 trang; đa số từ 200 đến 300 trang (Coi Mục lục ở phần Phụ lục). Viết được trên mười tác phẩm chưa xuất bản, mỗi cuốn từ 200 đến 500 trang, có vài cuốn về triết học Trung Hoa thời Tiên Tần. (Đây tôi chỉ kể những cuốn viết tới ngày giải phóng. Từ 1975 đến 1980 tôi còn viết thêm được nhiều cuốn nữa).
Viết khoảng 250 bài báo, già nửa in thành sách (coi Phụ lục).
Và viết giúp bạn trên 20 bài Tựa, đa số cho loại biên khảo, một số ít cho loại thơ, tuỳ bút.
BÁO TÔI HỢP TÁC
Hiệp định Genève ký 1954 thì 1955 thi sĩ Bàng Bá Lân lại làm quen với tôi. Ông sở dĩ biết tôi vì ở Bắc đã đọc cuốn Luyện văn, trong đó tôi trích dẫn í câu thơ của ông. Ông làm chủ nhiệm tờ Bông lúa, do chính phủ tài trợ, mỗi tháng ra một số dày dăm bảy chục trang, khổ nhỏ. Bài vở hầu hết của ông, ông nhờ vài bạn văn tiếp tay. Nhân có một số tiểu luận và kịch bản đã dịch sẵn từ tiếng Anh và tiếng Pháp, tôi vị tình đưa ông đăng, hoàn toàn để giúp ông. Năm 1956 tờ đó đình bản, số cuối đăng trọn bản dịch kịch Công ty Lạc sinh của tôi. Tờ đó bán rất ít, gần như không ai biết.
- BÁCH KHOA
Năm 1957, tạp chí Bách Khoa ra được hai số thì nhà văn Nguyễn Hữu Ngư (Ngu Í dắt bà Phạm Ngọc Thảo lại giới thiệu với tôi để nhờ tôi viết giúp tờ Bách Khoa mà chồng bà có chân trong toà soạn.
Tôi không hề quen bà Thảo, chỉ do Nguyễn Hữu Ngư mà biết bà là em ruột giáo sư Phạm Thiều hồi đó đã tập kết ra Bắc, còn ông là một nhân viên khá quan trọng trong Kháng chiến miền Nam. Tôi cũng không biết người sáng lập tờ Bách Khoa là ai, tòa soạn gồm những ai, chỉ thấy bà Thảo nhã nhặn, có học thức, mà tạp chí đó bài vở cũng đứng đắn, nên tôi góp với họ bài Quan niệm sáng tác của Edgar Poe, bài The Raven mà tôi đã viết từ trước.
Bài đó được đăng ngay trong số 4 (tạp chí ra mỗi tháng hai kỳ). Tiếp theo tôi cũng gởi cho họ ba bài nữa cũng về văn học, bài Tiếng Việt ngày nay, Vấn đề dịch văn, Phép dịch thơ, cũng được tòa soạn cho đăng ngay trên các số 5, 6, 7, 8. Từ đó, lâu lâu tôi gởi thêm một bài về Nho giáo, về danh nhân hay về văn học…, toàn là do bà Thảo hay ông Ngư làm trung gian, chứ tôi vẫn chưa lại toà soạn. Hợp tác với báo nào tôi vẫn giữ tư cách một độc giả góp bài chứ không dự gì vào đường lối, công việc của tòa soạn. Tôi không nhớ là mấy tháng sau, có dịp đi qua số 160 đường Phan Đình Phùng (2) mới ghé toà soạn Bách Khoa cách nhà tôi khoảng 1 cây số, gặp ông Hoàng Minh Tuynh và vài anh em nữa. Tôi cũng không nhớ bao lâu sau tôi mới gặp ông Phạm Ngọc Thảo (3), một người thấp nhỏ, rất hoạt động, có tư tưởng tiến bộ, viết một số bài về quân sự, tỏ ra có kinh nghiệm và biết suy nghĩ. Hai ông Tuynh và Thảo có vẻ mến tôi cả. Từ đó tôi hợp tác đều đều với tạp chí cho tới khi đình bản (5-975).
Trong lịch sử báo chí nước nhà, tờ Bách Khoa có một địa vị đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà sống được mười tám năm, từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam Phong; có uy tín, tập hợp được nhiều cây bút giá trị như Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng một trăm.
Mới đầu chỉ là một nhóm công chức cao cấp nghiên cứu về kinh tế, tài chính, quân sự do Huỳnh Văn Lang thành lập. Họ xin được nhãn báo của tờ Bách Khoa bình dân đã chết từ số 2, cắt hai chữ "bình dân" đi; rồi hùn nhau để tục bản. Họ đa số là những người đã tham gia kháng chiến chống Pháp trở về, không hoạt động cho kháng chiến nữa, mặc dầu là công chức nhưng không ưa Pháp.
Năm đầu đăng nhiều bài về kinh tế và một số bài về công giáo, nên có tính chất nặng nề, nhưng báo sống nổi nhờ chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang làm giám đốc viện Hối đoái, tờ báo thu được nhiều quảng cáo.
Đến năm 1959, một phần nhờ ông Lê Ngộ Châu (đã hồi theo kháng chiến rồi về Hà Nội dạy tư), được Huỳnh Văn Lang giao cho nhiệm vụ tựa như thư ký toà soạn, mà tờ báo khởi sắc, có một đường lối rõ rệt, đường lối thứ ba, không theo Cộng mà cũng không theo Mỹ, và tập hợp được một số cây bút có kinh nghiệm làm nồng cốt như Võ Phiến, Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân, Phan Du, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc…
Khi báo có uy tín rồi (từ 1960 ông Châu tập hợp thêm được một số cây viết trẻ, từ đó báo đăng nhiều bài có giá trị cả về biên khảo, lẫn sáng tác; và chính nhờ hợp tác với Bách Khoa mà những cây viết đó nổi tiếng, như: Vũ Hạnh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cô Liêu, Ngu Í, Phạm Việt Châu, Phan Văn Tạo, Đoàn Thêm (hai người sau là nhân viên cao cấp trong chính quyền Ngô Đình Diệm)…, nhất là các nữ tiểu thuyết gia Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Thuỵ Vũ, Túy Hồng…
Ngu Í chuyên về phỏng vấn, từng trải, có nhiều nhiệt tâm, văn có duyên.
Võ Phiến còn ký tên là Tràng Thiên, Thu Thuỷ, viết tiểu thuyết nhưng thành công nhất về tạp bút, ý sâu sắc và lời dí dỏm. Ông có tài phân tích tâm lý, tả cảnh vật rất linh động.
Phan Văn Tạo, bút hiệu Vũ Bảo, viết về hồi ký và thời sự.
Phạm Việt Châu chuyên về chính trị quốc tế và nhận định thời cuộc.
Có tinh thần đồng đội giữa những cây viết chính. Trong mười năm đầu, họ thường họp nhau ở toà soạn 160 Phan Đình Phùng, hội ý trước về các đề tài, góp ý về nội dung các bài phê bình, đả kích. Tôi không khi nào dự cả, nhưng thỉnh thoảng ông Châu cũng nhờ tôi cho ý kiến về một bài gởi đăng mà đề tài tôi biết rõ hơn ông, như Văn học, Triết học Trung Quốc.
Tư tưởng chính trị của những cây viết nồng cốt có khi trái ngược nhau. Vũ Hạnh thiên Cộng, sau theo Cộng; Võ Phiến chống Cộng; Đoàn Thêm và Phan Văn Tạo không ưa Cộng cũng không đả, không thích Mỹ nhưng cũng không nói ra; tôi, có lẽ cả Ngu Í và Lê Ngộ Châu, có cảm tình với kháng chiến, nhưng khác hai ông ấy, càng về sau, từ 1965 trở đi, khi Mỹ đổ nửa triệu quân vào miền Nam, tôi càng đả mạnh Mỹ và chính phủ Thiệu, bù nhìn của Mỹ. Mặc dầu vậy, các anh em trong toà soạn vẫn giữ tình hoà hảo với nhau. Xu hướng trái ngược với nhau như Vũ Hạnh và Võ Phiến mà vẫn trọng tư tưởng của nhau (ít nhất là trong mười năm đầu) và gặp nhau tránh nói về chính trị. Đó là điểm tôi quý nhất.
Nhờ anh em ai cũng có tinh thần đó nên buổi họp nào ở toà soạn cũng đông, vui như Phan Du đã tả trong bài Văn đàn tình thoại (Bách Khoa số 361, tr. 62): "Bất luận là trẻ già, là mới cũ, là duy vật duy tâm, là Phật giáo hay Công giáo, khuynh hướng chính trị, văn chương như thế nào, đều được đón nhận với sự cảm thông và được chung đụng trong cái thể hoà đồng, cởi mở".
Tờ báo có chủ trương đăng tất cả các sáng kiến cá nhân dù đúng hay sai, miễn là thành thực, có tinh thần xây dựng về bất cứ vấn đề gì: từ chính trị đến kinh tế, văn học, khoa học… mà "không giới hạn ở lập trường chính trị nào, phe nhóm nào". Dĩ nhiên bị kiểm duyệt gắt, nhất là trong bảy tám năm cuối, nên không một cây viết nào có thể trình bày hết ý mình được; mặc dầu vậy Bách Khoa vẫn được độc giả khen là "dám nói". Sau ngày 30-4-1975, nhiều học giả Bắc nhận là một tờ báo "nghiêm chỉnh", tuy chống đối cả Cộng sản lẫn Tư bản, nhưng có lập trường đứng đắn, lý luận vững, ngôn ngữ đàng hoàng; họ thích đọc Bách Khoa để hiểu miền Nam và hiện nay các số báo Bách Khoa cũ càng ngày càng có giá trị: một bộ cũ rách, từ đầu đến cuối, thiếu độ mười số, bán được gần 800đ (400.000đ cũ).
Bách Khoa thịnh nhất trong những năm 1959-63 bán được 4.500-5.000 số; độc giả dài hạn được trên 1.000 mà khoảng 100 ở ngoại quốc, tờ Văn bán chạy hơn, còn các tờ định kì khác thì trung bình được 3.000 số.
Sau cuộc đảo chánh 1963, chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang bị bắt giam, rồi tờ báo bị đe doạ đóng cửa, phải đổi giấy phép – Lê Ngộ Châu làm chủ nhiệm thay Huỳnh Văn Lang – đổi tên là Bách Khoa thời đại; từ đó suy giảm về tài chánh (vì mất nhiều quảng cáo nhưng nội dung và nhóm biên tập vẫn như cũ. Từ vụ Tết Mậu Thân (1968), tờ báo mất một số lớn độc giả miền Trung – mà độc giả đó là phân nửa độc giả Bách Khoa – giá giấy và công in lại cao, nên lỗ. Ông Lê Ngô Châu ráng giảm mọi chi phí – cả toà soạn chỉ có ông và hai người giúp việc - và duy trì tờ báo tới đầu 1975. Một nhà văn theo kháng chiến, ra Bắc về phải ngạc nhiên về sự làm việc của toà soạn vì theo ông thì ở Bắc, một tờ định kì như vậy phải dùng ba chục nhân viên là ít.
Từ trước tới sau, Bách Khoa giữ được trọn tình cảm của hạng độc giả đứng tuổi; còn giới trẻ thì chê là khô khan, nặng về biên khảo mà nhẹ về sáng tác (thơ, tiểu thuyết). Lẽ đó dễ hiểu.
Tuy nhiên phải nhận rằng Bách Khoa không có ảnh hưởng lớn như Nam Phong, Phong Hoá, Ngày Nay trong dân chúng.
Nam Phong ra đời ở buổi giao thời, văn hóa cũ bắt đầu chuyển mạnh qua văn hóa mới của phương Tây, số người viết ít mà số người đọc cũng ít, bao nhiêu cây viết có giá trị đều dồn cả vào tờ đó, nên không một tờ nào khác có nhiều bài đáng đọc và có nhiều độc giả như Nam Phong lại được trợ cấp nên đứng vững được, những tờ khác có ra cũng chỉ được mươi số là chết. Có thể nói Nam Phong một mình một chợ, do đó có ảnh hưởng, uy tín lớn.
Bách Khoa sinh sau 4 chục năm, vào thời mà số người viết đông, số độc giả cũng đông, gồm nhiều khuynh hướng, nên bị nhiều báo định kì (có lẽ đến non chục chia bớt độc giả và Bách Khoa chỉ nhắm vào độc giả đứng tuổi, số này bao giờ cũng ít, ảnh hưởng do đó kém.
Lại thêm Bách Khoa không có một chủ trương mới mẻ, mạnh mẽ cải cách cả về tư tưởng lẫn sự trình bày như tờ Phong Hoá, tờ Ngày Nay, trước sau vẫn giữ lập trường ôn hoà, đứng giữa, không theo Cộng, không theo Mỹ, như vậy làm sao gây nổi một phong trào mà ảnh hưởng lớn tới quốc dân được như nhóm Tự Lực?
Thời đó có một nhóm nhà văn trẻ ở Bắc di cư vào, lập nhóm Sáng Tạo muốn làm một cuộc cải cách, nhưng họ không đủ kiến thức, tài năng, chỉ hô hào chống Cộng - điểm này không có gì mới cả - mà cũng không sâu sắc, vì họ ít đọc sách báo ngoại quốc; và đả đảo lối viết của nhóm Tự lực văn đoàn, mà người cầm đầu Sáng Tạo – Mai Thảo – lại có bút pháp cầu kỳ, "làm duyên làm dáng", không hợp thời chút nào, chính bọn họ cũng không theo. Rốt cuộc chẳng gây được tiếng vang nào cả.
Tôi với Võ Phiến là hai người cộng tác với Bách Khoa đều nhất, lâu nhất. Từ đầu tới cuối Bách Khoa ra được 426 số thì 242 số có bài của tôi, bài cuối đăng trên số 424.
Sự hợp tác với các báo định kì rất có lợi cho tôi. Mới đầu tôi gởi đăng bài hay chương của tôi đã viết rồi mà chưa xuất bản, về văn học, triết học, gương danh nhân; đó là một cách tự giới thiệu trước với độc giả.
Sau hoặc tự ý tôi, hoặc do toà soạn nhờ viết, do độc giả gợi ý, tôi mở rộng tầm hoạt động, viết về những vấn đề không có trong chương trình trứ tác của tôi; nhờ sự thúc đẩy, khuyến khích đó tôi phải đọc nhiều hơn, viết nhiều hơn, chú ý tới thời cuộc, tình hình trong nước và thế giới hơn. Tôi không tự giam trong "tháp ngà"; mặc dầu một tuần hay nửa tháng mới ra khỏi nhà, cả năm không đi dự một cuộc họp nào cả, nhưng tôi luôn luôn theo dõi tất cả những biến chuyển trong nước và trên thế giới và kịp thời góp ý với quốc dân.
Trên tờ Bách Khoa tôi lâu lâu làm công việc điểm sách, tức công việc giới thiệu và phê bình. Không khi nào tôi điểm những sách vở, vì không thích chê ai cả; chỉ lựa những tác phẩm đứng đắn – phần nhiều trong loại khảo cứu – có vài chỗ đáng khen để giới thiệu; khi chê thì tôi giữ công tâm và một giọng nghiêm trang.
Tôi đã điểm một số sách có giá trị như Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển, Việt ngữ chánh tả của Lê Ngọc Trụ (năm 1960), Le parler Vietnamien của Lê Văn Lý (1959), Đường thi trích dịch của Bùi Khánh Đản và Đỗ Bằng Đoàn (1962), Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức; vài cuốn Địa phương chí như Nước non Bình Định, Xứ Trầm Hương của Quách Tấn… một hai tiểu thuyết và truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, Đỗ Tiến Đức…
Cuối năm tôi thường viết bài tổng kết về tình hình xuất bản trong năm đăng trên Bách Khoa và tờ Tin sách. Năm 1961 tôi viết một loạt bài đăng trên bốn số Bách Khoa liên tiếp để so sánh hai ngành xuất bản Pháp và Việt Nam, vạch rõ những nhược điểm chung của hai ngành đó. Tôi nhận thấy rằng hễ theo một chế độ (tư bản hay cộng sản thì dù cách xa nhau, không chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhau, sự sáng tác, xuất bản, phát hành… cũng có những nét giống nhau.
Tôi góp ý kiến về việc xây dựng văn hóa, trên Bách Khoa: Thống nhất nhan đề các văn thơ cổ (1962), Nhà cầm quyền và dư luận (1966), Vấn đề kiểm duyệt (1969), Vấn đề dịch văn, dịch thơ, Phong trào về nguồn (1972).
Tôi rất chú ý tới chính sách giáo dục, viết nhiều bài đả kích bộ Giáo dục. Bài nào cũng đưa ra những chứng cứ minh bạch và một vài đề nghị xây dựng; giọng tuy nghiêm nhưng bình tĩnh, được độc giả trong giáo giới, nhất là phụ huynh học sinh khen là ý kiến xác đáng, có nhiệt tâm. Tôi nghe nói nhiều nhân viên trong bộ Giáo dục bảo nhau: "Đừng động tới ông Lê, ông ấy sẽ đập cho mà không sao cãi được". Họ hiểu lầm tôi: tôi chỉ trích một chính sách chứ không đả kích cá nhân.
Có hai loạt bài quan trọng nhất:
Cải tổ nền Giáo dục Việt Nam (đăng liên tiếp trên năm số Bách Khoa năm 1962 mà sau ngày giải phóng, một số nhà giáo ở Hà Nội khen là đề nghị hợp lý.
Nguy cơ xuất não (đăng trên ba số Bách Khoa năm 1972 bàn về biện pháp để khuyến khích các sinh viên du học ngoại quốc về giúp nước, khỏi thiệt cho quốc gia một số nhân tài. Loạt bài này cũng được độc giả hoan nghênh, nhưng chính quyền lúc ấy không cho đó là vấn đề quan trọng, không muốn mà cũng không có khả năng thu dụng hạng thanh niên đó.
Ngoài hai loạt bài trên tôi còn viết cả chục bài khác như Góp ý với Bộ Giáo dục (1964), Chính sách bỏ thi (1966), Một nền giáo dục phục vụ (1967), Cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh (1967), Lại sắp đến mùa thi (1964), Cần nâng cao tri thức của đại chúng…
Nhất là loạt bài đăng trên Bách Khoa (1961), Tin Văn (1966 đả kích kịch liệt Bộ Giáo dục và Viện Đại học Sài Gòn không chịu dùng Việt ngữ làm chuyển ngữ ở Đại học. Những bài đó viết vào hồi tựu trường liên tiếp trong mấy năm làm cho một số giáo sư Đại học ghét tôi nhưng không thể trả lời tôi được; trái lại sinh viên rất thích và một số doạ sẽ gom các bài đó lại chung với các bài của các nhà khác cùng chủ trương in thành một tập riêng để phổ biến. Sau này (trong số Bách Khoa 426 ngày 20.4.75 bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc nhắc lại vụ đó, viết: "Còn nhớ bọn sinh viên chúng tôi vận động chuyển ngữ tại trường Y Khoa, ông (Nguyễn Hiến Lê đã hỗ trợ bằng những bài báo nẩy lửa. Lúc đó giọng ông không còn cái giọng nghiêm túc, hiền lành, bình đạm thường ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẫn nộ, đầy kích động; giá có ai giật giấy bút của ông đi, tôi chắc ông sẽ lấy dao "viết lên đá" như Trần Dần đã nói". Đúng vậy, trong đời viết văn, chưa bao giờ ngọn bút của tôi sắc bén như vậy.
Từ 1963 tôi viết nhiều bài đả đảo chính sách của bọn thực dân cả Đông lẫn Tây ở bán đảo Ả Rập, và đề cao tinh thần đấu tranh của các nước Hồi giáo trên bán đảo đó. Sau tôi dùng các bài đó cho vào hai cuốn Bài học Isrël (1968 và Bán đảo Ả Rập (1969).
Từ năm 1973 tôi quan tâm tới những nguy cơ chung của nhân loại, viết những bài Nhân số và nạn đó (1973), Năm 2000 (1974), Tai hoạ Minamata: nước biển nhiễm độc (1974 và loạt bài Báo cáo số 1 và số 2 của nhóm La Mã, đăng trên bốn số Bách Khoa liên tiếp 421-24 năm 1975; không kể một số bài nữa không đăng báo mà tôi gom lại trong cuốn Những vấn đề của thời đại (Mặt Đất -1974).
Sau cùng phải kể thêm một số bài thuộc loại hồi kí và tuỳ bút đăng trên Bách Khoa, và một bài trên số Kỷ niệm Nhất Chi Mai của Hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (1971), sau được nhà Lá Bối xuất bản trong loại Bông hồng cài áo. Cũng do viết báo mà tôi mới nảy ra ý viết những tiểu phẩm.
Vì tôi công tác đều đều với Bách Khoa, từ đầu đến cuối, lại viết nhiều về nhiều vấn đề, nên độc giả có người cho tôi là cây viết cốt cán của tạp chí, tưởng tôi là một nhân viên quan trọng trong toà soạn nên có bài muốn gởi đăng thì gởi cho tôi nhờ tôi giới thiệu với ông chủ nhiệm Lê Ngộ Châu. Tôi đọc rất kỹ bài họ viết rồi cũng đưa ý kiến với ông Châu, nhưng cũng cho họ biết sự quyết định đăng hay không ở cả ông Châu. Ông Châu làm việc rất siêng, đọc hết mọi bài nhận được, đăng hay không ông đều báo cho tác giả biết. Ông nhận rằng ông đã bỏ lầm một số bài rất khá. Tôi mến ông vì ông có tinh thần trách nhiệm, làm việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi báo suy, biết xét người, xét văn và có tình với người cộng tác: ai gặp nạn gì thì ông lại nhà thăm, tìm mọi cách giúp đỡ; nhất là sau vụ Mậu Thân, ông rất băn khoăn lo lắng về các anh em bị kẹt trong vòng máu lửa.
MAI
Đầu năm 1960, ông Hoàng Minh Tuynh cho ra một bán nguyệt san khác lấy tên là Mai mà ông làm chủ nhiệm. Tờ này chắc do một nhóm công giáo bỏ vốn – ông Tuynh theo công giáo – chủ trương đại khái cũng giống tờ Bách Khoa, nhưng thiên về công giáo. Cây viết một nửa là của Bách Khoa, một nửa là của công giáo. Báo chỉ bán được ngàn số trở lại, ra được hai năm rưỡi, 41 số, thì đình bản.
Ông Tuynh nhờ tôi viết giúp, thành thử trong những năm 1960-62 tôi viết cho cả hai tờ và trong 41 số Mai thì 24 số có bài của tôi.
Đa số bài của tôi bàn về giáo dục; tôi đưa ý kiến:
Về vấn đề cải tổ chế độ tư thục (thời đó hầu hết các tư thục thành những nơi buôn chữ, chủ trương chỉ lo làm giàu, giáo sư chỉ lo "câu" học sinh, dạy 40 giờ một tuần hoặc hơn, học sinh hư hỏng, không có chút kỷ luật gì cả).
Về tình trạng các kỳ thi Trung học đệ nhất cấp (đăng trên 5 số - 1961).
Về vấn đề chuyển ngữ ở Đại học.
Về vấn đề thanh niên hư hỏng (2 số năm 1961; 2 số năm 1962).
Ngoài ra còn ít bài, về giáo dục sinh lý, giáo dục thiếu nhi thông minh, về hôn nhân, về phụ nữ, và bài bài điểm sách: Nàng ái cơ trong chậu úp của Mộng Tuyết và Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển.
- TIN VĂN
Năm 1965, ông Nguyễn Ngọc Lương, một nhân viên của bộ Thông Tin cho ra tờ Tin Văn, trước sau được ba bốn chục số trong hai năm rưỡi.
Hồi đó tôi không biết ông Lương là cán bộ cộng sản "nằm vùng"; ông nhờ tôi viết giúp, tôi đọc mấy tờ đầu thấy tờ báo đứng đắn, có chủ trương tiến bộ, thiên tả nhưng vừa phải, kín đáo, nên tôi nhận lời.
Trên tờ này tôi viết ít (chỉ khoảng mười số có bài của tôi), nhưng bài nào cũng viết kỹ, và hầu hết bàn về vấn đề văn hóa, văn chương.
Những bài Văn chương và dân tộc tính, Tiếp thu văn hóa Tây phương, Phát huy văn hóa truyền thống… sau được gom với bài Bút pháp và cá tính (đã dẫn ở trên để cho vào cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (Tao Đàn – 1967). Hai bài Bút pháp và cá tính, Văn chương và dân tộc tính được nhà văn Trần Thiện Đạo (ở Pháp khen là "tiếng nói của lương thức, của một học giả có thẩm quyền" (Tin Văn số 7 tháng 11-1968, và số 8 tháng 12-68).
Nhưng bài độc giả thích nhất, cho là có giọng bút chiến sắc bén là Đả phá dễ hay xây dựng dễ? đăng ngày 15.9.66. Trong bài đó nhân một câu của Tổng giám đốc Vô tuyến truyền hình mà kịch liệt đả kích chính sách văn hóa của chính phủ, đã không xây dựng mà chỉ phá hoại. Tôi khen chính quyền hồi đó cho đăng trọn bài, không bỏ một chữ. Họ còn tương đối biết trọng tự do ngôn luận, và có thái độ nhã nhặn với những nhà văn đứng đắn, dám nói thẳng và nói đúng.
Bài đó có tiếng vang ngang với bài Bọn cầm bút chúng ta làm được những gì lúc này? đăng trên Bách Khoa ngày 1.12.67. Giọng bài này khác hẳn: "vừa buồn vừa tủi rằng tất cả những cái tôi viết ra đều là bá láp hết, chẳng có một tác dụng gì cả, rằng tôi gần như vô dụng" trong khi toàn dân đau khổ vì nạn chiến tranh và vì chính quyền bất lực, thối nát. Lời tự trách đó làm động lòng nhiều nhà văn có tâm huyết và tôi nghe nói có vài ba người muốn trả lời tôi, nhưng sau chỉ có mỗi ông Đoàn Thêm là lên tiếng trong số Bách Khoa ngày 1.1.68, trách thái độ của tôi là vô lý, mình cầm bút chứ có phải là chính trị gia đâu, cứ làm hết nhiệm vụ của mình thì thôi, mà những điều mình viết sao lại không có tác dụng ít nhiều trong tâm hồn độc giả. Trong bài đó, tôi cũng tỏ rõ thái độ của tôi đối với chính quyền: "Tôi nghĩ rằng cái thú nhất của người cầm bút là được độc lập và cái vinh dự lớn nhất của họ là giúp được chút ít gì cho quốc dân. Muốn giữ được độc lập và giúp được quốc dân thì nên ở ngoài chính quyền, đứng ở cương vị đối lập với chính quyền. Đối lập không nhất định là chỉ trích, lại càng không có nghĩa đả đảo. Đối lập là một cách kiểm soát, hợp tác hữu hiệu nhất và nghiêm chỉnh nhất. Ta không lệ thuộc vào chính quyền thì mới dám nói thẳng với chính quyền và chính quyền mới chú ý lời nói của ta. Alain và Maurois đều từ chối những chức trọng quyền cao để được là người tự do, được làm một công dân "giám thị các ông lớn".
CÁC BÁO KHÁC
Ngoài ba tờ báo kể trên, tôi còn gởi ít bài về văn học, điển sách cho tạp chí Văn và Tân Văn (ông Trần Phong Giao làm chủ bút), và vài ba tạp chí khác, vì họ khẩn khoản xin bài.
Đặc biệt nhất là tờ báo cho thanh niên Phù Đổng Thiên Vương. Chủ nhiệm là kịch sĩ Kim Cương cùng với chồng, do Vũ Hạnh dắt lại yêu cầu tôi cộng tác. Tôi đáp không có thì giờ vì chương trình làm việc của tôi còn nhiều. Họ nói mãi, nễ lời tôi hứa chỉ viết giúp cho một bài duy nhất đăng trong số đầu thôi và ít bữa sau tôi giao cho họ bài Vài lời ngỏ cùng bạn trẻ, đăng trong số 30.1.75. Báo chưa ra hay vừa mới ra thì Vũ Hạnh bị bắt giam trở lại; vì lẽ đó ba tháng sau chưa ra được số nhì; rồi Sài Gòn giải phóng và báo đình bản luôn.
Về sau tôi mới biết Kim Cương là một cán bộ nằm vùng như Vũ Hạnh. Vậy là tôi vô tình hợp tác với hai tờ báo cộng sản ở thành: tờ Tin Văn và tờ Phù Đổng Thiên Vương.
Trước sau tôi chỉ bỏ độ một phần mười thì giờ viết của tôi vào các bài báo, nhưng đã để hết tâm tư vào công việc đó, coi trọng nó cũng như việc biên khảo, dịch thuật, nên được nhiều cảm tình của độc giả và bạn văn. Danh của tôi nhờ vậy tăng lên và trong những năm 1965-1974 có vài tờ báo lại phỏng vấn tôi như tờ Khởi hành, tờ Thời Tập; một số nhà văn tư tưởng và chủ trương hoàn toàn khác tôi cũng làm quen với tôi, tặng tôi tác phẩm, không kể nhiều nhà giáo quý tôi, nhiều sinh viên trọng tôi như thầy học.
Tôi đã lựa một số bài báo tôi đắc ý nhất cho vào cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (1967), cuốn Mười câu chuyện văn chương (1975 và hai tập chưa in: Mười tám chuyện thời sự và Để tôi đọc lại.
 Nguyễn Hiến Lê
Theo https://vietmessenger.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Mang mùa xuân về

Mang mùa xuân về Máy bay từ từ hạ cánh. Dòng chữ “Cảng Hàng không Phù Cát” in lồng lộng nổi bật trên bầu trời đêm khiến lòng tôi nôn nao k...