PHẦN V - CHUYỆN LÀM VĂN HÓA (1954-75) CHƯƠNG XXV - NHỜ ĐÂU
TÔI VIẾT ĐƯỢC NHIỀU?
TÔI GẶP HOÀN CẢNH THUẬN TIỆN VÀ ĐƯỢC THỜI CUỘC THÚC ĐẨY
Năm 1953, thi sĩ Đông Hồ bảo tôi lên Sài Gòn sẽ không viết được
nhiều như ở Long Xuyên và chẳng bao lâu sẽ cạn hứng. Lúc đó tôi không tin rằng
sẽ cạn hứng nhưng cũng chỉ mong viết được vài ba chục cuốn nữa thì thôi; không
ngờ luôn hai chục năm tôi còn viết mạnh hơn hồi ở Long Xuyên, chẳng những viết
sách mà còn viết báo, khiến cho một bạn văn phải ngạc nhiên tại sao tôi ốm yếu,
bệnh tật liên miên: loét bao tử, trĩ, viêm khí quản, mất ngủ, lao phổi mà viết
được nhiều hơn cả Trương Vĩnh Ký nữa, vị học giả mà ai cũng biết trứ tác phong
phú nhất trong một thế kỉ nay. Có người bảo tôi là cái "máy viết", thậm
chí một thanh niên ở Trung Việt còn ngờ tôi đã mướn người viết, tôi chỉ coi lại
và kí tên!
Tôi không "mướn người viết", cũng chẳng mướn người
giúp tôi trong công việc xuất bản, bán sách, sửa ấn cảo; chẳng nhờ vợ con giúp
tôi trả lời thư từ độc giả, giữ sổ sách, sắp đặt tủ sách; mà lại còn sửa giùm bảo
thảo cho vài người thân, đọc rồi đề tựa cho khoảng vài chục tác phẩm của các bạn
văn nữa.
Sở dĩ được vậy một phần là vì tôi biết tổ chức công việc và
tiết kiệm thì giờ, làm việc mau; một phần nữa là nhờ tôi được nhiều thuận tiện
hơn đa số các nhà văn khác. Gánh gia đình tôi rất nhẹ; tôi chỉ có một đứa con,
năm 1957 qua Pháp học và mỗi tháng tôi chỉ phải gởi cho nó một số tiền; hai người
vợ của tôi đều dạy học và trông nom việc nhà được; tôi không phải bận bịu gì về
gia đình cả. Họ đều biết chiều chồng, dạy con cháu, thương người; các cháu -
con cô em út tôi - rất quí mến hai bác gái chúng.
Tôi được trời phú cho tính giản dị, rất ít nhu cầu, mà cũng
không có một đam mê gì ngoài sách vở.
Tôi lại may có một số độc giả "trung thành" khá
đông, cho nên tác phẩm nào của tôi cũng không sợ ế, có một số cuốn khó đọc,
"kén độc giả" như Đại cương triết học Trung Quốc, Cổ văn Trung Quốc,
Một niềm tin thì bù lại có rất nhiều cuốn bán rất chạy; mà những cuốn kén độc
giả đó, các nhà xuất bản ngại không muốn mua thì tôi có đủ vốn để xuất bản lấy
(luôn thu lại đủ vốn in trong vài năm), hoặc để hùn với một nhà xuất bản nào đó
như Cảo Thơm: họ bỏ công, tôi góp một phần vốn và rốt cuộc không ai lỗ mà còn
được lợi ít nhiều về mặt này hay mặt khác. Có một số độc giả tin mình, cuốn nào
in ra cũng tiêu thụ được, đó là điều kiện quan trọng nhất để viết được nhiều.
Sau cùng, thời cuộc nước nhà bắt buộc tôi phải viết, không
nghỉ được. Đầu năm 1971, thi sĩ Bàng Bá Lân có lần hỏi tôi đã tính nghỉ viết
chưa, tôi đáp trong một bức thư:
"Mấy năm nay, tôi thấy sức suy, cứ mùa mưa thì cứ ba
ngày đau mất một ngày, mùa lạnh cũng không chịu nổi. Anh dư biết nghề viết văn
mệt hơn nghề công, tư chức nhiều lắm, óc thì không lúc nào nghỉ được, công việc
cứ ám ảnh mình hoài, tới khi hoàn thành tác phẩm mới thôi. Mà chưa xong tác phẩm
này đã chuẩn bị cho tác phẩm khác rồi.
"Viết đều đều trên hai chục năm rồi, tôi muốn nghỉ lắm
chứ, nhưng còn chiến tranh thì không thể nghỉ được Có gì đâu mà anh ngạc nhiên?
Còn chiến tranh thì làm sao vui được? Chẳng những việc nước không yên mà việc
nhà của chúng ta cũng không yên, không thể quyết định một chút gì trong tương
lai cả, ngay đến đời sống của mình cũng không có gì bảo đảm. Sở dĩ tôi phải cặm
cụi viết một phần lớn là để tạm quên những ưu tư đó đi.
Khi quân Nhật đánh Lạng Sơn, nước mình bắt đầu chịu cái hoạ
chiến tranh, con tôi mới được hai tuổi; nay con đầu lòng của nó đã năm tuổi; ba
chục năm rồi, hơn một thế hệ rồi mà chiến tranh vẫn còn, mỗi ngày mỗi thêm ác
liệt. Năm nào đêm giao thừa tôi cũng hi vọng qua năm sau tình hình sẽ sáng sủa
hơn, mà năm nào tôi cũng thất vọng. Chỉ khi nào hoà bình vãn hồi rồi, tôi mới
có thể nghỉ được. Mà bao giờ mới vãn hồi?".
Ai cũng biết câu: "Tái ông thất mã, an tri phi
phúc?" của Trung Hoa và câu "À quelque chose malheur est bon" của
Pháp. Chiến tranh Việt-Pháp, Việt-Mĩ là cái hoạ lớn cho dân tộc ta, là một nỗi
lo buồn, đau khổ cho mọi người, nhưng tôi lại nhờ nó mà viết được nhiều. Vì nếu
không có nó thì mỗi năm tôi cũng đi thăm các thắng cảnh trong nước một hai
tháng, tiếp xúc với nhiều bạn văn, về quê ở Phương Khê sống lại một thời gian
tuổi thiếu niên, và chắc tôi sẽ viết ít hơn, chứ tội tình gì mà giam mình trong
phòng viết liên tiếp hơn hai chục năm như vậy?
Trong thư cho Bàng Bá Lân, tôi bảo khi hoà bình vãn hồi, tôi
mới có thể nghỉ viết được. Bốn năm sau, hoà bình được vãn hồi, và tôi nghỉ viết
gần một năm; nhưng rồi biết bao nhiêu điều khiến tôi phải suy nghĩ, lại phải viết
nữa cho qua ngày, cho quên những chuyện xảy ra ở chung quanh. Hôm nay tôi lại tự
hỏi như năm 1971: bao giờ mới thôi viết đây?
° °
°
LÀM VIỆC ĐỀU ĐỀU, BỀN BỈ CÓ HƯỚNG RÕ RỆT TẬP TRUNG NĂNG LỰC
Tự biết có nhiều thuận tiện như trên, tôi tận dụng những thuận
tiện đó. Độc giả còn tin mình, thì mình viết được bao nhiêu cứ viết, càng nhiều
càng tốt, miễn là cuốn nào cũng phải có ích không cho giới này, tuổi này thì
cho giới khác, tuổi khác.
Nhà văn Pháp Jules Renard bảo: "Bậc thiên tài là những
người cặm cụi làm việc 18 giờ một ngày". Ý ông muốn nói: "Cứ cặm cụi
làm việc thật nhiều thì sẽ thành thiên tài". Lời của ông cũng giống như lời
một nhà kinh doanh Mĩ: "Muốn thành công thì cần 5% hứng và 95% toát mồ
hôi" (5% d’inspiration et 95% de transpiration). Rất ít người có thể làm
việc 18 giờ một ngày năm này qua năm khác được. Chỉ cần làm việc đều đều mỗi
ngày tám giờ thôi cũng đủ, nhưng phải liên tiếp trong vài ba chục năm.
Điều quan trọng là phải có một hướng rõ rệt, một mục đích để
nhắm và phải tập trung tất cả năng lực, thì giờ vào công trình của mình. Trong
thế chiến thứ nhì, xăng, dầu lửa, đá lửa đều thiếu, bác Ba tôi ở Tân Thạnh nhồi
bông gòn vào một ống tre, đưa ra chỗ có nắng, lấy một kính hiển vi (loupe) tập
trung ánh sáng vào một điểm trên bông gòn, chỉ trong mười giây, bông cháy, bốc
khói lên, châm thuốc hút được, lại có thể mồi lửa vào một mảnh giấy.
Biết tập trung năng lực và thời giờ của mình thì kết quả có
thể gấp hai gấp ba; vì vậy trong hai mươi hai năm liên tiếp; từ khi mở nhà xuất
bản, tôi bỏ hết các hoạt động khác để chuyên tâm viết.
Nhiều trường Đại học mời tôi dạy Ngữ Pháp Việt Nam, Triết học
hoặc Văn học Trung Quốc, tôi đều từ chối. Một lần, thi sĩ Đông Hồ lúc đó đương
dạy Đại học Văn khoa Sài Gòn, sáng sớm từ Quỳnh Lâm thư thất trong Gia Định ra
chơi tôi ở đường Kì Đồng, bảo tôi:
- Tôi nghe nói người ta mời bác dạy Văn khoa. Tôi vội vã ra để
cản bác. Đừng nhận lời. Mất thì giờ lắm. Tôi có thể dạy được, bác thì không
nên. Thì giờ của bác quí hơn thì giờ của tôi nhiều.
Tôi đáp:
- Bác thật là tri kỉ của tôi. Vâng. Người ta có mời nhưng tôi
đã từ chối rồi.
Thấy mấy lần mời mà tôi đều từ chối hết, có người cho tôi là
làm cao. Không phải vậy. Tôi thấy dùng thì giờ vào việc viết có lợi cho thanh
niên hơn là dùng vào việc dạy học.
Một vị phó viện trưởng một Đại học tư nọ ở gần nhà tôi hai lần
nhờ người lại nhờ tôi dạy, bảo nếu tôi nhận lời thì đích thân ông ta sẽ lại tiếp
xúc với tôi, tôi cũng từ chối; ông ta phật ý phê bình tôi ra sao đó, người ta kể
lại cho tôi nghe, tôi gật đầu, mỉm cười.
Chính phủ Ngô Đình Diệm và chính phủ Nguyễn Văn Thiệu ba lần
mời tôi làm giám khảo trong một cuộc thi văn chương toàn quốc, tôi từ chối hết.
Một lần tôi hơi ân hận khi người đến mời tôi, một học giả lớn tuổi hơn tôi, khá
có tiếng tăm, rầu rầu nét mặt, bảo tôi: "Ông không nhận lời cho là một điều
buồn cho uỷ ban tổ chức giải thưởng, mà cũng là một điều buồn cho chính tôi nữa".
Tôi đành làm mất lòng anh bạn đó để giữ vững nguyên tắc của
tôi: không phí thì giờ vào các công việc khác. Làm giám khảo giải thưởng văn
chương ít nhất phải đi hội họp bốn năm lần; phải đọc vài chục bản thảo, cũng mất
một tháng, thời giờ để tôi viết được ba bốn chương sách.
Chính phủ Thiệu còn mời tôi vào Uỷ ban dịch thuật, Uỷ ban điển
chế văn tự của Bộ Văn Hoá, sau lại mời tôi vào Hội đồng Giáo dục toàn quốc, vài
bạn thúc tôi nhận lời, tôi cũng từ chối: hội đồng đó chỉ có tính cách tư vấn,
không có quyền hành gì cả, mà đề nghị cải tổ giáo dục của tôi, tôi đã cho đăng
trên tạp chí Bách Khoa từ 1962, tôi có gì đâu để nói thêm. Có họp bàn mấy tháng
đi nữa thì cũng cũng chỉ phí thì giờ, không đi tới đâu vì không thể thực hiện
được một cải cách nào quan trọng trong hoàn cảnh chiến tranh đương khốc liệt.
° °
°
KHÔNG ĐỂ PHÍ THÌ GIỜ
Cũng vì không muốn mất thì giờ và muốn được độc lập, tôi
không vào một hội nhà văn nào cả, cũng không dự các cuộc hội họp, diễn thuyết của
các cơ quan Văn hoá. Nhiều người ghét tôi về điều đó, trách tôi sống cách biệt
hẳn với anh em, sống ra ngoài xã hội, cho tôi là khinh người. Những bạn văn nào
chỉ tiếp xúc với tôi vài lần cũng nhận thấy điều đó sai.
Ngay toà soạn báo Bách Khoa cách nhà tôi không tới một cây số
mà cả tháng tôi mới ghé một lần, lần nào cũng vui vẻ trò chuyện với anh em. Bạn
nào có việc gì nhờ tôi, tôi giúp được thì sẵn lòng tận tâm giúp. Một số bạn ở
xa gởi tác phẩm đầu tiên, nhờ tôi cho ý kiến và nếu có thể được thì đề tựa cho.
Tôi thấy đáng giúp thì giúp và tôi đã giúp được nhiều người. Còn những nhà gởi
tác phẩm tặng tôi thì bao giờ tôi cũng đọc hết, thành thực đưa ý kiến, rán kiếm
một vài chỗ để khen, vì tôi cho đó là một cách nhã nhặn đáp lại lòng kính hay mến
của người gởi.
Không, tôi không khinh người. Tôi chỉ quí thì giờ và sức khoẻ
của tôi, thế thôi. Và một vài nhà văn cũng nhận rằng tôi có lý mà không dự các
cuộc hội họp có tính cách văn hóa vì những buổi đó chỉ để gặp mặt nhau chẳng giải
quyết được gì, mất thì giờ lắm.
Tôi lại bị bệnh loét bao tử, ăn phải kiêng cữ, phải đúng giờ
ăn cũng như ngủ, và ăn xong phải ngả lưng nghỉ ngơi một giờ, nên càng ngại các
buổi tiệc tùng. Các bạn văn đều hiểu như vậy và miễn thứ cho cả. Nhưng khi có một
buổi tiệc long trọng như bạn bè làm lễ thành hôn cho con thì tôi cũng nhận lời
tới dự, và các bạn thường có nhã ý cho xe hơi lại đón rồi đưa về nhà. Tôi nhớ
trong hai chục năm ở Sài Gòn, chỉ dự độ bốn năm tiệc cưới như vậy.
Riêng với thi sĩ Đông Hồ thì khác. Mỗi năm hai ông bà có lệ
vào khoảng Tết Táo quân, mời độ bảy tám bạn văn họp cuối năm ở Yiễm Yiễm thư
trang hoặc Quỳnh Lâm thư thất. Những buổi họp đó có tính cách rất thân mật,
thanh nhã đã được nhà văn Ngu Í khéo tả trong tập Sống và Viết (Ngèi Xanh,
1966), nên năm nào tôi cũng cùng với Giản Chi, Đông Xuyên, Hư Chu tới dự và chủ
nhân lần nào cũng tế nhị, cho làm món xôi vò rất ngon vì biết tôi đau bao tử,
kiêng cơm tẻ. Họp từ chín giờ sáng tới hai giờ chiều, tôi thấy mệt nhưng vui.
Được các bạn văn hiểu và mến như vậy, tôi cho là một vinh dự
lớn hơn được giải thưởng văn chương toàn quốc của chính quyền mà tôi đã từ chối
hai lần. Về việc từ chối này, ai trách tôi ra sao tôi cũng nhận, không dám cải.
Nguyên tắc của tôi là không nhận một vinh dự gì do một chính quyền tôi không trọng
ban cho 1. Suốt đời tôi cầm viết, tôi chỉ mong giữ được lòng quí mến của một số
bạn văn và lòng tin cậy của độc giả bốn phương. Và tôi được may mắn toại nguyện
về điểm đó.
° °
°
HI SINH VIỆC XUẤT BẢN, ĐỂ CÓ THÌ GIỜ VIẾT
Vào khoảng 1961, khi đã mua được ngôi nhà và khoảnh vườn nhỏ ở
đường Kì Đồng, tôi hạn chế cả công việc xuất bản để hết thì giờ vào việc trứ
tác, thành thử có nhiều cuốn độc giả đòi hỏi mà tôi không in lại. Mấy năm sau
nhà xuất bản Khai Trí, rồi nhà xuất bản Thanh Tân thấy vậy, xin tôi để cho họ
tái bản. Tôi bằng lòng liền, để cho nhà Khai Trí trên mười cuốn, nhà Thanh Tân
trên hai chục cuốn, vài nhà khác mỗi nhà vài cuốn.
Ngay một số tác phẩm mới viết xong, tôi cũng không muốn tự xuất
bản nữa và bán bản quyền cho các nhà Lá Bối, Cảo Thơm, Tao Đàn, Ca Dao, Trí
Đăng Năm 1974 nhà Lá Bối in trên chục tác phẩm của tôi, nhà Cảo Thơm cũng vào
khoảng đó, còn các nhà khác mỗi nhà được bốn, năm cuốn. Có hồi trên thị trường
có tới năm chục tác phẩm của tôi bày bán khiến ông Vương Hồng Sển vào tiệm sách
nào "cũng chỉ có sách của anh"; lúc đó có mười hay mười một nhà xuất
bản sách của tôi.
Tôi sẽ nói qua về các nhà xuất bản đó trong một chương sau, ở
đây tôi chỉ xin kể lại lời tôi nói với anh bạn Trần Thúc Linh, vào khoảng
1969-1970:
"- Tôi tri túc theo đạo Nho, cho sống như vầy là quá đủ
rồi (ông ấy gật đầu) không cần hơn, chứ nếu muốn thì tôi có thể tăng lợi tức gấp
ba một cách rất lương thiện và dễ dàng.
Ông Linh ngạc nhiên, hỏi:
- Bằng cách nào?
Tôi đáp:
- Hiện tôi có trên năm mươi tác phẩm bán trên thị trường mà
trong số đó chỉ có mươi cuốn là do tôi xuất bản, còn thì để cho các nhà xuất bản
khác cả. Nếu tôi lấy về, tự xuất bản lấy (tôi có đủ vốn) thì mỗi ngày chỉ tốn
thêm một hai giờ, là số lợi tức của tôi tăng lên gấp ba được".
Như trong cuốn Tương lai ở trong tay ta, tôi đã nói, đời tôi
chỉ muốn làm một thư sinh, không muốn làm một nhà kinh doanh hay chính khách:
"Tôi không có cao vọng lãnh một trách nhiệm gì lớn lao
mà cái đời một thư sinh sống trong một gia đình êm ấm, bên cạnh sách và hoa
cũng có cái thú, có lẽ còn thú hơn là được hoan hô nhiệt liệt trong những đám đông
hàng vạn người".
Gần đây tôi được đọc câu này của Cô Hồng Minh, một học giả
Trung Hoa đồng thời với Lương Khải Siêu: "Cứ làm một học giả, thân mình được
rảnh mà có khi lại hữu dụng hơn". Lương Khải Siêu hồi trẻ hăng hái làm
chính trị, rồi về già làm một giáo sư, một học giả; Lâm Ngữ Đường hồi trẻ cũng
muốn làm chính trị, nhưng chỉ nửa năm là chán, tự nhận "Không phải là hạng
ăn thịt - thực nhục giả - nên không làm chính trị được" và từ đó bỏ luôn
chính trị mà chuyên làm một học giả. Tôi không biết đời các nhà đó với đời của
Quách Mạc Nhược, đời nhà nào sướng hơn và hữu dụng hơn.
Nhiều bạn cho tôi là sống một cuộc đời khắc khổ, quanh năm
chúi đầu vào sách vở. Có lẽ khắc khổ thật, nhưng cho tới bây giờ tôi vẫn không
thấy có cách nào khác để tiêu cho hết 24 giờ một ngày. Những lần về Long Xuyên,
ra vườn nhổ cỏ, thay đất, bón phân cho mấy gốc cây, mươi chậu kiểng, tôi cũng
thấy thích, nhưng vườn của chúng tôi hẹp quá, chỉ độ năm trăm thước vuông, đủ
công việc cho tôi làm mỗi ngày độ một giờ; rồi thì vẫn phải đọc sách, mà sách
cũng không thể có nhiều đọc suốt ngày, quanh năm, lại phải viết. Viết đối với
tôi thành môn tiêu khiển rẻ tiền nhất. Nhưng tôi đôi khi ân hận rằng vì tôi
chúi đầu vào sách, vợ con tôi chắc cũng thấy buồn.
--------------------------------
1 Tôi không vơ đủa cả nắm mà khinh hết thảy các "ông lớn"
trong chính quyền, và có vài ông là bạn thân của tôi. Nhưng ông nào tự cho chức
bộ trưởng của mình là lớn lắm, sai nhân viên tới mời tôi lại bộ hoặc lại
"tư dinh" nói chuyện riêng thì tôi hỏi sứ giả: "Ông ấy lấy tư
cách gì mà mời tôi như vậy? Tôi không thuộc quyền của ông ấy. Nếu ông ấy mến
tôi là nhà văn thì sao lại mời tôi lại thăm ông ấy?". Có lần tôi không
thèm trả lời thư riêng của một Bộ trưởng vì ông ta không kí tên mà để viên bí
thư kí thay!
CHƯƠNG XXVI - CÁCH TÔI LÀM VIỆC
G
IỜ LÀM VIỆC MỖI NGÀY
Tôi làm việc đều đều mỗi ngày, có giờ nhất định như một công
chức, chỉ khác công chức là không có ngày nghỉ nhất định, không có chủ nhật,
không có cả ngày lễ, ngày tết. Buồn thì ngày Nguyên đán âm lịch tôi cũng viết.
Lúc nào tôi muốn nghỉ hoặc cần phải nghỉ thì nghỉ, thường thường, mỗi khi viết
xong một cuốn vài trăm trang tôi nghỉ độ nửa tháng, và cứ vài tháng tôi lại về
Long Xuyên nửa tháng, nói là để tĩnh dưỡng nhưng chỉ là để đổi không khí vì vẫn
mang theo tài liệu để viết tiếp.
Mệt nhất là công việc khảo cứu về văn học, triết học Trung
Hoa, còn việc dịch các tiểu thuyết hay của phương Tây như Chiến tranh và Hoà
bình của Léon Tolstoi, Kiếp người của Somerset Maugham thì không mệt mấy, tôi
thấy thú, coi như một việc để tiêu khiển. Hồi dịch cuốn Kiếp người tôi đem bản
tiếng Anh về Long Xuyên để hẳn ở dưới đó, mỗi lần về tôi lấy ra dịch ba bốn chục
trang.
Tôi tự đặt cho tôi một kỉ luật, trừ khi đau ốm, còn thì ngày
nào cũng dậy từ sáu giờ hay sáu giờ rưỡi, điểm tâm lúc bảy giờ, rồi nằm đọc
sách, chín giờ là lại ngồi vào bàn viết để viết luôn tới mười hai giờ, giờ bữa
trưa.
Ăn cơm trưa xong, tôi nằm nghỉ khoảng một giờ, nhắm mắt lại,
chợp được độ nửa giờ là nhiều; một giờ rưỡi thức dậy nằm ở giường đọc sách đến
ba giờ.
Chiều lại viết từ ba giờ đến năm giờ rưỡi, sáu giờ, tắm xong
ăn bữa tối lúc bảy giờ. Cả buổi tối tới mười giờ, tôi chỉ nằm đọc sách, báo. Hồi
chưa lên Sài Gòn, tôi còn dạy học ở Long Xuyên, tôi có thể viết cả buổi tối;
nhưng sau khi bị loét bao tử và lao phổi, tôi mất ngủ, thường phải uống thuốc an
thần thứ nhẹ, nên buổi tối tôi không viết, cũng không đọc những sách cần suy
nghĩ nhiều, không tiếp khách mà cũng không đi xem hát, cho rằng không gì quí bằng
giấc ngủ. Tôi ngủ mỗi đêm được độ bảy giờ, thẳng một giấc. Bây giờ (1980), mỗi
đêm chỉ ngủ được năm giờ và phải thức giấc một lần.
Như vậy mỗi ngày tôi viết nhiều nhất khoảng năm sáu giờ, đọc
sách báo, cũng năm sáu giờ, rốt cuộc chỉ làm việc được mười giờ, nhưng còn phải
trừ mỗi ngày độ một giờ vào công việc xuất bản (sửa ấn cảo, giao thiệp với nhà
in, nhà sách, viết thư cho bạn và độc giả). Mỗi năm viết cả sách lẫn báo, trung
bình được ngàn trang trở lại, mỗi ngày trung bình ba trang.
Nhiều bạn hỏi tôi làm sao có thể viết trong khoảng ba chục
năm được 120 nhan đề (100 xuất bản, 20 còn là bản thảo). Tôi đáp: "120
nhan đề đó được khoảng 30.000 trang; chia ba chục năm, mỗi năm chỉ khoảng 900
trang, mỗi ngày trung bình chỉ được 3 trang mà!".
Tôi rán ngày nào cũng viết được ít nhất là một trang, nếu
không thì tôi có cảm giác như ở không.
Tuy nói là mỗi ngày làm việc vào khoảng 10 giờ, nhưng sự thực
thì trí óc không lúc nào thảnh thơi. Gần như tuần nào cũng phải làm việc cả 7
ngày, mỗi ngày 12 giờ; vì khi đã có một đề tài để viết - mà tôi bao giờ cũng có
vài ba đề tài trong đầu - thì cái tiềm thức luôn luôn làm việc, cả trong bữa
ăn, giấc ngủ, cả trong lúc đi chơi, tiếp khách hay đọc sách báo để tiêu khiển.
Những lúc đó tôi đâu có ý kiếm tài liệu để viết, nhưng gặp một câu, một lời hay
thấy một việc gì, một cảnh nào có liên quan xa gần đến đề tài thì tự nhiên tiềm
thức của tôi hoạt động mà tôi không hay và bắt tôi suy nghĩ tới, ghi lấy, biết
bao đêm thức giấc, sực nảy ra một ý gì, tôi phải vén mùng, sờ soạng mặt tủ nhỏ ở
đầu giường lấy cây bút chì - và một cuốn sách đương đọc; rồi - không bật đèn, sợ
làm mất giấc ngủ của vợ con - viết nguệch ngoạc ít chữ bất kì trang nào, thường
là trang đầu hay trang cuối, có khi là trang bìa, để ghi lại ý đó kẻo quên mất;
sau cùng gấp trang đó lại để đánh dấu, sáng dậy sẽ chép lại.
° °
°
KIẾM TÀI LIỆU - ĐỌC SÁCH BÁO
Làm nhà biên khảo thì việc đầu tiên là phải kiếm tài liệu. Viết
về nhiều môn như tôi thì cần phải đọc nhiều sách, báo. Tôi vốn có óc tò mò, cho
nên loại sách nào tôi cũng muốn đọc cho biết, chỉ trừ loại "chưởng" của
Kim Dung. Một bạn trẻ tặng tôi bộ Cô gái đồ long, mong rằng tôi sẽ nhờ bộ đó mà
thần kinh dịu xuống, bớt đau bao tử; tôi rán đọc năm, sáu chục trang, rồi phải
bỏ, không thể thích nổi.
Tôi rất ngại đến thư viện để đọc sách, kiếm tài liệu, vả lại
thư viện rất ít tài liệu mới; cho nên hầu hết các sách tôi dùng để biên khảo,
tôi đều phải mua ở ngoại quốc.
Tôi gởi một số tiền dự trữ (provision) độ 200 quan mới cho
nhà Rayonnement du livre français ở Paris. Họ gởi đều đều cho tôi tập Livres du
mois, thư mục gần đầy đủ các sách Pháp xuất bản mỗi tháng, sắp thành từng loại:
ngôn ngữ học, sử học, xã hội học, chính trị, kinh tế, tiểu thuyết, thơ, kịch
v.v, thấy cuốn nào muốn đọc, tôi bảo họ gởi cho; họ sẵn sàng kiếm cả những sách
cũ và những sách ngoại quốc cho tôi nữa. Mỗi năm họ gởi cho tôi khoảng năm sáu
chục cuốn.
Ngoài ra tôi mượn sách, nhất là báo định kì của Pháp: Esprit,
Express, Paris Mach, Historia, Science et Vie của vài bạn văn, nhất là của toà
soạn tạp chí Bách Khoa.
Sách Trung Hoa thì tôi hỏi thẳng một tiệm sách ở Hương Cảng
hoặc nhờ ông Tạ Trọng Hiệp kiếm giùm.
Lựa sách ngoại quốc theo cách dò trong thư mục, chỉ thấy tên
sách, tên tác giả, chứ không biết nội dung thì có một số dùng không được; cho
nên tôi phải nhờ nhà Rayonnement du livre français giới thiệu cho.
Riêng sách về cổ học Trung Hoa, tôi yêu cầu tiệm sách Hương Cảng
tìm cho những bản tốt nhất, chú giải kĩ nhất của một học giả có tiếng và do một
nhà xuất bản có tiếng in ra, dùng những bản đó dù giá tiền đắt gấp hai, gấp ba
vẫn có lợi hơn là dùng những bản tầm thường, không tin được, chỉ làm mất thì giờ
của mình.
Khi đã có một chủ đích, định tìm hiểu hoặc viết về vấn đề nào
tôi bắt đầu gom hết các tài liệu (sách, báo) mà tôi có thể kiếm được về vấn đề
đó, có khi liên tiếp trong nhiều năm. Như về Kinh dịch, tôi gom từ năm 1960 đến
1975, được khoảng 15 - 16 cuốn của Trung Hoa, Việt, Pháp, Anh, Đức (dịch ra tiếng
Pháp). Mỗi cuốn, khi mới tới, tôi đọc qua một lượt, xem giá trị ra sao, giúp
tôi được gì, đánh dấu những chương quan trọng, rồi để riêng vào một chỗ; năm
1978 - 1979, khi định viết, tôi mới đọc kĩ lại một lượt, so sánh các thuyết,
các bản dịch để định cái hướng nghiên cứu, cách làm việc.
Một cuốn mỏng, gồm toàn những "chuyện sống"
(histoires vécues, tức những chuyện thực xảy ra) ghi một tình cảm đẹp, gợi một
ý cao thượng, mà tôi đã để ra non hai chục năm để gom góp lần lần trong các
sách, báo Pháp. Trong việc đó không tốn thì giờ gì cả; thấy truyện nào đáng lựa,
tôi đánh dấu, rồi sắp vào một chỗ riêng, khi đã được vài ba chục truyện, thành
một cuốn dày vài trăm trang, tôi đem ra dịch một hai tháng là xong.
Trước năm 1963, tôi không bao giờ có ý viết về kinh tế, và
cho môn kinh tế học dạy trong các trường luật là không sát thực tế, chỉ gây
thêm hoang mang cho tôi thôi; nhất là những thuyết về tiền tệ, giá cả, về thặng
dư giá trị không làm cho tôi tin được.
Chẳng hạn, người ta bảo rằng thặng dư giá trị của một sản phẩm
do sức lao động của thợ thuyền cả, phải chia hết cho họ, tư sản không có công
gì trong đó, mà ngay những người quản lí xí nghiệp cũng không có công vì họ
không sản xuất; nếu không chia hết cho thợ thuyền thì là bóc lột họ.
Nhưng cùng một xí nghiệp mà người này quản lí thì lỗ, người
khác quản lí lại lời thì giải thích ra sao? Ai tạo nên thặng dư giá trị?
Lại như trường hợp sáu nhân viên điều khiển một nhà máy lọc dầu
tối tân, vốn cả trăm triệu đô la. Thặng dư giá trị rất lớn thì số thặng dư đó
phải chia hết cho sáu nhân viên đó ư? Chỉ họ mới có công ư? Hay còn là công của
các nhà khoa học đã tìm ra cách lọc dầu, các kĩ thuật gia đã cải thiện phương
pháp lọc dầu, các kĩ sư đã chế tạo ra máy lọc dầu, tổ chức công việc trong xưởng,
của người bỏ vốn ra mua máy móc, của nhân viên coi về quảng cáo, thương mãi,
tìm thị trường v.v
Rồi một hôm (năm 1962-63) ngẫu nhiên tôi đọc một cuốn rất mỏng
(trong loại Que sais-je?) của Jean Fourastié, cuốn La civilisation de 1975, tôi
bắt đầu để ý tới ông, tìm thêm những tác phẩm khác của ông để đọc, càng đọc
càng ham, tới những cuốn Le grande espoir du 20è siècle, Machinisme et bien
être, Pourqoi nous travaillons, thì những thành kiến trước kia về môn kinh tế
tiêu tan hết. Từ đó gặp cuốn nào của Fourastié tôi cũng mua, rồi lại tìm đọc
thêm mươi cuốn của mấy nhà khác về kinh tế, xã hội, nhất là về vấn đề kém phát
triển trên thế giới, do đó tôi nảy ra ý viết cuốn Một niềm tin, Thế giới trong
tương lai, Việt Nam trong hiện tại. Cuốn đó do ngẫu nhiên mà viết, chứ hoàn
toàn không có trong chương trình hoạt động của tôi.
Sự ngẫu nhiên đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp một
nhà văn, tôi sẽ trở lại điểm đó trong một chương sau.
Có lần một độc giả trẻ tuổi hỏi tôi nghĩ sao về lời Erskine
Caldwell trả lời một nhà báo như sau: "Có những người đọc, có những người
viết, có những người vừa đọc vừa viết. Tôi chỉ viết cho những người khác đọc
thôi, chứ không đọc sách của ai cả".
Tôi đáp:
- Tiểu thuyết gia của Mĩ đó là một anh chàng ngông. Ông ta có
một bút pháp khá độc đáo, nhưng tôi biết những người có tài hơn ông nhiều, viết
nhiều gấp mấy ông mà đọc sách rất nhiều, như Tolstoi, Proust, Anatole France.
Viết văn thì phải theo dõi văn trào và thời sự trong nước,
trên thế giới; cho nên dù bận việc tôi cũng rán đọc một số nhật báo, tạp chí và
những tác phẩm Việt quan trọng xuất bản trong năm, để kịp thời góp ý kiến với đồng
bào về những việc xảy ra, và để cuối năm tổng kết tình hình xuất bản. Những
báo, tạp chí, sách đó, một số do tôi mua, một số do bạn văn tặng, một số mượn của
toà soạn Bách Khoa.
Vì vậy mà thi sĩ Quách Tấn bảo nội việc tôi đọc sách cũng đã
khó có người bì kịp, chứ đừng nói đến chuyện đọc rồi còn viết.
Nhưng tôi tự xét, so với một số nhà văn Pháp thì số sách tôi
đọc kém họ xa. Họ có những tủ sách năm ngàn, mười ngàn cuốn, tủ sách của tôi
chưa được ba ngàn cuốn. Ngay ở Sài Gòn cũng có vài học giả có một tủ sách phong
phú hơn tôi nhiều.
Đọc sách thì bao giờ tôi cũng có một cây bút chì và một cục
gôm bên cạnh. Trong nhà có hai chỗ tôi thường nằm để đọc sách, tại hai chỗ đó
bao giờ tôi cũng để sẵn hai vật đó. Hễ thấy có đoạn nào đáng đọc lại, có ý gì
đáng ghi thì tôi làm dấu bằng bút chì ngay ở ngoài liền; rồi ghi số trang, tóm
tắt đại ý ở trang đầu bỏ trắng của sách.
° °
°
LẬP BỐ CỤC
Sau khi đọc và ghi tất cả tài liệu kiếm được về một vấn đề,
tôi bỏ ra một thời gian để suy nghĩ về vấn đề đó - thời gian này có thể là một
tuần hay nửa tháng - rồi mới lập một bố cục sơ sài cho tác phẩm định viết. Tôi
chia làm mấy phần, mấy chương, tạm đặt nhan đề cho mỗi phần, mỗi chương. Tôi
nói tạm vì sau khi viết xong cả tác phẩm, tôi mới đặt lại nhan đề cho sát với nội
dung.
Rồi tôi bắt đầu từ chương I. Tôi ghi lại vắn tắt trên những tờ
giấy rời tất cả những ý và tài liệu tôi định đặt vào chương đó. Thường phải vài
trang giấy lớn mới ghi được đủ.
Ghi đủ rồi, tôi đánh dấu ý nào, tài liệu nào cho vào đoạn đầu,
đoạn hai, đoạn ba v.v Đó là công việc chia thành đoạn.
Trong mỗi đoạn, tôi sắp lại ý nào trước, ý nào sau; tôi rất
coi trọng công việc này vì tôi muốn các ý nối tiếp nhau một cách tự nhiên.
Công việc lập bố cục cho từng chương đó, luôn luôn tôi phải
làm hai hay ba lần.
Hồi mới viết, từ khoảng 1955 trở về trước, tôi lập bố cục cho
từng chương, lập xong chỉ theo bố cục mà viết, rất ít khi phải sửa đổi, thêm bớt.
Về sau tôi thấy không cần phải chặt chẽ quá như vậy: chỉ có một bố cục đại khái
thôi, rồi trong khi viết, có thể ý nọ gợi ý kia, nảy ra ý mới, hoặc thấy nên đảo
một vài ý trong bố cục, nhất là có thể bỏ một ý nào đó đi, thêm vào một ý khác;
tóm lại là có thể xáo trộn bố cục ít nhiều, như vậy có lợi là ý đột ngột hơn,
văn tươi tắn hơn, viết thú hơn, chứ không có hại gì cả; và tôi giữ lối viết đó
cho tới ngày nay.
° °
°
VIẾT
Khi đã bắt đầu viết, tôi không thể nhởn nha được, ít nhất phải
viết cho hết chương, chứ không bao giờ bỏ dở để làm một công việc khác. Nếu có
công việc khác gấp thì tôi cũng phải diễn tất cả các ý trong chương, dù là vội
vàng, rồi sau sẽ sửa lại.
Thường thường một cuốn độ hai trăm trang mà dễ viết - loại Học
làm người chẳng hạn - thì tôi viết một hai tháng là xong; rồi tôi nghỉ một tuần
hay nửa tháng trước khi bắt tay qua cuốn sau. Thời gian nghỉ đó là thời gian
tôi tha hồ đọc sách báo vừa để tiêu khiển, vừa để kiếm tài liệu.
Gặp những cuốn khó viết, loại văn học, triết học Trung Quốc,
phải chín mười tháng, một năm mới xong, tôi chia làm từng chặng, từng đợt hai
ba tháng một.
Văn Chiến Quốc sách rất cổ, rất khó hiểu mà tôi lại không kiếm
ra được một bản chú giải nào vừa ý, nên phải so sánh ba bốn bản, dùng cả bản bạch
thoại, lại phải tra hai bộ từ điển Trung Hoa, có khi mất cả một ngày mới dịch
được một trang. Trong khi dịch bộ đó, tôi đau bao tử liên miên, phải vừa xoa bụng
vừa viết, đau quá thì nằm nghỉ một chút rồi ngồi lên viết tiếp. Bộ đó tôi phải
dựa vào ba chặng, nghỉ nửa tháng.
Cuốn Văn học Trung Quốc hiện đại cũng tốn sức tôi rất nhiều,
năm 1953, tôi đã viết bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc để tìm hiểu tự học; in
bộ đó rồi, tôi tự hẹn sẽ tìm hiểu kĩ hơn về Văn học hiện đại của Trung Quốc để
bổ túc, và từ khoảng 1960, tôi nhờ vài người bạn thân kiếm cho một số sách báo
ngoại quốc viết về văn học Trung Quốc từ cuối Thanh đến nay, nhưng chỉ có mỗi một
ông bạn, ông Tạ Trọng Hiệp ở Paris kiếm cho được cuốn History of Modern Chinese
fiction của C.T Hsia. Rốt cuộc trong năm sáu năm, tôi chỉ thu thập được sáu, bảy
cuốn, một số của cộng sản, một số của Mĩ và Pháp, tuyệt nhiên không có cuốn nào
của vùng Quốc gia Đài Loan cả. Thành thử tài liệu về thơ và kịch hiện đại, tôi
gần như không có gì, nên không thể giới thiệu hai loại đó cũng tương đối kĩ như
giới thiệu loại tiểu thuyết được. Khuyết điểm đó rất nặng; nhưng tôi cũng miễn
cưỡng soạn cho xong. Miễn cưỡng chứ không phải cẩu thả; trái lại là khác, mỗi
chương, nhất là trong cuốn II, tôi tốn nhiều công, viết xong thấy rất mệt, có cảm
giác như leo một ngọn núi. Và trước sau tôi cũng phải nghỉ hai ba lần sau mỗi
chặng đường. Độc giả làm sao biết được nỗi khó khăn đó của tôi.
Viết xong cuốn nào tôi sửa lại liền. Khi sắp in, có thể là
năm sáu tháng sau hoặc mười năm sau tôi mới sửa lại một lần nữa.
Nhiều nhà văn phải đợi có hứng rồi mới viết được. Họ gợi hứng
bằng nhiều cách: uống cà phê, trà đậm, hút thuốc hết điếu này đến điếu khác; có
người nghe một bản nhạc hoặc đọc vài trang trong một cuốn mà họ thích, rồi mới
bắt đầu viết. André Maurois có hồi đọc Tolstoi, Tourguéniev để lấy hứng.
Tôi thì dù không có hứng cũng cứ đúng giờ ngồi vào bàn viết,
viết bừa vài trang, nửa trang rồi hứng tự nhiên tới.
Khi đã mải mê viết thì tôi không để ý tới những tiếng động ở
chung quanh, quên hết mọi sự; tuy nhiên tôi vẫn thích làm việc ở một chỗ tĩnh mịch,
và luôn một hơi hai ba giờ liền mà không bị quấy rầy.
° °
°
BÚT PHÁP CỦA TÔI: TỰ NHIÊN THÀNH THỰC
Có một số rất ít nhà văn tự tạo cho mình một bút pháp (style)
đặc biệt không giống một nhà văn nào khác, ở Pháp ta có thể kể La Bruyère (thế
kỷ XVII), văn cô động, linh động, dùng những câu rất ngắn, gần như châm ngôn;
Marcel Proust trái lại, dùng những câu rất dài xen nhiều mệnh đề phụ để phân
tích tỉ mỉ tâm lí con người, mô tả mọi nét đặc biệt của một cảnh vật. Ở nước
ta, khoảng năm 1930, có Hoàng Tích Chu, tạo một lối văn viết báo gồm những câu
cụt ngủn, trái với lối viết nặng nề của Phạm Quỳnh. Gần đây có Hư Chu và Mai Thảo.
Hư Chu chịu ảnh hưởng nhiều của Trung Hoa, thường dùng chữ cổ,
những câu ngắn, có những vế nhỏ đối nhau, và rất chú trọng đến nhạc, đọc lên ta
thấy cứ một vế, hoặc một câu bổng thì lại tới một vế, một câu trầm, giọng văn cứ
đều đều lên xuống. Ví dụ: "Nguỵ lại nghèo lắm. Cơm không đủ hai bữa, áo chỉ
độc một manh. Nhà cửa thì vách đất giường tre; cả gia sản duy chỉ có một bụng
chữ thánh hiền là đặng giá. Người vợ Nguỵ vì không chịu được nỗi cơ hàn đã phải
bỏ chồng mà đi mất. Những là chê chồng chẳng đẹp tốt bằng người, huống chi còn
lấy sự hỏng thi của Nguỵ làm điều xấu hổ. Nhưng chàng cũng không buồn. Đêm ngày
vẫn khổ công học tập, sinh nhai về nghề vẽ tranh, viết trướng kiếm ăn".
(Nam Hải truyền kỳ, tr. 161).
Mai Thảo đặc biệt hơn, bỏ cả ngữ pháp để có một lối viết mà
người ta cho là "làm duyên, làm dáng":
"Chỉ một câu hò mái đẩy ai oán đã dư thừa làm hứng cho
Phạm Duy nhạc và Lưu Trọng Lư thơ" (Căn nhà vùng nước mặn, tr. 127).
Nhạc và thơ ở đây dùng làm động từ.
"Yêu chùa Hương /cách một con suối, /ngăn một triền núi/
cao một mênh mông, / thấp một thăm thẳm/". (Căn nhà vùng nước mặn, tr.
141).
Hai tiếng một sau dùng rất cầu kì, không có nghĩa gì cả, chỉ
để thành hai vế, mỗi vế 4 tiếng như hai vế trên.
Một số nhà văn khác chịu ảnh hưởng rất đậm của một bực thầy,
và theo đúng bút pháp của thầy, như nữ sĩ Mộng Tuyết với thi sĩ Đông Hồ; nữ sĩ
Nguyễn Thị Vịnh với tiểu thuyết gia Nhất Linh. Hạng này nhiều hơn hạng trên.
Nhiều nhất là hạng thứ ba: có một bút pháp tự nhiên. Tôi thuộc
vào hạng này. Tôi nhận thấy trong số các bạn văn của tôi người nào to lớn bệ vệ
thì văn cũng nặng nề; người nào nhanh nhẹn, nóng nảy thì văn cũng nhẹ nhàng, sắc
bén; người nào hóm hỉnh thì văn tươi, người nào kiểu cách thì văn bóng bảy mà
đa xảo Tóm lại, cá tính ra sao thì bút pháp như vậy. Cá tính nào cũng có điểm dễ
thương, không bao giờ hoàn toàn xấu thì bút pháp cũng có thể có ưu điểm, miễn
là thành thực.
Trong bài Bút pháp và cá tính (Giữ thơm quê mẹ - số 7, năm
1965, sau in vô cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa -Tao Đàn - 1967), tôi đã viết:
"Chính cá tính quyết định bút pháp. Mà cá tính thì do bẩm sinh và tuỳ thể
chất một phần lớn, một phần nữa thì chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh, của sự tôi
luyện. Cho nên tôi có thể nói rằng bút pháp của ta đã định trước từ khi ta chưa
tập viết, chưa biết viết: nó là vóc người, là dáng đi, là nhịp điệu của hơi thở,
là sự tuần hoàn trong huyết quản, là sự tác động của các hạch nội tiết. Tất
nhiên càng sống thì tư tưởng có thể càng tiến, kỹ thuật có thể càng già, nhân
sinh quan có thể thay đổi, nhưng giọng văn, lối viết thì không thay đổi mấy, vẫn
nhận ra được. Thơ của Đông Hồ, Vũ Hoàng Chương chẳng hạn, ngày nay vẫn giữ được
những nét riêng của mỗi nhà thơ từ thời trước; mà những nét riêng trong thơ ấy
chính là những nét riêng trong tính tình, thể chất của mỗi nhà 1.
Đứng về phương diện khoa học, không có cá tính nào là xấu, mà
đứng về phương diện nghệ thuật cũng không có bút pháp nào là bản nhiên dở. Uỷ mị
có cái đẹp của nó, hùng hồn có cái hay của nó; đẽo gọt là một nghệ thuật mà tự
nhiên cũng là một nghệ thuật; () tất cả vấn đề là diễn được đúng những cái mà
chúng ta muốn diễn và gây được trong lòng độc giả những cảm xúc như chính ta cảm
xúc.
Hiểu được như vậy rồi thì () ta sẽ can đảm nhận cá tính của
ta, dùng bút pháp nó đã lựa, định cho ta, () đừng ngại sẽ không bằng nhà này
hay nhà khác (), cần thiết là phải dám là ta, phải thành thực với ta đã. Có
thành thực mới cảm được người. Có thành thực mới đáng cầm cây viết ()".
Thành thực có hai nghĩa.
Nghĩa thứ nhất: không cảm xúc thì đừng viết. Những bài văn mà
tôi đắc ý và được bạn văn cùng độc giả thích, hầu hết là những bài tôi rất
thành thật với tôi, nghĩ sao viết vậy, cảm xúc ra sao thì viết ra như vậy, như
những hồi kí, tạp bút: Làm con nên nhớ, Cháu bà nội, tội bà ngoại, Con đường
hoà bình, Hoa đào năm trước (Lá Bối in trong loại Bông hồng cài áo), Cụ Phan và
lòng dân (Trình bày - 1967), Ý nghĩa cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh. (Bách
Khoa - số 254, ngày 1.8.67)
Nghĩa thứ nhì là khi viết, phải quên hết danh sĩ cổ kim, quên
hết mọi kĩ thuật làm văn, mà chỉ theo cá tính của mình thôi. Phải như anh em họ
Viên trong phái Công An đời Minh, "để cho miệng và tay tự nhiên", hơn
nữa phải như Hoàng Sơn Cốc đời Bắc Tống, "để cho chương cú ngẫu nhiên
thành như đường do sâu đục trong khúc cây" thì văn mới thực là cảm mạnh và
thú vị; đôi khi còn nên, như Jules Renard đã khuyên, cứ phóng bút mà viết, đừng
trao giồi, để cho văn được uyển chuyển, mềm mại. Văn của Tô Đông Pha được người
đời khen là "hành vân lưu thuỷ", chính là do ông phóng bút mà viết.
Viết như vậy thì là một việc tự nhiên như thở, nhẹ nhàng, dễ
dàng; tuỳ cảm xúc mà văn lúc thì bình tĩnh, lúc thì bồng bột, lúc vui, lúc buồn,
lúc phẫn nộ, lúc mỉa mai; lúc nhanh lúc chậm, lúc tiến lúc thoái; giọng thay đổi
có khi đột ngột, lôi cuốn được độc giả.
Viết được đoạn đầu rồi thì cứ cho ngọn bút theo cái đà tư tưởng,
cảm xúc của ta mà phần trước lôi kéo phần sau cho tới khi diễn hết những điều
ta muốn nói rồi thì ngừng, đừng thêm gì cả.
° °
°
SỰ BÌNH DỊ
Tôi như mọi người, hồi trẻ hơi mắc tật khoa trương khi tập viết
- những bài tuỳ bút, tiểu luận theo lối cổ văn Trung Quốc -; những bài đó hầu hết
tôi chỉ giữ làm kỉ niệm chứ không cho in.
Lần lần tuổi càng lớn, tôi càng trọng sự bình dị hơn, khi sửa
bài văn thường bôi bỏ nhiều hơn là thêm vô. Nhất là những hư từ ở cuối câu, những
tĩnh từ (adjectif) đặt sau một danh từ, nếu không thật cần thiết thì gạt bỏ,
không hề tiếc. Nhưng tôi không theo Renan được, ông bỏ ra một năm để sửa bộ Vie
de Jésus cho văn hết bóng bảy mà thật giản phác. Có thể vì cá tính của tôi khác
ông, mà cũng có thể vì những đề tài tôi viết không có tính cách cổ kính như tác
phẩm bất hủ đó của ông.
Tôi trọng sự bình dị mà cũng trọng cá tính của tôi nữa. Có lần
viết xong một tác phẩm, tôi đưa cho một anh bạn thân coi lại giùm để góp ý kiến
về nội dung và hình thức. Anh bạn đó đối với tôi rất chân thành mà viết văn rất
kĩ: uống cà phê đặc và hút thuốc để thức đến một hai giờ khuya đẽo gọt vài câu
văn là cái thú thường ngày của anh. Lần đó anh bôi cả đoạn văn kí sự của tôi rồi
chịu khó viết lại giùm: đảo lên đảo xuống, tỉa bớt cho cô lại, thêm bớt cho có
nhạc hơn. Tôi khen anh sửa khéo, nhưng tới khi in, tôi vẫn giữ đoạn văn của tôi
vì tôi nghĩ nó tự nhiên hơn, diễn đúng ý của tôi, cảm xúc của tôi hơn, nhất là
vì nó có giọng của tôi, mang cá tính của tôi. Nó là tôi.
Lâm Ngữ Đường trong cuốn The importance of living có những nhận
xét sâu sắc về đức bình dị trong văn. Ông viết:
" Sự bình dị là điều khó đạt được nhất () trong văn
chương (). Muốn được bình dị thì trước hết phải tiêu hoá nổi tư tưởng và óc
cũng phải già giặn: khi chúng ta về già, tư tưởng của chúng ta sáng sủa hơn; ta
bỏ ra một bên những phương diện không quan trọng mà có lẽ sai lầm của vấn đề đó
nữa, ý tưởng ta hình thành một cách rõ ràng hơn và những chuỗi tư tưởng lần lần
tự hiện lên thành những lời văn gọn gàng, giản dị (). Ta không thấy phải gắng sức
nữa mà sự thực hoá ra sáng sủa và do đó hoá ra bình dị. Sự tự nhiên của tư tưởng
và bút pháp đó mà các thi sĩ và các phê bình gia Trung Hoa rất tôn trọng, được
coi là một sự già giặn tiệm tiến. Khi chúng ta nói đến sự già giặn tiệm tiến
trong văn xuôi của Tô Đông Pha là chúng ta muốn bảo rằng họ Tô đã lần lần tiến
lại sự tự nhiên, tiến gần tới một bút pháp thoát li được cái thói phù hoa, thói
dởm, cái thói khoe tài, thói dàn cảnh của tuổi trẻ".
Theo tôi văn bình dị khó nhất ở điểm phải có ý cao, tình đẹp
nếu không thì hoá ra nhạt nhẽo, vô vị.
Phải từng trải cho nhiều, đau khổ cho lắm như Tư Mã Thiên,
Hàn Dũ, Dostoievski - "cùng nhi hậu công" -; phải coi được nhiều kì
quan của vũ trụ như Lí Bạch, Jack London; phải học thật rộng như Tô Thức, Vương
Dương Minh, Tagore; phải suy nghĩ cho thật chín như Thích Ca ở dưới gốc Bồ Đề,
như Ki Tô ở trong núi; lại phải được trời phú bẩm cho một tâm hồn thanh cao, một
trí óc sáng suốt; tóm lại phải vào hạng siêu nhân lại tốn công tu luyện - Jack
London thiếu công đó - mới đạt được cái nghệ thuật siêu đẳng là bình dị, tự
nhiên, biết thế nào là không thừa, không thiếu, không non nớt mà cũng không
phóng đại.
Khó như vậy nên từ xưa tới nay những nhà văn bình dị mà bất hủ
mới rất hiếm: Lí Bạch được độ mươi bài thơ và bài cổ văn, Đỗ Phủ ít hơn. Tô
Đông Pha được mươi bài cổ văn, dăm bài thơ, Nguyễn Du được vài chục câu trong
Kiều, chục câu trong Văn tế thập loại chúng sinh, dăm bài thơ chữ Hán còn những
nhà khác chỉ được vài ba bài. Những nhà lưu danh nhất trong lịch sử nhân loại lại
chính là những nhà có những tư tưởng cao siêu nhất, tình cảm cao thượng nhất
như Thích Ca, Khổng tử, Lão tử, Ki Tô, mà những nhà đó không hề làm văn bao giờ.
Platon không sánh được mấy nhà kể trên, nhưng nhờ được chứng
kiến cái chết của thầy học là Socrate - một triết gia tâm hồn rất cao thượng -
mà cũng lưu lại được một trang bất hủ tôi đã dẫn trong bộ Hương sắc trong vườn
văn, chương XIII.
Đọc trang đó, chúng ta thấy Platon không sắp đặt gì cả, việc
xảy tới đâu chép tới đấy; lập đi lập lại những tiếng và, rồi, người, có vẻ lôi
thôi nữa; và chúng ta nghĩ bụng: "Ai mà viết chẳng được như vậy". Phải,
chúng ta đều viết được như vậy miễn là được chứng kiến cái chết cao cả và cảm động
của Socrate. Cái "đẹp" ở đây là cái đẹp tự nhiên, không cần tô điểm,
mà làm cho tâm hồn ta cao thượng. Khi một hành vi, một thái độ đã tột bực cao đẹp
thì càng tô chuốt càng hỏng, nên Platon không dùng một hình ảnh nào cả. Phải có
điều kiện như vậy thì văn bình dị và tự nhiên mới khỏi vô vị.
° °
°
KHÔNG QUÊN ĐỘC GIẢ - YÊU ĐỀ TÀI
Tôi viết nhiều loại sách cho nhiều hạng độc giả; từ người già
tới thanh niên và cả trẻ em nữa; cho nên khi viết tôi phải nghĩ đến hạng độc giả
của mỗi loại sách, viết sao cho họ hiểu được, nếu cần thì phải chú thích.
Cũng là viết về Văn học Trung Quốc, mà bộ Đại cương Văn học sử
Trung Quốc thuộc loại phổ thông, cho nên trình bày như một sách giáo khoa khác
hẳn bộ Chiến Quốc sách và Sử kí thuộc loại biên khảo viết cho những độc giả đã
hiểu biết ít nhiều về Trung Hoa.
Soạn sách tôi chỉ nhắm mục đích: tự học và giúp người khác tự
học. Tôi nghĩ đến cái lợi của độc giả trước hết, chẳng hề tự cho mình có
"sứ mạng" gì cả, mà cũng không hề mong được nổi tiếng, chỉ cần được một
số độc giả trung thành với tôi thôi.
Có thích vấn đề nào thì tôi mới viết: Thấy vui trong khi viết,
bấy nhiêu đủ cho tôi rồi.
Khi viết tiểu sử danh nhân, tôi lựa những người có tâm hồn đẹp,
có công với nhân loại, tôi gom góp càng nhiều tài liệu về họ càng tốt (tôi bỏ
nhiều năm kiếm tài liệu về Helen Keller) tìm hiểu những đau khổ, gắng sức,
thành bại của họ rồi rung động, say mê kể lại cuộc đời của họ để làm gương cho
đời; tóm lại tôi thực tâm yêu quí những vị mà tôi viết, nhờ vậy loại Gương danh
nhân của tôi (gồm khoảng chục cuốn) được độc giả hoan nghênh, khen là hấp dẫn,
cảm động hơn những cuốn người khác viết. Phải chính mình thích cái gì mình viết
thì độc giả mới thích nó được: Đó là qui tắc mà cũng là bí quyết của tôi.
Tôi biết có những đề tài viết ra bán rất chạy, nhưng tôi nhất
định không viết, vì tôi không thích (chẳng hạn đời của hạng người chinh phục thế
giới như Thành Cát Tư Hản) hoặc vì tôi thấy có hại cho độc giả (chẳng hạn tư tưởng
của nhóm Hiện sinh ở Âu mà tôi cho là không hợp với dân tộc mình, xã hội mình
lúc này).
Trái lại có những đề tài tôi biết là rất ít người đọc, nhưng
thấy có lợi cho kiến thức của độc giả thì tôi cũng viết, như cuốn Một niềm tin,
chỉ in 2.000 bản mà bán sáu bảy năm vẫn còn.
Tôi không cầu danh hay lợi; có một số bạn hiểu mình, một số độc
giả mến mình, lúc nào cũng có dư một số tiền là đủ rồi, không cần giàu. Và bao
giờ tôi cũng cho rằng cái vinh dự nhất của người cầm bút là được độc giả tin cậy,
chứ không phải nhận chức này hay chức khác, hoặc những tờ ban khen có dấu son đỏ
choét của chính quyền.
° °
°
CHÁNH TẢ - DÙNG CHỮ
Tôi rất chú trọng đến chánh tả và sự dùng chữ cho đúng. Chỗ
ngồi viết, sau lưng tôi kê một cái tủ mà hai ngăn chứa toàn tự điển non hai chục
bộ, lớn nhỏ: Việt, Pháp, Anh, Hán tự điển, văn liệu, điển tích, đồng âm, đồng
nghĩa; tôi chỉ cần quay lại, với tay là lấy được liền.
Cuốn tôi hay dùng hơn cả là cuốn Việt ngữ chánh tả của Lê Ngọc
Trụ (Thanh Tân - 1960), nhất là cuốn Việt ngữ chính tả đối chiếu tự vị giản yếu
của Phạm Trọng Kiên và Nguyễn Văn Tòng (Thế giới - 1950). Trước khi có cuốn sau
tôi cũng làm một cuốn sổ tay chép những tiếng tôi chưa thuộc chánh tả, sắp theo
ba mục: tiếng bắt đầu bằng CH, TR; tiếng bắt đầu bằng D, GI, R; và tiếng bắt đầu
bằng S, X.
Kiếm mua được cuốn của Phạm Trọng Kiên và Nguyễn Văn Tòng rồi,
tôi bỏ sổ tay của tôi mà dùng cuốn đó. Chỉ dày 100 trang khỗ 11 x 15 phân, giá
có 12 đ, mà nó giúp tôi được rất nhiều, cơ hồ không ngày nào mà tôi không tra
nó; chỉ khi nào tra mà không thấy (chẳng hạn tiếng "nước ròng",
"lúa sạ", "xối nước", "dẽ đất") tôi mới phải dùng
cuốn của Lê Ngọc Trụ.
Nhưng cuốn đó thiếu nhiều, lại soạn riêng cho người Bắc nên
có lần tôi đề nghị với một nhà xuất bản in một cuốn cũng giản yếu và đối chiếu
như vậy nhưng khá đầy đủ, soạn chung cho người Bắc và Nam: người Bắc thường viết
sai phụ âm đầu, người Nam hay lầm các vần và hai dấu hỏi, ngã. Những công việc
nho nhỏ, tầm thường như vậy mà lại hữu ích vô cùng, tiết kiệm cho người dùng được
nhiều thì giờ.
Hồi mới xuất bản được vài cuốn, mỗi lần sách phát hành rồi, đọc
lại còn thấy sót lỗi của thợ sắp chữ hoặc lỗi của chính tôi, tôi bực mình lắm.
Nhưng chỉ vài ba năm sau tôi đâm chai ra, cho rằng nhận lỗi là phải còn ân hận,
thắc mắc về lỗi của mình thì chỉ hại cho tâm hồn mình, công việc của mình thôi,
và tôi tự an ủi bằng câu này của người Hồi giáo: "Chỉ có Allah - Thượng Đế
- mới hoàn toàn".
Tôi nhớ một nhà xuất bản phương Tây quyết tâm in cuốn Thánh
Kinh (Bible) không có một lỗi nào. Cứ sắp chữ xong một số trang, họ vỗ một bản
dán ở trước cửa, yêu cầu tất cả nhân viên đọc, hễ thấy lỗi thì chỉ cho để sửa lại,
rồi mới in. Vậy mà khi in xong, đóng bìa rồi, một người mới tìm ra được một lỗi
nặng ở ngay đầu sách: chữ Bible đã sắp chữ lầm ra Bilbe.
Một người Ả Rập dệt xong một tấm thảm, soát lại từng đường dệt
một, không thấy một lỗi nào, cho như vậy là xúc phạm Allah vì chỉ có Allah mới
hoàn toàn, liền tháo một mối dệt, sửa lại cho thành một lỗi nhỏ.
Hai chuyện đó có thể chỉ là những giai thoại không có thực,
nhưng cả hai đều có ý nghĩa, và khuyên ta cứ làm hết sức mình, đừng cầu toàn ở
mình và trách bị ở người. Tôi còn nghĩ rằng Thượng Đế cũng không hoàn toàn nữa:
cái thế giới mà Thượng Đế tạo ra này có biết bao điều khó hiểu, vô lí, mâu thuẫn,
đâu phải là hoàn toàn.
Khi học được cái khôn của người Ả Rập rồi, tôi bình thản hơn,
khi thấy lỗi nào trong tác phẩm đã in của tôi thì tôi sửa ngay trên một bản
chính để tôi dùng riêng rồi quên nó đi.
Ngày nay, nếu có thì giờ đọc lại trăm tác phẩm của tôi thì thế
nào trong mỗi cuốn cũng thấy được ít nhất là vài ba lỗi nặng, không kể những lỗi
sai chánh tả hay in lầm. Nhưng tôi sẽ không phí thì giờ sửa chữa, vì có sửa ba
bốn lần nữa thì hết được lỗi nặng mà vẫn còn những chỗ không vừa ý, lại ngứa
tay muốn sửa nữa. Để thì giờ làm công việc khác, lợi hơn nhiều.
°
DỊCH LOẠI PHỔ THÔNG KIẾN THỨC
Số trang tôi dịch cũng ngang với số trang tôi viết, và những
sách dịch của tôi có thể chia đại khái làm hai loại: loại Học làm người, loại
Văn học, Triết học.
Xét chung về loại Học làm người và phổ thông kiến thức, giáo
dục v.v thấy đề tài nào nhiều người (ngoại quốc và Việt) viết rồi thì tôi kiếm
càng nhiều càng tốt những sách người ta đã viết, đọc cho biết, so sánh, châm
chước ý mỗi nhà, thêm những nhận xét của tôi, rồi viết lại một cuốn cho thanh
niên của mình.
Thí dụ cuốn Luyện lý trí. Tôi đọc trên mười cuốn Pháp, Việt về
vấn đề đó, nhưng tôi không theo một tác giả nào cả vì không thấy một cuốn nào vừa
ý; và tôi đã viết lại, nhấn mạnh vào điểm phải có tinh thần phán đoán, đừng vội
tin những điều thiên hạ tin, lại phải nghi ngờ cả lời dạy của cổ nhân nữa. Có
thể nói rằng tôi đã thành công: tác phẩm của tôi tuy mượn tài liệu trong nhiều
tác phẩm mà không giống một tác phẩm nào. Nó hợp với xã hội Việt Nam hơn, có
ích cho thanh niên mình hơn; nó thực là của tôi. Ngay khi mới xuất bản, một
nhân viên trong một cơ quan nào đó, du học ở Mĩ đã mấy năm, đọc nó, thích và lại
làm quen với tôi.
Có trường hợp tôi không cần phải khảo cứu, cứ rút những kinh
nghiệm trong đời sống của tôi để viết, như cuốn Tương lai trong tay ta mà độc
giả rất hoan nghênh vì lời khuyên thiết thực, giọng chân thành và cảm động. Nó
cũng hoàn toàn là của tôi, trình bày nhân sinh quan của tôi.
Có thể kể vào loại này những cuốn Kim chỉ nam của học sinh, Tự
học một nhu cầu của thời đại v.v trong đó tôi đưa những kinh nghiệm riêng của
tôi, chứ không như một số tác giả chỉ thu thập những ý kiến của phương Tây rồi
viết lại.
Một độc giả, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc đã nhận thấy điểm đó, viết
trong bài Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi (Bách Khoa số 426 - 20.4.75): "Tôi biết
có những tác giả còn "sản xuất" mạnh hơn ông, viết mau và viết mạnh
hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng là những tác phẩm máy móc, sản xuất
hàng loạt. Ở ông Nguyễn Hiến Lê thì không. Ở ông là con người. Tác phẩm của ông
là con người của ông. Ông "dạy" cho thanh niên rèn nghị lực thì chính
ông là một tấm gương nghị lực; ông viết về tổ chức thì chính nếp sống của ông
là một sự tổ chức; ông viết về tự học thì chính ông đã nhờ tự học mà thành
công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực đó, người đọc thấy gần gũi với
ông và những lời ông chỉ dẫn đều ứng dụng được".
Và cũng nhờ vậy mà loại "Học làm người" của tôi được
độc giả tin cậy nhất.
Sau cùng, có những tác phẩm đặc biệt của một danh sĩ như
André Maurois (Thư ngỏ tuổi đôi mươi, Thư gởi người đàn bà không quen biết), B.
Russel (Chinh phục hạnh phúc), Lâm Ngữ Đường (Sống đẹp), Sống hai mươi bốn giờ
một ngày của A.Bennett; hay một tác giả không phải là danh sĩ, nhưng chứa nhiều
ý rất mới như cuốn Xây dựng hạnh phúc của L.A. Huxley, vợ nhà văn Aldous
Huxley; hoặc viết rất hấp dẫn, đào sâu một vấn đề như Đắc nhân tâm, Quảng gánh
lo của Dale Carnegie thì tôi phải dịch, vì tự xét viết không thế nào bằng tác
giả được.
Dịch loại này, trừ các tác phẩm của danh sĩ, tôi thường dịch
thoát, có thể cắt bớt, có thể sửa đổi vài chỗ cho hợp với người mình.
° °
°
DỊCH TRIẾT HỌC, VĂN HỌC
Loại triết học, văn học thì luôn luôn tôi dịch sát (đức tín),
và phải xuôi (đức thuận), sáng sủa, nếu cần thì chú thích.
Tôi dịch nhiều nhất là sách triết Trung Hoa, công việc tương
đối dễ, không phải tạo danh từ mới để diễn những ý niệm mới như dịch sách triết
phương Tây. Cần nhất là hiểu kĩ ý trong sách và muốn vậy phải có những bản chú
thích tốt.
Dịch sách văn học khó hơn dịch sách triết học vì chẳng những
dịch sát ý mà còn phải giữ cả thể văn, có khi cả phép hành văn của tác giả nữa.
Tôi rất ngại việc dịch thơ Trung Hoa, nhất là thơ luật, phải dịch ra thơ luật
mà tôi không làm thơ bao giờ. Trong bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc, chỉ có
một số ít bài do tôi dịch, mà toàn là những bài dễ, còn hầu hết đều do một ông
bác tôi dịch cho và kí tên là Vô danh. Nhưng thơ cổ phong loại "từ"
(một thể thơ), và loại thơ mới của Trung Hoa thì tôi có thể dịch được vì không
bị trói buộc vào niêm luật.
Trái lại, cổ văn Trung Quốc thì tôi tự dịch lấy hết, diễn được
đúng ý và cả thể (biền ngẫu, phú) của nguyên tác, nhiều độc giả cho là thành
công.
Dịch tiểu thuyết phương Tây, tôi nghĩ rằng muốn thành công
thì phải lựa một tác phẩm hay, mà bút pháp tác giả không trái với bút pháp của
tôi, bình dị, tự nhiên như Léon Tolstoi, Somerset Maugham, có vậy thì dịch mới
thú, mà rồi độc giả đọc mới thấy thích.
Tôi sợ nhất là việc dịch Marcel Proust: có lần tôi chỉ dịch một
trang của ông mất cả một buổi, sửa đi sửa lại mấy lần vẫn không vừa ý. Tôi chắc
bất kì người Việt nào dịch văn hào đó cũng thấy khó nhọc như tôi.
Dịch tiểu thuyết Âu Mĩ khó hơn dịch tiểu thuyết Trung Hoa. Mỗi
ngôn ngữ có một lối phô diễn tư tưởng, không thể áp dụng bừa bải lối của người
vào ngôn ngữ của mình được.
Giữa Việt ngữ và Hoa ngữ, sự cách biệt không là bao vì cả hai
đều thuộc loại ngôn ngữ cách thể (langue isolante - hồi xưa gọi là đơn âm) và
hai dân tộc đồng văn với nhau; nhưng giữa Việt ngữ và Pháp ngữ hoặc Anh ngữ có
một bức tường, không phải chỉ phủ nhận bức tường đó là làm cho nó biến đi được.
Không những vậy, tâm hồn của người Âu cũng khác mình, lối suy
nghĩ nhìn đời của họ cũng vậy; họ lại có những dụng ngữ, ý niệm mà chúng ta
không có (chẳng hạn những tiếng gentlement, honnêtre homme, bourgeois, chúng ta
không thể dịch cho thật đúng được); ngược lại chúng ta cũng có những dụng ngữ,
ý niệm mà họ không có (như tiếng quân tử, sĩ phu, âm dương).
Vì vậy, dịch sách Pháp, Anh chúng ta thường phải dịch thoát, đảo
lên đảo xuống, thay đổi tổ chức của câu, có khi ta bắt buộc phải tìm hiểu ý của
tác giả rồi quên nguyên tác đi, diễn lại ra sao cho hợp với tinh thần tiếng Việt,
để những đồng bào không biết ngoại ngữ hiểu được như ta, hiểu mà không thấy bỡ
ngỡ, chướng tai; dịch các sách triết, khoa học như vậy thì không có hại, dịch
văn thơ mà phải theo lối đó thì cái hay trong nguyên tác mười phần mất đến sáu
bảy, như trường hợp dịch Chateaubriant, A. France, hai nhà này là những nghệ
sĩ, văn du dương như thơ.
Cách xưng hô, nói năng của họ khác mình, Pháp có những tiếng
je, vous, il, mình phải khéo chuyển ra tiếng Việt cho hợp với mỗi hạng người. Vợ
chồng họ thường gọi nhau chéri(e) cả trước mặt người lạ; chúng ta không thể dịch
sát nghĩa ra là anh yêu dấu hoặc em cưng được, chỉ có thể dịch ra là
"mình" hoặc "em" được thôi, trừ khi hai vợ chồng ở trong
phòng riêng tỏ vẻ âu yếm với nhau.
Rồi những câu tục ngữ của họ nữa, dịch sát thì cũng được,
nhưng như vậy thì không khéo mà phải chú thích, phải rán tìm một tục ngữ Việt
tương đương để chuyển.
Chẳng hạn trong bộ Chiến tranh và Hoà bình, Léon Tolstoi cho
một nhân vật trong truyện bảo một thiếu nữ: "Sao em không ở nhà mà quay
xa"; một bản tiếng Pháp chuyển ra thành: "Sao em không yên ổn trồng
rau, chúng đánh đau thì chịu"; tôi tìm được câu tục ngữ tương đương mà gọn:
"trêu có, cò mổ mắt". Nhưng mười lần, may lắm là tìm ta được hai ba lần
như vậy. Ông Vi Huyền Đắc không dịch câu: "Nous nous connaissions depuis
l’âge des chausesettes" là "Chúng tôi biết nhau từ khi còn đi vớ ngắn"
(vì trẻ em Việt rất ít khi đi vớ), cũng không dịch là "chúng tôi biết nhau
từ khi còn để chỏm" (vì trẻ em Pháp không để chỏm); mà dịch là "chúng
tôi biết nhau từ khi hỉ mũi chưa sạch", cũng đã là khéo chuyển lắm, độc giả
chỉ thấy xuôi tai thôi chứ ít ai nhận được công phu của người dịch.
Có khi mình có những điển như Tây Thi, Từ Hải, Tú Bà, Sở
Khanh, diễn đúng điển của họ, mà không thể dùng được vì không thể cho một người
Anh hay một người Pháp bảo: "Hắn là một tên Sở Khanh", nghe chướng lắm;
đành cứ phải để là Don Juan rồi chú thích ở cuối trang.
° °
°
DỊCH MỘT TIỂU THUYẾT DÀI
Tôi rút ra được kinh nghiệm này khi dịch những tiểu thuyết
dài 700- 800 trang trở lên của Anh, Pháp, Nga.
Muốn cho bản dịch được nhất trí, và đỡ mất thì giờ, nên chép
lên một tờ giấy riêng tên những đồ dùng của họ mà mình không có, như cái
samovar, cái traîneau tìm một lối dịch, rồi ghi ngay ở bên cạnh, chẳng hạn: ấm
lò, xe trượt tuyết để sau gặp lại kiếm được ngay, khỏi phải dịch lại.
Những tiếng có nhiều nghĩa, như tiếng animé, tuỳ chỗ phải dịch
là có hồn, có sinh lực, náo nhiệt, khởi sắc, hung hăng, hoạt động, hoạt bát,
nhiệt tâm, linh động, hồng hào, hăng hái, kịch liệt cũng nên ghi tất cả những
nghĩa đó trên một tờ giấy riêng để sau dễ lựa nghĩa nào hợp với đoạn văn phải dịch.
Nhất là phải lập một bảng ghi tên các nhân vật chính và phụ
trong truyện với địa vị xã hội, nghề nghiệp, tuổi tác, tình bạn bè hoặc họ hàng
giữa những nhân vật này với nhân vật khác; định cho nó một cách xưng hô với
nhau hồi trẻ ra sao, về già ra sao để khỏi mắc lỗi mâu thuẫn trong cách xưng
hô. Vì không lập bảng ngay từ đầu bộ Chiến tranh và Hoà bình mà tôi đã tốn rất
nhiều thì giờ, có khi dịch cả ngàn trang rồi phải lật lại những trang trước để
tìm xem nhân vật này gọi một nhân vật khác là gì: anh hay cậu, chị hay cô, bác
hay chú Văn dịch của chúng ta ngày nay so với vài ba chục năm về trước đã tiến
bộ, bớt lai căng, nhưng vẫn còn một số dịch giả cả ở Nam lẫn ở Bắc làm việc cẩu
thả, dịch đúng từng chữ, không chịu tìm cách chuyển qua tiếng Việt, thành thử lời
đã sượng, ý lại rất tối.
Năm 1968 trong tạp chí Bách Khoa số 281, tôi đã nêu vấn đề đó
đưa ra nhiều thí dụ. Muốn mau trừ cái tệ đó tôi nghĩ các nhà xuất bản và nhà
báo phải từ chối tất cả các bản dịch có giọng lai căng, không xuôi tai, chỉ có
cách đó mới bắt người dịch phải tìm ra những cách phô diễn mới mà thích hợp với
Việt ngữ. Công việc này rất có lợi cho Việt ngữ, phải tốn sức trong một thời
gian dài, có thể vài ba chục năm.
° °
°
DỊCH MỘT TÁC PHẨM NHƯ DIỄN MỘT BẢN NHẠC
Đã hơn mười năm rồi, một buổi tối mùa Xuân tôi được nghe một
dàn nhạc từ Mĩ qua hoà tấu ở Sở Thú cho giới trí thức, văn nhân, học giả Sài
Gòn thưởng thức. Họ bắt đầu bằng bản Quốc thiều Việt Nam. Tôi thấy rất du
dương, từ bỗng xuống trầm rất dịu dàng; như có tiếng gió thổi nhẹ trong cành lá
trên đầu chúng tôi vậy - thính giả ngồi giữa trời. Dĩ nhiên họ tấu rất đúng Quốc
thiều của ta nhưng nó không làm cho máu ta sôi lên như biết bao nhiêu lần trước
tôi đã nghe các nhạc công của mình tấu.
Tôi có băng cổ nhạc Nam Bình, lâu lâu tôi cho chạy để nghe
bài Vọng cố hương và bài Lan và Điệp. Cũng là bản vọng cổ, cũng do ba nhạc công
hoà (Bảy Bá, Năm Cơ, Văn Vĩ), chỉ khác bài Vọng cố hương là dùng đàn tranh, đàn
guitare, đàn kìm; còn bài Lan và Điệp dùng đàn tranh, đàn guitare và đàn sến, vậy
mà bài Lan và Điệp ai oán, lâm li hơn bài Vọng cố hương nhiều.
Tôi lại nhớ năm 1935, khi còn làm Sở Thuỷ lợi, đi đo mực nước
miền Tây, có một người giúp việc cho tôi tên Tám quê ở làng Tân Thạnh, quận Chợ
Mới, chơi đàn kìm rất hay, đặc biệt nhất là bài Vọng cổ, anh có một lối nhấn rất
lạ, không giống ai, khiến bản Vọng cổ dưới ngón tay anh có giọng lâm li mà vẫn
hùng, tôi nghe thích hơn bản Văn Thiên Tường.
Vậy nhạc trưởng và cả nhạc công nữa, nếu có tài thì đều có
công sáng tác khi trình diễn một bản nhạc. Cũng là bản nhạc đó, những nốt nhạc
đó, mà không một nghệ sĩ nào trình diễn giống nghệ sĩ nào, tài đã khác nhau mà
cảm xúc, lối diễn cũng khác nhau, vẫn có cái gì riêng - của mỗi người, dễ dàng
nhận ra được.
Tôi không biết gì về nhạc, hiểu như vậy không biết có đúng
không, và tôi nghĩ rằng văn thơ cũng như nhạc, dịch một bài văn một bài thơ,
cũng như diễn một bản nhạc, cũng là làm công việc sáng tạo mặc dù dịch rất sát
không thêm bớt. Dịch giả - nếu có tài - cũng là một nghệ sĩ, và mỗi bản dịch
cũng là một nghệ phẩm. Không bản dịch nào đúng hẳn với nguyên tác; bản dịch nào
cũng mang ít nhiều cá tính, tài năng của người dịch, tinh thần của ngôn ngữ người
dịch, cũng để lộ tâm tư của người dịch, cái không khí thời đại của người dịch.
Muốn thấy rõ điều đó, chúng ta chỉ cần so sánh nguyên tác bài
Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị với bản dịch của Phan Huy Vịnh (nhà xuất bản Nam Việt
- 1952).
Mới câu đầu; chúng ta đã thấy hai bản có cái gì khác nhau, mặc
dù cũng bảy chữ và bản dịch rất sát nguyên bản:
"Tầm dương giang đầu dạ tống khách"
Không buồn, không vắng vẻ, mông lung bằng:
Bến tầm dương canh khuya đưa khách.
Tôi có cảm tưởng như vậy, có lẽ dạ, dịch ra là canh khuya, Dạ
(đêm) không gợi ý bằng canh khuya.
Tài năng của họ Phan, tinh thần của tiếng Việt là ở chỗ đó.
Bốn năm trước, một bạn văn ở Trung Việt cho tôi hay một độc
giả của tôi nói với ông: "Đọc bản dịch Guerre et Paix của Pháp tôi thấy
hùng, mà đọc bản dịch của ông Lê tôi thấy buồn và đẹp".
Tôi chưa hề nhận thấy như vậy, mà tôi cũng không có cơ hội
xin độc giả chỉ cho tôi một vài đoạn trong bản của tôi và bản tiếng Pháp ông ấy
đã đọc để tôi so sánh. Nếu lời ông ấy đúng thì thật là ngoài ý muốn của tôi -
vì khi dịch tôi không bao giờ mong dịch đẹp hơn, buồn hơn bản tiếng Pháp cả.
Nhưng điều đó có thể hiểu được: tiếng Việt có thể không hùng bằng tiếng Pháp,
mà du dương hơn tiếng Pháp nhờ những âm bằng trắc, bổng trầm.
Một độc giả khác cũng ở Trung bảo đọc bản tiếng Pháp cuốn Il
est un pont sur la Drina của nhà Plon, chỉ được vài chục trang chán quá phải bỏ;
mà đọc bản dịch Chiếc cầu trên sông Drina (Trí Đăng - 1972) thì say mê từ đầu tới
cuối.
Điều này rất dễ hiểu: người Việt dù thông thạo tiếng Pháp, đọc
tiếng Việt vẫn thích hơn đọc tiếng Pháp nếu hai bản có giá trị ngang nhau vì
chúng ta dễ cảm được những tế nhị, những âm hưởng, tiết điệu trong tiếng Việt
hơn của tiếng Pháp.
Mà đọc sách Trung Hoa thì cũng vậy, mặc dù ngôn ngữ, văn thơ
Hoa, Việt có nhiều điểm giống nhau. Vì thế mà các nhà Nho của ta thích bản Tì
Bà Hành của Phan Huy Vịnh hơn, thuộc bản đó hơn nguyên bản của Bạch Cư Dị.
Đọc câu thứ hai của bài đó:
"Phong diệp địch hoa, thu sắt sắt"
và câu dịch:
Quạnh hơi thu, lau lách dìu hiu
thì câu của họ Phan làm tôi rung động hơn nhiều, nhờ những chữ:
lau lách dìu hiu, cả chữ quạnh, chữ hơi nữa vì ta thấy lau lách buồn hơn địch
hoa; hơi thu, đìu hiu gợi cảm hơn thu sắt sắt.
Nhưng một người Trung Hoa đọc câu của Bạch chắc cũng thích
hơn câu của Phan vì phong diệp (lá phong), sắt sắt (tiếng gió vi vút) gợi cho họ
một cảnh thu thê thảm hơn. Mà cảnh thu ở Trung Hoa thê thảm hơn ở Việt Nam thật.
Mỗi tác phẩm bất hủ của một dân tộc nào nếu khéo dịch cũng
thành một tác phẩm bất hủ của một dân tộc khác, thành một bảo vật trong kho
tàng chung của nhân loại. Bản Tì Bà Hành của Bạch Cư Dị và bản dịch của Phan
Huy Vịnh thật là hai kiệt tác diễn được cả tâm sự của Bạch lẫn của Phan làm
rung động tâm hồn hai dân tộc Hoa và Việt. Chúng ta phải khuyến khích việc dịch,
luyện văn dịch, và rán dịch nhiều văn thơ của ngoại quốc để làm giàu văn hóa của
mình. Nười Pháp khen Baudelaire dịch Histoires extraordinaires (Truyện Quái đản)
của Edgar Poe là rất sát và rất hay, quí nó không kém những tập truyện ngắn nổi
tiếng nhất của họ.
Trong một số tác phẩm, tôi đã bàn về nhiều vấn đề trong
chương nầy:
- Vấn đề nguyên tác - (Nghề viết văn - Phần II, chương III).
- Bút pháp và cá tính - (Vài vấn đề xây dựng văn hóa - tr.8).
- Văn chương và dân tộc tính - (nt - tr.16).
- Tìm ý - (Nghề viết văn - Phần II, chương IV).
- Viết - (Nghề viết văn - Phần II, chương V).
- Bí quyết luyện văn - (Luyện văn III, tr.148).
- Dịch là một cách luyện văn - (Luyện văn III, tr.149).
- Dịch văn ngoại quốc (Bách Khoa số 281 năm 1968).
- Sự thuần khiết trong ngôn ngữ (Bách Khoa số 282 năm 1968).
--------------------------------
1 Tập du kí Đế Thiên Đế Thích, tôi viết từ 1943; năm 1968.
hai mươi lăm năm sau mới xuất bản, nhà văn Võ Phiến đọc rồi, bảo văn tôi trong
hai mươi lăm năm đó không có gì thay đổi.
CHƯƠNG XXVII - HAI CHỤC NĂM LÀM VIỆC TÍCH CỰC
S
ÁCH TÔI VIẾT TỪ 1955 ĐẾN 1975
Cuối năm 1954, khi thành lập nhà xuất bản ở 50 Huỳnh Tịnh Của,
tôi đã có được khoảng mười lăm tác phẩm và mươi bài trên các báo Việt Thanh,
Giáo dục phổ thông, Mới (của nhà P. Văn Tươi), không kể những bài trên tờ Tân
Việt Nam (1945). Những tác phẩm đó thuộc các loại:
Tổ chức công việc.
Giáo dục, Học làm người.
Văn học.
Ngữ pháp - Luyện văn.
Lịch sử (Lịch sử thế giới).
Du kí.
Non hai phần ba số đó đã ra mắt độc giả, còn thì hai ba năm
sau mới in.
Từ 1955, liên tiếp hai chục năm:
Tôi mở rộng, một mặt đào sâu các đề tài đã viết, như về:
- Tổ chức công việc, tôi viết thêm những cuốn Tổ chức công việc
làm ăn, Lợi mỗi ngày được một giờ
- Giáo dục và Học làm người, tôi viết thêm trên ba chục cuốn:
Thời mới dạy con theo lối mới, Tìm hiểu con của chúng ta, Thế
giới bí mật của trẻ em
Rèn nghị lực, Luyện lý trí, Tương lai ở trong tay ta, Nghệ
thuật nói trước công chúng, Cách xử thế của người nay, Xây dựng hạnh phúc,
Chinh phục hạnh phúc, Giúp chồng thành công, Giữ tình yêu của chồng, Con đường
lập thân
Trong loại này có thể kể hơn một chục cuốn Tiểu sử danh nhân:
Gương danh nhân, Giương hi sinh, Gương kiên nhẫn, Gương chiến đấu, Ý chí sắt đá,
Những cuộc đời ngoại hạng, Einstein, Bertrand Russell, Đời nghệ sĩ (chưa xuất bản)
Khi dịch cuốn Huấn luyện tình cảm của P.F. Thomas (năm 1941)
tôi để ý đến đoạn này ở chương XXI:
"Đời các vĩ nhân cho ta một lí tưởng, một kiểu mẫu để bắt
chước () Nhờ có gương của họ mà ta trở nên khá, có can đảm, kiên nhẫn, để đi tới
mục đích mà không sa ngã, điều đó Auguste Comte hiểu rõ lắm, cho nên ông khuyên
ta nên in tên các danh nhân của nhân loại lên trên lịch để cho chúng ta mỗi
ngày có dịp trầm tư về các vị ấy, hàng ngày bái vĩ nhân như Emerson còn là một
thứ thuốc nó tẩy sạch cái bệnh tự tôn ở mắt ta đi và cho ta thấy được người
khác và những công nghiệp của họ.
"() Vì vậy không có gì bổ ích bằng những truyện kí dạy ở
trường. Biết chọn những truyện đó và lựa lúc đọc cho học sinh nghe thì những
truyện đó là những bài học dễ hiểu, vui vẻ, cụ thể, dạy cho chúng can đảm, có đức
hạnh. Những truyện kí về các danh nhân đó, khéo viết thành sách còn có ích cho
thiếu niên nữa. Người nào biết làm cho thiếu niên bỏ những sách nhạt nhẽo, nhảm
nhí mà hướng cả về những truyện có ích ấy, thật là giúp được một việc lớn nhất
trong nước. Công của tất cả các nhà đạo đức hợp lại cũng không lớn bằng công
răn dạy quần chúng ấy".
Đoạn trên đó kích thích tôi mạnh và ngay từ hồi đó đã có ý
theo lời khuyên bảo của Thomas. Nhưng mãi đến năm 1959, nhờ thu thập được một số
khá nhiều tiểu sử danh nhân, tôi mới lựa chọn mà viết được cuốn đầu nhan đề là
Gương danh nhân. Rồi từ đó cứ một hai năm tôi lại viết thêm một cuốn với tất cả
sự chân thành, nhiệt tâm của tôi. Tôi lựa toàn là những nhà tài đức cao, như
tôi đã nói ở trên. Những người có danh tiếng lớn, có tên trong lịch sử nhân loại
mà đức kém thì tôi cũng loại bỏ. Vì vậy trong số trên bảy chục danh nhân tôi viết
tiểu sử, không có Thành Cát Tư Hản, César, Napoléon mà có bà La Fayette. Đọc tiểu
sử bà này và tiểu sử bà Curie tôi viết, một nhà văn ở Trung Việt bảo đã xúc động
đến rơm rớm nước mắt. Và độc giả nào cũng nhận Tiểu sử danh nhân của tôi có tác
động lớn.
- Văn học Trung Quốc tôi viết thêm bộ Văn học Trung Quốc hiện
đại, Tô Đông Pha, Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa, Cổ văn Trung Quốc, Chiến
Quốc sách, Sử kí của Tư Mã Thiên
- Luyện văn, tôi viết thêm bộ Hương sắc trong vườn văn, Tôi tập
viết tiếng Việt (chưa xuất bản).
- Ngữ pháp, tôi viết chung với Trương Văn Chình thêm cuốn Khảo
luận về ngữ pháp Việt Nam.
- Lịch sử, thêm Đông kinh nghĩa thục, Bài học Israël, Bán đảo
Ả Rập và dịch năm cuốn trong bộ Lịch sử văn minh của Will Durant.
Mặt khác, tôi bước vào vài khu vực mới:
- Triết học Trung Quốc: Mới đầu chỉ là một cuốn mỏng: Nho
giáo, một triết lí chính trị; sau nhờ duyên văn tự và cũng nhờ Hiệp định Genève
tôi được gặp ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn; lại nhờ ông bạn ở Pháp, ông Tạ Trọng
Hiệp tìm kiếm cho tài liệu ngoại quốc, tôi tiến sâu vào khu vực đó, tới đầu năm
1975 đã xuất bản được bộ Đại cương triết học Trung Quốc 2 cuốn (chung với Giản
Chi), Nhà giáo họ Khổng, Liệt Tử và Dương Tử, Mạnh Tử và tới nay (1980) tôi có
thêm được bảy tám bộ nữa về các triết gia thời Tiên Tần: Tuân Tử, Hàn Phi (cả
hai viết chung với Giản Chi), Mặc Tử, Lão Tử, Trang Tử, Khổng Tử, Luận Ngữ,
Kinh Dịch (tất cả đều chưa xuất bản).
- Tôi xông cả vào khu Chính trị, kinh tế: Một niềm tin, Xung
đột trong đời sống quốc tế...
- Thấy tiểu thuyết hay, tôi cũng dịch, một phần do ý muốn của
tôi, một phần do lời yêu cầu của vài nhà xuất bản: Lá Bối, Ca Dao, Trí Đăng,
như bộ: Chiến tranh và Hoà bình, Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu
- Ngoài ra từ 1957, tôi còn viết đều đều mỗi tháng một hay
hai bài báo cho các tạp chí định kỳ Bách Khoa (nhiều nhất), Mai, Tin Văn và mỗi
năm trung bình viết một bài Tựa cho một tác phẩm của một bạn văn.
Tính sổ lại trong hai chục năm hoạt động, tôi đã cho ra được:
- Khoảng chín chục nhan đề, cộng với những nhan đề đã xuất bản
trước 1955, được chẳn một trăm, với bốn nhan đề chỉ là một tập mỏng vài chục
trang (loại Bông hồng cài áo của nhà Lá Bối) nhưng cũng có 7-8 nhan đề gồm 2,
3, 4 cuốn, từ 400 đến hơn hai ngàn trang, đa số từ 200-300 trang.
- Viết được trên mười tác phẩm chưa xuất bản, mỗi cuốn từ hai
đến năm trăm trang, có nhiều cuốn về triết học Trung Hoa thời Tiên Tần.
- Viết khoảng 250 bài báo mà một nửa in thành sách, một nửa
không.
- Và viết giúp bạn trên 20 bài Tựa, đa số cho loại biên khảo,
một số ít cho loại thơ và tuỳ bút.
°
BÁO TÔI HỢP TÁC
Hiệp định Genève kí năm 1954 thì năm 1955 thi sĩ Bàng Bá Lân
mà tôi biết danh từ lâu, di cư vào Sài Gòn kiếm được một căn nhà trong ngõ hẻm
gần khu tôi ở, lại làm quen với tôi. Ông sở dĩ biết tôi vì ở Bắc đã đọc cuốn
Luyện văn, trong đó tôi trích dẫn vài câu thơ của ông.
Ông làm chủ nhiệm tờ Bông lúa, do chính phủ tài trợ, mỗi
tháng ra một số dày dăm bảy chục trang, khổ nhỏ. Bài vở hầu hết là của ông, ông
nhờ vài bạn văn tiếp tay. Nhân có một số tiểu luận và kịch bản đã dịch sẵn từ
tiếng Anh và tiếng Pháp, tôi vị tình đưa ông đăng, hoàn toàn là giúp ông. Năm
1956, tờ đó đình bản, số cuối đăng trọn bản dịch kịch Công ty Lạc sinh của tôi.
Tờ đó bán rất ít, gần như không ai biết.
BÁCH KHOA
Năm 1957, tạp chí Bách Khoa ra được hai số thì nhà văn Nguyễn
Hữu Ngư (Ngu Í) dắt bà Phạm Ngọc Thảo lại giới thiệu với tôi để nhờ tôi viết
giúp tờ Bách Khoa mà chồng bà có chân trong toà soạn, hoặc ít ra cũng là cộng
tác viên.
Tôi không hề quen ông bà Thảo, chỉ do Nguyễn Hữu Ngư mà biết
bà là em ruột giáo sư Phạm Thiều hồi đó đã tập kết ra Bắc, còn ông là một nhân
viên khá quan trọng trong kháng chiến miền Nam. Tôi cũng không biết người sáng
lập tờ Bách Khoa là ai, toà soạn gồm những ai, chỉ thấy bà Thảo nhã nhăn, có học
thức, mà tạp chí đó bài vở cũng đứng đắn, nên tôi góp với họ bài Quan niệm sáng
tác của Edgar Poe, bài The Raven mà tôi đã viết từ trước, chưa có dịp dùng tới.
Bài đó được đăng ngay trong số 4 (Tạp chí ra mỗi tháng 2 kỳ).
Tiếp theo, tôi cũng gởi cho họ ba bài nữa cũng về văn học, bài Tiếng Việt ngày
nay, Vấn đề dịch văn, Phép dịch thơ, cũng được toà soạn cho đăng ngay trên các
số 5, 6, 7, 8. Từ đó, lâu lâu tôi gởi thêm một bài về Nho giáo, về danh nhân
hay về văn học, toàn là do bà Thảo hay ông Ngư làm trung gian, chứ tôi vẫn chưa
lại toà soạn. Hợp tác với báo nào tôi vẫn giữ tư cách một độc giả góp bài chứ
không dự gì vào đường lối, công việc của toà soạn. Tôi không nhớ mấy tháng sau,
có dịp đi qua số 160 đường Phan Đình Phùng mới ghé toà soạn Bách Khoa cách nhà
tôi khoảng một cây số gặp ông Hoàng Minh Tuynh và vài anh em nữa. Tôi cũng
không nhớ bao lâu sau tôi mới gặp ông Phạm Ngọc Thảo, một người thấp nhỏ, rất
hoạt động, hoạt bát, có tư tưởng tiến bộ, viết một số bài về quân sự, ý kiến
xác đáng, tỏ ra có kinh nghiệm và biết suy nghĩ. Hai ông Tuynh và Thảo có vẻ
quí tôi cả. Từ đó tôi hợp tác đều đều cho tới khi đình bản, tháng 5 năm 1975.
Trong lịch sử báo chí của nước nhà, tờ Bách Khoa có một địa vị
đặc biệt. Không nhận trợ cấp của chính quyền, không ủng hộ chính quyền mà sống
được mười tám năm, từ 1957 đến 1975, bằng tờ Nam Phong, có uy tín, tập hợp được
nhiều cây bút giá trị như Nam Phong, trước sau các cộng tác viên được khoảng một
trăm.
Mới đầu chỉ là một nhóm công chức cao cấp nghiên cứu về kinh
tế, tài chính, quân sự do Huỳnh Văn Lang thành lập. Họ xin được nhãn báo
(manchette) của tờ Bách Khoa bình dân đã chết từ số 2, cắt hai chữ "bình
dân" đi; rồi hùn nhau để tục bản.
Họ đa số là những người đã tham gia kháng chiến chống Pháp trở
về, không hoạt động cho kháng chiến nữa, mặc dầu là công chức nhưng không ưa
Pháp.
Năm đầu, đăng nhiều bài về kinh tế và một số bài về công
giáo, nên có tính chất nặng nề, nhưng báo sống nổi: nhờ chủ nhiệm Huỳnh Văn
Lang làm giám đốc Viện Hối đoái, tờ báo thu được nhiều quảng cáo.
Đến năm 1959, một phần nhờ ông Lê Ngộ Châu, có hồi theo kháng
chiến rồi về Hà Nội dạy ở một trường trung học tư, được Huỳnh Văn Lang giao cho
nhiệm vụ tựa như thư kí toà soạn, mà tờ báo khởi sắc, có một đường lối rõ rệt,
đường lối thứ ba, không theo Cộng mà cũng không theo Mĩ, và tập hợp được một số
cây bút có kinh nghiệm làm nồng cốt như Võ Phiến, Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân,
Phan Du, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc.
Khi báo có uy tín rồi (từ 1960 trở đi) ông Châu tập hợp thêm
một số cây viết trẻ, từ đó báo đăng nhiều bài có giá trị cả về biên khảo, lẫn
sáng tác, và chính nhờ hợp tác với Bách Khoa mà những cây viết đó nổi tiếng
như: Vũ Hạnh, Võ Phiến, Lê Tất Điều, Cô Liêu, Ngu Í, Phạm Việt Châu, Phan Văn Tạo,
Đoàn Thêm (hai người sau là nhân viên cao cấp trong chính quyền Ngô Đình Diệm),
nhất là các nữ tiểu thuyết gia Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Thuỵ Vũ, Tuý Hồng
Ngu Í chuyên về phỏng vấn, từng trải, có nhiều nhiệt tâm, văn
có duyên.
Võ Phiến còn kí tên là Tràng Thiên, Thu Thuỷ, viết tiểu thuyết
nhưng thành công nhất về tạp bút (tuỳ bút), ý sâu sắc và lời dí dỏm. Ông khéo
phân tích tâm lí nhân vật, tả cảnh vật tài tình, linh động.
Phan Văn Tạo, bút hiệu Vũ Bảo, viết về thời sự và hồi ký.
Phạm Việt Châu chuyên về chính trị quốc tế và nhận định thời
cuộc.
Có tinh thần đồng đội giữa những cây viết chính. Trong mười
năm đầu, họ thường họp nhau ở toà soạn - 160 Phan Đình Phùng - hội ý trước về
các đề tài, góp ý về nội dung các bài phê bình, đả kích. Tôi không khi nào dự cả,
nhưng thỉnh thoảng ông Châu cũng nhờ tôi cho ý kiến về một bài gởi đăng mà đề
tài tôi biết rõ hơn ông, như Văn học, Triết học Trung Quốc.
Tư tưởng của những cây viết chính có khi trái ngược nhau. Vũ
Hạnh thiên Cộng, sau theo Cộng; Võ Phiến chống Cộng; Đoàn Thêm và Phan Văn Tạo
không ưa Cộng cũng không đả, "không thích Mĩ" nhưng cũng không nói
ra; tôi, có lẽ cả Ngu Í và Lê Ngộ Châu nữa, có cảm tình với kháng chiến, nhưng
khác hai ông ấy. Càng về sau, từ 1965 trở đi Mĩ đổ nửa triệu quân vào miền Nam
tôi càng đả mạnh Mĩ và chính quyền Thiệu bù nhìn của Mĩ.
Mặc dầu vậy, các anh em trong toà soạn vẫn giữ tình hoà hảo với
nhau. Xu hướng trái ngược với nhau như Vũ Hạnh và Võ Phiến mà họ vẫn trọng tư
tưởng của nhau (ít nhất là trong mười năm đầu) và gặp nhau tránh nói về chính
trị. Đó là điều tôi quí nhất.
Nhờ anh em ai cũng có tinh thần đó nên buổi họp nào ở toà soạn
cũng đông và vui, như Phan Du đã tả trong bài Văn đàn tình thoại (BK số 361,
tr. 62): "Bất luận là trẻ già, là cũ mới, là duy vật duy tâm, là Phật giáo
hay Công giáo, khuynh hướng chính trị, văn chương như thế nào, đều được đón nhận
với sự cảm thông, và được chung đụng trong cái thể hoà đồng, cởi mở".
Tờ báo có chủ trương đăng tất cả các sáng kiến cá nhân dù
đúng hay sai, miễn là thành thực, có tinh thần xây dựng về bất cứ vấn đề gì: từ
chính trị, quân sự, tới kinh tế xã hội, văn học, khoa học mà "không giới hạn
ở lập trường chính trị nào, phe nhóm nào". Dĩ nhiên, bị kiểm duyệt cắt -
nhất là trong bảy tám năm cuối - nên không một cây viết nào có thể trình bày hết
ý mình được, mặc dầu vậy Bách Khoa vẫn được độc giả cho là "dám nói".
Sau ngày giải phóng 1975, nhiều học giả Bắc nhận là một tờ báo "nghiêm chỉnh",
tuy chống đối cả Cộng sản lẫn Tư bản, nhưng có lập trường đứng đắn, lí luận vững,
ngôn ngữ đàng hoàng; và hiện nay các số báo Bách Khoa cũ càng ngày càng có giá
trị: một bộ cũ rách, từ đầu đến cuối, thiếu độ mười số, bán được gần 5.000đ
(năm 1983), (đủ bộ mà tốt: 10.000đ).
Bách Khoa thịnh nhất trong những năm 1959-1963 bán được từ
4.500 đến 5.000 số, độc giả dài hạn được trên 1.000 mà khoảng 100 ở ngoại quốc,
tờ Văn bán chạy hơn, còn các tờ định kì khác thì trung bình được 3.000 số.
Sau cuộc đảo chính 1963, chủ nhiệm Huỳnh Văn Lang bị bắt
giam, rồi tờ báo bị đe doạ đóng cửa, phải đổi giấy phép - Lê Ngộ Châu làm chủ
nhiệm thay Huỳnh Văn Lang - đổi tên là Bách Khoa Thời đại; từ đó suy giảm về
tài chánh (vì mất nhiều quảng cáo) nhưng nói chung nhóm biên tập vẫn như cũ.
Từ vụ Tết Mậu Thân (1968), tờ báo mất một số lớn độc giả miền
Trung - mà độc giả đó là phân nửa độc giả BK - giá giấy và công in lại cao, nên
lỗ. Ông Lê Ngô Châu rán giảm mọi chi phí - cả toà soạn chỉ có ông và hai người
giúp việc mà duy trì tờ báo tới đầu 1975. Một ông bạn tôi - nhà văn tập kết về
- phải ngạc nhiên về sự làm việc của toà soạn, vì theo ông thì ở Bắc, một tờ định
kì như vậy phải dùng ba chục nhân viên là ít.
Từ trước tới sau, Bách Khoa giữ được trọn tình cảm của hạng độc
giả đứng tuổi; còn giới trẻ thì chê là khô khan, nặng về biên khảo mà nhẹ về
sáng tác (thơ, tiểu thuyết). Lẽ đó dễ hiểu.
Tuy nhiên phải nhận rằng Bách Khoa không có ảnh hưởng lớn như
Nam Phong, Phong Hoá, Ngày Nay trong dân chúng.
Nam Phong ra đời ở buổi giao thời, văn hóa cũ bắt đầu chuyển
mạnh qua văn hóa mới của phương Tây, số người viết ít mà số người đọc cũng ít,
bao nhiêu cây viết có giá trị đều dồn vào tờ đó cả, không một tờ nào khác có
nhiều bài đáng đọc và nhiều độc giả như Nam Phong, có thể cạnh tranh nổi với
nó; nó lại được trợ cấp nên đứng vững được, những tờ báo khác có ra cũng chỉ được
ít số là chết. Có thể nói Nam Phong một mình một chợ, do đó có ảnh hưởng, uy
tín lớn.
Bách Khoa sinh sau bốn chục năm, vào thời mà số người viết
đông, số độc giả cũng đông, gồm nhiều khuynh hướng, nên bị nhiều báo định kì
(có lẽ đến non chục) chia bớt độc giả và Bách Khoa chỉ nhắm vào số độc giả đứng
tuổi, số này bao giờ cũng ít, ảnh hưởng do đó kém.
Lại thêm Bách Khoa không có một chủ trương mới mẻ, mạnh mẻ cải
cách cả về tư tưởng lẫn sự trình bày như tờ Phong Hoá, Ngày Nay, trước sau vẫn
giữ lập trường ôn hoà, đứng giữa, không theo Cộng, không theo Mĩ, như vậy làm
sao gây nổi một phong trào mà ảnh hưởng lớn tới quốc dân được như nhóm Tự Lực?
Thời đó có một nhóm nhà văn trẻ ở Bắc di cư vào lập nhóm Sáng
Tạo muốn làm một cuộc cải cách, nhưng họ không đủ kiến thức, tài năng, chỉ hô
hào chống Cộng - điểm này không có gì mới cả - mà cũng không sâu sắc, vì họ ít
đọc sách báo ngoại quốc; và đả đảo lối viết của nhóm Tự lực trước kia, mà người
cầm đầu Sáng Tạo - Mai Thảo - lại có bút pháp cầu kì, "làm duyên làm
dáng", không hợp thời chút nào, chính bọn họ cũng không theo. Rốt cuộc chẳng
gây được tiếng vang nào cả.
Tôi với Võ Phiến là hai người cộng tác với Bách Khoa đều nhất,
lâu nhất. Từ đầu tới cuối Bách Khoa ra được 426 số thì 242 số có bài của tôi,
bài cuối đăng trên số 424.
Sự hợp tác với các báo định kì rất có lợi cho tôi. Mới đầu
tôi gởi đăng bài hay chương của tôi đã viết rồi mà chưa xuất bản, về văn học,
triết học, gương danh nhân; đó là một cách tự giới thiệu trước với độc giả.
Sau hoặc tự ý tôi, hoặc do toà soạn nhờ viết, do độc giả gợi
ý, tôi mở rộng tầm hoạt động, viết về những vấn đề không có trong chương trình
trứ tác của tôi; nhờ sự thúc đẩy, khuyến khích đó tôi phải đọc nhiều hơn, viết
nhiều hơn, chú ý tới thời cuộc, tình hình trong nước và thế giới hơn. Tôi không
tự giam trong "Tháp ngà"; mặc dầu một tuần hay nửa tháng mới ra khỏi
nhà, cả năm không đi dự một cuộc họp nào cả, nhưng tôi luôn luôn theo dõi tất cả
những biến chuyển trong nước và trên thế giới và kịp thời góp ý kiến với quốc
dân.
- Trên tờ Bách Khoa, tôi lâu lâu làm công việc điểm sách, tức
công việc giới thiệu và phê bình. Không khi nào tôi điểm những sách dở, vì
không thích đã kích ai cả; chỉ lựa những tác phẩm đứng đắn - phần nhiều trong
loại khảo cứu - có vài chữ đáng khen để giới thiệu; khi chê thì tôi giữ công
tâm và một giọng nghiêm trang.
Tôi đã điểm một số sách có giá trị như Việt ngữ chánh tả của
Lê Ngọc Trụ (năm 1960), Le parler Vietnamien của Lê Văn Lý (1959), Đường thi
trích dịch của Bùi Khánh Đản và Đỗ Bằng Đoàn (1959), Việt Nam ca trù biên khảo
của Đỗ Bằng Đoàn (1962), Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức; vài cuốn Địa phương
chí như Nước non Bình Định, Xứ Trầm Hương của Quách Tấn một hai tiểu thuyết và
truyện ngắn của Bình Nguyên Lộc, Đỗ Tiến Đức
- Cuối năm, tôi thường viết bài tổng kết về tình hình xuất bản
trong năm, có khi đăng trên Bách Khoa, có khi đăng trên tờ Tin sách.
Năm 1961, tôi viết một loạt bài đăng trên bốn số Bách Khoa
liên tiếp để so sánh hai ngành xuất bản Pháp và Việt Nam, vạch rõ những nhược
điểm chung của hai ngành đó. Tôi nhận thấy rằng hễ theo một chế độ (hoặc tư bản
hoặc cộng sản) thì dù cách xa nhau, không chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhau, sự
sáng tác, sự xuất bản, sự phát hành cũng có những nét giống nhau.
- Tôi góp ý kiến về việc xây dựng văn hóa, trên Bách Khoa: Thống
nhất nhan đề các văn thơ cổ (1962), Nhà cầm quyền và dư luận (1966), Vấn đề kiểm
duyệt (1969), Vấn đề dịch văn, dịch thơ, Phong trào về nguồn (1972).
- Tôi rất chú ý tới chính sách giáo dục trong nước, viết nhiều
bài đả kích Bộ Giáo dục. Bài nào lí luận cũng vững vàng, đưa ra những chứng cứ
minh bạch và một vài đề nghị xây dựng; giọng tuy nghiêm nhưng bình tĩnh, được độc
giả trong giáo giới, nhất là phụ huynh học sinh khen là ý kiến xác đáng, có nhiệt
tâm. Tôi nghe nói nhiều nhân viên trong Bộ Giáo dục bảo nhau: "Đừng động tới
ông Lê, ông ấy sẽ đập cho mà không sao cãi được". Họ hiểu lầm tôi: tôi chỉ
trích một chính sách, chứ không chỉ trích cá nhân.
Có hai loạt bài quan trọng nhất:
Cải tổ nền Giáo dục Việt Nam (đăng liên tiếp trên năm số Bách
Khoa năm 1962) mà sau ngày giải phóng, một số nhà giáo ở Hà Nội khen là đề nghị
hợp lí.
Nguy cơ xuất não (đăng trên ba số Bách Khoa năm 1972) bàn về
biện pháp để khuyến khích các sinh viên du học ngoại quốc về giúp nước, khỏi
thiệt cho quốc gia một số nhân tài.
Loạt bài này cũng được độc giả hoan nghênh, nhưng chính quyền
lúc ấy không cho đó là vấn đề quan trọng, không muốn mà cũng không có khả năng
thu dụng hạng thanh niên đó.
Ngoài hai loạt bài trên tôi còn viết cả chục bài khác như Góp
ý với Bộ Giáo dục (1964), Chính sách bỏ thi (1966), Một nền giáo dục phục vụ
(1967), Một cách mạng trong giáo dục Pháp (1966), Cái chết của giáo sư Trần
Vinh Anh (1967), Lại sắp đến mùa thi (1964), Cần nâng cao tri thức của đại
chúng
Nhất là loạt bài đăng trên Bách Khoa (1961), Tin Văn (1966) đả
kích kịch liệt Bộ Giáo dục và Viện Đại học Sài Gòn không chịu dùng Việt ngữ làm
chuyển ngữ ở Đại học. Những bài đó viết vào hồi tựu trường liên tiếp trong mấy
năm làm cho một số giáo sư Đại học ghét tôi nhưng không thể trả lời tôi được,
vì lí luận của tôi vững; trái lại sinh viên rất thích và một số doạ sẽ gom các
bài đó lại chung với các bài của các nhà khác cùng chủ trương in thành một tập
riêng để phổ biến. Sau này (trong số Bách Khoa 426 ngày 20.4.75) bác sĩ Đỗ Hồng
Ngọc nhắc lại vụ đó, viết: "Còn nhớ bọn sinh viên chúng tôi vận động chuyển
ngữ Việt tại trường Y Khoa, ông (Nguyễn Hiến Lê) đã hỗ trợ bằng những bài báo nẩy
lửa. Lúc đó giọng ông không còn cái giọng nghiêm túc, hiền lành, bình đạm thường
ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẩn nộ, đầy kích động; giá có ai giật giấy bút của
ông đi, tôi chắc ông sẽ lấy dao "viết lên đá" như ai đó đã nói".
Đúng vậy, trong đời viết văn, chưa bao giờ ngọn bút của tôi sắc bén như vậy.
Từ 1963 tôi viết nhiều bài đả đảo chính sách của bọn thực dân
cả Đông lẫn Tây ở bán đảo Ả Rập, và đề cao tinh thần đấu tranh của các nước Hồi
giáo trên bán đảo đó. Sau tôi dùng các bài đó cho vào hai cuốn Bài học Isrël xuất
bản năm 1968 và Bán đảo Ả Rập xuất bản năm 1969.
Từ năm 1973, tôi quan tâm tới những nguy cơ chung của nhân loại,
viết những bài Nhân số và nạn đó (1973), Năm 2000 (1974), Minamata: nước biển
nhiễm độc (1974) và loạt bài Báo cáo số 1 và số 2 của nhóm La Mã, đăng trên bốn
số Bách Khoa liên tiếp 421-24 năm 1975; không kể một số bài nữa không đăng báo
mà tôi gom lại trong cuốn Những vấn đề của thời đại (Mặt Đất -1974).
Sau cùng phải kể thêm một số bài thuộc loại hồi kí và tuỳ bút
đăng trên Bách Khoa, và trên số Kỉ niệm Nhất Chi Mai của Hội Phật giáo Việt Nam
thống nhất (1971), sau được nhà Lá Bối xuất bản trong loại Bông hồng cài áo.
Cũng do viết báo mà tôi mới nảy ra ý viết những tiểu phẩm.
Vì tôi công tác đều đều với Bách Khoa, từ đầu đến cuối, lại
viết nhiều về nhiều vấn đề, nên độc giả có người cho tôi là cây viết cốt cán của
tạp chí, tưởng tôi là một nhân viên quan trọng trong toà soạn nên có bài muốn gởi
đăng thì gởi cho tôi nhờ tôi giới thiệu với ông chủ nhiệm Lê Ngộ Châu. Tôi đọc
rất kỉ bài họ viết rồi cũng đưa ý kiến với ông Châu, nhưng cũng cho họ biết sự
quyết định đăng hay không ở cả ông Châu. Ông Châu làm việc rất siêng, đọc hết mọi
bài nhận được, đăng hay không ông đều báo cho tác giả biết. Ông nhận rằng ông
đã bỏ lầm một số bài rất khá. Tôi mến ông vì ông có tinh thần trách nhiệm, làm
việc đàng hoàng, biết cương quyết giữ vững chủ trương cả khi báo suy, biết xét
người, xét văn và có tình với người cộng tác: ai gặp nạn gì thì ông lại nhà
thăm, tìm mọi cách giúp đỡ.
MAI
Đầu năm 1960, ông Hoàng Minh Tuynh cho ra một bán nguyệt san
khác, lấy tên là Mai mà ông làm chủ nhiệm. Tờ này chắc do một nhóm công giáo bỏ
vốn - ông Tuynh theo công giáo - chủ trương đại khái cũng giống tờ Bách Khoa,
nhưng thiên về công giáo.
Cây viết, một nửa là của Bách Khoa, một nửa là của công giáo.
Báo chỉ bán được ngàn số trở lại, ra được hai năm rưỡi, 41 số, thì đình bản.
Ông Tuynh nhờ tôi viết giúp, thành thử trong những năm
1960-62, tôi viết cho cả hai tờ và trong 41 số Mai thì 24 số có bài của tôi.
Đa số bài của tôi bàn về giáo dục, đưa ý kiến:
- Về vấn đề cải tổ chế độ tư thục (thời đó hầu hết các tư thục
thành những nơi buôn chữ, chủ trương chỉ lo làm giàu, giáo sư chỉ lo
"câu" học sinh, dạy 40 giờ một tuần hoặc hơn, học sinh hư hỏng, không
có chút kỉ luật gì cả).
- Về tình trạng các kì thi Trung học đệ nhất cấp (đăng trên 5
số - 1961).
- Về vấn đề chuyển ngữ ở Đại học.
- Về vấn đề thanh niên hư hỏng (2 số năm 1961; 2 số năm
1962).
Ngoài ra còn ít bài, về giáo dục sinh lí, giáo dục thiếu nhi
thông minh, về hôn nhân, về phụ nữ, và 1 bài điểm sách: Nàng ái cơ trong chậu
úp của Mộng Tuyết và Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển.
TIN VĂN
Năm 1965, ông Nguyễn Ngọc Lương, một nhân viên của Bộ Thông
Tin cho ra tờ tuần báo Tin Văn, trước sau được ba bốn chục số trong hai năm rưỡi.
Hồi đó tôi không biết ông Lương là cán bộ Cộng sản nằm vùng;
ông nhờ tôi viết giúp, tôi đọc mấy tờ đầu thấy tờ báo đứng đắn, có chủ trương
tiến bộ, thiên tả nhưng vừa phải, kín đáo, nên tôi nhận lời.
Trên tờ này, tôi viết ít (chỉ khoảng mười số có bài của tôi),
nhưng bài nào cũng viết kĩ, và hầu hết bàn về vấn đề văn hóa, văn chương.
Những bài Văn chương và dân tộc tính, Tiếp thu văn hóa Tây
phương, Phát huy văn hóa truyền thống sau được gom với bài Bút pháp và cá tính
(mà tôi đã nói ở chương trên) để cho vào cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa (Tao
Đàn - 1967).
Hai bài Bút pháp và cá tính, Văn chương và dân tộc tính được
nhà văn Trần Thiện Đạo (ở Pháp) khen là tiếng nói của lương thức, của một học
giả có thẩm quyền (Tân Văn số 7 tháng 11-1968, và số 8 tháng 12-68).
Nhưng bài độc giả thích nhất, cho là có giọng bút chiến sắc
bén là Đả phá dễ hay xây dựng dễ đăng ngày 15.9.66. Trong bài đó nhân một câu của
Tổng giám đốc vô tuyến truyền hình mà kịch liệt đả kích chính sách văn hóa của
chính phủ, đã không xây dựng mà chỉ phá hoại.
Tôi khen chính quyền thời đó cho đăng trọn bài, không bỏ một
chữ. Họ còn tương đối biết trọng tự do ngôn luận, mà có thái độ nhã nhăn với những
nhà văn đứng đắn, dám nói thẳng và nói đúng.
Bài đó có tiếng vang ngang với bài Bọn cầm bút chúng ta làm
được những gì lúc này đăng trên Bách Khoa ngày 1.12.67. Giọng bài này khác hẳn:
"vừa buồn vừa tủi rằng tất cả những cái tôi viết ra đều là bá láp hết, chẳng
có một tác dụng gì cả, rằng tôi gần như vô dụng" trong khi toàn dân đau khổ
vì nạn chiến tranh và vì chính quyền bất lực, thối nát. Lời tự trách đó làm động
lòng nhiều nhà văn có tâm huyết và tôi nghe nói có vài ba người muốn trả lời
tôi, nhưng sau chỉ có mỗi ông Đoàn Thêm là lên tiếng trong số Bách Khoa ngày
1.1.68, trách thái độ của tôi là vô lí, mình cầm bút chứ có phải là chính trị
gia đâu, cứ làm hết nhiệm vụ của mình thì thôi, mà những điều mình viết sao lại
không có tác dụng ít nhiều trong tâm hồn độc giả.
Trong bài đó, tôi cũng tỏ rõ thái độ của tôi đối với chính
quyền: "Tôi nghĩ rằng cái thú nhất của người cầm bút là được độc lập và
cái vinh dự lớn nhất của họ là giúp được chút ít gì cho quốc dân. Muốn giữ được
độc lập và giúp được quốc dân thì nên ở ngoài chính quyền, đứng ở cương vị đối
lập với chính quyền. Đối lập không nhất định là chỉ trích, lại càng không có
nghĩa đả đảo. Đối lập là một cách kiểm soát, hợp tác hữu hiệu nhất và nghiêm chỉnh
nhất. Ta không lệ thuộc vào chính quyền thì mới dám nói thẳng với chính quyền
và chính quyền mới chú ý lời nói của ta. Alain và Maurois đều từ chối những chức
trọng quyền cao để được là người tự do, được làm một công dân "giám thị
các ông lớn".
CÁC BÁO KHÁC
Ngoài ba tờ báo kể trên, tôi còn gởi ít bài về văn học, điển
sách cho tạp chí Văn và Tân Văn (ông Trần Phong Giao làm chủ bút), và vài ba tạp
chí khác, vì họ khẩn khoản xin bài.
Đặc biệt nhất là tờ báo cho thanh niên Phù Đổng Thiên Vương.
Chủ nhiệm là kịch sĩ Kim Cương cùng với chồng, do Vũ Hạnh dắt lại yêu cầu tôi cộng
tác. Tôi đáp không có thì giờ vì chương trình làm việc của tôi còn nhiều. Họ
nói mãi, nễ lời tôi hứa chỉ viết giúp cho một bài duy nhất đăng trong số đầu
thôi và ít bữa sau tôi giao cho họ bài Vài lời ngỏ cùng bạn trẻ, đăng trong số
30.1.75. Báo chưa ra hay vừa mới ra thì Vũ Hạnh bị bắt giam trở lại; vì lẽ đó
ba tháng sau chưa ra được rồi Sài Gòn giải phóng và báo đình bản luôn.
Về sau tôi mới biết Kim Cương là một cán bộ nằm vùng như Vũ Hạnh.
Vậy là tôi vô tình hợp tác với hai tờ báo cộng sản ở thành: tờ Tin Văn và tờ
Phù Đổng Thiên Vương. Đã nhận lời viết cho báo nào thì luôn luôn tôi viết kỉ và
giao bài trước ngày hạn, không để họ phải nhắc.
Trước sau tôi chỉ bỏ độ một phần mười thì giờ viết của tôi
vào các bài báo, nhưng đã để hết tâm tư vào công việc đó, coi trọng nó cũng như
việc biên khảo, dịch thuật, nên được nhiều cảm tình của độc giả và bạn văn.
Danh và uy tín của tôi nhờ vậy tăng lên và trong những năm 1965-1974 có vài tờ
báo lại phỏng vấn tôi như tờ Khởi hành, tờ Thời Tập; và một số nhà văn tư tưởng
và chủ trương hoàn toàn khác tôi cũng làm quen với tôi, tặng tôi tác phẩm,
không kể nhiều nhà giáo quí tôi, nhiều sinh viên trọng tôi như thầy học.
Tôi đã lựa một số bài báo tôi đắc ý nhất cho vào cuốn Mấy vấn
đề xây dựng văn hóa (1967), cuốn Mười câu chuyện văn chương (Trí Đăng -1975) và
hai tập chưa in: Mười tám chuyện thời sự và Để tôi đọc lại.
° °
°
VĂN HỌC MIỀN NAM TỪ 1954 ĐẾN 1975
Một phần lớn cũng nhờ viết báo mà tôi được đọc nhiều sách báo
Việt - phần lớn mượn của toà soạn Bách Khoa - và biết được ít nhiều tình hình
văn học miền Nam.
Dưới đây tôi chỉ ghi sơ vài nét, vì không có đủ tài liệu, và
nếu có thì cũng không có đủ sức khoẻ, thì giờ để đọc hết rồi phân tích kĩ được.
- Trong thời kháng Pháp, văn học ở thành (vùng bị chiếm) từ Bắc
tới Nam không có gì cả. Hầu hết các nhà văn có tên tuổi thời Tiền chiến ở Bắc đều
theo kháng chiến. Tôi không biết họ sáng tác được những gì, có lẽ chỉ có được một
số bút kí và ít bài thơ hô hào diệt địch, nhiệt tâm tuy nhiều nhưng nghệ thuật
kém thời tiền chiến.
Ở miền Nam trong thời kháng Pháp, Lý Văm Sâm viết được vài tiểu
thuyết rồi cũng ra bưng. Nhóm đệ tứ Triều Sơn, Thế Húc, Tam Ích, Thiên Giang
cũng viết ít bài phê bình có tư tưởng xã hội, sau in thành vài tập mỏng; Triều
Sơn viết khá hơn cả, nhưng chết sớm. Hồ Hữu Tường năm 1945 còn ở Hà Nội cho ra được
một tập mỏng về Văn hóa Việt Nam. Khi vào Nam ông cho ra tờ Phương Đông chủ
trương trung lập và một vài cuốn trào phúng Trung Cộng, Nga.
Một số nhà văn có tâm huyết muốn nâng cao tinh thần dân
chúng, chép lại các cuộc vận động chống Pháp thời trước như Nam bộ kháng chiến,
Đề Thám, Bãi Sậy, Phan Bội Châu, Phan Đình Phúng, Phan Chu Trinh Hầu hết các
báo hằng ngày đều có cảm tình với Cách mạng.
Vào khoảng 1950, nhà P. Văn Tươi cho ra loại sách "Học
làm người" mục đích là luyện tinh thần mới, tin ở sự tiến bộ của thanh
niên để chuẩn bị việc kiến thiết quốc gia sau khi chiến tranh chấm dứt. Loại
sách đó trước thế chiến cũng đã có người viết như Hoàng Đạo, Lê Văn Siêu
Sau Hiệp định Genève, một số nhà văn ở Bắc di cư vào Nam, ra
báo, mở nhà xuất bản, được chính quyền trợ cấp hoặc giúp phương tiện, nhờ vậy
văn nghệ miền Nam khởi sắc. Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm
Tuyền có một số tác phẩm khá.
Hồi đó ai cũng ham biết văn minh Mĩ, người ta đua nhau học tiếng
Mĩ và vài nhà xuất bản được Mĩ trợ cấp, dịch vội vàng sách sách văn học, chính
trị Mĩ, nhất là tiểu thuyết Mĩ. Không dịch phẩm nào có giá trị, và chỉ được ít
năm, phong trào đó chìm lần.
Vào khoảng 1960, dân chúng bắt đầu ghét chính sách Ngô Đình
Diệm, ghét lây cả Mĩ, nên những tác phẩm chống cộng và tuyên truyền cho văn hóa
Mĩ bị tẩy chay; không ai bảo ai mà những sách báo của các cơ quan văn hóa Mĩ,
Diệm, dù in rất đẹp, bán rất rẻ cũng không ai mua.
Người ta trở lại thích sách báo Pháp và báo chí đua nhau giới
thiệu phong trào hiện sinh cùng phong trào tiểu thuyết mới cũng gọi là phản tiểu
thuyết (anti-roman) của Pháp.
Những tác phẩm của Sarte, Camus, Kafka được thanh niên hoan
nghênh, nhưng hình như không có tiểu thuyết nào của Alain Robbe Grillet, Michel
Butor được dịch cả, loại tiểu thuyết này mới thì mới thật, nhưng không hấp dẫn
vì không có truyện. Vả lại chính phong trào tiểu thuyết mới cũng chỉ ồn ào được
ít năm, khi nó qua nước mình thì ở Pháp không còn ai nhắc tới. Các tiểu thuyết
gia của mình nói tới họ thì nhiều, thích họ thì chắc không và tuyệt nhiên không
có nhà nào theo kĩ thuật của họ.
Sau năm sáu năm hăng say tìm hiểu cái mới của phương Tây,
chúng ta thấy văn minh của họ lợi cho ta thì ít mà hại thì nhiều: thanh niên
thành thị truỵ lạc vì loại phim cao bồi, nhạc jazz và tạp chí Playboy, mất lí
tưởng, chỉ nghĩ tới hưởng lạc, mà non sông thì bị tàn phá vì bị tranh chấp giữa
bọn thực dân Đông, Tây; dân tình thì lầm than điêu đứng; chỉ có bọn làm giàu
trên xương máu đồng bào là sống phè phỡn, rất chướng mắt. Do đó lần lần nổi lên
phong trào về nguồn, ôn lại triết lí, nhân sinh quan của cổ nhân, một nhân sinh
quan bao dung, nhân ái, chứ không phải thứ nhân sinh quan "cạnh tranh,
chém nhau để sinh tồn" của phương Tây.
Loại sách khảo cổ bồng bột phát triển. Hầu hết là những bản dịch
sách Hán của tiền nhân: Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Phủ
biên tạp lục của Lê Quí Đôn, Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ, Hoàng Lê nhất thống
chí, Công dư tiệp kí, Đại Nam nhất thống chí (trên chục cuốn) v.v
Loại sách đó khó bán, nên cơ quan văn hóa chính phủđảm nhiệm,
tư nhân chỉ có vài ba nhà khảo về Nhà Nguyễn trong Nam, Tây Sơn, Ca trù đời Lê,
Nguyễn Một số khá đông nhà văn gần như cùng một lúc soạn các địa phương chí từ
Bến Hải tới Bạc Liêu: Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên, Biên Hoà, Vĩnh Long, Châu
Đốc, Cao Lãnh, Cần Thơ, Bạc Liêu (coi Một hiện tượng mới trong Mấy vấn đề xây dựng
văn hóa của tôi)
Một số học giả, văn nhân, nghệ sĩ hô hào chống chiến tranh,
không theo Mĩ, không theo Nga, không nhờ cậy ai, tìm lối sống riêng của mình, sống
thiếu thốn cũng được miễn là hoà thuận, đoàn kết với nhau, tương đối bình đẳng,
không ai giàu quá, không ai nghèo quá.
Từ 1965 đến 1975, hễ gặp cơ hội là tôi nêu chủ trương đó ra,
như trong cuốn Một niềm tin (1965), trong bài tựa cuốn Bài học Israël, trong bài
báo Vài suy tư về phong trào về nguồn (Bách Khoa -1972), và trong đoạn kết loạt
bài Báo cáo số1 và số 2 của nhóm La Mã (Bách Khoa - 1975). Nhưng cho tới bây giờ
dân tộc nhược tiểu vẫn mắc vào sự tranh chấp của hai khối, thoát được khối này
lại nhập vào khối khác. Nhân loại sẽ còn chịu rất nhiều xáo trộn, chưa biết bao
giờ mới ổn định được, và những dân tộc nhược tiểu chưa thể sống theo ý mình được!
°
MỘT SỐ CÂY BÚT CÓ TIẾNG
Trong hai chục năm sau Hiệp định Genève, văn học miền Nam
phát triển khá mạnh. Về lượng chúng ta bỏ các thời trước, về phẩm không phải là
kém, nhưng có điểm đặc biệt này là không có một nhóm nào có đủ uy tín, gây ảnh
hưởng khá lớn trong dân chúng như nhóm Nam Phong những năm hai mươi (1920-29)
và nhóm Tự lực những năm ba mươi (1932-1939).
Tại thiếu người có tài vượt hẳn số đông chăng? Hay tại tình
hình xã hội không có gì kích thích hạng người có tài? Từ năm 1921 đến đầu thế
chiến thứ nhì, xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội nông nghiệp qua chế độ tư bản,
và văn nghệ làm chất xúc tác cho những chuyển biến đó; còn từ Thế chiến tới
1975, xã hội miền Nam chỉ lẩn quẩn trong chế độ tư bản, chưa tới giai đoạn kĩ
thuật phát triển mạnh, vì thế mà văn nghệ không thay đổi được mạnh chăng? Tại
miền Bắc, tuy biến chuyển mạnh nhưng cũng không có nhóm nào đủ uy tín để lãnh đạo.
Mà ở Nga, Trung Quốc thì cũng vậy, vì ở các xã hội đó, một cá nhân hay một nhóm
không sao vượt hẳn lên được.
Trong bài Kỉ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn (Bách Khoa đầu
năm 1973), tôi viết:
"Một anh bạn tôi viết tiểu thuyết, mới đây phàn nàn rằng
thời này tiểu thuyết gia nào may mắn lắm cũng chỉ nổi danh được trong dăm năm rồi
thì chìm, không ai được như Nhất Linh hoặc Khái Hưng giữ tiếng tăm và địa vị được
tới khi chết, mà kĩ thuật của họ đâu phải kém Nhất Linh và Khái Hưng.
Tôi đáp:
- Anh nhận xét đúng lắm. Nhưng thời nay tiểu thuyết để độc giả
tiêu thụ, nghĩa là để bán, chứ đâu phải để cầu danh, lưu danh. Ở Pháp từ năm
1893, anh em Gouncourt cũng đã phàn nàn: "Này nay phải sản xuất một kiệt
tác mỗi năm thì người ta mới khỏi quên mình".
Theo Soljenitsyne trong cuốn Khu ung thư, ở Nga cũng có hiện
tượng như vậy. Số nhà văn ngày nay đông quá, có người vừa mở xong một con đường
tưởng là mới, đã có người mở con đường khác rồi. Văn đàn đông nghẹt không sao đủ
chỗ đứng cho mọi người. Cho nên người nào mới chen chân được một chỗ đứng thì
người sau lại lấn mất. Có phải như vậy mà ngày nay khắp thế giới không thể có
được một nhà văn hay một nhóm làm lãnh đạo được? Mà nước ta cũng ở trong tình
trạng đó.
- Về tiểu thuyết. Mấy năm đầu sau Hiệp định Genève, có một
nhóm nhà văn trẻ, nhóm Sáng Tạo do Mai Thảo khởi xướng, muốn phát động một
phong trào mới thay thế phong trào Tự lực Văn đoàn, nhưng chỉ được một số ít hưởng
ứng, rồi sau ít năm, chìm luôn; vì họ lớn tiếng hô hào chứ không có ý gì mới. Trong
nhóm đó chỉ có Mai Thảo là rán tự tạo ra một bút pháp riêng, như trên tôi đã
nói, nhưng bị nhiều người chê là cầu kì; Doãn Quốc Sĩ viết tự nhiên hơn, có tâm
tư nhiệt huyết; Thanh Tâm Tuyền có vài tập mỏng diễn tâm trạng của thanh niên bất
mãn vềchế độ Cộng Sản.
Nguyễn Mạnh Côn có vài cuốn chống Cộng, về sau khá nổi tiếng
về tiểu thuyết kì dị xây dựng trên thuyết tương đối của Einstein.
Nổi tiếng nhất là Võ Phiến, một cây bút độc lập ai cũng nhận
là có tài phân tích tâm lí, "chẻ sợi tóc là tư", và tài tả cảnh vật.
Những tạp bút của ông được nhiều người thích hơn, Đông Hồ khen là nhất miền
Nam. Về loại đó, ông sâu sắc như Nguyễn Tuân mà tự nhiên hơn, dí dỏm hơn, đề
tài phong phú hơn, đa dạng hơn, chống Cộng một cách có nghệ thuật, suất sắc.
Vũ Hạnh, ngược lại đề cao kháng chiến, có vài truyện linh động,
mạnh mẽ.
Truyện Dương Nghiễm Mậu có màu đen tối, cũng sâu sắc; Lê Tất
Điều vui mà hời hợt.
Nhật Tiến chuyên viết về những trẻ cô độc, những kẻ nghèo khổ,
có bút pháp của nhóm Tự lực, viết dễ dàng và nhiều, mở nhà xuất bản Huyền Trân,
cùng với vợ ra tờ Thiếu nhi. Có lí tưởng, thương người nghèo khổ, giọng cảm động.
Khoảng 1970, xuất hiện vài tiểu thuyết gia trẻ có tương lai:
Hoàng Ngọc Tuấn, Kinh Dương Vương, Nguyễn Mộng Giác (có tài xây dựng truyện, kể
chuyện hấp dẫn).
Hầu hết những nhà kể trên đều tả xã hội thành thị và đời sống,
tâm trạng thanh niên ở thành hoặc ở ngày mặt trận.
Tả về đời sống nông thôn có Sơn Nam và Lê Xuyên. Sơn Nam
không nổi tiếng về tiểu thuyết mà về kí sự. Tiểu thuyết Lê Xuyên dùng nhiều đối
thoại và ngôn ngữ của nông dân tới nhàm, lại có tính cách khiêu dâm mà không có
tình thương nông dân, không có giá trị gì cả.
Những tiểu thuyết gia lớp trước như Bình Nguyên Lộc, Nguyễn
Văn Xuân, Phan Du vẫn giữ được phong độ. Võ Hồng sáng tác khá mạnh, tâm hồn và
bút pháp khả ái.
Điểm đáng kể nhất là phái nữ xuất hiện nhiều cây bút có tài
hơn hẳn phái nữ thời tiền chiến, như Tuý Hồng tả khéo, nhiều hình ảnh mới,
Trùng Dương, Nguyễn Thị Hoàng có giọng trí thức, Thuỵ Vũ, Nhã Ca (làm cả thơ),
Minh Quân (chuyên về truyện trẻ em).
- Về thơ, các nhà lớp cũ như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương,
Quách Tấn, Đông Hồ, Đông Xuyên vẫn sáng tác đều đều, vẫn còn độc giả. Lớp trẻ
xuất hiện khá đông, mỗi năm trung bình, cả miền Nam có được trên mười thi phẩm
ra mắt độc giả. Đa số các nhà đó chỉ nổi tiếng một thời như Nguyên Sa, Bùi
Giáng, Trần Tuấn Kiệt, Kiên Giang, Quách Thoại, Tường Linh, Huy Lực, Tạ Tị, Tuệ
Mai Họ cảm xúc mạnh, có nhiều hình ảnh mới nhưng sáng tác không đều, không nhiều,
hồn thơ mau cạn.
- Về biên khảo, có nhiều công trình đáng kể hơn thời trước,
sâu sắc hơn: chính tả có Lê Ngọc Trụ; ngữ pháp có Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến
Lê; văn hoá Trung Hoa có Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Kim Định, Nguyễn Duy
Cần; sử miền Nam có Vương Hồng Sển (Sài Gòn năm xưa), Phan Khoang (viết về nhà
Nguyễn trong Nam), Nguyễn Phương (về Tây Sơn), Đông Hồ; điển lễ và ca trù Việt
Nam có Đỗ Bằng Đoàn; phong tục Việt Nam có Nhất Thanh, Toan Ánh lượng nhiều và
phẩm kém...
- Mỗi tôn giáo có được vài cây bút nổi tiếng: Nhất Hạnh trong
Phật giáo, Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Trung trong công giáo đều
lưu tâm đến các vấn đề xã hội, có tinh thần tranh đấu, có bút pháp sáng sủa, cảm
động. Viết nhiều nhất là Nhất Hạnh: sáu bảy tác phẩm, trong số đó có một tập
thơ hô hào hoà bình. Ông muốn cải cách Phật giáo cho hợp thời đại, nhưng Phật
giáo lo đối phó với Diệm, rồi với Thiệu, củng cố ảnh hưởng và địa vị nên chỉ có
một số tín đồ trí thức chú ý tới chủ trương của ông; nhưng ông được thanh niên
quí mến. Bị chính quyền nghi kị, ông phải qua Âu Mĩ vận động cho hoà bình, hiện
còn ở bên đó.
Ông sáng lập nhà xuất bản Lá Bối, giao cho thầy Từ Mẫn (Võ Thắng
Tiết) điều khiển. Có thời chính quyền không cho in những tác phẩm mang tên ông,
ông phải kí tên khác.
Trường Thanh niên phụng sự xã hội cũng là một sáng kiến của
ông.
° °
°
TÔI CÓ CHUYÊN KHÔNG?
Ôn lại hai chục năm hoạt động tích cực về văn hóa từ khi
thành lập nhà xuất bản tới ngày miền Nam được giải phóng, tôi thấy chỉ làm chủ
được tới một phần nào thôi, còn thì do sự ngẫu nhiên chi phối.
Năm 1954, mới lên Sài Gòn, tôi định viết độ mươi năm, khoảng
vài ba chục cuốn nữa, không ngờ viết luôn cho tới 1975, rồi tới bây giờ, và số
tác phẩm viết được đã gấp ba số đự định.
Từ khi mới cầm bút, tôi vẫn thích viết Du kí, vẫn mong đi dọc
đường Quốc lộ số 1, ghi chép những cảnh đẹp, tục lạ, cổ tích từ Nam ra Bắc, mà
vì chiến tranh, tôi mới tới được Qui Nhơn rồi phải bỏ dở.
Hồi còn ở Đại học, tôi đã thích đời Nguyễn Công Trứ, định
chép tiểu sử của ông, mộng đó cũng không thực hiện được vì thiếu tài liệu và vì
sống ở Nam, không có dịp tới những nơi có di tích của ông.
Trái lại, có nhiều môn, nhiều đề tài tôi không tính viết mà lại
viết, viết nhiều nữa.
Như trên tôi đã nói, do ngẫu nhiên mà tôi hợp tác với tờ Bách
Khoa rồi viết về thời sự, về kinh tế, về các vấn đề thời đại, và khi đã bắt đầu
viết rồi thì thấy thích.
Sau khi cho ra hai cuốn Để hiểu văn phạm, và Nho giáo một triết
lý chính trị, tôi định bụng không bao giờ xông vào hai khu vực ít hứng thú và mệt
óc đó nữa. Vậy mà do thời cuộc đưa đẩy, tôi làm quen được với hai ông Trương
Văn Chình và Giản Chi Nguyễn Hữu Văn, từ Bắc di cư vô, rồi viết chung với hai
ông, nhờ vậy đóng góp được ít nhiều về hai môn đó. Vì viết nhiều đề tài, nên có
người trách tôi là không chuyên.
Nếu hiểu chuyên là suốt đời chỉ khảo về một môn, như Lê Ngọc
Trụ về chính tả, Trương Văn Chình về ngữ pháp thì quả là tôi không chuyên, mà
tôi cũng không thích chuyên như vậy.
Tôi có một mục đích rõ rệt là phục vụ trong việc mở mang kiến
thức thanh niên, tôi có óc tò mò, sách nào hay tôi cũng muốn đọc, môn nào cũng
muốn biết, và hễ thấy đề tài nào lí thú, có ích thì tìm hiểu rồi truyền điều
tôi hiểu cho độc giả. Đó là sự nhất trí trong tất cả các trứ tác của tôi, từ
sách dạy cách học cho học sinh tới các công trình khảo cứu về văn học, triết học.
Sự ngẫu nhiên đưa tôi tới hướng nào, khiến tôi bước vào môn nào thì tôi theo hướng
đó, viết về môn đó.
Nhưng có điều này ít độc giả nhận thấy. Trong mỗi môn chính,
mới đầu tôi viết một hai tác phẩm dễ hoặc khái quát, rồi ít lâu sau tôi trở lại,
mở rộng thêm, đào sâu hơn. Như vậy chính là do khuynh hướng tự học của tôi: biết
cái cốt yếu đã rồi sau đi vào chi tiết. Và đó cũng là một sự nhất trí trong
cách tôi làm việc.
Thí dụ như:
- Môn Tổ chức công việc, tôi viết về qui tắc chung trong cuốn
Tổ chức công việc theo khoa học, rồi một năm sau hoặc dăm bảy năm sau tôi áp dụng
vào việc trong đời, đi vào chi tiết hơn trong các cuốn: Kim chỉ nam của học
sinh, Tổ chức gia đình, Tổ chức công việc làm ăn. Như vậy là vấn đề đã được nới
rộng.
- Về Luyện văn, cuốn II và III khó hơn cuốn I, bộ Hương sắc
trong vườn văn lại sâu sắc hơn bộ Luyện văn.
- Về Văn học Trung Quốc, sự mở rộng lần lần từng đợt còn rõ rệt
hơn nữa.
Mới đầu là bộ Đại cương Văn học sử Trung Quốc từ thượng cổ tới
cách mạnh Tân Hợi, vào khoảng 1925.
Sau tôi đào sâu văn học cổ Trung Quốc. Đề tài đó mênh mông, một
đời người không thể làm hết được. Riêng về thơ Đường đã có nhiều người giới thiệu:
Đường thi, Thi văn bình chú của Ngô Tất Tố, Đường thi của Trần Trọng Kim, Đường
thi trích dịch của Bùi Khánh Đản và Đỗ Bằng Đoàn (in ronéo) và nhiều tập mỏng
khác của dăm nhà khác nữa. Chưa ai viết về Tống thi cả.
Thơ không phải là sở trường của tôi mà cổ văn Trung Quốc chỉ
được Nam Phong giới thiệu độ mươi bài, cho nên tôi nghiên cứu về cổ văn. Năm
1966, cho xuất bản bộ Cổ văn Trung Quốc, cuốn đầu tiên trong loại đó ở nước
nhà; tiếp theo tôi soạn chung với ông Giản Chi hai bộ Chiến Quốc sách và Sử kí
của Tư Mã Thiên. Sau cùng tôi viết về Văn học Trung Quốc hiện đại, mà trong bộ
Đại cương văn học sử Trung Quốc tôi chỉ phát qua trong chương cuối.
Nên kể thêm Tô Đông Pha, một cuốn thuộc loại tiểu sử danh
nhân nhưng cũng cho độc giả biết được ít nhiều về thi từ và cổ văn đời Tống, vì
trong cuốn đó, ngoài Tô Đông Pha tôi giới thiệu cả cha và em của Tô (Tô Tuân,
Tô Triệt), Âu Dương Tu, Vương An Thạch
Nếu kể cả bản dịch Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa nguyên
văn của Lâm Ngữ Đường, thì về văn học Trung Quốc tôi đã góp được khoảng 3.500
trang, bảy nhan đề.
- Về Triết học Trung Quốc cũng vậy, mỗi ngày tôi đào sâu
thêm. Mới đầu là Nho giáo một triết lí chính trị, một cuốn tổng quát về tư tưởng
chính trị của Khổng, Mạnh; rồi tới Đại cương triết học Trung Quốc, một bộ cũng
tổng quát về triết học Trung Hoa từ thượng cổ tới cuối Thanh.
Sau tôi chuyên về triết học thời Tiên Tần, khảo cứu đời sống
và tư tưởng từng triết gia một. Đầu năm 1975, tôi đã cho ra được Nhà giáo họ Khổng,
Mạnh Tử, Liệt Tử và Dương Tử, đã viết xong mà chưa in Trang Tử, khởi sự viết
chung với Giản Chi về Tuân Tử và Hàn Phi thì miền Nam được giải phóng.
Từ năm 1976 tới nay, tôi đã viết xong Lão Tử, Mặc học, Khổng
Tử, Luận ngữ, Kinh Dịch, như đã nói.
Nếu chỉ kể các tác phẩm đã in thì tới đầu 1975, về triết học
Trung Hoa tôi đã góp được khoảng 2.100 trang; nếu kể thêm những tập tôi đã viết
xong mà chưa in nữa thì tới nay, tổng cộng được 2.100 đã in với 2.900 trang
chưa in, là 5.000 trang.
Vậy Cổ học Trung Hoa tôi đã góp được về văn học 3.500 trang,
về triết học khoảng 5.000 trang. Nếu chỉ kể những tác phẩm đã in thì cũng được
5.600 trang: 3.500 văn, 2.100 triết. Rõ ràng là tôi chuyên về môn đó. Nhà văn
Võ Phiến, trong bài Nhân đọc bản thảo cuốn Nguyễn Hiến Lê của Châu Hải Kỳ (Bách
Khoa số 426 ngày 20.4.75) bảo: "Từ trước tới nay chưa có học giả nào, cựu
học và tân học, mà có công giới thiệu Cổ học Trung Hoa bằng ông Nguyễn Hiến
Lê".
Tóm lại, hồi mới cầm bút, tôi chỉ có mục đích viết về trí, đức
dục thanh niên; sau lần lần, vì sở thích, tôi hướng về cổ học Trung Hoa, mỗi
ngày một đào sâu hơn. Tôi cho đó là sự diễn tiến tự nhiên trong việc tự học.
Trong trên ba chục năm trứ tác (kể tới năm nay), tính ra tôi
đã bỏ hơn mười năm (khoảng 1/3 thời giờ) vào hai chục tác phẩm Cổ học (7 văn học,
13 triết học).
Số hai chục tác phẩm, khoảng 8.500 trang sách đó không phải
là ít, nhưng chỉ vì mới ra mắt độc giả được hai phần ba, nhất là vì loại đó kén
độc giả, in ít, phổ biến hẹp, chìm trong số trên tám chục tác phẩm đủ loại cho
thanh niên phổ biến rộng trong mọi giới, cho nên mới có độc giả trách tôi là
không chuyên 1.
Nếu tôi chỉ chuyên về Cổ học Trung Hoa thôi thì chỉ nội số
tác phẩm của tôi đã xuất bản trong loại đó cũng đủ để cho mọi người cho tôi là
chuyên rồi; nhưng thiếu phần tôi viết cho thanh niên thì ảnh hưởng của tôi
trong xã hội không được bao, mà chưa chắc tôi đã in được những tác phẩm về cổ học:
Nhà nào chịu chuyên xuất bản loại đó? Mà tôi muốn tự in lấy thì tiền đâu? Bộ Đại
cương triết học Trung Quốc chẳng hạn tôi phải hùn vốn với nhà Cảo Thơm; còn bộ
Văn học Trung Quốc hiện đại, tôi phải xuất vốn in lấy 2.000 bộ mà năm năm sau,
ngày Sài Gòn được giải phóng, chỉ mới bán được trên ngàn bộ vừa đủ vốn.
--------------------------------
1 Nhưng trái lại, đa số độc giả cho rằng tôi chuyên về loại
sách Học làm người. Năm 1979, vào một tiệm hớt tóc ở đường Trương Tấn Bửu cũ,
thì cả bốn người trong tiệm (hai người thợ và hai người khách mà một là cán bộ ở
Bắc mới vô) đều hỏi tôi còn viết loại sách Học làm người nữa không. Ngay bây giờ
- 1982 - cũng vậy, vào cơ quan nào hễ có người biết tôi thì cũng hỏi câu đó.
CHƯƠNG XXVIII - TÔI TỰ NHẬN ĐỊNH TÁC PHẨM CỦA TÔI
Đ
ã có nhiều bạn văn hỏi tôi thích tác phẩm nào của tôi nhất.
Tôi đáp:
- Tuỳ từng loại, mà cũng tuỳ tuổi nữa, sự nhận định về già
khác với thời trung niên. Xét chung thì tôi thích cuốn nào trong đó tôi gởi gấm
được nhiều tâm tình, có được vài ý nghĩ tôi cho là tương đối mới ở nước mình,
hoặc có được ít đoạn tôi đắc ý về bút pháp.
Trong chương này tôi hãy ghi qua sở thích của độc giả rồi đưa
nhận định của tôi về một số tác phẩm đã xuất bản; những tập chưa xuất bản, tôi
sẽ để lại một chương sau:
° °
°
SỞ THÍCH CỦA ĐỘC GIẢ
Khoảng mười năm trước, một nhà văn đã giới thiệu tôi với độc
giả một tờ báo định kì rằng ít nhất đã có hai thế hệ đọc sách của tôi. Tới nay
thì có thể nói là đã có ba thế hệ rồi: thế hệ những người trạc tuổi tôi, thế hệ
con những người đó, những học trò của tôi, và thế hệ con học trò cũ của tôi hiện
nay đã lên đại học.
Vì tôi viết cho mọi lớp tuổi từ bé (cuốn Bí mật dầu lửa) tới
già, lại viết cho cả giới bình dân (như thợ thuyền) lẫn với trí thức tân học và
cựu học. Cho nên không thể kể được một cuốn nào mà mọi giới đều thích.
Xét chung thì giới bình dân và thanh niên chỉ thích những cuốn
trong loại Học làm người; giới trí thức mới đọc loại biên khảo và chỉ một số ít
giáo sư mới đọc những cuốn như Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Một niềm tin, Đại
cương triết học Trung Quốc.
Một số khá đông, bắt đầu đọc tôi từ hồi ở trung học rồi thành
độc giả trung thành, hai chục năm sau vẫn còn tìm tác phẩm của tôi để đọc;
nhưng tôi chắc trong nước chỉ có độ bốn năm người có đủ 100 cuốn tôi đã xuất bản;
và trong bốn năm người đó may lắm được vài người đọc qua loa, hết những cuốn
đó.
Những cuốn bán chạy nhất thuộc loại Học làm người, như Đắc
nhân tâm, Quảng gánh lo, Sống 24 giời một ngày, và loại chỉ cho học sinh, thanh
niên cách tự học như Kim chỉ nam của học sinh, Tự học một nhu cầu của thời đại,
Muốn giỏi toán hình học, đại số
Những cuốn ế nhất là Khảo luận ngữ pháp Việt Nam, Để hiểu văn
phạm, Một niềm tin, Văn học Trung Quốc hiện đại.
° °
°
LOẠI HỌC LÀM NGƯỜI
Dưới đây tôi xét về loại Học làm người trước hết.
Đã có lần tôi nói với thi sĩ Bàng Bá Lân: "Những cuốn
trong loại đó (của tôi) chẳng qua cũng chỉ để cho thanh niên đọc". Lời đó
làm cho một độc giả của tôi, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc "rất bực mình".
Trong bài Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi (Bách Khoa số 436, đã dẫn), ông viết:
"Nhìn lại toàn bộ tác phẩm ông, không ai chối cãi giá trị
của những Đông Kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương triết
học Trung Quốc, Ngữ pháp Việt Nam và những Chiến tranh và hoà bình, Sử kí Tư Mã
Thiên, Chiến Quốc sách Những tác phẩm đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu,
các sinh viên đại học và đã đóng góp một phần đáng kể cho nền văn hoá miền Nam.
Nhưng theo tôi, những tác phẩm quan trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh diện
chính là những tác phẩm nho nhỏ ông viết nhằm mục đích giáo dục thanh thiếu niên,
hướng dẫn họ trong sự tự huấn luyện trí, đức. Đó là Kim chỉ nam của hoc sinh, Tự
học để thành công, Tương lại trong tay ta, Rèn nghị lực, và nhất là bộ Gương
danh nhân của ông. Mà họ là ai? Là những thanh niên thất chí bán hàng xén như
tôi thuở đó, là anh thợ may lận đận như anh chín NS, là một giáo viên tiểu học,
một y tá hương thôn, một thơ kí nghèo trong một công tư sở nào đó Họ là những
người có thiện chí, có tinh thần cầu tiến, hiếu học nhưng vì hoàn cảnh mà lở dở.
Họ là thành phần đông đảo nhất trong xã hội ta bây giờ, một xã hội có vốn liếng
hơn ba mươi năm chiến tranh. Nhờ những cuốn sách đó, trước mắt họ mở ra những
cánh cửa mới, trong lòng họ nhen lên ngọn lửa nồng, và dù họ có không
"thành công" nhiều thì đời sống họ cũng sẽ được nâng cao, ít ra là về
mặt tinh thần".
Cuối cùng ông Đỗ Hồng Ngọc còn bảo ngay André Maurois tám chục
tuổi còn viết tập Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi kia mà.
Tôi cũng nhận rằng nhờ những cuốn loại Học làm người mà tôi
được nhiều người biết danh, nhiều thanh niên kính mến, và tôi được coi là
"một nhà giáo dục quần chúng", như một nhà văn đã nói. Một độc giả
cho tôi hay một gia đình ông quen, từ cha tới con trai, con gái lớn nhỏ - nhỏ
nhất học lớp năm tức lớp trên lớp mẫu giáo - đều mua sách của tôi; người cha được
xong còn trích nhiều câu viết lên giấy dùng làm châm ngôn lồng dưới kiếng trên
bàn học của con. Ông ta thích nhất "tấm lòng thiết tha của tôi đối với
truyền thống dân tộc cùng với thái độ giản dị khoan hoà, mẫu mực của tôi".
Ông bảo tôi đã dung hoà được tinh thần đạo học phương Đông với những kiến thức
và khoa học thực nghiệm của phương Tây, điều đó rất hiếm.
Những cuốn đó đều viết với một giọng thành thực, thân mật, với
nhiệt tâm giúp đỡ thanh niên bằng những kinh nghiệm sống của bản thân tôi. Ngày
nay, ngồi buồn thỉnh thoảng còn đọc lại vài trang trong những cuốn Kim chỉ nam
của học sinh, Thế hệ ngày mai, Luyện lý trí (mà tôi đã giới thiệu ở chương
XXVI), nhất là cuốn Tương lai trong tay ta mà vẫn thấy có nhiều chương hấp dẫn,
như: Ai cũng có thể bất hủ (ch.IV), Nghỉ ngơi và tiêu tiền (ch.V), Để giữ gìn hạnh
phúc trong hôn nhân (ch.IX), Lời khuyên riêng các bạn gái (ch.X), Dự bị cho tuổi
già (ch.XI). Suốt đời tôi, tôi đã theo đúng những qui tắc tôi nêu trong cuốn đó
về cách làm việc và tiêu tiền. Tôi đã làm rồi mới nói.
Ông Giản Chi bảo, khi đọc xong cuốn đó ông bỗng hiểu hai câu
thơ này của một thi sĩ đời Thanh:
Nhân sự tự sinh kim nhật ý
Hàn hoa chỉ tác khứ niên hương.
Chính ông dịch:
Ý mới rút từ kinh nghiệm cũ
Mai già lưu lại chút hương xưa
Cuốn đó có thể coi là một tập gồm nhiều cảo luận đắc ý của
tôi. Ba độc giả không quen biết nhau đều thích cuốn đó vì các cuốn khác ở nước
mình viết về tổ chức đời sống đều phỏng theo sách Pháp, Anh, duy cuốn của tôi
có tính cách Việt Nam. Một số người già cho rằng tôi là nhà văn Việt Nam độc nhất
dung hoà được hai nền văn minh Đông, Tây một cách tốt đẹp.
Tôi cũng vừa lòng về một loạt trên chục cuốn loại Gương danh
nhân mà độc giả nào cũng khen và ở trên tôi cũng nhắc tới. Trong loại đó tôi đã
thực hiện được một cách giáo hoá thanh niên tôi ấp ủ từ hồi mới cầm bút.
Mới đầu tôi viết những tiểu sử ngắn độ vài chục trang (trong
cuốn Gương danh nhân), rồi lần lần tôi viết dài hơn, bốn năm chục trang (như
trong Cuộc đời ngoại hạng), sau cùng dài trên dưới hai trăm trang và tôi phải để
riêng một cuốn cho mỗi nhà (Einstein, Tô Đông Pha).
Trong số trên mười tác phẩm đó tôi thích nhất Tô Đông Pha, Cuộc
đời ngoại hạng, Ý chí sắt đá.
Những nhân vật kì dị thì phải kể Huyền Trang, Gandhi,
Lincoln, ba tâm hồn cao cả vào bậc nhất cổ kim; H. Keller kiên nhẫn lạ lùng:
đui, điếc từ bé mà học hết đại học, viết trên mười cuốn sách, lại diễn thuyết
khắp Đông, Tây nữa; E. Lawrence một chính khách mạo hiểm, giữ chữ tín, đi tìm sự
tuyệt đối, khi thất bại thì tìm đủ cách để tự huỷ hoại.
Nhưng làm cho tôi và nhiều độc giả cảm động nhất là đời của
hai người đàn bà: bà La Fayette suốt đời hy sinh cho chồng; và bà Curie tận tuỵ
với chồng và khoa học, sống đơn giản như người thời cổ, tuyệt nhiên không nghĩ
đến danh lợi, đến bản thân. Cuộc hôn nhân của ông bà Curie thành công nhất mà
tôi được biết, thành công cho ông bà và cả cho nhân loại.
Xét chung thì các nhà khoa học suốt đời cặm cụi nghiên cứu
như Fabre, "thi sĩ của côn trùng", sướng nhất, rồi tới những nghệ sĩ
bỏ hết tiền của, tâm trí để tìm cái đẹp như Disney. Khổ nhất thường là những
nhà văn như Balzac, Maugham, Dostoiesvki, Tolstoi Nhưng chua xót nhất là bác sĩ
Semmelweiss: ông hoá điên rồi tự tử, không ai tin thuyết của ông (bệnh sản hậu
do vi trùng gây ra) mà cứ để cho phụ nữ châu Âu chết như rạ.
Vậy tôi đã không phí thì giờ để viết loại Học làm người, và
ông Đỗ Hồng Ngọc đã quá mến tôi mới rất bực mình khi tôi xếp những cuốn đó vào
hàng thứ yếu.
Tuy nhiên, André Maurois đã viết nhiều cuốn giáo dục thanh
niên, bán rất chạy như Un Art de vivre, Lettres à l’inconnue (bản dịch của tôi:
Thư gởi người đàn bà không quen biết), Cours de bonheur conjural, Lettre
ouverte à un jeune homme sur la conduite de la vie (bản dịch của tôi: Thư ngỏ gởi
tuổi đôi mươi), Dialogues sur la commandement, được người Pháp coi là nhà văn
luân lý (Écrivain moraliste) của thời đại, một "honnête homme" (chính
nhân quân tử) của phương Tây; mà về già, khi ôn lại cuộc đời viết văn của ông
trong cuốn Portrait d’un ami qui s’appelait moi, ông không hề nhắc tới những cuốn
kể trên, không coi trọng công việc hướng dẫn, khuyên nhủ thanh niên đó, mà lại
thích nhất những cuốn Disraëli (kể tình thương yêu, quí mến lẫn nhau của ông bà
Disraëli, một chính trị gia đại tài của Anh dưới triều đại nữ hoàng Victoria),
truyện Climats (một tiểu thuyết tâm lý), những tiểu sử Lélia (George Sand),
Olympio (Victor Hugo), Proust, Alain; những cuốn sử Anh, Hoa Kỳ, Pháp; còn các
nhà phê bình Pháp thì hầu hết đều cũng nhận rằng những bộ tiểu sử Lélia,
Olympio, Balzac, Alexandre Dumas của ông là phần chính trong sự nghiệp của ông,
viết rất công phu, đọc rất thú, và ghi lại nhiều nét của xã hội Pháp thế kỷ
XIX, gần như bộ Comédie humaine của Balzac, lại có một số ít nhà phê bình thích
những truyện ngắn không tưởng, mỉa đời của ông như Au pays des Articoles, hoặc
quái dị như Le peseur d’âme, La machine à lire les pensées.
Vậy thì việc nhận định văn học bao giờ cũng tuỳ sở thích của
mỗi người, có khi của mỗi thời nữa.
° °
°
LOẠI VĂN HỌC
Điều chắc chắn là tôi có xu hướng về văn học, thích những cuốn
viết về nghệ thuật (tư tưởng mới mẻ, thâm thuý mà viết kém thì tôi cũng không
ưa), và thích giới thiệu những cái đẹp trong văn thơ với thanh niên.
Cái đẹp trong văn thơ cổ kim, Đông Tây thiên hình vạn trạng,
không ai có thì giờ thưởng thức hết được. Mỗi người chỉ biết được vài khu vực
thôi. Tôi may mắn biết được hai nền văn học rực rỡ mà khác nhau là văn học
Trung Hoa và Pháp và trong loại sách về văn học, tôi rán truyền những cảm xúc
thích thú của tôi cho độc giả.
HƯƠNG SẮC TRONG VƯỜN VĂN
Trong chương XVIII tôi đã nói về bộ Luyện văn (3 cuốn) và bộ
Đại cương văn học sử Trung Quốc rồi.
Tác phẩm thứ ba mà tôi thích hơn bộ Luyện văn là bộ Hương sắc
trong vườn văn (mới đầu in làm hai cuốn).
Tôi nảy ra ý viết bộ đó nhờ năm 1947 hay 1948, đọc cuốn Cours
de technique littéraire của một trường hàm thụ (tôi quên mất tên) ở Paris. Cuốn
đó dạy kĩ thuật viết báo, tiểu thuyết, kịch, phê bình văn học, viết thư, cả viết
quảng cáo nữa.
Những thuật đó không có gì mới mẻ, đại khái tôi cũng biết qua
rồi, mà tôi cũng không có ý trứ tác những ngành kể trên; nhưng soạn giả khéo dẫn
nhiều thí dụ lí thú, và năm 1958 tôi dùng một số thí dụ đó với nhiều thí dụ
khác trong văn học Trung Quốc và Việt Nam để viết Hương sắc trong vườn văn.
Công việc không có gì khó. Cần nhất là có nhiều văn thơ để
trích dẫn, muốn vậy phải đọc thật nhiều. Không phải đọc trong sáu tháng hay một
năm khi đã nảy ra ý định viết rồi, mà phải đọc từ năm mười năm trước, thì mới
được nhiều tài liệu. Và như Sainte Beuve nói, "khi đã lượm được đầy tay rồi
thì công việc giản dị lắm", chỉ cần một bố cục khéo để "đóng
khung" thôi. Khi thu thập tài liệu tôi đã thấy vui, mà khi viết tôi cũng
thấy thích. Và chắc chắn độc giả đọc sách tôi cũng thấy vui như tôi. Một ông
giám học trường trung học ở miền Trung khen Hương sắc trong vườn văn là tác phẩm
phê bình văn học sâu sắc ở nước nhà. Gần đây một ông bạn cho tôi hay một thanh
niên tốt nghiệp đại học Văn khoa ở Huế khi "vượt biên" chỉ mang theo
mỗi cuốn đó.
Ngày nay đọc lại, tôi vẫn thích các chương Văn ba lan, Tế nhị
và hàm súc, Tình trong văn, lí trong văn, Đuổi bắt ảo ảnh (tiếp), nhất là hai
chương cuối: Kĩ thuật chân chính, và Cảm thông với cái đẹp.
Cuối đoạn kết (gồm một trang) của toàn bộ, tôi viết mấy hàng
này: "Trong nghệ thuật cũng như ở ngoài đời, phân tích tỉ mỉ quá không có
lợi gì cho người và cho mình. Những kẻ sung sướng nhất là những kẻ lí luận ít
mà cảm xúc nhiều. Bạn cứ hỏi trái tim bạn, hạnh phúc ở đó, mà cái đẹp cũng ở
đó".
Bộ đó in hai lần, trước sau được 5.000 bản. Trong số năm ngàn
độc giả đó, tôi mong có được dăm trăm người biết dùng văn thơ để bồi luyện cảm
xúc mà tìm được hạnh phúc. Tôi cho đó là cái lợi nhất khi ta đọc những tác phẩm
bất hủ của nhân loại.
CỔ VĂN TRUNG QUỐC
Tôi đã nhận được cái lợi đó từ khi lõm bõm đọc bộ Cổ văn quan
chỉ vào khoảng năm 1940.
Hồi đó, thấy bài nào thích thì tôi dịch ra để cho hiểu rõ hơn
và sau muốn đọc lại thì đỡ tốn công vì có sẵn bản dịch rồi; tóm lại, như tôi đã
nói, dịch chỉ để tự học.
Hai mươi năm sau, vốn chữ Hán của tôi đã khá hơn, tôi đọc lại
Cổ văn quan chỉ và Cổ văn bình chú, trong số hơn 300 bài, lựa lấy 100 bài tôi
thích nhất rồi lấy bản dịch cũ, mà dịch lại thành một bộ 900 trang 21 x 27 viết
tay, in ra khổ lớn, chữ nhỏ thành 480 trang. Bộ này do nhà Tao Đàn xuất bản cuối
năm 1966, in 1.000 bản mà năm 1975 vẫn chưa bán hết. Vì bài nào cũng in chữ
Hán, nên nhà xuất bản và tôi đều rất tốn công.
Dịch mất chín tháng, sửa ấn cảo ít nhất cũng mất ba tháng nữa
(mỗi ngày độ một giờ), mệt cũng bằng viết và in bộ Đại cương văn học sử Trung
Quốc. Ông Tao Đàn, một nhà xuất bản biết nhận định giá trị của tác phẩm, hiểu
biết về văn chương, và tôi đã hy sinh khá nhiều cho bộ đó, đã được đền đáp: một
số giáo sư, cựu sinh viên Văn khoa Sài Gòn coi bộ đó là một trong những tác phẩm
chính của tôi, và sau ngày giải phóng, một số học giả miền Bắc "đánh giá
nó rất cao". Đào Duy Anh khen nó là "Tác phẩm trội nhất từ trước tới
nay trong loại của nó".
Bộ đó tôi dịch kĩ cho nên khá mệt. Phải thuận, sát và giữ
đúng thể văn trong nguyên bản. Phải chú thích nhiều.
Các nhà cựu học trong nhóm Nam Phong đã dịch được mươi bài Cổ
văn Trung Quốc nhưng không nhà nào chỉ cho ta biết cái hay ở đâu. Bộ Cổ văn
bình chú có in thêm ít lời "Bình" sơ sài của cổ nhân. Tôi nghĩ cần phải
phân tích cái hay thì thanh niên tân học mới hiểu được, cho nên việc đó tôi làm
khá công phu. Đọc các bài Bá Di liệt truyện của Tư Mã Thiên, Lan Đình tập tự của
Vương Hi Chi, Xuân dạ yến đào lí viên tự của Lí Bạch, A Phòng cung phú của Đỗ Mục,
Tuý ông đình kí của Âu Dương Tu, Hỉ vũ đình kí của Tô Thức, Kí Âu Dương Tu xá
nhân thư của Tăng Củng độc giả sẽ thấy tôi đã đem tinh thần mới để xét nghệ thuật
của cổ nhân, việc đó chưa ai làm, và những độc giả nào lớn tuổi, biết chữ Hán,
đọc kĩ sách của tôi đều nhận đó là một cống hiến đáng kể trong văn học nước
nhà.
Tôi mừng rằng đã làm cho một số cựu sinh viên Văn khoa đại học
Sài Gòn hiểu được và thích cổ văn Trung Quốc. Trong bài tựa, tôi đã nói đọc nó,
có lợi nhiều về luyện văn: "Nghị luận thì chặt chẽ mà đột ngột, tự sự thì giản
lược mà linh hoạt, miêu tả tài hoa mà gợi hình, lời văn thì hàm súc và cảm động".
Còn cái lợi về tinh thần thì "mỗi khi muốn có cái cảm
giác nhẹ nhàng như người mới tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên ngọn đồi
thì chúng ta cứ phải lật bộ Cổ văn ra chứ không tìm được trong các tác phẩm hiện
đại nào cả". Vì tâm hồn của cổ nhân thanh tao mà khoáng đạt hơn chúng ta
nhiều.
Đọc những bài Nhạc Dương lâu kí, Thương Lương đình kí ta muốn
quên tất cả mọi vật, thế sự, cảm xúc triền miên; những bài Tuý ông đình kí, Hỉ
vũ đình kí khiến ta muốn nhảy múa với tác giả, vui cái vui thanh cao của tác giả;
hai bài Xích Bích phú tiền và hậu làm cho ta lây cái tinh thần của Lão Trang,
lâng lâng như muốn "mọc cánh". Và mới tháng trước, tôi đã mượn câu
"Tích nhật chi sở vô, kim nhật hữu chi, bất vi quá; tích nhật chi sở hữu,
kim nhật vô chi, bất vi bất túc" của Lưu Cơ trong bài Tư Mã Quí chủ bốc luận
để an ủi gia đình một bạn mấy năm nay sa sút, phải bán lần đồ đạc mà sống, như
hàng ức, hàng triệu gia đình khác.
Tôi viết cuốn đó khi buồn về quân Mĩ đổ vào miền Nam năm
1965, nên gởi tâm sự trong lời Hàn Dũ "bất bình tắc minh" mà tôi in ở
trang đầu, và trong phần trên bài tựa chép đời một ông Nghè cuối Lê chán thời
cuộc tìm một nơi hẻo lánh để dạy học gần làng tôi.
CHIẾN QUỐC SÁCH - SỬ KÍ
Hai bộ Chiến Quốc sách và Sử kí của Tư Mã Thiên của chúng tôi
được hết thấy các độc giả nhận là có giá trị.
Bộ trên được các nhà Nho trong Nam Phong trích dịch vài chục
bài, bộ dưới được Nhượng Tống dịch dăm chương. Vì hạn chế của thời đại, các vị ấy
chỉ mới giới thiệu qua loa được thôi.
Ông Giản Chi và tôi tính làm kĩ hơn, phân công nhau: tôi giới
thiệu bộ Chiến Quốc sách và trích dịch, chú thích hết các bài hay; ông Giản Chi
tuyển dịch độ một phần tư bộ Sử Kí và chú thích rất kĩ, tôi giới thiệu tác giả
cùng tác phẩm. Người này làm xong, đưa người kia coi lại.
Chúng tôi sưu tập tất cả các sách Hoa và Anh, Pháp viết về
hai tác phẩm đó, để giúp độc giả hiểu rõ:
Thời đại.
Nguồn gốc.
Nội dung.
Giá trị về sử liệu.
Giá trị về phương diện văn học (điều mà các nhà khác không
chú trọng tới mấy) của tác phẩm.
Riêng về Chiến Quốc sách, chúng tôi còn dùng tài liệu trong
tác phẩm để vẽ lại xã hội Trung Hoa thời Chiến Quốc.
Về bộ Sử kí, chúng tôi nhấn mạnh vào cuộc đời oan khổ của Tư
Mã Thiên nó ảnh hưởng tới tư tưởng và phương pháp viết sử của ông ra sao.
Bộ Chiến Quốc sách có phụ lục: niên biểu thời Chiến Quốc,
Nhân danh, Địa danh. Bộ Sử kí có hai bản đồ: Trung Hoa thời Chiến Quốc và Trung
Hoa thời Hán.
Mặc dù cũng bị thời đại hạn chế, chúng tôi không thể dịch trọn
hai tác phẩm bất hủ đó được, nhưng đọc hai bản dịch của chúng tôi - 700 và 800
trang - độc giả cũng có một số tri thức tạm đủ và rõ rệt rồi, và chúng tôi mong
rằng vài ba chục năm nữa sẽ có người dịch trọn bộ Sử kí.
TÔ ĐÔNG PHA
Tôi đặt Tô Đông Pha vào loại Văn học, nhưng cũng có thể đặt
vào loại Gương danh nhân cùng với mấy cuốn Einstein, Bertrand Russell, Henry
David Thoreau (một lương tâm nổi loạn) được - (Mấy cuốn đó giống nhau ở điểm mỗi
cuốn viết riêng về một nhà). Tôi thích họ Tô nhất vì tấm lòng của Tô gần với
tôi hơn cả.
Tôi rất phục tài của Tô, yêu tinh thần bình dân của Tô, mong
học được đức khoan hoà, phóng khoáng của Tô. Tôi ước ao được sống cuộc đời nghệ
sĩ của ông ở Hàng Châu, ở Lâm Cao, được thả thuyền trên Tây Hồ mà ngắm đủ thập
cảnh, uống rượu ngâm thơ với bạn trên dòng Xích Bích.
Mới mấy hôm trước đây, vì thời tiết thay đổi, vừa bật đèn lên
ăn cơm thì mối bay ra cả đám, tôi phải tắt đèn, ra ngồi ăn cơm thầm ngoài sân (ở
Long Xuyên), rồi về khuya cóc kêu inh ỏi bên phòng, tôi phải trở dậy, kiếm viên
thuốc ngủ và nhớ lại hồi ông bị đày ở đảo Hải Nam, sống cực khổ mà vui vẻ, trào
phúng được. Về mọi phương diện, ông đều đáng làm thầy tôi.
Tôi thường đọc lại những đoạn ông ở Hàng Châu, Lâm Cao, Hải
Nam đó, và đoạn ông ngồi thuyền qua hẽm Vu Giáp, trên sông Dương Tử để lên
Kinh.
Yêu ông, tôi cũng yêu mấy nhân vật kỳ dị thời ông nữa: một học
giả bỏ ra 25 năm, viết một bộ sử vĩ đại (Tư Mã Quang), một triết gia sống khắc
khổ (Trình Di), một đạo sĩ đi mấy ngàn cây số để thăm ông, yêu cả Vương An Thạch
nữa, tại sao không? Nhà cách mạng đó ngây thơ, có thể khùng khùng, nhưng đâu có
bỉ ổi! Còn nàng Triêu Vân nữa mà bạn của Tô gọi là Phật bà Quan Âm!
Tóm lại tôi yêu cả xã hội Trung Hoa thời ông: Nó chia rẽ, bất
công, suy về kinh tế, võ bị, nhưng về văn học, triết học, mĩ thuật lại rất tiến.
Hễ văn minh thì không hùng cường, hễ hùng cường thì không văn minh. Hy Lạp thời
Périclès văn minh rực rỡ mà bị Macédoine chiếm.
Năm 1974 tôi đã sửa lại Tô Đông Pha, thêm vài đoạn (một đoạn
về cảnh Tây Hồ), nhà Cảo Thơm chưa kịp tái bản thì Sài Gòn được giải phóng, phải
đóng cửa. Vài bạn kháng chiến rất thích cuốn đó".
VĂN HỌC TRUNG QUỐC HIỆN ĐẠI
Ở trên tôi nói không được vừa ý về bộ Văn học Trung Quốc hiện
đại vì thiếu nhiều tài liệu, cần phải bổ túc. Tuy nhiên, cho tới ngày nay muốn
biết về văn học hiện đại của Trung Hoa, ngoài bộ đó ra, chúng ta không còn cuốn
nào khác bằng tiếng Việt. Tôi vẫn thỉnh thoảng tra lại nó, và thấy đoạn kết
không có gì phải thay đổi. Trong đoạn ấy tôi đã vạch rõ hai nền văn hóa Hoa, Việt
từ cuối thế kỉ trước đến nay tiến song song nhau, có những nét rất giống nhau
(cả ở miền Quốc gia lẫn miền Cộng sản) y như anh em sinh đôi như vậy chỉ vì hai
nước đồng văn với nhau, gặp những hoàn cảnh như nhau.
Trong đoạn cuối, tôi đã đặt vấn đề tự do và chỉ huy trong văn
nghệ:
"Tự do nhưng tự do tới mức nào, chỉ huy nhưng chỉ huy ra
sao, làm sao để cho kẻ này đừng lạm dụng tự do, kẻ kia đừng lạm dụng quyền
hành, vấn đề quan trọng đó vẫn chưa có một giải pháp hoàn toàn, mà có lẽ không
bao giờ có được một giải pháp vẹn toàn nếu bản thân những người làm văn nghệ và
cả những người hưởng thụ văn nghệ chưa có một nền đạo đức, một sự giác ngộ và một
trình độ giám thức tối thiểu nào đó".
° °
°
KHẢO LUẬN VỀ NGỮ PHÁP VIỆT NAM
Tôi đã nhiều lần tuyên bố trong đám đông rằng tôi không phải
là nhà ngôn ngữ học. Trong một chương trên tôi đã nói ông Trương Văn Chình sau
khi đọc cuốn Để tìm hiểu văn phạm mà tôi cao hứng viết trong khi dạy học ở Long
Xuyên, rủ tôi hợp tác soạn một cuốn ngữ pháp mới thay thế cuốn của Trần Trọng
Kim quá lệ thuộc vào các sách ngữ pháp cổ điển của Pháp. Tôi thấy ý đó hay hay,
nhận lời, bỏ ra hai ba năm gì đó đọc ba bốn chục cuốn ngữ pháp, văn pháp Việt,
Hoa, Anh, Pháp để cùng ông tìm một phương pháp thích hợp với Việt ngữ. Nhưng
khi viết thì ông đảm đương hết, tôi chỉ coi bản thảo và góp ý với ông thôi.
Càng đi sâu vào môn đó tôi càng thấy nó như một khu rừng, và
khi chúng tôi tạm tìm được một lối để thoát ra, thì riêng tôi, tôi thấy nhẹ
mình quá, nghĩ bụng: "thế là hết nợ". Ngay khi cuốn Khảo luận về ngữ
pháp Việt Nam mới in xong, tôi tuyên bố trong một bài phỏng vấn của Bách Khoa
năm 1963 - tôi không nhớ tháng nào - rằng tôi thích văn học hơn môn ngữ học, sẽ
trở về văn học. Từ đó tới nay tôi không viết về ngữ pháp nữa, cũng từ chối dạy
ngữ pháp cho một vài trường đại học. Ông Trương Văn Chình trái lại, mỗi ngày một
đào sâu thêm nhiều về ngữ pháp, sau đó viết cuốn Structure de la langue
vietnamienne, được Trung tâm Đại học sinh ngữ Đông phương (Centre universitaire
des langues orientales vivantes) xuất bản năm 1970, và hiện nay ông có thêm một
bộ Ngữ pháp Việt Nam gồm năm ngàn trang đánh máy, Viện Khoa học Xã hội Hà Nội
chưa in cho ông được, ông đòi lại bản thảo, không biết họ có trả không!
Bộ Khảo luận ngữ pháp Việt Nam được vài giáo sư Việt cho là
đánh dấu một khúc quẹo đáng ghi trong việc nghiên cứu tiếng Việt. Học giả E.
Gaspardone giới thiệu nó trên tạp chí Sinologie (ở Thuỵ Sĩ năm 1965) với nhiều
cảm tình; hai giáo sư Pháp, một ở Paris, ông Maurice Durand, một ở Việt Nam, cô
Piat khen nó trên Nội san trường Viễn Đông Bác cổ (B.E.F.E.O - Durand) năm 1966,
và trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Dương (Bulletin des Etudes Indochinoises -
Piat) tôi không nhớ năm nào, chỉ biết sau bài của Durand!
Nó mới mẻ thật. Chúng tôi nhấn vào tính cách "cách thể"
(isolante) và không có "từ pháp" (morphologie) của Việt ngữ, mà bỏ hẳn
lối chia ra làm trên chục từ loại như các sách ngữ pháp cũ, dùng một cách phân
loại "mềm mại hơn, mơ hồ hơn" (lời của Gaspardone), phân biệt ba loại
thôi: thể từ (tức danh từ cũ), trạng từ (gồm động từ, tĩnh từ, trạng từ cũ) và
trợ từ.
Sự phân loại đó hơi giống lối của Trung Hoa thời xưa: thực từ,
hư từ, bán hư bán thực từ.
Qui kết là chúng tôi chú trọng đến từ vụ (fonction des mots)
hơn người trước, chú trọng đến vị trí của mỗi tiếng trong câu, và tới sự cấu tạo
của câu. Vì vậy mà một số người cho phương pháp của chúng tôi là phương pháp cơ
cấu.
Sau giáo sư Trần Ngọc Ninh đào sâu thêm, phân tích kĩ hơn, viết
bộ Cơ cấu Việt ngữ mới in ba cuốn đầu, mỗi cuốn độ hai trăm trang, rồi phải
ngưng vì miền Nam đã thay đổi chế độ. Nghe nói hiện nay ông ở Mĩ.
Trong khi soạn bộ Khảo luận đó, tôi thấy có vài chỗ miễn cưỡng,
bàn với ông Trương Văn Chình nhưng chúng tôi không sao giải quyết hơn được.
Cách phân loại các từ của chúng tôi tuy tránh được nhiều mâu thuẫn mà cách cũ mắc
phải, tuy có "mềm mại" hơn, nhưng chính vì vậy mà "mơ hồ"
hơn, như ông Gaspardone nói.
Tôi lại thấy có nhiều phương pháp phân tích một ngôn ngữ:
phương pháp duy lí (logique), phương pháp tâm lí (psychologique), rồi phương
pháp cơ cấu (structural), cơ cấu ngầm (générative), cả phương pháp hoàn toàn
hình thức (formelle) nữa, nghĩa là chỉ dựa vào vị trí của các từ đối với nhau
mà bỏ hẳn ý nghĩa đi. Phương pháp nào cũng có điểm hay, cũng có chỗ đúng, mà chẳng
phương pháp nào hoàn toàn cả, mà vài ba nhà "ngôn ngữ học" ở nước
mình thường đố kị nhau, ai cũng cho chỉ mình mới đúng, nên tôi chán ngán, quyết
tâm bỏ môn đó.
Tôi nghĩ môn ngữ pháp có ích đó, nhưng lí thuyết quá, không
thiết thực bằng chỉ cách cho thanh niên viết tiếng Việt ra sao cho sáng sủa, và
trong mấy năm sau tôi lượm trên các sách báo Sài Gòn những câu tối tăm, viết
không xuôi, tìm ra nguyên nhân tại đâu, rồi đề nghị cách sửa, và nếu có thể được
thì rút ra một vài qui tắc. Cuốn đó viết xong, nhan đề là Tôi tập viết tiếng Việt
nhưng vì chưa xuất bản, nên tôi để lại một chương sau sẽ xét tới.
° °
°
CÁC TÁC PHẨM VỀ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC
Khi bộ Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam còn đương thảo, tôi đã
bắt đầu viết chung với ông Giản Chi bộ Đại cương triết học Trung Quốc. Do tôi đề
nghị và phân công: ông Giản Chi lãnh phần Vũ trụ luận (II) và Tri thức luận
(III), tôi vốn thích cái gì cụ thể, thực tiễn, lãnh phần Nhân sinh luận (IV),
Chính trị luận (IV). Vì công việc của tôi dễ hơn của ông Giản Chi, nên tôi lãnh
thêm phần I: Vài nét sơ lược về sự phát triển của triết học Trung Hoa, và phần
VI: Tiểu sử các triết gia; hai phần sau này điều ngắn. Toàn bộ gồm hai cuốn:
Thượng trên 800 trang và Hạ gần 900 trang. In cả chữ Hán, để riêng ở cuối mỗi
cuốn.
Công việc này rất mệt. Tôi thú thực nếu không có ông Giản Chi
thì tôi không dám mạo hiểm vào. Chúng tôi tra cứu tất cả các sách Trung triết bằng
Hoa ngữ, Việt ngữ và Pháp ngữ mà chúng tôi kiếm được, nhất là bộ Trung Quốc triết
học đại cương của Vũ Đồng mà ông bạn Tạ Trọng Hiệp ở Paris kiếm cho được.
Sự hợp tác với ông Giản Chi rất thú vị, chúng tôi làm việc đều
siêng năng, cẩn thận, biết dung hoà ý kiến với nhau, học thêm được của nhau.
Chúng tôi theo Vũ Đồng, trình bày triết học Trung Hoa theo
chiều ngang chứ không theo chiều dọc, nghĩa là chia thành từng vấn đề chứ không
từng thời đại, từng môn phái. Cách trình bày đó rất mới mẻ ở nước ta (mà cũng
ít thấy ở Trung Hoa). Nhưng ở đầu bộ chúng tôi cũng thêm một phần tóm tắt lịch
sử triết học Trung Hoa, phần này dài trên 100 trang (có thể in riêng vào loại
sách phổ thông như loại Que sais je? ở Pháp), và ở cuối bộ lại thêm một phần nữa
về tiểu sử mỗi triết gia, như vậy sửa được cái khuyết điểm của lối trình bày
theo chiều ngang, mà giữ được cái ưu điểm là dễ tra cứu khi muốn tìm hiểu về một
vấn đề nào.
Bộ sách dày quá, việc in lại khó khăn vì có nhiều trang chữ Hán,
vốn phải bỏ ra nhiều mà thu lại rất chậm, vì vậy mà hai năm sau khi viết xong mới
cho ra được cuốn Thượng, rồi hơn một năm sau nữa mới cho ra nốt cuốn Hạ, nhờ sự
hợp tác tận tình, không vị lợi của ông Hồ Hải, giám đốc nhà xuất bản Cảo Thơm,
một bạn trẻ của chúng tôi.
May thay sách được giới trí thức hoan nghênh, chính phủ tặng
chúng tôi giải nhất Văn chương toàn quốc, ngành biên khảo 100.000đ, chúng tôi
nhờ tặng lại một cơ quan Văn hóa. Trong hai năm bán lai rai cũng hết ngàn bộ
(chúng tôi chỉ in bấy nhiêu thôi), chia nhau được ít lời. Thật hú vía. Bộ đó
sau tái bản được một lần, chúng tôi mừng cho ông Hồ Hải. Ông là một nhà xuất bản
yêu nghệ thuật in, có sáng kiến, thích những tác phẩm có giá trị, có đặc tài
trình bày tác phẩm, nên sách của nhà Cảo Thơm nổi tiếng. Năm 1978 ông đi qua Mĩ
và thỉnh thoảng vẫn viết thư hỏi thăm chúng tôi. Cái lợi quan trọng của tôi là
được học trong hai năm, rồi nhân đà đó tiến sâu thêm về Trung triết cho tới bây
giờ mà viết được trên mươi cuốn nữa, ba cuốn xuất bản trước ngày giải phóng tôi
sẽ giới thiệu dưới đây, còn những cuốn khác để lại một chương sau.
° °
°
- Liệt tử và Dương tử:
Bộ Liệt tử chữ Hán không có tính cách nhất trí, nội dung rất
tạp, chép cả về Dương tử, Khổng Tử, Lão tử, Quan Doãn, Quản Trọng, Án tử lại
thêm có nhiều bài mâu thuẩn nhau, nhiều bài trùng với các tác phẩm khác, rõ
ràng cuốn đó của người đời sau viết mà chỉ một số là môn đệ của Liệt tử thôi.
Tôi đọc kĩ, loại bỏ những bài nguỵ tác, chỉ lựa những bài diễn
những tư tưởng có ít nhiều hệ thống, có thể tạm tin là tư tưởng của Liệt tử, và
chắc chắn của Dương tử rồi chia làm hai phần: Liệt tử và Dương tử.
Riêng phần Liệt tử tôi chia thành 6 chương có nội dung nhất
trí, việc mà trước chưa ai làm. Nhờ đó mà bản của tôi không luộm thuộm như bản
chữ Hán, sáng sủa hơn, có ý nghĩa hơn. Cuốn đó có nhiều truyện (huyền thoại, cố
sự, ngụ ngôn) lí thú, nên đọc.
° °
°
- Nhà giáo họ Khổng:
Tập này mỏng, không đầy 100 trang, tôi viết trong nữa tháng,
một cách dễ dàng và say mê. Tôi dùng toàn những bài trong Luận ngữ để vẽ chân
dung Nhà giáo (chứ không phải triết gia) họ Khổng: tính tình và tư cách ông ra
sao, cách ông dạy học ra sao, tình thầy trò ông ra sao, công ông về giáo dục ra
sao.
Một bạn văn, ông Nguyễn Văn Hầu, tác giả các cuốn Chí sĩ Nguyễn
Quang Diêu, Thoại Ngọc Hầu khen rằng chương V: Tình thầy trò, "rất cảm động,
gây lại được cái không khí của trường học Nho ngày xưa".
Viết xong tập đó tôi hiểu Khổng Tử hơn, quí ông hơn. Ông vừa
nghiêm, vừa khoan, đa cảm mà thương người, thành thực mà tự nhiên, bình dân, lại
có nghệ sĩ tính, có tinh thần hài hước nữa. Không có một ông thánh nào khác gần
với chúng ta như ông.
Cuốn đó được hoan nghênh, sau tôi nảy ra viết một cuốn nữa về
Triết gia họ Khổng.
° °
°
- Mạnh Tử:
Cuốn này dày hơn: 160 trang, cũng do Cảo Thơm xuất bản như cuốn
trên.
Tôi cố làm nổi bậc sự khác biệt giữa thời đại xã hội của Khổng
và thời đại xã hội của Mạnh, giữa tính tình của hai vị. Khổng có lúc muốn chiều
đời được việc, Mạnh thì hiên ngang quá, khẳng khái quá, giữ vững nguyên tắc,
không chịu thoả hiệp.
Ông Thu Thuỷ (Võ Phiến) trên tờ Chính luận (số 9.3.75), phê
bình cuốn Mạnh Tử như sau:
"Về thời đại, về tính tình, về tư cách Mạnh Tử, cách ông
(Nguyễn Hiến Lê) trình bày thật sống động lí thú.
Về tư tưởng của Mạnh Tử, trình bày cũng thật là rõ ràng dứt
khoát (). Trong lối viết gãy gọn, thẳng thắn của ông Nguyễn có lúc đột ngột, gần
như thân mật. Trước đây nửa thế kỉ, ông Trần Trọng Kim không thể có cái giọng ấy.
Cái dứt khoát của ông Nguyễn khiến người ta nghĩ tới Mạnh tử,
mà cái thân mật khiến nghĩ tới cụ Khổng".
° °
°
VỀ SỬ
Đông Kinh nghĩa thục:
Hồi tản cư về ở Tân Thạnh (1946-1947), tôi được bác ba tôi,
hiệu là Phương Sơn, giáo sư trong Đông Kinh nghĩa thục cũng là rễ cụ Lương Văn
Can, kể cho nghe hoạt động của trường.
Hồi cư về Sài Gòn, tôi tìm đọc trên hai chục cuốn về các nhà
cách mạng thời đó, cả cuốn Đông Kinh nghĩa thục của Đào Trinh Nhất (Mai Lĩnh -
1938), vừa để kiếm thêm tài liệu, vừa soát lại những lời bác tôi kể, rồi viết
cuốn Đông Kinh nghĩa thục, xuất bản năm 1956.
Tôi dùng một bài song thất lục bát của một thi sĩ khuyết danh
trong tập Nam Thiên phong vận ca để dựng bố cục cho tác phẩm, cứ đầu mỗi chương
tôi lại dẫn một hai câu theo đúng thứ tự trong bài.
Đông Kinh nghĩa thục ghi được không khí thời đó (1907), chép
được tinh thần của các nhà cách mạng vừa hăng hái vừa "ngây thơ", nhất
là tình đoàn kết, bình đẳng trong anh em, lại có nhiều giai thoại, nhiều tình
tiết lí thú, cho nên sách bán khá chạy.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung ở Bạc Liêu trong một bức thư đề ngày
21.1.69 viết: "Tôi đã đọc cả mấy bài tựa của Đông Kinh nghĩa thục và của
Bài học Israël, càng thêm mến cái tâm chí của anh, và càng thêm mộ cách nói
thân thương mà khéo léo của anh. Từ câu nói "Bất bình tắc minh" của
Hàn Dũ mà anh nêu làm đề từ đặt ở đầu bộ Cổ văn Trung Quốc đến "càng đọc lịch
sử thế giới làm quân tốt thí trên bàn cờ Quốc tế" (Tựa Bài học Israël),
qua "mỗi lần ôn lại lịch sử vào bực nhất nhì Đông Nam Á" (Tựa Đông
Kinh nghĩa thục), người nào lấy công tâm mà đọc anh nghĩa là đừng có một định
kiến nào, tất sẽ nhận rằng bên trong cái dáng văn nhược thư sinh của người có
tên là Hiến Lê, bao giờ cũng âm ỉ cháy một tráng chí bền chặt mà nếu chỉ nhìn
thoáng qua chắc ít ai ngờ đến".
Nhà văn Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nam, trong một bức thư không
đề ngày, bảo " nếu anh không viết quyển đó (Đông Kinh nghĩa thục) thì sự
thực về phong trào đó thế nào, thật đã ai biết cho tường (tôi chưa được đọc quyển
Đào Trinh Nhất). Tôi tin là trong văn nghiệp của anh, quyển sách mỏng ấy sẽ được
nhắc tới nhiều như Sonate à Kreutzer () trong sự nghiệp đồ sộ của
Tolstoi".
Có thể do đọc Đông Kinh nghĩa thục mà Nguyễn Văn Xuân về sau
viết cuốn Phong trào Duy Tân (Lá Bối xuất bản).
° °
°
BÁC BA TÔI MẤT
In xong cuốn đó - cũng như cuốn Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười
và bộ Đại cương văn học sử Trung Quốc - tôi gởi về Long Xuyên tặng ngay bác ba
tôi một bản để người đọc lại những hồi kí cùng bài thơ Cảm khái của người ở cuối
sách:
Tuổi xanh kết bạn xoay trời đất
Năm chục năm nay thỏa ước mong
Độc lập xa gần cờ phấp phới
Anh hồn cố hữu khoái hay không?
Bài thơ đó người làm đầu mùa đông năm Ất Mùi (1955) khi Việt
Nam không còn bóng một quân Pháp nào cả, ít tháng trước khi Đông Kinh nghĩa thục
đưa cho nhà in sắp chữ.
Ít năm sau người yếu lần, nghỉ không ra toa nữa, qua ở với
con trai thứ ba, anh Nguyễn Xuân Tu, tại chợ Thủ, chỉ cách làng Tân Thạnh có
con sông Tiền Giang.
Mùa Hè năm 1959 tôi về Chợ Thủ thăm người một lần: Óc vẫn
sáng suốt, nhưng chậm chạp hơn, suốt ngày ở trong nhà. Da có nhiều chỗ ngứa,
bôi thuốc gì cũng không hết. Thận suy rồi, không lọc được chất độc trong máu nữa.
Đầu tháng giêng 1960 - ngày 11 tháng chạp năm Kỉ Hợi, tôi ở Sài Gòn tôi được điện
tín người qui tiên, vội vàng về liền, tới nơi thì đã nhập quan rồi. Mấy tháng
khi gần mất, chân người phù lên. Người sinh năm Nhâm Ngọ, năm đó 78 tuổi. Mộ
người ở làng Tân Thạnh, sau nền nhà cũ. Nhà đã dỡ, mà từ năm 1975, nền nhà cũng
về một đứa cháu xa ở Bắc vô giúp việc cho người từ hai mươi mấy năm trước.
Chí lớn không thành, sống đời một ẩn sĩ ở một nơi hẻo lánh,
tuyệt nhiên không màng danh lợi, chỉ thích hoa và sách. Hai vài tứ tuyệt dưới
đây ghi được tâm sự và tính tình thanh cao của người:
MỘT NGÀY
Quanh quẩn ra vô hết một ngày,
Một ngày là mấy kể chi đây.
Tiếc cho ba vạn ngày đăng đẳng,
Mà cũng ra vô cũng thế này.
TỰ TRÀO
Lên cao muốn chở núi xanh về,
Muốn rủ trăng kia xuống nhậu thi.
Sách muốn mới hoài hoa chớ rụng,
Trần gian có một khách tham si.
Rất ham đọc sách, bất kì loại nào, mỗi năm chỉ làm vài bài
thơ mà cũng không muốn lưu lại. Hai người con thông minh của người mất sớm, người
trông mong vào tôi mà người coi như con, và tôi mừng rằng đã đã đáp được công của
người một phần nào.
Sách in rồi, tôi vẫn tiếp tục kiếm thêm tài liệu, đọc ở đâu
hoặc được bạn bè (Nguyễn Hữu Ngư) cho biết thêm điều gì tôi điều ghi lại, cho
vào một hồ sơ riêng, để khi tái bản sẽ sửa chữa. Nhờ vậy lần in thứ nhì năm
1968, sách dày thêm được khoảng ba chục trang, lần thứ ba (1974) thêm được hai
chục trang nữa, tất cả là 200 trang. Hai lần sau tôi đều giao cho nhà Lá Bối
trông nom. Từ năm 1974 đến nay, tôi lại kiếm thêm được ít tài liệu nữa mà tôi sẽ
chép trong phần phụ lục; nhưng chắc sẽ không có lần thứ tư.
Độc giả ai cũng cho cuốn đó là một trong những cuốn có giá trị
của tôi; chính tôi cũng thích nó một phần vì nó ghi lại được hoạt động của các
bác, cha, chú tôi.
BÀI HỌC ISRAËL - BÁN ĐẢO Ả RẬP
Hai cuốn nữa tôi cũng đắc ý là: Bài học Israël và Bán đảo Ả Rập.
Tài liệu về hai cuốn đó, tôi thu thập trong năm sáu năm được
khá nhiều. Hồi đó, may mắn, một người cháu tôi Tô Lệ Hằng, đi du lịch ở Israël,
gởi về cho tôi một số tài liệu mà người khác không có được, nhờ vậy phần III cuốn
Bài học Israël, về tổ chức Quốc gia và sự phát triển kinh tế của Israël, nhất
là về các nông trường Kibboutx, Mochav Ovedim, Mochav Chitoufi, tôi viết rất đầy
đủ, nhiều độc giả chú ý tới.
Dân tộc Israël có thể làm gương cho ta về đức đoàn kết, anh
dũng, kiên nhẫn, và về tài tổ chức. Nhưng họ thành công rồi thì hoá ra kiêu
căng, có óc thực dân, tôi không ưa.
Tôi thích cuốn Bán đảo Ả Rập hơn. Các dân tộc Ả Rập đau khổ
chiến đấu, bị liệt cường chia rẽ, thao túng, cứ ngoi lên được một chút thì lại
bị dìm xuống; tình cảnh, thân phận của dân tộc I Rak trước cách mạng 1958 thật
giống dân tộc mình thời đó. Những chương chúng tôi viết về lịch sử kiến quốc của
Ả Rập Seoudite, về cuộc cách mạng của Ai Cập, của I Rak là những chương tôi
thích nhất. Có những nhân vật y như trong Đông Chu liệt quốc. Đời một dân tộc
cũng như đời của một cá nhân, trong thời đau khổ chiến đấu mới có nhiều trang sử
hay.
Một độc giả, ông Nguyễn Quí Toàn, trên tờ Diễn Đàn số 17
(1969), khen cuốn đó: "Nguyễn Hiến Lê có cốt cách một học giả thận trọng,
lại có lối trình bày sáng, giản di của một nhà văn () Văn (của ông) đầy hình ảnh,
cụ thể và lôi cuốn như tiểu thuyết".
Tôi cũng nhận thấy cuốn đó viết hay hơn cuốn Israël. Cả hai
cuốn tôi đều viết rất mau và hứng thú.
Khảo về sử hiện đại của bán đảo Ả Rập (trên đó có Israël) tôi
càng thấy rõ cái hại của thực dân. Trong bài tựa cuốn Israël tôi viết: "Thực
dân nào, bất kì Đông hay Tây cũng chỉ nghĩ tới quyền lợi của họ trước hết: còn
có lợi cho họ thì họ giúp, bất lợi thì họ bỏ, đàn áp Đi theo thực dân thì luôn
luôn lợi bất cập hại () không sớm thì muộn, thế nào cũng khốn đốn, điêu tàn với
họ () chỉ đem thân ra làm quân tốt thí cho họ trên bàn cờ quốc tế".
Có phải vì bài tựa đó không mà Bài học Israël, năm 1973 bị
Nha Thông tin Văn hoá làm khó dễ, dìm trong mấy tháng trời khi xin phép tái bản,
rồi năm 1975 bị một số cán bộ rỉ tai các sạp sách là không nên bán, mặc dù nó
không có tên trong danh sách các tác phẩm bị cấm lưu hành.
Vào khoảng 1969, tôi mua được trọn bộ Lịch sử Văn minh (32 cuốn)
của Will Durant, dịch ra tiếng Pháp, do nhà Rencontre ở Lausanne (Thuỵ Sĩ) xuất
bản. Bộ đó rất hay, ông bà Durant để ra ba chục năm, tham khảo mấy ngàn cuốn
sách, đi du lịch gần khắp thế giới, để viết nó.
Năm 1970 tôi dịch cuốn Văn minh Ấn Độ (550 trang), Lá Bối in.
Để viết bài tựa 16 trang cho cuốn đó, tôi đã gởi thư qua Thuỵ Sĩ nhờ nhà
Rencontre kiếm cho tôi những tài liệu về đời sống và sự nghiệp của Will Durant.
Độc giả hoan nghênh, một vị viết thư yêu cầu tôi dịch trọn bộ.
Tôi đáp cũng muốn vậy lắm, nhưng trong nước phải có ít nhất
là ba ngàn độc giả như ông ta thì nhà Lá Bối mới dám tiếp tục.
Sau tôi chỉ dịch thêm bốn cuốn nữa: Văn minh Ả Rập, Bài học của
lịch sử, Nguồn gốc văn minh và Văn minh Trung Hoa. Cuốn sau chưa kịp in thì
thay đổi chế độ.
Những cuốn đó đều có ích, nhất là Bài học của lịch sử.
° °
°
KINH TẾ
Về kinh tế tôi chỉ có một cuốn: Một niềm tin ở trên đã giới
thiệu rồi. Sách viết gọn, sáng sủa và đầy đủ, để phổ biến những luật phát triển
kinh tế và những vấn đề cùng đường lối phát triển kinh tế tại các nước lạc hậu
mà người ta gọi là thế giới thứ ba. Một người điểm sách khen là "tác giả
viết với tấm lòng yêu nước nồng nàn".
Một vài suy luận của Fourastié trong cuốn đó đã hoá sai. Như
(tr.65) ông tiên đoán khoảng vài thế kỉ nữa, số dân hoạt động tại các nước tiên
tiến sẽ như sau: 10% về hoạt động sơ đẳng, 10% về hoạt động nhị đẳng, 80% về
tam đẳng. Hiện nay tại Mĩ, hoạt động sơ đẳng chỉ chiếm 5% số dân hoạt động; và
nhờ sự phát triển của kĩ thuật điện tử, có thể chỉ đầu thế kĩ tới hoạt động nhị
đẳng chỉ còn 10% số dân hoạt động.
° °
°
TIỂU PHẨM
Tiểu phẩm là những bài văn ngắn từ mươi trang trở xuống viết
về bất kì vấn đề gì (tự sự, nghị luận, phê bình) và có tính cách độc lập nghĩa
là không trích từ một tác phẩm dài ra.
Trong loại tiểu phẩm tôi có thể kể nhiều bài mà tôi đã gom lại
trong hai cuốn Mấy vấn đề xây dựng văn hóa, Mười câu chuyện văn chương đã xuất
bản, và trong hai tập Để tôi đọc lại, Mười tám câu chuyện thời sự chưa in thành
sách.
Dưới đây tôi giới thiệu một số bài tôi đắc ý vì có tính cách
nghệ thuật ít nhiều, lí luận xác đáng, và nhất là ghi được tâm tư, những nỗi
vui buồn, phẩn uất của tôi. Nói như Hàn Dũ thì đây là những "Bất bình tắc
minh" của tôi, "bất bình" hiểu theo nghĩa rộng là không có sự
quân bình (bất đắc kì bình), là xúc động mạnh.
* Trên các báo định kì tôi đã gởi đăng một số bài có tính
cách bút chiến, như những bài về tư thục, về chuyển ngữ ở đại học (đã giới thiệu
ở trên) hoặc những bài:
- Vấn đề kiểm duyệt (Bách Khoa - 1969)
- Nhà cầm quyền và dư luận (Bách Khoa - 1966), bài này bị kiểm
duyệt bỏ nhiều quá, mất gần hết ý nghĩa.
- Vấn đề thông cảm lẫn nhau giữa chính quyền và nhân dân
(1961), bị kiểm duyệt bỏ trọn.
- Thân phận người dân các nước chậm tiến (1966), Bách Khoa
không đăng vì sợ bị trù.
Những bài trên tôi gom lại trong tập: Mười tám câu chuyện thời
sự.
Hai bài tôi đắc ý nhất, giá trị ngang với cổ văn Trung Quốc
là:
- Ý nghĩa cái chết của giáo sư Trần Vinh Anh.
Ông Anh là một giám khảo trong kì thi Tú tài I ở Nha Trang
năm 1967, bị một bọn thí sinh ghét vì ông nghiêm chỉnh giữ kỉ luật trường thi
mà đâm ông túi bụi ở trước một quán ăn, và ông đã tắt thở. Hay tin tôi xúc động
mạnh, viết một hơi trong bài trên. Mạt sát cả Bộ Giáo dục, lẫn cha mẹ học sinh,
giọng phẩn uất bừng bừng trên ngọn bút. Ông Giản Chi đọc xong khen: "ngắn
mà hay".
- Cụ Phan và lòng dân
Năm 1967, ông Lê Văn Hảo, giáo sư đại học Văn khoa Huế vào
Sài Gòn nhờ tôi viết cho một bài cho số kỉ niệm 100 năm năm sinh Phan Bội Châu
và tôi gởi ông bài Cụ Phan với lòng dân. Bài đó rất được bạn văn thích, cả Nam
lẫn Bắc. Tôi kể lại lòng ngưỡng mộ của dân làng tôi hồi năm 1925 đối với cụ
Phan và đả bọn thực dân Pháp đã bị cái lợi ám nhãn không nhận ra tinh thần ái
quốc của dân tộc chúng ta, để đến nỗi non 30 năm sau phải chịu cái nhục ở Điện
Biên Phủ.
Câu cuối bài: "Nhưng nào phải chỉ có Pháp mới ngốc",
tiên đoán rằng Mĩ cũng sẽ bị nhục như Pháp.
Nên kể thêm hai bài:
- Đả phá dễ hay xây dựng dễ, tôi đã giới thiệu ở chương
XXVII.
- Con đường hoà bình, mới đầu đăng trên một số kỉ niệm Nhất
Chi Mai của Hội Phật giáo thống nhất, sau nhà Lá Bối in thành một tập mỏng
trong loại Bông hồng cài áo.
Tôi hô hào gột bỏ hết những nhiễm độc của Tây phương, gột bỏ
tinh thần kì thị, phe đảng, gột bỏ những ý thức hệ ngoại lai, mà trở về tinh thần
bao dung, bất đồng nhi hoà của tổ tiên, có vậy mới đoàn kết quốc dân, thống nhất
quốc gia được. Con đường hoà bình ở đó.
Sau năm 1975, một luật sư bị một bạn đồng nghiệp tố cáo và
suýt mang hoạ vì đọc tập đó.
* Loại tuỳ bút, phải kể trước hết hai bài rất ngắn viết trước
1945 và sau trích dẫn trong Hương sắc trong vườn văn:
- Hương và sắc, giọng nửa biền nửa tản, lời bóng bẫy có chỗ
du dương, đại ý là trọng hương hơn sắc. Đó chính là bản tính của tôi: bất kì ở
đâu, vườn dù hẹp tôi cũng trồng những cây cao có hương thơm như hoàng lan, ngọc
lan chứ không trồng các loài chỉ có sắc mà không hương, lại mất công săn sóc.
- Con vịt, có chút triết lí hoài nghi như Anatole France; giọng
bài này - nhiều đối thoại - chịu nhiều ảnh hưởng của Tây phương, khác hẳn bài
trên chịu ảnh hưởng Trung Hoa.
- Nhưng tôi thích Hoa đào năm trước hơn cả. Bài này cũng ngắn,
in trong loại Bông hồng cài áo của nhà Lá Bối, nửa là hồi kí, nửa là nghị luận,
giọng tự nhiên, cảm động, lời đẹp, ai đọc rồi cũng thấy mang mang nhớ nhung một
cái gì đã mất. Đoạn kết buồn man mác: "Nay bóng chiều đã xế, tôi nghiệm rằng
những cảnh đẹp nhất mà ta được thấy luôn luôn chỉ thoáng hiện rồi biến mất.
Không sao gặp lại được lần lần thứ hai () Vì phải có sự giao hội kì diệu mà hữu
tình của biết bao cái ngẫu nhiên, từ người và vật tới mây nước, ánh sáng, hương
thơm, tâm trạng cùng nhau tấu lên một hoà khúc thì mới gây cho ta được một cảm
giác hoàn toàn thoả mãn về tinh thần, một cảm giác phơi phới, nửa hư nửa thực,
đột ngột mà bâng khuâng. Ta thấy lòng ta nở ra, ngũ quan mẫn tuệ, tinh thần
thanh thoát như chơi vơi. Một đời người hưởng được vài ba phút mà dư hưởng bất
tuyệt đó, tôi tưởng đã là phước lớn. Nó quí ở chỗ không bao giờ tái hiện và rất
ngắn ngủi. Đừng kiếm nó lại, vô ích, mà đừng mong cho nó kéo dài
Cái tuyệt mĩ bao giờ cũng phù du mà lại thọ nhất".
- Có thể kể thêm vài bài trong Hương sắc trong vườn văn như
Cái thần trong văn và trong Mười câu chuyện văn chương như Kĩ nguyên tiêu thụ
và nghề viết văn
* Hồi kí về người thân như cha mẹ tôi, con tôi trong Làm con
nên nhớ; về bà ngoại tôi, mẹ tôi trong Cháu bà nội tội bà ngoại (hai bài trên đều
do nhà Lá Bối xuất bản trong loại Bông hồng cài áo); về thầy học trong Thầy học
tôi: cụ Dương Quảng Hàm (Bách Khoa - 1966); về bạn như Hồn Đại Việt, giọng Hàn
Thuyên, Đất Hà Tiên với họ Mạc và họ Lâm đăng trên Bách Khoa nhân ngày giỗ đầu
1979, và giỗ cuối 1971 của Đồng Hồ, bài trên ghi công của Đông Hồ với Việt ngữ,
bài sau ghi công của Đông Hồ với đất Hà Tiên, quê hương của ông. Ai cũng nhận
hai bài đó hơn tất cả các bài từ trước tới nay viết về ông, và tóm tắt đủ sự
nghiệp rất đặc biệt của ông.
Sau Đông Hồ, tôi còn phải khóc Hư Chu trong bài Hư Chu (Bách
Khoa năm 1973). Đời ông ngắn, sự nghiệp của ông cũng ngắn, nhưng ông rất nghệ
sĩ, cũng nổi danh sớm mà được nhiều bạn mến vì tính hồn nhiên, vui vẻ.
Cảm động nhất, ngày nay mỗi lần đọc lại tôi đều rơm rớm nước
mắt là những bài viết về người thân của tôi. Bài Làm con nên nhớ là một lời sám
hối làm cho Đông Hồ rơi lệ khi đọc rồi, đương đêm viết ngay cho tôi một bức thư
dài, sau tôi sắp chung với bài của tôi, đưa cho nhà Lá Bối in.
Bài Cháu bà nội tội bà ngoại kể lại tình thương của bà ngoại
tôi, công của bà và của mẹ tôi, mà tôi chưa đền đáp được chút nào. Tôi cũng sụt
sùi khi viết bài đó như bài trên và một bạn văn, ông Châu Hải Kì ở Nha Trang
cũng sụt sùi đọc nó như Đông Hồ đọc bài trên.
* Tôi đã viết bốn năm chục bài tựa cho các tác phẩm của tôi
và hai chục bài cho tác phẩm của người khác.
Ai cũng nhận rằng tôi viết hay cho nên vài bạn văn nhờ đề tựa
cho hai ba cuốn. Hai đã là quá nhiều rồi, mà phải là hai cuốn trong hai loại
khác nhau thì tôi mới nhận lời. Và tôi cũng chỉ nhận cho bạn văn thôi. Ông Châu
Hải Kì có lần khuyên tôi nên lựa những bài tựa vừa ý hơn hết, cho vào một tuyển
như một nhà văn nào đó của Pháp. Tôi không làm việc đó khiến ông bực mình,
nhưng sau sau 1975, tôi cũng lựa ít bài cho vô tập: Để tôi đọc lại (không xuất
bản).
Tựa tôi viết cho tôi mà tôi lấy làm đắc ý:
- Cổ văn Trung Quốc: Có giọng cổ văn, hợp với nội dung tác phẩm:
mạnh, giản, bóng bẩy mà minh bạch, cảm thán thành thực, nửa trên ghi lại một hồi
kí thời thiếu niên, nửa dưới tả tâm sự và tài của cổ nhân.
- Thế hệ ngày mai: phần trên cảm động chép tình của cha mẹ đối
với con trong hai buổi học đầu tiên của tôi và của con tôi.
- Đại cương văn học sử Trung Quốc: Đoạn kết từ "Trăng mới
ló dạng" tới cuối lời đẹp và có giọng cảm thán.
- Tương lai ở trong tay ta: Tôi ví đời người với một cuộc
thám hiểm, ai cũng phải tự tìm lấy con đường của mình, như Magellan đi vòng
quanh thế giới.
- Quảng gánh lo đi: Đoạn đầu giọng cũng cảm thán vì đời người
là một bể thảm, đúng như Đoàn Như Khuê nói, dù sang hèn, giàu nghèo, ai cũng
đáng thương như ai hết.
- Bán đảo Ả Rập: Tôi tóm tắt được bi kịch của bán đảo đó
trong câu đầu: nó bị Dầu lửa chi phối mạnh hơn Hồi giáo. Lời lưu loát mà giọng
rất mỉa mai, phẫn uất.
- Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười: Tình thương của các bà già
miền Nam. Đoạn mở đầu đột ngột và lí thú.]
Tựa viết cho các bạn:
- Úc viên thi thoại của Đông Hồ.
Mở đầu tôi giảng tại sao thi thoại khó viết: phải vừa là nhà
thơ vừa là nhà văn, có danh, có uy tín, lịch lãm nhiều, đọc sách nhiều.
Đoạn giữa tôi nhắc lại những hồi ức Đông Hồ, chứng tỏ ông có
đủ những điều kiện trên.
Vì bài tựa đó bà quả phụ Đông Hồ, nữ sĩ Mộng Tuyết, nhờ tôi
viết khi xuất bản tác phẩm của chồng, nên cuối bài tôi ghi lại việc đó:
"Chẳng qua nữ sĩ Mộng Tuyết nghĩ rằng sinh thời thi sĩ coi tôi vào hàng
tâm giao nên bây giờ cho tôi được kí tên dưới tên thi sĩ đấy. Tấm lòng đó thật
cảm động. Xin ghi ơn nữ sĩ".
Thi sĩ Quách Tấn khen bài đó tôi không làm văn mà lời rất cảm
động.
- Đất nước quê hương của Võ Phiến.
Bút pháp bài này cũng giống bút pháp bài tựa Úc viên thi thoại.
Mở đầu tôi cũng xét về thể tuỳ bút: nó rất tự do, gặp gì chép nấy, nghĩ sao nói
vậy, tưởng là dễ viết mà thực ra rất khó; phải có giọng thân mật, hấp dẫn như một
câu chuyện thanh nhã giữa những người bạn đồng điệu lúc ngồi bên giàn hoa hay một
ấm trà, lời phải tự nhiên, có duyên, nội dung phải thay đổi, có ý vị.
Đoạn giữa tôi cũng chứng tỏ Võ Phiến có đủ điều kiện đó.
Nhưng đoạn kết thì khác, tôi bảo nhờ thượng cấp của ông - ông là nhân viên Nha
Thông tin - muốn trừng phạt ông mà ông có dịp đi đây đi đó khắp trong nước, viết
được tập Đất nước quê hương. "Vậy trong cái rủi vẫn thường có cái may. Và
khi một nhà văn biết lợi dụng nghịch cảnh thì chẳng những có ích cho mình mà
còn có ích cho độc giả, cho văn hóa nữa".
Đông Hồ thường khen với tôi rằng Võ Phiến viết tuỳ bút hay nhất
trong Nam. Tôi rất vui được họ Võ nhờ viết bài tựa đó.
- Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu của Nguyễn Văn Hầu.
Bố cục bài này tự nhiên mà lạ. Mới đầu tôi nói về miền Tây
Nam Việt, rồi thu lại, nói về miền Hồng Ngự - Cao Lãnh (tôi gọi là miền Hồng
Cao); sau thu lại nữa, nói riêng về Cao Lãnh, quê hương của Nguyễn Quang Diêu;
lại thu nữa, nói về đời Nguyễn Quang Diêu và ông Nguyễn Văn Hầu tác giả cuốn
sách; đây là tâm điểm của bài tựa. Từ tâm điểm tôi toả ngược ra nói về các nhà
cách mạng ở miền khác; rồi nói tới các học giả các miền khác có tân học và cựu
học như Nguyễn Văn Hầu, và tự hỏi tại sao Viện Khảo cổ không biết nhờ họ giúp sức
cho mau kết quả. Rồi tôi lại toả rộng ra nữa, nói về tất cả các công việc văn
hoá khác: Khảo cứu địa lí, soạn Tự điển v.v; sao chính quyền không nhờ toàn dân
giúp sức mà cứ ôm lấy hết về mình. Và cuối cùng tôi kết: " khi toàn dân thấy
có thể giúp chính quyền trong mọi phạm vi, có trách nhiệm hợp tác với chính quyền
trong mọi hoạt động, thì lúc đó mới có sự đoàn kết thực sự và công việc xây dựng
quốc gia mới tiến triển mau được".
Như vậy là từ tâm điểm toả ngược ra lần lần, cuối cùng bao cả
vòng khởi thuỷ. Văn ba lan, tiến lui như những đợt sóng.
Bài Tựa đó, ông Đông Hồ khen là: "còn hay hơn cả cuốn
sách". Mấy năm sau đọc lại, tôi mới nhận ra rằng bút pháp bài đó giống hệt
bút pháp của Tăng Củng trong bài Kí Âu Dương Xá nhân thư mà khi viết tuyệt
nhiên tôi không nghĩ tới. Cổ văn thâm nhập vào tôi mà tôi không hay.
- Bài được các bạn văn khen hay nhất là bài Tựa tập Qê hương
của Nguyễn Hữu Ngư. Tôi tả kĩ dáng người, y phục, cử chỉ, ngôn ngữ của tác giả,
vạch tình của ông đối với nước, với nhà, bạn bè; ghi lại những lúc ông bị thất
vọng mà muốn hoá điên, đi lang thang khắp nơi bị cảnh sát nhốt, đánh đập khiến
tôi nhớ tới Từ Vân Trường đời Minh bên Trung Quốc mà Viên Hoàng Đạo cho là
"vô chi vi bất kì" cho nên "vô chi vi bất kì", vì khác người
nên gặp cảnh gian truân, trắc trở. Nguyễn Hữu Ngư quả là một kì nhân ở nước ta,
mà tập Qê hương cũng là một kì thư: nội dung thật loạn, đủ các thể, đủ thứ tài
liệu, không thể đặt nó vào loại nào được cả.
Tôi nhớ hôm ông lại tôi lấy bài Tựa rồi không ra về mà ngồi bệt
ngay xuống dưới mái hiên để đọc. Tôi ở trên lầu nhìn xuống, đợi ông đọc xong, hỏi:
"sao, anh có vừa ý không?". Ông cười, đáp: "Ngoài ước vọng nữa".
Ông mất năm 1978, sau khi ở Dưỡng trí viện Biên Hoà về nhà được
độ một tháng. Bạn bè ai cũng thương tiếc.
Ngoài ra nên kể bài Tựa:
- Cuốn Trần Quí Cáp của Lam Giang do con cháu nhà cách mạng họ
Trần nhờ viết; và cuốn Thi văn Hán Việt của Đông Xuyên mà đoạn cuối giọng rất
thân mật.
* Du kí: Tôi chỉ có hai tập: Đế Thiên Đế Thích, và Bảy ngày
trong Đồng Tháp Mười mà tôi đã giới thiệu trong một chương trên.
* Sách dịch:
- Sống đẹp: Tôi xin nói trước hết về tập Sống đẹp của Lâm Ngữ
Đường, thuộc loại cảo luận, rồi sẽ xét các tiểu thuyết sau. Cuốn nào tôi dịch
cũng kĩ, nhưng thích nhiều hay ít dĩ nhiên là tuỳ nội dung từng cuốn, tài của
tác giả.
Lâm Ngữ Đường viết cuốn Sống đẹp bằng tiếng Anh, nhan đề là
The Importance of living từ 1937. Khoảng 1957 tôi được đọc bản dịch ra tiếng
Pháp L’Importance de vivre của nhà Corrêa, thấy tác phẩm rất hay mà bản dịch
kém. Mấy năm sau tôi thấy ở nhà xuất bản Á Châu một bản Việt dịch hình như của
Vũ Bằng cũng tấm thường mà lại cắt bỏ nhiều quá, chỉ còn độ một phần ba, như vậy
ý nghĩa của tác phẩm không còn gì cả. Từ đó tôi có ý dịch lại, muốn vậy phải có
nguyên bản tiếng Anh và phải tra được những nhân danh, địa danh bằng chữ Hán.
Năm 1964 tôi viết thư hỏi thẳng tác giả ở Mĩ. Ông hồi âm liền
từ Thuỵ Sĩ, nơi ông đang du lịch, vui vẻ cho phép tôi dịch, và cho biết nguyên
bản tiếng Anh không còn, nhưng có bản Hoa dịch nhan đề là Sinh hoạt đích nghệ
thuật. May sao ông Giản Chi có bản này (do Việt Duệ dịch - nhà Thế giới Văn hoá
xuất bản - 1940) và cho tôi mượn. Bản đó đầy đủ, chép hết những cổ văn, cổ thi
Trung Hoa mà Lâm Ngữ Đường dẫn trong tác phẩm và nhiều khi chép thêm bản dịch
những bài đó của Lâm nữa. Thế là tôi có được hai bản của Hoa và Pháp. Tôi so sánh
rồi khởi công dịch liền, cuối năm 1964 xong. Trong khi dịch, luôn ba hay bốn
tháng, tôi thấy vui gần như hồi trước dịch cuốn Quẳng gánh lo đi, vì nhân sinh
quan nhà tản của Lâm - mà chính là của Trung Hoa - vì tinh thần nghệ sĩ và hài
hước của ông, vì giọng tự nhiên, thân mật, đôi khi như cười cợt, đùa bỡn nữa,
không khác một cuộc đàm thoại chung quanh một bình rượu hay một ấm trà giữa những
người bạn đồng điệu.
Nhờ có những văn thơ bằng chữ Hán, khỏi phải dịch theo bản tiếng
Anh hay Pháp, nên tôi biết chắc rằng bản dịch của tôi sẽ được hoan nghênh, độc
giả sẽ thích hơn là đọc nguyên tác của Lâm. Cuốn Sống đẹp bán chạy. Nhà Tao Đàn
in hai ba lần mỗi lần ít nhất 3.000 bản, lần đầu vào tháng 3 năm 1965.
Nhiều độc giả khen là dịch khéo, trong số đó có Đông Hồ. Một
độc giả tôi chưa hề quen, bác sĩ Trần Văn Bảng (học trường Bưởi trước tôi vài
năm) thích quá, làm một bài thơ nhan đề là Sống đẹp gởi tặng tôi. Bài gồm 5 đoạn,
tôi chép lại đây đoạn giữa:
---
Đây tư tưởng chín tầng mây siêu việt
Sang sảng nghe tiếng nói của thánh hiền
Ngọc chuốt, châu gieo, lời vàng, ý thép
Khiến tâm linh hoan lạc cõi vô biên
---
Từ đó chúng tôi thành bạn thân. Ông hồn nhiên, vui tính, hình
như sống hơi lôi thôi, thích làm thơ, đánh mạc chược, chắc đã lựa lầm nghề y
sĩ.
Năm 1977, trước khi qua Pháp đoàn tụ với con, ông lại thăm
tôi, xin một bản Sống đẹp để mang theo. Ít bữa sau ông trở lại, đưa hai tay lên
trời, bảo: "Họ không cho mang theo mà còn tịch thu nữa". Vài tác phẩm
của Lâm viết bằng tiếng Anh được dịch ra 14 thứ tiếng, và có hồi ông làm Trưởng
ban Văn nghệ cơ quan Văn hoá Liên hiệp quốc.
Mấy năm nay ông Bảng vẫn liên lạc với tôi bằng thư, vẫn vui sống,
thỉnh thoảng làm một bài thơ "tếu", tôi tặng ông biệt danh Tú Sụn (vì
đã có Tú Xương và Tú Mỡ rồi).
- Chiến tranh và Hoà bình
Trong tạp chí Tân Văn năm 1969, không nhớ tháng nào, đăng bài
Tôi dịch Chiến tranh và Hoà bình kể lại do đâu tôi dịch bộ đó và dịch khó nhọc
mà vui ra sao.
Trong một chương trên tôi đã kể lối dịch bộ đó; trong phần giới
thiệu (Chiến tranh và Hoà bình) tôi cũng đã phân tích nghệ thuật của Tolstoi,
đây chỉ xin ghi lại cái duyên văn tự khiến tôi hợp tác với nhà Lá Bối.
Tôi thích Chiến tranh và Hoà bình hồi ở trung học, và khoảng
1961-62 tôi đã muốn dịch, đề nghị với hai nhà xuất bản lớn ở Sài Gòn, hễ khi
nào thấy có thể in được thì cho tôi hay, tôi sẽ khởi công liền.
Tới tháng 9 năm 1966, lời đề nghị đó vẫn chưa được hai nhà đó
xét; họ bận quá, có lẽ họ không nhớ tới. Trong bài Đả phá dễ hay xây dựng dễ
đăng trên Tin Văn ngày 15.9.66, tôi nhắc lại đề nghị.
Bài đăng được khoảng một tháng thì một hôm một vị mà tôi chưa
hề gặp mặt lại thăm tôi, tự giới thiệu là Giám đốc nhà xuất bản Lá Bối, tặng
tôi ít cuốn sách và nhân đọc bài của tôi đăng trên Tin Văn mà nhờ tôi dịch cho
Chiến tranh và Hoà bình.
Tôi nhận lời, hứa trong hai năm sẽ xong. Nửa tháng sau một
nhà xuất bản khác cũng lại nhờ dịch. Về sau hai nhà xuất bản nữa tỏ ý tiếc rằng
không hay trước. Quả đã tới lúc độc giả đòi hỏi loại sách đó.
Ông Giám đốc nhà Lá Bối đó là Đại đức Từ Mẫn, tên thật là Võ
Thắng Tiết. Sau thầy cho tôi hay là hồi tôi còn ở Huỳnh Tịnh Của, trước năm
1960, đã có lần đem lại tặng tôi cuốn Duy thức luận của Thạc Đức, tức Thượng toạ
Nhất Hạnh sau này, là một cây bút Phật giáo nổi tiếng, tôi quí và mến. Thầy Từ
Mẫn lúc đó còn là một tu sĩ, sinh viên Phật học, bạn của Thạc Đức. Tôi nhớ lại
việc đó, hỏi thầy:
- Đọc xong Duy thức luận, tôi thấy sáng sủa, hay, có viết thư
lên Đà Lạt cảm ơn, khen và khuyến khích tác giả viết về lịch sử Phật giáo từ khởi
thuỷ đến nay, mà sao không thấy hồi âm?
Tôi lại hỏi:
- Đã biết tôi từ mươi năm trước mà sao bây giờ mới lại kiếm
tôi?
Từ đó, chúng tôi thân với nhau. Thầy trẻ hơn tôi, vui vẻ,
thành thực, làm việc cẩn thận, có tư cách, trọng chữ tín, học lực khá, kín đáo
nhưng thân mật. Cả Giản Chi với tôi đều khen là đứng đắn nhất trong giới xuất bản.
Tôi khởi công dịch Chiến tranh và Hoà bình liền, dịch rất kĩ,
giới thiệu tác giả và tác phẩm cũng kĩ, non một năm rưỡi thì xong. Xoay được đủ
vốn, nhà Lá Bối cho in ngay, đầu năm 1969 ra được cuốn đầu khoảng 750 trang, rồi
ba tháng sau ra nốt ba cuốn nữa, do hai nhà in sắp chữ. In 3.000 (hay 5.000?) bản,
vốn khá nặng (mấy triệu đồng thời đó), nhờ báo chí giới thiệu và khen, nhờ Lá Bối
có sẵn một số độc giả đông, nhờ quảng cáo trên màn ảnh Sài Gòn, nên sách bán chạy,
ba năm sau tái bản, nhưng vừa in xong đủ bộ gởi tạm trong kho trường Thanh niên
phụng sự xã hội thì quân đội Giải phóng vào.
Tôi nhớ lại trong năm sáu tháng sắp chữ bộ Chiến tranh và Hoà
bình, ngày nào thầy Từ Mẫn cũng lại tôi hai lần, đưa bản vỗ để thầy và tôi cùng
nhau sửa, trước khi giao cho nhà in. Mỗi ngày thầy lái xe Honda đi đi về về
không biết mấy lần từ nhà xuất bản đến nhà in, nhà tôi, tính ra tới 50 cây số.
Trong số các nhà xuất bản, hợp tác với thầy tôi thấy thích nhất,
và chỉ trong 4-5 năm, thầy in cho tôi được khoảng chục tác phẩm, mà hai cuốn
quan trọng nữa là Chiến Quốc sách, Sử kí của Tư Mã Thiên, cả hai đều bán chạy,
tái bản trong một hai năm. Giản Chi và tôi thành những nhà văn có nhiều tác phẩm
nhất trong tủ sách Lá Bối. Như có duyên tiền kiếp với nhau.
Gần cuối năm 1979, thầy Từ Mẫn vượt biên "chui", tới
Thái Lan gởi thư về thăm Giản Chi và tôi, cũng như ông Hồ Hải, nhà Cảo Thơm,
tháng 7.1980 thầy đã qua Mĩ.
- Kiếp người
Chiến tranh và Hoà bình rất dài và có nhiều chương lí thuyết
về lịch sử đọc chán lắm, nhưng tôi giữ trọn, không bỏ một hàng vì tôi nghĩ tác
phẩm đó lớn quá, nước mình nên có một bản dịch đầy đủ, rồi sau muốn phổ biến
thì sẽ cắt bớt.
Kiếp người (Of human bodage) của Somerset Maugham chỉ bằng một
phần tư Chiến tranh và Hoà bình mà tôi lại cắt đi non một nửa - cắt những đoạn
tả phong tục và đời sống bên Anh cuối thế kỉ trước - để tác phẩm bớt rườm rà mà
thêm hấp dẫn, vì nghệ thuật của Maugham kém Tolstoi. Chính Maugham cũng nhận
Tolstoi là bực thầy.
Tuy nhiên tôi cũng rất thích Kiếp người và vẫn thường say mê
đọc lại. Ông Giản Chi cũng vậy. Không có một tác phẩm nào tả được nhiều nỗi đau
như thế; đau khổ của một đứa bé mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải ở nhờ ông bà bác, xa
chị vú thân yêu; đau khổ của một kẻ tàn tật, hồi đi học thì bị bạn giễu, lớn
lên bị thiên hạ khinh; rồi cảnh khổ ở nội trú, nỗi thất vọng, chua chát khi mất
lòng tin Chúa, nỗi chán chường khi phải học một nghề mình không ưa, sau khi phải
tranh đấu với ông bác để được phép học được nghề mình thích thì lại thất vọng
nhận ra rằng mình không có khiếu về nghề đó; đau khổ, tủi nhục nhất là yêu một
con điếm mà nó không yêu lại, bị nó phản với bạn thân của mình, vậy mà vẫn
không quên nó được; rồi cảnh đầu cơ nhẳn túi phải lang thang ở ngoài đường, uống
nước máy, ngủ công viên, nhịn đói ba bốn ngày, phải bỏ học, nhận một chân chỉ dẫn
khách hàng trong một tiệm buôn; sau cùng chỉ nuôi mỗi cái mộng đi du lịch thế
giới mà đành phải bỏ, chịu sống cuộc đời vô vọng của một y sĩ trong một vùng
quê nghèo.
Đó là nỗi khổ của Philip, nhân vật chính. Các nhân vật phụ -
trừ gia đình Athelny, nghèo mà hoà thuận, thương người, cứu mạng Philip - cũng
mỗi người mang một cây thánh giá: bà bác Philip cô độc, không có con, yêu cháu
như con mà nó bỏ bà đi qua Paris học vẽ; một giáo sư Ý qua Đức dạy tư, đói quá,
không giảng được bài; một thiếu nữ, học vẽ mấy năm không tiến bộ, khi hết tiền
tự tử; một thiếu nữ khác, cô Norah, yêu Philip, săn sóc từng ly từng tí cho
chàng mà chàng không sao yêu lại được; một bác sĩ già, bác sĩ South, giận con gái
và chàng rể, mà phải sống cô độc. Lạ lùng nhất là truyện đó Maugham viết hồi bốn
mươi tuổi, về già cảnh của ông y như cảnh của bác sĩ South, cũng chỉ có mỗi cô
con gái, cũng bất hoà với con rể mà sống một thân một mình.
Bao nhiêu nỗi khổ của con người trước Thế chiến thứ nhất, đã
được Maugham tả hết, không sót. Truyện có tính cách hợp nhân tình kì lạ, đến nỗi
tôi tưởng đổi tên người và tên đất đi, thì có thể thành một tiểu thuyết Việt
Nam thời 1920-30. Nhiều nhân vật điển hình như Philip, Mildred, Altheny, Norah,
bác sĩ South Văn rất giản dị, giọng chua chát, có khi dí dỏm, cảnh vật chỉ tả bằng
vài nét đơn sơ mà gợi cảm. Bút pháp tự nhiên, điêu luyện tới mức không còn vết
điêu luyện.
Tác giả không thuyết lí, không dạy đời, mà gợi cho tôi lòng
tha thứ kẻ khác, rán yêu đời, hy vọng ở tương lai, tìm hạnh phúc trong một tình
thương chân thành và một đời sống giản dị. Triết lí đó rất Á đông. Lần đầu đọc
xong tác phẩm, gấp sách lại rồi mà hai ba ngày sau tôi còn thấy một dư âm ở
trong lòng, nửa vui nửa buồn, triền miên, bồi hồi. Một bà láng giềng đọc xong
chạy qua bảo: "Hay quá".
Cuốn đó tôi dịch xong từ 1961, đưa cho nhà Khai Trí, họ không
nhận, tôi cất đi, đợi cơ hội khác. Năm 1962, ông Paulus Hiếu, tôi quen từ hồi ở
Long Xuyên, lúc này đã đổi tên là Ngô Trọng Hiếu, làm bộ trưởng Công dân vụ.
Ông từ trước vẫn thích văn chương, đã giúp đỡ vài nhà thơ như Vũ Hoàng Chương,
Hư Chu, và đã bỏ vốn xuất bản cho tôi cuốn Tổ chức công việc theo khoa học. Ông
mời một số nhà văn có tên tuổi lại bộ, yêu cầu họ dịch cho một số tác phẩm có
giá trị cho thanh niên đọc. Tôi không tới dự buổi họp, nhưng vì tình cũ, tôi hứa
giúp; nhân có bản thảo Kiếp người, tôi đưa ông, ông cho in liền, cuối 1962 hay
đầu 1963 phát hành, giá rẽ mà không ai mua, gần như chỉ để phát không.
Đầu năm 1967, bốn năm sau, tôi tưởng sách đã bán hết, đưa nhà
Lá Bối tái bản, thì sách bán rất chạy. Thầy Từ Mẫn nói với tôi:
- Ngày phát hành tôi ngại quá. Các nhà sách bảo tôi cuốn đó ế,
bản in của Tủ sách Thanh niên Cộng hoà vẫn còn. Nhưng ít tuần sau, tôi thấy
sách bán chạy. (Thì ra cái gì của chính quyền thời đó in, dân chúng đều không đọc,
của mình in thì đọc. Bản của chính quyền bày ở vỉa hè, giá son có 50đ mà không
ai mua, người ta tìm mua bản của nhà Lá Bối (giá 200 hay 250đ).
Năm 1974, Kiếp người được nhà Lửa Thiêng in lại một lần nữa.
Lần đó có sửa chữa vài chỗ.
- Chiếc cầu trên sông Drina
Năm 1971, ông Giám đốc nhà xuất bản Trí Đăng, một giáo sư
trung học còn trẻ nhờ tôi dịch cho một tiểu thuyết. Tôi đề nghị cuốn Il est un
point sur la Drina của nhà văn Nam Tư Ivo Andritch. Cuốn này cũng hay. Kỷ thuật
mới mẻ. Lịch sử trên 300 năm của Nam Tư được kể thành 24 truyện trong 24
chương, chuyện nào cũng liên quan đến một chiếc cầu đá xây cất từ thế kỉ XVI
trên sông Drina. Truyện rất hấp dẫn, phân tích tâm lí rất sâu sắc, nhiều nhân vật
điển hình, giọng văn khi thì hùng, khi thì hài hước, lắm chỗ nên thơ, triết lý
nhẹ nhàng.
Ông Trí Đăng sau năm 1975, qua Mĩ, trước khi đi có lại chào
tôi, tới Mỹ có gởi lời thăm tôi, hiện nay ông làm cho nhà in Việt ở Los
Angeles.
- Trước đó, năm 1969, ông Hoài Khanh, thi sĩ kiêm Giám đốc
nhà xuất bản Ca Dao, ít vốn nhưng nhiều nhiệt tình, có lí tưởng, muốn lập một tủ
sách "Phi châu và Da đen", nhờ thầy Từ Mẫn giới thiệu với tôi để yêu
cầu tôi dịch cho cuốn Cry, my beloved country của Alan Paton, đưa cho tôi bản
Pháp dịch của nhà Albin Michel: Pleure, ô pays bien aimé. Tôi đọc thấy cảm động,
tác giả có lòng thương dân da đen và có hồn thơ nên tôi nhận lời.
Tôi dịch rất kĩ, nhan đề là Khóc lên đi, ôi quê hương yêu dấu,
rán theo sát cái giọng chất phác của các nhân vật da đen, lại kiếm tài liệu để
viết bài Tựa dài 25 trang giới thiệu tác giả và tác phẩm, vạch chính sách vô
nhân đạo của thực dân da trắng ở Nam Phi.
Sách bán chạy, được một số độc giả khen là dịch khéo.
- Sau tôi còn dịch cho nhà Ca Dao cuốn Things fall apart (Quê
hương tan rã) của một tác giả da đen: Chinua Achebe.
Ông Hoài Khanh tặng tôi một gốc ngọc lan để thay gốc Nguyễn Hữu
Ngư cho tôi mười năm trước, vì trốc rễ trong cơn giông mà chết.
Sau ngày giải phóng ông lại thăm tôi một hai lần, mấy năm nay
không có tin tức.
° °
°
Nay ôn lại những năm từ 1961 đến 1974, mua được căn nhà ở đường
Kì Đồng rồi, tôi rút công việc xuất bản tới mức tối thiểu, để toàn lực vào việc
viết văn. Được vài tờ báo và vài ba nhà xuất bản yêu cầu hợp tác, nhờ vậy mà
tôi viết được khá nhiều, trong nhiều lãnh vực, khiến có người phải ngạc nhiên rằng
về vấn đề gì tôi cũng bàn được với một tinh thần nghiêm túc, bằng một bút pháp
giản dị, sáng sủa. Năm 1975, trên một bài báo, Võ Phiến khen tôi: "Ông
Nguyễn có cái tài của một nhà giáo là trình bày ý kiến thật rành mạch, khiến những
vấn đề rắc rối, tối tăm nhất cũng hoá ra giản dị, minh bạch".
Có thể nói những năm đó tôi sống đầy đủ nhất, được cảm tình của
nhiều độc giả nhất, được thêm nhiều bạn văn nhất, uy tín lên nhất.
Những bạn văn đó đều giúp tôi được nhiều, đều lưu lại nhiều kỉ
niệm đẹp cho tôi. Tôi nhớ hồi tôi đau nặng, nấc cục luôn một tuần, ông Trí Đăng
tự ý tìm thuốc cho tôi uống, và coi vợ chồng tôi như người thân trong nhà.
Hôm nay trời u ám, nhìn chung quanh, mười bạn chỉ còn vài ba,
những người khác ở chân trời gốc bể cả. Tôi bùi ngùi nhớ lại câu thơ của Tú
Xương:
Ta nhớ người xa cách núi sông
"Người xa, xa có nhớ ta không?
CHƯƠNG XXIX - BẠN XA GẦN
T
rong chương này tôi chép lại ít hồi kí một số người nhờ cái
duyên văn tự tôi được gặp trên đường đời, có người thân như ruột thịt, hơn ruột
thịt nữa; có người chỉ gặp một lần hoặc chưa gặp lần nào; có người tánh tình
trái ngược hẳn với tôi, nhưng vẫn có điểm cảm thông với nhau.
BẠN VĂN
Trước hết tôi phải kể ba bạn thân: Đông Hồ, Hư Chu, Giản Chi.
Đông Hồ, Giản Chi lớn hơn tôi, mười năm tuổi, người sáu tuổi, Hư Chu nhỏ hơn
tôi mười tuổi. Đông Hồ là người Nam (sinh trưởng ở Hà Tiên) nhưng từ gia phong
đến giáo dục, bút pháp đều giống nhà Nho đất Bắc, còn Hư Chu và Giản Chi đều là
người Bắc. Cả ba bạn đó đều biết chữ Hán, đều giữ được ít nhiều phong cách nhà
Nho. Bốn anh em tôi giao du với nhau, tình "đạm nhực thuỷ" tuy thắm
thiết mà không vồn vã, ồn ào.
Mới quen thì chỉ kính nhau thôi, lần lần càng hiểu nhau thì
càng quí mến nhau hơn, mặc dầu có khi vài tháng mới lại thăm nhau một lần. Gặp
nhau chúng tôi nói chuyện về văn thơ nhiều nhất, rất ít khi tâm sự về chuyện
riêng. Mỗi người có một lối sống riêng, những sở thích riêng, chúng tôi biết
tôn trọng những cái đó của nhau. Nếu thấy thật cần phải khuyên nhau một lời thì
chỉ nói phớt qua, mà nếu bạn không đồng ý với mình thì thôi. Tôi nghĩ: Miễn
thành thực với nhau và giữ được tư cách là đủ, ngoài ra không cần biết tới.
ĐÔNG HỒ
Trong những chương trên tôi đã nhắc nhiều đến Đông Hồ, đã kể
lần đầu tiên tới gặp ông ở Yiễm Yiễm thư trang một buỗi chiều đông khi tôi mới ở
Long Xuyên lên Sài Gòn, kể những lần họp cuối năm ở Quỳnh Lâm thư thất, kể ông
tặng tôi hai gốc Hoàng lan khi tôi mua được nhà mới, tôi tặng hai hoa lan đầu
tiên chín bói
Ông mất ngày 25.3.1969 thọ 63 tuổi. Cái chết của ông thật đẹp:
đương ngâm thơ về Trưng vương của Ngân Giang ở giảng đường Văn khoa thì đứt gân
máu, té xỉu trong cánh tay sinh viên, hôn mê, đưa lại dưỡng đường rồi về nhà, bảy
giờ tối tắt thở.
Sáng hôm sau hay tin, Đông Xuyên và tôi (Giản Chi lúc đó dạy
học ở Huế) tới, thấy nét mặt ông hồng hào và tươi. Xúc động mạnh, về nhà tôi viết
ngay bài Khóc bác Đông Hồ mà nước mắt trào ra. Bài đó đăng kịp trên báo Bách
Khoa số 1.4.69.
Sau đó, tôi viết bốn bài nữa về ông: Thi sĩ Đông Hồ và nhà
Ngô (Tin Văn - 1969), tựa Úc viên thi thoại (1969), Hồn Đại Việt giọng Hàn
Thuyên (1970), Họ Mạc và họ Lâm (1971). Tất cả những bài đó đều nhắc tới sự
nghiệp văn thơ của ông, và được giới thiệu trong những chương trên, nên tôi
không chép lại.
Ông coi tất cả gia đình tôi như người trong nhà. Tôi ham viết
mà lại thường đau, ông cũng yếu, nhà chúng tôi xa nhau, nên lâu lâu mới gặp
nhau. Ông viết được bài nào đắc ý thì lựa hai bản in riêng, đích thân ông sữa lỗi
in rồi đóng lại thành tập mỏng, trân trọng đề tặng, đóng dấu son "Đông Thuỷ
cổ nguyệt" (tức Đông Hồ: chữ Hồ gồm ba chữ thuỷ, cổ và nguyệt), rồi gởi
cho tôi hai bản, một bản để vào tủ sách ở Long Xuyên, một để tủ sách Sài Gòn.
Đọc văn tôi thấy cuốn nào, bài nào vừa ý thì ông lại thăm tôi
hoặc viết thư khen vài lời chân thành, chẳng hạn bảo cuốn Sống đẹp của tôi
"dịch như vậy là hay", nhớ lại bài Hương và sắc, ông bảo: "Sao
và dầu là hai cây đặc biệt ở miền Nam, mà trong này không nhà văn nào để ý tới,
chỉ có bác và Võ Phiến: người ở Bắc, người ở Trung, là tả cái hương của sao và
cảnh hột dầu bay lả tả"; lần khác ông cũng khen tôi và Võ Phiến nữa:
"Viết tuỳ bút thì Võ Phiến nhất miền Nam này, mà biên khảo thì không ai
hơn bác".
Nhưng cũng có trường hợp ông làm một bài thơ khá dài để khen
một tác phẩm, như bộ Đại cương triết học Trung Quốc. Bài đó bằng chữ Hán, tôi
còn giữ, không chép lại đây.
Ông cho tôi là tri kỉ của ông khi tôi bảo ông có truyền thống
nhà Nho, chỉ thích dạy học (lúc đó ông dạy ở Văn khoa Sài Gòn), truyền lòng yêu
tiếng Việt cho những thánh niên tuấn tú; tôi cũng nhận ông là tri kỉ của tôi
khi ông nghe tin đồn người ta mời dạy đại học Văn khoa Sài Gòn, vội vàng sáng sớm
từ trong Gia Định lại đường Kì Đồng để khuyên tôi đừng nhận vì mất thì giờ lắm,
"thì giờ của bác quí hơn của tôi nhiều".
Biết tôi đau bao tử, nên khi nào mời tôi dự tiệc, cũng bảo
người nhà làm món xôi cho tôi, lễ thành hôn cho cháu Yiễm Yiễm, con gái út của
ông, trong số bạn văn ông bà chỉ mời vợ chồng tôi lại dự tiệc đưa dâu, còn tiệc
đãi bạn bè, họ hàng ở khách sạn thì biết tôi không ưa náo nhiệt, nên không ép.
Ông kính bác ba tôi ở Tân Thạnh cũng như kính bác ruột ông,
biết bác tôi ở Đông Kinh nghĩa thục và có hai đứa con, Tân Phương và Việt Châu,
là nhà thơ khá có tiếng ở Nam, nên ân hận không có dịp gặp bác tôi.
Cảm động nhất như tôi đã nói là mỗi lần lại thăm tôi ông đốt
một cây nhang ở bàn thờ song thân tôi rồi mới ngồi nói chuyện.
Ông Nguyễn Hữu Ngư cũng đốt nhang, quì trước bàn thờ cha tôi
vì cha tôi và thân phụ ông cùng sinh năm Đinh Hợi (1887) và cùng theo phong
trào Đông Kinh nghĩa thục.
Từ năm 1963, nhất là mấy năm trước khi mất, Đông Hồ và tôi
thường thư từ với nhau. Ông nhờ tôi kèm thêm Pháp văn và toán cho cháu ngoại
ông, cháu Quỳnh Lâm, thành thử thư đi thư lại rất tiện. Ông là nhà văn tôi giữ
được nhiều bức thư quí nhất, có bức cảm động như bức ông sám hối với Bá phụ
ông, tôi đã cho in trong tập Làm con nên nhớ, có bức dài mươi trang như bức thư
đề ngày 19.3.64 dùng năm màu giấy, trong đó ông cho biết cách ông cấu từ bài
Trường Xuân hành (Bức thư đó là một tài liệu đáng lưu lại trong Văn học sử Việt
Nam, quí như bài Quách Tấn kể mình đã làm bài Đêm thu nghe quạ kêu trong trường
hợp nào, lựa chữ, dùng điển ra sao.
Ngày 27 Tết năm đó (Giáp Thìn - 1964) ông tặng tôi một cành
Mai bông trắng rất thơm đem từ núi Tô Châu (Hà Tiên) lên 1, rồi nghĩ liền hai
câu:
Một cành Xuân gởi niềm trân trọng
Sứ dịch trao tay mở nẻo đường.
Ông tính làm thêm sáu câu nữa thành một bài thơ luật, nhưng bận
dọn dẹp nhà để ăn Tết, không làm được.
Tối ba mươi Tết ông sực nhớ năm đó Yiễm Yiễm thư trang được
đúng 15 tuổi, bèn dùng ý đó nghĩ thêm bốn câu nữa.
Sau mồng một Tết, ông nghĩ thêm được hai câu nữa thành bài
thơ khai bút tám câu.
Rồi ông trở lại ý hoa mai ở đầu, được bốn câu, thành 12 câu.
Đã có 12 câu thì phải làm thêm thành một bài hành.
Bẵng đi ba tuần mải vẽ hoa mai, ông quên bài thơ dở dang đó.
Ngày 24 tháng giêng (8.3.64), ông nhận được thư của tôi cho hay cành mai ông
cho tôi đã tàn vào một ngày đầu năm rồi lại đăm nụ, nở nữa, thành "nhị độ
mai", ông mừng làm tiếp sáu câu về nhị độ mai.
Chiều tối hôm đó, người nhà và học sinh cũ làm lễ sinh nhật
ông. Ông vui, làm thêm sáu câu nữa, thành 4 đoạn, mỗi đoạn sáu câu, với hai câu
kết:
Gió lộng non trầm dâng khói hạc
Vương đình trăng dọi chén quỳnh tương.
Hơn một tháng sau, ngày 25.4.64, ông sửa lại bài Trường Xuân
hành đó, và nhận được một bức thư khác của tôi kể về quê hương tôi ở Bắc, nhân
đọc mấy câu đối bác Ba tôi cho tôi từ 16-17 năm trước, ông làm thêm bài Tục Trường
Xuân hành, gồm 4 đoạn, đoạn 1 và 3 đều 6 câu, đoạn 2 và 4 đều 4 câu, cộng 20
câu; ông đánh máy tiếp vào bài trên, thành một bài dài 46 câu (26+20).
Bài Trường Xuân hành (đăng trên Văn hoá nguyệt san năm 1966)
ông làm gần trọn một mùa xuân mới xong, hoàn toàn tuỳ hứng, không bố cục trước,
nhân một việc gì xảy ra, làm ít câu rồi để đó; ít lâu sau một việc khác xảy ra,
hoặc nhớ lại một lời nào, không liên quan gì với việc trước, ông lại làm tiếp,
nối vào với những câu trên; trước sau ông chép năm sáu việc khác nhau, cảm hứng
khác nhau, chỉ có niềm vui này xuân làm sợi dây Ariane trong bài trường thiên
46 câu đó thôi. Lối đó rất đặc biệt, có biết thì mới hiểu được thơ của ông. Nó
chỉ đặc biệt thôi chứ không thể coi là kiểu mẫu được, mà những bài thơ ông làm
theo lối đó, người ngoài cuộc không sao hiểu nổi, nên không thể gọi được là
hay.
Thư cho tôi, ông viết rất tháu, thường nằm mà viết, nên khó đọc,
nét tươi như nét vẽ của ông, lời là lời đàm đạo bên chén trà, hoặc tâm sự đêm
khuya dưới ánh trăng.
Tôi còn giữ tất cả những bức thư của ông. Ông mất được mấy
năm, Nha Văn hoá tổ chức một cuộc triển lãm tác phẩm và di bút của ông ở Thư viện
Quốc gia mới cất đường Gia Long. Bà quả phụ Đông Hồ mượn tôi những bức thư đó để
triển lãm cùng với những bức ông nhận được của tôi. Khi trả lại, bà có nhã ý
làm photocoppy tặng tôi những thư tôi gởi cho ông, thành thử trong nhà tôi có đủ
những bức thư của chúng tôi gởi cho nhau, điều đó chắc hiếm thấy. Bà còn bảo:
"anh Đông Hồ không hề gởi cho ai nhiều thư, mà cũng không nhận được của ai
nhiều thư như vậy".
Tác phẩm của ông tôi có gần đủ: Cô gái xuân, Bội lan hành,
Hương gây mùi nhớ Quí nhất là tập thơ Trinh trắng có dán bông Hoàng lan tôi đã
kể ở trên, với hai bức hoạ hoa mai, có đề thơ: một bức với một bài thơ chữ Hán,
một bức với một bài thơ chữ Việt, tức bài Nhị độ mai kí (chép ở trang trên) được
ông sửa và thêm nhiều câu. Bức chữ Hán tôi cho cháu tôi, Tô Lệ Hằng, đem qua
Pháp tháng 5.1979 cùng với toàn bộ tác phẩm của tôi. Các bạn của cháu ở Paris
trầm trồ khen nét vẽ và ý nghĩa bài thơ. Ông có công sao lục và khảo cứu Truyện
Song Tinh bằng thơ của Nguyễn Hữu Hào thế kỉ XVIII. Năm 1982 (?) có thêm một bản
nữa của Hoàng Xuân Hãn.
Đông Hồ thật là một nghệ sĩ từ tính tình, lối sống tới tài
năng: thơ văn ông chải chuốt trang nhã, bóng bẫy, phong lưu nhưng ít cảm; chữ
Hán nét tươi như múa, vẽ mai thì tôi chắc ở nước mình không có ai hơn. Ông trắng
trẻo, nhỏ, thấp, nho nhã, vẻ hơi yếu đuối, đúng là một thư sinh thời cổ.
HƯ CHU
Đông Hồ mất năm 1969 thì bốn năm sau Hư Chu mất mới 50 tuổi.
Gia đình ông nhờ nhà xuất bản Mặc Lâm báo tin cho tôi hơi trễ; được tin tôi
cũng xúc động viết ngay một bài kể cuộc đời, sự nghiệp văn thơ của ông. Bài đó
đăng trên Bách Khoa, ngắn mà đầy đủ, các bạn văn cho là cảm động.
Ông làm thơ ít mà hay, viết văn kĩ, điêu luyện theo một lối
riêng tôi đã có dịp nói tới rồi, và cũng thích dạy học. Được học trò và bạn bè
đều mến, tính tình hiền lương, thành thực, nhã. Đông Hồ là một nghệ sĩ phong
lưu theo lối cổ; Hư Chu cũng là một nghệ sĩ lối cổ - nhưng bình dân hơn, kiểu một
ông đồ thích uống trà, đánh tổ tôm, chơi non bộ, trồng cây, nuôi chim, gà.
Ông giúp tôi rất nhiều trong năm đầu tôi lập nhà xuất bản,
cùng tôi đi giao sách, thu tiền; các hiệu sách ở Sài Gòn thời 1954-1955 đều để
ý đến chúng tôi, hễ thấy chiếc xe máy dầu sơn đen hiệu Peugeot do Hư Chu lái
thì thế nào cũng thấy tôi ở phía sau. Ông cùng tôi sửa bản vỗ cuốn đầu bộ Đại
cương văn học Trung Quốc, mệt và bực mình vô cùng. Chúng tôi không có kinh nghiệm,
giao trọn cho một nhà báo, họ sắp chữ Hán sai be bét, chúng tôi gần như phải sắp
lại hết cho họ.
Sau ông dạy Sử, Địa ở nhiều trường tư, có hồi dạy bốn chục giờ
mỗi tuần, nên chúng tôi ít gặp nhau. Tôi không còn giữ được thư nào của ông.
Ông ít viết thư, có việc gì thì tìm bạn nói chuyện. Ông thật là một bạn tốt.
GIẢN CHI
Tôi tự xét không phải là một nghệ sĩ, không có chút nghệ sĩ
tính nào cả, mà ba bạn thân của tôi đều là nghệ sĩ.
Ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn là một nghệ sĩ nhưng mới hơn Đông
Hồ và Hư Chu, hơn tôi sáu tuổi, hơn Đông Hồ một tuổi, tôi cả hai ông như anh.
Tôi quen ông là do ông Đông Xuyên dắt vào một buổi sáng mùa
Đông năm 1958. To lớn, hớt tóc ngắn, ông có vẻ hiên ngang, không ra một thi sĩ.
Tính tình tự nhiên, thẳng thắn, dễ thân mật, ăn nói nhã nhặn. Sau được coi một
tấm hình của ông hồi ngoài ba mươi tuổi, tôi bảo đùa ông: "có vẻ Lương Sơn
Bạc quá".
Ông quê làng Hạ Yên Quyết (tục gọi là làng Cót) trên đường
Parreau từ làng Bưởi qua Cầu Giấy. Làng đó nổi tiếng là làng văn vật trong tỉnh
Hà Đông, mà họ Nguyễn của ông từ cuối Lê, đầu Nguyễn, thời nào cũng có người đỗ
đạt, không kém họ Hoàng của Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm cũng ở làng đó. Ông có một
người anh nổi tiếng hay chữ hay thơ.
Ông sinh năm 1905, học chữ Hán, 15 tuổi đậu khoá sinh, lúc đó
thi Hương đã bỏ, ông chuyển qua học chữ Pháp, ít năm sau đậu bằng Tiểu học, học
bốn năm nữa, đậu bằng Cao đẳng tiểu học Pháp hạng bình. Nhà ở xa, nên hồi học ở
Hà Nội ông phải ở trọ trong đền Ngọc Sơn hay một chùa nào đó.
Ông làm sở Bưu điện, tính cương trực, cấp trên không ưa, có
thời đổi lên Lai Châu, lưu lại bài:
THU LAI CHÂU
Hơi may gây gây,
Trời vùng này nhiều mây,
Nắng mưa chập chờn,
Không rượu lòng như say.
Thư nhà đỏ mắt,
Phím đàn không dây!
Lá đồi trận trận vàng lìa cây.
Dăm ba bông đại hương ngây ngất người,
Sông Na núi Síp bồi hồi,
Ngó sông ngó núi, mơ người Mường Keo.
Tính tình ông hào hoa phong nhã, thích hoa, rượu, nhạc. Thơ
ông có giọng lãng mạn của thời đó, nhưng không sướt mướt mà hào hùng:
MỜI RƯỢU
(trích một đoạn)
Uống đi, nào bạn uống đi,
Lênh đênh ngày tháng mấy khi sum vầy!
Uống cho lòng ấm đêm nay,
Tỉnh suông suốt kiếp, thà say một giờ.
Có đôi trong cõi mơ hồ,
Hoạ khuây dĩ vãng, bất ngờ tương lai,
Thời gian hoạ có bớt dài,
Không gian hoạ rút trong vài tấc li
Về sau nhắc lại thời đó ông ân hận rằng đã phí bỏ tuổi xuân.
Ông theo Việt Nam Quốc dân đảng, nhưng năm 1945 vì yêu nước,
ghét Tây nên cũng giúp Việt Minh. Sau cách mạng tháng tám, ông khẳng khái tặng
hết ruộng cho cách mạng, lại bỏ tiền rèn khi giới giúp anh em kháng chiến. Lòng
trai bốn phương của ông lúc đó bừng bừng phất phới với ngọn cờ đỏ sao vàng:
L. có thấy:
Mặt trời đêm nay
Đang lên rỡ ràng?
Rừng cờ mở đỏ,
Ngôi sao bay vàng
Sao bay cờ mở,
Lòng trai bốn phương
Nghĩa đời rộng mở,
Tình người lên hương
(Lòng trai bốn phương).
Những năm kháng chiến, ông ra bưng, lên miền thượng du kiếm
ăn bằng các nghề xe gai, buôn nứa và chăn vịt, từng ngủ đêm đã phải ngủ nơi bãi
tha ma, sống cuộc đời nay đây mai đó.
VÔ ĐỊNH
Ta lại ra đi đời lang thang,
Những ngày vô định, bước tha hương,
Thuyền bay độc mộc, mơ trăng Cót
Bãi ngủ tha ma, hút thuốc Mường.
Nước cả, vịt tan, trời đổ bão!
Bóng chiều, ngựa thét, núi chia cương
Tỉnh say hoa khói, cười mưa gió,
Ngoảnh lại phù sinh chốc nửa đường!
Rồi ông hồi cư về Hà Nội. Năm 1954, thấy chính sách ruộng đất
không ổn, thấy bạn cũ trở mặt với ông, tố ông, không còn chút tình người gì cả,
ông phải bỏ quê hương mà vô Nam.
TRÊN ĐƯỜNG BAY VÔ NAM
"Tâm tư bất năng ngôn,
Trường trung xa luân chuyển".
(Cổ thi)
Trải mấy thu làm khách bốn phương,
Thu nay lìa xứ lại lên đường.
Biển leo trời thẳm muôn làn biếc,
Cát giãi cồn xa một sắc vàng.
Cuộc sống đã đành khinh gió bụi,
Lòng người ai chả có quê hương!
"Cỏ tương tư" giục hoàng hôn xuống,
Mây trắng tơi bời, núi ngổn ngang
Nhờ cuộc di cư đó mà tôi được gặp ông. Hồi đó tôi đã được đọc
tập Cô độc gồm một số truyện ngắn của Lỗ Tấn, ông tuyển rồi dịch, nhà Á châu xuất
bản ở Hà Nội năm 1954. Biết cái vốn Hán tự của ông, nhất là Bạch thoại, hơn tôi
nhiều, tôi đề nghị với ông cùng viết bộ Đại cương triết học Trung Quốc, ông nhận
lời, và chúng tôi hợp tác với nhau về cổ học Trung Quốc cho tới sau ngày giải
phóng như trên tôi đã nói.
Sự hợp tác đó rất vui và có lợi cho cả hai. Nhờ có ông, tôi mới
mạnh bạo tiến vào khu vực đó, và nhờ tôi thúc đẩy, từ đó ông mới sáng tác mạnh.
Ngoài những tác phẩm viết chung với tôi, ông còn dịch Ả Q. chính truyện (của Lỗ
Tấn), Tuyển tập Lỗ Tấn, Cái đêm hôm ấy (S. Maugham) Chúng tôi nhận định giống
nhau, biết châm chước ý kiến của nhau và cùng có lương tâm như nhau. Tôi nghĩ nếu
không gặp ông thì công việc nghiên cứu của tôi đã theo một hướng khác, vì không
hợp tác với ông thì tôi không thể hợp tác với người nào khác trong ngành Cổ học
Trung Quốc; còn ông cũng nhận rằng trước khi gặp tôi ông không có ý bước vào
khu vực đó. Thực là một duyên tiền định, có lẽ chưa hề thấy trong văn học sử nước
nhà từ đầu thế kỉ đến nay.
Ông cho tôi là một bạn tương tri của ông, có lần gởi cho tôi
hai câu này:
Nhớ đâu thuở ấy "xào" Trung triết,
Đâu chỉ thời xưa mới Thúc Nha
Tôi cũng coi ông là bạn tương tri, khi có người bàn với ông
giới thiệu tôi về Giải tuyên dương sự nghiệp, ông gạt đi: "Bác ấy không chịu
đâu, đừng giới thiệu".
Trước đó cả hai anh em tôi đã từ chối Giải thưởng văn chương
toàn quốc về bộ Đại cương triết học Trung Quốc.
Khi mới soạn xong bộ đó, trao nhau bản thảo để đọc lại cho
nhau, ông khen phần "Vài nét sơ lược về sự phát triển của triết học Trung
Hoa" viết chưa kĩ nhưng được lắm; và tôi cũng nhận phần Vũ trụ luận và Tri
thức luận của ông, khó có ai viết hơn ông được.
Ông làm thanh tra Quân Bưu đến khi về hưu rồi dạy Đại học Văn
khoa Sài Gòn, Huế về môn Trung triết, tới năm 1977 thì thôi.
Chỉ khi nào thực có hứng ông mới làm thơ, nên tới nay ông mới
có độ vài trăm bài, một phần là dịch. Thơ ông tôi thích hơn thơ Đông Hồ, Đông
Xuyên, Quách Tấn, vì có nhiều thể (cả mới lẫn cũ), nhiều giọng, đa số là cảm
khái, khi buồn thì ủ ê, khi thì trầm hùng, lại có lúc thanh thoát. Thỉnh thoảng
có hình ảnh mới và thỉnh thoảng cũng dùng điển cầu kì. Mỗi giai đoạn, mỗi biến
cố lớn trong đời ông đều được phản ánh trong tập Tấc lòng mà ông mới đánh máy
mươi bản cho bạn hữu (không in) để ghi lại tâm tư của ông từ trẻ tới già.
Trên tôi đã chép ít bài của ông, dưới đây xin thêm hai bài nữa:
--TẢN CƯ (1947)
Mây xám đầu non, gió cửa rừng,
Hoang vu trước mắt, giặc sau lưng.
Câu thơ đêm viết, ngâm rồi xé,
Chén nước mình pha, nhấp lại ngừng.
Năm hết quê người, mưa xuống nặng,
Gươm treo đời loạn, bạn ngồi dưng.
Trông nhau, trông mái đầu chưa bạc,
Gằn giọng cười đau, nuốt lệ mừng.
RỜI THẦN KINH
(Gửi Nguyễn Văn Thư và Phan Du)
Cơn giông đâu nổi? Sóng nào reo?
An Cựu lùi xa, Bạch Mã theo
Trăng dựng muôn hình mây ngút ngút
Xanh chìm một vũng biển thiu thiu
Hương hoa xứ Huế đôi tình bạn,
Vũ trụ thầy Trang một cánh diều.
Hạt thóc thái thường vòng đại hoá
Chín ngàn cao vỗ mộng lăng tiêu.
Có lẽ lần đó là lần cuối cùng ông được hưởng cái vui hồn
nhiên. Rồi giải phóng miền Nam.
Lúc này đây ông đương viết về đời Vương Duy.
Trong số mấy bài thơ chương này, tôi trích thơ ông nhiều hơn
cả vì thơ ông chưa in thành tập, ít ai biết.
ĐÔNG XUYÊN
Đông Xuyên (Nguyễn Gia Trụ) với Giản Chi quen nhau từ hồi trẻ,
tuổi xấp xỉ nhau - Đông Xuyên cùng tuổi với Đông Hồ, kém Giản Chi một tuổi. Gia
thế như nhau, đều ở trong những gia đình nhiều đời đỗ đạt, quán ở làng Đông Ngạc
tục gọi là làng Vẽ, một làng nổi tiếng về văn học gần Hà Nội, con cụ mền Tĩnh
Trai; hồi nhỏ cũng học chữ Nho đến 16 tuổi rồi mới chuyển qua học chữ Pháp, ba
năm đỗ Tiểu học, nhưng không học tiếp hết Cao đẳng tiểu học như Giản Chi, sau
làm thơ kí Nha Quan thuế tới khi về hưu ở Sài Gòn.
Nhưng hai bạn đó trái ngược nhau về nhiều điểm: Đông Xuyên thấp,
gầy, mắt sáng, chậm chạp, vẻ mặt khắc khổ, mặc áo dài thâm vào thì ai cũng bảo
là thầy đồ; tính tình nghiêm cẩn, hơi câu nệ, sống rất giản dị, ít đọc sách, ít
giao du, chỉ mê làm thơ mà thơ ông cũng rất cổ.
Ông tự xét ông: "Trong làng văn, có lẽ tôi là người có nết
nhất: không dính tứ đổ tường, nhưng cũng là kẻ lạc hậu nhất: không biết đi xe đạp.
Tính hay gắt gỏng, nhưng chân thật, bạn bè yêu".
Đúng: ông rất chân thật, thật như đếm nữa, mà cũng thật liêm
khiết, đó cũng là điểm bạn bè quí, nhưng chắc cũng bị vài kẻ ghét vì có lần ông
than:
"Nước mà trong quá, cá không ưa".
Việc nhà ông giao cho vợ hết, trái hẳn với thi sĩ Bàng Bá
Lân, một bạn thơ của ông: họ Bàng tháo vát, dạy học bốn chục giờ một tuần, dịch
sách, viết sách, chụp ảnh, giúp đài truyền hình một mình nuôi gia đình mười hai
người, lại quán xuyến cả việc nhà; còn Đông Xuyên hết giờ ở công sở rồi về nhà
nghĩ tới thơ.
Ông có thơ đăng trên An Nam tạp chí từ hồi hai mươi lăm tuổi
và được Tản Đà khen; từ đó đến nay non nửa thế kỉ, ông đã xuất bản được bốn tập:
Thuyền thơ, Gió nồm, Bến chiều, Tuyển tập thơ Hán Việt (dịch); ngoài ra còn vài
tập nữa chưa in, tính ra cả sáng tác lẫn dịch được trên 600 bài.
Giản Chi phê bình thơ ông như sau:
"Anh say xưa cảnh đẹp thiên nhiên và nặng lòng trước những
mảnh đời ngang trái. Và đọc thơ anh người ta thấy phảng phất cái tài bộ của một
Vương Ma Cật và dạt dào một đồng tình của một Bạch Lạc Thiên". Mấy năm nay
tôi thấy thơ ông có giọng Tú Xương nữa.
Ông ưa dùng thể thơ luật nhất, thỉnh thoảng làm một bài lục
bát hay song thất lục bát. Thơ ông chỉnh, có nhạc, bài nào cũng xen cảnh vào
tình, nhưng thiếu bề sâu, ý mới. Đặc biệt là ít dùng điển, ít dùng cả chữ Hán,
rất có giọng Việt. Tình cảm của ông chỉ hiện phơn phớt, như được tiết chế theo
đạo Nho rồi. Ông cổ điển mà Giản Chi lãng mạn. Ông có nhược điểm là rất ghét
phong trào thơ mới thời tiền chiến, không chịu đọc một nhà nào cả.
Ông là sản phẩm "cuối cùng của đạo Nho ở Việt Nam".
Không thể có một người khác như ông.
Tôi có may mắn giới thiệu hai tập thơ của ông: Thuyền thơ và
Tuyển tập thơ Hán Việt, nên ở đây tôi khỏi chép thêm.
Tác phẩm của ông tôi giữ được đủ, thư của ông rất nhiều, cũng
gần đủ.
QUÁCH TẤN - BÀ TƯƠNG PHỐ
Tôi biết danh Quách Tấn (bút hiệu là Trường Xuyên) từ lâu,
nhưng quen ông chỉ trên mười năm nay. Vào khoảng đầu năm 1968, đọc cuốn Nước
non Bình Định của ông, tôi viết một bài đăng trên tờ Tân Văn (1968) khen là tác
phẩm có giá trị nhất trong loại Địa phương chí vì tài liệu đã dồi dào mà văn lại
hay. Tôi khuyến khích ông viết một cuốn nữa về Nha Trang nơi ông đương ở. Ông
nghe lời viết cuốn Xứ Trầm hương, cuốn này tôi thích hơn cuốn trên và giới thiệu
trên tờ Tân Văn năm 1970: ông tả nhiều cảnh lạ ở Khánh Hoà, nhất là cảnh núi mà
tôi chắc không ai tả hơn ông được.
Ít năm sau, ông bị bệnh Glaucome, một con mắt phải mổ, sợ con
mắt còn lại cũng không được toàn, làm một bài thơ kể tâm sự với tôi. Tôi gởi
đăng bài thơ đó trên tờ Bách Khoa, có ý mong độc giả, ai biết thuốc thì chỉ cho
ông. Một độc giả ở Châu Đốc chép gởi toà báo một toa thuốc bắc gồm nhiều vị bổ
âm, nhưng sau ông không phải dùng tới.
Từ đó chúng tôi thường thư từ với nhau và lần nào ở Nha Trang
vào Sài Gòn ông cũng lại nói chuyện văn thơ với tôi vài giờ.
Ông hơn tôi hai tuổi, sinh ở Bình Định. Tổ tiên là người
Trung Hoa, song thân đều biết chữ Hán, thân phụ đậu bằng Thành chung, làm công
chức, ông cũng sớm đậu bằng Thành chung rồi ra làm thơ kí hành chánh để nuôi các
em vì lúc đó song thân đã qui tiên. Nhờ giáo dục gia đình, ông biết chữ Hán, chữ
Nôm, làm thơ, nổi danh từ hồi ngoài hai mươi tuổi, cũng như Đông Xuyên được Tản
Đà khen.
Ông nhỏ người, thấp, lưng rất ngay, bước đi vững. Tính tự
nhiên, thẳng thắn, khiêm tốn, vui vẻ, nhiều tình cảm, chơi thân với Hàn Mạc Tử,
Chế Lan Viên, Bích Khê; người Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu. Ông có thể nói
chuyện về thơ cả buổi mà không chán. Sự biểu biết của ông về thơ luật, về điển
tích, ở Việt Nam có lẽ không ai bằng.
Ông là nhà thơ siêng năng nhất, sáng tác mạnh nhất. Ngoài bảy
chục tuổi mà ngày nào cũng đánh máy suốt buổi được (ông viết bằng máy đánh chữ)
cả khi ông giữ cháu nội, ngoại. Trong một bức thư ngày 20.12.79, nhân tôi hỏi,
ông cho hay đã có non 1.500 bài thơ, trong số đó có khoảng 900 bài "cận thể":
thất tuyệt, ngũ tuyệt, thất luật, ngũ luật; trên 400 bài lục bát từ 4 câu trở
lên; và khoảng 200 bài thơ dịch. Chỉ có một số nhỏ đã được xuất bản trong các tập
Mùa cổ điển, Mộng Ngân sơn, Đọng bóng chiều, Tố Như thi
Quách Tấn chuyên về thơ luật, tôi cho rằng từ đầu thế kỉ đến
nay không ai có công với thơ luật bằng ông: ông có trên ngàn bài thơ luật, kể cả
thơ dịch; lại chép hồi kí, phê bình hầu hết các nhà thơ luật nổi tiếng ở nước
ta trong nửa thế kỉ nay, trước sau mấy chục nhà, gồm cả ngàn trang vẫn còn bản
thảo; sau cùng, lại viết một tập dạy cách làm thơ luật (bố cục ra sao, dùng điển
ra sao, phép đối ra sao), chỉ cho ta thơ thế nào là hay, thế nào là hỏng v.v Tập
đó dày khoảng 200 trang, viết kĩ hơn cuốn Để hiểu thơ Đường luật của Hư Chu nhiều,
tiếc rằng không biết bao giờ mới in được.
Thơ luật ở nước ta, theo sử chép thì có từ cuối thế kỉ XIII,
tới nay được bảy thế kỉ, tôi đoán nó sẽ chấm dứt ở đầu thế kỉ tới, cũng như thể
Sonnet của Pháp ngày nay không còn ai làm nữa. Vậy ta có thể coi Quách Tấn là
người cuối cùng có công với nó, người đầu tiên là Hàn Thuyên, người gây phong
trào thơ Nôm ở đời Trần Nhân Tôn.
Ngoài ra ông còn có 15 bài văn tế, một bài được khắc lên bia
trước đền thờ vua Quang Trung ở Bình Định, nhưng sau ngày giải phóng bia đã bị
trát xi măng lên. Ông lại viết tiểu thuyết, dịch bộ Ngàn lẻ một đêm của Ả Rập;
viết Địa phương chí, Danh nhân Bình Định, và mấy ngàn trang thi thoại, hồi kí,
nghệ thuật làm thơ. Bản thảo của ông tới nay tới 20.000 trang đều để đó, ít ai
ngờ nổi!
Thơ ông thỉnh thoảng có cảm xúc mới, ý mới, nồng nàn hơn thơ
Đông Xuyên, một số bài gợi cảm và rất nổi tiếng như hai bài thơ dưới đây đều ở
trong Mùa cổ điển:
ĐÊM THU NGHE QUẠ KÊU
Từ Ô y hạng rủ rê sang,
Bóng lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng.
Trời bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
Thu sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn chồn thương kẻ nương song bạc,
Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng.
Tiếng dội lưng trời đồng vọng mãi,
Tình hoang mang gợi tứ hoang mang.
TRƠ TRỌI
Tình cũng lơ mà bạn cũng lơ!
Bao nhiêu khăng khít bấy ơ hờ!
Sầu mong rơi lệ khôn rơi lệ,
Nhớ gởi vào thơ nghĩ tội thơ.
Mưa gió canh dài ngăn lối mộng,
Bèo mây bến cũ quyện lòng tơ.
Hỏi thăm tin tức bao giờ lại,
Con thước qua sông lại ỡm ờ!
Thơ ông về già tự nhiên hơn nhưng vẫn giữ những nét chính thời
40 năm trước. Nhiều người trách thơ ông đẻo gọt và dùng nhiều điển quá. Ông bảo:
"Thú thật là tôi làm thơ không đến nỗi "khổ công phu" như Giả Đảo
(). Nhiều khi làm rất nhanh. Song sự thai nghén của thơ có phần lâu. Ngoài bài
Đêm thu nghe quạ kêu, tôi còn nhiều bài khác mà cảm xúc và tình thơ nằm trong
tâm hồn tôi trên dưới 10-15 năm như bài Ấp ủ trong Mộng Ngân sơn.
Sự dụng điển của tôi ai cũng tưởng tôi moi đầu moi óc ra để
tìm điển. Trên thực tế không phải thế. Chính điển tìm tôi để phò tá" (thư
cho tôi ngày 19.9.80).
Trong bài "Chung quanh bài Đêm thu nghe quạ kêu" viết
ngày 4.8.63 (Bàng Bá Lân in vào tập Kỉ niệm văn thi sĩ hiện đại II, nhà XB Xây
dựng), Quách Tấn cho biết ông thai nghén bài thơ đó ra sao. Một buổi tối cuối
thu Đinh Mão (1927), trăng mờ mờ, từ bến đò An Thái, ven bờ sông Côn trở về
nhà, qua một khúc đường vắng, ông nghe thấy một bầy quạ thình lình cất tiếng
kêu vừa rùng rợn vừa lạnh lùng. Từ đó tiếng quạ kêu ám ảnh ông. Ba tháng sau,
bà thân ông mất, tiếng quạ đó lại thành não nùng, héo hắt. Rồi bẵng đi 12 năm,
năm 1939, một đêm trăng, nhân nghe một tiếng dội ở xa ngân dài ra, tiếng quạ
năm xưa vụt thức dậy rộn ràng, nhưng dịu dàng chứ không rùng rợn như trước. Đêm
đó ông thao thức, nhớ lại nhiều kí ức ()
Do tiếng quạ kêu mà ông liên tưởng đến màu đen, đến chữ Ô và
ông nhớ bài Ô y hạng của Lưu Vũ Tích; rồi nhớ đến bến đò An Thái ông đã qua năm
1927 mà ông liên tưởng đến bến Phong Kiều của Trương Kế trong bài Phong Kiều dạ
bạc; lại nhớ đến sông Côn mà liên tưởng đến dòng sông Xích Bích với con thuyền
Tô Đông Pha, nhớ bài Tiền Xích Bích phú trong đó có dẫn câu "Minh nguyệt
tinh hi, Ô thước Nam phi" của Tào Tháo; cứ hết điển này đến điển khác nối
nhau đưa vào ông cõi mộng, và sáng hôm sau nữa ông làm xong bài Đêm thu nghe quạ
kêu, như đã chép ở trên, chỉ khác câu 6 là: "Thắc thỏm chăng ai quả ấn
vàng" (lúc bấy giờ quân Nhật ở Việt Nam, nhiều người đi lính để lập công
danh, nhiều bà vợ bị chiếc bóng), và câu 8 là: "Tình lan man gợi tứ lan
man".
Năm 1941, khi sắp in vào tập Mùa cổ điển, ông thấy không vừa
ý hai câu đó, nên sửa lại là "Lạnh lẽo sầu ai rụng giếng vàng" và
"Tình hoang mang gợi tứ hoang mang". Đó, ông thai nghén bài Đêm thu
như vậy, từ 1927 đến năm 1941, 14 năm cả thảy.
Ông "nhiều khi làm thơ rất nhanh", điều đó tất đúng,
có vậy ông mới làm được 1.500 bài; vả lại nhà thơ nào khi hứng tới thì cũng như
thế cả. Ông không "khổ công phu" như Giả Đảo trong phái Quái đản đời
Đường, điều này tôi chắc cũng đúng; nhưng bài Đêm thu làm xong rồi, hai năm sau
mới sửa câu 6 và câu 8, thì ông cũng không khác Giả Đảo mấy: Giả Đảo "Lưỡng
cú tam niên đắc", ông thì lưỡng cú nhị niên đắc. Và tôi nghĩ viết kĩ thì
phải vậy.
Ông "không moi óc ra để tìm điển" mà điển tự nhiên
tới. Điều đó dễ hiểu. Điển thường là do một ý, một vần hoặc một vài chữ trong
câu gợi nên, ít ai vô cớ mà đưa điển vào thơ.
"Sự thai nghén có phần lâu", như bài Đêm thu, mất
14 năm. Phải. Nhưng chúng ta phải phân biệt: tiềm thức của ông đã thai nghén,
chứ ông không suy nghĩ, tìm ý, tìm lời suốt 14 năm. Mà chuyện đó thì rất thường,
như bài Hoa đào năm trước của tôi (Lá Bối - 1970) cũng có thể nói là thai nghén
bốn chục năm: từ ngày tôi còn ở trung học, một ngày xuân thấy một thiếu nữ bên
một gốc đào mãn khai; rồi năm 1942 hay 43, một đêm trăng qua Đèo Cả, thấy một cảnh
đẹp cũng chỉ xuất hiện trong mươi giây như lần trước; rồi sau mười năm nữa
(1952) cảnh một thiếu nữ bên một bụi hồng nhung nhắc lại cho tôi cảnh thiếu nữ
bên gốc đào năm xưa; sau cùng mãi đến Tết Tân Hợi (1971) nhân nhớ tới câu:
---Aimez ce que jamais on ne verra deux fois
Nghĩa: Hãy yêu những gì ta không bao giờ gặp được hai lần.
của A. de Vigny, tôi mới viết bài đó nội trong một ngày. Những
cảnh đẹp làm ta xúc động mạnh bao giờ cũng in sâu vào óc ta, nằm trong tiềm thức
của ta, khi nào gặp cơ hội thuận tiện mới tái hiện trong hiển thức (conscient)
và thúc đẩy ta ghi chép lại. Nhà văn, nhà thơ nào cũng nghiệm thấy điều đó.
Tóm lại cách sáng tác, cấu tứ của Quách Tấn là cách chung của
mọi người cầm bút, nhưng ông là người đầu tiên tôi được biết, không giấu giếm gì
cả, chép lại tỉ mỉ cho độc giả biết. Thường các nhà văn kị điều đó, cũng như
thiếu nữ không muốn cho ai thấy mình tô điểm. Cho nên bài "Chung quanh bài
Đêm thu nghe tiếng quạ kêu"đáng gọi là một tài liệu quí. Chính cách làm
thơ của Đông Hồ tôi kể ở trên mới là đặc biệt.
Tôi không được đọc bản dịch Nghìn lẻ một đêm của Quách Tấn.
Văn kí sự, tả cảnh của ông hay như trong hai cuốn Địa phương chí về Bình Định
và Nha Trang. Xét chung, văn xuôi của ông cũng thường dùng nhiều điển, nhiều chữ
Hán, và khi nào ông viết tự nhiên thì văn linh động và có duyên.
Tôi còn nhớ một bài hồi kí 9-10 trang (chưa in) ông viết về nữ
sĩ Tương Phố. Tôi chưa hề gặp nữ sĩ một lần nào mà đọc văn ông, tôi thấy chân
dung bà hiện rõ trước mặt tôi, lanh lẹ, vui vẻ, tự nhiên, cứng cỏi, có nhiều
nét đàn ông; nghe được cả giọng nói của bà nữa mà tôi đoán là sang sảng, dí dỏm,
thân mật; cảm tưởng đó y hệt như tôi đọc thư bà, bức thư duy nhất bà gởi cho
tôi, vài năm trước khi bà mất.
Bức thư đó gồm ba tờ nhỏ bằng pelure màu xanh lá cây và màu xanh
da trời, tôi trân tàng, nhưng cũng chép lại đây, sợ nguyên bản có thể thất lạc.
Năm đó, 1966, tôi nhận được một tập bà viết cho nhi đồng, tôi viết thư cảm ơn
và tặng bà 2 cuốn tôi mới xuất bản. Bà hồi âm liền:
Nha Trang, đầu mùa sen năm Mậu Thân - 29.4.68.
Bút đàm với Hiến Lê,
Đã hân hạnh tiếp "Mấy vấn đề xây dựng văn hóa" và
"Kiếp người", xin trân trọng kính lời cảm tạ Tác giả và Dịch giả ạ.
Đèn khuya có những đêm say sách,
Hội tâm linh với khách cổ kim.
Trần ai tri kỉ khó tìm,
Cô đơn với sách mặn duyên tinh thần.
Trong những sách cổ kim ấy không phải là không có Hiến Lê -
Phố này hoàn toàn cô đơn ở Nha Trang. Chỉ lấy sách làm duyên, nên khoảng tinh
thần gặp gỡ Hiến Lê cũng đã nhiều.
Cảm phục và quí Hiến Lê không lời kể xiết. Thật vậy, Hiến Lê
là một học giả uyên bác, đọc rộng hiểu nhiều với khối óc bao quát vũ trụ, với cặp
mắt lịch lãm nhân hoàn. Lại là một cây viết rất mềm dẻo, rất vững vàng, thẳng
thắn, có tài và thiết tha yêu tiếng Việt mẹ đẻ - sốt sắng với vấn đề xây dựng
văn hóa nước nhà - Lo xa đến cả tương lai học vấn của thanh niên toàn quốc.
Chao ơi, giữa đời loạn này, văn sử Việt Nam phỏng mấy Hiến
Lê?
Hoang mang trước hoàn cảnh non sông mưa gió, tất cả chúng ta
cùng sống bấp bênh không ngày mai. Nước Việt Nam sẽ đi về đâu đây? Thời qian trả
lời ư, buồn lắm!
Anh hùng dân tộc có ai không?
Thắng lợi năm chờ mỏi mắt trông
Loạn khắp sa trường phơi vết máu,
Tham bao tâm địa vẩn hơi đồng.
Đạn bon xáo trộn bầu trời đất,
Tang tóc âm thầm cảnh núi sông.
Nỗi nước tình quê bao thắc mắc,
Muôn vàn tâm sự dưới trời Đông.
T.P
T.P buồn đời loạn nên có mấy vần thơ ấy. Nhưng không bao giờ
mong Hiến Lê trở nên một vị anh hùng Dân tộc qua súng gươm đâu. Chiến tranh tuy
đang gắt gao khiến Hiến Lê có lúc đã vẫn vơ nghĩ: "bọn cầm bút chúng ta làm
được những gì lúc này?". Song, đâu cứ phải súng gươm hăng hái ra sa trường
mới là yêu nước. Chính Hiến Lê mới thực nặng lòng nước non đó!
Nhưng thôi, bút đàm bấy nhiêu tạm đủ, Phố xin phép ngưng bút
đây; và xin chúc văn hào Nguyễn Hiến Lê luôn dồi dào sức khoẻ và nghị lực để mạnh
tiến trên đường văn nghiệp.
° °
°
Tương Phố
Lời văn và lời thơ đều là của thời Nam Phong, chỉ có mỗi một
chữ - chữ qua - trở thành một vị anh hùng Dân tộc qua súng gươm - là mang chút
dấu vết của thời đại chúng ta.
Tuy dùng nhiều chữ sáo - thói quen của thời trước - nhưng
chân thành, thân mật: ngay đầu thư đã gọi thẳng tên tôi: "Bút đàm với Hiến
Lê"; rồi lại chữ nữa ở cuối câu đầu.
Tôi kém bà non mười tuổi, chỉ đáng là em út của bà, lại bước
lên văn đàn sau bà xa lắc xa lơ, mà bà coi tôi như bạn.
Phải coi nét bút mới thấy tính tình của bà: mềm mại, nhanh,
tươi, nhưng những chữ T, H, N, K rất cứng, cương quyết; dấu huyền như lưỡi
gươm, mạnh nhất là đưa một nét ngang dài - như vung tay ra - để thay dấu chấm
câu.
Đọc thư xong, tôi nghĩ: Bà cụ này đa cảm nên mới có Giọt lệ
thu, nhưng tính tình đúng là đàn ông, cương quyết hơn đàn ông nữa, cá tính thật
đặc biệt. Đời vất vả là phải.
Ít năm sau bà lên Đà Lạt ở với con trai và mất trên đó.
Bài hồi kí về Tương Phố của Quách Tấn với bức thư đó của bà
là những tài liệu quí để người sau hiểu bà và văn nghiệp của bà.
Nhân đây, tôi chép thêm một đoạn trong bức thư ngày 20.12.79,
Quách Tấn nói với tôi:
"Tôi thường nói cùng Châu Hải Kỳ rằng nội việc đọc sách
của anh cũng đã khó có người theo kịp chứ đừng nói đến chuyện đọc rồi còn
"tiêu", tiêu rồi còn viết. Anh gầy là phải. Và C.T. ví anh với khóm
lão mai thật đúng vì chỉ có lão mai mới ra thạnh hoa dưới trời đông lạnh lẽo
().
"Không biết Châu Hải Kỳ "vẽ chân dung anh" có
"vẽ" được phong cốt chăng? Tôi chưa đọc bản thảo. Nói về văn và nói về
người trong "gương văn chương" chưa thú bằng nói về "văn trên
người" và nói về người trên ngôn ngữ, thái độ, cử chỉ hàng ngày của người ấy.
Phải vẽ truyền thần mới lột hết "ý nghĩa" của tập thơ sống Nguyễn Hiến
Lê.
"Tôi đã "đọc" được nhiều "tập thơ sống":
Tản Đà, Hàn Mạc Tử, Đông Hồ, Bích Khê, Nguyễn Hiến Lê và Tương Phố. Một tập thơ
ít chất thơ nhất là bà chị Tương Phố của tôi. Cụ Thúc Gia Thị cũng là một tập
thơ nhiều thú mà ít vị. Vũ Hoàng Chương hương sắc thắm song hương vị không được
tươi thanh.
Muốn thành "tập thơ sống" phải có đời sống nên thơ.
Đời sống của anh là "Hương đạm vị nồng", cho nên
"cái đẹp" nơi anh là "dư vị". Mà cái vị của anh là của nước
thanh tuyền - có "ế ẩm" mới "tri chân vị". Nếu khách thích
sâm banh, uýt ky, cà phê, sửa bò thì chả thấy vị thì chứ đừng nói tới "dư
vị".
Có lẽ ông muốn nói như Võ Phiến rằng tôi "vốn phong độ
nghiêm chỉnh, dù với kẻ thân cũng không quá vồn vã; tuy nhiên đối với bạn thân
thật chí tình!". Nếu vậy thì đúng.
Trong thư ngày 27.4.80, ông lại viết:
"Văn anh có giọng phong lưu thật đấy.
Văn anh giống anh như hình với bóng:
Nếp phong lưu của anh khác hẳn Đông Hồ. Anh Đông Hồ có vẻ
phong lưu của hoa cẩm nhung, hoa thược dược. Vẻ phong lưu của anh là vẻ phong
lưu của khóm mai già bên bờ suối, cành khẳng khiu, hoa lác đác. Nhìn vào gốc
vào nhánh thì "khắc khổ" như một nhà sư ăn chay trường, song có nhìn
xuống mặt suối mới thấy rõ văn thái phong lưu, có nhìn lên trên không mới ngửi
thấy ám hương phù động".
Thư của ông tôi giữ gần đủ, đã khá nhiều rồi. Ông cũng gởi
tôi một số bản thảo.
VI HUYỀN ĐẮC
Một bạn già nữa, hơn tôi chín mười tuổi, giỏi Pháp văn, biết
nhiều chữ Hán, gốc Trung Hoa, quê ở Móng Cái, năm 1954 di cư vào Sài Gòn, là Vi
Huyền Đắc. Ông không làm thơ, chuyên viết kịch và dịch sách, nổi tiếng trước thế
chiến về kịch Kim tiền, có viết kịch Eternels regrets bằng tiếng Pháp về Dương
Quí Phi, được giải thưởng Hàn lâm viện Nice; sau thế chiến sáng tác kịch Thành
Cát Tư Hản.
Thời trẻ có hồi ông làm thầu khoán ở Hải Phòng, rất phong
lưu; từ khi vào Nam, ông bà gần như ở ẩn trong một căn nhà gỗ tại ngã năm Bình
Hoà trong Gia Định: ông dạy môn kịch vài năm ở Viện Âm nhạc, và dịch truyện
Trung Hoa của Quỳnh Dao, Lâm Ngữ Đường, kịch của Marcel Pagnol; còn bà thì dạy
trường tiểu học Đa Kao.
Sau khi bà mất, ông sống cô độc, mặc dù có con trai, con dâu,
cháu nội ở Sài Gòn, chỉ buổi trưa mới có đứa cháu đem cơm vào cho ông rồi về,
sáng và chiều ông ăn tiệm. Ông rất thích bạn văn, gặp thì mừng lắm nhưng ông ở
xa quá, chúng tôi ít vô được.
Tính tình xuề xoà, cởi mở, ai cũng quí. Vài nhà xuất bản lâu
lâu in cho ông một tác phẩm, nhờ vậy tạm đủ sống.
Ông nói đã bắt đầu soạn bộ Tự điển Việt Nam rất kĩ, mới tới
chữ C được 5.000 trang rồi ngưng luôn. Kịch của ông khá hay; các bản dịch của
ông rất công phu, chuyển khéo qua tiếng Việt, nhưng dịch tiểu thuyết Trung Hoa
ông lại ưa giữ nhiều danh từ Trung Hoa, mặc dù có tiếng Việt tương đương. Ông bảo
như vậy là để làm giàu tiếng Việt.
Sau ngày giải phóng ông còn sống cô độc hơn nữa vì con trai
ông ở Sài Gòn đã qua Pháp; hai nhà văn trẻ Triều Linh và Hoàng Hương Trang lại ở
với ông cho vui.
Năm 1976, một con trai ông làm bác sĩ ở Hà Nội vào đón ông ra
Bắc sống, ông không muốn đi, bảo: "Bạn bè tao ở cả trong này, ra ngoài đó
có bạn nào đâu?". Ông té gãy xương hông, tuổi quá cao, xương không lành được,
con ông đưa ông ra Hà Nội bằng máy bay. Được ít tháng sau, nghe tin ông mất
ngoài đó, bạn văn ai cũng nhớ tiếc.
PHẠM PHÚ HOÀI MAI
Một bạn già nữa là Phạm Phú Hoài Mai, hơn tôi nhiều tuổi, hậu
duệ của cụ Phạm Phú Thứ, quê ở Quảng Nam vào Sài Gòn dạy trường tư.
Tính tình chất phác, đôn hậu, đã xuất bản được hai tập thơ, đủ
các thể: luật, lục bát, thơ mới, lời không chuốt, nhưng nguồn hứng phong phú, cảm
xúc chân thành dạt dào tình nhà, tình nước, tình yêu thiên nhiên, thương người
nghèo khổ. Ông nhờ tôi đề tựa cho tập Thơ Mùa loạn chưa in được. Hai năm nay vắng
tin tức ông.
Tôi ghi lại vắn tắt ở đây hai ông bạn già nữa không thực là
nhà văn, một người là Tùng Tử, hơn tôi khoảng mười tuổi, một người là Học Năng
hơn tôi vài tuổi.
Tùng Tử không biết tiếng Pháp, chữ Nho giỏi, làm thơ Việt và
Hán, lời nhẹ nhàng, có ý vị triết. Học Năng ở trường Sư phạm Hà Nội ra, làm hiệu
trưởng nhiều trường Tiểu học, chữ Hán khá, thích làm thơ châm biếm nhẹ, cả hai
đều thạo môn bói và môn số Tử vi, Tử Bình, Hà Lạc. Tùng Tử còn biết thêm môn
Đông y chỉ để giúp đời. Học Năng đã xuất bản cuốn Bát tự Hà Lạc.
Cả hai hồi trẻ đều hoạt động cách mạng, từ khi di cư vô Sài
Gòn, đều buồn về thời cuộc, nóng lòng với tương lai dân tộc, ngày nào cũng
ngóng tin tức, tìm những lí do để hi vọng sắp có sự thay đổi.
LÊ NGỌC TRỤ
Bạn trong Nam dễ thương nhất là Lê Ngọc Trụ, hơn tôi một tuổi.
Ông thật là một học giả cần cù, rất khiêm tốn. Chưa học hết ban Cao đẳng tiểu học
thì thôi; nhờ giáo dục gia đình mà thông chữ Hán, lại biết nói tiếng Quảng
Đông, nhất là nhờ công tự học, tìm tòi mà cống hiến cho quốc dân một bộ Việt ngữ
chánh tả tự vị mà tất cả học giả Việt, Pháp đều công nhận là một công trình có
giá trị về ngôn ngữ học. Giáo sư Gaspardone ở Paris giới thiệu cuốn đó cùng với
bộ Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam trong một tạp chí ở Thuỵ Sĩ tôi đã dẫn ở
trên.
Ông rất tốt với bạn. Hồi còn làm thư kí Thư viện ở đường Gia
Long, ông thường kiếm giùm tài liệu cho bạn văn. Sau ông thôi giúp việc ở Thư
viện, anh em chúng tôi không muốn tới đó nữa. Đúng như Nguyễn Hữu Ngư nói, ông
là linh hồn của Thư viện, vì không sao kiếm được người hiểu rộng, biết sâu về
sách báo mà chịu khó giúp người muốn biết như ông.
Khi ông soạn xong bộ Chánh tả, tôi giới thiệu với nhà xuất bản
Thanh Tân và nhà này vui vẻ nhận, mặc dầu biết công việc ấn loát rất khó khăn.
Bộ đó được giải thưởng Văn chương toàn quốc và một hai năm sau ông được mời dạy
môn Chánh tả Việt ngữ ở Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Ông tính soạn tiếp bộ Tự vị ngữ nguyên Việt Nam, cho nên sau
giải phóng, ông thôi dạy Văn khoa, để trọn thì giờ vào công việc đó. Nhưng sức
ông suy, chưa kịp hoàn thành thì mất ở Chợ Lớn năm 1979, để lại một tủ thẻ.
NGUYỄN BẠT TUỴ
Một nhà ngôn ngữ học nổi tiếng nữa là Nguyễn Bạt Tuỵ, quê ở Bắc,
năm nay ngoài sáu mươi tuổi. Cao lớn, khoẻ mạnh, ở độc thân, chỉ tự học mà rất
giỏi về ngữ âm học, được vài cơ quan văn hóa Pháp rồi Mĩ biết tài, trợ cấp cho
mỗi tháng một số tiền để ông khảo về ngôn ngữ các dân tộc thiểu số miền núi từ
Pleiku, Kontum vào. Trong mấy chục năm ông gom góp được rất nhiều tài liệu: từ
vựng, phim ảnh, băng thu âm về các ngôn ngữ đó. Sau ngày giải phóng, chính phủ
Cách mạng cho ông ở một biệt thự tại Đà Lạt, trợ cấp mỗi tháng một số tiền. Ông
viết được khá nhiều nhưng in được rất ít, trước sau chỉ được một cuốn mỏng đề
nghị cải thiện vần Quốc ngữ viết từ hồi trẻ, và ít bài báo, vì công trình của
ông có tính bác học, rất khó in và phổ biến.
Ông có hùng tâm cải tổ Việt ngữ: bao nhiêu danh từ Hán Việt cấu
tạo theo ngữ Pháp Trung Hoa ông đề nghị bỏ hết mà cấu tạo lại theo ngữ pháp Việt.
Từ ba bốn chục năm nay đã có xu hướng đó: chúng ta không viết
như các nhà cựu học: Trung Quốc văn học sử đại cương, mà viết: Đại cương văn học
sử Trung Quốc hoặc Đại cương sử văn học Trung Quốc. Nhưng thi hành ngay một
cách triệt để như ông mà viết: học trung, học đại, hội xã thay vì trung học, đại
học, xã hội thì nhiều khi tối nghĩa và chói tai, nên không ai theo ông, trừ mỗi
một người, ông Lê Văn Hảo ở Đại học Huế (sau vụ Mậu thân ông ra bưng theo kháng
chiến).
Mỗi năm ở Đà Lạt ông Tuỵ xuống Sài Gòn độ một hai lần, thường
lại thăm tôi. Rất tự tin và nhiều cạnh góc nên ít bạn.
TRƯƠNG VĂN CHÌNH
Trong một chương trên tôi đã nhắc nhiều tới ông, ở đây là nói
thêm: ông quê ở Bắc Ninh, học ở trường Bưởi trước tôi ít năm, rồi làm sở Bưu điện,
chức Thanh tra, năm 1945-46 dự các hội nghị Đà Lạt, Fontainebleau; 1954 di cư
vào Nam làm Giám đốc Bưu điện Nam Phần, khảo về ngữ pháp Việt Nam, nổi tiếng.
Ông có đức tự trọng, tự tin. Ông mất năm 1983 ở Pháp sau khi qua bên đó đoàn tụ
với con cháu được một năm.
VƯƠNG HỒNG SỂN (Sển là giọng Phúc Kiến của chữ mà ta đọc là
Thịnh)
Vương Hồng Sển, bạn thân của Lê Ngọc Trụ, cũng là một học giả
nổi tiếng. Ông có ba dòng máu trong người: Việt, Hoa, Miên, quê ở Sóc Trăng,
năm nay 79 tuổi, tóc bạc phơ, vẫn còn mạnh. Giỏi tiếng Pháp, chuyên khảo về đồ
cổ Trung Hoa, Việt Nam; về lịch sử miền Nam (cuốn Sài Gòn năm xưa của ông rất
có giá trị); về ca nhạc miền Nam, đặc biệt là những tuồng cải lương; gần đây mặc
dầu gần 80 tuổi mà vẫn cặm cụi mỗi ngày tám chín giờ tra cứu các sách để làm một
bộ Tự điển Tiếng Việt miền Nam. Ông đã lập được hai ba ngàn thẻ. Công việc rất
khó, và ông là người đủ tư cách để làm hơn cả vì biết nhiều miền, biết nhiều
tên Miên và Trung Hoa và nghĩa tiếng Việt trong Nam, lại có nhiều sách cổ. Có hồi
ông dạy Đại học Sài Gòn, Huế. Văn ông chịu ảnh hưởng nhiều của Trương Vĩnh Ký,
có giọng hồn nhiên, bình dân của người Nam, dùng nhiều tiếng cổ địa phương,
trái hẳn với Đông Hồ.
Biệt thự của ông ở Gia Định là một ngôi nhà cổ của tư nhân,
chứa rất nhiều đồ cổ; sách quí chứa đầy chín mười tủ, vậy mà hiện nay ông vẫn mỗi
tuần một hai lần xách ba toong từ Gia Định ngồi xe lam ra Sài Gòn, lại chợ sách
cũ ở đường Cá Hấp để mua những sách hiếm, dù giá rất cao. Ông đã xuất bản ba cuốn
sách dày về đồ cổ, viết cả ngàn trang hồi kí chưa in.
Ông rất quí thời giờ, nên có người tưởng lầm ông khó tính; thực
ra đối với bạn văn đứng đắn thì luôn luôn vui vẻ tiếp đãi, bỏ cả buỗi để cho coi
đồ cổ và giảng về thời đại, giá trị của mỗi món. Mỗi cuốn sách, mỗi món đồ cổ của
ông đều đánh số, ghi sổ và có một thẻ riêng. Tới lần nào cũng mê nghe ông kể hồi
kí hàng giờ. Sức ông còn mạnh, kí tính của ông còn tốt, ông chưa dùng tới một nửa
những hiểu biết của ông về miền Nam. Tôi mong ông sống được mươi năm nữa, ghi
chép thật nhiều cho đời sau.
Trước ngày Giải phóng, chúng tôi vì mỗi người theo một đường
riêng, nên ít gặp nhau. Từ 1976, ông thường ghé tôi mỗi khi ra Sài Gòn kiếm
sách cũ, cho nên càng ngày càng thân. Biết tôi thích loại nào, ông chịu khó đem
cho tôi đọc. Tôi quí ông, và lâu không gặp thì nhớ.
- Một học giả nữa, chuyên về sử miền Nam là giáo sư Lê Thọ
Xuân. Ông quê ở Bến Tre, sinh trong một gia đình nho học, nên thông cả chữ Pháp
và chữ Hán. Trước thế chiến, viết nhiều bài có giá trị khảo về sử. Trong cuộc
kháng Pháp, tài liệu mất hết, từ đó ông chán nản, không viết lách gì nữa. Tôi
quen ông từ khi ông coi nhà in Maurice, in sách cho nhà Phạm Văn Tươi. Ông rất
chú trọng đến chánh tả như các học giả chân chính. Ông mất cách đây hai hay ba
năm. Công trình cuối cùng của ông là hiệu đính truyện Lục Vân Tiên; học giả nào
cũng nhận tập đó có giá trị.
Bác sĩ Lê Văn Ngôn, em ruột ông, được ông chỉ bảo, hướng dẫn
nên chỉ trong vài năm thành một nhà văn có tiếng, chuyên phổ biến kiến thức y
khoa.
NGUYỄN VĂN HẦU
Nhỏ hơn tôi 7-8 tuổi, quê ở Cù Lao Giêng (Long Xuyên) ngang
Mĩ Luông, chữ Hán, chữ Pháp đều thông, theo đạo Hoà Hảo, nhưng không làm chính
trị, chỉ nghiên cứu kinh giảng của Thầy Tư, điều khiển tờ Hoa Sen của tín đồ
trong đạo, thường đi thuyết giáo ở các làng, quận miền Tây, được tín đồ tiếp
đón long trọng, do đó chính quyền Thiệu cũng trọng nể.
Tính tình điềm đạm, nhũn nhặn, siêng năng. Vừa dạy học, vừa
giúp việc đạo, vừa khảo về các di tích, danh nhân trong miền Long Xuyên - Châu
Đốc; bốn cuốn có giá trị nhất của ông là Đức Cố Quản (một vụ khởi nghĩa ở Long
Xuyên, Châu Đốc thời Pháp thuộc), Chí sĩ Nguyễn Quang Diêu (một nhà cách mạng ở
Cao Lãnh trong những năm giữa hai thế chiến), Thoại Ngọc Hầu, và Nửa tháng
trong miền Thất Sơn.
Ông đọc cuốn Đông Kinh nghĩa thục và cuốn Bảy ngày trong Đồng
Tháp Mười của tôi rồi làm quen với tôi, nhờ tôi đề tựa cho cuốn Nguyễn Quang
Diêu, cuốn này được giải nhì Văn chương toàn quốc môn biên khảo. Ông làm việc cẩn
thận, thu thập được nhiều tài liệu. Ông thường lại thăm tôi khi tôi về Long
Xuyên. Hiện nay ông bị bệnh, tê liệt, không dạy học, viết lách gì được.
PAUL SCHNEIDER (bút hiệu Xuân Phúc)
Người Pháp lai Việt, sinh trưởng ở Hà Nội, làm sở Kho bạc.
Tính tình tốt, giỏi tiếng Pháp và tiếng Việt. Tôi quen ông khi ở Long Xuyên lên
Sài Gòn. Sau ông rời Việt Nam, qua làm việc ở châu Phi, ở Madagascar, về hưu ở
Pháp, gần Nice.
Đã xuất bản hai tập thơ Pháp: A deux voix, La mer bouddhique,
dịch chung với Nghiêm Xuân Việt Truyện Kiều ra tiếng Pháp (Unesco in), viết cuốn
Anthologie de la poésie vietnamienne. Từ khi về hưu ông học thêm chữ Hán,
nghiên cứu tiếng Nôm, thường thư từ với tôi. Đã có ba tác phẩm về chữ Nôm: Nguyễn
Bỉnh Khiêm do Société des Etudes Indochinoises (Sàigòn) in trước 1975; Les
idéogrammes vietnamiens (Đại học Nice xuất bản - 1979) và Nguyễn Trải in ở
Pháp. Ông dạy (chữ Nôm hay tiếng Việt?) ở Đại học Nice.
NGUYỄN ĐĂNG LIÊN
Tôi đã cảm động khi một ông già lại thăm tôi vào một buỗi chiều,
tự giới thiệu là Nguyễn Đăng Liên, gần tám chục tuổi, xuất thân từ trường Đại học
Dược khoa Hà Nội, khoá đầu hay thứ nhì, về hưu từ lâu, chuyên khảo cứu chữ Hán,
lùn, to xương, còn khoẻ mạnh, sáng suốt. Ông đưa cho tôi một tập khoảng 500
trang đánh máy, một phần bộ Chữ Nho tập giải ông đã viết xong, nhờ tôi đọc, cho
ý kiến và giới thiệu cho một nhà xuất bản.
Tôi lật qua, trả lời ngay ông rằng trong tập có rất nhiều chữ
cổ, nhiều dấu, không nhà in nào trong nước có sẵn, phải khắc cây tốn kém lắm; vả
lại in ra thì không chắc bán được vài chục bộ, tôi e ngay Nha Văn hoá cũng
không dám in chứ đừng nói các nhà xuất bản tư nhân. Chỉ có cách đánh máy, viết
chữ Hán rồi quay ronéo lấy độ một trăm bản, mà như vậy cũng tốn lắm.
Nhưng tôi sẵn lòng đọc bản thảo. Tôi hẹn một ngày, ông trở lại,
tôi góp với ông vài ý về phương pháp nghiên cứu cùng cách trình bày, ông nhận
là đúng. Sau cùng tôi khuyên ông nên gởi dự thi Giải thưởng văn nghệ toàn quốc
năm 1971. Ông nghe lời, được giải Khuyến khích, và tính bỏ tiền ra in lấy; chưa
kịp in thì Sàigòn được giải phóng. Nghe nói hiện nay ông còn sống.
ĐÀM QUANG HẬU
Một vị nữa, ông Đàm Quang Hậu, anh bác sĩ Đàm Quang Thiện, lớn
tuổi hơn tôi, cũng nghiên cứu lâu năm về chữ Hán, soạn chung với một người bạn
bộ Hán tự cơ bản gồm hai quyển: quyển I: Văn tự học khái yếu, quyển II: Tự
nguyên. Ông có nhiều ý kiến mới về cách trình bày lại Tự điển Trung Hoa, về
sách học chữ Hán, quay ronéo được quyển I rồi ngưng, chắc vì tốn kém quá. Công
trình của ông Hậu thiết thực hơn của ông Liên, có giá trị hơn. Ông cũng đề nghị
cách hợp lí để sắp xếp chữ trong Tự điển Việt ngữ. Ông là một học giả chân
chính.
Trong nước chắc còn nhiều người kiên nhẫn, âm thầm nghiên cứu
về ngôn ngữ, văn tự chỉ vì sở thích chứ không vì danh lợi. Khi Nha Văn hoá lập
một Uỷ ban điển chế Văn tự, tôi góp ý với một người bạn trong ban nên tìm kiếm,
thu thập công trình của những vị đó, xem công trình nào có thể dùng được một phần,
công trình nào nên khuyến khích Đề nghị đó không ai nghe và bây giờ số bản thảo
giữ được, không bị đốt hoặc bị mối ăn, còn được bao nhiêu?
° °
°
CÁC BẠN TRONG NHÓM BÁCH KHOA
Ba bạn thân của tôi trong toà soạn Bách Khoa là Nguyễn Hữu
Ngư, nhiều tình cảm; Lê Ngộ Châu, tốt với bạn, có lương tri, siêng năng, đứng đắn;
và Võ Phiến, vừa có tài vừa có tư cách. Tôi đã nhắc nhiều tới ba bạn đó ở trên.
Tôi quí Võ Phiến nhất. Ông tên thật là Đoàn Thế Nhơn, quê ở
Bình Định, hồi trẻ được Đào Duy Anh khen có khiếu về văn. Gia đình ông chắc có
truyền thống văn hóa, một người em ông bút hiệu là Lê Vĩnh Hoà, theo kháng chiến,
viết truyện ngắn nhưng không sâu sắc bằng ông, chết trước năm 1975.
Ông hiền lành, dí dõm, lễ độ, thành thực, trọng tôi như anh.
Tình ông đối với tôi rất kín đáo. Trước ngày giải phóng độ mươi bữa, ông lại từ
biệt tôi, nhờ tôi giữ một số tác phẩm đã in của ông, và cho hay đã gởi các bản
thảo chưa in cho Nguyễn Mộng Giác, cùng quê ở Qui Nhơn cũng có tài viết truyện.
Khi chia tay tôi xúc động rơm rớm nước mắt. Võ Phiến bảo sẽ trở lại, nhưng sau
đó ông đi luôn. Nghe nói ở Mĩ ông viết một bài báo khuyên các bạn Việt kiều giữ
truyền thống Việt, lời tất cảm động.
ĐOÀN THÊM
Cũng viết nhiều cho tạp chí Bách Khoa. Ông là một công chức
siêng năng, liêm khiết, và thích làm văn hoá, có một hai tập thơ, vài tập khảo
cứu về hội hoạ, mĩ học, văn học, ba bốn tập sử biên niên từ 1964 đến 1970,
1971. Đọc nhiều, làm việc có phương pháp, lí luận minh bạch. Tránh những vấn đề
chính trị. Từ 1977 ông thường lại chơi tôi.
Sau khi bộ Văn hoá tuyên bố Giải thưởng tuyên dương sự nghiệp,
văn hóa nghệ thuật, ông bảo Quốc vụ khanh Mai Thọ Truyền: "Ông Nguyễn Hiến
Lê mới là người xứng đáng nhất".
Ông không biết rằng chính tôi từ chối, không chịu để cho bạn
giới thiệu "sự nghiệp" của tôi với ban tuyển trạch.
Ông thuộc một gia đình danh tiếng đất Bắc, con cụ Đoàn Triển,
quê làng Hữu Thanh Oai, huyện Hoàng Long (Hà Nội). Có vẻ khắc khổ, trị gia
nghiêm, giữ được truyền thống của nhà Nho, tự trọng, trung hậu.
TRẦN THÚC LINH
Quê ở Hưng Yên, cũng là một công chức cao cấp, lanh lợi, có
lí tưởng, nhiệt tâm, có nhiều sáng kiến, thích làm chính trị, soạn được vài tập
phổ thổng luật và một bộ Tự điển về luật. Rất sốt sắng giúp bạn.
° °
°
CÁC BẠN KHÁC
Hai bạn nữa tôi biết kha khá, và đều có cảm tình với tôi là
Châu Hải Kỳ và Dã Lan.
Tôi gặp Châu Hải Kỳ lần đầu vào năm 1973. Ông người bé nhỏ,
gân guốc, mắt sáng, hiền lành, thành thực, đa cảm, quê miền Trung (tôi không nhớ
là Quảng Nam hay Bình Định), đậu Tú tài Pháp, kém tôi khoảng mười tuổi, dạy văn
ở trường Trung học công giáo ở Nha Trang, tận tâm, được học trò kính mến, rất
thích văn chương, đọc nhiều sách, thỉnh thoảng đăng bài trên một số tạp chí, nhất
là tạp chí giáo dục. Ông tính chuyên về viết tiểu sử các nhà văn như Vi Huyền Đắc,
Quách Tấn, Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc Mới viết được một cuốn về Nguyễn Hữu Ngư,
bạn thân của ông, nhờ tôi đề tựa, chưa kiếm được nhà xuất bản. Ông viết tiếp cuốn
thứ nhì về tôi, mới xong bản thảo thì miền Nam thay đổi chế độ, thế là nguyện vọng
của ông đành tạm bỏ. Ông rất buồn.
Hiện nay ông làm ở Ty Giáo dục Phú Khánh, và dạy học ở Nha
Trang, để nuôi mấy đứa con.
Lần đó (năm 1973) ông từ Nha Trang vào phỏng vấn tôi để viết
về tôi. Tôi ngạc nhiên thấy ông đọc đủ các tác phẩm của tôi (non 100 cuốn) mà đọc
rất kĩ nên biết rõ về đời tôi còn hơn một số người thân của tôi nữa mặc dù chưa
gặp tôi lần nào.
Đầu năm 1975 viết xong tiểu sử của tôi, ông gởi cho tôi xem
có sai chỗ nào không và dặn tôi coi xong, đưa cho ông Lê Ngộ Châu, tạp chí Bách
Khoa. Lê Ngộ Châu đọc xong đưa cho Võ Phiến và Võ Phiến đã viết bài giới thiệu
"xổi" trên Bách Khoa số 426 ngày 2.4.75.
Võ Phiến đã khen ông viết kĩ, rất tường tận, từ thân thế đến
sự nghiệp của tôi lại có những nhận xét rất tinh tế, chẳng hạn về bút pháp của
tôi, về tài viết Tựa của tôi; và trong lịch sử văn học nước ta, từ trước hình
như chưa có bộ truyện kí nào về danh sĩ mà dày hơn.
Giá ông Châu Hải Kỳ viết xong trước độ sáu tháng thì có thể
in được rồi, mà ông không đến nỗi phải ôm hận. Làm nghề cầm bút cũng phải có số,
cần gặp thời.
Tập đó sau ông đánh máy, gởi cho tôi hai bản, năm 1980 tôi gởi
được một bản cho vợ con tôi ở Paris.
Tôi quen Dã Lan (tên thật Nguyễn Đức Dụ, quê ở Hải Dương) mới
từ mấy năm nay. Ông ở Bắc vô Nam đã lâu, trước hiệp định Genève, làm một vài
nghề rồi sau Quản thủ thư viện cho trường Đại học Kiến trúc Sàigon. Để hết thì
giờ vào việc nghiên cứu ngành Gia phả, đã soạn được một bộ dày khoảng 500
trang, quay ronéo vài trăm bản, bán trong nước và gởi tặng thư viện vài nước lớn:
Pháp, Mĩ, Nhật, được học giả ngoại quốc khen là công phu.
Từ 1975, ông suốt ngày đạp chiếc xe đạp cũ đi tìm tài liệu,
phỏng vấn các gia đình danh tiếng, nhất là gia đình văn nhân để viết gia phả,
lưu lại những tiểu sử đáng tin về danh nhân cho đời sau, đồng thời cũng để gián
tiếp khuyên thanh niên nhớ công tổ tiên, giữ truyền thống dân tộc.
Phòng viết của ông treo đầy "phả trạng" các gia
đình danh tiếng như họ Cao Xuân Dục, họ Trần Trọng Kim, Đông Hồ, Trương Vĩnh
Ký; trên bàn, cả trên sàn nữa, ngổn ngang sách báo.
Hôm đó ông đến tặng tôi một bản khảo về Gia phả bìa bọc gấm
và ngỏ ý lập Phả trạng cho gia đình tôi. Tôi cho ông Gia phả tôi đã viết, và
thêm ít tài liệu nữa về đời viết văn của tôi.
Từ đó lâu lâu ông ghé chơi tôi. Con người đó cũng lạ: chịu sống
nghèo, chỉ say mê gia phả, viết được Phả trạng cho gia đình nào, ông tốn rất
nhiều công phu, nhưng mùng lắm, mừng hơn chính con cháu gia đình đó nữa. Ông
kém tôi khoảng mười tuổi.
Ông Toan Ánh, quê ở Bắc Ninh, nhỏ hơn tôi vài tuổi, tôi quen
từ mười lăm năm nay, có một đam mê khác: ghi chép phong tục Việt Nam. Ông đi khắp
nơi từ Bắc vào Nam, đọc sách báo nào, thấy có tài liệu gì về phong tục cổ cũng
ghi lại, đã cho ra được trên chục cuốn, có cuốn dày trên 400 trang; hiện ông
còn non chục cuốn nữa đã đánh máy rồi, chưa in. Cần có người ghi chép thật nhiều
như ông, rồi sau sẽ có người đọc lại, làm một công trình tổng hợp.
Cuộc đảo chính hụt năm 1960, ông suýt bị cách chức vì hăng
hái hạ hình Ngô Đình Diệm trong sở sớm quá.
° °
°
Bình Nguyên Lộc quê ở Tân Uyên, trước cách mạng tháng tám,
làm sở kho bạc, viết rất nhiều truyện ngắn, một số nổi tiếng nhưng chuyện dài tầm
thường; về già lại khảo cứu về nguồn gốc dân tộc mình, ngữ nguyên một số tiếng
Việt, được hai bộ dày. Thật là một nhà văn cần cù. Muốn hiểu biết miền Nam thì
phải đọc Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam.
Ông bạn già Đỗ Bằng Đoàn khảo về điển lễ, ca trù Việt Nam,
đưa ra nhiều tài liệu quí; Giản Chi và tôi sốt sắng giới thiệu các độc giả mà rồi
Tết nào ông cũng cho chúng tôi một gói Vương trà rất ngon. Chỉ người cổ mới có
tình thanh nhã như vậy.
Ông Nguyễn Văn Xuân quê ở Quảng Nam, lần đầu tiên gặp ông tôi
thấy ông phảng phất có vài nét của cụ Phan Sào Nam. Ông viết truyện dài, truyện
ngắn (một truyện viết về nghệ thuật đúc cái phèng la của người Thượng, tôi rất
thích nhưng quên mất nhan đề; sách dời đi dời lại ba bốn lần, không biết còn
hay mất). Ông có tinh thần quốc gia, khảo về phong trào Duy Tân ở Trung, có một
tập truyện về các nhà Nho kháng Pháp.
Ông Phan Du tôi chưa được gặp, ở Huế, có vài truyện ngắn tôi
thích như Hai chậu lan tố tâm, sau viết biên khảo, gởi cho tôi cuốn Mộng kinh
sư, nặng lòng hoài cổ.
Ông Võ Hồng ở Nha Trang, vừa dạy học vừa truyện dài, đa cảm,
bút pháp bình dị, nhẹ nhàng, cảm động. Truyện ông dạt dào tình yêu thời cũ và
quê hương xứ sở.
Trước ngày giải phóng độ nửa tháng, hoạ sĩ kiêm thi sĩ Tạ Tị
cùng với Lê Ngộ Châu lại thăm tôi, vẽ cho tôi một bức chân dung trong năm phút
theo lối riêng của ông (để in trên Bách Khoa số 20.4.75) và bảo: "Đây là bức
chân dung cuối cùng tôi vẽ". Không ngờ lời đó đúng. Lần đó ông nhận xét về
tôi: "Khi nào anh nói, tôi mới thấy mắt anh bừng lên".
Mới đây Kinh Dương Dương (Nguyễn Tuấn Khanh) bị bắt làm tù
binh ở Kontum từ 1975, được thả, lại thăm tôi. Tôi mừng rằng cả thể chất và
tinh thần không sút, can đảm lập lại cuộc đời. Nhà văn trẻ đó kiêm hoạ sĩ, là
con của một bạn học của tôi ở trường Bưởi. Tôi còn giữ một bức hoạ một cảnh
lăng ở Huế của anh. Màu và nét đều buồn như truyện ngắn của anh.
° °
°
Nguyễn Đức Sơn - Trong khoảng 1960-70 ở Sài Gòn có bốn nhà
văn thuộc loại "hiện tượng của thời đại: Nguyễn Hữu Ngư, Bùi Giáng (làm
thơ khá hay) hơi khùng (Nguyễn thỉnh thoảng lên cơn, Bùi không), cả hai đều trạt
năm mươi tuổi; và Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn, đều trạt 35 tuổi, đều
"mục hạ vô nhân": Thiện chửi thiên hạ mà có vẻ trí thức; Sơn tục tỉu,
nhưng không ai ghét; Thiện viết về triết, nhai lại những ý chán chường khinh bạc
của Phương Tây; Sơn làm thơ, viết truyện ngắn. Họ đều là những kẻ bất mãn. Thiện
sau qua Pháp; Sơn thì sau ngày giải phóng, dắt vợ con lên Blao ở, khai thác một
trại của nhà Là Bối, trồng lúa, trà, khoai mì, kiếm măng tre, sống y như người
dân tộc, thỉnh thoảng về Sài Gòn, ăn bận lôi thôi, cũng đeo cái gùi trên lưng,
lại thăm tôi cho một gói trà hoặc một nải chuối, một trái bí rợ. Lúc này đương
đợi qua Pháp vì vợ là dân Pháp. Nguyễn Đức Sơn đã in cho tôi cuốn Những vấn đề
của thời đại. Tôi không lấy tác quyền.
Bốn người đó tôi thỉnh thoảng còn tiếp xúc. Chỉ có hai học giả:
Hồ Hữu Tường và Hà Việt Phương (tức Nguyễn Đức Quỳnh trong nhóm Hàn Thuyên trước
kia), là có bạn muốn cho tôi gặp mà mấy lần tôi đều từ chối. Tính tình, chủ
trương của họ đều khác tôi xa, biết nói chuyện gì với nhau? Hồ Hữu Tường phải
đi trại cải tạo, năm 1980 được về, tới nhà thì mất.
Còn nhiều bạn nữa, đa số chỉ là những người tôi gặp đôi ba lần,
nói với nhau dăm câu chuyện, mà tôi nhớ hơn những bạn trường Công Chánh, sống
chung với tôi ba năm trong một phòng học, một phòng ngủ.
° °
°
GIỚI BÁC SĨ
Một văn sĩ Pháp bảo có một sự tương thông tương cảm tự nhiên
và mạnh mẻ giữa nhà văn và y sĩ. Lời đó đúng.
Từ hồi trẻ tôi đã biết rằng nhiều y sĩ thích viết văn, người
thì bỏ nghề để chuyên viết, người thì vừa làm y sĩ vừa viết. Mãi đến khi tôi
hơi có danh một chút mới thấy y sĩ thường có cảm tình với nhà văn, dĩ nhiên tôi
không kể những y sĩ chỉ ham hốt bạc, không bao giờ đọc sách.
Tôi gặp một số bác sĩ niềm nở với tôi liền khi tôi xưng danh.
Người đầu tiên là bác sĩ Lê Văn Ngôn ở Chợ Lớn. Tôi nhờ ông
khám phổi cho, ông chiếu điện, soi rất kĩ, cuối cùng bảo không sao, sẽ sống được
tám chục tuổi.
Người thứ nhì là bác sĩ Huỳnh Kim Bửu ở đường Lê Thánh Tôn, gần
chợ Saigòn. Tôi nhờ ông trị bệnh loét bao tử, ông chỉ sách cho tôi đọc về bệnh
đó, và bây giờ sau hơn hai chục năm không gặp nhau mà ông còn hỏi thăm tôi.
Người thứ ba là bác sĩ Nguyễn Văn Tạo trị bệnh lao phổi cho
tôi. Ông trị rất kĩ và thường chuyện trò với tôi.
Người thứ tư là bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm trị bệnh da cho tôi,
rồi chúng tôi thành đôi bạn thân. Nhà ông ở gần chơ Trương Minh Giảng cách nhà
tôi khoảng năm trăm thước, ông đi làm ở viện Pasteur về thường ghé tôi chơi.
Ông viết nhiều bài báo về văn chương, xuất bản được ba bốn cuốn về y khoa, giáo
dục; tôi đề Tựa hai cuốn. Có hồi tôi đau nặng, cứ hai bữa ông lại thăm một lần.
Ông ham đọc sách, có gần đủ tác phẩm của A. Maurois.
Cuối tháng tư năm 1975, ông định ở lại, nhưng rồi vì tình con
và cháu, ông theo họ qua Paris, ở bên đó hai năm thì mất vì bệnh ung thư máu
(Leucémie). Bạn bè ai cũng tiếc.
Bác sĩ Trần Kim Bảng - cùng học với ông ở trường Bưởi rồi ở y
khoa - cũng thích thơ văn, in được vài tập thơ, như trên tôi đã nói, rất thích
cuốn Sống đẹp và nhân đọc cuốn đó mà tặng tôi một bài thơ. Ông hiện ở Paris,
thường thư từ với tôi.
Bác sĩ Nguyễn Hữu Vị, chuyên về tim, rất có hiếu, tính tình rất
dễ thương, ai gặp lần đầu cũng mến ông ngay. Ông tận tâm săn sóc cho vợ chồng
tôi, coi tôi như người anh.
Tôi thỉnh thoảng vẫn nhớ bác sĩ Trần Ngọc Ninh, một bực thầy
về giải phẩu, mà đồng thời là một học giả viết về Phật học, về ngữ pháp Việt.
Ông đã qua Mĩ. Nhiều người tiếc và trọng. Chúng tôi chỉ thân với nhau vài năm
trước ngày giải phóng.
Phải kể thêm hai bác sĩ trẻ: Đỗ Hồng Ngọc mà trong tập nầy
tôi đã nhắc tới vài lần, và Nguyễn Chấn Hùng. Cả hai đều đọc nhiều sách của tôi
và coi tôi như thầy học. Cả hai đều giúp tôi năm 1975 qua được một bệnh về thận.
Bác sĩ Hùng đã xin phép tôi đánh máy bộ Kinh Dịch của tôi làm 6 bản để tặng bạn
bè.
° °
°
ĐỘC GIẢ
Số thanh niên không học tôi mà coi tôi như thầy, thỉnh thoảng
viết thư cho tôi rất nhiều, tôi không thể giữ hết thư của họ được. Chỉ kể dưới
đây một trường hợp đặc biệt.
Hồi tôi mới ở Long Xuyên lên Sài Gòn, ở đường Huỳnh Tịnh Của,
một thanh niên xách một túi hột gà lại tặng tôi, nói là mới ở Cần Thơ lên, tên
Ngô Thành Long, làm thượng sĩ trong quân đội. Hoạt bát, thành thực, ít học
nhưng có khiếu về văn, nhờ giỏi tiếng Anh nên sau được giúp các tuỳ viên quân sự
tại các toà đại sứ Việt Nam ở Đài Bắc và Vọng Các. Năm nào cũng gởi quà về cho
tôi: trà, thuốc uống, hoa lan, tranh Trung Quốc, sách Anh. Năm 1979, cảnh nhà rất
bi đát, tôi giúp đỡ được một chút, không thấm vào đâu (năm 1982 cả gia đình qua
Úc).
Học trò cũ của tôi ở trường Thoại Ngọc Hầu đa số đều kính
tôi, nhưng thân với tôi chỉ có vài ba người, mà thân nhất là cô Nguyễn Thị Huệ
Hường, nhà ở xế cửa nhà tôi tại Long Xuyên. Có khiếu về văn chương nhưng không
viết gì cả; nhà có nếp, có tư cách, được nhiều bạn mến, có hồi làm hiệu trưởng
Trường Nữ Long Xuyên, coi vợ chồng tôi như cha mẹ, năm nào sinh nhật của nhà
tôi, viết thư thăm nếu nhà tôi ở xa; nhớ cả ngày giờ sinh của ông Nhạc và bà Nhạc
tôi nữa, tình thầy trò ngày xưa cũng không hơn. Vợ chồng con cái của cô đều đọc
nhiều sách của tôi.
Từ năm 1975 thanh niên xin gặp mặt tôi có phần nhiều hơn thời
trước. Tôi tiếc rằng không đủ sức khoẻ và thì giờ để tiếp hết được.
Lại cơ quan nào tôi cũng gặp một hai độc giả của tôi và ai
cũng hỏi tôi còn viết gì không.
Cảm động nhất là một lần vào tiệm hớt tóc ở đường Trần Quang
Diệu (Trương Tấn Bửu cũ) vào khoảng đầu năm 1980. Tôi thấy trong tiệm chỉ có một
người thợ đương hớt cho một ông khách, một ông nữa khoảng ngoài lục tuần có vẻ
một công chức hồi hưu ngồi đợi ở gần cửa. Tôi nói: "Thế này thì còn phải đợi
lâu". Ông khách ngồi đợi đó liền bảo: "Tôi nhường cụ hớt trước đấy".
Tôi đáp: "Tại sao cụ lại nhường cho tôi? Cụ cứ hớt trước đi chứ". Rồi
tôi quay đi, đi lanh quanh một lát, khi trở lại thì ông khách đó đã đi rồi; tôi
hỏi chủ tiệm, ông này đáp:
- Ông ấy nói cụ là nhà văn Nguyễn Hiến Lê, mà lại lớn tuổi
hơn, nên ông ấy nhường cụ, bảo chiều sẽ hớt, không gấp. Vậy là cụ là Nguyễn Hiến
Lê mà chúng cháu không biết. Chúng cháu đều đọc sách cụ.
Cả người thợ và người đương hớt cũng chào tôi, hỏi thăm tôi
còn viết gì không. Mà người khách đó là một cán bộ ở Bắc vào. Ba tháng sau trở
lại, chủ tiệm đã vượt biên.
Tôi bắt đầu có tiếng từ 1950, từ đó danh lên đều đều. Tôi vốn
ít giao du, vào khoảng 1970-75, một số văn sĩ có tiếng tăm tôi không hề gặp lần
nào như Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo cũng gởi tác phẩm tặng; hoạ sĩ Tạ Tị, Thái Tuấn,
nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Lê Thanh Thái lại nhà thăm, vẽ chân dung hoặc chụp
hình cho. Sau ngày giải phóng danh tôi lan ra tới Bắc.
Nhưng mẹ tôi đã mất từ 1940, không được thấy kết quả công lao
của người.
--------------------------------
1 Giống mai này gọi là Nam mai, thuộc loại mù u, đồn Cây Mai ở
Chợ Lớn có mấy gốc, nay không biết còn không. Bà Đông Hồ 8 năm trước cho tôi một
gốc nhỏ, trồng ở Long Xuyên nay đã cao non hai thước mà vẫn chưa có hoa).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét