TRÀO LƯU VĂN HỌC MIỀN NAM TỪ 1954 ĐẾN 1975
Nhờ viết báo mà tôi được đọc nhiều sách báo Việt và biết được ít nhiều tình hình văn học miền Nam. Dưới đây tôi chỉ phác thảo qua những hướng chính của trào lưu vì không có đủ tài liệu, và nếu có thì cũng không có đủ sức khỏe, thì giờ để đọc hết rồi phân tích kỹ được.
Trong thời kháng Pháp, văn học ở thành (vùng bị chiếm từ Bắc tới Nam không có gì. Hầu hết các nhà văn có tên tuổi thời tiền chiến đều theo kháng chiến. Tôi không biết họ sáng tác được những gì, có lẽ chỉ có được một số bút ký và ít bài thơ hô hào diệt địch, nhiệt tâm tuy nhiều nhưng nghệ thuật kém thời tiền chiến.
Ở miền Nam, trong thời kháng Pháp, Lý Văn Sâm viết được vài tiểu thuyết rồi cũng ra bưng. Nhóm Đệ tứ Triều Sơn, Thế Húc, Tam Ích, Thiên Giang viết được ít bài phê bình có tư tưởng xã hội, sau in thành vài tập mỏng. Triều Sơn viết khá hơn cả, nhưng chết sớm. Hồ Hữu Tường năm 1945 (? còn ở Hà Nội cho ra được một tập mỏng về văn hóa Việt Nam. Khi vào Nam ông cho xuất bản tờ Phương Đông chủ trương trung lập và một vài cuốn trào phúng Nga, Trung Cộng. (Ông mất năm 1980 sau khi ở trại cải tạo về Sài Gòn).
Một số nhà văn có tâm huyết muốn nâng cao tinh thần dân chúng, chép lại các cuộc vận động chống Pháp thời trước như Nam bộ kháng chiến, Đề Thám, Bãi Sậy, Phan Đình Phúng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Hầu hết các báo hằng ngày đều có cảm tình với cách mạng.
Vào khoảng 1950, nhà P. Văn Tươi cho ra loại sách Học làm người, mục đích là luyện tinh thần mới, tin ở sự tiến bộ của thanh niên để chuẩn bị việc kiến thiết quốc gia sau khi chiến tranh chấm dứt. Loại sách đó trước thế chiến cũng đã có người viết như Hoàng Đạo, Lê Văn Siêu…
Sau Hiệp định Genève, một số nhà văn ở Bắc di cư vào Nam, ra báo, mở nhà xuất bản, được chính quyền giúp phương tiện, nhờ vậy văn nghệ miền Nam khởi sắc. Họ đều là những người chống cộng như Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền… Một số tác phẩm khá có giá trị: tiểu thuyết, hồi ký.
Hồi đó ai cũng ham biết văn minh Mỹ, đua nhau học tiếng Mỹ và vài nhà xuất bản được Mỹ trợ cấp, dịch vội vàng sách về văn học, chính trị Mỹ, nhất là tiểu thuyết Mỹ. Không dịch phẩm nào có giá trị và chỉ được ít năm phong trào đó chìm dần.
Vào khoảng 1960, dân chúng bắt đầu ghét chính sách Ngô Đình Diệm, ghét Mỹ, nên những tác phẩm chống cộng và tuyên truyền cho văn hóa Mỹ bị tẩy chay; không ai bảo ai mà những sách báo của các cơ quan văn hóa Mỹ, Diệm, dù in rất đẹp, bán rất rẻ cũng ít người mua.
Người ta trở lại thích sách báo Pháp và báo chí đua nhau giới thiệu phong trào hiện sinh cùng phong trào tiểu thuyết mới (cũng gọi là phản tiểu thuyết của Pháp.
Những tác phẩm của Sarte (hiện sinh), Camus, Kafka được thanh niên hoan nghênh; nhưng hình như không có tiểu thuyết nào của Alain Robbe Grillet, Nathalie Saraute, Michel Butor được dịch ra cả; loại tiểu thuyết này mới thì mới thật, nhưng không hấp dẫn vì không có truyện. Vả lại chính phong trào tiểu thuyết mới cũng chỉ ồn ào được ít năm, khi nó qua nước mình thì ở Pháp không còn ai nhắc tới. Các tiểu thuyết gia của mình nói tới họ thì nhiều, thích họ thì chắc không và tuyệt nhiên không có nhà nào theo kỹ thuật của họ.
Sau năm sáu năm hăng say tìm hiểu cái mới của phương Tây, chúng ta thấy văn minh của họ lợi cho ta thì ít mà hại thì nhiều: thanh niên thành thị truỵ lạc vì loại phim cao bồi (cow boy), nhạc jazz và tạp chí Playboy, mất lý tưởng, chỉ nghĩ tới hưởng lạc; non sông thì bị tàn phá vì bị tranh chấp giữa bọn thực dân Đông, Tây; dân tình thì lầm than điêu đứng; chỉ có bọn làm giàu trên xương máu đồng bào là sống phè phỡn, rất chướng mắt. Do đó lần lần nổi lên phong trào về nguồn, ôn lại triết lý, nhân sinh quan của cổ nhân, một nhân sinh quan bao dung, nhân ái, chứ không phải thứ nhân sinh quan "cạnh tranh để sinh tồn" của phương Tây.
Loại sách khảo cổ bồng bột phát triển. Hầu hết là những bản dịch sách Hán của tiền nhân: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, Hoàng Lê nhất thống chí, Công dư tiệp ký, Đại Nam nhất thống chí (trên chục cuốn v.v…
Loại sách đó khó bán, nên cơ quan văn hóa chính phủ đảm nhiệm. Tư nhân chỉ có vài ba nhà khảo về Nhà Nguyễn trong Nam, Tây Sơn, Ca trù đời Lê, Nguyễn… Một nhóm khá đông nhà văn gần như cùng một lúc soạn các địa phương chí từ Bến Hải tới Bạc Liêu: Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Biên Hòa, Vĩnh Long, Châu Đốc, Cao Lãnh, Cần Thơ, Bạc Liêu… (coi "Một hiện tượng mới" trong Mấy vấn đề xây dựng văn hóa của tôi – Tao Đàn)
Một số học giả, văn nhân, nghệ sĩ hô hào chống chiến tranh, không theo Mỹ, không theo Nga, không nhờ cậy ai, tìm lối sống riêng của mình, sống thiếu thốn cũng được miễn là hòa thuận, đoàn kết với nhau, tương đối bình đẳng, không ai nghèo quá, giàu quá.
Từ 1965 đến 1975, hễ gặp cơ hội là tôi nêu chủ trương đó ra như trong cuốn Một niềm tin (1965), bài tựa cuốn Bài học Israël (1968), bài báo Vài suy tư về phong trào về nguồn (Bách Khoa -1972 và đoạn kết loạt bài Báo cáo số 1 và số 2 của nhóm La Mã (Bách Khoa – 1975). Nhưng cho tới bây giờ dân tộc nhược tiểu vẫn mắc vào sự tranh chấp của hai khối, thoát được khối này lại nhập vào khối kia. Nhân loại sẽ còn chịu rất nhiều xáo trộn, chưa biết bao giờ mới ổn định được, và những dân tộc nhược tiểu chưa thể sống theo ý mình, chưa thực sự độc lập và tự do được. (Bỏ 4 trang 453-456).
TÔI CÓ CHUYÊN KHÔNG?
Ôn lại hai chục năm hoạt động tích cực về văn hóa từ khi thành lập nhà xuất bản tới ngày miền Nam "được giải phóng", tôi thấy chỉ làm chủ được một phần nào thôi, còn thì do sự ngẫu nhiên chi phối.
Năm 1954 mới lên Sài Gòn, tôi định viết độ mười năm, khoảng vài ba chục cuốn nữa, không ngờ viết luôn cho tới 1975, rồi tới bây giờ, và số tác phẩm viết được đã gấp ba số dự định.
Từ khi mới cầm bút, tôi vẫn thích viết du ký, vẫn mong đi dọc đường Quốc lộ số 1, ghi chép những cảnh đẹp, tục lạ, cổ tích từ Nam ra Bắc, mà vì chiến tranh, tôi mới tới được Quy Nhơn rồi phải bỏ dở. Chí hướng đó được bác tôi ghi cho tôi trong đôi câu đối này từ trước 1945:
- Sơn thủy kỳ tung du thị học,
- Văn chương diệu phẩm thực nhi hoa.
- (Đi thăm cảnh lạ của non sông tức là học đấy,
- Văn chương mà hay thì thành thực và hoa mỹ)
Hồi còn ở Đại học, tôi đã thích đời Nguyễn Công Trứ, định chép tiểu sử của ông, mộng đó cũng không thực hiện được vì thiếu tài liệu, lại sống ở Nam không có dịp tới những nơi có di tích của ông.
Trái lại, có nhiều môn, nhiều đề tài tôi không tính viết mà lại viết, viết nhiều nữa. Như trên tôi đã nói, do ngẫu nhiên mà tôi hợp tác với tờ Bách Khoa và viết về thời sự, về kinh tế, về các vấn đề thời đại, và khi đã bắt đầu viết rồi thì thấy thích.
Sau khi cho ra hai cuốn Để hiểu văn phạm, và Nho giáo một triết lý chính trị, tôi định bụng không bao giờ xông vào hai khu vực ít hứng thú và mệt óc đó nữa; vậy mà do thời cuộc đưa đẩy, tôi làm quen được với hai ông Trương Văn Chình và Giản Chi Nguyễn Hữu Văn từ Bắc di cư vô, rồi viết chung với hai ông, nhờ vậy đóng góp được ít nhiều về hai môn đó.
Vì viết nhiều đề tài, nên có người trách tôi là không chuyên. Nếu hiểu chuyên là suốt đời chỉ khảo về một môn như Lê Ngọc Trụ về chính tả, Trương Văn Chình về ngữ pháp thì quả là tôi không chuyên mà tôi cũng không thích chuyên như vậy. Tôi có mục đích rõ rệt là phục vụ trong việc mở mang kiến thức thanh niên; tôi có óc tò mò, sách nào hay tôi cũng muốn đọc, môn nào cũng muốn biết, và hễ thấy đề tài nào lý thú, có ích thì tìm hiểu rồi truyền điều tôi hiểu cho độc giả. Đó là sự nhất trí trong tất cả các trứ tác của tôi, từ những sách dạy cách học cho học sinh tới các công trình khảo cứu về văn học, triết học. Sự ngẫu nhiên đưa tôi tới hướng nào khiến tôi bước vào môn nào thì tôi theo hướng đó, viết về môn đó.
Nhưng có điều này ít độc giả nhận thấy. Trong mỗi môn chính, mới đầu tôi viết một hai tác phẩm dễ hoặc khái quát; rồi ít lâu sau tôi trở lại, mở rộng thêm, đào sâu thêm. Như vậy chính là do khuynh hướng tự học của tôi: biết cái cốt yếu đã rồi sau đi vào chi tiết. Và đó cũng là một sự nhất trí trong cách tôi làm việc.
Môn tổ chức công việc, tôi viết về quy tắc căn bản trong cuốn Tổ chức công việc theo khoa học, rồi một năm sau hoặc dăm bảy năm sau tôi áp dụng vào đời sống hàng ngày trong các cuốn: Kim chỉ nam của học sinh, Tổ chức gia đình, Tổ chức công việc làm ăn. Như vậy là vấn đề đã được nới rộng.
Về Luyện văn, cuốn II và III khó hơn cuốn I; bộ Hương sắc trong vườn văn lại sâu sắc hơn bộ Luyện văn.
Về Văn học Trung Quốc, sự mở rộng lần lần từng đợt còn rõ rệt hơn nữa. Mới đầu là bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc từ thượng cổ tới cách mạnh Tân Hợi, vào khoảng 1925. Sau tôi đào sâu văn học cổ Trung Quốc. Đề tài đó mênh mông, một đời người không thể làm hết được. Riêng về thơ Đường đã có nhiều người giới thiệu: Đường thi, Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố, Đường thi của Trần Trọng Kim, Đường thi trích dịch của Bùi Khánh Đản và Đỗ Bằng Đoàn (in ronéo và nhiều tập mỏng khác của dăm nhà khác nữa. Chưa ai viết về Tống thi cả.
Thơ không phải là sở trường của tôi mà cổ văn Trung Quốc chỉ mới có Nam Phong giới thiệu được một số nhỏ, nên tôi nghiên cứu về cổ văn, năm 1966 cho xuất bản bộ Cổ văn Trung Quốc, cuốn đầu tiên trong loại đó ở nước nhà; tiếp theo tôi soạn chung với ông Giản Chi hai bộ Chiến Quốc sách và Sử kí của Tư Mã Thiên. Sau cùng tôi viết về Văn học Trung Quốc hiện đại mà trong bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc tôi chỉ phát qua trong chương cuối. Nên kể thêm cuốn Tô Đông Pha, một cuốn thuộc loại tiểu sử danh nhân nhưng cũng cho độc giả biết được ít nhiều về thi từ và cổ văn đời Tống, vì trong cuốn đó, ngoài Tô Đông Pha ra tôi giới thiệu cả cha và em của Tô (Tô Tuân, Tô Triệt), Âu Dương Tu, Vương An Thạch… Nếu kể cả bản dịch Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (nguyên văn của Lâm Ngữ Đường thì về văn học Trung Quốc tôi đã góp được khoảng 3.500 trang, 7 nhan đề.
Về Triết học Trung Quốc cũng vậy, mỗi ngày tôi đào sâu thêm. Mới đầu là Nho giáo một triết lý chính trị, một cuốn tổng quát về tư tưởng chính trị của Khổng, Mạnh; rồi tới Đại cương triết học Trung Quốc, một bộ cũng tổng quát về triết học Trung Hoa từ thượng cổ tới cuối Thanh.
Sau tôi chuyên về triết học thời Tiên Tần, khảo cứu đời sống và tư tưởng từng triết gia một. Đầu năm 1975, tôi đã cho ra được Nhà giáo họ Khổng, Mạnh Tử, Liệt Tử và Dương Tử, đã viết xong mà chưa in Trang Tử, khởi sự viết chung với Giản Chi về Tuân Tử và Hàn Phi thì miền Nam "được giải phóng".
Từ năm 1976 tới nay, tôi đã viết xong Lão Tử, Mặc học, Khổng Tử, Luận ngữ, Kinh Dịch (5), như đầu chương này tôi đã nói.
Nếu chỉ kể các tác phẩm đã in thì tới đầu 1975, về triết học Trung Hoa tôi đã góp được khoảng 2.100 trang; nếu kể thêm những tập tôi đã viết xong mà chưa in nữa thì tới nay, tổng cộng được 2.100 đã in với 2.900 trang chưa in, là 5.000 trang.
Vậy là về cổ học Trung Quốc tôi đã góp được về văn học 3.500 trang, về triết học khoảng 5.000 trang. (Nếu chỉ kể những tác phẩm đã in thì cũng được 5.600 trang: 3.500 văn, 2.100 triết, cộng là 5.600 trang). Rõ ràng là tôi chuyên về môn cổ học đó. Nhà văn Võ Phiến, trong bài Nhân đọc bản thảo cuốn Nguyễn Hiến Lê của Châu Hải Kỳ (Bách Khoa số 426 ngày 20-4-75 bảo: "Từ trước tới nay chưa có học giả nào, cựu học và tân học, mà có công giới thiệu cổ học Trung Hoa bằng ông (Nguyễn Hiến Lê)".
Tóm lại, hồi mới cầm bút tôi chỉ có mục đích viết về trí, đức dục thanh niên; sau lần lần, vì sở thích, tôi hướng về cổ học Trung Hoa, mỗi ngày một đào sâu hơn. Tôi cho đó là sự diễn tiến tự nhiên trong việc tự học.
Trên ba chục năm trứ tác (kể tới năm nay 1980), tính ra tôi đã bỏ hơn 10 năm (khoảng một phần ba thời giờ vào hai chục tác phẩm cổ học (7 văn học, 13 triết học). Số hai chục tác phẩm, khoảng 8.500 trang sách đó không phải là ít, nhưng chỉ vì mới ra mắt độc giả được hai phần ba, nhất là vì loại đó kén độc giả, in ít, phổ biến hẹp, chìm trong số trên 80 tác phẩm đủ loại cho thanh niên, phổ biến rộng trong mọi giới, cho nên mới có độc giả trách tôi là không chuyên (6).
Nếu tôi chỉ chuyên về cổ học Trung Hoa thôi thì chỉ nội số tác phẩm của tôi đã in trong loại đó cũng đủ để cho mọi người cho tôi là viết chuyên rồi; nhưng thiếu phần tôi viết cho thanh niên thì ảnh hưởng của tôi trong xã hội không được bao, mà chưa chắc tôi đã in được những tác phẩm về cổ học: Nhà nào chịu chuyên xuất bản loại đó? Mà tôi muốn tự in lấy thì tiền đâu? Bộ Đại cương triết học Trung Quốc chẳng hạn, tôi phải hùn vốn với nhà Cảo Thơm; còn bộ Văn học Trung Quốc hiện đại cũng như bộ Đại cương văn học sử Trung Hoa tôi phải xuất vốn in lấy 2.000 bộ mà 5 năm sau, ngày Sài Gòn được giải phóng, chỉ mới bán được trên ngàn bộ, vừa đủ vốn.
Chú thích:
(1)
|
Tiểu sử ông bà La Fayette in trong cuốn Ý chí sắt đá (Thanh Tân - 1971); tiểu sử ông bà Curie in trong cuốn Gương hi sinh (NHL – 1962).
|
(2)
|
Nay là đường Nguyễn Đình Chiểu. (BT)
|
(3)
|
Phạm Ngọc Thảo (1922-1965): Nguyên là sĩ quan quân đội thời kỳ chống Pháp, Đại tá quân đội Sài Gòn, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sĩ quan tình báo chiến lược, liệt sĩ cách mạng. Năm 1965 tại Sài Gòn, Đại tá Phạm Ngọc Thảo bị An ninh Quân đội Sài Gòn ám sát (Tham khảo Tự điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB Văn hóa, 1993). (BT)
|
Võ di cư qua Mỹ từ hạ tuần tháng 5-1975. Sau ngày giải phóng, Vũ thành cán bộ văn hóa, viết bài mạt sát Võ trong tập I: Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hoá tư tưởng (Nhà xuất bản Văn hóa - 1980).
| |
Kinh Dịch đạo của người quân tử: Nxb Văn học in năm 1992. (BT)
| |
Nhưng trái lại, có nhiều người cho rằng tôi chuyên viết về loại Học làm người. Năm 1979, vào một tiệm hớt tóc ở đường Trương Tấn Bửu cũ, thì cả 4 người trong tiệm: 2 người thợ và 2 người khách (một là cán bộ ở Bắc mới vô đều hỏi tôi còn viết loại sách Học làm người nữa không. Ngay bây giờ cũng vậy, vào cơ quan nào hễ có người biết tôi thì cũng hỏi tôi câu đó.
|
Phần VIII
TÔI TỰ NHẬN ĐỊNH TÁC PHẨM CỦA TÔI
TÔI TỰ NHẬN ĐỊNH TÁC PHẨM CỦA TÔI
Đã có nhiều bạn văn hỏi tôi thích tác phẩm nào của tôi nhất và muốn biết tôi nhận định tác phẩm của tôi ra sao. Tôi đáp: "Tùy từng loại mà cũng tùy tuổi nữa, sự nhận định về già khác với thời trung niên. Xét chung thì tôi thích cuốn nào trong đó tôi gởi gấm được ít nhiều tâm tình, có được vài ý tôi cho là tương đối mới ở nước mình, hoặc có ít đoạn tôi đắc ý về bút pháp".
Trong chương này tôi hãy ghi qua sở thích của độc giả rồi đưa nhận định của tôi về một số tác phẩm đã xuất bản; những tập chưa in, tôi sẽ để lại một chương sau. Những nhận định dưới đây của tôi dĩ nhiên là chủ quan, không có giá trị hơn nhận định của bất kỳ độc giả nào, nó chỉ có lợi là giúp độc giả hiểu rõ tôi hơn.
SỞ THÍCH CỦA ĐỘC GIẢ
Khoảng mười năm trước, một nhà văn đã giới thiệu với độc giả một tờ báo định kì rằng ít nhất đã có hai thế hệ đọc sách của tôi. Tới nay thì có thể nói là đã có ba thế hệ rồi: thế hệ những người trạc tuổi tôi, thế hệ con những người đó, những học trò của tôi, và thế hệ con học trò cũ của tôi hiện nay đã lên đại học.
Vì tôi viết cho mọi lớp tuổi từ bé (cuốn Bí mật dầu lửa tới già, lại viết cho cả giới bình dân (như thợ thuyền lẫn với trí thức tân học và cựu học, cho nên không thể kể được một cuốn nào mà mọi giới đều thích. Xét chung thì giới bình dân và thanh niên chỉ thích những cuốn trong loại Học làm người; giới trí thức mới đọc loại biên khảo và chỉ một số ít giáo sư mới đọc những cuốn như Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Một niềm tin, Đại cương triết học Trung Quốc.
Một số khá đông, bắt đầu đọc tôi từ hồi ở trung học rồi thành độc giả trung thành, hai chục năm sau vẫn còn tìm tác phẩm của tôi để đọc; nhưng tôi chắc trong nước chỉ có độ bốn năm người có đủ 100 cuốn tôi đã xuất bản; và trong 4-5 người đó may lắm được vài người đọc qua loa hết những cuốn đó.
Những cuốn bán chạy nhất thuộc loại Học làm người, như Đắc nhân tâm, Quảng gánh lo, Sống 24 giời một ngày…, và loại chỉ cho học sinh và thanh niên tự học như Kim chỉ nam của học sinh, Tự học: một nhu cầu của thời đại, Muốn giỏi toán hình học, đại số…
Những cuốn ế nhất là Khảo luận ngữ pháp Việt Nam, Để hiểu văn phạm, Một niềm tin, Văn học Trung Quốc hiện đại.
LOẠI HỌC LÀM NGƯỜI
Đã có lần tôi nói với thi sĩ Bàng Bá Lân: "Những cuốn trong loại Học làm người của tôi chẳng qua chỉ để cho thanh niên học". Lời đó làm cho một độc giả của tôi, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc "rất bực mình". Trong bài "Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi" (Bách Khoa số 436, đã dẫn ông viết:
"Nhìn lại toàn bộ tác phẩm của ông, không ai chối cãi giá trị của những cuốn Đông Kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương triết học Trung Quốc, Ngữ pháp Việt Nam… và những cuốn Chiến tranh và hoà bình, Sử kí Tư Mã Thiên, Chiến Quốc sách… Những tác phẩm đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên đại học và đã đóng góp một phần đáng kể cho nền văn hoá miền Nam. Nhưng theo tôi, những tác phẩm quan trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh diện chính là những tác phẩm nho nhỏ ông viết nhằm mục đích giáo dục thanh thiếu niên, hướng dẫn họ trong sự tự huấn luyện trí, đức. Đó là Kim chỉ nam của hoc sinh, Tự học để thành công, Tương lại trong tay ta, Rèn nghị lực…, và nhất là bộ Gương danh nhân của ông. Mà họ là ai? Là những thanh niên thất chí bán hàng xén như tôi thuở đó, là anh thợ may lận đận như anh chín NS, là một giáo viên tiểu học, một y tá hương thôn, một thơ ký nghèo trong một công tư sở nào đó… Họ là những người có thiện chí, có tinh thần cầu tiến, hiếu học nhưng vì hoàn cảnh mà lỡ dở. Họ là thành phần đông đảo nhất trong xã hội ta bây giờ, một xã hội có vốn liếng hơn ba mươi năm chiến tranh. Nhờ những cuốn sách đó, trước mắt họ mở ra những cánh cửa mới, trong lòng họ nhen lên ngọn lửa nồng, và dù họ có không "thành công" nhiều thì đời sống họ cũng sẽ được nâng cao, ít ra là về mặt tinh thần".
Cuối cùng ông Đỗ Hồng Ngọc còn bảo ngay André Maurois tám chục tuổi còn viết tập Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi kia mà.
Tôi cũng nhận rằng nhờ những cuốn Học làm người mà tôi được nhiều người biết danh, nhiều thanh niên kính mến, và tôi được coi là "một nhà giáo dục quần chúng", như một nhà văn đã nói. Một độc giả cho tôi hay một gia đình ông quen, từ cha tới con trai, con gái lớn nhỏ - nhỏ nhất học lớp năm (tức lớp trên lớp mẫu giáo - đều mua sách của tôi; người cha được xong còn trích nhiều câu viết lên giấy dùng làm châm ngôn, lồng dưới kiếng bàn học của con. Ông ta thích nhất "tấm lòng thiết tha của tôi đối với truyền thống dân tộc, thái độ giản dị, khoan hòa, mẫu mực của tôi". Ông bảo tôi đã dung hoà được tinh thần đạo học phương Đông với những kiến thức và khoa học thực nghiệm của phương Tây, điều đó rất hiếm.
Những cuốn trong loại Học làm người đó đều viết với một giọng thành thực, thân mật, với nhiệt tâm giúp đỡ thanh niên bằng những kinh nghiệm sống của bản thân tôi. Ngày nay ngồi buồn, tôi thỉnh thoảng còn đọc lại vài trang trong những cuốn Kim chỉ nam của học sinh, Thế hệ ngày mai, Luyện lý trí, nhất là cuốn Tương lai trong tay ta mà vẫn thấy có nhiều chương hấp dẫn như: Ai cũng có thể bất hủ (ch. IV), Nghỉ ngơi và tiêu tiền (ch. V), Để giữ gìn hạnh phúc trong hôn nhân (ch.IX), Lời khuyên riêng các bạn gái (ch.X), Dự bị cho tuổi già (ch. XI). Suốt đời tôi, tôi theo đúng những quy tắc nêu trong cuốn đó về cách làm việc và tiêu tiền. Tôi đã làm rồi mới nói.
Ông Giản Chi bảo khi đọc xong cuốn đó ông bỗng hiểu hai câu thơ này của một thi sĩ đời Thanh:
Nhân sự tự sinh kim nhật ý
Hàn hoa chỉ tác khứ niên hương.
Chính ông dịch:
Ý mới rút từ kinh nghiệm cũ
Mai già lưu lại chút hương xưa
Một số người già và trẻ trong số những cuốn viết về nghệ thuật sống ở nước mình, chỉ có cuốn của tôi có tính cách Việt Nam, không phỏng theo sách Âu Mỹ; và khen tôi là nhà văn dung hoà được hai nền văn minh Đông, Tây một cách tốt đẹp.
Cuốn đó có thể coi như một tập gồm nhiều cảo luận đắc ý của tôi.
Tôi cũng vừa lòng về một loạt trên chục cuốn về loại Gương danh nhân mà độc giả nào cũng khen và ở trên tôi đã nhắc tới. Trong loại đó tôi đã thực hiện được một cách giáo hoá thanh niên tôi ấp ủ từ hồi mới cầm bút. Mới đầu tôi viết những tiểu sử ngắn độ vài chục trang (trong cuốn đầu: Gương danh nhân rồi lần lần viết dài hơn, bốn năm chục trang (trong Cuộc đời ngoại hạng), sau cùng dài trên dưới hai trăm trang và tôi phải dành riêng một cuốn cho mỗi nhà (Einstein, Tô Đông Pha…). Trong số trên mười tác phẩm đó tôi thích nhất Tô Đông Pha, Cuộc đời ngoại hạng, Ý chí sắt đá.
Những nhân vật kỳ dị thì phải kể Huyền Trang, một tâm hồn cao cả vào bậc nhất; H. Keller kiên nhẫn lạ lùng: đui, điếc, câm từ bé mà học hết đại học, viết trên mười cuốn sách, lại diễn thuyết khắp Đông, Tây nữa; T.E. Lawrence, một chính khách mạo hiểm, giữ chữ tín hơn nhà Nho, tìm sự tuyệt đối, khi thất bại ân hận, tủi nhục, tự huỷ hoại thân thể. Nhưng làm cho tôi và nhiều độc giả cảm động nhất là đời của hai người đàn bà: bà La Fayette suốt đời hy sinh cho chồng; và bà Curie tận tuỵ với chồng và khoa học, sống đơn giản như người thời cổ, tuyệt nhiên không nghĩ đến danh lợi, đến bản thân. Cuộc hôn nhân của ông bà Curie thành công nhất mà tôi biết, thành công cho ông bà và cả cho nhân loại.
Xét chung thì các nhà khoa học suốt đời cặm cụi nghiên cứu như Fabre, "thi sĩ của côn trùng", sướng nhất; rồi tới những nghệ sĩ bỏ hết tiền của, tâm trí để tìm cái đẹp như Disney. Khổ nhất thường là những nhà văn: Balzac, Maugham, Dostoiesvki… Nhưng chua xót nhất là bác sĩ Semmelweiss: ông hoá điên rồi tự tử vì không ai tin thuyết của ông (bệnh sốt sản hậu do vi trùng gây ra mà cứ để cho sản phụ chết như ra trong các dưỡng đường châu Âu.
Vậy tôi đã không phí thì giờ để viết loại Học làm người và ông Đỗ Hồng Ngọc đã quá mến tôi mới rất bực mình khi tôi xếp những cuốn đó vào hàng thứ yếu.
Tuy nhiên, André Maurois đã viết nhiều cuốn giáo dục thanh niên có giá trị, như Un Art de vivre, Lettres à l’inconnue (bản dịch của tôi: Thư gởi người đàn bà không quen biết), Cours de bonheur conjural, Lettre ouverte à un jeune homme sur la conduite de la vie (bản dịch của tôi: Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi), Dialogues sur la commandement… được người Pháp coi là nhà văn luân lý của thời đại, một honnête homme (chính nhân quân tử của phương Tây; mà về già, khi ôn lại cuộc đời viết văn của ông trong cuốn Portrait d’un ami qui s’appelait moi, ông không hề nhắc tới những cuốn kể trên, mà lại thích nhất những cuốn Disraëli (kể tình tương thân tương kính của ông bà Disraëli, một chính trị gia đại tài của Anh dưới triều đại nữ hoàng Victoria), truyện Climats (một tiểu thuyết tâm lý), những tiểu sử Lélia (G. Sand), Olympio (V. Hugo), Proust, Alain…; những bộ sử Anh, Hoa Kỳ, Pháp; còn các nhà phê bình Pháp thì hầu hết đều nhận rằng những bộ tiểu sử Lélia, Olympio, Balzac, Alexandre Dumas của ông là phần chính trong sự nghiệp của ông, viết rất công phu, đọc rất thú, và ghi lại nhiều nét của xã hội Pháp thế kỷ XIX, gần như bộ Comédie humaine của Balzac, lại có một số ít nhà phê bình thích những truyện ngắn không tưởng, mỉa đời của ông như Au pays des Articoles, hoặc quái dị như Le peseur d’âme, La machine à lire les pensées.
Vậy thì việc nhận định văn học bao giờ cũng tuỳ sở thích của mỗi người, có khi của mỗi thời nữa.
LOẠI VĂN HỌC
Điều chắc chắn là tôi có xu hướng về văn học, thích những cuốn viết về nghệ thuật (tư tưởng mới mẻ, thâm thúy mà viết kém thì tôi cũng không ưa), và thích giới thiệu những cái đẹp trong văn thơ với thanh niên.
Cái đẹp trong văn thơ cổ kim đông tây thiên hình vạn trạng, không ai có thể thưởng thức hết được, mỗi người chỉ biết được vài khu vực thôi. Tôi may mắn biết được hai nền văn học rực rỡ và rất khác nhau là văn học Trung Hoa và Pháp; trong loại sách về văn học, tôi ráng truyền những cảm xúc thích thú của tôi cho độc giả.
Hương sắc trong vườn văn
Ở trên tôi đã nói về bộ Luyện văn (3 cuốn và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc. Tác phẩm thứ ba mà tôi thích hơn bộ Luyện văn là bộ Hương sắc trong vườn văn (mới đầu in làm hai cuốn). Tôi nảy ra ý viết bộ đó nhờ năm 1947 hay 1948, đọc cuốn Cours de technique littéraire của một trường hàm thụ (tôi quên mất tên ở Paris. Cuốn đó chỉ thuật viết báo, tiểu thuyết, kịch, phê bình văn học, cả thư từ, quảng cáo nữa. Những thuật đó không có gì mới mẻ, đại khái tôi biết qua rồi, mà tôi cũng không có ý sáng tác những ngành kể trên; nhưng soạn giả khéo dẫn nhiều thí dụ lý thú, và năm 1956 tôi dùng một số thí dụ đó với nhiều thí dụ khác tôi kiếm được trong văn học Trung Quốc và Việt Nam, để viết Hương sắc trong vườn văn. Công việc không có gì khó. Cần nhất là có nhiều văn thơ để trích dẫn, muốn vậy phải đọc nhiều, không phải đọc trong sáu tháng hay một năm khi đã nảy ra ý định viết rồi, mà phải đọc từ năm, mười năm trước thì mới được nhiều tài liệu. Và như Sainte Beuve nói, "khi đã lượm được đầy tay rồi thì công việc giản dị lắm", chỉ cần một bố cục khéo để "đóng khung" thôi. Khi thu thập tài liệu tôi đã thấy vui, mà khi viết tôi càng thấy thích. Một ông giám học trường trung học miền Trung khen cuốn đó là tác phẩm phê bình văn học sâu sắc ở nước nhà. Gần đây một ông bạn cho hay một thanh niên tốt nghiệp Đại học Văn khoa Huế khi "vượt biên" chỉ mang theo mỗi cuốn đó.
Ngày nay đọc lại tôi vẫn còn thích các chương Văn ba lan, Tế nhị và hàm súc, Tình trong văn, Đuổi bắt ảo ảnh (tiếp), nhất là hai chương cuối: Kỹ thuật chân chính, và Cảm thông với cái đẹp.
Cuối đoạn kết (gồm một trang của toàn bộ, tôi viết mấy hàng này: "Trong nghệ thuật cũng như ở ngoài đời, phân tích tỉ mỉ quá không có lợi gì cho người và cho mình. Những kẻ sung sướng nhất là những kẻ lý luận ít mà cảm xúc nhiều. Bạn cứ hỏi trái tim bạn, hạnh phúc ở đó mà cái đẹp cũng ở đó".
Bộ đó in hai lần, trước sau được 5.000 bản. Trong số 5-10 ngàn độc giả đó, tôi mong có được vài trăm người biết dùng văn thơ để luyện cảm xúc mà tìm được hạnh phúc. Tôi cho đó là cái lợi nhất khi ta đọc những tác phẩm bất hủ của nhân loại (1).
Cổ văn Trung Quốc
Tôi đã nhận được cái lợi đó từ khi lõm bõm đọc bộ Cổ văn quan chỉ vào khoảng năm 1940. Hồi đó, thấy bài nào thích thì tôi dịch ra chỉ để tự học. Hai mươi lăm năm sau, vốn chữ Hán của tôi đã khá hơn, tôi đọc lại Cổ văn quan chỉ và Cổ văn bình chú; trong số hơn 300 bài, lựa lấy 100 bài tôi thích nhất rồi bỏ bản dịch cũ mà dịch lại thành một bộ 900 trang 21 x 27 viết tay, in ra khổ lớn, chữ nhỏ, thành 480 trang. Bộ này do nhà Tao Đàn xuất bản cuối năm 1966, in 1.000 bản mà năm 1975 vẫn chưa bán hết. Vì bài nào cũng in chữ Hán, nên nhà xuất bản và tôi đều rất tốn công. Dịch mất 9 tháng, sửa ấn cảo mất ba tháng nữa (mỗi ngày độ 1 giờ), mệt cũng bằng viết và in bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc. Ông Tao Đàn, một nhà xuất bản biết nhận định giá trị của tác phẩm, hiểu biết về văn chương và tôi đã hy sinh khá nhiều cho bộ đó và đã được đền đáp: một số giáo sư, cựu sinh viên Văn khoa Sài Gòn coi bộ đó là một trong những tác phẩm chính của tôi, và sau 30-4-75, một số học giả ngoài Bắc "đánh giá nó rất cao"; Đào Duy Anh khen là "tác phẩm trội nhất từ trước tới nay trong loại của nó".
Bộ đó tôi dịch kỹ nên khá mệt. Phải thuận, sát và giữ đúng thể văn trong nguyên bản. Phải chú thích nhiều. Các nhà cựu học trong nhóm Nam Phong đã dịch được vài chục bài cổ văn Trung Quốc nhưng không nhà nào chỉ cho ta thấy cái hay ở đâu. Bộ Cổ văn bình chú có in thêm ít lời "bình" sơ sài của cổ nhân. Tôi nghĩ cần phải phân tích cái hay thì thanh niên tân học mới hiểu được, cho nên việc đó tôi làm khá công phu. Đọc các bài Bá Di liệt truyện của Tư Mã Thiên, Lan Đình tập tự của Vương Hy Chi, Xuân dạ yến đào lý viên tự của Lý Bạch, A Phòng cung phú của Đỗ Mục, Túy ông đình ký của Âu Dương Tu, Hỷ vũ đình ký của Tô Thức, Ký Âu Dương Tu xá nhân thư của Tăng Củng… độc giả sẽ thấy tôi đã đem tinh thần mới để xét nghệ thuật của cổ nhân, việc đó chưa ai làm, và những độc giả nào lớn tuổi, biết chữ Hán đều nhận đó là một cống hiến đáng kể trong văn học nước nhà.
Tôi mừng rằng đã làm cho một số cựu sinh viên Văn khoa Đại học Sài Gòn hiểu được và thích cổ văn Trung Quốc. Trong bài Tựa tôi đã nói đọc nó có lợi nhiều về luyện văn: "Nghị luận thì chặt chẽ mà đột ngột, tự sự thì giản lược mà linh hoạt, miêu tả tài hoa mà gợi hình, lời văn thì hàm súc và cảm động". Còn cái lợi về tinh thần thì "mỗi khi muốn có cái cảm giác nhẹ nhàng như người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên ngọn đồi thì chúng ta cứ phải lật bộ Cổ văn ra chứ không tìm được trong các tác phẩm hiện đại nào cả".
Đọc những bài Nhạc Dương lâu ký, Thương Lương đình ký… ta muốn quên cả ngoại vật, thế sự, cảm xúc triền miên; những bài Tuý ông đình ký, Hỷ vũ đình ký khiến ta muốn nhảy múa với tác giả, vui cái vui thanh cao của tác giả; hai bài Xích Bích phú tiền và hậu làm cho ta lây cái tinh thần của Lão Trang, lâng lâng như muốn "mọc cánh". Và mới tháng trước, tôi đã mượn câu "Tích nhật chi sở vô, kim nhật hữu chi, bất vi quá; tích nhật chi sở hữu, kim nhật vô chi, bất vi bất túc" của Lưu Cơ trong bài Tư Mã Quý chủ bốc luận để an ủi gia đình một bạn mấy năm nay sa sút, phải bán lần đồ đạc mà sống, như hàng ức, hàng triệu gia đình khác. Tôi viết cuốn đó khi buồn về quân Mỹ đổ vào miền Nam nên gởi tâm sự trong lời của Hàn Dũ "bất bình tắc minh" mà tôi in ở trang đầu, và trong phần trên bài Tựa chép đời một ông nghè cuối Lê chán thời cuộc tìm một nơi hẻo lánh để dạy học ở gần làng tôi.
Chiến Quốc sách - Sử Ký của Tư Mã Thiên
Chiến Quốc sách đã được các nhà Nho trong Nam Phong trích dịch vài chục bài; Sử ký được Nhượng Tống dịch dăm chương. Ông Giản Chi và tôi tính làm kỹ hơn, phân công nhau: tôi giới thiệu bộ Chiến Quốc sách và trích dịch, chú thích hết các bài hay; ông Giản Chi tuyển dịch độ một phần tư bộ Sử Ký và chú thích rất kỹ; tôi giới thiệu tác giả cùng tác phẩm. Người này làm xong, đưa người kia coi lại.
Chúng tôi sưu tập tất cả các sách Hoa và Anh, Pháp viết về hai tác phẩm đó, để giúp độc giả hiểu thời đại, nguồn gốc, nội dung, giá trị về sử liệu, giá trị về phương diện văn học (điều mà các nhà khác không chú trọng tới mấy của mỗi tác phẩm.
Riêng về Chiến Quốc sách, chúng tôi còn dùng tài liệu trong tác phẩm để vẽ lại xã hội Trung Hoa thời Chiến Quốc. Trong bộ Sử ký, chúng tôi nhấn mạnh vào cuộc đời oan khổ của Tư Mã Thiên, nó ảnh hưởng tới tư tưởng và phương pháp viết sử của ông ra sao.
Bộ Chiến Quốc sách có phụ lục: Niên biểu thời Chiến Quốc, Nhân danh và Địa danh. Bộ Sử ký có hai bản đồ: Trung Hoa thời Chiến Quốc và Trung Hoa thời Hán (2).
Bị hạn chế về phương tiện in, chúng tôi không thể dịch trọn hai tác phẩm bất hủ đó được, nhưng đọc hai bản dịch của chúng tôi – 700 và 800 trang – độc giả cũng có một số tri thức tạm đủ và rõ rệt rồi, và chúng tôi mong rằng vài ba chục năm nữa sẽ có người dịch trọn bộ Sử ký. Ai cũng nhận hai bộ đó của chúng tôi có giá trị.
Tô Đông Pha
Tôi đặt Tô Đông Pha vào loại văn học, nhưng cũng có thể đặt vào loại Gương danh nhân cùng với mấy cuốn Einstein, Bertrand Russell, Henry David Thoreau (một lương tâm nổi loạn). Tôi thích họ Tô nhất vì tấm gương của Tô gần với tôi hơn cả. Tôi rất phục tài của Tô, tinh thần bình dân của Tô, mong học được đức khoan hoà, phóng khoáng của Tô. Tôi ước ao được sống cuộc đời nghệ sĩ của ông ở Hàng Châu, ở Lâm Cao, được thả chiếc thuyền trên Tây Hồ mà ngắm thập cảnh, uống rượu ngâm thơ với bạn trên dòng Xích Bích.
Mới mấy hôm trước đây, vì thời tiết thay đổi, vừa bật đèn lên ăn cơm thì mối bay ra cả đám, tôi phải tắt đèn, ra ngồi ăn cơm thầm ngoài sân (ở Long Xuyên), rồi về khuya cóc, nhái kêu inh ỏi, tôi phải trở dậy kiếm viên thuốc ngủ và nhớ lại hồi ông bị đày ở đảo Hải Nam, sống cực mà vẫn vui, vẫn trào phúng được. Về mọi phương diện ông đều đáng làm thầy tôi. Tôi thường đọc lại những đoạn ông ở Hàng Châu, Lâm Cao, Hải Nam đó, và đoạn ông ngồi thuyền qua hẽm Vu Giáp, trên sông Dương Tử để lên kinh đô.
Yêu ông, tôi cũng yêu mấy nhân vật kỳ dị thời ông nữa: một học giả bỏ ra 25 năm, viết một bộ sử vĩ đại (Tư Mã Quang), một triết gia sống khắc khổ (Trình Di), một đạo sĩ đi mấy ngàn cây số để thăm ông, yêu cả Vương An Thạch, nhà cách mạng đó có nhiệt tâm mà ngây thơ, có thể khùng khùng, nhưng không hẹp hòi. Còn nàng Triêu Vân nữa mà bạn của Tô gọi là Phật bà Quan Âm! Tóm lại tôi yêu cả xã hội Trung Hoa thời ông: nó chia rẽ, bất công, suy về kinh tế, võ bị, nhưng về văn học, triết học, mỹ thuật lại rất tiến. Hễ văn minh thì không hùng cường, hùng cường thì không văn minh. Hy Lạp sau thời Périclès văn minh rực rỡ mà bị Macédoine chiếm.
Năm 1974, tôi đã sửa lại Tô Đông Pha, thêm vài đoạn (một đoạn về cảnh Tây Hồ), nhà Cảo Thơm chưa kịp tái bản thì Sài Gòn được giải phóng, phải đóng cửa. Vài bạn kháng chiến rất thích cuốn đó cũng như các bạn tôi ở đây (3).
Văn học Trung Quốc hiện đại
Ở trên tôi nói không được vừa ý về bộ Văn học Trung Quốc hiện đại vì thiếu nhiều tài liệu. Tuy nhiên cho tới ngày nay, muốn biết về văn học hiện đại của Trung Hoa, ngoài bộ đó ra, chúng ta không còn cuốn nào khác. Tôi vẫn thỉnh thoảng tra lại nó. Trong đoạn kết tôi đã vạch rõ hai nền văn hóa Hoa, Việt từ cuối thế kỷ trước đến nay tiến song song nhau y như anh em sinh đôi, như vậy chỉ vì hai nước đồng văn với nhau, gặp những hoàn cảnh như nhau. Cuối bộ, tôi đã đặt vấn đề tự do và chỉ huy trong văn nghệ: "Tự do nhưng tự do tới mức nào, chỉ huy nhưng chỉ huy ra sao, làm sao để cho kẻ này đừng lạm dụng tự do, kẻ kia đừng lạm dụng quyền hành, vấn đề quan trọng đó vẫn chưa có một giải pháp lưỡng toàn nếu bản thân những người làm văn nghệ và cả những người hưởng thụ văn nghệ chưa có một nền đạo đức, một sự giác ngộ và một trình độ giám thức tối thiểu nào đó".
Trong Phụ lục, tôi thêm ba trang chê cuộc Cách mạng Văn hoá 1965-66 của Mao. Năm 1976 trong một cuộc toạ đàm ở Sài Gòn giữ ông Hà Huy Giáp, Thứ trưởng bô Văn hóa, ông Hà Xuân Trường, Thứ trưởng bộ Giáo dục ở Hà Nội vào, với khoảng mười nhà văn "nằm vùng", hoặc "tiến bộ" ở Sài Gòn, tôi hỏi ông Giáp:
- Trong cuốn Văn học Trung Quốc hiện đại tôi có chê cuộc Cách mạnh Văn hóa năm 1966 của Trung Hoa, như vậy có hợp với đường lối của chính phủ không?
Ông do dự một chút rồi đáp:
- Tôi không biết cuộc cách mạng đó ra sao, nhưng mỗi nước có một đường lối văn hóa riêng.
Lúc đó tôi mừng lắm. Chính phủ Việt Nam sáng suốt hơn Trung Hoa, mặc dầu trước đã phạm lỗi "Trăm hoa đua nở" như họ. Nhưng chỉ hai năm sau, có lệnh ở Hà Nội bắt miền Nam phải huỷ hết những sách báo xuất bản trước ngày 30-4-75, chỉ được giữ lại những sách về ngôn ngữ, nghề nghiệp, khoa học tự nhiên; tôi thấy Hà Nội cũng không hơn gì Bắc Kinh. Tin đó làm cho dư luận Sài Gòn rất xôn xao, chính quyền phải tuyên bố tạm hoãn để xét lại rồi êm luôn.
KHẢO LUẬN VỀ NGỮ PHÁP VIỆT NAM
Tôi đã nhiều lần tuyên bố trong đám đông rằng tôi không phải là nhà ngôn ngữ học. Vì ông Trương Văn Chình rủ tôi hợp tác soạn một cuốn ngữ pháp mới thay thế cuốn của Trần Trọng Kim, tôi mới cùng ông bỏ ra hai năm đọc ba bốn chục cuốn ngữ pháp Việt, Hoa, Anh, Pháp để cùng nhau tìm một phương pháp thích hợp với Việt ngữ, nhưng khi viết thì một mình ông đảm đương, tôi chỉ coi bản thảo và góp ý với ông thôi.
Càng đi sâu vào môn đó tôi càng thấy nó như một khu rừng, và khi chúng tôi tạm tìm được một lối để thoát ra thì riêng tôi, tôi thấy nhẹ mình, nghĩ bụng: "Thế là hết nợ". Ngay khi cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam mới in xong, tôi tuyên bố trong một bài phỏng vấn của Bách Khoa năm 1963 rằng tôi thích văn học hơn môn ngữ học, sẽ trở về văn học. Từ đó tới nay tôi không viết về ngữ pháp nữa, cũng từ chối dạy ngữ pháp cho một vài trường đại học. Ông Chình trái lại, mỗi ngày một đào sâu thêm, sau đó viết cuốn Structure de la langue vietnamienne, được Trung tâm Đại học sinh ngữ Đông Phương (Centre universitaire des langues orientales vivantes xuất bản năm 1970; và hiện nay ông có thêm một bộ Ngữ pháp Việt Nam gồm ngàn rưỡi trang đánh máy, viện Khoa học Xã hội Hà Nội chưa in cho ông được, ông đòi lại bản thảo, không biết họ có trả không.
Bộ Khảo luận ngữ pháp Việt Nam được vài giáo sư Việt cho là đánh dấu một khúc quẹo trong việc nghiên cứu tiếng Việt. Học giả E. Gaspardone ở Paris giới thiệu nó trên tạp chí Sinologie (Thụy Sĩ - 1965 với nhiều cảm tình; hai giáo sư Pháp, một ở Paris, ông Maurice Durand, một ở Việt Nam, cô Piat (4) khen nó trên nội san trường Viễn Đông Bác cổ (B.E.F.E.O - Durand năm 1966, và trên tạp chí nghiên cứu Đông Dương (Bulletin des Études Indochinoises - Sài Gòn - không nhớ năm nào, nhưng sau bài của Durand).
Nó mới mẻ thật. Chúng tôi nhấn vào tính cách cách thể (isolante và không có từ pháp (morphologie của Việt ngữ, mà bỏ hẳn lối chia ra làm trên chục từ loại như các sách ngữ pháp cũ, dùng một cách phân loại "mềm mại hơn, mơ hồ hơn" - lời của Gaspardone - phân biệt ba loại thôi: thể từ (tức danh từ cũ), trạng từ (gồm động từ, tĩnh từ, trạng từ cũ và trợ từ. Sự phân loại đó hơi giống lối của Trung Hoa thời xưa: thực từ, hư từ, bán hư bán thực từ.
Quy kết là chúng tôi chú trọng đến từ vụ (fonction des mots hơn người trước, chú trọng đến vị trí của mỗi tiếng trong câu, và tới sự cấu tạo của câu, sự phân tích từ vụ của mỗi phần trong câu. Vì vậy mà một số người cho phương pháp của chúng tôi là phương pháp cơ cấu. Sau giáo sư Trần Ngọc Ninh đào sâu thêm, phân tích kỹ hơn, viết bộ Cơ cấu Việt ngữ mới in ba cuốn đầu, mỗi cuốn độ 200 trang, khổ tiểu thuyết, rồi phải ngưng vì miền Nam đã thay đổi chế độ. Nghe nói hiện nay ông ở Mỹ.
Trong khi soạn bộ Khảo luận đó, tôi thấy có vài chỗ miễn cưỡng, bàn với ông Chình nhưng chúng tôi không sao giải quyết hơn được. Cách phân loại các từ của chúng tôi tuy tránh được nhiều mâu thuẫn mà cách cũ mắc phải, tuy có "mềm mại" hơn, nhưng chính vì vậy mà "mơ hồ" hơn, như ông Gaspardone nói.
Tôi lại thấy có nhiều phương pháp phân tích một ngôn ngữ: phương pháp duy lý (logique), phương pháp tâm lý (psychologique), rồi phương pháp cơ cấu (structural), cơ cấu ngầm (générative), cả phương pháp hoàn toàn hình thức (formelle nữa, nghĩa là chỉ dựa vào vị trí của các từ đối với nhau mà bỏ hẳn ý nghĩa đi. Phương pháp nào cũng có điểm hay, cũng có chỗ đúng, mà chẳng phương pháp nào hoàn toàn cả, mà vài ba nhà "ngôn ngữ học" ở nước mình lại thường đố kị nhau, ai cũng cho chỉ mình mới đúng nên tôi chán ngán, quyết tâm bỏ môn đó.
Tôi nghĩ môn ngữ pháp có ích đó, nhưng lý thuyết quá, không thiết thực bằng chỉ cách cho thanh niên viết tiếng Việt ra sao cho sáng sủa và đúng; nên trong mấy năm sau tôi lượm trên các sách báo Sài Gòn những câu tối tăm viết không xuôi, tìm xem nguyên nhân tại đâu, rồi đề nghị cách sửa chữa, và nếu có thể được thì rút ra một vài quy tắc. Cuốn đó đã viết xong, nhan đề là Tôi tập viết tiếng Việt nhưng vì chưa in, nên tôi để lại một chương sau sẽ xét.
CÁC TÁC PHẨM VỀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC
Khi bộ Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam còn đương thảo, tôi đã bắt đầu viết chung với ông Giản Chi bộ Đại cương triết học Trung Quốc. Do tôi đề nghị và phân công: ông Giản Chi lãnh phần Vũ trụ luận (II và Tri thức luận (III), tôi vốn thích cái gì cụ thể, thực tiễn, lãnh phần Nhân sinh luận (IV), Chính trị luận (IV). Vì công việc của tôi dễ hơn của ông Giản Chi, nên tôi lãnh thêm phần I: Vài nét sơ lược về sự phát triển của triết học Trung Hoa, và phần VI: Tiểu sử các triết gia, hai phần sau này điều ngắn. Toàn bộ gồm hai cuốn: Thượng trên 800 trang, và Hạ gần 900 trang. In cả chữ Hán, để riêng ở cuối mỗi cuốn.
Công việc này rất mệt. Tôi thú thực nếu không có ông Giản Chi thì tôi không dám mạo hiểm vào. Chúng tôi tra cứu tất cả các sách Trung triết bằng Hoa ngữ, Việt ngữ và Pháp ngữ mà chúng tôi kiếm được, nhất là bộ Trung Quốc triết học đại cương của Vũ Đồng mà ông bạn Tạ Trọng Hiệp tìm cho.
Sự hợp tác với ông Giản Chi rất thú vị, chúng tôi làm việc đều siêng năng, cẩn thận, biết dung hoà ý kiến của nhau, học thêm được của nhau.
Chúng tôi theo Vũ Đồng, trình bày triết học Trung Hoa theo chiều ngang chứ không theo chiều dọc, nghĩa là chia thành từng vấn đề, chứ không thành từng thời đại, từng môn phái. Cách trình bày đó rất mới mẻ ở nước ta (mà cũng ít thấy ở Trung Hoa, ở Pháp). Nhưng ở đầu bộ chúng tôi cũng thêm một phần tóm tắt lịch sử triết học Trung Hoa, phần này dài trên 100 trang (có thể in riêng vào loại sách phổ thông như loại Que sais je của Pháp), và ở cuối bộ lại thêm một phần nữa về tiểu sử mỗi triết gia, như vậy sửa được cái khuyết điểm của lối trình bày theo chiều ngang, mà giữ được cái ưu điểm là dễ tra cứu khi muốn tìm hiểu về một vấn đề nào.
Bộ sách dày quá, việc in lại khó khăn vì có nhiều trang chữ Hán, vốn phải bỏ ra nhiều mà thu lại rất chậm, vì vậy mà hai năm sau khi viết xong mới cho ra được cuốn Thượng, rồi hơn một năm sau nữa mới cho ra nốt cuốn Hạ, nhờ sự hợp tác tận tình, không vị lợi của ông Hồ Hải, giám đốc nhà xuất bản Cảo Thơm, một bạn trẻ của chúng tôi(5).
May thay sách được giới trí thức hoan nghênh (Nha Văn hóa tặng chúng tôi giải nhất văn chương toàn quốc, ngành biên khảo 100.000đ, chúng tôi nhờ Nha tặng lại một cơ quan văn hóa. Ông Đông Hồ tặng chúng tôi bài thơ chữ Hán: Bách luyện thiên kim một tháng trước khi mất. Trong hai năm bán lai rai cũng hết ngàn bộ (chúng tôi chỉ in bấy nhiêu thôi), chia nhau được ít lời. Thật hú vía. Bộ đó sau tái bản được một lần, chúng tôi mừng cho ông Hồ Hải. Ông là một nhà xuất bản yêu nghệ thuật in, có sáng kiến, thích những tác phẩm có giá trị, có đặc tài trình bày tác phẩm, nên sách của nhà Cảo Thơm nổi tiếng. Năm 1978 ông đi qua Mỹ và thỉnh thoảng vẫn viết thư hỏi thăm chúng tôi.
Liệt Tử và Dương Tử
Bộ Liệt tử chữ Hán không có tính cách nhất trí, nội dung rất tạp, chép cả về Dương Tử, Khổng Tử, Lão Tử, Quan Doãn, Quản Trọng, Án Tử…; lại thêm có nhiều bài mâu thuẫn, nhiều bài trùng với các tác phẩm khác; rõ ràng cuốn đó của người đời sau viết mà chỉ một số là môn đệ của Liệt Tử thôi.
Tôi đọc kỹ, loại bỏ những bài ngụy tác, chỉ lựa những bài diễn những tư tưởng có ít nhiều hệ thống, có thể tạm tin là tư tưởng của Liệt tử, và chắc chắn của Dương Tử rồi chia làm hai phần: Liệt Tử và Dương Tử. Riêng phần Liệt Tử tôi chia thành 6 chương có nội dung nhất trí, việc mà trước chưa ai làm. Nhờ đó mà bản của tôi không luộm thuộm như bản chữ Hán, sáng sủa hơn, có ý nghĩa hơn. Cuốn đó có nhiều truyện (huyền thoại, cố sự, ngụ ngôn lý thú, nên đọc (6).
Nhà giáo họ Khổng
Tập này mỏng, không đầy 100 trang, tôi viết trong nửa tháng, một cách dễ dàng và say mê. Tôi dùng toàn những bài trong Luận ngữ để vẽ chân dung nhà giáo (chứ không phải triết gia họ Khổng: tính tình và tư cách ông ra sao, cách ông dạy học, tình thầy trò của ông, công ông về giáo dục. Một bạn văn, ông Nguyễn Văn Hầu, tác giả các cuốn Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu, Thoại Ngọc Hầu khen chương V: Tình thầy trò, "rất cảm động, gây lại được cái không khí của trường học Nho ngày xưa". Viết xong tập đó tôi hiểu Khổng Tử hơn, quý ông hơn; ông vừa nghiêm, vừa khoan, đa cảm mà thương người, thành thực mà tự nhiên, bình dân, lại có nghệ sĩ tính, có tinh thần hài hước. Không có một ông thánh nào khác gần với chúng ta như ông. Cuốn đó được hoan nghênh, sau tôi nảy ra viết một cuốn nữa về Triết gia họ Khổng (7).
Mạnh Tử
Cuốn này dày hơn 180 trang, cũng do Cảo Thơm xuất bản như cuốn trên. Tôi cố làm nổi bật sự khác biệt giữa thời đại của Khổng và thời đại của Mạnh, giữa tính tình của hai vị. Khổng có lúc muốn chiều đời được việc, Mạnh thì hiên ngang quá, khẳng khái quá, giữ vững nguyên tắc, không chịu thoả hiệp.
Ông Thu Thuỷ (Võ Phiến trên tờ Chính luận số 9.3.75 phê bình cuốn đó như sau: "Về thời đại, về tính tình, về tư cách Mạnh Tử, cách ông Nguyễn Hiến Lê trình bày thật sống động lý thú.
Về tư tưởng của Mạnh Tử, trình bày cũng thật là rõ ràng, dứt khoát (…). Trong lối viết gãy gọn, thẳng thắn của ông Nguyễn, có cái đột ngột, gần như thân mật. Trước đây nửa thế kỷ, ông Trần Trọng Kim không thể có cái giọng ấy.
Cái dứt khoát của ông Nguyễn khiến người ta nghĩ tới Mạnh Tử, mà cái thân mật khiến nghĩ tới cụ Khổng…" (8).
SỬ
Đông Kinh nghĩa thục
Hồi tản cư về ở Tân Thạnh (1946-47 tôi được bác ba tôi, thời trẻ làm giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục mà cũng là rễ cụ Lương Văn Can, Thục trưởng, kể cho nghe hoạt động của trường. Hồi cư về Sài Gòn, tôi tìm đọc trên hai chục cuốn về các nhà cách mạng thời đó, cả cuốn Đông Kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất (Mai Lĩnh – 1938), vừa để kiếm thêm tài liệu, vừa soát lại những lời bác tôi kể, rồi viết cuốn Đông Kinh nghĩa thục xuất bản năm 1956. Tôi dùng một bài song thất lục bát của một thi sĩ khuyết danh trong tập Nam Thiên phong vận ca để dựng bố cục cho tác phẩm, cứ đầu mỗi chương tôi lại dẫn một hai câu theo đúng thứ tự trong bài.
Đông Kinh nghĩa thục ghi được không khí thời đó (1906-1907), chép được tinh thần của các nhà cách mạng vừa hăng hái vừa ngây thơ, nhất là tình đoàn kết, bình đẳng trong anh em, lại có nhiều giai thoại, nhiều tình tiết lý thú, cho nên sách bán khá chạy.
Sách in rồi, tôi vẫn tiếp tục kiếm thêm tài liệu, đọc ở đâu hoặc được bạn bè cho biết thêm điều gì, tôi đều ghi lại, cho vào một hồ sơ riêng để khi tái bản sẽ sửa chữa. Nhờ vậy sách in lần thứ nhì (1968 dày thêm được khoảng ba chục trang; lần thứ ba (1974 thêm được hai chục trang nữa, tất cả là 200 trang. Từ 1974 đến nay tôi lại kiếm thêm được ít tài liệu nữa (chép trong phần Phụ lục bộ Hồi ký) nhưng chắc sẽ không có lần in thứ tư.
Độc giả ai cũng cho cuốn đó là một trong những cuốn có giá trị của tôi; chính tôi cũng thích nó một phần vì nó ghi lại được hoạt động của các bác, cha, chú tôi.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung ở Bạc Liêu trong một bức thư đề ngày 21-6-69 viết: "Tôi đã đọc cả mấy bài Tựa của Đông Kinh nghĩa thục và của Bài học Israël, càng thêm mến cái tâm chí của anh, và càng thêm mộ cách nói thẳn thắng mà khéo léo của anh. Từ câu nói "Bất bình tắc minh" của Hàn Dũ mà anh nêu làm đề từ đặt ở đầu bộ Cổ văn Trung Quốc đến "càng đọc lịch sử thế giới… làm quân tốt thí trên bàn cờ Quốc tế" (Tựa Bài học Israël), qua "mỗi lần ôn lại lịch sử… vào bực nhất nhì Đông Nam Á" (Tựa Đông Kinh nghĩa thục), người nào có công tâm mà đọc anh, nghĩa là đừng có một định kiến nào, tất sẽ nhận rằng bên trong cái dáng văn nhược thư sinh của người có tên là Hiến Lê bao giờ cũng âm ỉ cháy một tráng chí bền chặt mà nếu chỉ nhìn thoáng qua chắc ít ai ngờ đến". Tôi cám ơn ông Trung đã theo dõi tôi và đọc kỹ tôi như vậy. Độc giả được mấy người như ông?
Nhà văn Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nam, trong một bức thư không đề ngày, bảo "… nếu anh không viết quyển đó (Đông Kinh nghĩa thục thì sự thực về phong trào đó thế nào, thật đã ai biết cho tường (tôi chưa được đọc quyển Đào Trinh Nhất). Tôi tin là trong văn nghiệp của anh, quyển sách mỏng ấy sẽ được nhắc tới nhiều như Sonate à Kreutzer (… trong sự nghiệp đồ sộ của Tolstoi".
Có thể do đọc Đông Kinh nghĩa thục mà Nguyễn Văn Xuân về sau viết cuốn Phong trào Duy Tân (Lá Bối xuất bản).
In xong cuốn đó - cũng như cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc - tôi gởi về Long Xuyên tặng ngay bác ba tôi một bản để người đọc lại hồi ký cùng bài thơ Cảm khái của người ở cuối sách:
Tuổi xanh kết bạn xoay trời đất
Năm chục năm nay thỏa ước mong
Độc lập xa gần cờ phấp phới
Anh hồn cố hữu khoái hay không?
Bài thơ đó người làm đầu mùa đông năm Ất Mùi (1955 khi Việt Nam không còn bóng một quân Pháp nào cả, ít tháng trước khi Đông Kinh nghĩa thục đưa cho nhà in sắp chữ. Đầu tháng giêng 1960 (ngày 12 tháng chạp năm Kỷ Hợi người quy tiên tại Chợ Thủ, thọ 78 tuổi. Sự nghiệp viết văn của tôi phần lớn nhờ người khuyến khích và giúp sức trong những buổi ban đầu; và tôi đã mừng rằng xuất bản được ba cuốn kể trên: Đông Kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương văn học sử Trung Quốc; trước khi người mất, tôi đã làm người hài lòng. Tình bác cháu chúng tôi ít thấy trong các gia đình.
Bài học Israël - Bán đảo Ả Rập
Hai cuốn nữa tôi cũng đắc ý là: Bài học Israël và Bán đảo Ả Rập. Tài liệu về hai cuốn đó, tôi thu thập trong năm sáu năm được khá nhiều. Hồi đó, may mắn một người cháu tôi - Tô Lệ Hằng, đi du lịch ở Israël, gởi về cho tôi một số tài liệu mà người khác không có được, nhờ vậy phần III cuốn Bài học Israël, nhất là về các nông trường Kibboutx, Mochav Ovedim, Mochav Chitoufi, tôi viết rất đầy đủ, nhiều độc giả chú ý tới.
Dân tộc Israël có thể làm gương cho ta về đức đoàn kết, anh dũng, kiên nhẫn và về tài tổ chức. Nhưng họ thành công rồi thì hoá ra kiêu căng, có óc thực dân, tôi không ưa.
Tôi thích cuốn Bán đảo Ả Rập hơn. Các dân tộc Ả Rập đau khổ chiến đấu, bị liệt cường chia rẽ, thao túng, cứ ngoi lên được một chút thì lại bị dìm xuống; tình cảnh, thân phận của dân tộc Irak trước cách mạng 1958 thật giống dân tộc mình thời đó. Những chương chúng tôi viết về lịch sử kiến quốc của Ả Rập Seoudite, về cuộc cách mạng của Ai Cập, của Irak là những chương tôi thích nhất. Có những nhân vật y như trong Đông Chu liệt quốc. Đời một dân tộc cũng như của một cá nhân, trong thời đau khổ chiến đấu mới có nhiều trang sử hay (9).
Một độc giả, ông Nguyễn Quý Toàn, trên tờ Diễn Đàn số 17 (1969), khen cuốn đó: "Nguyễn Hiến Lê có cốt cách một học giả thận trọng, lại có lối trình bày sáng, giản dị của một nhà văn (… Văn (của ông đầy hình ảnh, cụ thể và lôi cuốn như tiểu thuyết".
Khảo về sử hiện đại của bán đảo Ả Rập (trên đó có Israël tôi càng thấy rõ cái hại của thực dân. Trong bài tựa cuốn Israël tôi viết: "Thực dân nào, bất kỳ Đông hay Tây cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi của họ trước hết, còn có lợi cho họ thì họ giúp, hết lợi thì họ bỏ và đàn áp (… đi theo thực dân thì luôn luôn lợi bất cập hại (… không sớm thì muộn, thế nào cũng khốn đốn, điêu tàn với họ (… chỉ đem thân ra làm quân tốt thí cho họ trên bàn cờ quốc tế".
Có phải vì bài tựa đó không mà Bài học Israël, năm 1973 bị Nha Thông tin Văn hóa làm khó dễ, dìm trong mấy tháng khi xin phép tái bản, rồi năm 1975 bị một số cán bộ rỉ tai các sạp sách là không nên bán, mặc dù nó không có tên trong danh sách các tác phẩm bị cấm lưu hành? Nhưng cuốn đó và cuốn Bán đảo Ả Rập đã được kiều bào ở Mỹ đăng lại trên một tờ báo năm 1976 (?).
Vào khoảng 1969, tôi mua được trọn bộ Lịch sử Văn minh (32 cuốn của Will Durant, dịch ra tiếng Pháp, do nhà Rencontre ở Lausanne (Thụy Sĩ xuất bản. Bộ đó rất hay, ông bà Durant để ra ba chục năm tham khảo mấy ngàn cuốn sách, đi du lịch gần khắp thế giới để viết nó.
Năm 1970 tôi dịch cuốn Văn minh Ấn Độ (550 trang) (10), Lá Bối in. Để viết bài tựa 16 trang cho cuốn đó, tôi đã gởi thư qua Thuỵ Sĩ nhờ nhà Rencontre kiếm cho tài liệu về đời sống và sự nghiệp của W. Durant. Độc giả hoan nghênh, một vị viết thư yêu cầu tôi dịch toàn bộ. Tôi đáp cũng muốn vậy lắm nhưng trong nước phải có ít nhất là 3.000 độc giả như ông ta thì nhà Lá Bối mới dám tiếp tục.
Sau tôi chỉ dịch thêm bốn cuốn nữa: Văn minh Ả Rập, Bài học của lịch sử, Nguồn gốc văn minh và Văn minh Trung Hoa (11). Cuốn sau chưa kịp in thì thay đổi chế độ. Những cuốn đó đều có ích, nhất là Bài học của lịch sử.
KINH TẾ
Về kinh tế tôi chỉ có một cuốn: Một niềm tin ở trên đã giới thiệu rồi. Sách viết gọn, sáng sủa và đầy đủ, để phổ biến những luật phát triển kinh tế và những vấn đề cùng đường lối phát triển kinh tế tại các nước lạc hậu mà người ta gọi là thế giới thứ ba. Một người điểm sách khen là "tác giả viết với tấm lòng yêu nước nồng nàn".
Một vài suy luận của Fourastié trong cuốn đó đã hoá sai. Như (tr.65 ông tiên đoán khoảng vài thế kỷ nữa, số dân hoạt động tại các nước tiên tiến sẽ như sau: 10% về hoạt động sơ đẳng, 10% về hoạt động nhị đẳng, 80% về tam đẳng; mà ngay từ bây giờ ở Mỹ, hoạt động sơ đẳng (trồng trọt, chăn nuôi chỉ chiếm 5% số dân hoạt động và nhờ sự phát triển của kỹ thuật điện tử, đầu thế kỷ tới hoạt động nhị đẳng (kỹ nghệ chỉ còn 10% số dân hoạt động, còn 85% về hoạt động tam đẳng (dịch vụ).
Một niềm tin, in chỉ 2.000 bản mà bán 5-6 năm mới hết, trong khi ở Nhật, Ý và 5-6 nước khác thì cuốn nào của Fourastié mới in ra cũng được dịch ngay, bán rất chạy. Số độc giả của mình may lắm bằng 1/10 của người.
TIỂU PHẨM
Tiểu phẩm là những bài văn ngắn từ mươi trang trở xuống viết về bất kì vấn đề gì (tự sự, nghị luận, phê bình… và có tính cách độc lập nghĩa là không trích từ một tác phẩm dài ra.
Trong loại tiểu phẩm tôi có thể kể nhiều bài mà tôi đã gom lại trong 2 cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa, Mười câu chuyện văn chương đã xuất bản, và trong hai tập Để tôi đọc lại, Mười tám câu chuyện thời sự chưa in thành sách.
Dưới đây tôi giới thiệu một số bài tôi đắc ý vì có tính cách nghệ thuật ít nhiều, lý luận vững, và nhất vì cảm xúc chân thành, dạt dào, ghi được tâm tư, những nỗi vui buồn, phẫn uất của tôi. Nói như Hàn Dũ thì đây là những "Bất bình tắc minh" của tôi, "bất bình" hiểu theo nghĩa rộng là không có sự quân bình, là xúc động mạnh.
Trên các báo định kỳ tôi đã gởi đăng một số bài có tính cách bút chiến, như những bài về tư thục, về chuyển ngữ ở đại học (đã giới thiệu ở trên hoặc những bài:
- Vấn đề kiểm duyệt (Bách Khoa – 1969).
- Nhà cầm quyền và dư luận (Bách Khoa - 1966), bài này bị kiểm duyệt bỏ nhiều quá, mất gần hết ý nghĩa.
- Vấn đề thông cảm lẫn nhau giữa chính quyền và nhân dân (1961), bị kiểm duyệt bỏ trọn.
- Thân phận người dân các nước chậm tiến (1966), Bách Khoa không đăng vì sợ "bị trù".
Những bài trên tôi gom lại trong tập: Mười tám câu chuyện thời sự.
Hai bài tôi đắc ý nhất, giá trị ngang với cổ văn Trung Quốc là:
- Ý nghĩa cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh.
Ông Anh làm chủ khảo trong kỳ thi Tú tài I ở Nha Trang năm 1967, bị một bọn thí sinh ghét vì ông nghiêm chỉnh giữ kỷ luật trường thi mà đâm ông túi bụi ở trước một quán ăn, và ông đã tắt thở. Hay tin tôi xúc động mạnh, viết một hơi trong bài trên, mạt sát cả bộ Giáo dục, các nhà cầm quyền lẫn cha mẹ học sinh, giọng phẫn uất bừng bừng trên ngọn bút. Ông Giản Chi đọc xong khen: "ngắn mà hay".
- Cụ Phan và lòng dân
Năm 1967, ông Lê Văn Hảo, giáo sư đại học Văn khoa Huế vào Sài Gòn nhờ tôi viết cho một bài cho số kỷ niệm 100 năm năm sinh Phan Bội Châu và tôi gởi ông bài Cụ Phan với lòng dân. Bài đó rất được bạn văn thích, cả Nam lẫn Bắc. Tôi kể lại lòng ngưỡng mộ của dân làng tôi hồi năm 1925 đối với cụ Phan và đả bọn thực dân Pháp đã bị cái lợi ám nhãn không nhận ra tinh thần ái quốc của dân tộc chúng ta, để đến nỗi non 30 năm sau phải chịu cái nhục ở Điện Biên Phủ. Câu cuối bài: "Nhưng nào phải chỉ có Pháp mới ngốc", tiên đoán rằng Mỹ cũng sẽ bị nhục như Pháp.
Nên kể thêm hai bài:
- Đả phá dễ hay xây dựng dễ, tôi đã giới thiệu ở chương XXVII.
- Con đường hòa bình, mới đầu đăng trên một số kỷ niệm Nhất Chi Mai của Hội Phật giáo thống nhất (1971), sau nhà Lá Bối in thành một tập mỏng trong loại Bông hồng cài áo. Tôi hô hào gột bỏ hết những nhiễm độc của Tây phương, gột bỏ tinh thần kỳ thị, phe đảng, gột bỏ những ý thức hệ ngoại lai, mà trở về tinh thần bao dung, bất đồng nhi hòa của tổ tiên, có vậy mới đoàn kết quốc dân, thống nhất quốc gia được. Con đường hòa bình ở đó. Sau năm 1975, một luật sư bị một bạn đồng nghiệp tố cáo và suýt mang họa vì đọc tập đó.
LOẠI TÙY BÚT
Phải kể trước hết hai bài rất ngắn viết trước 1945 và sau trích dẫn trong Hương sắc trong vườn văn.
- Hương và sắc, giọng nửa biền nửa tản, lời bóng bảy có chỗ du dương, đại ý là trọng hương hơn sắc. Đó chính là bản tính của tôi: bất kỳ ở đâu, vườn dù hẹp tôi cũng trồng những cây cao có hương thơm như hoàng lan, ngọc lan chứ không trồng các loài chỉ có sắc mà không hương, lại mất công săn sóc. Chính vì đọc bài ấy mà các bạn Đông Hồ, Ngu Í mua hai loại cây ấy cho tôi khi tôi có nhà mới ở Kỳ Đồng.
- Con vịt, có chút triết lý hoài nghi như Anatole France; giọng bài này - nhiều đối thoại – chịu nhiều ảnh hưởng của Tây phương, khác hẳn bài trên chịu ảnh hưởng Trung Hoa.
- Nhưng tôi thích Hoa đào năm trước hơn cả. Bài này cũng ngắn, in trong loại Bông hồng cài áo của nhà Lá Bối, nửa là hồi ký, nửa là nghị luận, giọng tự nhiên, cảm động, lời đẹp, ai đọc rồi cũng thấy mang mang nhớ nhung một cái gì đã mất. Đoạn kết buồn man mác: "Nay bóng chiều đã xế, tôi nghiệm rằng những cảnh đẹp nhất mà ta được thấy luôn luôn chỉ thoáng hiện rồi biến mất. Không sao gặp lại được lần lần thứ hai (… Vì phải có sự giao hội kỳ diệu mà hữu tình của biết bao cái ngẫu nhiên, từ người và vật tới mây nước, ánh sáng, hương thơm, tâm trạng… cùng nhau tấu lên một hòa khúc thì mới gây cho ta được một cảm giác hoàn toàn thỏa mãn về tinh thần, một cảm giác phơi phới, nửa hư nửa thực, đột ngột mà bâng khuâng. Ta thấy lòng ta nở ra, ngũ quan mẫn tuệ, tinh thần thanh thoát như chơi vơi. Một đời người hưởng được vài ba phút mà dư hưởng bất tuyệt đó, tôi tưởng đã là phước lớn. Nó quý ở chỗ không bao giờ tái hiện và rất ngắn ngủi... Đừng kiếm nó lại, vô ích, mà đừng mong cho nó kéo dài…
Cái tuyệt mỹ bao giờ cũng phù du mà lại thọ nhất".
- Có thể kể thêm vài bài trong Hương sắc trong vườn văn như Cái thần trong văn… và trong Mười câu chuyện văn chương như Kỷ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn…
HỒI KÝ về người thân như bà ngoại tôi, cha mẹ tôi, (tôi sẽ nói ở dưới), con tôi; về thầy học trong Thầy học tôi: cụ Dương Quảng Hàm (Bách Khoa - 1966); về bạn như Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Đất Hà Tiên với họ Mạc và họ Lâm đăng trên Bách Khoa nhân ngày giỗ đầu 1979, và giỗ cuối 1971 của Đồng Hồ, bài trên ghi công của Đông Hồ với Việt ngữ, bài sau ghi công của Đông Hồ với đất Hà Tiên, quê hương của ông. Ai cũng nhận hai bài đó hơn tất cả các bài từ trước tới nay viết về ông, và tóm tắt đủ sự nghiệp rất đặc biệt của ông.
Sau Đông Hồ, tôi còn phải khóc Hư Chu trong bài Hư Chu (Bách Khoa năm 1973). Đời ông ngắn, sự nghiệp của ông cũng ngắn, nhưng ông rất nghệ sĩ, cũng nổi danh sớm mà được nhiều bạn mến vì tính hồn nhiên.
Cảm động nhất, ngày nay mỗi lần đọc lại tôi đều rơm rớm nước mắt là những bài viết về người thân của tôi. Bài Làm con nên nhớ là một lời sám hối làm cho Đông Hồ rơi lệ khi đọc rồi, đương đêm viết ngay cho tôi một bức thư dài, sau tôi sắp chung với bài của tôi, đưa cho nhà Lá Bối in.
Bài Cháu bà nội tội bà ngoại (cũng do Lá Bối in kể lại tình thương của bà ngoại tôi, công của bà và của mẹ tôi, mà tôi chưa đền đáp được chút nào. Tôi cũng sụt sùi khi viết bài đó, và một bạn văn, ông Châu Hải Kỳ ở Nha Trang cũng sụt sùi đọc nó. Bài Trần tình biểu của Lý Mật (có trích trong bộ Cổ văn của tôi cũng không cảm động hơn.
CÁC BÀI TỰA
Tôi đã viết 4-5 chục bài tựa cho các tác phẩm của tôi và hai chục bài cho tác phẩm của bạn. Có người nhờ tôi đề tựa cho hai ba cuốn. Hai đã là quá nhiều rồi (hóa nhàm đi), mà phải là 2 cuốn trong hai loại khác nhau thì tôi mới nhận lời. Và tôi cũng chỉ nhận cho bạn văn thôi. Ông Châu Hải Kỳ có lần khuyên tôi nên lựa những bài tựa vừa ý hơn hết, cho vào một tuyển như một nhà văn nào đó của Pháp. Tôi không làm việc đó khiến ông bực mình, nhưng sau sau 1975 tôi cũng lựa ít bài cùng với một số tuỳ bút, hồi ký, cho vô tập: Để tôi đọc lại (không xuất bản).
Tựa tôi viết cho tôi mà tôi lấy làm đắc ý:
- Cổ văn Trung Quốc: có giọng cổ văn, hợp với nội dung tác phẩm: gọn, giản, bóng bẩy mà minh bạch, cảm thán thành thực, nửa trên ghi lại một hồi ký thời trẻ, nửa dưới tả tâm sự và tài của cổ nhân.
- Thế hệ ngày mai: phần trên cảm động, chép tình của cha mẹ đối với con trong hai buổi học đầu tiên của tôi và của con tôi.
- Đại cương văn học sử Trung Quốc: đoạn kết từ "Trăng mới ló dạng" tới cuối lời đẹp và có giọng cảm thán.
- Tương lai ở trong tay ta: ví đời người với một cuộc thám hiểm, ai cũng phải tự tìm lấy con đường của mình, như Magellan đi vòng quanh thế giới.
- Quảng gánh lo đi: đoạn đầu giọng cũng cảm thán vì đời người là một bể thảm, đúng như Đoàn Như Khuê nói, dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng đáng thương như nhau hết.
- Bán đảo Ả Rập: tôi tóm tắt được bi kịch của bán đảo đó trong câu đầu: nó bị Dầu lửa chi phối mạnh hơn Hồi giáo. Lời lưu loát, giọng rất mỉa mai, phẫn uất.
- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười: Tình thương của các bà già miền Nam. Đoạn mở đầu đột ngột.
Tựa viết cho các bạn
- Úc viên thi thoại của Đông Hồ, có giọng cổ văn. Mở đầu tôi giảng tại sao thi thoại khó viết: phải vừa là nhà thơ vừa là nhà văn, có danh, có uy tín, lịch lãm nhiều, đọc sách nhiều. Đoạn giữa tôi nhắc lại những hồi ức Đông Hồ, chứng tỏ ông có đủ những điều kiện ấy.
Vì bài tựa đó bà quả phụ Đông Hồ, nữ sĩ Mộng Tuyết, nhờ tôi viết khi xuất bản tác phẩm của chồng, nên cuối bài tôi ghi lại việc đó: "Chẳng qua nữ sĩ Mộng Tuyết nghĩ rằng sinh thời thi sĩ coi tôi vào hàng tâm giao, nên cho tôi được ký tên dưới tên thi sĩ đấy. Tấm lòng đó thật cảm động. Xin ghi ơn nữ sĩ".
Thi sĩ Quách Tấn khen bài đó lời rất cảm động, mặc dầu tôi không làm văn.
- Đất nước quê hương của Võ Phiến. Bút pháp bài này cũng tựa bút pháp bài trên. Mở đầu tôi cũng xét về thể tùy bút: nó rất tự do, gặp gì chép nấy, nghĩ sao nói vậy, tưởng là dễ viết mà thực ra rất khó; phải có giọng thân mật, hấp dẫn như một câu chuyện thanh nhã giữa những bạn đồng điệu lúc ngồi bên giàn hoa hay một ấm trà; lời phải tự nhiên, có duyên, nội dung phải thay đổi, có ý vị. Đoạn giữa tôi cũng chứng tỏ Võ Phiến có đủ điều kiện đó. Nhưng đoạn kết thì khác: tôi bảo nhờ thượng cấp của ông - ông là nhân viên Nha Thông tin - muốn trừng phạt ông mà ông có dịp đi đây đi đó khắp trong nước, viết được tập Đất nước quê hương. "Vậy trong cái rủi vẫn thường có cái may. Và khi một nhà văn biết lợi dụng nghịch cảnh thì chẳng những có ích cho mình, mà còn có ích cho độc giả, cho văn hóa nữa".
Đông Hồ thường khen với tôi rằng Võ Phiến viết tùy bút hay nhất trong Nam. Tôi rất vui được viết bài tựa đó, và khen tùy bút của Võ Phiến có phần hay hơn, nhẹ nhàng hơn, nhiều vẻ hơn tùy bút của Nguyễn Tuân.
- Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu.
Bố cục bài này tự nhiên mà lạ. Mới đầu tôi nói về miền Tây Nam Việt; rồi thu lại, nói về miền Hồng Ngự - Cao Lãnh (tôi gọi là miền Hồng Cao); sau thu lại nữa, nói riêng về Cao Lãnh, quê hương của Nguyễn Quang Diêu; lại thu nữa, nói về đời Nguyễn Quang Diêu và ông Nguyễn Văn Hầu tác giả cuốn sách; đây là tâm điểm của bài tựa. Từ tâm điểm đó toả ra, nói về các nhà tân học và cựu học như Nguyễn Văn Hầu, và tự hỏi tại sao Viện Khảo cổ không biết nhờ họ giúp sức cho mau kết quả. Rồi tôi lại toả rộng ra nữa, nói về tất cả các công việc văn hoá khác: khảo cứu địa lý, soạn tự điển v.v…; sao chính quyền không nhờ toàn dân giúp sức mà cứ ôm lấy hết về mình. Và cuối cùng tôi kết: "… khi toàn dân thấy có thể giúp chính quyền trong mọi phạm vi, có trách nhiệm hợp tác với chính quyền trong mọi hoạt động thì lúc đó mới có sự đoàn kết thực sự mà công việc xây dựng quốc gia mới tiến triển mau được".
Như vậy là từ tâm điểm toả ngược ra dần dần, cuối cùng bao cả vòng khởi thủy là miền Tây Nam Việt. Văn ba lan, tiến lui như những đợt sóng. Bài tựa đó, ông Đông Hồ khen là "còn hay hơn cả cuốn sách". Mấy năm sau đọc lại, tôi mới nhận ra rằng bút pháp bài đó giống hệt bút pháp của Tăng Củng trong bài Ký Âu Dương Xá nhân thư mà khi viết tuyệt nhiên tôi không nghĩ tới. Cổ văn thâm nhập vào tôi mà tôi không hay.
- Bài được các bạn văn khen hay nhất là bài Tựa tập Qê hương của Nguyễn Hữu Ngư. Tôi tả kỹ dáng người, y phục, cử chỉ, ngôn ngữ của tác giả, tình của ông đối với nước, với nhà, bạn bè; ghi lại những lúc ông bị thất vọng mà hoá điên, đi lang thang khắp nơi, bị cảnh sát nhốt, đánh đập… khiến tôi nhớ tới Từ Vân Trường đời Minh bên Trung Quốc mà Viên Hoàng Đạo cho là "vô chi vi bất kỳ" cho nên "vô chi vi bất kỳ", vì khác người nên gặp cảnh gian truân. Nguyễn Hữu Ngư quả là một "kỳ" nhân ở nước ta, mà tập Qê hương của ông cũng là một kỳ thư: nội dung thật loạn, đủ các thể, đủ thứ tài liệu, không thể đặt nó vào loại nào được cả.
Tôi nhớ hôm ông lại tôi lấy bài Tựa rồi không ra về, mà ngồi bệt ngay xuống dưới mái hiên mà đọc. Tôi ở trên lầu nhìn xuống, đợi ông đọc xong, hỏi: "Sao? Anh vừa ý không?". Ông cười, đáp: "Ngoài ước vọng nữa". Ông mất năm 1978, sau khi ở Dưỡng trí viện Biên Hòa về nhà được độ một tháng. Bạn bè ai cũng thương tiếc.
- Ngoài ra nên kể bài Tựa cuốn Trần Quý Cáp của Lam Giang do con cháu nhà cách mạng họ Trần nhờ viết; và cuốn Thi văn Hán Việt của Đông Xuyên mà đoạn cuối giọng rất thân mật.
DU KÝ
Tôi chỉ có hai tập: Đế Thiên Đế Thích (12), và Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười (13) mà tôi đã giới thiệu trong một chương trên.
SÁCH DỊCH
- Sống đẹp: Xin nói trước hết về tập Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, thuộc loại cảo luận có tính cách triết lý, rồi sẽ xét về các tiểu thuyết sau. Cuốn nào tôi dịch cũng kỹ, nhưng thích nhiều hay ít dĩ nhiên là tuỳ nội dung từng cuốn, tài của tác giả.
Lâm Ngữ Đường viết cuốn Sống đẹp bằng tiếng Anh, nhan đề là The Importance of living từ 1937. Khoảng 1957 tôi được đọc bản dịch ra tiếng Pháp L’Importance de vivre của nhà Corrêa, thấy tác phẩm rất hay mà bản dịch kém. Ít năm sau tôi thấy ở nhà xuất bản Á Châu một bản Việt dịch hình như của Trình Xuyên với tên sách Lạc thú ở đời, cũng tầm thường mà lại cắt bỏ nhiều quá, chỉ còn độ một phần ba, như vậy mất hết ý nghĩa của tác phẩm. Từ đó tôi có ý dịch lại, muốn vậy phải có nguyên bản tiếng Anh và phải tra được những nhân danh, địa danh bằng chữ Hán.
Năm 1964 tôi viết thư hỏi thẳng tác giả ở Mỹ. Ông hồi âm liền từ Thuỵ Sĩ, nơi ông đang du lịch, vui vẻ cho phép tôi dịch, và cho biết nguyên bản tiếng Anh không còn, nhưng có bản Hoa dịch nhan đề là Sinh hoạt đích nghệ thuật (do Việt Duệ dịch – nhà Thế giới Văn hoá xuất bản – 1940). May sao ông Giản Chi có bản đó và cho tôi mượn. Bản chữ Hán đầy đủ, chép hết những cổ văn, cổ thi Trung Hoa mà Lâm dẫn trong tác phẩm và nhiều khi chép thêm bản dịch những bài đó của Lâm nữa. Thế là tôi có được hai bản: Hoa và Pháp. Tôi so sánh rồi khởi công dịch liền, cuối năm 1964 xong. Trong khi dịch, luôn trong 3 hay 4 bốn tháng, tôi thấy vui gần như hồi dịch cuốn Quẳng gánh lo đi, vì nhân sinh quan nhàn tản của Lâm – mà chính là của Trung Hoa – vì tinh thần nghệ sĩ và hài hước của ông, vì giọng tự nhiên, thân mật, đôi khi như cười cợt, đùa bỡn nữa, không khác một cuộc đàm thoại chung quanh một bình rượu hay một ấm trà giữa những người bạn đồng điệu. Nhờ có những văn thơ bằng chữ Hán, khỏi phải dịch theo bản tiếng Anh hay Pháp, nên tôi biết chắc rằng bản dịch của tôi sẽ được hoan nghênh, độc giả sẽ thích hơn là đọc nguyên tác của Lâm.
Cuốn Sống đẹp bán chạy. Nhà Tao Đàn in 2 hay 3 lần mỗi lần ít nhất 3.000 bản, lần đầu vào tháng 3.1965 (14).
Nhiều độc giả khen là dịch khéo, trong số đó có Đông Hồ. Một độc giả tôi chưa hề quen, bác sĩ Trần Văn Bảng (học trường Bưởi trước tôi vài năm thích tới nỗi làm một bài thơ nhan đề là Sống đẹp gởi tặng tôi. Bài gồm 5 đoạn, tôi chép lại đây đoạn giữa:
Đây tư tưởng chín tầng mây siêu việt
Sang sảng nghe tiếng nói của thánh hiền
Ngọc chuốt, châu gieo, lời vàng, ý thép
Khiến tâm linh hoan lạc cõi vô biên
Từ đó chúng tôi thành bạn thân. Ông hồn nhiên, vui tính, hình như sống hơi lôi thôi, thích làm thơ (giọng hoạt chứ không chuốt hay đùa cợt), đánh mạt chược, chắc đã lựa lầm nghề y sĩ. Năm 1977, trước khi qua Pháp đoàn tụ với vợ con, ông lại thăm tôi, xin một bản Sống đẹp để mang theo. Ít bữa sau ông trở lại, lắc đầu, đưa hai tay lên trời, bảo: Ngữ Đường không ưa cộng sản, nên qua Mỹ ở, viết cuốn Secret name (Bí danh chê cộng độc tài, nên cộng ghét ông, chứ cuốn The Importance of living không đã động gì tới cộng cả. Vài tác phẩm của Lâm viết bằng tiếng Anh được dịch ra 14 thứ tiếng, và có hồi ông làm Trưởng ban Văn nghệ cơ quan Văn hoá Liên hiệp quốc.
Mấy năm nay ông Bảng vẫn liên lạc với tôi bằng thư, thỉnh thoảng gởi cho tôi một bài thơ "tếu".
- Chiến tranh và Hòa bình
Trong tạp chí Tân Văn 1969, không nhớ tháng nào, đăng bài Tôi dịch Chiến tranh và Hòa bình kể lại do đâu tôi dịch bộ đó và dịch khó nhọc mà vui ra sao.
Trong một chương trên tôi đã kể lối dịch bộ đó; trong phần giới thiệu Chiến tranh và Hòa bình tôi cũng đã phân tích nghệ thuật của Tolstoi, đây chỉ xin ghi lại cái duyên văn tự khiến tôi hợp tác với nhà Lá Bối.
Tôi thích Chiến tranh và Hòa bình hồi ở trung học, và khoảng 1961-62 tôi đã muốn dịch, đề nghị với hai nhà xuất bản lớn ở Sài Gòn, hễ khi nào thấy có thể in được thì cho tôi hay, tôi sẽ khởi công liền. Tới tháng 9 năm 1966, lời đề nghị đó vẫn chưa được hai nhà đó xét; họ bận quá, chắc quên rồi. Trong bài Đả phá dễ hay xây dựng dễ? đăng trên Tin Văn ngày 15.9.66, tôi nhắc lại đề nghị. Bài đăng được khoảng một tháng thì một hôm một vị mà tôi chưa hề gặp mặt lại thăm tôi, tự giới thiệu là Giám đốc nhà xuất bản Lá Bối, tặng tôi ít cuốn sách, và nhân đọc bài của tôi đăng trên Tin Văn mà nhờ tôi dịch cho Chiến tranh và Hòa bình.
Tôi nhận lời, hứa trong hai năm sẽ xong. Nửa tháng sau một nhà xuất bản khác cũng lại nhờ dịch. Về sau nhà xuất bản nữa tỏ ý tiếc rằng không hay trước. Quả đã tới lúc độc giả đòi hỏi sách đó. Nhà sư đó là Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ Thắng Tiết. Sau thầy cho tôi hay là hồi tôi còn ở Huỳnh Tịnh Của, trước năm 1960, đã có lần đem lại tặng tôi cuốn Duy thức luận của Thạc Đức, tức Thượng toạ Nhất Hạnh sau này, là một cây bút Phật giáo nổi tiếng, tôi quý và mến. Thầy Từ Mẫn lúc đó còn là sinh viên Phật học, bạn của Thạc Đức. Tôi nhớ lại việc đó, hỏi thầy:
- Đọc xong Duy thức luận, tôi thấy sáng sủa, hay, có viết thư lên Đà Lạt cảm ơn, khen và khuyến khích tác giả viết về lịch sử Phật giáo từ khởi thuỷ đến nay, mà sao không thấy hồi âm?
Tôi lại hỏi:
- Đã biết tôi từ mươi năm trước mà sao bây giờ mới lại kiếm tôi?
Từ đó, chúng tôi thân với nhau. Thầy trẻ hơn tôi, vui vẻ, thành thực, làm việc cẩn thận, trọng chữ tín, có tư cách, kín đáo mà thân mật. Cả Giản Chi với tôi đều khen là đứng đắn nhất trong giới xuất bản.
Tôi khởi công dịch Chiến tranh và Hoà bình liền, dịch rất kỹ, giới thiệu tác giả và tác phẩm cũng kỹ, non một năm rưỡi thì xong. Xoay được đủ vốn, nhà Lá Bối cho in ngay, đầu năm 1969 ra được cuốn I khoảng 750 trang, rồi ba tháng sau ra nốt ba cuốn nữa, do hai nhà in sắp chữ. In 3.000 (hay 5.000? bản, vốn khá nặng, mấy triệu đồng thời đó. Nhờ báo chí giới thiệu và khen, nhờ Lá Bối có sẵn một số độc giả đông, nhờ quảng cáo trên màn ảnh Sài Gòn, nên sách bán chạy, ba năm sau tái bản, nhưng vừa in xong đủ bộ, gởi trong kho trường Thanh niên phụng sự xã hội, thì quân đội Giải phóng vào khám xét trường, tịch thu hết. Thầy Từ Mẫn bị bắt giam để điều tra, hơn một tháng sau mới được thả.
Tôi nhớ lại trong năm 5-6 tháng sắp chữ bộ Chiến tranh và Hoà bình, ngày nào thầy Từ Mẫn cũng lại tôi 2 lần, đưa bản vỗ để thầy và tôi cùng nhau sửa, trước khi trả cho nhà in. Mỗi ngày thầy lái xe Honda đi đi về về không biết mấy lần từ nhà xuất bản đến nhà in, nhà tôi, tính ra tới 50 cây số (15).
Trong số các nhà xuất bản, hợp tác với thầy tôi thấy thích nhất, và chỉ trong 4-5 năm, thầy in cho tôi được khoảng chục tác phẩm, mà hai cuốn quan trọng nữa là Chiến Quốc sách, Sử ký của Tư Mã Thiên (16), cả hai đều bán chạy, tái bản trong một hai năm. Giản Chi và tôi thành những nhà văn có nhiều tác phẩm nhất trong tủ sách Lá Bối. Như có duyên tiền kiếp.
Gần cuối năm 1979, thầy Từ Mẫn vượt biên "chui", tới Thái Lan gởi thư về thăm Giản Chi và tôi, cũng như ông Hồ Hải, nhà Cảo Thơm. Tháng 7.1980 thầy đã qua Mỹ.
- Kiếp người
Chiến tranh và Hòa bình rất dài và có nhiều chương lý thuyết về lịch sử đọc chán lắm, nhưng tôi giữ trọn, không bỏ một hàng vì tôi nghĩ tác phẩm đó lớn quá, nước mình nên có một bản dịch đầy đủ, rồi sau muốn phổ biến thì sẽ cắt bớt.
Kiếp người (Of human bodage của Somerset Maugham chỉ bằng một phần tư Chiến tranh và Hoà bình mà tôi lại cắt đi non một nửa – cắt những đoạn tả phong tục và đời sống bên Anh cuối thế kỷ trước – để tác phẩm bớt rườm rà mà thêm hấp dẫn, vì nghệ thuật của Maugham kém Tolstoi. Chính Maugham cũng nhận Tolstoi là bậc thầy.
Tuy nhiên tôi cũng rất thích Kiếp người và vẫn thường say mê đọc lại, ông Giản Chi cũng vậy. Không có một tác phẩm nào tả được nhiều nỗi đau như thế; đau khổ của một đứa bé mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở nhờ ông bà bác, xa chị vú thân yêu; đau khổ của một kẻ tàn tật, hồi đi học thì bị bạn giễu, lớn lên bị thiên hạ khinh; rồi cảnh khổ ở nội trú, nỗi thất vọng, chua chát khi mất lòng tin Chúa, nỗi chán chường khi phải học một nghề mình không ưa, sau khi phải tranh đấu với ông bác để được phép học được nghề mình thích thì lại thất vọng nhận ra rằng mình không có khiếu về nghề đó; đau khổ, tủi nhục nhất là yêu một con điếm mà nó không yêu lại, bị nó phản với bạn thân của mình, vậy mà vẫn không quên nó được; rồi cảnh đầu cơ nhẵn túi phải lang thang ở ngoài đường, uống nước máy, ngủ công viên, nhịn đói ba bốn ngày, phải bỏ học, nhận một chân chỉ dẫn khách hàng trong một tiệm buôn; sau cùng chỉ nuôi mỗi cái mộng đi du lịch thế giới mà đành phải bỏ, chịu sống cuộc đời vô vọng của một y sĩ trong một vùng quê nghèo.
Đó là nỗi khổ của Philip, nhân vật chính. Các nhân vật phụ - trừ gia đình Athelny, nghèo mà hòa thuận, thương người, cứu mạng Philip – cũng mỗi người mang một cây thánh giá: bà bác Philip cô độc, không có con, yêu cháu như con mà nó bỏ bà đi qua Paris để học vẽ; một giáo sư Ý qua Đức dạy tư, đói quá, không giảng được bài; một thiếu nữ, cô Norah, yêu Philip, săn sóc từng li từng tí cho chàng mà chàng không bao giờ yêu lại được; một bác sĩ già, bác sĩ South, giận con gái và chàng rể, mà phải sống cô độc. Lạ lùng nhất là truyện đó Maugham viết hồi bốn mươi tuổi, về già cảnh của ông y như cảnh của bác sĩ South, cũng chỉ có mỗi cô con gái, cũng bất hoà với con rể mà sống một thân một mình.
Bao nhiêu nỗi khổ của con người trước thế chiến thứ nhất đã được Maugham tả hết, không sót. Truyện có tính cách hợp nhân tình một cách lạ, đến nỗi tôi tưởng đổi tên người và tên đất đi thì có thể thành một tiểu thuyết Việt Nam thời 1920-30. Nhiều nhân vật điển hình như Philip, Mildred, Altheny, Norah, bác sĩ South… Văn rất giản dị, giọng chua chát, có khi dí dỏm, cảnh vật chỉ tả bằng vài nét đơn sơ mà gợi cảm, điêu luyện. Tác giả không thuyết lý, không dạy đời, mà gợi cho tôi lòng tha thứ kẻ khác, rán yêu đời, hy vọng ở tương lai, tìm hạnh phúc trong một tình thương chân thành và một đời sống giản dị. Triết lý đó rất Á đông. Lần đầu đọc xong tác phẩm, gấp sách lại rồi mà hai ba ngày sau tôi còn thấy một dư âm ở trong lòng, nửa vui nửa buồn, triền miên, bồi hồi. Một bà láng giềng đọc xong chạy qua bảo: "Hay quá".
Cuốn đó tôi dịch xong từ 1961, đưa cho nhà Khai Trí, họ không nhận, tôi cất đi, đợi cơ hội khác. Năm 1962, ông Paulus Hiếu, tôi quen từ hồi ở Long Xuyên, lúc này đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu, làm bộ trưởng Công dân vụ. Ông từ trước vẫn thích văn chương, đã giúp đỡ vài nhà thơ như Vũ Hoàng Chương, Hư Chu, và đã bỏ vốn xuất bản cho tôi cuốn Tổ chức công việc theo khoa học. Ông mời một số nhà văn có tên tuổi lại bộ, yêu cầu họ dịch cho một số tác phẩm có giá trị cho thanh niên đọc. Tôi không tới dự buổi họp, nhưng vì tình cũ, tôi hứa giúp; nhân có bản thảo Kiếp người, tôi đưa ông, ông cho in liền, cuối 1962 hay đầu 1963 đã phát hành, giá rẽ mà không ai mua, gần như chỉ để phát không.
Đầu năm 1967, bốn năm sau, tôi tưởng sách đã bán hết, đưa nhà Lá Bối tái bản, thì sách bán rất chạy. Thầy Từ Mẫn nói với tôi:
- Ngày phát hành tôi ngại quá. Các nhà sách bảo tôi cuốn đó ế, bản in của Tủ sách Thanh niên Cộng hòa vẫn còn. Nhưng ít tuần sau, tôi thấy sách bán chạy. (Thì ra cái gì của chính quyền thời đó in, dân chúng đều không đọc, của tư nhân in thì đọc. Bản của chính quyền bày ở vỉa hè, giá son có 50đ mà không ai mua, người ta tìm bản của nhà Lá Bối (giá 200 hay 250đ).
Năm 1974, Kiếp người được nhà Lửa Thiêng in lại một lần nữa. Lần đó có sửa chữa vài chỗ.
- Chiếc cầu trên sông Drina
Năm 1971, ông Giám đốc nhà xuất bản Trí Đăng, một giáo sư trung học còn trẻ nhờ tôi dịch cho một tiểu thuyết. Tôi đề nghị cuốn Il est un point sur la Drina của nhà văn Nam Tư Ivo Andritch. Cuốn này cũng hay. Kỹ thuật mới mẻ. Lịch sử trên 300 năm của Nam Tư được kể thành 24 truyện trong 24 chương, chuyện nào cũng liên quan đến một chiếc cầu đá xây cất từ thế kỷ XVI trên sông Drina. Truyện rất hấp dẫn, phân tích tâm lý rất sâu sắc, nhiều nhân vật điển hình, giọng văn khi thì hùng, khi thì hài hước, lắm chỗ nên thơ, triết lý nhẹ nhàng.
Ông Trí Đăng sau năm 1975, qua Mỹ, trước khi đi có lại chào tôi, tới Mỹ có gởi lời thăm tôi, hiện nay ông làm cho nhà in Việt ở Los Angeles.
- Trước đó, năm 1969, ông Hoài Khanh, thi sĩ kiêm Giám đốc nhà xuất bản Ca Dao, ít vốn nhưng nhiều nhiệt tình, có lý tưởng, muốn lập một tủ sách "Phi châu và Da đen", nhờ thầy Từ Mẫn giới thiệu với tôi để yêu cầu tôi dịch cho cuốn Cry, my beloved country của Alan Paton, và đưa cho tôi bản Pháp dịch của nhà Albin Michel: Pleure, ô pays bien aimé. Tôi đọc thấy cảm động, tác giả có lòng thương dân da đen và có hồn thơ nên tôi nhận lời.
Tôi dịch kỹ, nhan đề là Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu, ráng theo sát cái giọng chất phác của các nhân vật da đen, lại kiếm tài liệu để viết bài Tựa dài 25 trang giới thiệu tác giả và tác phẩm, vạch chính sách vô nhân đạo của thực dân da trắng ở Nam Phi.
- Sau tôi còn dịch cho nhà Ca Dao cuốn Things fall apart (Quê hương tan rã của một tác giả da đen: Chinua Achebe.
Ông Hoài Khanh tặng tôi một gốc ngọc lan để thay gốc Nguyễn Hữu Ngư cho tôi mười năm trước, vì trốc rễ trong cơn giông mà chết. Sau ngày giải phóng ông lại thăm tôi một hai lần. Ông sống với một khu vườn ở Biên Hòa.
Nay ôn lại những năm từ 1961 đến 1974, mua được căn nhà ở đường Kỳ Đồng rồi, tôi rút công việc xuất bản tới mức tối thiểu, để toàn lực vào việc viết lách, được vài tờ báo và vài ba nhà xuất bản yêu cầu hợp tác, nhờ vậy mà tôi viết được khá nhiều, trong nhiều lãnh vực, khiến có người phải ngạc nhiên rằng về vấn đề gì tôi cũng bàn được với một tinh thần nghiêm túc, bằng một bút pháp giản dị, sáng sủa. Năm 1975, trên một bài báo, Võ Phiến khen tôi: "Ông Nguyễn có cái tài của một nhà giáo là trình bày ý kiến thật rành mạch, khiến những vấn đề rắc rối, tối tăm nhất cũng hoá ra giản dị, minh bạch".
Có thể nói những năm đó tôi sống đầy đủ nhất, được cảm tình của nhiều độc giả nhất, được thêm nhiều bạn văn nhất, uy tín lên nhất.
Những bạn văn đó đều giúp tôi được nhiều, đều lưu lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp. Tôi nhớ hồi tôi đau nặng, nấc cục luôn một tuần, ông Trí Đăng tự ý tìm thuốc Bắc cho tôi uống, và coi vợ chồng tôi như người thân trong nhà. Còn bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm ở gần nhà tôi thì hai ngày lại thăm một lần.
Hôm nay trời u ám, nhìn chung quanh, mười bạn chỉ còn vài ba, những người khác hoặc đã thất lộc hoặc ở chân trời góc bể cả. Tôi bùi ngùi nhớ lại câu thơ của Tú Xương:
Ta nhớ người xa cách núi sông,
Người xa xa có nhớ ta không?
Chú thích:
(1)
|
Đã xuất bản năm 1992, tại Nxb Đồng Tháp. (BT)
|
(2)
|
Sử ký Tư Mã Thiên: Nxb Văn học, Hà Nội in lại 2 lần, 1994, 1995. (BT)
|
(3)
|
Đã xuất bản năm 1992, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(4)
|
Maurice Durant: Nhân viên trường Viễn Đông Bác cổ Hà Nội trước năm 1954, ông có cha Pháp, mẹ Việt. Sau về Pháp dạy tại Collège de France.
Martine Piat: Thạc sĩ ngữ pháp, những năm 1963-1973 giáo sư tại Đại học Văn khoa Huế, Sài Gòn. Năm 1975 chết tại Campuchia (BT). |
(5)
|
Đã tái bản năm 1992, tại Nxb TP.HCM. (BT)
|
(6)
|
Đã tái bản năm 1991, tại Nxb TP.HCM. (BT)
|
(7)
|
Đã tái bản năm 1991, tại Nxb TP.HCM. (BT)
|
(8)
|
Trong câu tôi cắt bỏ này đại ý tác giả bảo sự ví von đó không có ý gì bất kính với hai đấng vĩ nhân cả.
|
(9)
|
Đã tái bản năm 1994, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(10)
|
Đã in 2 lần năm 199o, tại ĐH Sư phạm TP.HCM. (BT)
|
(11)
|
Đã in 2 lần năm 199o, tại ĐH Sư phạm TP.HCM. (BT)
|
(12)
|
Đã xuất bản năm 1992, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(13)
|
Đã xuất bản năm 1990, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(14)
|
Đã xuất bản (2 lần năm 1992, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(15)
|
Đã tái bản năm 1993, tại Nxb Văn học. (BT)
|
(16)
|
Đã xuất bản năm 1996, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
Đã tái bản năm 1996, tại Nxb Văn học. (BT)
|
Phần IX
BẠN VĂN
BẠN VĂN
(… Ba bạn thân đầu tiên là Đông Hồ, Hư Chu, Giản Chi. Đông Hồ, Giản Chi lớn hơn tôi, người 5 tuổi, người 6 tuổi, Hư Chu nhỏ hơn tôi mười tuổi. Đông Hồ là người Nam (sinh trưởng ở Hà Tiên nhưng từ gia phong đến giáo dục, bút pháp đều giống nhà Nho đất Bắc, còn hai bạn kia đều là người Bắc. Cả ba bạn đó đều biết chữ Hán, đều giữ được ít nhiều phong cách nhà Nho.v Bốn anh em tôi giao du với nhau, tình "đạm nhực thuỷ" tuy thân mà không vồn vã, ồn ào. Mới quen thì chỉ kính nhau thôi, lần lần càng hiểu nhau thì càng quí mến nhau hơn, mặc dầu có khi vài tháng mới lại thăm nhau một lần. Gặp nhau chúng tôi nói chuyện về văn thơ nhiều nhất, rất ít khi tâm sự về chuyện riêng. Mỗi người có một lối sống riêng, những sở thích riêng, chúng tôi biết tôn trọng những cái đó của nhau. Nếu thấy thật cần phải khuyên nhau một lời thì chỉ nói phớt qua, mà nếu bạn không nghe thôi. Tôi nghĩ miễn thành thực với nhau và giữ được tư cách là đủ, ngoài ra không cần biết tới.
ĐÔNG HỒ
Trong những chương trên tôi đã nhắc nhiều tới ông, đã kể lần đầu tiên tôi gặp ông ở Yiễm Yiễm thư trang, rồi những lần họp cuối năm ở Quỳnh Lâm thư thất. Năm 1960, ông tặng tôi hai gốc hoàng lan khi tôi mua được nhà ở đường Kỳ Đồng. Hai năm sau, một gốc trổ hoa, tôi hái hai đoá chín đầu tiên tặng ông. Ông tặng tôi tập thơ Trinh trắng với bài thơ:
Kỳ sắc nhược cúc chi hoàng, kỳ hương nhược lan
Hoa nở nụ đầu
Niềm trinh ý trắng
Hái hoa phong tặng
Hương lắng tờ mây
Thơm tay người hái, thơm tay người trồng
Nay một bông, mai lại một bông
Yêu hoa xin giữ tấm lòng cho nhau
- 24-11-1962
Mới lật tờ bìa tập Trinh trắng tôi thấy sực nức hương lan: một bông tôi tặng đã được thi sĩ dán lên trang đầu với 6 chữ nét mực còn óng ánh trên 6 cánh hoa: "Lộc Đình danh sĩ huệ tôn". Đoá hoa khô đó, thi sĩ mất rồi mà nay vẫn còn thơm. Việc tặng hoa đó, nữ sĩ Mộng Tuyết đã chép lại trong bài Hoa nói (Văn hoá nguyệt san số 5-6 năm 1964). Ông mất ngày 25.3.1969 thọ 63 tuổi. Cái chết của ông thật đẹp: đương ngâm thơ về Trưng vương của Ngân Giang ở giảng đường Văn khoa thì đứt gân máu, té xỉu trong cánh tay sinh viên, hôn mê, đưa lại dưỡng đường rồi về nhà, bảy giờ tối tắt thở. Sáng hôm sau hay tin, Đông Xuyên và tôi tới, thấy nét mặt ông hồng hào và tươi. Xúc động mạnh, về nhà tôi viết ngay bài Khóc bác Đông Hồ. Bài đó đăng kịp trên báo Bách Khoa số 1.4.69.
Sau đó, tôi viết tất cả 4 bài nữa về ông: Thi sĩ Đông Hồ và nhà Ngô (Tin Văn – 1969), tựa Úc viên thi thoại (1969), Hồn Đại Việt giọng Hàn Thuyên (1970), Họ Mạc và họ Lâm (1971). Tất cả những bài đó đều nhắc tới sự nghiệp văn thơ của ông.
Ông coi tất cả gia đình tôi như người trong nhà. Tôi ham viết mà lại thường đau, ông cũng yếu, nhà chúng tôi xa nhau, nên lâu lâu mới gặp nhau. Ông viết được bài nào đắc ý thì lựa hai bản in riêng, đích thân ông sửa lỗi in rồi đóng lại thành tập mỏng, đóng dấu son "Đông Thuỷ cổ nguyệt" (tức Đông Hồ: chữ Hồ gồm ba chữ thuỷ, cổ và nguyệt), rồi gởi cho tôi hai bản, một bản để vào tủ sách ở Long Xuyên, một vào tủ sách Sài Gòn.
Đọc văn tôi thấy cuốn nào, bài nào vừa ý thì ông lại thăm tôi hoặc viết thư khen vài lời chân thành, chẳng hạn bảo "dịch cuốn Sống đẹp như vậy là hay"; nhớ lại bài Hương và sắc của tôi, ông bảo: "Sao và dầu là hai cây ở miền Nam mà trong này không nhà văn nào để ý tới, chỉ có bác và Võ Phiến, người ở Bắc, người ở Trung, là tả cái hương của sao và cảnh hột dầu bay lả tả"; lần khác ông cũng so sánh Võ Phiến và tôi: "Viết tuỳ bút thì Võ Phiến nhất miền Nam này, mà biên khảo thì không ai hơn bác". Cũng có trường hợp ông làm một bài thơ khá dài để khen một tác phẩm như bộ Đại cương triết học Trung Quốc của Giản Chi và tôi. Bài đó bằng chữ Hán, tôi không chép lại đây.
Ông cho tôi là tri kỷ của ông khi tôi bảo ông có truyền thống nhà Nho, chỉ thích dạy học (lúc đó ông dạy ở Văn khoa Sài Gòn), truyền lòng yêu tiếng Việt cho những thánh niên tuấn tú; tôi cũng nhận ông là tri kỷ của tôi khi ông nghe tin người ta mời dạy đại học Văn khoa Sài Gòn, vội vàng sáng sớm từ trong Gia Định lại nhà tôi để khuyên tôi đừng nhận dạy vì mất thì giờ lắm.
Biết tôi đau bao tử, nên khi nào mời tôi dự tiệc, cũng bảo người nhà làm món xôi cho tôi. Lễ thành hôn cho cháu Yiễm Yiễm, con gái út của ông, trong số bạn văn ông bà chỉ mời vợ chồng tôi đưa dâu; còn tiệc đãi bạn bè, họ hàng ở khách sạn thì biết tôi không ưa náo nhiệt nên không ép.
Ông kính bác ba tôi ở Tân Thạnh cũng như kính bác ruột ông, biết bác tôi ở Đông Kinh nghĩa thục và có hai đứa con, Tân Phương và Việt Châu, là nhà thơ khá có tiếng ở Nam, nên ân hận không có dịp gặp bác tôi.
Ông kính bác Ba tôi ở Tân Thạnh cũng như kính bác ruột ông, biết bác tôi ở trong Đông Kinh nghĩa thục, có hai người con là Tân Phương và Việt Châu là nhà thơ có tiếng ở Nam nên ân hận không được gặp bác tôi. Cảm động nhất là mỗi lần lại thăm tôi, ông đều đốt một cây nhang ở bàn thờ song thân tôi rồi mới ngồi xuống nói chuyện. Ông Nguyễn Hữu Ngư cũng đốt nhang, quì trước bàn thờ cha tôi vì cha tôi và thân phụ ông cùng sinh năm Đinh Hợi (1887 và cùng theo phong trào Đông Kinh nghĩa thục.
Từ năm 1963, nhất là mấy năm trước khi mất, Đông Hồ và tôi thường thư từ với nhau. Ông là nhà văn tôi giữ được nhiều bức thư quý nhất, có bức cảm động như bức ông sám hối với bá phụ ông, tôi đã cho in trong tập Làm con nên nhớ; có bức dài mươi trang như bức đề ngày 19.3.64, dùng 5 màu giấy, trong đó ông cho biết cách ông cấu từ bài Trường Xuân hành (Bức thư đó là một tài liệu đáng lưu lại như Đêm thu nghe quạ kêu của Quách Tấn, coi ở sau).
Ngày 27 Tết năm đó (Giáp Thìn – 1964 ông tặng tôi một cành mai bông trắng rất thơm đem từ núi Tô Châu (Hà Tiên lên (1), rồi nghĩ liền hai câu:
Một cành Xuân gởi niềm trân trọng
Sử dịch trao tay mở nẻo đường.
Ông tính làm thêm 6 câu nữa thành một bài thơ luật, nhưng bận dọn dẹp nhà để ăn Tết, không làm được. Tối 30 Tết, ông sực nhớ năm đó Yiễm Yiễm thư trang được đúng 15 tuổi, bèn dùng ý đó nghĩ thêm bốn câu nữa. Sau mồng một Tết, thêm được hai câu nữa thành bài thơ khai bút 8 câu. Rồi ông trở lại ý hoa mai ở đầu, được 4 câu, thành 12 câu. Đã có 12 câu thì phải làm thêm thành một bài hành. Bẵng đi ba tuần mải vẽ hoa mai, ông quên bài thơ dở dang đó. Ngày 24 tháng giêng (8.3.64), ông nhận được thư của tôi cho hay cành mai ông cho tôi đã tàn vào ngày đầu năm rồi lại đăm nụ, nở nữa, thành "nhị độ mai", ông mừng, làm tiếp 6 câu về nhị độ mai.
Tối hôm đó, người nhà và học sinh cũ làm lễ sinh nhật ông, ông vui, làm thêm 6 câu nữa, thành bốn đoạn, mỗi đoạn 6 câu, với hai câu kết:
Gió lộng non trầm dâng khói hạc
Vương đình trăng dọi chén quỳnh tương.
Hơn một tháng sau, ngày 25.4.64, ông sửa lại bài Trường Xuân hành đó và nhận được một bức thư khác của tôi kể về quê hương tôi ở Bắc. Nhân đọc mấy câu đối bác Ba tôi cho tôi từ 16-17 năm trước, ông làm thêm bài Tục Trường Xuân hành, gồm 4 đoạn, đoạn 1 và 3 đều 6 câu, đoạn 2 và 4 đều 4 câu, (26+20). Tôi chép lại đây phần dưới (20 câu):
Mười trang chữ thảo năm màu giấy
Một mảnh tình quê bốn góc tường
Ước có đâu đây cành gạo đó
Chờ nghe đôi tiếng qua kêu vang (2)
Ôi Hà Tiên đó con Tần lĩnh
Thì Việt Trì kia cũng Thái hàng.
Bướm những chập chờn quanh gối sớm
Chim đâu ríu rít ngọn thuỳ dương (3)
Bàng hoàng nhắc lại lời thơ cổ
Biệt khó thì cho gặp dễ dàng (4)
Thời loạn dám tham nhiều phú quý?
Lòng băng gắng giữ chút thanh lương,
Hỏi xem trong những lầu muôn hộ
Đã viết thành chưa sách nửa trang (5)
Ngõ hẹp thung dung nhà đại ẩn (6)
Thánh hiền lối mới rộng thênh thang.
Thiên thai gần giữa phồn hoa đó
Trần mộng na tri hạc mộng trường
Tiên giữ dòng đời chi thoát tục (7)
Ký đào nguyên có ký táng thương.
Bài Trường Xuân hành (đăng trên Văn hóa nguyệt san năm 1966 ông làm gần trọn một mùa xuân mới xong, hoàn toàn tùy hứng, không bố cục trước, nhân một việc gì xảy ra, làm ít câu rồi để đó; ít lâu sau một việc khác xảy ra, hoặc nhớ lại một lời nào, không liên quan gì với việc trước, ông lại làm tiếp, nối vào với những câu trên; trước sau ông chép lại 5-6 việc khác nhau, cảm hứng khác nhau, chỉ có niềm vui này xuân làm sợi dây Ariane trong bài trường thiên 46 câu đó thôi. Lối đó rất đặc biệt, có biết thì mới hiểu được thơ của ông. Nó chỉ đặc biệt thôi chứ không thể coi là kiểu mẫu được, mà những bài thơ ông làm theo lối đó, người ngoài cuộc không sao hiểu nổi, nên không thể gọi là hay được.
Thư cho tôi, ông viết rất tháu, thường nằm mà viết, nên khó đọc, nét tươi như nét vẽ của ông, lời là lời đàm đạo bên chén trà, hoặc tâm sự đêm khuya dưới ánh trăng. Tôi còn giữ tất cả những bức thư của ông. Ông mất được mấy năm, nha Văn hoá tổ chức một cuộc triển lãm tác phẩm và di bút của ông ở mới cất đường Gia Long. Bà quả phụ Đông Hồ mượn tôi những bức thư đó để triển lãm cùng với những bức ông nhận được của tôi. Khi trả lại, bà có nhã ý làm photocoppy tặng tôi những thư tôi gởi cho ông, thành thử trong nhà tôi có đủ những thư của chúng tôi gởi cho nhau, điều đó chắc hiếm thấy. Bà còn bảo: "anh Đông Hồ không hề gởi cho ai nhiều thư, mà cũng không nhận được của ai nhiều thư như vậy".
Tác phẩm của ông, tôi có gần đủ: Cô gái xuân, Bội lan hành, Hương gây mùi nhớ… Quý nhất là tập thơ Trinh trắng tôi đã nói ở trên, với hai bức hoạ hoa mai, có đề thơ: một bức với một bài thơ chữ Hán, một bức với một bài thơ chữ Việt, tức bài Nhị độ mai ký nói ở trang trên, sau khi ông sửa và thêm nhiều câu. Bức chữ Hán tôi cho cháu tôi, Tô Lệ Hằng, đem qua Pháp tháng 5.1979 cùng với toàn bộ tác phẩm của tôi. Các bạn của cháu ở Paris trầm trồ khen nét vẽ và ý nghĩa bài thơ. Ông có công sao lục và khảo cứu Truyện Song Tinh bằng thơ của Nguyễn Hữu Hào thế kỉ XVIII.
Đông Hồ thật là một nghệ sĩ từ tính tình, lối sống tới tài năng: thơ văn ông chải chuốt trang nhã, bóng bảy, có giọng phong lưu nhưng ít cảm; chữ Hán và chữ Việt, nét tươi như múa, vẽ mai thì ở nước mình chưa thấy ai hơn. Ông trắng trẻo, nhỏ, thấp, nho nhã, vẻ hơi yếu đuối, đúng là một thư sinh thời cổ.
HƯ CHU
Đông Hồ mất năm 1969 thì bốn năm sau Hư Chu mất, mới 50 tuổi. Gia đình ông nhờ nhà xuất bản Mặc Lâm (cháu ông Đông Hồ báo tin cho tôi hơi trễ; được tin tôi cũng xúc động, viết ngay một bài kể cuộc đời, sự nghiệp văn thơ của ông. Bài đó đăng trên Bách Khoa, ngắn mà đầy đủ, các bạn văn cho là cảm động.
Ông viết văn kỹ, điêu luyện theo một lối riêng; ông chơi thân với Vũ Hoàng Chương, làm thơ, ít thôi, nhưng được các bạn khen là già giặn, hay như bài Duyên Liêu Trai (ở đầu tập Nam Hải truyền kỳ):
Phòng vắng chưa nằm đẫy giấc mơ,
Vang cười chợt tỉnh có đâu ngờ!
Nửa trang kỳ sử hồ lay gối,
Bốn mặt thu phần quỷ đọc thơ.
Hẹn một đời sau âu cũng vậy,
Tình trăm năm cũ lại bây giờ.
Kia ai dong đuốc xa dần mãi?
Eo óc canh gà những ngẩn ngơ.
Ông thích dạy học, được học trò và bạn bè mến vì tính tình hiền, nhã, thành thực. Đông Hồ là một nghệ sĩ phong lưu theo lối cổ; Hư Chu cũng là một nghệ sĩ lối cổ, nhưng bình dân hơn, kiểu một ông đồ thích uống trà ngon, đánh tổ tôm, trồng cây, nuôi chim, gà.
Chúng tôi tuy quý mến nhau, nhưng từ khi ông dạy học (1956), chúng tôi mỗi năm chỉ gặp nhau vài lần. Ông ít viết thư, có việc gì thì tìm bạn nói chuyện. Tôi không giữ được bức thư nào của ông cả. Ở một chương trên tôi đã kể duyên văn tự của chúng tôi, ông đã giúp tôi trong việc xuất bản ra sao, nên không có gì để chép thêm. Ông lưu lại tập Nam Hải truyền kỳ, tập tạp bút Thơ, Nghiên, Hoa, Mộng, cuốn Để hiểu thơ Đường luật và một tập trích dịch Tình sử.
GIẢN CHI
Tôi xét không phải là một nghệ sĩ, không có chút nghệ sĩ tính nào mà ba bạn thân của tôi đều là nghệ sĩ. Ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn là một nghệ sĩ nhưng mới hơn Đông Hồ và Hư Chu, hơn tôi 6 tuổi, hơn Đông Hồ 1 tuổi. Tôi quen ông là do ông Đông Xuyên dắt vào một buổi sáng mùa Đông (? 1958. To lớn, hớt tóc ngắn, ông có vẻ hiên ngang, không ra một thi sĩ. Tính tình tự nhiên, thẳng thắn, dễ thân mật, nhã nhặn, kín đáo. Coi một tấm hình của ông hồi 30-40 mươi tuổi, tôi bảo đùa ông: "Có vẻ Lương Sơn Bạc quá" 8. Ông quê làng Hạ Yên Quyết (tục gọi là làng Cót trên đường Parreau từ làng Bưởi (Yên Thái qua Cầu Giấy, một làng nổi tiếng là làng văn vật trong tỉnh Hà Đông, mà họ Nguyễn của ông từ cuối Lê, đầu Nguyễn, thời nào cũng có người đỗ đạt, về đại khoa thì ngang mà về trung khoa (cử, tú thì kém họ Hoàng của Hoa Bằng (Hoàng Thúc Trâm cũng ở làng đó. Ông có một người anh hay chữ, hay thơ.
Sinh năm 1905, học chữ Hán, mười lăm tuổi đậu khoá sinh, lúc đó thi Hương đã bỏ, ông chuyển qua học chữ Pháp, ít năm sau đậu bằng Tiểu học rồi vào trường Bưởi, học 4 năm nữa, đậu bằng Thành chung hạng bình. Nhà ở xa nên hồi đó ông phải ở trọ trong đền Ngọc Sơn hay một chùa nào đó. Ông làm sở Bưu điện, tính cương trực, cấp trên không ưa, có thời đổi phải lên Lai Châu, lưu lại bài:
- Thu Lai Châu
Hơi may gây gây,
Trời vùng này nhiều mây,
Nắng mưa chập chờn,
Không rượu lòng như say.
Thư nhà đỏ mắt,
Phím đàn không dây!
Lá đồi trận trận vàng lìa cây.
Dăm ba bông đại hương ngây ngất người,
Sông Na núi Síp bồi hồi,
Ngó sông ngó núi, mơ người Mường Keo.
Tính tình ông hào hoa phong nhã, thích hoa, rượu, nhạc. Thơ ông có giọng lãng mạn của thời đó, nhưng không sướt mướt mà hào hùng:
- Mời rượu (trích một đoạn)
… Uống đi, nào bạn uống đi,
Lênh đênh ngày tháng mấy khi sum vầy!
Uống cho lòng ấm đêm nay,
Tỉnh suông suốt kiếp thà say một giờ.
Có đôi trong cõi mơ hồ,
Hoạ khuây dĩ vãng, bớt ngờ tương lai,
Thời gian hoạ có bớt dài,
Không gian hoạ rút trong vài tấc li
Về sau nhắc lại thời đó, ông ân hận rằng đã phí bỏ tuổi xuân.
Ông theo Việt Nam Quốc dân đảng, nhưng năm 1945 vì yêu nước nên cũng giúp Việt Minh. Sau cách mạng tháng 8, ông khẳng khái tặng hết ruộng cho cách mạng, lại bỏ tiền rèn khi giới giúp anh em kháng chiến. Lòng trai bốn phương của ông lúc đó tưng bừng phất phới với ngọn cờ đỏ sao vàng:
(… L. có thấy
Mặt trời đêm nay
Đang lên rỡ ràng?
Rừng cờ mở đỏ,
Ngôi sao bay vàng…
Sao bay cờ mở,
Lòng trai bốn phương…
Nghĩa đời rộng mở,
Tình người lên hương…
- (Lòng trai bốn phương).
Những năm kháng chiến, ông ra bưng, lên miền thượng du "kiếm ăn bằng các nghề xe gai, buôn nứa và chăn vịt, từng ngủ đêm phải ngủ nơi bãi tha ma", sống cuộc đời nay đây mai đó.
- Vô định
Ta lại ra đi… đời lang thang,
Những ngày vô định, bước tha hương:
Thuyền bay độc mộc, mơ trăng Cót
Bãi ngủ tha ma, hút thuốc Mường.
Nước cả, vịt tan, trời đổ bão!
Bóng chiều, ngựa thét, núi chia cương
Tỉnh say hoa khói, cười mưa gió,
Ngoảnh lại phù sinh chốc nửa đường!
Rồi ông hồi cư về Hà Nội. Năm 1954, thấy chính sách ruộng đất của Việt Minh không ổn, thấy bạn cách mạng cũ trở mặt với ông, "tố ông", không còn chút tình người gì cả, ông phải bỏ quê hương mà vô Nam.
- Trên đường bay vô Nam
"Tâm tư bất năng ngôn,
Trường trung xa luân chuyển".
- (Cổ thi)
Trải mấy thu làm khách bốn phương,
Thu nay lìa xứ, lại lên đường.
Biển leo trời thẳm muôn làn biếc,
Cát giãi cồn xa một sắc vàng.
Cuộc sống đã đành khinh gió bụi,
Lòng người ai chả có quê hương!
"Cỏ tương tư" giục hoàng hôn xuống,
Mây trắng tơi bời, núi ngổn ngang…
Nhờ cuộc di cư đó mà tôi được gặp ông. Hồi đó, tôi đã được đọc tập Cô độc gồm một số truyện ngắn của Lỗ Tấn, ông tuyển rồi dịch, nhà Á châu xuất bản ở Hà Nội năm 1954. Biết cái vốn Hán tự của ông, nhất là Bạch thoại, hơn tôi nhiều, tôi đề nghị với ông cùng viết bộ Đại cương triết học Trung Quốc, ông nhận lời và chúng tôi hợp tác với nhau, vui và có lợi cho cả hai: nhờ có ông tôi mới mạnh bạo bước vào khu vực đó, và nhờ tôi có thúc đẩy từ đó ông mới sáng tác mạnh. Ngoài những tác phẩm viết chung với tôi, ông còn dịch Ả Q. chính truyện của Lỗ Tấn, Tuyển tập Lỗ Tấn, Cái đêm hôm ấy (S. Maugham)… Thực là một duyên tiền định có lẽ chưa hề thấy trong văn học sử nước nhà từ đầu thế kỉ đến nay.
Ông cho tôi là một bạn tương tri của ông, có lần gởi cho tôi hai câu này:
Nhớ đâu thuở ấy "xào" Trung triết,
Đâu chỉ thời xưa mới Thúc Nha
Tôi cũng coi ông là bạn tương tri. Khi có người bàn với ông giới thiệu tôi về giải Tuyên dương sự nghiệp Văn học năm 1973 của Phủ Quốc vụ khanh Đặc trách Văn hoá, ông gạt đi: "Bác ấy không chịu đâu, đừng giới thiệu". Theo thể lệ thì ai cũng có thể đứng ra giới thiệu người được tuyên dương rồi hội đồng tuyển trạch sẽ lựa; nhưng trong phiếu giới thiệu phải có chữ ký của người được giới thiệu tỏ ý chấp thuận, như vậy để phòng xa trường hợp người được trao giải mà không chịu lãnh giải, như trường hợp Giản Chi và tôi năm 1966 được giải thưởng biên khảo toàn quốc về cuốn Thượng bộ Đại cương triết học Trung Quốc. Hai bạn ở Bách Khoa, ông Lê Ngộ Châu và ông Võ Phiến lại đề nghị với tôi để các ông ấy giới thiệu, tôi từ chối và không chịu kí tên trên phiếu giới thiệu. Sau, giải Tuyên dương sự nghiệp đó về tay ông Nguyễn Duy Cần, cánh tay mặt của ông Mai Thọ Truyền, Quốc vụ khanh Văn hoá. Ký giả Lô Răng trên báo Tiền Tuyến (một tờ của chính quyền), ngày 20.1.73 viết: "Về ngành biên khảo ở Việt Nam hiện tại, người tôi cho là có công nhất, phải kể ông Nguyễn Hiến Lê. Nhưng vì một lẽ nào đó ông không muốn nhận giải. Thật là một sự đáng tiếc. Nếu không có ông Nguyễn Hiến Lê, ông Thu Giang (Nguyễn Duy Cần nhận vinh dự kể trên cũng là một điều ổn thoả".
Ông Giản Chi vô Nam, làm Thanh tra Quân Bưu đến khi về hưu rồi dạy Đại học Văn khoa Sài Gòn, Huế về môn Trung triết tới năm 1977 thì thôi.
Chỉ khi nào thực có hứng ông mới làm thơ, nên tới nay ông mới có độ vài trăm bài, một phần là dịch. Thơ ông tôi thích hơn thơ Đông Hồ, Đông Xuyên, Quách Tấn, vì có nhiều thể (cả mới lẫn cũ), nhiều giọng, đa số là cảm khái, khi buồn thì ủ ê, khi thì trầm hùng, lại có lúc thanh thoát. Thường có hình ảnh mới và thỉnh thoảng cũng dùng điển cầu kỳ. Mỗi giai đoạn, mỗi biến cố lớn trong đời ông đều được phản ánh trong tập Tấc lòng mà ông mới đánh máy mươi bản cho bạn hữu (không in để ghi lại tâm tư của ông từ trẻ tới già.
Trên tôi đã chép ít bài của ông, dưới đây xin thêm bốn bài nữa 9:
- Tản cư (1947)
Mây xám đầu non, gió cửa rừng,
Hoang vu trước mắt, giặc sau lưng.
Câu thơ đêm viết, ngâm rồi xé,
Chén nước mình pha, nhấp lại ngừng.
Năm hết quê người, mưa xuống nặng,
Gươm treo đời loạn, bạn ngồi dưng.
Trông nhau, trông mái đầu chưa bạc,
Gằn giọng cười đau, nuốt lệ mừng.
- Rời Thần kinh
- (Gửi Nguyễn Văn Thư và Phan Du)
Cơn giông đâu nổi? Sóng nào reo?
An Cựu lùi xa, Bạch Mã theo…
Trăng dựng muôn hình mây ngút ngút…
Xanh chìm một vũng, biển thiu thiu…
Hương hoa xứ Huế đôi tình bạn,
Vũ trụ thầy Trang một cánh diều.
Hạt thóc thái thường vòng đại hoá
Chín ngàn cao vỗ mộng lăng tiêu (10).
- Phút giây trên núi
Nắng mai rực bóng anh đào
Gió thông lồng lộng thương vào bút nghiên
Bềnh bồng mây trắng qua hiên…
Nhân gian chợt nhớ chợt quên có mình
Tiếng gà trưa vẳng non xanh
Trâm tùng khô nhẹ, nước mành rơi rơi…
Sương khuya cuối lũng trăng soi,
Hư vô một sắc sáng ngời tâm tư.
Giật mình đợt súng xa đưa,
Niềm quê hương chẳng gió mưa mà buồn.
- (Gác Tùng Âm, Đà Lạt)
- Chơi đồi xuân
Xuân về, quên đôi áo,
Theo cháu lên chơi đồi.
Cỏ xanh ông cháu nằm,
Gốc thông ông cháu ngồi.
Dưới là hồ,
Trên là trời.
Hồ nghiêng lấp lánh,
Trời ngửa chơi vơi.
Xem bướm vàng bay
Xem mây trắng trôi.
Bướm vàng mộng trẻ,
Mây trắng tóc ai.
Mộng lòng nghe vỗ cánh
Vui cái hồn nhiên vui
Mây trắng lâng lâng bay mãi
Bướm vàng phất phới không thôi
Phút giây vũ trụ ngừng trong nôi,
(… Bỏ một đoạn)
Có lẽ lần đó là lần cuối cùng ông được hưởng cái vui hồn nhiên. Rồi Giải phóng miền Nam. Lúc này đây ông đương viết về đời Vương Duy (11).
Trong số mấy bài thơ chương này, tôi trích thơ ông nhiều hơn cả vì thơ ông chưa in thành tập, ít ai biết.
ĐÔNG XUYÊN
Tức Nguyễn Gia Trụ với Giản Chi quen nhau từ hồi trẻ, tuổi xấp xỉ nhau, gia thế như nhau, đều ở trong những gia đình nhiều đời đỗ đạt, quán ở làng Đông Ngạc (tục gọi là làng Vẽ), một làng nổi tiếng về văn học gần Hà Nội, con cụ mền Tĩnh Trai; hồi nhỏ cũng học chữ Nho đến 16 tuổi rồi mới chuyển qua học chữ Pháp, ba năm đỗ Tiểu học, nhưng không học tiếp hết Cao đẳng tiểu học như Giản Chi, sau làm thơ ký Nha Quan thuế Hải Phòng, di cư vào Sài Gòn năm 1954, cũng vẫn làm ở Quan thuế đến khi về hưu.
Nhưng hai bạn đó trái ngược nhau về nhiều điểm: Đông Xuyên thấp, gầy, mắt sáng, chậm chạp, vẻ mặt khắc khổ, bận áo dài thâm vào thì ai cũng bảo là một thầy đồ; tính tình nghiêm cẩn, hơi câu nệ, sống rất giản dị, ít đọc sách, ít giao du, chỉ mê làm thơ mà thơ ông cũng rất cổ.
Ông tự xét ông: "Trong làng văn, có lẽ tôi là người có nết nhất: không dính tứ đổ tường, nhưng cũng là kẻ lạc hậu nhất: không biết đi xe đạp. Tính hay gắt gỏng, nhưng chân thật, bạn bè yêu". Đúng. Ông rất chân thật, thật như đếm nữa, mà cũng thật liêm khiết, đó cũng là điểm bạn bè quí, nhưng chắc cũng bị vài kẻ ghét vì có lần ông than: "Nước mà trong quá, cá không ưa".
Việc nhà ông giao cho vợ hết, trái hẳn với thi sĩ Bàng Bá Lân, một bạn thơ của ông: họ Bàng tháo vát, dạy học bốn chục giờ một tuần, dịch sách, viết sách, chụp ảnh, giúp đài truyền hình…, một mình nuôi gia đình trên 12 người, lại lo tính cả việc nhà; còn Đông Xuyên hết giờ ở công sở, về nhà nghĩ tới thơ.
Ông có thơ đăng trên An Nam tạp chí từ hồi 25 tuổi và được Tản Đà khen; từ đó đến nay non nửa thế kỷ ông đã xuất bản được bốn tập: Thuyền thơ, Gió nồm, Bến chiều, Tuyển tập thơ Hán Việt (dịch); ngoài ra còn vài tập nữa chưa in, tính ra cả sáng tác lẫn dịch được trên 600 bài.
Giản Chi phê bình thơ ông như sau: "Anh say sưa cảnh đẹp thiên nhiên và thường nặng lòng trước những cảnh đời ngang trái. Và đọc thơ anh người ta phảng phất thấy cái tài bộ của một Vương Ma Cật và dạt dào một đồng tình của một Bạch Lạc Thiên". Mấy năm nay tôi thấy thơ ông có giọng thơ Tú Xương nữa.
Ông ưa dùng thể thơ luật nhất, thỉnh thoảng làm một bài lục bát hay song thất lục bát. Thơ ông chỉnh, có nhạc, bài nào cũng xen cảnh vào tình, nhưng thiếu bề sâu, ý mới. Đặc biệt là ông ít dùng điển, ít dùng cả chữ Hán, rất có giọng Việt. Tình cảm của ông chỉ hiện phơn phớt, như được tiết chế theo đạo Nho rồi (không kể những bài nửa đời gần đây, chưa in). Ông cổ điển mà Giản Chi lãng mạn. Ông có nhược điểm là hồi trẻ ghét phong trào thơ mới, không chịu đọc một nhà nào cả, và cũng ít đọc sách. Về già ông đổi ý nhưng vẫn không chịu nổi thơ tự do.
Ông là sản phẩm cuối cùng của đạo Nho ở Việt Nam. Không thể còn một người nữa như ông. Tôi may mắn được giới thiệu hai tập Thuyền thơ và Tuyển tập thơ Hán Việt, nên ở đây tôi khỏi chép thêm. Tác phẩm của ông tôi giữ được đủ; thư của ông khá nhiều, toàn nói về thơ, bức nào cũng ngắn thôi, tôi giữ được gần đủ cũng gần đủ.
QUÁCH TẤN
Tôi biết danh Quách Tấn từ hồi thế chiến nhưng quen ông thì mới trên mười năm nay. Vào khoảng đầu năm 1967-68, đọc cuốn Nước non Bình Định của ông, tôi viết một bài đăng trên tờ Tân Văn (1968 khen là tác phẩm có giá trị nhất trong loại Địa phương chí vì tài liệu dồi dào mà văn lại hay. Tôi khuyến khích ông viết một cuốn nữa về Nha Trang nơi ông đương ở. Ông viết liền cuốn Xứ Trầm hương, cuốn này còn hay hơn cuốn trên: chép nhiều cảnh lạ ở Khánh Hoà, nhất là cảnh núi mà tôi chắc không ai tả hơn ông được; tôi lại giới thiệu trên tờ Tân Văn năm (1970). Từ đó chúng tôi thường thư từ với nhau và lần nào ở Nha Trang vào Sài Gòn ông cũng lại nói chuyện văn thơ với tôi một vài giờ.
Ông hơn tôi hai tuổi, sinh ở Bình Định, tổ tiên là người Trung Hoa, song thân đều biết chữ Hán, thân phụ có cả tân học, đậu bằng Thành chung, làm công chức. Ông học chữ Hán tới 12 tuổi rồi mới học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp; cũng sớm đậu bằng Thành chung, rồi ra làm thơ ký hành chánh để nuôi các em vì lúc đó song thân đã quy tiên. Nhờ giáo dục gia đình và nhờ tự học, ông biết chữ Hán, chữ Nôm và làm thơ nổi danh từ hồi ngoài hai mươi tuổi, cũng như Đông Xuyên, được Tản Đà khen là "tả cảnh có nhiều vẻ hùng hậu, u ẩn, nhã chí, tinh công".
Ông nhỏ người, thấp, lưng rất ngay, bước đi vững, đều; tính tự nhiên, thẳng thắn, vui vẻ, nhiều tình cảm, chơi thân với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê; người Bình Định gọi là Bàn thành (12) tứ hữu.
Ông có thể nói chuyện về thơ cả buổi mà không chán. Sự hiểu biết của ông về thơ luật, về điển tích, ở Việt Nam có lẽ không ai bằng.
Ông là nhà thơ siêng năng nhất, sáng tác mạnh nhất. Ngoài bảy chục tuổi mà ngày nào cũng đánh máy suốt buổi được (ông viết bằng máy đánh chữ cả khi ông giữ cháu nội, ngoại. Trong một bức thư ngày 20.12.79, nhân tôi hỏi, ông cho hay đã có non 1.500 bài thơ, trong số đó có khoảng 900 bài "cận thể": thất tuyệt, ngũ tuyệt, thất luật, ngũ luật; trên 400 bài lục bát từ bốn câu trở lên; và khoảng 200 bài thơ dịch. Chỉ có một số nhỏ đã được xuất bản trong các tập Mùa cổ điển (1939), Mộng Ngân sơn (1941), Đọng bóng chiều, Tố Như thi…
Quách Tấn chuyên về thơ luật, tôi cho rằng từ đầu thế kỷ đến nay không ai có công với thơ luật bằng ông: ông có trên ngàn bài thơ luật, kể cả thơ dịch; lại chép hồi kí, phê bình hầu hết các nhà thơ luật nổi tiếng ở nước ta trong nửa thế kỷ nay, trước sau mấy chục nhà, gồm cả ngàn trang (vẫn còn bản thảo); sau cùng lại viết một tập dạy cách làm thơ luật (bố cục ra sao, dùng điển ra sao, lựa âm thanh ra sao…), chỉ cho ta thế nào là hay, thế nào là hỏng… Tập đó dày khoảng 200 trang, viết kỷ hơn cuốn Để hiểu thơ Đường luật của Hư Chu nhiều, tiếc rằng không biết bao giờ mới in được.
Thơ luật ở nước ta, theo sử chép thì có từ cuối thế kỉ XIII, tới nay được bảy thế kỷ, tôi đoán nó sẽ chấm dứt ở đầu thế kỉ tới, cũng như thể Sonnet của Pháp ngày nay không còn ai làm nữa. Vậy ta có thể coi Quách Tấn là người cuối cùng có công với nó, người đầu tiên là Hàn Thuyên, người gây phong trào thơ Nôm ở đời Trần Nhân Tôn.
Ngoài ra ông còn có 15 bài văn tế, một bài được khắc lên bia trước đền thờ vua Quang Trung ở Bình Định, nhưng sau ngày giải phóng bia đã bị trát xi măng lên.
Ông lại viết tiểu thuyết Trăng ma lầu Việt, Duyên tiên (loại truyền kỳ), phóng tác bộ truyện Ngàn lẻ một đêm của Ả Rập; viết Địa phương chí: Nước non Bình Định, Xứ Trầm Hương, Danh nhân Bình Định, và mấy ngàn trang thi thoại, hồi ký, nghệ thuật làm thơ, truyện ký về Bích Khê, Đào Tấn. Bản thảo của ông tới nay còn mấy ngàn trang chưa in, đều đó ít ai ngờ nổi! (13)
Thơ ông thỉnh thoảng có cảm xúc mới, ý mới vì ông viết rất nhiều; nồng nàn hơn thơ Đông Xuyên, có lẽ vì ông có Tây học hơn Đông Xuyên, một số bài gợi cảm và rất nổi tiếng như 2 bài thơ dưới đây đều ở trong Mùa cổ điển:
- Đêm thu nghe quạ kêu
Từ Ô y hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng.
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Tiếng dội lưng trời đồng vọng mãi,
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
- Trơ trọi
Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ!
Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ!
Sầu mong rơi lệ khôn rơi lệ,
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ.
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng,
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ.
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại,
Con thước qua sông lại ỡm ờ!
Thơ ông về già tự nhiên hơn nhưng vẫn giữ những nét chính thời bốn chục năm trước. Nhiều người trách thơ ông đẽo gọt và dùng nhiều điển quá. Ông bảo: "Thú thật là tôi làm thơ không đến nỗi "khổ công phu" như Giả Đảo (…). Nhiều khi làm rất nhanh. Song sự thai nghén của thơ có phần lâu. Ngoài bài Đêm thu nghe quạ kêu, tôi còn nhiều bài khác mà cảm xúc và tình thơ nằm trong tâm hồn tôi trên dưới 10-15 năm như bài Ấp ủ, Búng chân… trong Mộng Ngân sơn.
Sự dụng điển của tôi ai, cũng tưởng tôi moi đầu moi óc ra để tìm điển. Trên thực tế không phải thế. Chính điển tìm tôi để phò tá…" (thư cho tôi ngày 19.9.80).
Trong bài "Chung quanh bài Đêm thu nghe quạ kêu" viết ngày 4.8.63 (Bàng Bá Lân in vào tập Kỷ niệm văn thi sĩ hiện đại II, nhà xuất bản Xây dựng), Quách Tấn cho biết ông thai nghén bài thơ đó ra sao. Một buổi tối cuối thu Đinh Mão (1927), trăng mờ mờ, từ bến đò An Thái, ven bờ sông Côn trở về nhà, qua một khúc đường vắng, ông nghe thấy một bầy quạ thình lình cất tiếng kêu vừa rùng rợn vừa lạnh lùng. Từ đó tiếng quạ kêu ám ảnh ông. Ba tháng sau, bà thân ông mất, tiếng quạ đó lại thành não nùng, héo hắt. Rồi bẵng đi 12 năm, năm 1939, một đêm trăng, nhân nghe một tiếng dội ở xa ngân dài ra, tiếng quạ năm xưa vụt thức dậy rộn ràng, nhưng dịu dàng chứ không rùng rợn như trước. Đêm đó ông thao thức, nhớ lại nhiều ký ức (…)
Do chữ quạ mà ông liên tưởng đến màu đen, đến chữ ô và ông nhớ bài Ô y hạng của Lưu Vũ Tích; rồi nhớ đến bến đò An Thái ông đã qua năm 1927 mà ông liên tưởng đến bến Phong Kiều của Trương Kế trong bài Phong Kiều dạ bạc; lại nhớ tới con sông Côn mà liên tưởng đến dòng sông Xích Bích với con thuyền Tô Đông Pha, nhớ bài Tiền Xích Bích phú trong đó có dẫn câu "Minh nguyệt tinh hy, Ô thước Nam phi" của Tào Tháo; cứ hết điển này đến điển khác nối nhau đưa ông vào cõi mộng, và sáng hôm sau nữa ông làm xong bài Đêm thu nghe quạ kêu, như đã chép ở trên, chỉ khác câu 6 là: "Thắc thỏm chăng ai quả ấn vàng" (lúc bấy giờ quân Nhật đóng ở Việt Nam, nhiều người đi lính để lập danh, nhiều bà vợ bị chiếc bóng), và câu 8 là: "Tình lang mang gợi tứ lang mang".
Năm 1941, khi sắp in vào tập Mùa cổ điển, ông thấy không vừa ý hai câu đó, nên sửa lại là "Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng" và "Tình hoang mang gợi tứ hoang mang".
Đó, ông thai nghén bài Đêm thu… như vậy, từ 1927 đến năm 1941, 14 năm cả thảy.
Ông "nhiều khi làm thơ rất nhanh", điều đó tất đúng, có vậy ông mới làm được 1.500 bài; vả lại nhà thơ nào khi hứng tới thì cũng như thế cả. Ông không "khổ công phu" như Giả Đảo trong phái Quái đản đời Đường, điều này tôi chắc cũng đúng; nhưng bài Đêm thu nghe quạ kêu làm xong rồi, hai năm sau mới sửa câu 6 và câu 8, thì ông cũng không khác Giả Đảo mấy: Giả Đảo "Lưỡng cú tam niên đắc", ông thì lưỡng cú nhị niên đắc. Và tôi nghĩ viết kỹ thì phải vậy. Ông "không moi óc ra để tìm điển" mà điển tự nhiên tới. Điều đó dễ hiểu. Điển thường là do một ý, một vần hoặc một vài chữ trong câu gợi nên, ít ai vô cớ mà đưa điển vào thơ.
"Sự thai nghén có phần lâu", như bài Đêm thu nghe quạ kêu mất 14 năm. Mà chuyện đó thì rất thường, như bài Hoa đào năm trước của tôi (Lá Bối – trong loại Bông hồng cài áo - 1970 cũng có thể nói là "thai nghén" trong bốn chục năm: từ hồi tôi còn ở trung học, một ngày xuân năm 1929 hay 30 thoáng thấy một thiếu nữ bên một gốc đào mãn khai; rồi năm 1942 hay 43, một đêm trăng qua Đèo Cả, thấy một cảnh đẹp cũng chỉ xuất hiện trong mươi giây như lần trước; rồi sau mười năm nữa (1952 cảnh một thiếu nữ bên một bụi hồng nhung nhắc lại cho tôi cảnh thiếu nữ bên gốc đào năm xưa; sau cùng mãi đến Tết Tân Hợi (1971 nhân nhớ tới câu: "Aimez ce que jamais on ne verra deux fois" (Hãy yêu những gì ta không bao giờ gặp được lần sau của A. de Vigny, tôi mới viết bài đó nội trong một ngày. Những cảnh đẹp hoặc lạ, có khi chỉ là một lời nói, một hương thơm, một âm thanh làm ta xúc động mạnh bao giờ cũng in sâu vào óc ta, nằm trong tiềm thức của ta, khi nào gặp cơ hội thuận tiện mới tái hiện, đẩy ta ghi chép lại. Nhà văn, nhà thơ nào cũng nghiệm thấy thế.
Tóm lại cách sáng tác, cấu tứ của Quách Tấn là cách chung của mọi người cầm bút, nhưng ông là người đầu tiên tôi được biết, không giấu giếm gì cả, chép lại tỉ mỉ cho độc giả biết. Thường các nhà văn kỵ điều đó, cũng như thiếu nữ không muốn cho ai thấy mình tô điểm. Cho nên bài "Chung quanh bài Đêm thu nghe tiếng quạ kêu" đáng coi là một tài liệu quý. Chính cách làm thơ của Đông Hồ tôi kể ở trên mới là đặc biệt – đặc biệt chứ không có nghĩa là mẫu mực.
Tôi không được đọc các truyền kỳ và bản phóng tác Nghìn lẻ một đêm của Quách Tấn. Văn ký sự, tả cảnh của ông hay như trong hai cuốn Địa phương chí về Bình Định và Nha Trang. Xét chung, văn xuôi của ông cũng dùng nhiều điển, nhiều chữ Hán, và khi nào ông viết tự nhiên thì văn linh động và có duyên. Tôi còn nhớ một bài hồi kí 9-10 trang (chưa in ông viết về nữ sĩ Tương Phố. Tôi chưa hề gặp nữ sĩ một lần nào mà đọc bài ông, tôi thấy chân dung bà hiện rõ trước mặt tôi, lanh lẹ, vui vẻ, cứng cỏi, tự nhiên, có nhiều nét đàn ông; nghe được cả giọng nói của bà nữa mà tôi đoán là sang sảng, dí dỏm, cầu kỳ mà thân mật; cảm tưởng đó y hệt như tôi đọc thư bà, bức thư duy nhất bà gởi cho tôi, vài năm trước khi bà mất.
Mấy năm nay, Quách Tấn và tôi thường thư từ với nhau, bức nào ông viết cũng dài, nét cũng chân phương, giọng thanh nhã, chân thành. Xấp thư của ông đã dầy hơn xấp thư của Đông Hồ rồi (… Bỏ 3 trang rưỡi) (14).
VI HUYỀN ĐẮC
Một bạn già nữa, Vi Huyền Đắc, hơn tôi chín mười tuổi, giỏi Pháp văn, biết nhiều chữ Hán, gốc Trung Hoa, quê ở Móng Cái, năm 1954 di cư vào Sài Gòn. Ông không làm thơ, chuyên viết kịch và dịch, nổi tiếng trước thế chiến về kịch Kim tiền, kịch Eternels regrets bằng tiếng Pháp về Dương Quý Phi, được giải thưởng Hàn lâm viện Nice. Sau thế chiến, sáng tác kịch Thành Cát Tư Hãn.
Thời trẻ, có hồi ông làm thầu khoán ở Hải Phòng, rất phong lưu. Từ khi vào Nam (1954), ông bà gần như ở ẩn trong một căn nhà gỗ tại ngã năm Bình Hoà (Gia Định): ông dạy môn kịch vài năm ở Viện Âm nhạc và dịch truyện Trung Hoa của Quách Lương Huệ, Quỳnh Dao, Từ Vu, Vương Lam, Lâm Ngữ Đường, kịch của Marcel Pagnol; còn bà thì dạy trường tiểu học Đa Kao.
Sau khi bà mất, ông sống cô độc, mặc dù có con trai, con dâu, cháu nội ở Sài Gòn; chỉ buổi trưa mới có một đứa cháu đem cơm vào cho ông rồi về; sáng và chiều ông ăn tiệm. Ông rất thích bạn văn, gặp thì mừng lắm, nhưng ông ở xa quá, chúng tôi ít tới được.
Tính tình xuề xoà, cởi mở, ai cũng quý. Vài nhà xuất bản lâu lâu in cho ông một tác phẩm, nhờ vậy tạm đủ sống.
Ông cho hay đã bắt đầu soạn bộ Tự điển Việt Nam rất kỹ, mới tới chữ C được 5.000 trang rồi ngưng luôn, không hiểu tại sao.
Kịch của ông khá; các bản dịch của ông rất công phu, khéo chuyển qua tiếng Việt, nhưng ông lại ưa giữ nhiều danh từ Trung Hoa, mặc dù có tiếng Việt tương đương. Ông bảo như vậy là để làm giàu tiếng Việt.
Sau ngày giải phóng ông còn sống cô độc hơn nữa vì con trai ông ở Sài Gòn đã qua Pháp; hai nhà văn trẻ Triều Linh và Hoàng Hương Trang lại ở với ông cho vui.
Năm 1976, một con trai ông làm bác sĩ ở Hà Nội vào đón ông ra Bắc sống, ông không muốn đi, bảo: "Bạn bè tao ở cả trong này, ra ngoài đó có bạn nào đâu?". Ông té gãy xương hông, tuổi quá cao, xương không lành được, con ông đưa ông ra Hà Nội bằng máy bay. Được ít lâu sau nghe tin ông mất ngoài đó, bạn văn ai cũng nhớ tiếc.
LÊ NGỌC TRỤ
Bạn trong Nam dễ thương nhất là Lê Ngọc Trụ, hơn tôi một tuổi. Ông thật là một học giả cần cù, rất khiêm tốn. Chưa học hết ban Cao đẳng tiểu học thì thôi; nhờ giáo dục gia đình (ông gốc Minh Hương mà thông chữ Hán, lại biết tiếng Quảng Đông, nhất là nhờ công tự học, tìm tòi mà soạn được bộ Việt ngữ chánh tả tự vị mà tất cả học giả Việt, Pháp đều nhận là một công trình có giá trị về ngôn ngữ học. Giáo sư Gaspardone ở Paris giới thiệu cuốn đó cùng với bộ Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam trong một tạp chí ở Thuỵ Sĩ tôi đã dẫn ở trên.
Ông rất tốt với bạn. Hồi còn làm thư ký Thư viện cũ ở đường Gia Long, ông thường kiếm giùm tài liệu cho bạn văn. Sau ông thôi giúp việc ở Thư viện, anh em chúng tôi không muốn tới đó nữa. Đúng như Nguyễn Hữu Ngư nói, ông là "linh hồn của Thư viện" vì không sao kiếm được người hiểu rộng, biết sâu về sách báo trong thư viện mà lại sẵn lòng giúp đỡ bạn như ông.
Khi ông soạn xong bộ Chánh tả, tôi giới thiệu tác phẩm với nhà xuất bản Thanh Tân và nhà này vui vẻ nhận, mặc dầu biết công việc ấn loát rất khó khăn. Bộ đó được giải thưởng Văn học toàn quốc (ngành biên khảo và một hai năm sau ông được mời dạy môn Chánh tả Việt ngữ ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ông tính soạn tiếp bộ Tự vị ngữ nguyên Việt Nam, cho nên sau ngày Giải phóng, ông thôi dạy Văn khoa, để trọn thì giờ vào công việc đó. Nhưng sức ông suy, chưa kịp hoàn thành thì mất ở Chợ Lớn năm 1979, để lại một tủ thẻ mà tôi ngờ rằng chính quyền không biết nhận định giá trị.
NGUYỄN BẠT TUỴ
Một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng nữa là Nguyễn Bạt Tuỵ, quê ở Bắc, năm nay ngoài sáu mươi tuổi. Cao lớn, khoẻ mạnh, ở độc thân, chỉ tự học mà giỏi về ngữ âm học, được vài cơ quan văn hóa Pháp, Mỹ biết tài, trợ cấp cho mỗi tháng một số tiền để ông đi khảo về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số miền núi từ Pleiku, Kontum vào. Trong mấy chục năm ông gom góp được rất nhiều tài liệu: từ vựng, phim ảnh, băng thu âm về các ngôn ngữ đó. Sau ngày Giải phóng, chính phủ Cách mạng cho ông ở một biệt thự tại Đà Lạt. Ông viết được khá nhiều nhưng in được rất ít, trước sau chỉ được 2 cuốn: Chữ và vần Việt khoa học, xuất bản năm 1950 nghiên cứu về cách phát âm và nguồn gốc tiếng Việt, và Ngôn ngữ học Việt Nam, xuất bản năm 1959 tại Sài Gòn; và ít bài báo, vì công trình của ông có tính bác học, rất khó in và phổ biến. Ông có hùng tâm cải cách Việt ngữ: bao nhiêu danh từ Hán Việt cấu tạo theo ngữ Pháp Trung Hoa, ông đề nghị bỏ hết mà cấu tạo lại theo ngữ pháp Việt.
Mỗi năm ở Đà Lạt, ông xuống Sài Gòn độ một hai lần, thường lại thăm tôi.
Tính tình nhã nhặn, nhưng rất tự tin và nhiều cạnh góc nên ít bạn.
TRƯƠNG VĂN CHÌNH
Trong một chương trên tôi đã nhắc nhiều tới ông, ở đây là nói thêm: ông quê ở Bắc Ninh, học ở trường Bưởi trước tôi ba (? năm, năm 1926, vì vụ truy điệu Phan Châu Trinh ông thôi học, đậu bằng Thành chung, làm sở Bưu điện, tới chức Thanh tra, năm 1946 di cư vào Nam làm Giám đốc Bưu điện Nam Phần, tự học chữ Hán từ trước, giỏi về Pháp ngữ, nổi tiếng về ngữ pháp; dạy ở Đại học Sư phạm Sài Gòn và Văn khoa Huế. Ông có đức tự trọng, tự tin, hơn tôi 2-3 tuổi.
Năm 1982 ông qua Pháp đoàn tụ với con rồi mất bên đó đầu năm 1983.
VƯƠNG HỒNG SỂN
Sển là chữ Thịnh đọc theo giọng Phúc Kiến. Bạn thân của Lê Ngọc Trụ. Cũng là một học giả nổi tiếng. Ông gốc Minh Hương, quê ở Sóc Trăng, năm nay 79 tuổi, tóc bạc phơ, vẫn còn mạnh. Giỏi tiếng Pháp, làm thơ ký rồi tham tá (commis ngạch hành chánh, chuyên khảo về đồ cổ Trung Hoa, Việt Nam; về lịch sử miền Nam (Sài Gòn năm xưa); về ca nhạc miền Nam, đặc biệt là những tuồng cải lương. Mặc dầu gần 80 tuổi, ông vẫn tra cứu các sách để soạn một bộ tự điển địa danh miền Nam, và đã lập được hai ba ngàn thẻ. Công việc rất khó và ông đủ tư cách để làm hơn ai cả vì biết nhiều miền, biết nhiều tên Miên và Trung Hoa lại có nhiều sách cổ. Có hồi ông dạy sử ở Đại học Sài Gòn, Huế. Văn ông chịu ảnh hưởng nhiều của Trương Vĩnh Ký, có giọng hồn nhiên, bình dân của người Nam, dùng nhiều tiếng cổ địa phương, trái hẳn với Đông Hồ.
Biệt thự của ông ở Gia Định, đường Nguyễn Thiện Thuật, là một ngôi nhà cổ của tư nhân, cổ từ kiến trúc đến cánh cửa, cây cột, phiến ngói, cái rui, trong chứa rất nhiều đồ cổ, hầu hết là đồ sứ từ đời Tống, đời Minh; sách quý chứa đầy chín mười tủ, vậy mà hiện nay ông vẫn mỗi tuần một hai lần xách ba toong từ Gia Định ngồi xe lam (Lambretta ra Sài Gòn, lại chợ sách cũ ở đường Cá Hấp (Bùi Quang Chiêu cũ), góc đường Calmette, để tìm mua những sách hiếm dù giá rất cao. Thấy ông tới, các bạn hàng sách bu lại hỏi han, đưa sách quý cho ông coi, có kẻ gọi ông là cha. Ông đã xuất bản ba cuốn sách dày về đồ cổ, và còn cả ngàn trang hồi ký chưa in.
Ông rất quý thời giờ, nên có người tưởng lầm ông khó tính; thực ra đối với bạn văn đứng đắn thì luôn luôn vui vẻ tiếp, bỏ cả buổi để giảng về đồ cổ, thời đại, giá trị của mỗi món. Mỗi cuốn sách, mỗi món đồ cổ của ông đều đánh số, ghi sổ và có một thẻ riêng. Tới lần nào cũng mê nghe ông kể chuyện cũ hàng giờ. Sức ông còn mạnh, ký tính của ông còn tốt, ông chưa dùng tới một nửa những hiểu biết của ông về miền Nam. Tôi mong ông sống được mươi năm nữa, ghi chép thật nhiều cho đời sau.
Trước ngày Giải phóng, chúng tôi vì mỗi người theo một đường riêng, nên ít gặp nhau. Từ 1976, ông thường ghé tôi những khi ra Sài Gòn kiếm sách cũ, cho nên càng ngày càng thân. Biết tôi thích loại nào, ông chịu khó đem cho tôi đọc. Tôi quý ông, và lâu không gặp thì nhớ.
Một học giả nữa, chuyên về sử miền Nam là giáo sư Lê Thọ Xuân. Ông quê ở Bến Tre, sinh trong một gia đình nho học, nên thông cả chữ Pháp và chữ Hán. Trước thế chiến, viết nhiều bài có giá trị khảo về sử. Trong cuộc kháng Pháp, tài liệu mất hết, từ đó ông chán nản, không viết lách gì nữa. Tôi quen ông từ khi ông coi nhà in Maurice, in sách cho nhà P. Văn Tươi. Ông rất chú trọng đến chánh tả, mất cách đây 2 ba năm. Công trình cuối cùng của ông là hiệu đính truyện Lục Vân Tiên; học giả nào cũng nhận thấy tập đó có giá trị.
NGUYỄN VĂN HẦU
Nhỏ hơn tôi 7-8 tuổi chưa phải là học giả như mấy nhà trên, nhưng cũng có công với văn hóa. Quê ở Cù Lao Giêng (Long Xuyên), ngang Mỹ Luông, biết chữ Hán, chữ Pháp, theo đạo Hoà Hảo, nhưng không làm chính trị, chỉ nghiên cứu sấm giảng của Huỳnh Phú Sổ, điều khiển tờ Hoa Sen của tín đồ trong đạo, thường đi thuyết giáo ở các làng, quận miền Tây, được tín đồ tiếp đón long trọng, do đó chính quyền địa phương cũng nể. Tính tình hiền lành, nhã nhặn, siêng năng. Vừa dạy học, vừa giúp đạo, vừa khảo về các di tích, danh nhân trong miền Long Xuyên - Châu Đốc để viết sách. Bốn cuốn của ông: Đức Cố Quản (một vụ khởi nghĩa ở Long Xuyên - Châu Đốc thời Pháp thuộc), Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu (một nhà cách mạng ở Cao Lãnh trong những năm giữa hai thế chiến), Thoại Ngọc Hầu, và Nửa tháng trong miền Thất Sơn, giúp cho chúng ta được nhiều tài liệu.
Ông đọc cuốn Đông Kinh nghĩa thục và cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười của tôi rồi làm quen với tôi, nhờ tôi đề tựa cho cuốn Nguyễn Quang Diêu, cuốn này được giải nhì Văn chương toàn quốc môn biên khảo. Ông làm việc cẩn thận, thu thập được nhiều tài liệu. Ông thường lại thăm tôi khi tôi về Long Xuyên. Hiện nay ông bị bệnh, tê liệt, không là được gì cả.
Trong bộ Hồi kí tôi còn chép thêm về khoảng một chục nhà văn nữa, và một số được giả tuy không viết văn nhưng cũng là bạn thân của tôi; vì thiếu chỗ nên trong tập này tôi phải bỏ bớt.
Chú thích:
(1)
|
Giống mai này gọi là Nam mai, thuộc loại mù u, đồn Cây Mai ở Chợ Lớn có mấy gốc, nay không biết còn không. Bà Đông Hồ 8 năm trước cho tôi một gốc nhỏ, trồng ở Long Xuyên nay đã cao non hai thước mà vẫn chưa có hoa).
|
(2)
|
Bến đò Việt Trì, có cây gạo cổ thụ, quạ đậu rất nhiều. Mỗi lần về quê tôi thích ngắm cảnh đó.
|
(3)
|
Trước nhà tôi ở đường Kỳ Đồng có một hàng dương nay đã chết.
|
(4)
|
Câu này sau ông đổi là: Biệt khó khăn, mong gặp dễ dàng.
|
(5)
|
Bốn câu này do đôi câu đối bác tôi cho tôi năm 1946 (?): Phú quý mạc cầu, nhất phiến băng tâm cư loạn; Thư hoa chân ái, sổ thiên văn tự lưu phương.
|
(6)
|
Nhà tôi ở trong hẻm 14 đường Kỳ Đồng, trước goi là ngõ hẻm 12.
|
(7)
|
Câu này cũng do một câu đối bác tôi cho: Học bản tu thân, thân tức quốc; Nhân năng bạt tục, tục nhi tiên.
|
(8)
|
Ông (G.C đùa bảo: "Bác ấy (NHL gọi tôi là tướng cướp!" mỗi khi nhắc lại câu nói đùa trên. (BT)
|
(9)
|
Trong số mấy nhà thơ ở chương này, tôi trích thơ ông nhiều hơn cả vì thơ ông chưa in, ít ai biết.
|
(10)
|
Ông dạy ở Huế, trở Sài Gòn bằng máy bay Boing bay cao 9.000 thước.
|
(12)
|
Đã xuất bản năm 1994, tại Nxb Văn hóa - Thông tin với nhan đề Vương Ma Cật họa sư thi Phật. (BT)
|
(12)
|
Thành Đồ Bàn của Chiêm hồi xưa.
|
(13)
|
Từ đây trở xuống, khi chép lại (tháng 2-1981 tôi đã sửa nhiều.
|
(14)
|
Nên coi Văn thi sĩ hiện đại I và II của Bàng Bá Lân (Xây Dựng - 1962, 63 trong đó có những bài phê bình thơ Đông Hồ, Đông Xuyên, Quách Tấn.
|
Phần X
TỪ NGÀY GIẢI PHÓNG (1975-1980)
TỪ NGÀY GIẢI PHÓNG (1975-1980)
HAI NĂM 1975-1976
Tác phẩm thứ 100 của tôi (Trí Đăng xuất bản nhan đề là Mười câu chuyện văn chương phát hành khoảng 20-4-1975. Bản thảo tập Nguyễn Hiến Lê, Châu Hải Kỳ (một nhà văn kiêm nhà giáo ở Nha Trang viết xong vào khoảng đầu năm 1975. Tạp chí Bách Khoa số cuối - 426, ngày 20-4-75 - giới thiệu cuốn Mười câu chuyện văn chương và đăng hai bài, một của Võ Phiến giới thiệu xổi tập của Châu Hải Kỳ, một của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc kể ít hồi ký về tôi và nhận định sơ về sự nghiệp văn hóa của tôi. Nhà Khai Trí tính tổ chức một cuộc triển lãm 100 tác phẩm của tôi, chưa kịp làm thì 11 giờ rưỡi trưa ngày 30-4-1975, một uỷ viên chính trị của đạo quân Giải phóng ngồi xe thiết giáp tiến vào dinh Độc Lập. Tướng Dương Văn Minh - thay tổng thống Trần Văn Hương, người mà Nguyễn Văn Thiệu giao quyền hành cho trước khi ôm vàng đào tẩu - cùng vài nhân viên nữa ra tiếp, đầu hàng không điều kiện: Miền Nam lật qua trang sử mới. Do một sự ngẫu nhiên kỳ dị, số báo Bách Khoa cuối cùng đánh dấu chấm dứt sự nghiệp của tôi cùng với sự chấm dứt chế độ miền Nam.
Trong hai năm đầu, nhờ Cách mạng sắp vào giới trí thức tiến bộ, nhờ tuổi cao (65 tuổi ta mà lại đa bệnh: khạc huyết, thêm bệnh nước tiểu đục, (không kể những bệnh kinh niên: loét bao tử, trĩ, mất ngủ), nhất là nhờ không có tài sản lớn, không bốc lột ai, nên tôi được sống yên ổn, nhưng vẫn không nhàn. Vợ trước của tôi mắc kẹt ở Pháp từ 1972, vì lo cho con và cháu; em gái tôi, vài người bạn thân của tôi cũng qua Mỹ, Pháp cả, tôi sống ở Sài Gòn với bà vợ sau, cảnh thật cô độc. Vợ chồng tôi thay nhau dự các buổi họp tổ, học đường lối chính phủ, làm một số bổn phận công dân: khai lý lịch, khai gia sản, bầu cử dân biểu, đổi tiền (mệt nhất là công việc này), đăng ký các sách tôi xuất bản mà còn ở trong kho…
Riêng tôi phải tiếp vài bạn văn trong chiến khu miền Nam về như tiểu thuyết gia Nguyễn Văn Bổng, nhà báo Nguyễn Huy Khánh…, một số học giã từ Bắc vô như Nguyễn Kim Thản, Hoàng Phê (ban ngôn ngữ), Nguyễn Đỗng Chi, Đào Duy Anh (ban sử), nhiều nhà văn, nhà báo cũng từ Bắc vô…
Tôi dự:
. Một buổi tọa đàm với hai thứ trưởng Hà Huy Giáp (văn hóa), Hà Xuân Trường (giáo dục).
. Đại hội trí thức yêu nước.
. Đại hội văn nghệ thành phố, cả hai đều với tư cách nhân sĩ Sài Gòn.
. Một cuộc họp nhân dịp ban ngôn ngữ Hà Nội giới thiệu tập đầu A-C bộ Tự điển tiếng Việt phổ thông.
Phần lớn thì giờ của tôi dùng để đọc sách báo Bắc Việt, tìm hiểu văn học ngoài đó, và xét chung tôi thấy về sáng tác, Bắc không phong phú bằng Nam; về khảo cứu sử và cổ văn hoc của mình thì Bắc hơn Nam, nhưng trừ vài ba tác phẩm thực có giá trị, như Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của Hà Văn Tấn, Lam Sơn khởi nghĩa của Phan Huy Lê, còn lại đều bình thường thôi; về dịch, Bắc cũng ít hơn Nam.
Tôi đã góp ý vài lần trong các cuộc họp về việc soạn từ điển, thống nhất chính tả, thống nhất cách viết các nhân danh, địa danh ngoại quốc.
Tôi viết trước sau bốn bài báo: một bài nhan đề Đoàn kết, đại ý bảo muốn đoàn kết Bắc Nam, đoàn kết nhân dân thì cán bộ phải làm gương, nhã nhặn, và hết lòng giúp dân; bài này báo Đoàn kết không đang; hai bài cho tờ Nguyệt san Tổ quốc do lời yêu cầu của ông Lê Huy Vân trong toà soạn, bạn học cũ của tôi ở trường Yên Phụ: một bài nhan đề là Một truyện ngắn (của Nam Cao làm tôi xúc động (năm 1977), một bài nhan đề Chủ nghĩa thực dân và vấn đề kỳ thị chủng tộc (ở Nam Phi, năm 1978), cả hai bài đó đều bị cắt bỏ rất nhiều; và một bài được đăng trọn trên tờ Giải phóng chủ nhật 12-9-76, nhan đề là Góp ý về việc thống nhất tiếng Việt.
Đại ý tôi bảo rằng tiếng Việt từ hồi nào tới giờ vẫn thống nhất, nay chỉ cần "nhất trí" hay "qui định" một số tiếng thôi; công việc đó mới xét tưởng là dễ dàng mà thực ra cũng có nhiều vấn đề nan giải và tôi nêu ra một số vấn đề về thống nhất: 1. phát âm, 2. chính tả, 3. từ ngữ, 4. ngữ pháp.
Bài đó không dài, nhưng được độc giả ở Nam và Bắc khen, được đăng lại trên báo Đoàn kết của Hội Việt kiều ở Pháp, và trên một tờ báo của đồng bào di cư qua Mỹ, với một trang giới thiệu tôi, do Nguyên Sa viết (1977).
Tháng 10 năm 1979, ban tổ chức Hội nghị khoa học toàn quốc ở Hà Nội mời tôi ra dự về vấn đề Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt vì sức khoẻ kém, tôi đi không được.
Năm 1978, một nhân viên bộ Giáo dục ở Hà Nội vào, mời tôi dự ban Trung Hoa học (Sinologie nghiên cứu về Trung Hoa, tôi đáp không đủ tư cách; sau ban đó không thành lập nổi. Bộ không có đủ phương tiện mà cũng không có thực tâm nghiên cứu.
Năm 1979, nhà xuất bản Văn học Hà Nội, do một anh bạn học cũ của tôi ở trường Bưởi làm trung gian, yêu cầu tôi dịch cho một danh tác Pháp hay Anh, tôi đáp không có thì giờ (vì tôi đương viết bộ Kinh Dịch); năm nay (1980), nhà xuất bản đó lại xin tôi gởi cho họ vài truyện dài hoặc tuyển tập văn học tôi đã dịch và xuất bản rồi để coi xem có thể in lại một cuốn được không; tôi đáp không còn dư cuốn nào cả (sau vụ "ba huỷ" năm 1978: sách phản động, huỷ; sách đồi truỵ, huỷ; sách lạc hậu, huỷ), nhà xuất bản chịu khó tìm của người khác mà đọc.
Khoảng 1971-72, mặc dầu có nhiều tình cảm với kháng chiến, nhưng tôi cũng biết chế độ Cộng sản không hợp với tính tình tôi nên có lần tôi nói với ông Giản Chi: "Cộng sản vô đây, tôi chỉ cầu họ cho tôi sống yên ổn, khỏi lãnh một nhiệm vụ nào hết, mình già rồi". Điều đó, may mắn tôi đã giữ được.
Năm 1973, khi ký xong Hiệp ước Paris (chưa ráo mực thì đã xé tôi ao ước ba điều: đi thăm quê hương đất nước trong một năm; xuất bản hết 10 cuốn đã viết xong; và còn dư năm nào thì nghiên cứu nốt về các triết gia lớn Trung Hoa thời Tiên Tần. Hai ước vọng trên đã hoá hão; còn ước vọng cuối cùng, từ năm 1976, tôi tuần tự và siêng năng thực hiện xong.
Dưới đây là những trang cuối trong bộ Hồi ký, tôi có sửa và tóm tắt một vài chỗ.
SỬA LẠI BẢN THẢO CHƯA IN
Trong một chương trên tôi đã nói khi soạn gần xong cuốn Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, tôi thấy công trình đó không có lợi ích thiết thực bằng một cuốn chỉ cách viết tiếng Việt sao cho xuôi tai, khỏi tối tăm, không lại căng. Có chủ trương đó rồi, ngay từ 1963, hễ đọc sách báo, tôi luôn để cây viết chì bên cạnh, thấy câu nào mắc một trong những lỗi kể trên, tôi đánh dấu liền, sau chép lại, sắp riêng vào một chỗ. Tôi chú trọng nhất vào sự cấu tạo câu văn và khi đã gom được 3-4 trăm câu rồi, tôi lựa lại còn độ trăm câu, tìm xem lỗi tại đâu, sắp đặt thành từng loại, cố kiếm ra những luật chi phối tiếng Việt, mà luật quan trọng nhất theo tôi là luật liên tục, luật cân xứng.
Tôi lại nghĩ ý nào có thể diễn được theo lối của mình thì không nên mượn lối của người, nhất là trong giai đoạn hiện tại. Viết văn càng phải có tính cách bình dân để dễ truyền bá những kiến thức mới trong đại chúng. Vay mượn của người ta là một việc cần thiết nhưng chúng ta phải luôn thận trọng, không nên tiếp thu một cách lố lăng, bừa bãi. Chủ trương đó giống với chủ trương mà gần đây ngoài Bắc gọi là giữ tiếng Việt cho được trong sáng.
Cuối năm 1964, tôi viết xong một tập dày trên 100 trang gồm 11 chương: I. Luật liên tục - II. Cân xứng cũng có khi là luật liên tục - III. Xung đột trong thể liên tục - IV. Tách ra và gom lại - V. Đạt sai vị trí - VI. Một số cạm bẫy cần đề phòng - VII. Coi chừng những tiếng đồng âm dị nghĩa - VIII. Thiếu và dư - IX. Ý tưởng lộn xộn - X. Dịch văn ngoại quốc - XI. Sự thuần khiết.
Mới đầu tôi đặt nhan đề là: Ít kinh nghiệm của tôi để viết cho sáng sủa và xuôi tai; sau thấy dài quá, đổi là Tôi tập viết tiếng Việt. Vài nhà muốn xin phép tôi xuất bản, tôi khất để sửa lại đã, rồi mắc nhiều công việc, mãi đến 1976, sau ngày giải phóng, mới sửa lại xong (1).
Ngoài tập đó ra, trước 1975 tôi còn soạn và dịch xong được 9 tác phẩm nữa mà tôi sẽ lần lượt giới thiệu dưới đây; và bắt đầu soạn chung với ông Giản Chi bộ Tuân Tử và Hàn Phi, hai bộ này đến cuối 1976 cũng hoàn thành (sẽ nói ở sau).
Đời nghệ sĩ
Thuộc loại Gương danh nhân, gồm tiểu sử năm nhà: Goethe, thi hào Đức; Chataubriand, văn hào Pháp; Balzac, tiểu thuyết gia danh tiếng nhất của Pháp; S. Maugham, tiểu thuyết gia Anh; và Walt Disney tác giả những phim hoạt hoạ bất hủ. Dày khoảng 200 trang (2).
Con đường thiên lý
Tôi dùng hồi ký của tôi với những tài liệu về cuộc tìm vàng ở miền Tây nước Mỹ giữ thế kỷ trước để tạo ra nhân vật Lê Kim (quê ở Phú Thọ - Bắc Việt), người đầu tiên trôi nổi qua Mỹ, theo một đoàn đi tìm vàng; khi tìm được rồi thì chán, trở về Nam Việt lập gia đình, khai hoang và giúp Thiên Hộ Vương "Bình Tây sát Tả" trong Đồng Tháp.
Ý nghĩa truyện đó trong đoạn cuối, lời tôi nói với một người chắt của cụ Lê Kim ở Gia Định vào khoảng 1950: "Cụ Lê Kim có phải là người Việt đầu tiên qua Mỹ không, điểm đó không quan trọng gì đối với chính sử. Vậy mà tìm ra được đủ chứng cứ và ít nhiều chi tiết, bác Bảng của cháu và bác (tức tôi, người kể truyện đã phải bỏ ra… tới nay trên hai chục năm (3) đấy, và phải nhờ vài sự ngẫu nhiên lạ lùng với mấy người giúp sức nữa. Trong khi tìm tòi, có những lúc chán nản mà cũng có những lúc phấn khởi say mê. Tìm ra được rồi tất mừng, nhưng chỉ được một lúc (… cũng như cụ Lê Kim mạo hiểm đi hết con đường thiên lý, tới miền có mỏ vàng thì chán nản, trở về nước khai hoang, kháng chiến. Vàng là thứ mà cụ coi thường nhất – danh vọng cũng vậy - cụ chỉ muốn tìm ý nghĩa cho cuộc sống và sự say mê trong hành động".
Truyện đó tôi đặt cho nhan đề: "Con đường thiên lý" vì hồi trẻ tôi muốn viết một tập du ký từ Nam ra Bắc mang nhan đề đó, mà không có cơ hội thực hiện được. Tôi viết xong năm 1972, định dăm năm sau sẽ giao cho nhà Lá Bối xuất bản. Ông Giám đốc nhà Lá Bối và vài bạn thân khen truyện rất hấp dẫn. Chưa kịp xuất bản thì miền Nam được giải phóng. Truyện dài khoảng 250 trang ghi được một số hồi kí của tôi như cảnh ngã ba Bạch Hạc, Đền Hùng, tình hình hồi đầu kháng Pháp ở thôn quê miền Nam…, cả chí hướng của tôi trong đoạn kết nữa .
- Một mùa hè vắng bóng chim
Dịch tiểu thuyết - mà cũng là tự truyện - Birdless Summer của Han Suyin (Hàn Tú Anh), một nữ sĩ cha Trung Hoa, mẹ Bỉ, khá nổi tiếng ở phương Tây, viết khá nhiều về Trung Hoa hiện đại.
Bà đương học Y khoa ở Bỉ thì xảy ra Nhật - Hoa chiến tranh. Vì yêu tổ quốc bà bỏ học về quê hương, lấy chồng là một sĩ quan Quốc dân đảng. Nhưng sau bà thất vọng về thói tàn bạo của chồng, nhất là chế độ thối nát kinh khủng của Tưởng Giới Thạch, thương hại cho tình cảnh điêu đứng của dân nghèo Trung Hoa sống như thú vật trên một non sông tuyệt đẹp.
Đọc truyện đó ta mới thấy nguyên nhân thất bại của Quốc dân đảng: họ chỉ lo cũng cố địa vị và làm giàu, mua quan bán chức, bán chợ đen thực phẩm, y phục, lương thực của lính, bán lậu khí giới cho Nhật nữa; họ lùng bắt nông dân ở ngoài đồng, phu phen ở ngoài phố, lấy dây chì, dây thừng cột lại thành từng xâu, lùa vào trại lính rồi đánh đập, bỏ đói; họ bắt dân nhổ lúa để trồng thuốc phiện, đặt ra hàng trăm thứ thuế (thuế cửa sổ, thuế số nhà, thuế hạnh phúc, thuế làm biếng…), họ lạm phát giấy bạc tới nỗi dân phải vác cả thúng giấy bạc mới mua nổi một vé xe... Trong chương XIII có một tài liệu chính xác gồm 5 trang về cuộc nội chiến Trung Hoa, giữa Quốc và Cộng từ 1946 đến 1949.
Tác giả không thiên cộng, chỉ ghét sự thối nát, vô nhân đạo thôi. Mà cộng sản cũng không ưa gì tác giả, mấy lần "tố" bà. Bà bảo: "Tôi chỉ ghi lại các biến cố một cách vô tư và trung thực để cho các thế hệ sau biết những gì đã xảy ra". Tôi mong rằng bà tiếp tục ghi biến cố ở Hoa lục từ 1940 đến nay.
Tác phẩm dày 400 trang, tôi đã dịch khá kỹ, năm 1972 nhà Lửa Thiêng đưa kiểm duyệt, không được phép in, đưa 2 bản, sở Thông tin chỉ trả lại một. Tôi phản đối, bảo bản tiếng Pháp cuốn Destination Tchung King cũng của Han Suyin nội dung cũng như cuốn Birdless Summer bán khắp Sài Gòn trong loại Sách bỏ túi thì sao không cấm? Họ làm thinh. Họ cấm có lẽ vì trong bài Tựa, tôi viết: "Đọc truyện đó, chúng ta không thể không liên tưởng tới tình cảnh nước ta trong mười mấy năm nay. Tôi cho rằng có những luật bất di bất dịch trong lịch sử: những dân tộc cùng một văn hóa, đặt trong một hoàn cảnh như nhau thì cũng phản ứng như nhau và rốt cuộc cùng đi tới một điểm lịch sử như nhau". Trong mấy hàng đó, tôi đã báo trước sự sụp đổ của chế độ Nguyễn Văn Thiệu. Sau Thiệu cũng phải lưu vong nhưng không được một đảo Đài Loan như Tưởng (4).
- Những quần đảo đầu tiên.
Tuyển dịch một số truyện ngắn của Somerset Maugham viết về đời sống của thực dân Anh trong một số quần đảo trên Thái Bình dương. Trong lời giới thiệu tôi viết:
"Trong khung cảnh đẹp mê hồn của các quần đảo miền Nam Hải (Thái Bình Dương xảy ra biết bao bi kịch mà nạn nhân là người da trắng. Họ mắc tội lỗi đến nỗi phải chết một cách thê thảm hoặc phải chôn vùi cả cuộc đời ở giữa rừng xanh với một ve Whisky".
S. Maugham không phê phán, nhưng đọc rồi chúng ta rút được kết luận này: đa số bọn thực dân chỉ là những "con heo nhơ nhớp"; chính bọn thổ dân mà họ tự cho là có sứ mạng phải "khai hóa" kia, lại văn minh hơn họ".
- Gogol
- Tourguéniev
- Tchékhov
Ba cuốn trên đi chung với nhau thành một bộ. Mỗi cuốn dày khoảng 150-180 trang, gồm hai phần: một phần giới thiệu tác giả (độ 50 trang và một phần văn tuyển.
Cũng như thơ Trung Hoa đời Đường, tiểu thuyết Nga thế kỷ XIX từ một bình nguyên bỗng vọt lên những đỉnh rất cao rồi qua thế kỷ XX lại hạ xuống. Tất cả các tiểu thuyết gia lớn thời đó đều có tinh thần nhân bản, phản kháng, chiến đấu và đều tả chân thân phận những hạng người bị áp bức trong xã hội.
Độc giả nước mình đã quen với hai đỉnh cao nhất là Tolstoi và Dostoievski; trong bộ ba cuốn này tôi giới thiệu thêm ba đỉnh cao hạng nhì:
+ Gogol mà mọi người đều nhận là "cha của tiểu thuyết Nga", "một vinh quang của dân tộc Nga", "không có Gogol thì không có toàn thể tác phẩm Dostoievski".
+ Tourguéniev mà Tolstoi khen: "Tôi mới đọc xong tập Hồi kí của một người đi săn của Tourguéniev; ông ấy viết rồi thì người ta ngại không muốn viết nữa". Lời đó khiến ta nhớ thái độ của Lý Bạch khi đứng trước bài thơ của Thôi Hiệu ở Hoàng hạc lâu!
+ Tchékhov mà từ Tolstoi, Gorki tới Maugham, Maurois đều phục là bực thầy, có phần sâu sắc hơn Maupassant của Pháp.
- Lịch sử văn minh Trung Hoa của Will Durant trong bộ Lịch sử văn minh gồm 32 cuốn với 1 cuốn tổng kết: Bài học lịch sử. Dày khoảng 400 trang, cũng sáng sủa, hấp dẫn như hai cuốn Văn minh Ấn Độ, Văn minh Ả Rập; tuy viết cho độc giả phương Tây mà thanh niên mình đọc vẫn hiểu thêm được nhiều điều, và có một tổng quan khá đúng về văn minh Trung Hoa, vì tác giả nhận định thận trọng, sáng suốt, tỏ rằng ông yêu nền văn minh đó, có yêu nó nên hiểu được nó. Phê bình Khổng học ông viết:
"Khổng Tử chỉ thành công khi ông mất rồi, và thành công ấy thật hoàn toàn (…). Có thể nói rằng lịch sử Trung Hoa với lịch sử Việt Nam ảnh hưởng Khổng giáo chỉ là một. Liên tiếp bao nhiêu thế hệ, người Trung Hoa dùng Tứ thư, Ngũ kinh để dạy trong các trường của quốc gia và hầu hết các học sinh đều thuộc lòng lời dạy trong sách. Tinh thần khắc kỷ, bảo thủ của vị "thánh" đó nhờ vậy mà lần lần thấm vào máu dân tộc, lâu đời tạo nên những con người thâm trầm, có tư cách cao mà khắp lịch sử nhân loại không nước nào có, không thời nào có nữa. Nhờ triết lý ấy, dân tộc Trung Hoa đã tìm được một sự hoà hợp trong đời sống xã hội, trong lối sống của mỗi giới; biết ngưỡng mộ sự học thức, minh triết, và có được một nền văn hoá vĩnh cữu, hiếu hoà, khiến cho văn minh Trung Hoa đủ sức mạnh để tồn tại sau tất cả các cuộc xâm lăng. Không những vậy, còn đồng hoá kẻ xâm lăng nữa. Ngày nay cũng như ngày xưa, cho thanh niên hưởng thụ nhiều tư tưởng Khổng học là phương thuốc tốt nhất cho những dân tộc nào bị nhiễm cái hại quá thiên về trí dục, mà luân lý suy đồi, từ cá nhân đến toàn thể dân tộc đều kém tư cách.
Nhưng một mình triết lý chưa đủ để bồi dưỡng. Nó rất thích hợp với một nước cần ra khỏi cảnh hỗn loạn, cần mạnh lên để lập lại trật tự, nhưng nó là một sự cản trở cho nước nào cần biến đổi, tăng tiến hoài để ganh đua trên trường quốc tế".
Cộng sản Trung Hoa hiểu vậy cho nên mấy chục năm nay đả Khổng rất mạnh; nhưng khi nào xã hội loạn thì người ta lại sẽ phải trọng học thuyết của Khổng. Đoán về tương lai dân tộc Trung Hoa, Will Durant trước thế kỷ vừa rồi, bảo:
Trung Hoa đã chết nhiều lần, mà lần nào nó cũng hồi sinh". Và mãi đến năm 1972, Mỹ mới chịu nhận rằng không thể nào thắng một dân tộc như vậy được. Hiện nay, Nga lại muốn tranh giành ảnh hưởng với Trung Hoa ở Đông Á; để coi bên nào sẽ thắng?
Tôi đưa Lịch sử văn minh Trung Hoa (5) cho nhà Cảo Thơm xuất bản. Năm 1974 ông giám đốc nhà đó đã chuẩn bị nhiều hình danh nhân và thắng cảnh Trung Hoa để làm bản kẽm, chưa kịp in thì nhà xuất bản phải đóng cửa.
Mấy cuốn giới thiệu ở trên không tốn công cho tôi mấy, đều đáng đọc, nhưng không in được, tôi không tiếc lắm. Những cuốn dưới đây về triết học Trung Hoa thời Tiên Tần mới tốn công hơn.
Trang Tử
Trang Tử có địa vị rất lớn trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, ngang với Mạnh Tử, hơn Tuân tử, hơn cả Mặc Tử nữa. Nhờ ông một phần lớn mà tư tưởng của Lão tử mới được phổ biến mạnh: chỉ giới trí thức mới quí những cách ngôn trong Đạo Đức kinh, còn giới bình dân thì ai cũng biết ít nhiều những ngụ ngôn trong Trang tử. Do đó tên ông gắn liền với tên của Lão Tử và cả hai có công làm cho dân tộc Trung Hoa bớt thực tiễn, yêu thiên nhiên, tự do hơn, khoan dung hơn, khoáng đạt hơn… thơ văn cũng như hội hoạ từ Lục triều trở đi, nhất là dưới đời Tống đều mang dấu vết của Trang.
Ở nước ta ông Nguyễn Duy Cần đã giới thiệu học thuyết của Trang, nhưng chỉ dịch ít chương trong Nội thiên, Nội thiên và Tạp thiên; lại không đặt chân nguỵ của những chương đó, gán cho Trang vài tư tưởng không thực của Trang. Ông nhằm mục đích phổ thông hơn khảo cứu.
Người đầu tiên nêu ra vấn đề chân nguỵ trong bộ Trang Tử (cũng có tên là Nam Hoa Kinh là Tô Đông Pha đời Tống. Sau ông, số học giả nghi ngờ sự nguỵ tác trong Trang Tử càng ngày càng nhiều. Đại khái ngày nay ai cũng nhận rằng Nội thiên là của Trang Tử (trừ một số bài), còn Ngoại thiên và Tạp thiên là của người đời sau.
Tôi kiếm được năm bản Trang Tử, quan trọng nhất là Trang Tử toản tiên của Tiền Mục, Tân dịch Trang Tử độc bản của Hoàng Cẩm Hoành (1974 và L’œuvre complète de Tchouang-tseu của Liou Kia - hway (1969); dịch tất cả các chương trong Nội thiên, Ngoại thiên, Tạp thiên, không bỏ một bài nào; cuối mỗi chương lại đưa ra nhận định của tôi về chân, nguỵ; nếu là nguỵ tác thì người viết thuộc về phái nào: chẳng hạn phái quá khích của Lão giáo, phái ôn hoà của Lão giáo, phái theo Trang, phái theo Khổng, phái theo Đạo gia (tu tiên hay theo Pháp gia…
Tôi chỉ dùng những chương chắc chắn của Trang để phân tích tư tưởng của Trang, cố không gán cho Trang những tư tưởng của người đời sau. Cuối cùng tôi chỉ cách nên đọc Trang ra sao. Tác phẩm khá dày: trên 500 trang (riêng phần giới thiệu trên trăm trang), có thể coi là công trình đầy đủ nhất về Trang Tử từ trước tới nay, tiếc là chưa in được (6).
VIẾT NỐT VỀ TRIẾT HỌC TIÊN TẦN
Khổng học tới Mạnh Tử trải một lần biến, tới Tuân Tử trải một lần biến nữa. Khổng Tử chỉ nói "tính tương cận, tập tương viễn" (bản tính con người giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau), và trọng đức nhân hơn cả; Mạnh Tử đưa ra thuyết tính thiện, ai sinh ra cũng có sẵn bốn "đầu mối" (tứ đoan), cũng như bốn mần: nhân, lễ, nghĩa, trí, ông ít nói đến nhân mà nói nhiều đến nghĩa; Tuân Tử, trái lại chủ trương tính ác (tính người vốn ác), và "thiên nhân bất tương quan" (người và trời không quan hệ gì với nhau), ông ít nói đến nhân, nghĩa mà rất trọng lễ.
Mạnh là một triết gia kiêm chính trị gia; Tuân hoàn toàn là một triết gia (mặc dầu cũng nhận vài chức không quan trọng), học rất rộng, có nhiều tư tưởng độc đáo, bàn cả về tri thức, danh (công dụng của danh, nguyên lý chế danh…), về biện thuyết (phạm vi của biện thuyết, phương pháp biện thuyết), nên được nhiều người tôn là học giả uyên bác nhất thời Chiến Quốc.
Cho đến đầu đời Hán, học thuyết của Mạnh và của Tuân được trọng ngang nhau; từ Đường trở đi, Mạnh được tôn và Tuân bị ức; nhưng gần đây ở Trung Hoa, Tuân lại được nghiên cứu hơn Mạnh, vì tư tưởng của Tuân hợp thời hơn: tìm hiểu để lợi dụng thiên nhiên, trọng khoa học, lễ, pháp luật, hiến pháp.
Ở nước ta, vì chịu ảnh hưởng nặng của Tống Nho, Tuân Tử cũng bị khinh, buộc cho cái tội là đã đào tạo Lý Tư và Hàn Phi, hai chính trị gia giúp Tần Thuỷ Hoàng dựng nghiệp đế rồi đốt sách, chôn Nho nên ngày nay, ngoài ít chục trang trong Nho giáo của Trần Trọng Kim, Khổng học đăng của Phan Sào Nam, chưa có một cuốn nào chuyên viết về Tuân Tử. Chúng tôi soạn bộ Tuân Tử để bổ khuyết điểm đó. Tác phẩm dày hơn 400 trang, phần học thuyết chiếm khoảng 150 trang, còn lại là phần trích dịch (7).
Hàn Phi
Bộ này dày như bộ trên và cũng gồm hai phần như bộ trên.
Vì Hàn Phi là tư tưởng gia cuối cùng của thời Tiên Tần, tập đại thành các pháp gia (các nhà cho rằng trị nước, dùng pháp luật có hiệu quả hơn, là những người chủ trương pháp trị, trái với Khổng, Mặc chủ trương nhân trị trong 3-4 thế kỷ, nên trước khi giới thiệu đời sống và tư tưởng của Hàn Phi, chúng tôi ôn lại hai thời Xuân Thu và Chiến Quốc về phương diện xã hội, chính trị và học thuật; lược thuật tư tưởng cùng chính sách của các pháp gia trước Hàn Phi: Quản Trọng, Tử Sản, Lý Khôi, Ngô Khởi, Thân Bất Hại, Thận Đáo, Thương Ưởng.
Ba điểm chính trong học thuyết của Hàn là:
Trọng cái thế: Người cầm quyền không cần phải hiền và trí mà cần có quyền thế và địa vị. Hiền và trí không đủ cho đám đông phục tòng, mà quyền thế và địa vị đủ khuất phục được người hiền. Trọng thế thì tất nhiên trọng sự cưỡng chế: vua nắm cả quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, và phải được tôn trọng triệt để: bắt chết thì phải chết.
Trọng pháp luật, mà pháp luật phải hợp thời, dễ biết dễ thi hành, phải công bằng.
Trọng thuật trừ gian, dùng người. Điểm này rất quan trọng, Hàn đưa ra nhiều thuật tàn nhẫn rồi dùng nhiều cố sự để dẫn chứng, đại khái cũng như Kautilya ở Ấn Độ sau cuộc xâm lăng Ấn của Alexandre le Grand, một thế kỷ trước Hàn Phi, và như Machiavel, tác giả cuốn Le prince ở Ý cuối thế kỷ XV (8).
Từ năm 1977, được nhàn rỗi, tôi lại tiếp tục nghiên cứu hết các triết gia lớn đời Tiên Tần, để thực hiện xong chương trình tôi đã vạch từ 5-6 năm trước và soạn thêm năm cuốn nữa: Mặc Học, Lão Tử, Luận Ngữ, Khổng Tử, Kinh Dịch.
Mặc học (gồm Mặc Tử và phái Biệt Mặc)
Đạo Mặc là đạo Khổng của bình dân, do một tiện nhân thành lập. Mặc Tử sinh sau Khổng Tử, chịu ảnh hưởng của Khổng, cũng tôn quân, trọng hiền, đề cao đạo đức và sự tu thân như Khổng, nhưng chống Khổng ở chỗ ghét lễ nghi, cho nó là phiền phức, xa xỉ, ghét ca nhạc, mà lại có tinh thần tín ngưỡng rất mạnh: đạo Mặc gần như một tôn giáo, tổ chức cũng chặt chẽ như một tôn giáo. Nó chỉ thịnh ở thời Chiến Quốc, các thời sau không một triều đại nào dùng nó vì thuyết kiêm ái (yêu mọi người như yêu chính mình, cha mẹ người như cha mẹ mình… và bỏ chính sách mỹ thuật, sống khắc khổ của nó không hợp nhân tình; nhưng nó đã có ảnh hưởng khá lớn: mở đường cho Lão Tử vì nó chủ trương bình đẳng giữa các giai cấp và trở về lối sống bình dị; mở đường cho cả pháp gia nữa vì trọng quyền lực, trọng lao động và buộc người dưới phải thống nhất tư tưởng với người trên, buộc dân phải cáo gian.
Mặc Tử mất rồi, chỉ trong vài thế hệ, môn đồ không còn giữ chủ trương của ông nữa, bỏ hẳn chính trị, đạo đức, mà suy tư về tri thức, biện luận, khoa học (hình học, lực học, quanh học)… khiến cho triết học Trung Hoa có được vài nét của triết học phương Tây thời Hi Lạp. Đó là một cống hiến đáng kể của môn đồ Mặc Tử mà người ta gọi là phái Biệt Mặc.
Gần đây các học giả Trung Hoa rất chú ý tới Mặc học vì họ nghĩ rằng triết học đó mà không bị dìm trong mấy ngàn năm thì chưa biết chừng Trung Hoa đã có tôn giáo, khoa học như phương Tây, có thể mạnh như phương Tây. Một lẽ nữa là chính sách của Mặc Tử có vài điểm hợp với cộng sản.
Ở nước ta mới chỉ có Ngô Tất Tố giới thiệu Mặc Tử trong một tập mỏng. Bộ của tôi dày 550 trang, nửa trên về Mặc Tử, nửa dưới về Biệt Mặc, gọi chung là Mặc học. Tôi lại trích dịch 19 thiên quan trọng nhất của Mặc Tử. Ông có giọng một nhà truyền giáo: hùng hồn, bình dị, lập đi lập lại để đập vào óc thính giả (9).
- Lão Tử
Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi. Tôi góp thêm một bản nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão Tử.
Tôi theo các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỷ thứ IV hay thứ III trước Tây lịch, do môn sinh của Lão Tử chép lại lời thầy; tuy có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào, nhưng tư tưởng vẫn là nhất trí.
Lão Tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông lại xét tính cách và quy luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ thống nhất thời Tiên Tần. Ông tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do trong hoà bình, không tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về thanh tịnh, tự nhiên.
Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái lượm, mà trở về buổi đầu thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có chữ viết (ch. 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão Tử chúng ta chỉ nên nhớ rằng ông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ.
Học thuyết của ông bổ túc cho học thuyết của Khổng, nén bớt tinh thần hăng hái hữu vi, quá thực tiễn của Khổng. Hiện nay người phương Tây chán nản nền văn minh cơ giới, sản xuất để tiêu thụ rồi tiêu thụ để sản xuất, muốn trở lại đời sống thiên nhiên, giản dị, nên Đạo đức kinh lại được nhiều người đọc. Nhưng các chính trị gia không ai theo bài học của ông cả; tôi nghĩ những câu như: "Càng ban nhiều lệnh cấm thì dân càng nghèo" (ch. 57), "Can thiệp vào việc dân nhiều quá thì dân sẽ trá nguỵ, chống đối" (ch. 60 rất đáng cho họ suy ngẫm (10).
Luận ngữ
Thấy nhiều người hiểu sai Khổng Tử, hoặc không đặt ông vào thời đại của ông, hoặc gán cho ông những tư tưởng của nhà Nho đời sau, cho nên từ lâu tôi đã có ý viết một cuốn về học thuyết Khổng Tử mà chỉ căn cứ vào bộ Luận ngữ thôi, bộ đáng tin nhất do môn sinh của ông chép lại lời của ông.
Năm 1972, tôi đã soạn một cuốn mỏng nhan đề là Nhà giáo họ Khổng theo chủ trương trên, định bụng sẽ viết một cuốn nữa về triết gia họ Khổng. Năm 1978, viết xong cuốn Lão Tử, tôi thực hiện dự định đó. Và trước khi viết về Khổng Tử, tôi phải đọc lại, dịch lại bộ Luận ngữ đã. Cũng như tất cả các cổ thư thời Tiên Tần, Luận ngữ có những chỗ tối nghĩa vì chép lầm, thiếu sót; lại có chỗ do người đời sau thêm vào. Lối chép vắn tắt quá, nhiều khi ta không biết Khổng Tử nói một lời nào đó trong hoàn cảnh nào, nên khó hiểu được tư tưởng của ông mà mỗi người giảng một khác. Vì vậy, ngoài các bản Việt dịch toàn hiểu theo Chu Hy, tôi phải kiếm thêm nhiều bản chú giải của Trung Hoa để biết thêm các cách hiểu khác của người Trung Hoa xưa và nay; lại tham khảo thêm lối dịch của Lâm Ngữ Đường, của Etiemble – một nhà Trung Hoa học danh tiếng của Pháp – có tinh thần khách quan, tự do.
Khi dịch, gặp bài nào có nhiều cách hiểu, tôi lựa lấy một, nhưng cũng ghi thêm những cách kia. Dịch và chú thích xong, tôi làm các bảng phân loại, nhân danh, địa danh và một bảng khoảng 200 câu thường dẫn. Việc đó rất tốn công. Có những mục chính như Khổng Tử, Môn sinh Khổng Tử, Học và tu dưỡng, Xử thế, Chính trị… rồi trong mỗi loại lại có những tiểu mục, chẳng hạn mục về Khổng Tử chia ra: Đời sống, Lối sống, Nhân cách, Tính tình, Dạy học, Khổng Tử tự xét mình, Khổng Tử xét người, Người đương thời xét Khổng Tử. Tôi phân loại như vậy chủ ý để tôi dễ tra và dẫn chứng và cũng để giúp người sau vì từ trước tới nay chưa ai làm công việc đó một cách kỹ lưỡng, cả ở Trung Hoa, ở châu Âu cũng vậy.
Dịch xong bộ Luận ngữ rồi tôi mới bắt đầu viết cuốn Khổng Tử.
Khổng tử
Trang đầu tiên tôi nêu chủ trương của tôi:
"Triết thuyết nào cũng chỉ để cứu cái tệ của một thời thôi. Muốn đánh giá một triết thuyết, phải đặt nó vào thời của nó, xem nó giải quyết được những vấn đề của thời đó không, có là một tiến bộ so với các thời trước, một nguồn cảm hứng cho các đời sau không".
Trước hết tôi tìm hiểu thời đại Khổng tử (chương I rồi đời sống Khổng Tử (ch. II - có một niên biểu của đời ông), con người Khổng Tử: lối sống, tư cách, tính tình (ch. III). Tư tưởng và phương pháp giáo dục của ông, tôi đã xét trong cuốn Nhà giáo họ Khổng, nên trong cuốn này tôi chỉ xét tư tưởng chính trị và chính sách trị dân của ông thôi (ch. V, VI). Sau cùng là một chương về đạo làm người của luân lý gia họ Khổng.
Ở đầu chương V (Tư tưởng chính trị tôi viết:
"Khổng Tử sinh ở cuối thời Xuân Thu, thời mà chế độ phong kiến tuy suy nhưng vẫn còn cơ duy trì được. Tề Hoàn công là vị "bá" đầu tiên và có uy thế nhất trong số ngũ bá, vẫn phải mượn danh thiên tử nhà Chu để họp các chư hầu, và về già mới có ý lật vua Chu nhưng chưa kịp thi thành thì chết, và nếu có thể thi hành được thì cũng chỉ thay Chu để làm thiên tử chứ vẫn phải giữ chế độ phong kiến".
Rồi tôi minh chứng rằng như mọi người khác ở thời ông, có lẽ cả Mặc Tử, Mạnh Tử sau ông nữa, Khổng Tử cho chế độ phong kiến là hợp pháp, hợp lý, vì hoàn cảnh thời ông chưa cho ông quan niệm được một chế độ nào khác để thay nó. Phải tới gần cuối thời Chiến Quốc, khoảng 250 năm sau, bọn pháp gia mới lần lần quan niệm được một chế độ mới, chế độ quân chủ chuyên chế thống nhất Trung Hoa. Mà sở dĩ vậy là vì ở thời Khổng Tử, nền kinh tế Trung Hoa (canh nông, công nghệ chưa phát triển, không đủ nuôi một số dân đông, cả Trung Hoa nới có được 10-15 triệu người, nước lớn như Tề mới có được vài triệu người, một hai ngàn chiến xa (4.000-8.000 quân), võ khí lại thô sơ (cuối đời Khổng Tử mới có sắt để làm lưỡi cày chứ chưa đủ làm được binh khí), chiến thuật cổ lỗ (vẫn dùng chiến xa, không có bộ binh, kỵ binh), quốc gia chưa chia thành quận huyện để nắm được toàn dân, tập trung quyền hành vào triều đình; như vậy thì làm sao có một nước đủ mạnh, đủ lính, đủ khí giới để chinh phục tất cả các nước kia mà thống nhất Trung Hoa và lập chế độ quân chủ chuyên chế cai trị cả Trung Hoa được. Khổng Tử ở vào thời đó tất phải giữ chế độ phong kiến, không thể trách ông được. Trái lại, đặt ông vào thời đại của ông thì ta phải khen ông có tinh thần cải cách, cách mạng nữa (thuyết chính danh của ông đẻ ra thuyết giết một bạo chúa là giết một tên thất phu của Mạnh), bắt bọn cầm quyền phải có đức, phải thương dân; ông điều chỉnh lại quyền lợi, nghĩa vụ vua tôi; ông lại đào tạo một giai cấp mới: kẻ sĩ để trị nước, thay thế bọn quí tộc thiếu tài, thiếu đức, giai cấp đó đa số ở trong giới bình dân, địa chủ mới, thương nhân mà ra. Ở thời ông, ai làm được hơn ông?
Cả hai cuốn trên tôi viết trong khoảng 7-8 tháng.
Thật lạ lùng! Người có công nghiên cứu đạp Khổng, đề cao Khổng Tử nhất ở nước ta từ trước tới nay lại là một tín đồ Công giáo, giáo sư Kim Định. Ông đã viết khoảng chục cuốn mỏng về đạo Khổng, đưa ra nhiều ý táo bạo mà ông chưa sắp lại thành hệ thống. Ông muốn cải tạo xã hội, cải tạo thế giới nữa, cho rằng nếu canh tân đạo Khổng thì những tư tưởng tự do và bình sản (làm cho tài sản quân bình, không ai giàu quá nghèo quá của Khổng có thể cứu nhân loại khỏi cái hoạ những tư tưởng hẹp hòi. Theo ông, "hiểu Khổng là vượt Khổng", cho nên Khổng rất tránh các vấn đề siêu hình mà ông lại dùng nhãn quan siêu hình để nghiên cứu Khổng.
Tự do, bình sản là lý tưởng chung của các triết gia phương Đông như Khổng, Lão, Phật mà cũng là những điều nhân loại ngày nay đòi hỏi; nhưng tôi nghĩ thời nay chúng ta cần có một nhân sinh quan mới, một triết lý mới, một lối sống mới, chứ tự do và bình sản chưa đủ. Lối sống mới đó tôi đã vạch qua ở cuối chương XXXII, bộ Hồi kí và trong tạp chí Bách Khoa hồi đầu năm 1975 (11). Điều tôi quí nhất ở Khổng Tử là ông rất gần chúng ta, rất hiểu tâm lý con người. Học thuyết của ông thật đầy đủ từ tu thân tới tề gia, trị quốc, không triết thuyết nào được như vậy. Ông thực tiễn, sáng suốt mà ôn hoà, vừa nghiêm, vừa khoa. Những lời ông khuyên môn sinh về bất kỳ vấn đề gì tới nay vẫn còn giá trị, miễn là ta nhớ qui tắc "thời trung", học được thái độ "vô khả vô bất khả" của ông. Bộ Luận ngữ có mấy trăm câu minh triết sâu sắc, thành châm ngôn cho thời sau, càng già đọc càng thấy ý vị.
Năm 1979 tôi viết cuối cùng về triết học thời Tiên Tần, tức cuốn Kinh Dịch. Tôi đã thu thập tài liệu Hoa, Việt, Pháp, Anh về Kinh Dịch từ non hai chục năm trước, được 15 cuốn. Tôi đọc lại hết, ghi chép mất bốn tháng, rồi viết mất sáu tháng nữa, được khoảng 500 trang. Chủ trương của tôi khác hẳn các học giả của mình gần đây. Tôi chỉ nhắm mục đích hướng dẫn những bạn trẻ muốn tìm hiểu triết lý trong Kinh Dịch, nghĩa là vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan, cách xử thế, tu thân, trị quốc trong Kinh Dịch, mà tôi gọi là đạo Dịch, đạo của bậc chính nhân quân tử ngày xưa. Vì vậy tôi bỏ hết phần bói toán huyền bí, nhất là phần tướng số và rán trình bày một cách có hệ thống, sáng sủa tư tưởng của cổ nhân.
Tôi đã xét về:
. Nguồn gốc Kinh Dịch (bỏ những thuyết huyền bí đi), sự tạo thành của 8 quẻ đơn, 64 quẻ trùng.
. Nội dung phần kinh.
. Nội dung phần truyện.
Tôi giảng kỹ các thuật ngữ và quy tắc cần nhớ: ý nghĩa các hào, thế nào là trung, chính, tương quan giữa các hào, hào làm chủ, v.v…
Theo tôi, vũ trụ quan trong Kinh Dịch tổng hợp thuyết âm dương có từ đời Ân (hay trước nữa và đạo Lão; còn nhân sinh quan tổng hợp đạo Lão và đạo Khổng. Trước sau vẫn là đạo Khổng (kính đó làm kinh của đạo Nho), nhưng Dịch học phái đã biết dùng đạo Lão mà sửa đạo Khổng cho bớt hữu vi đi, trọng khiêm nhu hơn; trọng phụ nữ hơn (quẻ Khôn và quẻ Gia nhân chẳng hạn), Khổng không nói đến phụ nữ, có thì chỉ chê là "nan hoá" thôi; trọng sự ẩn dật hơn (quẻ Tiệm). Tôi có thể bảo vì vậy Dịch là tổng hợp được minh triết của dân tộc Trung Hoa thời Chiến Quốc.
Triết lý trong Dịch thực tế: Việc đời không bao giờ hết được, xong việc rồi (Ký tế thì phải bắt đầu lại (sau Ký tế tới Vị tế); lạc quan: tuy biết rằng không bao giờ diệt được hết ác, được tiểu nhân; thiện ác, quân tử, tiểu nhân thay nhau lên lên xuống xuống, nhưng Dịch vẫn khuyến thiện, vẫn thiên vị với quân tử, chỉ cho quân tử cách đợi thời, cách hành động ra sao; Dịch lại rất thực tiễn: 64 quẻ đều xét những việc thường ngày, từ việc ăn uống, cưới xin, kiện cáo, xuất quân, dạy con tới những việc trị dân, làm cách mạng, tu thân, tiến lui… những cách giữ thân khi gặp nguy khốn, khi ở đậu đất khách; mà như vậy chỉ dùng có hai vạch liền và đứt thay đổi lẫn nhau, chồng chất lên nhau. Tôi nhấn mạnh vào nhân sinh quan đó trong phần Giới thiệu và cả trong phần dịch 64 quẻ.
Leibniz, một triết gia Đức ở thế kỷ XVII tìm ra được rằng 64 quẻ trong đồ phương vị của Phục Hi hợp với phép Nhị tiến (numération binaire của ông, tài tình thật. Nhưng tương truyền Thiệu Ung, một triết gia đời Tống ở thế kỷ XI đã vẽ đồ đó, vậy thì ông đã tìm ra phép Nhị tiến sáu thế kỷ trước Leibniz chăng? Đáng phục hơn hết các nhà trong Dịch học phái đời Chiến Quốc đã "tán" thoán từ và hào từ trong Kinh Dịch một cách rất lô-gic, biến một sách bói thành một bộ triết lý gom hết cả các tinh hoa của cổ nhân. Họ có óc tưởng tượng mạnh thật. Càng suy nghĩ tôi càng thấy Dịch là một kỳ thư (12).
Bộ đó viết xong, một bạn trẻ, coi tôi như thầy học, bác sĩ Nguyễn Chấn Hùng, giảng viên Đại học Y khoa Sài Gòn xin phép tôi đánh máy sáu bản, tặng tôi một bản, còn thì tặng các bạn thân đã giúp công giúp của trong việc đánh máy. Cậu xin mười năm nữa khi nào có dịp xuất bản thì cậu sẽ lo cho.
- Trong những năm 1977-1979 tôi còn:
+ Lựa những bài báo tôi bàn về thời sự, gom vào một tập, nhan đề là Mười câu chuyện thời sự.
+ Lựa những bài tuỳ bút, tựa, những đoạn đắc ý trong các tác phẩm của tôi, gom vào một tập, nhan đề Để tôi đọc lại.
Sau cùng năm nay (1980 tôi viết bộ Hồi ký (13).
Tổng cộng tới nay có 20 bản thảo chưa in, khoảng 6.000 trang.
KẾT VỀ TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ THỜI TIÊN TẦN
Vậy là tôi thực hiện xong dự định: viết về tất cả các triết gia quan trọng thời Tiên Tần, thời rực rỡ nhất của triết học Trung Quốc, dài trên 3-4 thế kỷ. Nó rực rỡ nhất vì ngôn luận được tự do nhất; hơn nữa những kẻ sĩ được vua chúa kính trọng nhất.
Từ gần cuối đời Xuân Thu đến hết đời Chiến Quốc, Trung Hoa loạn lạc liên miên, các nước chư hầu thôn tính lẫn nhau, từ mấy trăm rút xuống còn mấy chục. Kẻ sĩ nào ưu thời mẫn thế cũng tìm một đường lối cứu loạn cho dân. Vua chư hầu nào cũng muốn nước mình được mạnh lên để chống với nước lớn hoặc để chiếm nước nhỏ, cho nên tiếp đón long trọng các kẻ sĩ đó, lắng nghe mọi chính sách họ đề nghị. Do đó có hiện tượng không hề thấy ở thời nào khác, tại một dân tộc nào khác, hiện tượng mà người đời Hán gọi là "bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng). Ở Tề có một thời kẻ sĩ bốn phương tụ lại ở chật cả khu phía tây kinh đô Lâm Tri, ngựa xe nườm nượp ở các nẻo đường, kẻ sĩ nào cũng được vua Tề cung cấp lương thực; khi đi, còn được tặng một số vàng nữa.
Không kể các nhà ngày nay ta gọi là chuyên môn như kinh tế gia, nông gia, binh gia… chỉ xét riêng các triết gia về chính trị, chúng ta có thể sắp làm ba phái:
- Phái hữu vi – Khổng, Mặc (14) – Chủ trương đức trị (15), sửa đổi chế độ cũ, can thiệp vào đời sống của dân vừa phải thôi, lo cho dân đủ ăn, đủ mặc, khuyên can vua, dạy dân lễ nghĩa để giữ trật tự trong nước.
- Phái vô vi chủ trương can thiệp rất ít (Lão Tử hoặc không can thiệp chút gì (Trang Tử, Liệt Tử vào đời sống của dân, để dân sống theo bản năng, trở về tính chất phác thời nguyên thuỷ, như vậy xã hội hết loạn. Có thể kể thêm trong phái này Dương Tử và các ẩn sĩ không dự một chút gì vào việc đời.
- Phái cực hữu vi – Pháp gia – ngược lại, can thiệp triệt để vào đời sống của dân, không dạy dân lễ nghĩa, chỉ dạy họ cái đạo phục tòng, bắt họ cày ruộng, đi lính để nước giàu và mạnh. Phái này rất ghét nhân, nghĩa, chỉ dùng pháp luật tàn khốc (pháp trị của Thương Ưởng); thế (quyền thế của vua (Thận Đáo và các thuật xảo trá (Thân Bất Hại để sai khiến bách quan, nắm chặt dân như bọn nhà độc tài ngày nay.
Phái hữu vi đức trị, ôn hoà, hoàn toàn thất bại. Hồi đầu xã hội còn loạn ít mà Khổng Tử cũng không được ông vua nào tin dùng lâu cả, mặc dầu tới đâu ông cũng được tôn trọng. Đạo nhân của ông – cũng như đạo kiêm ái của Mặc - cao quá; chủ trương người trên phải chính đáng, làm gương cho kẻ dưới không ông vua nào theo. Đời sau xã hội loạn hơn, Mạnh Tử phải hạ lý tưởng xuống, không nói nhân mà nói nghĩa, cũng chẳng ai nghe; cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử lại hạ xuống một bực nữa, không nói nghĩa mà đề cao lễ (16), nhưng ngay học trò ông là Lý Tư, Hàn Phi cũng không theo mà chỉ dùng pháp, thấp hơn lễ nữa.
Phái vô vi thì càng về sau càng chán nản, lánh đời tới phủ nhận cả quốc gia (Trang tử), rốt cuộc người ta tìm cách tu tiên (đạo gia), lên núi ở.
Còn phải cực hữu vi, phái pháp trị, thì xã hội càng loạn càng được trọng dụng. Các vua chúa, nhất là vua Tần tin họ và nhờ chính sách độc tài của họ mà Tần mạnh lên, thống nhất được Trung Quốc.
Nhưng Tần không giữ nước được lâu, chỉ vài chục năm sau, non sông lại qua tay nhà Hán. Hán biết rằng hết loạn rồi thì không thể chỉ dùng Pháp mà phải dung hòa Khổng và Pháp: một mặt rất tôn quân (thuyết quân xử thần tử, thần bất tử bất trung là của Pháp gia, Hán áp dụng), trị dân bằng hình pháp nghiêm, nhưng một mặt cũng nhận rằng vua phải yêu dân, phải dạy dân lễ nghĩa bằng Tứ thư, Ngũ kinh của Nho gia. Quy tắc dân vi quí, dân vi khinh của Mạnh Tử vẫn được nêu cao mặc dù ít ông vua nào theo được; không theo được nhưng họ vẫn trọng dư luận của giới sĩ phu.
Nhờ chính sách dung hoà đó mà về chính trị, Trung Hoa được ổn định trên 2.000 năm: nhà vua mà bất lực, làm bậy thì dân nổi dậy, hạ bệ, đưa người khác lên, chứ chính thể quân chủ vẫn còn; khiến Will Durant trong cuốn Văn minh Trung Hoa phải khen dân tộc Trung Hoa đã tìm được một sự hoà hợp trong đời sống xã hội mà khắp thế giới không dân tộc nào có. Ngay Chu Nguyên Chương, người khai sáng nhà Minh, là ông vua độc tài nhất, bôi bỏ những đoạn trong Mạnh Tử có hại cho uy quyền của mình, mà vẫn phải duy trì Khổng giáo. Khổng Tử đã thất bại trong đời ông nhưng đã thành công lớn trong lao trên suốt 2.000 năm từ khi ông chết. Không một triết gia nào trên thế giới có ảnh hưởng lâu bền và rộng rãi (khắp cả miền Đông Á như ông.
Tuy nhiên ta cũng không nên quên công của Lão Tử. Ông đã cho dân tộc Trung Hoa một sự hòa hợp về lối sống: không hăng hái hữu vi như Khổng Tử mà trọng tự do, thích hòa bình, yêu thanh tĩnh, thiên nhiên. Có thể như Lâm Ngữ Đường nói, nhờ Lão Trang dân tộc Trung Hoa tuy nghèo khổ mà vẫn yêu đời, tinh thần được quân bình không thác loạn như người Âu giàu có gấp 10, gấp 100 lần họ.
Thế giới ngày nay cũng loạn như thời Chiến Quốc, cũng có chia hai phe: một phe hữu vi can thiệp vừa phải vào đời sống của dân, một phe cực hữu vi độc tài. Hai phe đó đương tranh giành nhau ảnh hưởng. Chưa biết tương lai ra sao.
NHÌN LẠI QUÃNG ĐƯỜNG ĐÃ QUA
Do nhiều sự ngẫu nhiên kỳ dị mà tôi bước vào ngành cổ học Trung Hoa.
Hồi nhỏ, cha tôi do truyền thống gia đình mà dạy vỡ lòng chữa Hán cho tôi được một năm rưỡi rồi cho tôi theo tân học. Khoảng mười năm sau, khi tôi vào trung học rồi, mẹ tôi cho tôi học thêm chữ Hán với bác Hai tôi trong hai vụ hè, cũng là do trọng truyền thống nhà Nho; muốn cho con cái đọc được gia phả bên nội, bên ngoại. Lúc đó số chữ Hán của tôi được độ hai ngàn chữ, chưa dùng được.
May thay, ở trường Công chánh ra, tôi phải ở không trong năm tháng và để qua ngày, tôi tự học thêm chữ Hán, vừa đọc được bộ Tam Quốc chí thì được bổ vào trong Nam. Số vốn chữ Hán của tôi có thể dùng để mở mang kiến thức được rồi.
Vào Nam, nhờ bác Ba tôi hướng dẫn, tôi đọc sách thêm và năm 1953 tôi viết được bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc, năm 1957 viết được cuốn Nho giáo một triết lý chính trị. In xong hai bộ đó tôi định bỏ hẳn khu vực cổ học Trung Hoa vì nó không phải là sở trường của tôi, mà chỉ soạn những sách về Việt Nam và phương Tây.
Nhưng thời cuộc khiến có cuộc di cư năm 1945, tôi được quen ông Giản Chi, và năm 1962, tôi đề nghị với ông viết một bộ Đại cương triết học Trung Quốc, in năm 1965-66.
Từ đó tôi tin vào sức mình, muốn đi sâu thêm vào cổ học Trung Quốc, càng đi sâu càng thích, và tôi liên tiếp cho ra:
Cổ văn Trung Quốc (Tao Đàn - 1966), Chiến Quốc sách (chung với Giản Chi - Lá Bối - 1970), Văn học Trung Quốc hiện đại (tự xuất bản - 1969), Sử ký của Tư Mã Thiên (chung với Giản Chi - Lá Bối - 1970), Tô Đông Pha (Cảo Thơm - 1970), dịch Nhân sinh quan và Thơ văn Trung Hoa của Lâm Ngữ Đường (Ca Dao - 1970), Liệt tử và Dương tử (Lá Bối - 1973), Nhà giáo họ Khổng (Cảo Thơm - 1972), Mạnh Tử (Cảo Thơm - đầu năm 1975).
Năm 1973, tôi bắt đầu viết Trang Tử; năm 1974, bắt đầu viết chung với Giản Chi Tuân Tử và Hàn Phi, chưa xong thì miền Nam thay đổi chế độ. Từ ngày Giải phóng đến nay, tôi viết xong được năm tập nữa đều chưa in: Mặc học (Mặc Tử và Biệt Mặc), Lão Tử, Luận ngữ, Khổng Tử và Kinh Dịch (17).
Vậy tôi đã viết được 19 nhan đề về cổ học Trung Hoa (không kể một cuốn dịch của Lâm Ngữ Đường), trong số đó có 6 nhan đề về văn học, đều đã xuất bản, và 13 nhan đề về triết học mà mới có 5 nhan đề xuất bản, còn 8 nhan đề chỉ là bản thảo. Được vậy là nhờ 3 sự ngẫu nhiên: ở trường Công chánh ra phải đợi bổ 5 tháng, do đó có thì giờ học thêm; rồi được bổ dụng vào Nam mà được gặp bác Ba tôi hướng dẫn trong việc đọc sách, viết sách; sau được gặp ông Giản Chi. Nhưng nếu không có quyết định của mẹ tôi cho tôi học chữ Hán "để đọc được gia phả bên nội bên ngoại" thì sau có gặp ba sự ngẫu nhiên đó, tôi cũng không lợi dụng được. Phải có một số vốn học thức, kinh nghiệm, có khi tiền bạc nữa thì cơ hội tới mới sẵn sàng để nắm lấy nó được. Cho nên công của mẹ tôi vẫn là lớn nhất.
NHÂN SINH QUAN CỦA TÔI
Rải rác trong các tác phẩm tôi thường đưa ra những suy tư, ý kiến của tôi về nhiều vấn đề, dưới đây tôi lựa và gom lại một số thuộc về nhân sinh quan.
1. Đời sống tự nó vô ý nghĩa, trừ ý nghĩa truyền chủng, nhưng mình phải cho nó một ý nghĩa. Từ hồi ăn lông ở lỗ đến nay, nhân loại đã tiến về rất nhiều phương diện. Chúng ta được hưởng công lao, di sản của biết bao thế hệ, thì phải duy trì di sản đó và cải thiện nó tuỳ theo khả năng mỗi người.
2. Chúng ta làm điều phải vì tin nó là điều phải, chứ không phải vì ý muốn của Thượng đế hay một thần linh nào, cũng không phải vì mong chết rồi được lên Niết Bàn hay Thiên Đàng.
3. Quan niệm thiện ác thay đổi tuỳ thời, tuỳ nơi. Cái gì ích lợi cho một xã hội vào một thời nào đó thì được xã hội đó cho là thiện. Cũng cái đó qua thời khác không còn ích lợi nữa, mà hoá ra có hại thì bị coi là ác. Ví dụ đạo tòng phu, tòng tử của phụ nữ có lợi cho gia đình, xã hội thời nông nghiệp, tới thời kỹ nghệ, không còn lợi cho gia đình, xã hội nữa nên mất giá trị. Khi sản xuất được ít, đức tiết kiệm được đề cao; ngày nay ở Âu Mỹ, sản xuất vật dụng thừa thãi quá, nên sự phung phí gần thành một bổn phận đối với xã hội. Tuy nhiên vẫn có một số giá trị vĩnh cửu, từ hồi loài người bắt đầu văn minh, dân tộc nào cũng trọng, như đức nhân, khoan hồng, công bằng, sự tự do, tự chủ…
4. Đạo nào cũng phải hợp tình, hợp lý (bất viễn nhân thì mới gọi là Đạo được. Tôi không tin rằng hết thảy loài người chỉ thấy đời toàn là khổ thôi; cũng không tin rằng hết thẩy loài người thích sống tập thể, không có của riêng.
5. Đạo Khổng thực tế nhất, hợp tình hợp lý nhất, đầy đủ nhất, xét cả về việc tu thân, tề gia, trị quốc. Vậy mà tới nay lý tưởng của ông, nhân loại vẫn chưa theo được. Về tu thân, ba đức nhân, trí, dũng luyện được đủ tình cảm, trí tuệ và nghị lực của con người.
6. Nên trọng dư luận nhưng không nên nhắm mắt theo dư luận. Biết đắc nhân tâm, nhưng cũng có lúc phải tỏ nỗi bất bình của mình mà không sợ thất nhân tâm.
7. Mỗi người đã phải đóng một vai trò trong xã hội thì tôi lựa vai thư sinh. Sống trong một gia đình êm ấm giữa sách và hoa, được lòng quý mến, tin cậy của một số bạn và độc giả, tôi cho là sướng hơn làm một chính khách được hàng vạn người hoan hô, mà có phần giúp ích cho xã hội được nhiều hơn bọn chính khách nữa. Nhưng làm nhà văn thì phải độc lập, không nhận chức tước gì của chính quyền.
8. Ghi được một vẻ đẹp của thiên nhiên, của tâm hồn, và tả được một nỗi khổ của con người khiến cho đời sau cảm động, bấy nhiêu cũng đủ mang danh nghệ sĩ rồi.
9. Văn thơ phải tự nhiên, cảm động, có tư tưởng thì mới hay. Ở Trung Hoa thơ Lý Bạch, văn Tô Đông Pha hay nhất. Ở nước ta, thơ Nguyễn Du tự nhiên, bình dị mà bài nào cũng có giọng buồn man mác.
10. Tôi khuyên con cháu đừng làm chính trị, nhưng nếu làm thì luôn luôn phải đứng về phía nhân dân mà đối lập với chính quyền, vì chính quyền nào cũng đàn áp dân chúng. Tất cả các chính thể dân chủ hiện nay đều giả dối hết.
11. Một xã hội văn minh thì nhà cầm quyền không đàn áp đối lập; cùng lắm chỉ có thể ngăn cản họ đừng gây rối thôi, tuyệt nhiên không được tra tấn họ. Phải tuyệt đối tôn trọng chính kiến của mọi người.
12. Một xã hội mà nghề cầm bút, nghề luật sư không phải là nghề tự do, thì không thể gọi là một xã hội tự do được.
13. Khi nghèo thì phải tận lực chiến đấu với cảnh nghèo vì phải đủ ăn mới giữ được sự độc lập và tư cách của mình. Nhưng khi đã đủ ăn rồi thì đừng nên làm giàu, phải để thì giờ làm những việc hữu ích mà không vì danh vì lợi. Giá trị của ta ở chỗ làm được nhiều điều như vậy hay không.
14. Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý, hoặc được nhiều người ngưỡng mộ thì thế nào cũng sẽ mang hoạ vào thân.
15. Hôn nhân bao giờ cũng là một sự may rủi. Dù sáng suốt và chịu tốn công thì cũng không chắc gì kiếm được người hoàn toàn hợp ý mình; phải sống chung năm ba năm mới biết được rõ được tính tình của nhau. Từ xưa tới nay tôi chỉ mới thấy cuộc hôn nhân của ông bà Curie là đẹp nhất, thành công nhất cho cá nhân ông bà lẫn cho xã hội.
Hiện nay ở Mỹ có phong trào kết hôn thử, tôi cho rằng chưa chắc đã có lợi cho cá nhân mà còn có thể gây nhiều xáo trộn trong xã hội.
16. Có những hoa hữu sắc vô hương mà ai cũng quý như hoa hải đường, hoa đào; nhưng người đàn bà chỉ có sắc đẹp thôi, mà không được một nét gì thì là hạng người tầm thường.
Chơi hoa tôi thích nhất loại cây cao; có bóng mát, dễ trồng và có hương quanh năm như ngọc lan, hoàng lan. Ở đâu tôi cũng trồng hai loại đó.
17. Rất ít khi con người rút được kinh nghiệm của người trước. Ai cũng phải tự rút kinh nghiệm của mình rồi mới khôn, vì vậy mà thường vấp té. Nhưng phải như vậy thì loài người mới tiến được.
18. Cơ hồ như không thể thay đổi được bản tính con người: người nóng nảy thì tới già vẫn nóng nảy, người nhu nhược thì tới già vẫn nhu nhược. Nhưng giáo dục vẫn có ích lợi. Không nên cho trẻ sung sướng quá. Phải tập cho chúng quy củ, kỷ luật, biết tự chủ và hiểu rằng ở đời có những việc mình không thích làm nhưng vẫn phải làm, và làm thì phải làm ngay, làm đàng hoàng, làm cho xong.
19. Thay đổi bản tính loài như Mặc tử, như Karl Max muốn còn là chuyện xa vời hơn nữa. Thế giới đại đồng còn là mô tip không tưởng.
Thế giới còn những nước nhược tiểu có nhiều tài nguyên thì còn bọn thực dân, họ chỉ thay đổi chính sách thôi. Thực dân nào cũng như nhau. Khi họ khai thác hết trên mặt đất, trong lòng đất thì họ khai thác biển, dưới biển. Họ còn sống lâu. Tuy nhiên, cũng phải nhận rằng sự bóc lột trong một nước tân tiến thời này đã giảm nhiều, thì sau này sự bóc lột các dân tộc nhược tiểu cũng sẽ giảm đi dần dần.
20. Xã hội bao giờ cũng có kẻ tốt và kẻ xấu. Như Kinh Dịch nói lúc thì âm (xấu thắng lúc thì dương (tốt thắng; mà việc đời khi giải quyết xong thì lại sinh ra việc khác liền, sau quẻ Ký tế (đã xong tiếp ngay đến quẻ Vị tế (chưa xong). Mình cứ làm hết sức mình thôi, còn thì để lại các thế hệ sau.
21. Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút chứ đừng giàu. Nhưng hồi 50 tuổi tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng.
VỀ VƯỜN
Ngày 10 tháng chạp Kỷ Mùi (4-2-80 nhằm tiết Lập xuân, non 5 năm sau ngày Giải phóng, làm xong một số bổn phận công dân ở Sài Gòn, bán hết hơn hai vạn cuốn sách đã đăng ký – không một loại nào bị cấm - thu xếp xong việc nhà, vợ chồng tôi giao nhà ở Kỳ Đồng cho một người cháu bên vợ tôi trông nom, rồi chở một tí đồ đạc, sách vở về ngôi nhà 26 đường Gia Long (nay là 92 đường 26 tháng 3 ở thị xã Long Xuyên, để sống những năm còn lại, viết hồi ký và sắp xếp lại thư từ, giấy má. Về đây tôi có ít bạn, ít sách báo để đọc, nhưng nhà tôi được gần con cháu họ hàng, học trò cũ.
Ngôi nhà đó là tài sản duy nhất của nhà tôi sau 37 năm dạy học, cất từ 1934 theo kiến trúc cổ; sau chúng tôi cất thêm một căn nhỏ (50 thước vuông theo kiến trúc mới ở bên cạnh, làm chỗ riêng cho chúng tôi nghỉ ngơi. Nhà không tĩnh bằng nhà ở Kỳ Đồng vì ở trên đại lộ nhiều xe cộ qua lại, nhưng có vườn trồng được nhiều cây trái: mân, xoài, vú sữa, dừa, khế, lựu, chuối… Ở ngoài đường nhìn vào, phía trước cổng rào, bên mặt lối đi là một gốc hoàng lan đối diện với một bụi trúc ở bên trái, cả hai bên đều đặt nhiều phiến đá làm ghế ngồi. Sau cổng vào, bên trái có một gốc hoàng lan nữa, hương thơm ngào ngạt y như căn nhà ở Kỳ Đồng, rồi tới một hồ xây nhỏ, trồng sen trắng. Chiều tối, thanh niên nam nữ thường hẹn nhau lại ngồi trên những phiến đá "ở trước ngôi nhà có hương thơm ấy" để tâm sự. Trên bốn chục năm trước, viết bài Hương và sắc, tôi đã ước ao có một khu vườn để đặt tên là Hương viên. Vườn đã có từ lâu, chưa kịp đặt tên thì bọn trẻ đã đặt tên cho rồi: "nhà có hương thơm".
Dưới đây là ba trang cuối chương XXXIII chấm dứt bộ Hồi ký.
Mấy ngày mới về tôi sắp đặt đồ đạc, tủ sách và chỗ làm việc. Bà con bên nội tôi (con ông bác tôi), bà con bên nhà tôi, học trò cũ của chúng tôi hay tin, lại thăm. Nơi đây đã thành quê hương tôi.
Một tuần lễ sau, ngày 25 tháng chạp, tôi mới qua thăm chợ. So với hồi mới Giải phóng, thành phố đã thay đổi nhiều quá: đường sá bẩn thỉu, rác rưởi, nhiều chỗ hư mà không sửa; ồn ào mà hỗn độn, tới cây cối cũng tiêu điều, nhiều cây bị đốn. Các tiệm buôn lớn đều đóng cửa hết, mà các gánh quà, sạp hàng thì đầy đường, chật một khu từ cầu Hoàng Diệu, cầu Duy Tân qua chợ, xuống tới bến bắc (phà), dài ba bốn trăm thước, rộng cả trăm thước. Không biết bao nhiêu tiểu thương ngồi lề đường, dưới nắng, mỗi người chiếm một khoảng một hai thước vuông để bày hàng. Nhà dài (tức mái chợ thời xưa rộng hai trăm thước vuông là khu bán vải, mỗi sạp chỉ nửa thước vuông mà chật ních, không len vào được. Bán toàn đồ lậu Thái Lan. Người đi chợ chen chúc nhau. Nóng quá, ngộp quá, tôi không rẽ vào chợ, vòng xuống Cái Sơn. Các cửa hàng mậu dịch vắng teo, các cô bán hàng ngồi không, vẻ ủ rũ, quạu quọ. Các biệt thự của giới điền chủ lớn ở Long Xuyên hồi hai chục năm trước, nay thì hoặc bị sung công, thành cơ quan chính phủ, hoặc cửa đóng then cài, tường nứt, mái rêu, vắng tanh không một bóng người, chủ nhân đã đi nơi khác hết, người thì lên Sài Gòn, người thì qua Pháp. Một vườn trồng cả chục giống hồng quí nay trồng khoai, trồng bắp, tôi bùi ngùi nhớ bài Thương Lương đình ký của Quy Hữu Quang.
Hồi tôi mới vô Nam, năm 1935, con đường Cái Sơn này còn thuộc về ngoại ô, ngồi xe đò từ Cần Thơ lên, còn thấy hai bên đường nhiều khu vườn rộng trồng xoài, mận, vú sữa, giữa vườn là một ngôi nhà sàn ba gian hai chái, với những ông già búi tóc, bận đồ đen, những thiếu phụ để tóc bánh lái (18) bận hàng Tân Châu. Ai nấy đều có vẻ ung dung, an cư lạc nghiệp. Nay thì suốt năm sáu trăm thước, san sát nhà nóc tôn, lớp trong lớp ngoài, xe cộ tấp nập, bộ hành chen chân nhau, không còn là con đường dạo mát bên bờ sông nữa.
Khỏi cầu Cái Sơn tôi thở nhẹ nhàng, nơi đây còn những mảnh vườn cũ. Một làn gió nhẹ thoảng qua, đem lại một thứ hương gì quen quen, ngọt ngọt. Tôi ngơ ngác nhìn hai bên đường: phải rồi, hương xoài đây, hương đặc biệt của miền Nam đây. Tôi bồi hồi nhớ lại 45 năm trước. Thời đó cảnh vật sao tươi mát thế: trên các đường làng đâu đâu cũng phảng phất hương mù u, hương xoài, hương cau, và trong xóm nào cũng có tiếng chim cu, tiếng cuốc, tu hú tuỳ mùa. Mươi năm nay hương đã hiếm mà ba loài chim đó đã đi đâu mất, ngay đến chim khách, diều hâu, quạ cũng ít thấy.
Tôi quay về cầu Hoàng Diệu bắc trên rạch Long Xuyên, đứng giữa cầu ngắm một hàng dừa tám gốc trên bờ rạch trong Quân y viện: thân dừa vươn lên nền trời xanh mây trắng, tàu dừa phe phẩy dưới gió, lấp lánh dưới ánh nắng, yểu điệu mà bóng bảy; phía mặt, bên kia đường lộ, dưới gốc cầu, là một bụi ba cây dương, sừng sững, hiên ngang trấn áp khu Bình Đức. Cả thành phố chỉ còn chỗ này là cảnh thiên nhiên. Hồi tôi mới tới, cầu còn bằng sắt, hẹp, xe chạy qua cầu rầm rầm. Chiếc ghe hầu của tôi thường đậu phía dưới kia.
Một giọng hò văng vẳng từ dĩ vãng xa xăm:
Hò ơ… Long Xuyên nước ngọt gió hiền,
Tàu xuôi Nam Hải ngược miền Nam Vang,
Thương hồ chiếc dọc chiếc ngang,
Tiếng rao lãnh lót nhịp nhàng chèo khua…
Mới ngày nào mà thoắt đã non nửa thế kỷ! Trên ba chục năm nay tôi không còn được nghe thứ tiếng xuất phát từ đáy lòng mà dân quê gởi vào lòng trời đất trong những đêm khuya thanh vắng trên cảnh sông nước mênh mông đó nữa. Hết rồi! Nếu còn thì chỉ còn trên những băng nhạc ít chục năm nữa là cùng. Hết rồi, hết ghe thương hồ, hết những cô em:
… Chèo vô núi Sập lựa con khô cá sặc cho thiệt ngon,
Lựa trái xoài cho thiệt giòn,
Đem ra Long Xuyên lựa gạo cho thiệt trắng, thiệt thơm,
Em về em dọn một bữa cơm
Để cho người quân tử
Hò ơ... để người quân tử ăn còn nhớ quê...
Cái gì cũng có lúc phải hết, nhưng khi truyền thống cũ đã tắt từ mấy chục năm nay mà chưa có gì để thay thế…
Tôi không muốn vòng ra công viên Nguyễn Du trên bờ sông Hậu, phía dưới Sở Bưu Điện nữa, nơi mà trước ngày Giải phóng tôi thường lại ngồi trên ghế đá, dưới hàng điệp đỏ để hưởng cảnh gió mát trên sông, nhìn ghe tàu qua lại trước mặt. Vì nơi đó hai ba năm nay đã bị phá để làm chỗ chất cát, đá, thùng dầu. Cây cối bị đốn hết. Ngay cái hồ nhân tạo phía sau công viên, cách công viên một con đường trồng dừa mà tôi gọi là đường Cổ ngư của Long Xuyên, nay cũng đầy lục bình, chiếc cầu gỗ bắc ngang qua đã gẫy nát, chỉ còn trơ hai hàng cột bê tông trơ trẽn ở giữ hồ.
Tôi bùi ngùi xuống cầu Hoàng Diệu, theo đường Gia Long cũ đi thẳng về nhà. Con đường này ngày xưa cách cả trăm thước mới có một nhà sàn, sau nhà toàn là lau sậy, chung quanh không trồng gì được vì đất thấp, mùa nước ngập trên một thước; dọc theo đường, bên trái có một con kinh với những chiếc cầu ván đưa vô nhà. Sau bữa cơm chiều, gia đình nào cũng ra ngồi ở cầu hóng mát. Ngày nay, con kinh đã lấp, hai bên đường nhà cửa san sát, lớp trong lớp ngoài, đất trồng chung quanh nhà đã được mỗi gia đình bồi đắp từng ky một, lập thành vườn tược sum suê, mà gần đây chính phủ tính đuổi hết dân, bắt họ dỡ nhà đi nơi khác để làm một khu riêng cho các cơ quan và cán bộ ở. Trước thế chiến, hầu hết nhà nào cũng là nhà sàn, ngày nay đã có những nhà lầu tối tân, và trong khoảng trăm thước gần đầu đường có tới bốn quán ăn, năm bảy bàn bi da (billard), bốn quán cà phê và cả chục sạp nhỏ bán thuốc điếu, không còn vẻ an tĩnh, mát mẻ nữa.
Đã tới giữa đường Gia Long, gần tới nhà rồi. Trên mặt đường đã thấy nhiều lá nính báo cho tôi rằng gió xuân đã nổi. Nính là một trong vài loại cây rất hiếm ở miền Nam, cứ đầu xuân thì thay lá một loạt như xứ lạnh. Trước nhà tôi có một cây không biết bao nhiêu tuổi, thân hai người ôm không giáp, cao non hai chục thước. Nó bắt đầu trút lá rồi đây, lá nó nhỏ như lá chanh, mùa này xanh đen. Suốt nửa tháng lá nó sẽ bay lả tả xuống sân tôi, ban đêm nghe lào xào, sáng dậy lá đã đầy sân; nhìn lên ngọn, cành nào lá già mới rụng là lá non đã nhú liền, lấp lánh dưới ánh vàng ban mai. Cứ mỗi ngày thay một vài cành, bắt đầu từ trên xuống, khi tới cành thấp nhất thì toàn cây xanh mướt khiến tôi nhớ lại cảnh xuân ngoài Bắc.
Trong nửa tháng đó ngày nào cũng có gia đình một nhà giáo, vợ chồng và hai ba đứa con nhỏ, sáng sáng lại quét và hốt lá, thồn (19) đầy một hai bao ny-lông chở về nhà để đỡ phải mua củi một tháng. Củi đắt quá mà số lá hốt được giá trị bằng một tháng lương 60đ lương của cô giáo. Sáng nào tôi cũng dậy sớm, ra coi họ quét lá khô mà nhớ lại hồi nhỏ, hai anh em tôi xách thúng cùng với bà ngoại ra đường Bờ Sông trước nhà nhặt lá bàng khô đem về đun bếp. Chốc mà đã 60 năm, bà ngoại tôi đã qui tiên đúng nửa thế kỷ, em trai tôi cũng đã mất trên ba chục năm rồi.
Thăm thành phố bấy nhiêu đã đủ. Từ nay ngày lại ngày nằm trên võng, dưới mái hiên, bên gốc mận đỏ mà nhìn mây và đọc sách; tối tối bách bộ trên lối đi lát gạch bát tràng để hưởng hương lan và đón gió.
Trích trong bộ Hồi ký viết xong tháng 9-1980
N.H.L
Đọc lại vừa sửa chữa xong tháng 8-1981.
Đọc lại và sửa thêm 1983.
Chú thích:
(1)
|
Đã xuất bản năm 1990 tại Nxb Long An với trên là Chúng tôi tập viết tiếng Việt. (BT)
|
(2)
|
Đã xuất bản năm 1993 tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(3)
|
Đã xuất bản năm 1991 tại Nxb Long An. (BT)
|
(4)
|
Đã xuất bản năm 1990 tại Nxb Hội Nhà Văn. (BT)
|
(5)
|
Đã xuất bản năm 1990, tại Nxb ĐHSP TP.HCM. (BT)
|
(6)
|
Đã xuất bản năm 1992, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(7)
|
Đã xuất bản năm 1993, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(8)
|
Đã xuất bản năm 1993, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(9)
|
Đã xuất bản năm 1994, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(10)
|
Đã xuất bản năm 1993, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(11)
|
Coi thêm cuốn Travailler deux heures par jour - Adret - Seuil - 1978.
|
(12)
|
Đã xuất bản (tái bản lần thứ 9 năm 1992, tại Nxb Văn hóa - Thông tin. (BT)
|
(13)
|
Đã tái bản lần thứ ba năm 1992, tại Nxb Văn học. (BT)
|
(14)
|
Thực ra Mặc Tử với chính sách thượng đồng (người dưới phải triệt để theo người trên), tiết dục, phi nhạc, can thiệp khá nhiều vào đời sống của dân, nhưng đạo của ông vẫn gần Khổng hơn gần phái Pháp gia, nên tôi sắp chung với Khổng.
|
(15)
|
Cũng gọi là nhân trị, coi trọng tư cách nhà cầm quyền hơn chính thể, pháp chế.
|
(16)
|
Đúng như chương 38 Đạo đức kinh đã nói: "… nhân mất rồi sau mới tới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ…". Đề cao lễ là chủ trương của Tuân Tử. Vậy thì Đạo đức kinh có thể viết sau khi học thuyết của Tuân ra đời, nghĩa là vào thế kỷ thứ III trước Tây lịch như một học giả đã ngờ chăng?
|
(17)
|
Các tác phẩm trên đã được xuất bản (BT)
|
(18)
|
Phụ nữ bới tóc ở sau đầu rồi, lấy vài lọn tóc quấn thành 3-5 vòng nhỏ ở bên búi tóc. Kiểu tóc này đã mất cũng như kiểu để đuôi gà ở Bắc. Hàng Tân Châu tức lụa Tân Châu, vì Tân Châu chuyên sản xuất hàng hóa đó, nhờ trồng dâu, có trại nuôi tầm và có nhiều cây mặc nưa mà trái dùng để nhuộm rất tốt.
|
(19)
|
Thồn: ấn, nhét.
|
PHỤ LỤC
I. TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN
Cuối cuốn Mười câu chuyện văn chương đã có một bảng liệt kê với nhiều chi tiết, ở đây tôi chỉ chép lại nhan sách và năm xuất bản.
Văn học
Hương sắc trong vườn văn (2 cuốn - 1962
Luyện văn I (1953), II và III (1957)
Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 cuốn - 1955
Cổ văn Trung Quốc - 1966
Văn học Trung Quốc hiện đại (2 cuốn -1969
Chiến Quốc sách (chung với Giản Chi - 1968
Sử ký Tư Mã Thiên (nt - 1970
Tô Đông Pha - 1970
Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch Lâm Ngữ Đường - 1970
Ngữ pháp
Để hiểu văn phạm - 1952
Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (chung với với Trương Văn Chình - 1963
Triết học
Nho giáo một triết lý chính trị - 1958
Đại cương triết học Trung Quốc (chung với Giản Chi - 1965
Nhà giáo họ Khổng - 1972
Liệt Tử và Dương Tử - 1972
Một lương tâm nổi loạn - 1970
Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại (B. Russell - 1971
Mạnh Tử - 1975
Lịch sử
Lịch sử thế giới (chung với Thiên Giang (4 cuốn - 1955
Đông Kinh nghĩa thục - 1956
Bài học Israël - 1968
Bán đảo Ả Rập - 1969
Lịch sử văn minh Ấn Độ (W. Durant - 1971
Bài học của lịch sử (nt - 1972
Nguồn gốc văn minh (nt - 1974
Văn minh Ả Rập (nt - 1975
Chính trị - Kinh tế
Một niềm tin - 1965
Xung đột trong đời sống quốc tế (Encyclopédie Larouse - 1962
Hiệu năng - 1954
Tay trắng làm nên (L. Beaverorook - 1967
Tổ chức công việc theo khoa học - 1949
Tổ chức công việc làm ăn - 1967
Lợi mỗi ngày một giờ (Ray Josephs - 1971
Những vấn đề của thời đại - 1974
Gương danh nhân
Gương danh nhân - 1959
Gương hy sinh - 1962
Gương kiên nhẫn - 1964
Gương chiến đấu - 1966
Ý chí sắt đá - 1971
40 gương thành công (Dale Carnegie - 1968
Những cuộc đời ngoại hạng - 1969
15 gương phụ nữ (M. Monestier - 1970
Einstein - 1971
Bertrand Russell - 1972
Cảo luận - Tùy bút - Du ký
Nghề viết văn - 1956
Vấn đề xây dựng văn hóa - 1967
Chinh phục hạnh phúc (B. Russell - 1971
Sống đẹp (Lâm Ngữ Đường - 1964
Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi (A. Maurois - 1968
Chấp nhận cuộc đời (L. Rinser - 1971
Làm con nên nhớ (chung với Đông Hồ - 1970
Hoa đào năm trước - 1970
Con đường hòa bình - 1971
Cháu bà nội, tội bà ngoại - 1974
Ý cao tình đẹp (do nhiều tác giả - 1972
Thư gởi người đàn bà không quen (A. Maurois - 1970
Mười câu chuyện văn chương - 1975
Giáo dục - Giáo khoa
Thế hệ ngày mai - 1953
Thời mới dạy con theo lối mới - 1958
Tìm hiểu con chúng ta - 1966
Săn sóc sự học của con em - 1954
Tự học để thành công - 1954
33 câu chuyện với các bà mẹ (B. Spock - 1971
Thế giới bí mật của trẻ em (G. Decarie - 1972
Lời khuyên thanh niên (P. Noel - 1967
Kim chỉ nam của học sinh - 1951
Bí quyết thi đậu - 1956
Muốn giỏi toán hình học phẳng (J. Chauvel - 1956
Muốn giỏi toán hình học không gian (nt - 1959
Muốn giỏi toán đại số - 1958
Tự luyện đức trí
Tương lai trong tay ta - 1962
Luyện lý trí - 1965
Rèn nghị lực - 1956
Sống 365 ngày một năm - 1968
Nghệ thuật nói trước công chúng - 1953
Sống 24 giờ một ngày (A. Bennette - 1955
Luyện tình cảm (P.F. Thomas - 1951
Luyện tinh thần (Dorothy Carnegie - 1957
Đắc nhân tâm (Dale Carnegie (chung với P. Hiếu)
Quẳng gánh lo đi (nt - 1955
Giúp chồng thành công (Dorothy Carnegie 1956
Bảy bước đến thành công (G. Byron - 1952
Cách xử thế của người nay (K. C. Ingram - 1965
Xây dựng hạnh phúc (L. A. Huxley - 1966
Sống đời sống mới (D. G. Powers - 1965
Thẳng tiến trên đường đời (D. Lurton - 1967
Trút nỗi sợ đi (L. Coleman - 1969
Con đường lập thân (W. J. Ennever - 1969
Sống theo sở thích (P. S. Steinckrohn - 1971
Giữ tình yêu của chồng (Ed. Kaufmann - 1971
Tổ chức gia đình - 1953
Tiểu thuyết dịch
Kiếp người (S. Maugham - 1962
Mưa (nhiều tác giả) - 1969
Chiến tranh và hòa bình (Léon Tolstoi (4 cuốn - 1968
Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu (A. Paton 1969
Quê hương tan rã (Chinua Acheba - 1970
Chiếc cầu trên sông Drina (Ivo Andritch - 1972
Bí mật dầu lửa (R. Gaillard - 1968
Du ký
Đế Thiên Đế Thích - 1968
Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười - 1954
II. TÁC PHẨM CHƯA XUẤT BẢN
1. Trang Tử (gồm 3 tập
2. Hàn Phi
3. Tuân Tử
4. Mặc học (gồm 2 tập)
5. Lão Tử (gồm 2 tập)
6. Luận ngữ (1 tập)
7. Khổng Tử (1 tập)
8. Kinh Dịch (2 tập)
9. Văn minh Trung Quốc (2 tập)
10. Tôi tập viết tiếng Việt
11. Đời nghệ sĩ
12. Con đường thiên lý
13. Mùa hè vắng bóng chim (2 tập)
14. Những quần đảo thần tiên
15. Gogol
16. Tourguéniev
17. Tchékhov
18. Để tôi đọc lại
19. 18 câu chuyện thời sự
20. Hồi ký (6 quyển)
21. và cuốn này: Đời viết văn của tôi.
III. BÀI BÁO
Trong tập Mục lục các bài báo, viết làm ba bản (kèm vào 3 toàn tập các tác phẩm chưa xuất bản), tôi đã liệt kê với đầy đủ chi tiết, ở đây chỉ ghi nhan bài, tên báo, năm và số báo.
A. Tạp chí Bách Khoa (bán nguyệt san)
1957
Số 4 Quan niệm sáng tác của Edgar Poe
Số 7 Vấn đề dịch văn
Số 11 Tính cách chính trị của Nho giáo
Số 21 Đại tướng Montgomery
Số 5, 6 Tiếng Việt ngày nay
Số 8 Phép dịch thơ
Số 15, 16 Heinrich Schliemann
Số 23 Cái thần trong văn
1958
Số 40 Chính sách chính trị của Nho giáo
Số 32, 33 Thomas Elva Edison
Số 39 Xã hội theo Nho giáo
Số 36 Dịch sách cổ của ta
Số 42 Quản Trọng
Số 48 Léon Tolstoi
Số 47 Kỷ luật phải xây dựng trên những quy tắc nào?
Số 25, 26, 27 Văn thể hùng vĩ
Số 43 Dịch sách Nho học (một tin mừng)
Số 45, 46 Vương Dương Linh
Số 44 Tỵ hiềm
1959
Số 64 Luật phát triển trôn ốc của trẻ
Số 55, 56 Phê Bình "Vài nhận xét về văn phạm" của P.J. Honey
Số 50 Tết đi thăm cụ Võ Hoành
Số 54 Cái chết của Socrate
Số 66 Điểm sách "Triết lý văn hóa khái luận" của Nguyên Đăng Thục
Số 71, 72 Điểm sách "Đường thi trích dịch" của Đỗ Bằng Đoàn và Bùi Khánh Đản.
Số 69 Con vịt (tùy bút)
Số 65, 66 Óc thẩm mỹ và cái đẹp
Số 69 Phê bình "Le Parler Vietnammien" của Lê Văn Lý
Số 49 Con đường giao thông giữa Đông Tây
Số 56 Văn "ba lan"
Số 61 Điểm sách "Tân Liêu Trai" của Phong Ngạn (Bình Nguyên Lộc)
Số 69 Ý kiến về truyện ngắn Việt và ngoại quốc
Số 60, 61 Ông bà Curie
1960
Số 73, 74 Dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ
Số 77 "Đính chính sử liệu Việt Nam" của Tưởng Quân Chương
Số 84, 85 "Văn học Việt Nam" của Phạm Văn Diêu
Số 85 Norbert Wiener
Số 95, 96 Florence Nightingale
Số 79 "Người báo hiệu" của Ch. Dickens
Số 79, 80 "Việt ngữ chánh tả" của Lê Ngọc Trụ
Số 75 Một chương trình dịch sách ngoại quốc
Số 76, 77 Champollion
Số 82, 83 Dostoievski
Số 86, 87 Mustapha Kemal
Số 73 Tình hình xuất bản 1959
Số 92, 93 "Mưa" của S. Maugham
1961
Số 99 Tiếng Việt làm chuyển ngữ ở Đại học
Số 105 Một gương tiết kiệm
Số 98, 99 Kỹ thuật chân chính
Số 107, 109, 110, 111 Ibn Séoud
Số 113, 114 Vài ý nghĩ về cú pháp
Số 108 Tiếng Việt làm chuyển ngữ ở Đại học
Số 97 Tình hình xuất bản năm 1960
Số 100, 104 So sánh ngành xuất bản Pháp và Việt Nam hiện nay
Số 115, 116 Đuổi bắt ảo ảnh
1962
Số 125, 127 Hạng trẻ anh tuấn
Số 121 Bi kịch 1000 năm chưa dứt (Do Thái)
Số 123 Vụ Exodus
Số 124 Quốc gia Israël
Số 135 Isaac Newton
Số 142 Thống nhất nhan đề các áng văn thơ cổ
Số 144 "Người chỉ huy" của J. Steinbeck
Số 128, 132 Cải tổ nền giáo dục Việt Nam
Số 122 Từ vụ Dreyfus tới L'État juif
Số 126 Tiến sĩ Hồ Thích
Số 138 I. P. Semmelweiss
Số 137 "Việt Nam ca trù biên khảo" của Đỗ Bằng Đoàn
1963
Số 142, 146 G. Abel Nasser và kinh Suez
Số 149 Nasser và vụ kinh Suez
Số 147 Vấn đề sinh tử của Ai cập: Nước
Số 148 Những hiệp ước về kinh Suez
1964
Số 169, 171 Th. Edward Lawrence
Số 174 Mối tình giữa Phan Bội Châu và Hồ Thích
Số 187 Cần nâng cao tri thức đại chúng
Số 170 Lại sắp đến mùa thi
Số 185, 186 Helen Keller
Số 183, 184 Góp ý về chính sách cách mạng của bộ Giáo dục
1965
Số 193, 194 Alexander Fleming
Số 198 Mặc Tử, Dương Tử, Lão Tử
Số 199 Mạnh Tử, Trang Tử
Số 202, 203 Pháp trị
Số 206 Vấn đề đánh trẻ
Số 207 Làm con nên nhớ
Số 196, 197 Triết học Trung Hoa thời Tiên Tần
Số 200 Biệt Mặc và Danh gia
Số 204 Pháp trị
Số 209 Thân phận con người trong Truyện Kiều
Số cuối (215 năm này có bài Ngu Í viết về tôi. Sau in trong cuốn Sống và Viết -1966
1966
Số 226 Nhà cầm quyền và dư luận
Số 220, 222 Một cách mạng trong giáo dục ở Pháp
Số 230 Cuốn "Một nền giáo dục nhân bản"
Số 218, 219 Somerset Maugham
Số 225 Ý kiến về chính sách bỏ thi
Số 234, 235 Jules Verne
Số 237 Cuốn "Vài ý nghĩ của giáo Mưu"
Số 230 Cụ Dương Quảng Hàm
1967
Số 243, 244 Walt Disney
Số 249 Loại địa phương chí
Số 252 Chuyển bất lợi thành thắng lợi
Số 253, 254 Ben Gourion
Số 256 - 264 Dịch "Thư ngỏ gửi một thanh niên" của A. Maurois (9 số)
Số 257 Một nền giáo dục phục vụ
Số 246 - 248 Ông bà La Fayette
Số 241- 243 Mười năm cầm bút và xuất bản
Số 260, 261 André Maurois
Số 262 Bọn trí thức chúng ta làm được gì...?
Số 254 Cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh
1968
Số 267, 268 Thanh niên Pháp đáp "Những thư ngỏ..." của André Maurois
Số 269, 270 Văn học Trung Quốc hiện tại
Số 272, 273 Lỗ Tấn
Số 277 - 279 Kinh tế Israël - Kibboutz
Số 284 - 286 Thảm trạng Irak
Số 281 Dịch văn ngoại quốc
Số 282 Sự thuần khiết trong ngôn ngữ
Số 265, 266 Văn học Đài Loan (1949-1958)
Số 267, 268 Truyện "Toàn phong" của Khương Quý (Đài Loan)
Số 275 Lão Xá
Số 283 Bán đảo Ả Rập sau thế chiến II
Số 257 Thảm trạng chiến tranh Dầu lửa
Số 288 "Chiến tranh và Hòa Bình" của Tolstoi
Số 289 - 291 Bốn lối kết trong tiểu thuyết
Số 298 Ba Kim
Số 310 - 312 Honoré de Balzac
Số 294 Khóc bác Đông Hồ
Số 297 Mao Thuẫn
Số 306 Vấn đề kiểm duyệt
1970
Số 317 Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên
Số 324 Đặc tính thơ Trung Hoa (dịch Lâm Ngữ Đường)
Số 328, 329 Einstein
Số 325 Thơ Trung Hoa (dịch Lâm Ngữ Đường)
Số 336 "Lịch sử văn minh" của Will Durant
Số 313, 314 Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Số 331, 332 "Châu Á và hòa bình thế giới" của Tr. Minh Triết
Số 334 "Việt Nam tự điển" của Lê Văn Đức
Số 335 Phỏng vấn Han Suyin (dịch)
1971
Số 346 Bertrand Russell
Số 340, 341 Đất Hà Tiên với họ Mạc và họ Lâm
Số 337 - 339 Hôn nhân và nghề cầm viết
Số 339 Tình hình xuất bản 1970
1972
Số 364 - 366 Nguy cơ xuất não
Số 377 - 379 Nhà giáo họ Khổng
Số 383 Lịch sử và chiến tranh (Will Durant)
Số 361 Suy tư về phong trào Về nguồn
Số 380 Lịch sử và kinh tế (W. Durant)
1973
Số 385, 386 Kỷ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn
Số 392 Nhớ Hư Chu
Số 398, 399 Nhân số và nạn đói
1974
Số 402 - 405 Năm 2000
Số 414 "Mảnh vụn văn học sử" của Bằng Giang
Số 412 Mạnh Tử
Số 415 Tai họa Minamata
(Chưa kiếm ra bài về bệnh glaucome của Quách Tấn và bài điểm "Thơ Tố Như" của Quách Tấn)
1975
Số 421- 424 Báo cáo Số 1 và Số 2 của nhóm La Mã (4 số)
(Chưa kiếm ra bài tôi điểm số Sử địa đặc biệt về Hoàng Sa)
(Số cuối 426 ngày 20.4.75 có 3 bài viết về tôi của BS. Đỗ Hồng Ngọc, Võ Phiến, Tòa soạn Bách Khoa).
Tôi còn giữ trọn một bộ Bách Khoa 426 số.
B. Tạp chí Mai (bán nguyệt san)
1960
Số 1 Đừng phàn nàn suông, phải đòi hỏi
Số 5 Đánh mắng con
Số 8 Giáo dục sinh lý
Số 10 Thiếu nhi thông minh
Số 2 Thuật đòi hỏi
Số 3 Đòi hỏi các tư thục những gì?
Số 7 Chuyển ngữ ở Đại học - Quốc văn ba lối
1961
Số 14-19 Hai kỳ thi Trung học đệ nhất cấp vừa qua (5 số)
Số 28, 29 Hồ sơ thanh niên
Số 33, 34 Hôn nhân
Số 35, 36 Tứ đức ở thời nay
Số 20 Phê bình "Nàng Ái cơ trong chậu úp" của Mộng Tuyết và "Sài gòn năm xưa" của Vương Hồng Sển.
1962
Số 37 - 39 Nghỉ ngơi và tiêu tiền
Số 40, 41 Vấn đề thanh niên
(Tôi còn giữ trọn "bộ cũ" của Mai từ số đầu đến số 48)
Sau đó Mai đổi ra "bộ mới" khổ nhỏ.
C. Tin Văn (Tuần báo)
1965 (bộ cũ)
Số 10 Văn chương và dân tộc tính
1966 (bộ cũ)
Số 4 Làm sao cho học sinh bớt dốt Việt văn
Số 7 Đả phá dễ hay xây dựng dễ?
1967 (bộ mới)
Số 1, 2 Tiếp thu văn hóa Tây phương
Số 9 -11 Phát huy văn hóa truyền thống
Số 20 Một phóng sự khá sống động
(Tôi chỉ giữ được bộ mới gồm 20 Số đóng thành tập từ 24.3 đến 4.8.67).
D. Văn và Tân Văn
Văn
1967
Số 4 Để giải thích truyện Kiều
1970
Số 150 Thi sĩ Quách Tấn và "Xứ Trầm Hương"
Tân Văn
1968
Số 1 "Nước non Bình Định" của Quách Tấn
Số 2 Chiến Quốc sách: giá trị về văn học
1969
Số 11 "Đại lễ và vũ khúc của vua chúa Việt Nam" của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề
Số 16 Tình hình xuất bản sau biến cố Mậu Thân
Bài "Tôi dịch Chiến tranh và Hòa bình" của Tolstoi không kiếm ra trong số nào.
Bài "Tiếng ĐÂU trong truyện Kiều" cũng vậy, nhưng đã in trong 10 câu chuyện văn chương.
Đ. Giáo dục phổ thông
1958
Số 29 Chính sách xã hội của Nho giáo
Số 31, 32 Hương và Sắc
Số 39, 40 Voltaire: ông vua không ngôi
Số 46 Hai bài văn và hai bài thơ
Số 36 Ba luật căn bản về sự phát triển của trẻ
Số 44 Chung cục (dịch John Calsworthy (Hồ Thích, Phạm Thận, Longfellow, Elma Calvé)
1960
Số 53, 54 Phương pháp trắc nghiệm trẻ em
E. Giữ thơm quê mẹ
1965
Số 7 Bút pháp và cá tính
G. Đại Học (tập san nghiên cứu của Đại học Huế)
1961
Số 6 Một phương pháp nghiên cứu ngữ pháp Việt Nam
1962
Số 1 Ngữ pháp là gì?
H. Các báo khác (mà đa số tôi không còn giữ)
+ Tân Việt Nam, tuần báo (? ra năm 1945 sau khi Nhật lật Pháp. Chủ bút là Giáo sư Nguyễn Văn Nho. Tôi góp 5, 6 bài tiểu luận, tùy bút tới khi báo đình bản.
+ Việt Thanh (nhật báo), tôi có ít bài về văn học trên phụ trương văn chương năm 1953 (?)
+ Tạp chí Giáo dục Việt Nam. Tôi góp ít bài về giáo dục năm 1952, 1953 (?)
+ Tuần báo Mới của Phạm Văn Tươi (Lê Văn Siêu chủ bút), 1953, 1954 (? đăng vài bài của tôi về tổ chức công việc, ngôn ngữ...
+ Nguyệt san Bông lúa. Bàng Bá Lân chủ bút. Năm 1955, 1956, tôi góp non mươi bài văn dịch một số tác giả Anh; đặc biệt là bản dịch kịch ba hồi Công ty lạc sinh của một người Pháp (trong số 14),sau đó báo đình bản.
+ Văn hóa nguyệt san của Nha Văn Hóa đăng của tôi một hai bài về giáo dục không nhớ năm nào.
+ Tin Sách, một tờ thông tin về sách (năm 1960, 1961... của hội Bút Việt, có vài bài tôi tổng kết tình hình xuất bản mỗi năm.
+ Phổ Thông của Nguyễn Vỹ (không nhớ năm nào cũng đăng của tôi vài bài tạp bút.
+ Tạp chí Khởi hành phỏng vấn tôi số Tết 1961.
+ Tạp chí Thời tập phỏng vấn tôi tháng 10/73.
+ Phù Đỗng thiên vương (báo cho thanh niên chỉ ra một số (30.l.75), có bài "Vài lời ngỏ cùng bạn trẻ" của tôi (Số này tôi còn giữ).
TỔNG CỘNG
Trong 426 số Bách Khoa từ đầu đến cuối, có 242 bài của tôi gồm 159 nhan đề. Ngoài ra còn khoảng 50 bài trên Mai, Tin Văn, Văn, Giáo dục phổ thông, Giữ thơm quê mẹ, Đại học, và khoảng 30 bài đăng trên các báo khác.
Độ hai phần ba những bài đó đã in rải rác trong các tác phẩm của tôi như: Mấy vấn đề xây dựng văn hóa, 10 câu chuyện văn chương, Tương lai ở trong tay ta, Gương danh nhân, Bài học Israël, Bán đảo Ả Rập…
IV. TỰA CHO TÁC PHẨM CỦA BẠN
1. Thơ Bàng Bá Lân - 1957
2. Thuyền thơ của Đông Xuyên - 1958
3. Sách dạy toán của Cung Duy Độ
4. Tự do cá nhân của Trần Thúc Linh
5. Áo đỏ áo đen (kịch dịch)
6. Khảo luận tiểu thuyết Trung Hoa của Nguyễn Huy Khánh -1959
7. Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu -1965
8. Non nước Phú Yên của Nguyễn Đình Tư
9. Quê hương của Nguyễn Hữu Ngư (Ngu Í)
10. Úc Viên thi thoại của Đông Hồ
11. Rèn nhân cách của Hoàng Xuân Việt
12. Cầm ca cổ Việt Nam của Toan Ánh
13. Giữ gìn sức khỏe của Bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm
14. Nghề làm cha mẹ (nt)
15. Câu chuyện thầy trò của Huỳnh Phan
16. Trần Quý Cáp của Lam Giang
17. Dịch thơ Hán Việt (I của Đông Xuyên 1972
18. Dịch thơ Hán Việt (II của Đông Xuyên (chưa in)
19. Thơ mùa loạn của Phạm Phú Hoài Mai (chưa in)
20. Bệnh thông thường của học trò BS. Đỗ Hồng Ngọc
21. Đời Nguyễn Hữu Ngư của Châu Hải Kỳ (chưa in)
22. Quê hương đất nước của Võ Phiến 1973
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét