PHẦN VI - GIAI ĐOẠN 1975 - 1981 CHƯƠNG XXX - CHẾ ĐỘ TẬP THỂ Ở
MIỀN NAM
Cảm Tình Của Tôi Với Kháng Chiến
Cho tới năm 1974 tôi đã được biết ba xã hội: xã hội nông nghiệp
của ông cha chúng ta, xã hội tư bản của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp và vài
nét xã hội tiêu thụ (Société de consommation) ở thời kỳ hậu kỹ nghệ
(post-industriel) của Mỹ; ba xã hội đó tôi đã phác qua vài nét trong các phần
trên.
Từ 1975 tôi lại được biết thêm một xã hội nữa mà người ta gọi
là xã hội Xã hội chủ nghĩa.
Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực
đân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mỹ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những
chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỷ luật của anh
em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.
Từ năm 1954 tôi đã được đọc nhiều bài Tố cộng của chính phủ
Ngô Đình Diệm; hơn nữa, tôi được nhiều bạn của tôi di cư vô Sài gòn kể cho tôi
nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những người
kháng chiến, có con ở trong kháng chiến, chỉ vì họ có 4-5 mẫu ruộng (chưa đầy
hai hecta) và bị liệt vào hạng điền chủ, tư sản bóc lột kẻ nghèo. Chính những bạn
tôi đó cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng ái quốc, đều là những người đứng đắn,
tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải bỏ cả mồ mả tồ tiên, nhà cửa, bà
con họ hàng vô đây với hai bàn tay trắng, sống chen chúc trong những khu lao động,
can đảm lập lại cuộc đời.
Tôi lại được đọc một số sách Pháp hoặc Nga, Anh... dịch ra tiếng
Pháp viết về đời sống ở Nga, Trung cộng như: J'ai Chosi la Liberté của V.A
Kravchenko (Self - 1948), Zigzags à Travers la Vie Soviétique của Raymond Henry
(Albin Michel - 1947), Un étudiant Africain en Chinecủa E.J. Hevi, người nước
Gana, Phi châu (Edition Internationales - 1965); vài cuốn nữa tôi quên tên kể
những vụ đại thanh trừng trong các năm 1935-1938 ở Nga, thời Staline; kể một vụ
án hoàn toàn do một chính quyền cộng sản (Hung gia lợi thì phải?) dựng lên từ đầu
đến cuối, bắt giam hàng chục người, tra tấn, buộc phải khai những điều họ không
hề làm, buộc họ tố cáo một đảng viên quan trọng mà đảng muốn bôi nhọ, thủ tiêu,
rốt cuộc chính nhân vật này cũng phải khai những điều mình không làm mà chịu tử
hình, hi vọng đảng sẽ giữ lời hứa mà "khoan hồng" với vợ con.
Năm 1968 nghe những tin tức và những hình ảnh về cuộc tàn sát
rùng rợn ở Huế trong biến cố Mậu Thân, tôi hoang mang, đau lòng cho đồng bào Huế
và lo lắng cho tương lai dân tộc.
Năm 1968 tôi lại được đọc trên báo Pháp những lời chỉ trích
chính phủ Nga của hai nhân vật Nga nổi danh khắp thế giới: nhà bác học Sakharov,
"cha sinh ra bom H" của Nga, và nhà văn Soljenitsyne, tác giả những
cuốn Pavillon des Cancéreux, Premier Cercle, được giải Nobel năm 1970,
L'Archipel du Goulag...
Ấy là chưa kể tác phẩm của những văn hào Pháp André Gide, Anh
Bertrand Russell... mới đầu có cảm tình với Nga rồi sau chê; của những nhà văn
như Koestler, Georghiu, Djilas... mới đầu đã tận tâm hoạt động trong đảng, lãnh
những trách nhiệm quan trọng, mà sau phải bỏ đảng, trốn ra nước ngoài, vì chính
sách tàn bạo hoặc đường lối sai lầm của đảng.
Đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản Nga,
Trung hoa, Đông âu như vậy, tôi tuy ghét, tởm Staline, Mao Trạch Đông... nhưng
vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản; nhất là cộng sản Bắc
Việt dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của Hồ chủ tịch mà tám chín phần mười
người Việt kính mến, khắp thế giới phục thì không thề nào tàn nhẫn như Nga,
Trung hoa được, đảng có lỗi lầm thì sửa sai ngay. Đó là tâm lý chung của đa số
trí thức Sài gòn, chứ chẳng của riêng tôi.
Hơn nữa, chúng tôi còn phục Bắc Việt là trong cuộc kháng chiến
lâu dài, gay go chống Pháp, chống Mỹ mà vẫn kiến thiết về văn hóa, khảo về Nguyễn
Du, thơ đời Lý, đời Trần, soạn tự điển, khai quật các di tích vùng đền Hùng,
sáng tác về ca, nhạc... Chúng tôi nhờ các bạn ở Pháp mua rồi gởi lén về cho
sách báo Bắc, truyền tay nhau coi những đồ quốc cấm đó; lại sang một băng nhạc
có những bài Bắc Việt trình diễn ở Paris (năm nào tôi quên rồi), say mê nghe những
bài Ai đưa con sáo sang sông (Ái Liên ca), Quảng bình quê tôi, Làng tôi (hợp ca
tám giọng nữ và đàn tranh)... mà khen anh chị em ngoài đó có tinh thần yêu nước
cao.
Khi hội nghị Paris kết thúc năm 1973, chúng tôi mừng rằng chiến
tranh sắp chấm dứt sau non ba chục năm dai dẳng, khốc liệt, toàn dân sẽ nắm tay
nhau kiến thiết quốc gia. Tôi không được đọc toàn văn Hiệp ước đó, chỉ do báo
chí mà biết đại khái rằng Bắc Việt, Mĩ, Mặt trận giải phóng và Chính phủ dân chủ
miền Nam thỏa thuận với nhau sẽ có ba thành phần ở miền Nam: người của Mặt trận,
người của Chính phủ miền Nam, và một số người ở trong nước và ngoài nước, không
theo phe nào (tức thành phần thứ ba) ở giữa dung hòa hai thành phần trên.
Tôi đoán công việc đó khó khăn nhưng có thể thực hiện được nếu
những người trong sạch, có tư cách, nhiệt tâm ở miền Nam và ở ngoại quốc về chịu
ra đảm đương việc nước, và nếu Mặt trận vẫn tỏ ra vẻ ôn hòa như họ thường tuyên
bố. Như vậy, sau bốn năm năm, miền Nam ổn định rồi, có thể thống nhất quốc gia
được, Bắc Nam dung hòa nhau, Nam hồng thêm lên một chút, để cùng nhau kiến thiết
mà tạo hạnh phúc cho dân. Riêng tôi, tôi sẵn sàng bỏ một ít tự do đi, sống
thanh bạch hơn nữa, miễn là hết thấy cái nạn tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè
phỡn, bóc lột và thấy con người có tư cách hơn. Tôi vẫn thường nói với nhà tôi:
cộng sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó
° °
°
Ngày 30-4-75 - Việt Nam Thống Nhất
Nhưng hiệp định Paris vừa mới kí xong - tất nhiên có chữ kí của
Nga, Trung hoa và một số nước khác như Pháp, Anh... - hai bên trao đổi tù binh
với nhau xong, Mĩ rút hết quân về rồi thì chiến tranh lại tái diễn. Thế là hiệp
định chưa ráo nét mực đã bị xé bỏ. Tôi không hiểu có một sự thỏa thuận ngầm nào
giữa các cường quốc nắm vận mạng của Việt nam không, có những uẩn khúc, những
bí mật nào không. Theo luật quốc tế, phải 50 năm sau, những bí mật đó mới được
công bố, lúc đó những kẻ chịu trách nhiệm chết hết rồi.
Một bên (Bắc) mới thắng được Mĩ về ngoại giao, rất phấn khởi,
khí thế đương hăng; một bên (Nam) bị Mĩ chẳng nghĩ gì đến liêm sỉ, nhẫn tâm bỏ
rơi, vừa uất ức vừa thất vọng, thì phần thắng về ai, điều đó rất dể hiểu. Quân
Bắc tiến tới đâu, dân chúng một phần sợ những vụ chém giết, chôn sống như ở Huế
tết Mậu Thân, dắt díu, bồng bế nhau bỏ chạy; một phần ghét Mĩ, ghét chính phủ
Thiệu, theo quân đội giải phóng, cho nên cuộc tiến quân của Bắc dễ như chẻ tre,
chỉ trong ít tháng chiếm trọn miền cao nguyên và miền Trung Việt, gần tới Biên
hòa. Tổng thống Dương văn Minh biết chống cũng vô ích, xin hai bên ngừng chiến
để đỡ chết dân và chính quyền miền Nam chờ đợi quân đội miền Bắc vào Sài gòn để
giao lại quyền hành, nói tóm lại là xin đầu hàng vô điều kiện; và ngay 12 giờ
trưa ngày 30-4 tướng Trần văn Trà của Mặt trận ngồi xe thiết giáp tiến vào dinh
Độc lập. Sự thắng lợi đó quả là vẻ vang cho miền Bắc, nhưng xét kĩ thì cũng như
sự thắng lợi của quân đội Mao Trạch Đông năm 1949 (cũng chỉ trong có mấy tháng
họ tiến từ Nam kinh tới biên giới Bắc Việt); và cũng như sự thắng lợi của Khmer
đỏ (ngày 17-4) khiến Lon Nol phải bỏ nước để thoát thân như Nguyễn văn Thiệu, Đại
sứ Mĩ phải nhục nhã cuốn cờ bỏ Nam vang mà về nước, và Khmer đỏ vào Nam vang 13
ngày trước cộng sản Bắc Việt vào Sài gòn.
Từ ngày 20-4-75 Sài gòn rất xôn xao. Một ông bạn thân của tôi
65 tuổi, ở gần nhà tôi, đương đau mà gia đình cũng "bốc" lên phi cơ để
tị nạn, mới tới Manille thì chết, phải chôn ở đó. Một cô em ruột nhà tôi, cô Trịnh
thị Mộng Đơn cũng dắt con lên phi cơ qua với chồng bên Mĩ.
Rồi chính cô em út của tôi, Nguyễn thị Mùi, gần 60 tuổi, cũng
theo gia đmh bên chồng qua Mĩ; vợ chồng tôi giữ lại ở với chúng tôi, cô không
chịu. Trong số ba người em, tôi mến cô nhất, mà cô cũng quí tôi. Cô làm dâu họ
Tô ở Hà nội, có ba người con đều vào hạng học giỏi. Con gái lớn, Tô Lệ Hằng đậu
tiến sĩ vật lý, tính tình hợp với tôi, hiện ở Pháp, giúp đỡ tôi được nhiều việc,
vợ chồng tôi coi ba cháu đó như con. Cô đi rồi, ở Sài gòn tôi không còn ai ruột
thịt cả.
Mấy ngày hạ tuần tháng 4 dương lịch đó tôi vẫn nghĩ tình hình
không có gì bi đát lắm đến nỗi phải di cư. Quân Bắc có tiến vào Sài gòn thì Nam
Bắc cũng thương thuyết với nhau - trước Bắc chỉ đòi Mĩ rút đi, Thiệu rút đi,
thì bây giờ họ rút cả rồi, còn muốn gì nữa? - mà hiệp định Paris còn đó, Bắc phải
thi hành chứ. Tôi ngây thơ quá.
Mười một giờ sáng ngày 30-4, ông láng giềng ở phía trong nhà
tôi cùng với con lái một chiếc Vespa hớt hơ hớt hải di cư, để lại nhà cửa cho
bà cụ thân sinh 77 tuổi và một chị bếp.
Mười hai giờ tôi bắt đài phát thanh, được tin tướng Trần văn
Trà vào dinh Độc lập, Đại tướng Dương văn Minh với vài nhân viên trong nội các
ra tiếp, bảo:
- Chúng tôi chờ các ông tới để bàn giao.
Trần văn Trà đáp:
- Các ông còn gì trong tay nữa mà bàn giao?
Tin đó làm cho tôi rất buồn: thế là hiệp định Paris đã bị xé
bỏ, không còn chuyện ba thành phần trong chính phủ miền Nam nữa, mà chỉ còn có
Mặt trận giải phóng, tức cộng sản.
Chiều 30-4 tôi ra đầu ngõ thấy nhiều chiếc Honda cắm cờ đỏ
sao vàng vụt qua vụt lại, người ngồi trên xe toàn là thanh niên hớn hở, mỉm cười
với dân chúng hai bên đường. Sau này người ta gọi họ là "chiến sĩ
30".
Chiều hôm sau, 1-5, tôi mới lại chợ Trương Minh Giảng. Nhà nào
cũng phấp phới cờ đỏ sao vàng, người qua lại tấp nập, hơi có vẻ tưng bừng,
nhưng cũng có nhiều bộ mặt đăm chiêu. Chi nhánh ngân hàng Việt nam thương tín ở
gần chợ đóng cửa im ỉm. Chợ về chiều đã vắng. Tôi lại nhà bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm.
Cửa sắt đóng kín. Một chị giúp việc cho hay cả gia đình bạn tôi đã di cư tối
hôm 28-4 vào giờ chót; vì quyết định trễ cho nên không kịp báo cho tôi biết trước.
Tôi sửng sốt: "Mấy hôm trước, bác sĩ còn quyết tâm ở lại kia mà!" Chị
giúp việc bảo: "ông bà tôi vì tình con gái, chàng rể và mấy cháu ngoại mà
phải đi, nhưng định 5-6 tháng sẽ trở về, cho nên đồ đạc trong nhà còn để lại hết."
Nhưng anh bạn tôi không bao giờ trở về nữa, hai năm sau chết ở Paris vì bệnh
căng xe máu (leucémie).
Tôi lủi thủi về nhà bảo nhà tôi (bà họ Nguyễn): "Người
thân đi hết rồi, không còn ai nữa, buồn quá".
Khoảng 25-4 phát hành cuốn sách thứ 100 của tôi, nhan đề là
Mười Câu Chuyện Văn Chương. Tôi đợi đường hàng không Sài gòn - Paris tái lập để
gởi thư và một bản cuốn đó cho vợ con tôi mắc kẹt ở Paris. Tôi không nhớ mấy
tháng sau mới nhận được thư của họ, nhận được tôi hồi âm liền; còn cuốn Mười
Câu Chuyện Văn Chương thì non hai năm sau chính phủ mới cho phép gởi qua.
Tôi phục quân đội giải phóng rất có kỉ luật: vào Sài gòn mà
không gây một vụ đổ máu (trước đó ai cũng ngại có một cuộc "tắm máu"
như Huế năm 1968), một vụ cướp bóc nào; còn giúp đỡ dân chúng nữa. Tôi lại tràn
trề hi vọng khi chủ tịch Mặt trận giải phóng, luật sư Nguyễn Hữu Thọ, tuyên bố
miền Nam sẽ theo chính thể đân chủ cộng hòa, sẽ trung lập, giao thiệp vđi Tây
phương; về kinh tế sẽ có 5 thành phần từ quốc doanh đến công tư hợp doanh, tư
doanh v.v... Như vậy thì rất hợp với sở nguyện của mọi người, quá sở nguyện của
giới trí thức nữa.
Nhưng chỉ được non một năm rồi người ta rục rịch thực hiện sự
thống nhất Bắc, Nam và cuối năm 1976 thì không còn miền Nam nữa, từ Lạng sơn đến
Cà mau là một nước theo chủ nghĩa xã hội như Nga, tiến bộ hơn cả Trung hoa,
Đông Đức nữa vì hai nước này vẫn còn là dân chủ cộng hòa.
Từ năm 1975 đến nay, hai vợ chồng tôi ở lại Sài gòn (lâu lâu
nhà tôi mới về Long xuyên ít bữa), nương tựa lẫn nhau để làm trọn bổn phận công
dân, thích ứng với thời mới, tìm hiểu chế độ mới.
° °
°
Chế Độ Mới
Ai cũng biết chế độ cộng sản là chế độ độc đảng, chuyên chế của
giai cấp vô sản, theo nguyên tắc mà thực tế là của một nhóm "đảng viên cầm
quyền tự cho mình là đồng nhất với thợ thuyền, tiếng nói của mình là tiếng nói
của thợ thuyền, có bổn phận thay thợ thuyền để cai trị" (Garandy trong
L'alternative - Robert Laffont - 1972). Họ nắm hết cả ba quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp, nếu trong nước có đảng Dân chủ, đảng Xã hội thì những đảng này
cũng phải theo đường lối của đảng cộng sản, không thể độc lập, đối lập được.
Các nhà lãnh đạo cộng sản hầu hết xuất thân từ giai cấp
bourgeois, có học thức, có tư tưởng tiến bộ, muốn xóa bỏ những bất công trong
xã hội, diệt bọn tư bản bóc lột mà bênh vực giai cấp vô sản. Họ định đường lối,
kế hoạch, tổ chức xã hội; lựa trong đảng một số người để cho dân bầu (dân chỉ
được bầu những người đó thôi) vào Quốc hội và Quốc hội thảo hiến pháp theo đường
lối đảng đã ấn định trước; rồi lựa một số người cũng ở trong đảng giao cho nhiệm
vụ hành pháp và tư pháp. Bất kì việc lớn nhỏ gì cũng do đảng quyết định hết, cơ
quan nào dù lớn, quan trọng tới mấy cũng chỉ có việc thừa hành.
Điều đó ai cũng biết, nhưng muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải
sống dưới chế độ dăm năm. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi
và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình,
khen chê gì thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh, chịu
suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi.
Dưới đây tôi ghi vắn tắt những điều tôi thấy về chế độ cộng sản
ở miềnNam. Tôi không chép nhật kí, mà kí tính tôi mấy năm nay suy; tôi lại chỉ
sống ở Sài gòn, giao du ít, nên nhận xét của tôi chắc chắn là thiếu sót, có thể
sai nữa, sai nhiều nhất là năm, tháng. Tôỉ sẽ rán giữ tinh thần khách quan và
trung thực.
° °
°
HÀNH CHÁNH (Chỉ xét ở các cấp từ thành phố và tỉnh trở xuống).
Tổ chức
Một gia đình (cha mẹ, con cái, anh em, bà con...) ăn chung, ở
chung với nhau thì thành một hộ; nếu có một người tuy ở chung một nhà mà có
phòng riêng, ăn riêng thì cũng thành một hộ riêng; như vậy cùng một nhà có thể
có hai ba hộ. Mỗi hộ có một người chủ hộ.
Ba bốn chục nhà (thường gồm bốn năm chục hộ) họp lại thành một
tổ, có một tổ trưởng, một tổ phó do chính quyền chỉ định, hoặc do dân đề cử,
chính quyền chấp nhận; tổ trưởng có thể đề cử một người giúp việc giấy tờ cho.
Tổ trưởng, tổ phó, thư kí thường ở trong giới bình dân, có cảm tình với cách mạng,
hoặc ít nhất không có tiếng xấu, tự nguyện giúp việc không công, theo nguyên tắc
chẳng được hưởng quyền lợi gì cả.
Mới đầu gọi là tổ đoàn kết, sau đổi là tổ dân phố. Tổ trưởng
là gạch nối giữa chính quyền và nhân dân, loan báo chỉ thị của chính quyền xuống
nhân dân, đạo đạt nguyện vọng của nhân dân lên chính quyền, lo việc an ninh, vệ
sinh trong tổ, góp tiền của dân để mua nhu yếu phẩm (gạo, nước mắm, đường, hộp
quẹt, xà bông, dầu lửa, vải...) do chính quyền phân phối, quyên tiền cho các
công tác trong phường (đặt các loa phóng thanh, mở lớp mẫu giáo, mở nhà hộ
sinh...). Mỗi tuần, có khi vài ba ngày họp tổ một lần, mỗi hộ phải cử một người
tới họp tại một nhà hoặc một khu đất trống, một cái kho bỏ trống nào đó vào buổi
chiều hay tối.
Tổ trưởng thường ít học nên hay nói, nói dai, đáng lẽ 15 phút
xong thì kéo dài cả giờ, giờ rưỡi, mất thì giờ của dân; do đó ít người muốn đi
họp, miễn cưỡng tới dự để khỏi bị ghi tên vắng mặt mà công an để ý. Đại đa số tổ
trưởng không làm khó dân, có người còn bênh vực dân nữa vì cùng là "ngụy",
hàng xóm với nhau cả, như vậy dĩ nhiên không được công an phường ưa.
Thỉnh thoảng lại có buổi học tập chính trị do cán bộ, thường
là công an tới giảng cho 5-6 tổ gồm trên trăm học viên. Đề tài là công của cách
mạng, tội của Mĩ ngụy và bổn phận của công dân: kê khai lí lịch (rất kĩ, gồm 4
trang lớn), kê khai tài sản (nhà cửa cho thuê, hoặc hàng hóa còn dự trữ, máy
móc...), làm công tác lao động như đi đào kinh, làm nghĩa vụ quân sự, đi trại cải
tạo, đập tư bản, đốt sách phản động, đồi trụy...
Trình độ văn hóa của cán bộ chỉ vào hạng có tiểu học, bài học
rất chán, mà cũng có một số người vỗ tay khen, có khi chưa hết câu đã vổ tay,
khiến cho các học viên miễn cưỡng vỗ tay theo. Trò đó có vẻ lố bịch, sau dân
chúng phá bằng cách đáng lẽ chỉ vỗ tay một thì họ vỗ tay hai, kéo dài ra, bọn nịnh
kia thấy ngượng phải bỏ. Mới dầu dân còn đưa thắc mắc hoặc đề nghị xây dựng, thấy
không ích lợi gì, người ta chán, có thái độ tiêu cực: đàn ông thì làm thinh,
cán bộ hỏi ý kiến, họ một mực không đáp, đàn bà thì lấy len ra đan hoặc cho con
bú, thì thầm nói chuyện với nhau, nếu không thì gục xuống ngủ, mặc cán bộ nói
gì thì nói. Có những bài học kéo dài hai ba buổi học hoặc hai ba ngày.
Tôi còn nhớ một chị cán bộ khoảng ba chục tuổi, người mảnh khảnh,
dạy chính trị cho phụ nữ trẻ và trung niên trong khóm tôi. Phòng họp ở một ngôi
chùa cách phòng viết của tôi có năm thước, giọng chị ta lại lớn, nên tôi nghe
rõ. Lớp học có khoảng bảy tám chục phụ nữ trong 4-5 tổ. Mới sau ngày 30-4-75,
nên người ta còn siêng năng đi học.
Chị tới từ 7 giờ sáng và cho tới 11 giờ, suốt bốn giờ liền,
tôi chỉ nghe tiếng chị giảng thôi, không có một tiếng nào của học viên. Chị
thao thao bất tuyệt, không khi nào ngừng quá một phút, không hề hỏi học viên một
câu. Tôi lắng tai nghe, không hiểu chị nói gì. Lời cứ ở trong miệng chị tuôn
ra, không mạch lạc, không ý nghĩa gì. Đúng 11 giờ chị ngưng. Lớp học ồn ào ra về.
Một giờ chiều chị lại tới, lại thao thao như sáng, lại độc
thoại tới bốn giờ chiều. Tôi không biết trong lớp có người nào ngủ gục không. Mấy
ngày liền như vậy rồi không thấy chị trở lại, chắc đã đi dạy lớp khác. Tôi nghĩ
bụng: "Chị ta có hiểu chị ta nói gì không; bảo chị tóm tắt lại lời giảng
trong một buổi, chị ta làm nổi không?" Y như một cái máy hát và tôi nhớ lời
này của một bạn ở Hà nội vào: "Bọn cán bộ đó nói dài, nói dai, nói dở, gọi
là cán bộ ba d.".
Nhưng cái nạn học tập chính trị đó còn kém cái nạn nghe loa
phóng thanh suốt ngày ở ngay trước nhà mình mà một số dân phố phải chịu. Một
ông hàng xóm của tôi nhức óc vì loa, muốn hóa điên, và gọi văn minh xã hội chủ
nghĩa là văn minh loa.
Nhiều tổ họp thành một khóm (khóm ở thành phố cũng như ấp
trong làng) có một trưởng khóm và vài ba người giúp việc về thông tin, văn hóa,
giáo dục, kinh tế, tài chánh, giấy tờ. Những nhân viên đó đều do chính quyền
tuyển, đều là cán bộ nằm vùng hoặc có cha, anh làm cách mạng. Họ được ăn lương
36 hay 38 đồng ngân hàng một tháng, có nhà ở. Dân muốn xin giấy tờ gì - giấy đi
đường, giấy chứng nhận chỗ ở, giấy giới thiệu đi khám bệnh, bản sao khai
sanh... - phải có khóm trưởng cho ý kiến rồi tự mình đem lại phường, phường mới
kí giấy, đóng dấu cho phép. Khóm lo việc phân phối nhu yếu phẩm. Về sau khóm bị
bãi bỏ, dân giao thiệp thẳng với phường (tức như làng xã)
Phường có công sở lớn, nhiều phòng: hành chánh, y tế, giáo dục,
kinh tế, công an, có nơi có cả đài phát thanh nữa... Phường trưởng mới đầu do
chính quyền chỉ định, sau do dân trong phường bầu đại diện, đại diện lại bầu một
hội đồng nhân dân, chủ tịch hội đồng này là phường trưởng. Cách thức bầu cũng
như bầu quốc hội. Đảng lập một danh sách những người đảng cho phép ứng cử, giới
thiệu mỗi người vài hàng: tên tuổi, nghề nghiệp, đã có những công tác gì...
trên một bích báo. Còn 10 đại biểu nhân dân thì phường giới thiệu 11, 12, có
khi đúng 10 người thôi, và dân chỉ được bầu cho những người đó. Chỉ là vấn đề
hình thức. Dân đi bầu khắp mặt cho xong việc, không cần biết kết quả ra sao. ứng
cử viên chẳng cần ra mắt quốc dân.
Riêng tôi suốt năm năm không thấy mặt ông chủ tịch ủy ban
nhân dân phường một lần nào, hai lần xin gặp mặt thì cô thư kí bảo ông ấy đi vắng
cả hai. Sự thật phường trưởng rất ít quyền. Công an trưởng mới có quyền và thường
tới nhà dân, biết rõ từng nhà một, có khi từng người một nữa.
Trên phường là quận (như huyện ở các tỉnh). Quận có đủ các cơ
quan như một tỉnh: hành chánh, thông tin, giáo dục, công an, cảnh sát, tài
chánh, kinh tế, nội thương, y tế ngoại thương, vận tải, tòa án, thủy lợi, quân
sự, cả hồng thập tự nữa. Tôi không sao biết hết được, vì không bao giờ tới quận.
Trên quận là thành phố, cũng như trên huyện là tỉnh. Thành phố
Hồ Chí Minh là kinh đô của miền Nam, trực thuộc trung ương, theo nguyên tắc ở
trên tất cả các tỉnh, nhưng quyền hành không lớn hơn tỉnh bao nhiêu vì chính
sách địa phương tự trị.
Có thể nói mỗi tỉnh là một tiểu bang, theo đường lối chung của
quốc gia nhưng có đủ các cơ quan của một quốc gia, có tài chánh riêng, ngân
hàng riêng, chính sách thuế khóa riêng, chính sách kinh tế riêng, cơ quan xổ số
riêng (ở Nam Việt có tới 7 cơ quan xổ số), tự đào tạo lấy nhân viên cho tỉnh...
Mới đầu có lẽ tỉnh trưởng cũng do chính quyền đề cử (có thể người nào làm tỉnh ủy
miền nào trong thời kháng chiến thì sau ngày 30-4 làm tỉnh ủy tại miền đó); rồi
sau cũng do nhân dân trong tỉnh bầu lên theo cách thức đã kể trên.
Sau ngày 30-4-75, hai ba tỉnh cũ họp lại làm một, như tỉnh An
giang gồm tỉnh Long xuyên và tỉnh Châu đốc thời trước. Do đó quyền của tỉnh ủy
lớn lắm.
Huyện cũng gần như được tự trị ở trong tỉnh; huyện nào (mà quận
ở thành phố cũng vậy) cũng tranh nhau lập thật nhiều cơ quan, xây cất nhiều cơ
sở, cũng có đủ cơ quan như tỉnh, cả hội chữ thập đỏ (làng cũng vậy), có xưởng
chế tạo dược phẩm riêng, cạnh tranh với tỉnh, thành thử sức sản xuất kém, giá
bán cao, lợi ít. Như vậy là trở về chế độ tiểu công nghệ, bao giờ mới kĩ nghệ
hóa được? Thậm chí một trường học cũng là một cơ quan tự trị, có dư giáo sư thì
để họ ngồi không chứ không cho trường khác mượn.
Sở nào cũng rất nhiều nhân viên mà công việc thì ít, vì giám
đốc sở nào cũng đưa người thân hay người quen vào làm. Người ta gởi gắm lẫn
nhau.
Một cán bộ cao cấp chủ nhiệm hay phó chủ nhiệm một tờ báo nọ
có lần bảo tôi, tờ báo của ông ta có non một trăm nhân viên (trước ngày 30-4-75
một tờ báo như vậy chỉ có vài chục nhân viên mà lại nhiều trang, nhiều bài
hơn), dư người rồi; vậy mà sáu tháng sau khi ông ta giao lại tòa soạn cho một
cán bộ khác, thì số nhân viên đã tăng lên tới 170; có những "kí giả"
tới tòa soạn mà chẳng có việc gì làm, nói chuyện láo một lúc, sửa một cột ấn cảo
rồi đi dạo phố hoặc về nhà, tự thẹn mang tiếng kí giả mà cả năm không hề viết một
hàng chữ cho tờ báo.
Công sở nào cũng có tình trạng như vậy, nhân viên đông gấp 5
số cần thiết và ngân sách chỉ đủ trả lương nhân viên, không còn làm được việc
gì khác. Lại có những công sở như Cơ sở tiết kiệm, tiệm sách, khi mới thành lập,
có chút công việc để làm, vài năm sau không có việc gì cả (không có người gởi
tiền tiết kiệm, không có sách để bán) mà vẫn không đóng cửa, vẫn giữ đủ nhân
viên. Nếu tính cả những nhân viên làm không công cho chính phủ như các tổ trưởng,
tổ phó thì có lẽ số nhân viên năm 1980 gấp mười lần nhân viên năm 1974. Chúng
ta cứ thử tính: từ hai năm nay, mỗi tồ đoàn kết thời 1975 tách ra làm hai, mang
tên là tổ dân phố, mỗi tổ gồm hai tổ phó: tổ phó an ninh và tổ phó đời sống, chứ
không phải một như trước; như vậy 40-50 hộ trước kia chỉ cần một tồ trưởng, một
tổ phó, nay cần hai tổ trưởng, bốn tổ phó, số nhân viên không lương tăng lên gấp
ba. Khắp miền Nam, số nhân viên không lương đó được mấy chục vạn, ai mà biết được?
Nhân viên càng nhiều, công việc lại càng bê bối. Vì cái nạn
bè phái tranh giành nhau, dẵm chân lên nhau, không ai chịu trách nhiệm cả, ai
cũng đùn công việc cho người khác.
Cuối năm 1979, tôi làm đơn xin ủy ban nhân dân phường tôi ở
cho phép tôi chở về nhà tôi ở thị xã Long xuyên một số đồ đạc (ba tủ sách, một
tủ lạnh, vài cái ghế...) và một số sách báo Việt, Pháp, Anh, Hoa đề tôi về Long
xuyên nghỉ ngơi, dưỡng bệnh. Việc tầm thường như vậy, thời trước chẳng phải xin
phép xin tắc gì cả, mà cô thư kí phường (quen mặt tôi chứ) không dám quyết định,
đẩy qua công an; thầy thư kí công an cũng không dám quyết định, đẩy qua phường;
họ thảo luận với nhau ra sao tôi không biết, kiếm lẽ này lẽ khác để không cho
phép, bắt tôi đi đi về về tất cả tám lần, sau cùng tôi phản kháng dữ, họ mới chịu
kí giấy.
° °
°
Tinh thần nhân viên
Mùng ba tết, hết nghỉ, theo lệnh áp dụng trong toàn quốc các
công sở phải làm việc mà ở Long xuyên (năm 1980) mùng 4 tôi lại Bưu điện mua cò
gởi thư qua Pháp không được; một ông bạn tôi mùng năm rút tliền tiết kiệm cũng
không được, khoảng mùng 10 các công sở mới đủ nhân viên.
Đa số công sở rất dơ dáy, lộn xộn, nhân viên nấu ăn ngay
trong phòng giấy. Vào nhiều công sở ta có cảm tưởng vào những nhà việc ở thôn
quê Nam Việt nửa thế kỉ trước: có 3-4 bàn giấy nhưng chỉ có hai nhân viên ngồi
nói chuyện phiếm bên một bình trà, mấy cái chén, chỉ khác là có thêm một bình
điếu thuốc lào. Nhân viên tới giờ nào thì tới, có người bận việc ở trong bếp
phía sau, có người đi mua nhu yếu phẩm; và nếu đương giờ làm việc mà người nhà
tới cho hay ở nhà heo đẻ thì họ vội vàng bỏ hết công việc sở, về nhà đỡ đẻ cho
heo. Vì hầu hết họ phải nuôi heo để có thêm tiền tiêu, hoặc mua một chiếc xe đạp,
đóng thêm bàn ghế, may sắm cho vợ con...
Một em học lớp 2 một trường cấp 1 nọ ở Sài gòn phàn nàn nền gạch
lớp học bê bết cứt gà (vì trường nuôi gà), có em ỉa đùn trong lớp nữa, hôi thối
quá.
Hình như người ta không có một kế hoạch, chương trình gì cả,
ra lệnh rồi phản lệnh liền liền mà tới giờ chót mới thông báo cho nhân viên
hay; máy móc mua về đủ rồi mà vì lẽ này lẽ khác, không dùng tới, để cho nó sét.
Rồi còn cái tệ dưới không tuân lệnh trên, một phần do tinh thần
bè phái, một phần do chính sách địa phương tự trị. Công an một ấp hay xã nọ bắt
giam một người dân; gia đình người này khiếu nại với ban thanh tra tỉnh. Ban
thanh tra ra lệnh thả vì bắt giam trái phép, công an ấp hay xã không thèm nghe,
bảo: "Tỉnh mà làm sao biết được việc trong xã, can thiệp như vậy là bậy".
Năm 1979, trung ương ra lệnh không được cưỡng ép nông dân làm
ruộng tập thể, ai đã vào hợp tác xã nông nghiệp rồi, muốn xin ra cũng được. Lệnh
đó được phổ biến trên đài truyền thanh, truyền hình; nhưng cán bộ một làng nọ ở
Sóc trăng không thi hành, hỏi tại sao, đáp: "Tôi được lệnh của huyện phải
đạt chỉ tiêu huyện đã ấn định trong việc bắt nông dân vào hợp tác xă nông nghiệp,
nếu tôi nghe theo đài hay báo chí, chỉ tiêu không đạt được thì ai chịu trách
nhiệm cho tôi?"
Một nhân viên còn thách thức: "Trung ương ra lệnh mà địa
phương không thi hành thì có sao không?" Có kẻ bảo: "Tôi không biết
Phạm văn Đồng là ai", rồi mỉm cười ngó chung quanh, hỏi các bạn:
"Trong xã mình có ai tên Phạm văn Đồng không?"
Không phải là thời thập nhị sứ quân nữa mà là thời thập nhị
thiên sử quân. Nghị quyết của đảng dù có rành mạch, hợp tình hợp lí, nhưng xuống
đến cấp huyện, cấp xã thì thay đổi hẳn, đến nối dân chúng chẳng cần biết đường
lối của chính phủ, chỉ cần biết lệnh của xã ấp thôi. Đó là cái nạn cán nặng hơn
gáo.
Tỉnh huyện lập ra nhiều cơ quan quá thì phải xây cất thêm nhiều,
tịch thu nhà cửa đất đai của dân. Theo hiến pháp, tư sản được tôn trọng. Chỉ bọn
tư bản bóc lột, một số ngụy quân ngụy quyền có tội nặng và những người vượt
biên "chui" (lén) mới bị tịch thu nhà cửa. Nhưng một số cán bộ nhỏ muốn
dâng công hoặc vì tư thù, tư lợi, tịch thu bừa bãi nhà cửa, đồ đạc của dân.
Chính nhà tôi ở Long xuyên là một gia đình liệt sĩ mà cũng bị chúng hăm tịch
thu một căn 36 thước vuông chúng tôi cất ở giữa khu vườn làm chỗ nghỉ ngơi.
Chúng bảo căn đó không ai ở, cơ quan này muốn mượn, cơ quan khác muốn mượn.
Cháu tôi, chủ hộ, người coi nhà, đáp rằng: vợ chồng tôi ở Sài gòn, vài ba tháng
về Long xuyên một lần, về thì ở căn nhà đó, mà căn đó chứa đầy đồ đạc, tủ sách,
bàn viết của tôi rồi, không thể cho cơ quan mượn được. Chúng làm thinh. Sau
cùng chúng loan tin chính phủ quản lí các tịnh xá (!) mà căn đó có bàn thờ Phật
là một tịnh xá (!) Nhà tôi bất đắc dĩ phải kiếm thủ truởng của chúng, vạch những
hành động đó của chúng, chúng mới thôi.
Còn các gia đình có mặc cảm tội lỗi thì đành chịu ức hiếp:
đương đêm quân đội tới bắt dọn đồ đạc ra đường để chúng chiếm nhà. Tệ đó gây
bao phẫn uất trong đân chúng, các ông lớn ở trung ương có biết cho không?
Một thời thị xã Long xuyên xôn xao và tỉnh ủy (hay thị xã ủy)
ra lệnh bắt mấy trăm gia đình ở trong những cư xá cất từ thời Ngô Đình Diệm
chung quanh dinh hành chánh tỉnh phải dời đi chỗ khác để nhà cửa lại cho cán bộ
cách mạng ở; mà không được bồi thường gì cả, mặc dầu họ làm chủ căn nhà của họ
từ mấy chục năm rồi (trả hết tiền xây cất rồi). Vài ba người nhát gan hoặc muốn
lập công với cách mạng, dời đi liền, tặng căn mình ở cho cách mạng. Còn thì hết
thảy đều bất bình, họp nhau làm đơn khiếu nại; chính quyền không chấp nhận đơn
khiếu nại chung, bắt mỗi người phải làm đơn riêng, rồi lâu lâu lại thúc, dọa dẫm.
Họ vẫn ỳ ra, lấy lẽ họ là nhân viên, làm việc trong các cơ quan của tỉnh, thị
xã, tại sao lại không được ở như các nhân viên ở Bắc vào, ở bưng về. Một người
rất bướng, kiếm bản hiến pháp mở ra ở trang nói về quyền tư sản, đặt trên bàn,
bên cạnh con dao găm. Hễ cán bộ vào đuổi họ đi thì họ chỉ hiến pháp cho coi và
bảo sẵn sàng đổ máu nếu bị ức hiếp. Cán bộ ra về, đem dây kẽm gai lại vây nhà,
bít lối ra, họ cắt dây kẻm gai chui ra; cán bộ đem xe cam nhông lại bít cửa, họ
leo lên xe, vượt ra, cán bộ chịu thua.
Sau có nhiều người lên Sài gòn gởi đơn khiếu nại thẳng ra Hà
nội và hai năm sau vụ đó mới êm.
Nếu chính quyền tỉnh thành công trong vụ đó thì sẽ tiến thêm
một bước nữa, bứng hết cả dân chúng trên đường Gia long (nay là đường 26 tháng
3) dài năm trăm thước, con đường sạch sẽ nhất, nhà cửa có vườn rộng, khang
trang nhất thị xã để làm khu riêng cho cán bộ ở. Như vậy là chính quyền coi dân
miền Nam này coi đồng bào của họ như bọn da trắng coi dân da đen, không cho ở
chung, áp dụng chính sách apartheid (chia cách) của Nam phi. Như vậy mà muốn
đoàn kết thì khác gì leo cây bắt cá. Dân chúng chua xót nghĩ lại thời còn kháng
chiến, mình chia cơm xẻ áo, không ngại nguy hiểm, hết lòng giúp đỡ, giấu họ mà
bây giờ kháng chiến thành công, họ coi mình là kẻ thù.
Tôi không kể những cái bê bối trong công sở: đánh mất hồ sơ,
thụt két, ăn cắp của công, kho vật liệu không có sổ sách, cứ ít tháng lại thấy
mất đồ mà không tìm ra được thủ phạm, v.v..., vì nếu kể thì dài quá.
Thế giới tư bản chê các nước cộng sản quản lí rất kém và bị bệnh
thư lại (bureaucratie) rất nặng. Trước năm 1975, một kí giả Pháp - tôi không nhớ
trên báo nào - bảo chế độ cộng sản sẽ chết vì bệnh thư lại. Sau ngày 30-4-75,
tôi đem những lời đó hỏi bốn nhà trí thức Bắc: một học giả già, một nhà báo
già, một kĩ sư và một giáo sư ở Nga về, khoảng 40 tuổi, họ đều nhận những lời
chê của phương Tây đó đúng. Một người ngạc nhiên rằng từ 1950 tôi đã viết cuốn
Tổ chức công việc theo khoa học, mà một phần tư thế kỉ sau, Bắc vẫn chưa có cuốn
nào như vậy. Một người nữa còn bảo bệnh quan liêu ngoài đó trầm trọng hơn thời
Pháp thuộc nhiều.
Cán bộ cao cấp và trung cấp còn biết những sở đoản của chế độ,
lẽ nào các nhà lãnh đạo và đảng không biết. Tôi cho rằng người ta biết đấy,
nhưng đó là bệnh cố hữu (inhérent) của chế độ, không thề chữa được, trừ phi có
một cuộc thay đổi lớn lao mà không ai dám nghĩ tới.
Nhưng thế nào cũng tới lúc người ta phải nghĩ tới. Hiện nay
tình trạng các công sở đã bi đát quá rồi. Lương công nhân mới vào làm chỉ được
38 đồng một tháng (1980), lương một kĩ sư, một bác sĩ mới ra trường được trên
50 đồng. Nhu yếu phẩm năm 1975 còn được nhiều thứ: gạo, đường, sữa, dầu lửa, xà
bông, thuốc đánh răng, hộp quẹt, cá, thịt..., nay chỉ còn gần như mỗi một thứ
là gạo hay bo bo, những thứ khác đều phải mua chợ đen hết; lương bác sĩ, kĩ sư
chỉ đủ để mua củi chụm, như vậy làm sao họ sống được? Khắp đông tây, không đâu
có một chế độ lương bổng như vậy. Một cố vấn Đức hai năm trước đã đưa ý kiến phải
tăng lương công nhân lên tối thiểu là 250 đồng (gấp 6 lần) thì họ mới đủ sống;
ngày nay tăng lên 500 đồng cũng chưa đủ.
Đói thì không làm việc được, công việc bê trễ, người ta chán
nản, xin thôi. Đơn xin thôi nhiều quá, có sở cứ 20 đơn xin thôi thì chỉ có 10
đơn xin vào, giám đốc không cho thôi. Xin thôi nhiều nhất là giáo viên; trường
nào có giáo viên xin thôi thì hiệu trưởng phải lại tận nhà năn nỉ ba bốn lần
rán ở lại đào tạo thế hệ sau cho chủ nghĩa xã hội.
Xin thôi không được thì người ta cớ ngang nhiên bỏ sở; hoặc ở
lại thì làm tà tà, lấy lệ: một giáo viên giảng bài lí nhí trong miệng, học sinh
xin giảng lớn hơn thì đáp: "Khi nào tăng lương cho tôi, tôi đủ ăn, có sức,
mới giảng lớn được" Có kẻ ỳ ra không làm gì cả: thủ trưởng giao hồ sơ,
phái đi công tác năm ba ngày ở một nơi nào đó; người ta ôm hồ sơ đi một tuần
sau mới trở về, bảo nhớ cha mẹ quá, về thăm cha mẹ, chớ không đi công tác! Rồi
cũng thôi. Bỏ đi chơi một tuần còn là ít đấy; nếu vắng mặt 29 ngày thì về lãnh
lương đủ, không bị khiển trách, chỉ phải làm một tờ tự kiểm, mà nếu chẳng thèm
làm thì cũng chẳng sao.
Một giáo sinh ở Đại học sư phạm Sài gòn ra, nhận được giấy bổ
đi dạy Củ chi, gởi trả lại cho trường với mấy hàng chữ cực kì phản động như vầy:
"Bay trả lương cho tao có 54 đồng một tháng mà tiền xe tao đi Củ chi mỗi
ngày tốn 3 đồng rồi, tao lấy gì để sống? ". (Củ chi tuy thuộc thành phố Hồ
Chí Minh, ở ngoại ô, nhưng cách trung tâm thành phố hai ba chục cây số).
Một bức thư gởi máy bay, bảo đảm từ Sài gòn ra Hà nội mà đúng
một tháng mới tới; tôi làm đơn khiếu nại sở Bưu điện, sáu tháng sau người ta vẫn
chưa trả lời, tôi thúc, họ cứ làm thinh. Hai năm sau họ mới cho hay đơn đó thất
lạc đâu mất rồi.
Thỉnh thoảng lại có tin một kho chứa bưu kiện ngoại quốc gởi
về, hoặc chứa hàng bị cháy, bị cướp; gần như ngân hàng tỉnh nào cũng bị thụt
két. Trừng phạt, họ không sợ, còn bảo: "Vào khám được chính phủ
nuôi".
Tình trạng đó cứ mỗi ngày một bi đát thêm thì một ngày nào đó
mọi hoạt động sẽ bị tê liệt hết.
Đầu năm 1980 tôi nghe một cán bộ cao cấp ở Sài gòn đi dự một
hội nghị về bảo người Nga đưa điều kiện phải để cho họ gởi qua nước mình
150.000 cố vấn để kiểm soát hết các cơ quan từ cấp cao nhất ở trung ương tới những
cấp thấp nhất ở huyện. Như vậy thì còn gì là chủ quyền, là thể diện nữa? Nhưng
nếu không nghe, họ sẽ cúp viện trợ thì làm sao đây? Xăng đã bị hạn chế 50% rồi,
giá chợ đen năm 1980 từ 10 đồng lên 18 đồng một lít, năm 1981 lên 40 đồng (tức
20.000 đồng cũ).
° °
°
TÀI CHÁNH
Ngân hàng
Công việc đầu tiên của chính quyền 30-4-75 là chiếm hết các
ngân hàng, các sở ngân khố. Không còn ngân hàng của tư nhân mà cũng không còn sở
ngân khố.
Chính quyền đóng cửa tất cả các ngân hàng quốc gia và tư nhân
cũ trong hai ba tháng để kiểm soát sổ sách, tính xem các ngân hàng tư còn bao
nhiêu tiền, tài sản có những gì, cho ai vay, vay bao nhiêu, người nào còn ở
trong nước, có thể trả nợ được không; và ngược lại ngân hàng thiếu các trương
chủ (người gởi tiền) bao nhiêu, người nào còn ở trong nước..., xong việc đó rồi
chính phủ mới quyết định được có thể trả cho mỗi trương chủ bao nhiêu tùy từng
ngân hàng: ngân hàng nào còn nhiều tiền, sẽ thu được nhiều số nợ, mà thiếu
trương chủ ít thì có thể trả cho trương chủ được nhiều: 70-80% số tiền trương
chủ gởi; ngược lại ngân hàng nào còn ít tiền, sẽ thu được ít nợ, mà nợ trương
chủ nhiều thì chỉ trả cho trương chủ 40-50% số tiền trương chủ gởi thôi.
Ai gởi tiền ở ngân hàng quốc gia hoặc mua công khố phiếu (tức
quốc trái, được lời nhiều hơn là gởi ngân hàng tư: 30% mỗi năm, chứ không phải
là 24%) thì chính phủ không trả cho đồng nào hết, vì đó là nợ của chính phủ
Nguyễn Văn Thiệu, mà Thiệu đă lưu vong, ôm hết quí kim đi rồi. Nhiều người ở
trong trường hợp đó.
Tôi gởi tiền tiết kiệm ở hai ngân hàng tư tại Sài gòn và một
ngân hàng tư ở Long xuyên. Chính quyền Sài gòn bằng lòng trả cho tôi một nửa số
tiền tôi gởi, còn chính quyền Long xuyên (vì như tôi đã nói mỗi tỉnh là một địa
phương tự trị có chính sách tài chánh, kinh tế riêng), không trả cho trương chủ
một đồng nào cả. Tôi không buồn vì từ trước tôi vẫn nghĩ rằng hòa bình trở lại,
tôi có thể tặng chính phủ một nửa số tiền tiết kiệm của tôi để kiến thiết quốc
gia. Tôi chỉ bực mình rằng số tiền còn lại đó, không được tự do lãnh ra để
tiêu. Mỗi người trong mỗi hộ chỉ được lãnh ra mổi tháng 30 đồng ngân hàng (tức
15.000 đồng cũ) mà hồi đó vợ chồng tôi sống đạm bạc cũng phải 100 đồng ngân
hàng mới đủ. Tuy nhiên tôi không đến nỗi thiếu thốn vì còn đồ đạc, tư trang có
thể bán được.
° °
°
Hưu bổng
Nhà tôi buồn vì chính quyền không cho lãnh tiền hưu bổng (khoảng
30 đồng mới, 15.000 đồng cũ một tháng) mà không cho hay ngay, cứ làm thinh, bắt
mỗi tháng lại sở hưu bổng hỏi han, chầu chực, như vậy hai năm, tới khi thấy người
ta hạ cái bảng tên sở đi mới tuyệt vọng, không trông vào số tiền dưỡng lão đó nữa.
Biết bao người ở trong trường hợp đó, nhiều người nghèo không
trông cậy vào đâu được, phải tự tử. Có người đã mất hết số tiền và tư trang gởi
ngân hàng, rồi lại mất luôn tiền hưu trí, hóa điên.
° °
°
Đổi tiền
Chính sách đổi tiền của chính phủ càng thất nhân tâm hơn nữa.
Vụ đổi tiền lần thứ nhất xảy ra tháng chín hay tháng mười 1975, và xảy ra rất đột
ngột.
● Sáng sớm hôm đó dân chúng mới hay rằng phải đổi tiền nội
trong 24 giờ và mỗi người dân già trẻ lớn bé được đổi một số tiền là bao nhiêu
đó tôi quên rồi, chỉ còn nhớ số tiền này như gia đình tôi chỉ đủ tiêu trong một
tháng hay tháng rưỡi là cùng. Những người làm chủ một hãng, như hãng buôn, nhà
in, xưởng chế tạo... có giấy chứng nhận của phường, quận... mới được đổi thêm
1.000 đồng mới (1 đồng mới ăn 500 đồng cũ), tính ra cũng chỉ đủ chi tiêu trong
một tháng. Chính quyền không cho biết số tiền còn lại, sẽ giữ tại ngân hàng và
sẽ cho rút ra lần lần tùy nhu cầu; thành thử ai cũng hiểu lầm rằng số đó sẽ bị
hủy bỏ. Do đó rất nhiều người phẫn uất, tuyệt vọng; có người tự tử, có người đốt
hằng thúng giấy bạc, hoặc từ trên lầu vãi giấy bạc xuống đường, không ai thèm
lượm; ở Mỹ tho, nhiều tiệm Trung hoa thồn giấy bạc vào cà roòng, thả trôi sông.
● Chỉ thị phải đổi nội trong 24 giờ làm cho mọi người hoảng hốt,
tranh nhau đổi, sợ trễ. Nhưng chỉ thị đó, chính cán bộ không tuân theo; ở phường
tôi họ cứ nhởn nha làm việc; chín giờ sáng mới tới phòng đổi tiền để xếp đặt công
việc, mười một giờ mới quyết định xong, thì nghỉ ăn cơm; một giờ mới phát cho
dân đơn khai số tiền có trong nhà. Dân chen chúc nhau ở cửa phòng, đưa sổ gia
đình để họ xét họ xét rất lâu như sợ có sổ giả mạo, rồi mới chịu phát đơn. Các
tổ trưởng đề nghị tiếp tay họ trong việc đó, họ không cho vì ngờ có thể gian lận.
Đem đơn về nhà khai xong, lại mang tới đề nộp, lại chen lấn
nhau lần nữa. Hai vợ chồng tôi thay nhau làm những việc xin đơn, nộp đơn, chiều
đó mới xong, mệt đừ.
Trên đơn họ tính trong nhà có bao nhiêu người, cho phép đổi
bao nhiêu, tính xong thì khuya rồi, đề sáng hôm sau mới đổi. Họ làm việc rất chậm,
mãi nửa đêm hôm sau mới đổi xong. Như vậy là lệnh của chính phủ không được
tuân. Có phường năm ngày mà đổi vẫn chưa xong, vì họ phải xét đi xét lại một điều
gì đó, tôi không hiểu. Dân chầu chực suốt 5 ngày 5 đêm ở ngoài nắng, dưới mưa,
lại không có tiền tiêu (vì trong lúc chở đổi tiền, giấy bạc cũ vô dụng, giấy bạc
mới chưa có), nổi lên phản kháng, biểu tình, họ bắt giam một số. Nhưng cũng có
chỗ đổi rất mau, chỉ 24 giờ là xong.
Vậy là cấp trên không biết tồ chức hoặc biết tổ chức mà cấp
dưới không thèm nghe, tự ý làm sao thì làm, và hạng người ngu dốt, được cơ hội,
tha hồ hách dịch, làm khó dân.
● Một cái tệ nữa là không có sự kiểm soát, khiến nhiều cán bộ
gian lận, làm giàu. Các cơ quan đổi bao nhiêu tiền cũng được, chỉ cần làm tờ
khai. Cơ quan có trong quĩ 100 triệu đồng cũ chẳng hạn thì khai 150 triệu, 50
triệu dư đó đem mua tiền của dân. Dân có tiền không đổi được, bán rẻ cho cơ
quan, lấy 50%, 30% thôi, cơ quan lời 50%, 70% chia cho nhau. Thí dụ: tôi có dư
1 triệu đồng cũ không đổi được, đưa cho cơ quan đổi, cơ quan chỉ giao cho tôi nửa
triệu (50%) tức 1.000 đồng mới; cơ quan giữ lại nửa triệu, để chia nhau. Đó là
chỗ thân tình lắm chứ giá thường là 30%, và gần tới giờ chót chỉ còn 10%. Nửa
ngày cuối cùng, người ta tấp nập mua bán như vậy, công an phường chắc biết dư
mà chẳng thấy phát giác vụ nào cả.
Lần đó là lần đầu tiên tôi thất vọng, thấy rõ chân tướng chẳng
tốt đẹp gì của các đồng chí cách mạng trong chủ nghĩa xã hội đã được Hồ chủ tịch
dạy dỗ mấy chục năm. Họ bỉ ổi, bê bối còn hơn chế độ tư bản nữa. Tôi không vơ
đũa cả nắm. Cũng có một số liêm khiết, xã hội nào cũng vậy.
Đêm đó 11 giờ khuya tôi mới đổi tiền xong, trả phần của một đứa
cháu trong nhà, và trả cho nhà tôi số tiền tiêu riêng của nhà tôi rồi, chỉ còn
đâu có 6-7 chục đồng, mà mỗi tháng chúng tôi tiêu ít nhất 50 đồng mới đủ. Tôi
chìa cho nhà tôi xem, bảo: "Bao nhiêu tiền tiết kiệm của mình chỉ còn có mấy
tấm giấy này thôi!" Nhà tôi làm thinh. Tôi cất tiền rồi, mệt quá, đi ngủ
liền.
Sáng hôm sau dậy sớm mới thấy buồn thấm thía. Còn trà tàu Đài
loan của một độc giả cho, tôi pha một bình nhỏ, rót một chén đem xuống cho nhà
tôi đương quét sân. Rồi tôi đi dạo trong xóm xem dân tình: ai cũng lặng lẽ, đăm
chiêu. Nửa giờ sau về nhà. Nhà tôi cho hay đã bán được một lon sữa đặc đủ đi chợ
một ngày. Tôi bảo: "Cần gì phải như vậy. Mình còn nhiều đồ khác để bán
mà." Nói vậy, nhưng nước mắt tôi cũng rưng rưng vì cảm động.
Mấy hôm sau, có lẽ chính phủ thấy chính sách đó khắc nghiệt
quá, cho nên ra lệnh cho đổi thêm một số nữa bằng số lần trước. Lại khai báo, lại
chầu chực, nhưng lần này mau hơn. Ngân hàng trả lại tôi một số tiền nữa, còn
bao nhiêu ghi vào sổ tiết kiệm của tôi. Vậy là chưa mất hết. Từ đó mỗi tháng vợ
chồng tôi được rút ra 60 đồng cho hai người, lại bán thêm được một ít sách nữa,
cho nên đủ tiêu. Được đâu một năm như vậy rồi chẳng hề có thông cáo, thông báo
gì cả, ngân hàng cứ lẳng lặng không phát thêm nữa. Hiện nay trong sổ tiết kiệm
của tôi còn mấy ngàn đồng, tôi không nhớ. Sổ đó đã vô dụng rồi, tôi giữ làm kỉ
niệm của một thời.
Tóm lại chính sách của nhà nước là muốn quản lí tiền bạc của
dân: chỉ cho mỗi gia đình giữ một số đủ mua gạo, rau... trong một hai tháng,
còn bao nhiêu gởi ngân hàng hết, phải có lí do chính đáng như đau ốm, cưới hỏi,
ma chay... mới được rút ra. Tiến bộ hơn Nga nhiều. Nhưng hậu quả là không ai muốn
gởi tiền ngân hàng nữa, và chính sách đó phải bỏ.
Gần đây đọc một cuốn sách tôi được biết chính phủ Sô viết ở
Nga sau cách mạng 1917 cũng có một lần đổi tiền cho dân: cứ dưới 3000 rúp
(rouble) (tôi không biết một rúp thời đó bằng bao nhiêu quan Pháp) thì một rúp
cũ đổi lấy một rúp mới, còn trên số đó thì hai rúp ca đổi một rúp mới. Chính
sách đó nhân đạo hơn, không gây bất mãn trong dân chúng. Chính phủ mình đã theo
chính sách đổi tiền của họ Mao chăng?
Ba năm sau, năm 1978 lại đổi tiền một lần nữa, mà lần này ở
khắp nước. Cũng đột ngột, cũng hạn chế số tiền được đổi, nhưng có tổ chức hơn,
đỡ khổ cho dân.
Dù dùng mọi cách đề bình sản (tức quân bình tài sản, san phẳng
tài sản), dù dùng mọi cách để trừng trị sự làm giàu thì bất kì thời nào, trong
xã hội nào, cũng chỉ được ít tháng lại có sự bất bình đẳng, có kẻ giàu người nghèo.
Một người đã nói: phát cho hai người, mỗi người một ổ bánh mì, chỉ một ngày sau
đã có sự bất bình đẳng rồi: kẻ ăn hết ổ bánh đã hóa nghèo hơn kẻ chỉ ăn ba phần
tư ổ thôi, để dành một phần tư. Như vậy là có sự tích lũy tài sản rồi. Cho nên
tại các nước cộng sản lâu lâu phải đổi tiền một lần, hạn chế số tiền được đổi,
tịch thu một số tiền quá lớn nữa. Nghe nói ở Nga từ 1917 đến nay đã đồi tiền
non 20 lần, không biết lời đó đúng không.
Vụ đổi tiền năm 1978 làm Bắc Việt xôn xao cũng bằng ở trong
Nam và cũng có đủ các tệ như ở Nam.
Lần này người ta biết tin trước vài ngày: ai có nhiều tiền (ở
Bắc cũng như ở Nam) cũng tung tiền ra mua vàng, xe đạp, vải, tủ lạnh, chén đĩa,
bất kì thứ gì với bất cứ giá nào. Có thứ tăng giá lên gấp 10 như vàng, thứ nào
tăng ít nhất cũng gấp năm. Có người không biết mua gì, năn nỉ hàng xóm để lại
cho con gà, con vịt. Người nghèo có từ nải chuối trở đi cũng đem bán. Ở Bắc có
kẻ nhiều tiền quá thồn cả vào một cái bao, chở trên xe đạp, đến một chỗ vắng,
làm bộ đánh rớt xuống đường rồi phóng đi như bay. Hạn chế, kiểm soát rất gắt, vậy
mà ở Hà nội ngay tối đêm mới đổi tiền, công an lại xét một nhà thấy một số tiền
gấp trăm số gia đình đó được phép đổi. Và chính phủ cũng phải làm ngơ.
Sau một phần tư thế kỉ được giáo hóa mà như vậy thì chúng ta
phải kết luận ra sao? Có chế độ nào thay đổi được bản tính con người trong một
hai thế kỉ không? Bao giờ mới đào tạo được con người xã hội chủ nghĩa để họ xây
dựng xã hội chủ nghĩa đây, như Hồ chủ tịch nói?
Mỗi lần đổi tiền là một lần lạm phát. Cứ xét giá sinh hoạt từ
1975 đến nay ở miền Nam thì ít nhất cũng đã có sự lạm phát gấp 10 lần rồi: giá
vàng 1975 là 400$ mới, bây giờ (tháng 5-1980) trên 6000$; gạo bán ở chợ thời đó
vào khoảng 20 xu mỗi một lít, bây giờ từ 2$ tới 6$, 8$ tùy nơi. Vật giá cũng
tăng lên ít nhất là 10 lần.
Giá chính thức thì trái lại, tăng lên rất ít, nhiều lắm là gấp
hai; nhưng chỉ công nhân viên được mua gạo với giá đó thôi, còn những nhu yếu
phẩm khác thì không có để phân phối; rốt cuộc họ phải mua rất nhiều món ở chợ với
giá gấp 10 lần, mà lương không tăng. Tình cảnh của họ thật bi đát. Nạn tà tà,
vô kỉ luật, tham nhũng, ăn cắp, buôn lậu phát ra từ đó.
Còn thêm một hậu quả nữa. Dân sợ sự đổi tiền quá, không còn
làm ăn gì được; mà dân càng sợ thì càng có nhiều kẻ tung tin vịt ra; mới đổi
năm 1978, qua năm 1979 lại có tin đổi tiền nữa, kinh tế hóa khó khăn trong vài
tháng, một số kẻ làm giàu thêm, một số nghèo thêm, rồi đầu năm 1980 lại có tin
đổi tiền nữa, lần này cũng vịt nữa. Đời sống không được ổn định, dân lúc nào
cũng nơm nớp lo sợ, chẳng trách bệnh bao tử phát dữ dội, gấp mấy thời trước.
Không ai muốn tiết kiệm nữa, kiếm được đồng nào tiêu hết đồng đó; những quán
ăn, tiệm cà phê nhiều hơn và đông khách hơn trước ngày 30-4-1975.
° °
°
KINH TẾ
Sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bước đầu của chế độ cộng
sản là nắm hết sự sản xuất và sự phân phối trong nước. Có nắm được như vậy thì
mới mau bình sản được, mới diệt được sự bóc lột của cá nhân, sự bất công, mới
giảm được sự bất bình đẳng, trong nguyên tắc. Ai cũng hiểu như vậy nhưng chỉ cộng
sản mới can đảm, kiên nhẫn, cương quyết thực hành điều đó. Cộng sản "đáng
phục" chỉ ở điểm đó, còn tinh thần nhân đạo, thương người nghèo của họ
không hơn gì - nếu không nói là kém - Ki tô giáo, Phật giáo, Khồng giáo, Lão
giáo...; mà lí thuyết của họ thì còn có thể đem ra bàn luận hoài được, khen
cũng được mà chê cũng được.
<="" div="">
a. Nông Nghiệp
Căn bản là sản xuất thức ăn: canh nông, mục súc. Đó là vấn đề
số một, vì ba lẽ: ăn là nhu cầu số một; - hai phần ba nhân loại đang bị nạn thiếu
ăn, mà nạn đói mỗi ngày một tăng; - sản phẩm kỹ nghệ nào cũng có thể tăng rất
mau được nhờ máy móc, chỉ có thảo mộc, súc vật là không thể bắt chúng tăng năng
suất mau và quá một mức nào đó được
Về nông nghiệp, hai nước cộng sản đàn anh Nga, Trung hoa đều
thất bại. Sau sáu chục năm làm cách mạng, Nga vẫn thiếu lúa mì, phải mua của
Mĩ, mà đất đai Nga xô rất rộng chứ; Trung hoa thì sau ba chục năm, dân vẫn thiếu
gạo, thiếu thịt. Năm 1963, sinh viên một đại học Bắc kinh ba tháng liền phải ăn
độn, có hồi ba năm không được ăn thịt, đói quá có kẻ phải đi xin ăn cảc bạn ngoại
quốc vì sinh viên ngoại quốc ở Trung hoa được hưởng sự phân phối đặc biệt. (Un
étudiant Africain en Chine - sách đã dẫn).
Năm 1973-1974 một số nhà báo ở Sài gòn tin rằng hễ chiến
tranh chấm dứt thì nông nghiệp của mình phát triển mạnh lắm, dư nhiều để xuất cảng,
nước sẽ giàu. Các vị đó tin ở "cách mạng xanh" và công việc khai
hoang. Tôi đã bác những ý đó trên tờ Bách Khoa và trong cuốn Những Vấn Đề Của
Thời Đại, đại khái tôi bảo: Chúng ta đừng nên quá tự tín, tự hào, mà nên so
sánh nước mình với các nước láng giềng cũng nông nghiệp như mình, đất rộng cũng
như mình, tức Thái lan, Miến điện. Trước thế chiến họ xuất cảng lúa gạo ngang
mình hay hơn mình. Ba chục năm nay họ không bị chiến tranh như mình, nên khai
phá thêm chứ không phải bỏ hoang đất đai, cũng áp dụng những kĩ thuật mới, cách
mạng xanh như mình, mà sự sản xuất lúa gạo của họ chỉ đủ bù sự tăng gia dân số,
và sự xuất cảng gạo của họ so với trước thế chiến không tăng bao nhiêu, có năm
Thái lan không dám xuất cảng mà giữ lại để phòng đói. Dân tộc mình có thể siêng
năng hơn họ, nhưng chắc chắn là không tài giỏi về nghề nông gấp năm gấp ba họ
đâu, và chúng ta cứ nên khiêm tốn nhận rằng hòa bình trở lại, sẽ gặp những nỗi
khó khăn cũng như họ, may lắm thì sự tăng gia nông sản chỉ đủ để bù vào sự tăng
gia dân số thôi. Ông tổ của cách mạng xanh tôi không nhớ là ai, đã cảnh cáo
nhân loại rằng cách mạng đó chỉ cứu được nạn đói trong ba chục năm thôi; sau ba
chục năm nhân số trên địa cầu tăng lên gấp đôi thì cũng lại thiếu ăn nữa. Mà
cách mạng xanh tới 1980 được ba chục tuổi rồi, cho nên nhiều kinh tế gia phương
Tây đã lo trước rằng thập niên 80 nhân loại sẽ đói.
Quá tin ở sự khai phá đất hoang lại càng không nên. Chúng ta
nên nhớ: bao nhiêu đất dễ trồng trọt thì đã trồng trọt cả rồi, còn lại toàn là
đất cằn cỗi hoặc có phèn, có muối, hoặc xa xôi, thiếu nước, khai phá sẽ tốn
công tốn của lắm.
Từ đầu thế kỉ, thực dân Pháp đã nghĩ tới sự khai phá Đồng
tháp, họ nghiên cứu đi nghiên cúu lại, đo đạc, lập dự án này dự án khác, tốn
khá nhiều tiền mà đến năm 1945 vẫn chưa làm được gì cả ngoài mấy con kinh đào,
vì cái nạn lụt và phèn.
Cánh đồng Cà mau còn khó khai phá hơn nữa vì toàn là rừng đước,
nước thủy triều ra vô.
Bao nhiêu đất phì nhiêu miền Đông họ đã trồng cao su cả rồi;
đất hoang còn lại trồng lúa, trồng rau không được vì thiếu nước, chỉ để làm rừng
lấy củi.
Muốn khai phá ba miền đố thì phải đầu tư nhiều lắm, dân mình
nghèo, làm gì có đủ vốn.
Tóm lại tôi nghĩ rằng hòa bình trở lại, lo sản xuất lúa gạo để
đủ nuôi dân đã là may, không mong gì làm giàu được. Năm 1975 tôi trình bày lại
ý đó với một cán bộ cách mạng, họ cho tôi là bi quan, bảo: "Dân tộc mình
thắng được Mĩ, hùng cường thứ nhì Đông Á, chỉ 5 năm nữa thì kinh tế mình sẽ thịnh,
hai chục năm nữa sẽ đuổi kịp Nhật rồi vượt họ."
Lại một năm sau nữa, một anh bạn học của tôi từ hồi tiểu học,
lúc đó giúp việc cho tờ Tổ Quốc, đọc những bài của tôi đăng trên Bách Khoa từ
cuối 1974 về nạn nhân mãn và đói trên thế giới, cũng không tin, bảo nhân loại
đói là tại sự tổ chức xã hội không được công bằng, chứ thực phẩm sẽ dư để nuôi
mười lần nhân số thế giới hiện nay, vì còn biết bao đất để khai phá, lại có thể
lấy thực phẩm từ biển (rong), từ lòng đất (dầu lửa sẽ chế biến thành
protéin)... Tôi cũng không cãi. Những lí lẽ đó đúng đấy, nhưng khai phá sa mạc
Sahara để trồng lúa thì phải nấu nước biển thành nước ngọt rồi đưa vào sa mạc;
việc nuôi rong làm thực phẩm còn phải thí nghiệm lâu mà cái nạn đói thì ở trước
mắt kia kìa. Có những người dễ tin bánh vẽ quá. Họ thật sung sướng, tối chắc ngủ
ngon. Có điều tôi không hiểu là tổ chức xã hội ở Nga tất phải công bằng mà sao
Nga vẫn thiếu lúa mì sau sáu chục năm cách mạng.
Tôi không biết hai bạn cách mạng của tôi đó, năm ngoái (1979)
đã đổi ý chưa, đã thấy dân mình đói, thiếu ăn chưa, và nông nghiệp của mình
cũng thất bại nặng, có phần hơn Trung hoa nữa chưa?
● Ông thầy của chúng ta đã thất bại thì ta làm sao không thất
bại được? Ai cũng nhận thấy ở Nga sở dĩ còn phải mua lúa, mua bắp của Mĩ vì
nông dân Nga không thích làm trong các nông trường quốc doanh (sorkhose), mà những
nông trường đó đã phải bãi bỏ, chỉ còn các artel, tức các hợp tác xã giữa thợ
thuyền và nông dân. Chính sách tập thể có lợi chăng là lợi cho kẻ làm biếng, an
phận, bất tài; còn người siêng năng thì muốn làm riêng, hễ sản xuất nhiều thì
được hưởng nhiều. Tâm lí chung của con người là có lợi thì mới gắng sức, không
ai muốn thằng ngay làm cho thằng còng ăn.
Hỏi thăm các bạn ở Bắc, ai cũng bảo hợp tác xã nông nghiệp ngoài
đó, xét chung, thất bại, chỉ trừ một vài nơi ở Thái bình... Trong nhiều hợp tác
xã còn đất bỏ hoang, vì khó khai phá, không có lợi. Người dân chỉ chăm sóc khu
vườn vài trăm thước vuông của họ thôi, lơ là với công việc chung vì làm cho hợp
tác xã chỉ được trung bình 1 đồng một ngày thôi, không đủ sống. Lại thêm cái nạn
nhiều nơi, bọn quản lí hợp tác xã cấu kết với nhau, gian lận, làm giàu, ức hiếp
xã viên, họ là một bọn cường hào mới.
Ở trong Nam mấy năm đầu dân phải đóng thuế nặng, lúa bị thu
mua nhiều quá với giá rẻ mạt, phân bón, thuốc trừ sâu, xăng nhớt lại bị cán bộ
ăn cắp bán chợ đen v.v..., rốt cuộc làm ruộng thì chỉ giữ được vừa đủ lúa để ăn
tới mùa sau, không có dư để chi tiêu vào nhà cửa, quần áo, thuốc men... Do đó đại
đa số nông dân chán ngán, không ham sản xuất.
Một nông trường quốc doanh thành lập ở Củ chi "thành đồng
của Cách mạng", ngay mấy năm đầu sau ngày 30-4-75, các thanh niên cách mạng,
có học, có nhiệt tâm tới khai phá cho thành một nông trường kiểu mẫu, được
chính phủ giúp đỡ nhiều phương tiện, nhiều ông lớn ở Sài gòn tới khuyến khích,
vậy mà không hiểu sao chỉ trong một thời gian ngắn, không ai nhắc tới nữa, thất
bại hoàn toàn.
Năm 1978 hay 1979 có lệnh thi đua lập hợp tác xã nông nghiệp.
Trung ương không bắt nông dân phải gia nhập, nhưng địa phương nào cũng muốn lập
công, bắt buộc, dọa dẫm nông dân. Bắt buộc thì họ vô, "vô mà không
ra", nghĩa là vô hợp tác xã nhưng không ra ruộng, hoặc ra trễ, múa một
lát, rồi ngồi nghỉ, tán láo, về; lúa bị sâu, mặc, cỏ đầy ruộng, mặc... thu hoạch
chẳng được gì cả, có nơi lúa xấu quá, họ không thèm cắt nữa. Làm biếng nhất là
cán bộ, các đồng chí đó chuyên chỉ tay năm ngón, có kẻ chẳng buồn ra ruộng kiểm
soát nữa. Nghe nói có nơi người ta dành một khu ruộng tốt cho các đồng chí lập
một hợp tác xã kiểu mẫu, họ được phân phát cho đủ phân bón, xăng nhớt, thuốc trừ
sâu, lúa giống tốt..., vậy mà cũng thất bại nặng. Các ông ấy đâu chịu chân lấm
tay bùn (mặc dầu miệng vẫn nói "lao động là vinh quang"), cứ ở nhà, ở
sở, bán chợ đen xăng nhớt, thuốc trừ sâu, phân bón của hợp tác xã để chia nhau,
còn lợi hơn là làm ruộng mà chẳng phải đổ một giọt mồ hôi nào cả.
Cuối năm 1979 một số hợp tác xã đã giải tán, nông dân được tự
do, làm riêng, chính sách thu mua (nghĩa là chính phủ buộc họ phải bán một số
lúa cho chính phủ với giá chính phủ ấn định) cũng công bằng hơn, nên họ hơi phấn
khởi, sản xuất nhiều hơn. Đó là chính sách của các nước Đông Âu như Ba lan,
Hung, Tiệp khắc, Nam tư..., kết quả tốt đẹp hơn ở Nga, Trung hoa nhiều. Theo cuốn
Lô gíc lịch sử của một tác giả Nga tôi quên tên, mới dịch ra tiếng Việt một hai
năm nay, thì có nước Đông âu, nông dân vô hợp tác xã thì tài sản của mình được
coi là cổ phần và được chia lời nữa.
Tôi nói hơi phấn khởi vì họ vẫn chưa tin chính phủ, sợ làm được
vài năm, dư được bao nhiêu, chính phủ lại tìm cách lấy lại hết.
● Một thất bại nữa là chính sách đưa dân thành thị đi vùng
kinh tế mới để khai phá đất hoang. Chính phủ giúp đỡ việc chuyên chở, cho một
khu đất mấy trăm thước vuông ở một nơi còn bỏ hoang, không có nhà thương, trường
học, cách xa đường lộ 5-6 cây số; năm đầu cấp cho mỗi người một số gạo đủ ăn.
Sau ngày 30-4-75, nhiều người rất phấn khởi, muốn sống một đời
sống mới, xung phong đi kinh tế mới.
Tôi có một người bà con khoảng 50 tuổi, thời trước làm thư kí
sở thuế ở Sài gòn, sống nhàn nhã, hơi phong lưu. Năm 1975, vợ chồng nghe tiếng
gọi thiêng liêng của đảng, nổi bầu nhiệt huyết, bán hết tài sản (may là còn giữ
một căn nhà ở Phú nhuận) rồi vợ chồng và 6 con dắt díu nhau đi vùng kinh tế mới
ở Sông bé, bỏ nghề công chức, làm nhà khai sơn phá thạch để xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
Miền Sông bé là một khu rừng cỏ tranh không có kinh rạch gì cả,
không làm ruộng được, phải phát cỏ tranh, đào giếng (sâu 6 thước) để lấy nước uống,
mà nước thì đục ngầu. Mặc dầu vậy họ cũng rất tin tưởng, hăng hái phát cỏ, cuốc
đất, cất nhà, làm vườn. Hái được trái bầu đầu tiên, họ rất vinh hãnh: "Lao
động đúng là vinh quang". Nhưng một năm chỉ trồng trọt được 6 tháng mùa
mưa, khoai, đậu, bầu bí... không đủ ăn cho gia đình 8 người, trọn mùa nắng ở
không, đi vào rừng đốn củi, đốn măng. Họ chịu đựng được non ba năm, khi hết chịu
nổi, bán lại khu đất khai phá sơ sơ đó đi, và bán luôn cả nhà ở Sài gòn, về Cai
lậy (Mĩ tho) mua một miếng đất, miếng này cũng vì thiếu nước, không làm ruộng
được (công việc thủy lợi chỉ ồ ạt ở miền Tây, nhiều sông rạch nhất thôi), chỉ
trồng được khoai mì, và mươi gốc xoài, dừa... nhưng trồng mà không được ăn vì
chúng ăn trộm hết. Chịu đựng được hai năm (có hồi đói quá, xuýt phải ăn bèo),
sau về Long xuyên nhờ chị em giúp cho ba công rưỡi ruộng ở ven thị xã. Ở đây
làm ruộng được, nhưng đóng thuế rồi thì chỉ còn đủ lúa để ăn thôi. Tiêu pha thì
phải nhờ vào nuôi heo, gà. Nhà họ ở giữa đồng, cách lộ 5-6 trăm thước, đi trên
bờ ruộng đất sét mấp mô, trơn như trên sống trâu. Cái chòi một mái chỉ có 6 thước
vuông, một cái giường, một cái võng. Mẹ và bốn con ngủ trên giường (vì hai đứa
con đã gởi người bà con nuôi giùm), dưới gầm là một con heo lớn, một con heo
con, chung quanh là một bầy gà. Chồng ngủ võng. Trời nắng thì ngủ ngoài trời được.
Không có bếp, cầu tiêu, nước uống là nước trong một cái hầm đào để đắp nền nhà.
Họ bảo tôi: "Tụi tôi không còn mong gì khác là nuôi con cho chóng lớn lên
làm công nhân viên được mười mấy kí gạo một tháng thôi".
Coi họ già và lam lũ như hạng lưu dân trong Đồng tháp mười hồi
1935. Tôi nghĩ chính hạng người đã hi sinh cả đời cha, đời con, đời cháu nữa để
khai phá miền Nam này, sống cực khổ như mọi đó mới là khai quốc công thần, có
phần gian lao hơn Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Hữu Cảnh nữa; nhưng khắp thế giới từ cổ
đến kim, không ai nhắc tới họ; bây giờ người ta cũng để họ "sống chết mặc
bay" mà còn bóc lột họ nữa.
Cảnh một gia đình công chức hồi hưu (tôi chỉ nghe nói chứ
không được biết) còn bi đát hơn gia đình đó nữa: lỡ bán nhà ở Sài gòn để đi miền
Sông bé, bốn năm sau, hết nhẵn vốn, về Sài gòn thì không có hộ khẩu, không có
chỗ trú chân, phải đi xin ăn, ở nhờ bạn, nay nhà người này, mai nhà người khác.
Miền Sông bé thất bại nặng; người ta bỏ về lần lần hết. Ngay
những thanh niên xung phong thấy đồng bào đi hết, cũng phải xin về. Tin lời hứa
của cấp trên, hễ xung phong hai năm thì được bằng cấp "anh hùng lao động",
được vô đại học tại chức, những cậu có tú tài rồi, xin vô đại học, người ta nuốt
lời, bắt thi, lại không cho họ nghỉ công tác để học thi, nên thi rớt và bây giờ
lêu bêu ở Sài gòn, tìm cơ hội "vượt biên".
Cũng có gia đình may mắn, tới một nơi đất tốt ở Long thành,
trồng hoa màu, hai năm sau tự túc được, nhưng chính quyền địa phương đòi lại một
nửa đất gia đình đó đã khai phá, lại bắt những thanh niên lao động giỏi trong
gia đình phải vào sâu trong rừng khai phá một khu khác họ cấp cho. Như vậy là
cướp công lao của dân, có khác gì bọn điền chủ thời Pháp thuộc chiếm đất nông
dân đã đổ mồ hôi nước mắt để biến đồng hoang thành ruộng tốt. Những thanh niên
đó cũng bỏ về Sài gòn nữa.
Và hiện nay nhiều đường ở Sài gòn đầy những người ở kinh tế mới
về, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ban ngày đi xin ăn, làm cu li hay ăn cắp, đêm ngủ
vỉa hè, hoặc dưới mái chợ...
Cảnh sát, công an nhắm mắt làm lơ, chứ biết đuổi họ đi đâu
bây giờ. Khắp các tỉnh đâu đâu cũng có tình cảnh đó
Chương trình đẩy một triệu dân Sài gòn đi kinh tế mới để đưa
một triệu dân Bắc vào như vậy là thực hiện không được một nửa: đồng bào Bắc đã
vào Sài gòn và còn vào nữa, nhưng đồng bào kinh tế mới cũng lại trở về Sài gòn,
và Sài gòn đông nghẹt, bẩn thỉu hơn trước nhiều.
Nghe nói chính quyền đã sửa sai: bỏ chính sách kinh tế mới rồi.
Đâu phải đất hoang nào cũng dễ khai phá!
● Một nguyên nhân thất bại nữa của chính sách nông nghiệp là
thiếu kĩ thuật gia giỏi như một tờ báo kinh tế ở Hương cảng đã nhận xét.
Tôi nghe nói ngoài Bắc đào tạo rất nhiều kĩ sư canh nông và
kĩ sư thủy lợi (hình như một tỉnh Thái bình hay Hà nam dùng cả ngàn kĩ thuật
gia thủy lợi); như vậy rất hợp lí mà cũng đúng chính sách của Lénine. Nhưng tôi
không hiểu kiến thức chuyên môn của các kĩ sư đó ra sao và được dùng vào việc
gì mà ở trong Nam này, từ ngày 30-4-75, các công tác thủy lợi hầu hết do các
cán bộ nông thôn mới học hết cấp I (hết tiểu học) điều khiền. Các đồng chí ấy bất
chấp kinh nghiệm của nông dân, đã dốt mà lại độc đoán: có nơi lúa đã sắp trổ
đòng đòng mà họ bắt nhổ đi hết, trồng thứ khác; có nơi họ bắt nông dân đào đất
trong ruộng, chuyền tay nhau từng cục đất ra tới bờ rạch cách vài trăm thước để
đắp một cái đập dài cả trăm(?) thước, đập Cát lái; mưa xuống một trận, nước rạch
dâng lên, chảy xiết, đập vỡ, một số thanh niên bị nước cuốn đi mất xác. Vụ đó
làm sôi nổi dư luận.
Thủy lợi là một môn rất khó; công việc thủy lợi ở miền Nam
khó hơn ở ngoài Bắc nhiều vì ở đây sông rạch, kinh mương chằng chịt, lại có hai
thứ thủy triều: thủy triều Nam hải (miền Vũng tàu chẳng hạn), nước biển lên rất
cao, mực cao nhất cách mực thấp nhất đến 4 thước; mùa khô, thủy triều lên tới tận
Nam vang, cách xa 300 cây số; và thủy triều trong vịnh Thái lan rất thấp, chỉ
trên một thước thôi. Thêm một lẽ nữa, đất miền Nam nhiều nơi có muối, có phèn,
lại thấp hơn mực nước trung bình của thủy triều, cho nên các kĩ sư Pháp thời
trước rất thận trọng trong khi quyết định đào một con kinh, phải tính xem khi
đào rồi, nước kinh sẽ chảy theo hướng nào lúc nước lớn, lúc nước ròng và ảnh hưởng
tới kinh, rạch, ruộng nương chung quanh ra sao.
Cán bộ của mình không được học, không biết tính toán gì cả, mạnh
làng nào làng ấy đào, chẳng hề xét có hậu quả gì bất lợi cho làng bên hay
không; và kết quả nhiều khi trái ngược với ý muốn: muốn rút nước mặn nước phèn
mà hóa ra đưa nước mặn nước phèn vào đất của làng mình hoặc làng bên, làm cho
ruộng đương tốt hóa xấu, phải bỏ để trồng cỏ lác. Một huyện nọ sống về nghề
nuôi vịt phải kiếm nghề khác vì vịt không chịu ở nước phèn.
Người ta đào kinh rất nhiều, miền nào cũng khoe đào được mấy
chục con kinh, mấy trăm cây số kinh trong một mùa nắng. Có tốn kém gì đâu. Chỉ
cần bắt thanh niên làm xâu, làm càng nhiều càng được tiếng "vinh
quang". Tới nỗi có miền dân phải ta thán, đặt ra câu ca dao này:
Mồ cha thằng Thiệu rời dinh, Để tao ở lại đào kinh suốt đời.
Đầu năm 1978 hay 1979 người ta bắt dân ở tỉnh An giang đào một
con kinh theo biên giới Miên. Kinh đào khá rộng khá sâu, đất đào lên dùng để đắp
con đê theo bờ kinh phía Cao miên. Đắp đê đâu phải là việc dễ, phải trải từng lớp
đất nện kĩ rồi mới trải lớp sau, đắp xong lại phải cấy cỏ, tưới thường cho nó sống.
Đằng này người ta chỉ có việc khiêng đất tới, chất lên, nện sơ sơ cho xong việc.
Như vậy một trận mưa lớn cũng đủ cho đê sụp từng chỗ và tới mùa nước lớn, làm
sao đê chống nổi luồng nước lụt từ Miên đổ xuống, đê sẽ rã, đất sẽ trôi xuống lấp
kinh. Tôi không biết hiện nay kinh và đê đó ra sao.
Tập cho thanh niên lao động chân tay, góp sức vào việc kiến
thiết quê hương là điều tốt, nhưng người ta phí sức dân quá, coi thường mạng
dân quá. Dân do đó thấy tủi cho thân phận mình: trong thời chống Pháp, chống
Mĩ, dân hi sinh cho anh em kháng chiến, bây giờ bị coi như nô lệ.
Có ai làm thống kê xem trong bốn năm nay dân miền Nam này bỏ
biết bao tài sản, sinh lực, nhân mạng vào những việc thủy lợi, khai hoang đó mà
kết quả được bao nhiêu không? Miền Nam dân đông quá, hai mươi lăm triệu là ít,
mà cái gì nhiều thì cũng hóa rẻ.
° °
°
b. Công nghiệp
Xí nghiệp quốc doanh nào cũng lỗ nặng. Người ta không hề tính
sản xuất một hóa phẩm phí tổn mất bao nhiêu, bán ra được bao nhiêu, lời hay lỗ.
Cứ việc sản xuất, lổ cũng không sao, bán không được thì bắt dân tiêu thụ hoặc đổ
đi.
Một kĩ sư ở Nga về đã trên mười năm, năm 1976 vào tham quan
các xí nghệp lớn miền Nam bảo tôi rằng cảm tưởng đầu tiên và mạnh nhất của ông
ta là các xí nghiệp trong này chú trọng đến cái "profit" (lời) quá.
ông ta không hiểu nổi đó là một điều tự nhiên. Một cơ quan xuất bản, một tờ báo
của chính quyền có lỗ cũng không sao, vì công việc đó có mục đích giáo dục quần
chúng, không có tính cách thương mãi. Nhưng sản xuất một món hàng để xuất khẩu
mà không tính lời, lỗ thì kinh tế làm sao đứng vững được.
Ngay như một tổ hợp vận tải trong nước mà lỗ hoài thì cũng phải
dẹp tiệm, vì hết vốn, không có tiền mua xe mới để thay thế xe cũ.
Từ bia, nước ngọt, đến tôm cá, đồ hộp như khóm, màn trúc, quần
áo may sẵn, đồ sơn mài... bất kì món gì, mới đầu phẩm còn kha khá, sau cứ mỗi
ngày một tệ, bị ngoại quốc gởi trả về. Bia, nước ngọt có hồi bị trả về nhiều
quá, bán cho công nhân viên không hết, tung ra bán cho dân, nhà nào cũng một tuần
lễ được mua một hai lần; kì cục nhất là đường thì thiếu cho dân dùng mà nước ngọt
thì dân tha hồ uống.
Tôi hỏi một người bà con ở Hà nội, họ bảo ở Bắc cũng vậy:
công nghiệp mỗi ngày một xuống dốc. Những năm đầu (1955-1960), xe đạp chế tạo
còn tốt, bây giờ tồi quá, dùng chưa đầy sáu tháng đã hư một vài bộ phận, lốp đã
bể. Xe đạp là thứ cần thiết nhất, phổ thông nhất trong nước, mà như vậy thì những
máy móc khác mới ra sao?
Nguyên nhân rất nhiều: quản lí dở, thiếu kĩ thuật gia giỏi -
những kĩ sư giỏi không được dùng hoặc phải ở dưới quyền một kẻ dốt, có tuổi đảng
cao hơn; chương trình, kế hoạch không bao giờ thực hiện được đúng vì thiếu
nguyên liệu nhiên liệu, thiếu đủ thứ; vì các cơ quan không phối trí với nhau,
chèn ép nhau là khác; vì chính sách làm chủ tập thể, máy móc không ai săn sóc,
vật liệu không ai tiếc, tha hồ phí phạm, nhiều khi ăn cắp nữa; không có tinh thần
trách nhiệm, ai cũng làm việc tà tà; lương ít quá, không đủ sống, mà siêng năng
cũng chẳng được lợi gì, sáu năm mới lên một bực, lương tháng thêm mười đồng,
mua được hai tô phở hay một kí đường.
Ngoài Bắc đã có câu: Làm thì đói, nói thì no, bồ thì sướng,
bướng thì chết.
trong Nam lại thêm câu: Làm cho lắm tắm không quần thay, làm
lai rai ngày thay ba bộ.
Đảng cộng sản là đảng của vô sản, của thợ thuyền, mà công
nhân trong các xưởng tinh thần như vậy đó.
Lại còn cái này nữa: sở nào có việc nhờ sở khác giúp, muốn
mau được việc, phải hối lộ sở đó; ngay sở công an cũng bị làm tiền. Việc thanh
toán tiền nong giữa các sở với nhau rất bê bối! Sở thiếu nợ ỳ ra không chịu trả,
sở chủ nợ không thu được, thiếu tiền, phải tạm ngưng hoạt động. Kiện ai?
Quyền của ngân hàng rất lớn. Cơ quan nào thu được bao nhiêu
tiền cũng phải nộp ngân hàng, cần rút ra bao nhiêu cũng phải xin ngân hàng; mà
ngân hàng có thể từ chối không phát hoặc lấy cớ là không có đủ ngân khoản nên
chưa phát. Vì vậy cơ quan nào cũng làm thân với ngân hàng, mua quà cáp tặng
nhân viên ngân hàng, đãi đằng họ... Xứ nào, thời nào mà chẳng vậy: kẻ giữ tiền
mới thực sự làm chủ.
Các công ti công tư hợp doanh cũng lỗ vì công với tư rất khó
hợp tác với nhau: công làm chủ thì tư tà tà, mà công thì quản lí rất dở, kĩ thuật
rất kém, nghi kị tư, bao nhiêu quyền lợi, ôm lấy trọn.
Công ti tư doanh chỉ đứng được ít năm rồi cũng phải đóng cửa
vì chính phủ cho số lời ít quá, thu thuế nặng quá, nhất là vì thiếu nguyên liệu,
nhiên liệu. Như Công ti Giấy Bảo lộc (trong đó tôi có ít cổ phần nhờ xin rút được
tiền ngân hàng để giúp trong việc sản xuất) hoạt động được hai năm thì miền Bảo
lộc bị hạn chế điện, mỗi ngày máy chỉ chạy được 4 giờ buổi tối; rồi thiếu tre để
làm bột giấy; chính phủ tự ý tăng giá tre bán cho công ti mà không cho tăng giá
giấy bán cho chính phủ, rốt cuộc công ti lỗ, phải tặng hết tài sản cho chính phủ
(tôi cũng đã tặng cổ phần của tôi, trị giá hai tnệu đồng cũ).
Các tổ hợp làm tiểu công nghệ của tư nhân như tổ hợp làm màn
trúc, tranh sơn mài, đan áo, thêu, may áo... lây lất sống được là may, đa số phải
ngưng hoạt động vì xuất khẩu không được, bán trong nước cũng không được.
Một ông bạn tôi mới cho hay chính quyền đã phải nhận rằng sức
sản xuất của mình lúc này kém quá, có ngành chỉ được 5%, ngành nào phát triển
nhất cũng chỉ được 30% khả năng thôi. Thế thì biết đời kiếp nào mới xây dựng
xong xã hội chủ nghĩa?
Đã không sản xuất mà còn phá tài nguyên trong nước: phá rừng
thông trên núi, rừng phi lao ở bờ biển, phá cả vườn cao su để lấy củi (bán ở
Sài gòn), dùng mìn và đồ rà điện để bắt cá lớn cá nhỏ trong sông rạch (cá linh
còn nhỏ bằng đầu đũa mà đã bắt để bán ở Long xuyên), bắn thú và chim, không có
luật gì ngăn cấm cả. Làm chủ tập thể, nên không ai cấm ai được. Do đó nước mình
trước kia tự hào là tiền rừng bạc bể mà nay đứng vào hàng mười nước nghèo nhất
thế giới, có người nói vào hàng áp chót trên thế giới nữa. Lợi tức trung bình mỗi
năm tính theo đầu người chỉ được 50 Mĩ kim, hai phần trăm của Nhật.
° °
°
B. Phân phối
Nắm hết sự phân phối là nắm hết ngoại thương, nội thương. Tôi
chưa được đọc một tạp chí nào về kinh tế xuất bản trong nước - có thứ đó hay
không, tôi cũng không biết nữa - nên không rõ tình hình ngoại thương nước nhà mấy
năm nay ra sao, nhưng chắc chắn là không tốt đẹp được. Nghe nói mình nợ của nước
ngoài nhiều lắm rồi.
Xuất cảng chỉ còn than đá, xi măng, cao su, - hơn hay kém trước
tôi không biết - những hàng lặt vặt như bia, đồ hộp, tranh sơn mài, tôm... thì
không đáng kề, mà mỗi năm một suy như đã nói ở trên.
Nhập cảng cũng rất ít vì thiếu ngoại tệ, cho nên thứ gì cần lắm
như xăng, nhớt, bột mì, máy móc mới bất đắc dĩ phải nhập khẩu; ngay đến dược phẩm
cũng đành chịu thiếu thốn.
Thiếu ngoại tệ vì hai lẽ: không có gì để xuất khầu; ngoại quốc
giúp, đầu tư vào nước mình rất ít. Nên kể thêm một nguyên nhân nhỏ nữa: cả triệu
kiều bào ở ngoại quốc (Pháp, Mĩ, Tây đức, Canada, Nhật...) không muốn gởi tiền
về giúp gia đình, họ hàng vì hối xuất chính thức thấp quá so với giá trên thị
trường tự do. Một quan Pháp theo hối xuất chính thức chưa được 0,8 đồng (đầu
năm 1980) thêm tiền thưởng của chính phủ nữa chỉ được 1,5 đồng, mà trên thị trường
đen thì được 6 đồng. Cho nên Việt kiều mua đồ (vải, thuốc tây, thực phẩm, cả xà
bông, bút bi...) gởi về cho thân nhân, thân nhân dư dùng thì đem bán, một món
giá một quan Pháp có thể bán được ít nhất là 3 đồng, có khi được 4-5 đồng, 10 đồng
theo luật cung cầu. Từ đó phát sinh ra nạn buôn lậu; buôn lậu nhiều quá hóa ra
buôn công khai ở chợ trời.
Năm 1981 nạn thiếu ngoại tệ và quí kim đã tới mức trầm trọng
nên chính phủ đã phải dùng những biện pháp rất gắt để cấm tư nhân trữ những thứ
đó.
Đánh tư bản
Hồi 30-4-75, ai cũng biết tư bản sẽ bị đập, thương mãi bị dẹp.
Cho nên khi chính quyền ra lệnh các nhà buôn, nhà kinh doanh có môn bài, cửa tiệm
phải đăng kí (kê khai), còn những thứ hàng nào, mỗi thứ bao nhiêu, giá bao
nhiêu... (các người cho thuê nhà cũng phải khai) thì những người thức thời làm
bản kê khai rồi tặng chính phủ. Dĩ nhiên ai cũng giấu một số nhiều hay ít đề
phòng thân. Một nhà xuất bản khá lớn có nhà in riêng, có nhiều cao ốc cho Mĩ mướn,
con đã đi ngoại quốc hết từ trước ngày 30-4-75, đem hiến hết cho chính phủ...
và được chính phủ cho lại một ngôi nhà khá để ở, và họ được sống yên ổn.
Trái lại, một nhà xuất bản và nhà sách khác lớn hơn nhiều,
tin rằng mình làm ăn đứng đắn, quen nhiều nhà văn cách mạng, sẽ được yên, nên
chỉ tặng chính phủ một phần nhỏ tài sản thôi và rốt cuộc mất gần hết nhẵn mà lại
phải đi cải tạo mấy năm. Trong mấy ngôi nhà chứa hằng triệu cuốn sách, hằng vạn
nhan đề, thế nào nhân viên kiểm kê chẳng kiếm ra được vô số cuốn thuộc loại phản
động, đồi trụy hay lạc hậu, và như vậy có cớ để tịch thu tài sản rồi.
Một hai nhà khác làm việc phát hành bị bắt giam và tịch thu
gia sản trước hết vì bị trù từ trước. Nhưng một nhà khác cũng phát hành lớn lại
được tương đối yên ổn nhờ trước có giúp kháng chiến kha khá.
Riêng tôi tuy cũng mang danh nhà xuất bản nhưng chỉ tự xuất bản
một số rất ít (khoảng 1/10 những tác phẩm của tôi thôi, làm ăn có tính cách tiểu
công nghệ - tôi viết, nhờ nhà khác in, rồi vợ chồng tôi bán lấy, bán tại nhà cho
các nhà sách lớn và mấy nhà phát hành ở Sài gòn, không mướn một người làm công
nào; lại thêm tác phẩm của tôi đứng đắn, được chính phủ cho là tiến bộ, cho nên
được yên thân, không bị kiểm kê, mà lại được phép bán hết những sách còn lại
trong kho, trừ mỗi một bộ - Văn học T.Q. hiện đại - mà sở Thông tin văn hóa
không cấm, chỉ bảo "để xét lại" Tôi hiểu "để xét lại" có
nghĩa là gì rồi, nên vài năm sau tôi xé bìa, bán cho "ve chai" hoặc
dùng để đun bếp.
Tôi không kinh doanh, chỉ ghi lại như trên biện pháp của
chính quyền đối với ngành sản xuất, ngành mà tôi được biết ít nhiều, nhưng chắc
các ngành khác thì cũng vậy.
Chiến dịch kiểm kê đầu tiên để đập tư bản xảy ra cuối năm
1976. Chính phủ đã chuẩn bị kĩ lưỡng, dùng rất nhiều sinh viên, thanh niên, nhốt
họ trong trường hay cơ quan, không cho về nhà, không cho tiếp xúc với người
ngoài, dạy cho họ trong một tuần (?) cách thức kiểm kê ra sao, phát giác những
chỗ giấu đồ ra sao - nhất là vàng, kim cương - của bọn tư bản. Thành phố xôn
xao dữ dội, nhất là Chợ lớn, người nào hơi có máu mặt cũng lo lắng, tìm cách giấu
đồ, di tản đồ có giá, vì mình tuy làm ăn lương thiện hay chẳng làm ăn gì cả, ki
cóp suốt đời được mươi lạng vàng để dưỡng già, nhưng nếu có kẻ nào ghét, tố cáo
bậy, nhà bị xét "các ông ấy" tịch thu hết thì lấy gì để sống? Vì
không có chỉ thị rõ ràng gì cả. Đột xuất mà. Tùy các ổng hết. Trong cơn bão tố,
ai biết được sét đánh vào đâu?
Cũng có xảy ra vài vụ oan ức: chỉ là trung thương hạng bét,
bán mắm hay nước mắm gì đó mà cũng bị kiểm kê. Còn thì hầu hết đều là bọn đại
tư bản ở Chợ lớn và khu thương mãi Sài gòn. Nghe nói ở Chợ lớn có nhà bị tịch
thu hằng ngàn lượng vàng và vô số kim cương không sao đếm xuể, cứ thồn vào
trong bao cột lại, không biết có cân, có niêm phong hay không. Sau vụ đó, một số
người bỗng hóa ra giàu. Hậu quả là tài sản của giới này chuyển qua giới khác một
phần lớn, chính phủ được hưởng một phần nhỏ.
Từ trước, thực dân Pháp và các chính quyền Việt đều biết Hoa
kiều nắm hết, lũng đoạn nền kinh tế Việt nam (bài báo đầu tiên tố cáo nạn đó là
của Đào Trinh Nhất viết trước 1935); nhưng nhà cầm quyền tự xét dẹp không nổi,
sẽ làm xáo trộn kinh tế quá, thà để yên họ làm ăn mà lợi dụng họ còn hơn, nên họ
được ung dung làm giàu, gởi tiền về Trung hoa; bây giờ chính quyền cách mạng mới
quyết tâm đập họ, họ bái xái chứ vẫn còn sinh lực. Tất cả các tiệm lớn ở Chợ lớn,
Sài gờn và các tỉnh bị đóng cửa, hàng hóa, của cải bị tịch thu, nhưng họ cũng
đã giấu, dời được một số và số này lần lần xuất hiện ở chợ trời.
Kết quả lần đầu đó được khả quan nhưng chưa được mãn ý, hai
năm sau - 1978 - chính phủ đập một vố nữa: kiểm kê lại những nhà đã kiểm kê rồi,
cả những nhà đã trả môn bài, cống hiến một phần gia sản, xem họ còn giấu gì
không. Lần này kết quả không tốt đẹp lắm mà hình như có trường hợp lạm quyền,
chủ nhà gởi đơn khiếu nại tới trung ương và một hai năm sau, cứu xét xong, được
thu hồi những gì đã bị tịch thu trái phép.
Chợ trời
Các tiệm lớn bị đóng cửa càng nhiều thì chợ trời càng phát đạt,
càng đông, có đủ mặt hàng. Tất cả các tỉnh, các quận, đâu có buôn bán là đó có
chợ trời. Chỉ cần nửa thước vuông bày mươi món hàng, nhưng cũng có những cái sạp
lớn bán những đồ quí giá. Và cũng có những người cầm trong tay một chiếc đồng hồ,
một cái áo đứng ở lề đường mời người mua. Cảnh sát lại đuổi thì họ chạy đi, cảnh
sát đi khỏi rồi thì họ tụ trở lại, y như một bầy kiến bị ném một cục đá. Lâu
lâu chính phủ dùng xe căm nhông chặn trước chặn sau, tuôn thanh niên xuống gặp
thứ gì hốt thứ đó. Ít bữa sau, đâu lại vào đó. Họ đông quá, nhiều người thất
nghiệp quá, phải kiếm ăn cách đó. Những người khác cũng thất nghiệp ở nhà buồn,
ngày ngày đi dạo chợ trời, ngó kẻ mua người bán, đi hết một vòng chợ Bến thành
và Chợ cũ thì vừa hết một buổi, qua được một ngày. Cho nên chợ trời luôn luôn
đông như chợ phiên.
Chợ trời giúp cho cách mạng được nhiều: cán bộ ngoài Bắc vào
mua đồng hồ, máy thâu thanh, ti vi, tủ lạnh, xe đạp, giầy dép, qưần áo...; cán
bộ trong Nam được phân phối nhu yếu phẩm nào dư dùng cũng đem bán chợ trời (từ
lon sữa đến gói thuốc, chiếc áo thun...) để mua một vật gì khác ở chợ trời, vì
còn tiệm nào bán nữa đâu, mà những cửa hàng mậu dịch của chính quyền đã thiếu đủ
thứ, tiếp khách lại như đuổi khách, không ai muốn vào.
Khi tịch thu một cửa tiệm, những món nào chính phủ không dùng
mới đem bán cho dân: cũng treo bảng, dùng vài cô bán hàng, nhưng bán độ nửa
tháng hết hàng, phải dẹp. Mà những hàng đó cũng ngang giá chợ trời.
Có một hồi, chính quyền thành phố Hồ Chí Minh cương quyết
quét sạch chợ trời, bắt người ta đi kinh tế mới để thành phố bớt dân đi. Nhưng
ai cũng biết chính phủ làm không nổi. Được một hai tháng rồi lần lần chợ trời lại
mọc ra, mới đầu rụt rè, sau mỗi ngày mỗi mạnh, tới cái mức hơn trước nữa: chợ
trời chẳng phải chỉ chiếm lề đường mà chiếm nửa đường xe chạy, có chỗ chiếm trọn
đường, bít hẳn một khúc vài ba trăm thước (khu chợ Tân định), xe buýt phải đi
vòng lối khác.
Tới mức đó thì chính quyền đành chịu thua. Chỉ có một cách dẹp
chợ trời là kiếm công ăn việc làm đủ sống cho dân; đó là bổn phận của chính phủ,
mà chính phủ làm không nổi: có thể nói 70-80% dân Sài gòn và các thị xã thất
nghiệp, kẻ nào may mắn được làm công nhân viên hoặc ở trong một tổ hợp sản xuất,
gia công (nghĩa là nguyên liệu chính phủ cung cấp, mình chỉ làm công thôi) thì
không ai đủ sống, công việc lại không có đều đều, cũng kể như bán thất nghiệp.
Vậy thì đành phải để người ta xoay xở, buôn bán bậy bạ, kiếm cơm cháo cho gia
đình chứ. Vả lại chợ trời chẳng những giúp cho cán bộ như trên tôi đã nói, mà
còn giúp cho chính phủ nữa: cơ quan nào cần cái gì thì cứ ra chợ trời, từ chiếc
quạt máy, cái máy tính, dụng cụ y khoa, thuốc tây, đến cây bút bi... nếu không
mua ở chợ trời thì mua ở đâu?
Từ khi trung ương ra lệnh "không ngăn sông cấm chợ",
chợ trời được thể, phát triển càng mạnh. Riêng ở thị xã Long xuyên (nội ô) nó
phát gấp mười trước, đầy nghẹt các đường ở khu chợ, bán cả những đồ lậu từ Thái
lan qua (đồng hồ điện tử có lẽ của Nhật bán kí lô: một kí lô 37 chiếc chỉ phải
đổi ba chỉ vàng). Cứ một tiệm lớn bị dẹp mấy năm trước thì bây giờ mọc ra cả chục
cái sạp. Trước có 10 tiệm thuốc tây, bây giờ có 120 sạp thuốc tây ở chợ trời.
Tháng 8-1981 chính quyền mới ra lệnh dẹp hết các sạp thuốc tây, bắt họ phải mở
tiệm, có dược sĩ kiểm soát để khỏi bán đồ giả. Phải có vốn lớn mới thuê nhà, mở
tiệm, mướn dược sĩ được - nếu có đủ dược sĩ - như vậy là trở về chế độ tư bản
trước 1975 rồi. Cái vòng lẩn quẩn. Tôi đã nói môn kinh tế là môn khó khăn nhất.
Phân phối nhu yếu phẩm
Việc phân phối nhu yếu phẩm cho nhân dân, chính quyền thành
phố Hồ Chí Minh giao cho phường. Ở tỉnh, dân không được, chỉ cán bộ mới được
phân phối, nên việc đó giao cho các cơ quan.
Năm 1975 trong nước còn nhiều sản phẩm nên mỗi tháng mỗi người
dân ở thành phố được mua đủ gạo ăn, một hay nửa kí đường, một ít thịt cá, xà
bông, dầu lửa... Mới đầu giá những vật đó chỉ hơi thấp hơn giá chợ một chút,
nhưng sau vì đồng tiền mất giá, giá ngoài chợ tăng lên hoài mà giá chính thức
bán cho dân không tăng bao nhiêu, nên giá chợ có lúc bằng 5, bằng 10 giá chính
thức.
Sở dĩ chính quyền không thể tăng giá chính thức được vì nếu
tăng thì phải tăng lương công nhân viên tăng giá lúa thu mua của nông dân, sẽ
xáo trộn kinh tế.
Năm 1979, sản phẩm trong nước cạn dần, chính phủ phân phối
cho dân được rất ít: gạo, bo bo, mì sợi may ra còn được đủ, còn những thứ khác
thì năm thì mười họa mới được một chút ít (ba bốn tháng không có đường, bột ngọt,
diêm quẹt được một hộp, vải một năm được 2 thước, rồi 1 thước, 6 tấc mỗi người...)
Công nhân viên được ưu đãi dăm tháng được 25 gam bột ngọt, mỗi tháng được vài
ba lạng thịt; nhưng hạng cán bộ cao cấp có tiêu chuẩn riêng, có
"bìa", thì được phân phối quá đầy đủ.
Đó là chính sách chung của các nước trong phe chủ nghĩa xã hội.
Coi cuốn J'ai Choisi la Liberté của Kravchenko (sách đã dẫn) và cuốnOmbres
Chinoises của Simon Leys (Union générale d'éditeurs - Paris, 1975) chúng ta thấy
Việt nam y hệt Nga và còn thua Trung hoa một bực. Ở Trung hoa, Mao chia giới
cán bộ thành 30 cấp (thời Chiến quốc, Trung hoa chỉ có 10 cấp thôi, theo sách tả
truyện), mỗi cấp có tiêu chuẩn, đặc quyền riêng: y phục chia làm 3 hạng: hạng
cao nhất may toàn bằng hàng tốt, áo có 4 túi, thức ăn chia làm 5 hạng. Cán bộ lớn
thì phè phỡn, còn sinh viên chỉ được hai chén bột lỏng (trang 187). Vậy là Mao
một mặt đả phong kiến, mạt sát Khổng Tử, hủy hết các giá trị nhân bản, cả nền
văn hóa cổ, nhưng một mặt lại giữ các thói, tục phong kiến, trọng sự tôn ti hơn
thời cổ nữa. Đọc báo tôi thấy mỗi lần có cuộc hội họp của các nhân vật quan trọng
bất kì về một việc gì: đưa đón mộl sứ thần, khai mạc một cuộc triển lãm, điếu một
đồng chí... tòa soạn cũng chép đủ các chức vụ của các nhân vật từ trên xuống dưới,
mặc dầu những chức vụ đó có độc giả nào mà không biết. Và mỗi khi một vị mấy
tháng trước ở địa vị thứ ba chẳng hạn, bây giờ bị sắp xuống hàng 4 thì dân
chúng thì thầm, bàn tán, tìm lí do.
Chính phủ lại bắt dân hùn tiền lập hợp xã xã ttêu thụ nữa. Hộ
nào cũng phải mua ít nhất là một cổ phần 5 đồng ngân hàng. Mới đầu còn bán vài
chục món hàng không thuộc loại nhu yếu phẩm; từ 1979 thì gần như chỉ bán bầu,
bí, nhiều nhất là rau muống, giá rẻ hơn ngoài chợ một chút nhưng phẩm kém. Mỗi
năm tính lời một lần, số lời đem "tặng" chính phủ một phần lớn, còn
bao nhiêu chia cho xã viên, nhưng không cho rút ra, mà chẳng được bao nhiêu,
nên không ai xin rút ra. Cuối năm 1979, hợp tác xã phường tôi tuyên bố mất một
cái máy tính, cả ngàn bao ni lông v.v... Ai thường cho xã viên đây?
Cách thức phân phối rất bất tiện cho dân. Khi có nhiều món
hàng tới một lúc, phường phân phối cho mỗi hộ bao nhiêu thì hộ phải mua hết, cả
những món không dùng tới, không thì không được mua món nào cả. Không được lựa
chọn. Có hồi tháng nào cũng phải mua mấy chục viên đá lửa, kim chỉ, thuốc tháo
dạ...
Thịt tới 12 giờ trưa, cũng kêu dân đi mua, cá tới hồi 11 giờ
khuya, cũng đánh thức dân dậy. Các công sở lớn có hợp tác xã riêng. Giữa giờ
làm việc, xe chở cá (thường là cá biển) tới, công nhân viên xách giỏ, ùa ra lựa
cá rồi đem ngay lại máy nước trong sân tranh nhau rửa, làm cá; xong rồi mới trở
về phòng làm việc, có người đem thẳng về nhà, nghỉ luôn buổi đó. Tôi nhớ lại những
buổi dân làng tôi hồi xưa chia nhau thịt heo, thịt bò. Vui thật là vui.
° °
°
GIÁO DỤC - VĂN HÍA
Giáo dục
Chính quyền rất coi trọng giáo dục, mở rất nhiều nhà trẻ, trường
học từ mẫu giáo tới đại học. Giáo dục mới đầu hoàn toàn miễn phí, do đó có vẻ rất
bình đẳng. Ở đại học, sinh viên nào cũng được trợ cấp mỗi tháng 18 đồng, tuy
không đủ, nhưng cũng đỡ cho cha mẹ. Dĩ nhiên phải như vậy, nếu không thì không
ai cho con học đại học được.
Các đồng bào thiểu số cũng được dạy dỗ như người kinh, đó
cũng là điểm đáng khen nữa.
Trẻ em được cưng nhất, được coi là cháu bác Hồ. Nhà trẻ nào
cũng đẹp, có vườn rộng. Tại khu tôi ở, trên đường Nguyễn Văn Trỗi (xưa là
Trương Minh Giảng), hai nhà trẻ ở cách nhau có vài trăm thước, đều rộng rãi,
mát mẻ; hồi mới mở, đi ngang qua tôi còn thấy mươi trẻ em và vài cô giáo, một
năm sau không thấy bóng trẻ nữa. Cha mẹ không muốn gởi con, vì chúng không được
săn sóc kĩ, mà thuê một người già giữ giùm. Ở Hà nội có những tư nhân chuyên giữ
trẻ tại nhà mình, mỗi trẻ phải trả mười, mười mấy đồng một tháng. Có phúc nhất
là được ông bà nội hay ngoại trông nom cho. Nhiều bạn già của tôi phải làm
"Vú đực" giữ cháu. Cái gì quốc doanh cũng không bằng tư doanh.
Chỉ vì lương cán bộ ít quá, đói thì ai mà hăng hái cho được.
Mỗi thị xã có một cung thiếu nhi. Đúng là một cái cung: rộng
lớn, lộng lẫy ở giữa một khu vườn trồng nhiều cây cao, bóng mát.
Các trường mẫu giáo mọc ra như nấm. Riêng thị xã Long xuyên đầu
năm 1975 chỉ có dăm trường, thì năm 1980 có tám chục trường (kể cả ngoại ô). Điều
đó dễ hiểu. Trẻ em là mầm non của quốc gia, trẻ lại dễ uốn, tương lai của chế độ
ở trong đám đó, cho nên cần phải đào tạo kĩ, khắp.
Và người ta dạy phải ghi ơn bác Hồ trước hết. Sau ngày
30-4-75 mấy tháng, một cô giáo hỏi các em một lớp mẫu giáo ở Long xuyên:
- Ai nuôi nấng các em?
Chúng nhao nhao lên, vui vẻ đáp:
- Thưa cô, ba má.
Cô giáo bảo:
- Không phải. Bác Hồ nuôi chứ không phải ba má.
Và cô chỉ hình bác Hồ cho chúng coi. Chúng tiu nghỉu, chẳng
hiểu gì cả. Bác Hồ là ai? Chúng đã gặp lần nào đâu? Có bồng bế chúng lần nào
đâu? Có mua kẹo bánh cho chúng đâu? Cha mẹ các em đó nghe con kể vậy, bất bình,
có người không cho con tới lớp nữa. Họ không hiểu đường lối cách mạng, lạc hậu
quá.
Họ không hiểu chế độ ta là chế độ tập thể, cá nhân phải tách
gia đình để sống trong cơ quan, gia đình không quan trọng bằng đoàn thể, vậy
thì trẻ thoát li gia đình càng sớm càng tốt, vợ chồng sống xa nhau càng nhiều
càng tốt; ở Bắc vợ chồng làm việc ở hai tỉnh, vài tháng mới gặp nhau một lần là
chuyện thường. Lí tưởng là trẻ mới sinh ra, được xã hội nuôi thay cha mẹ, dạy
cho tới khi thành người, thành cán bộ. Lí tưởng đó chưa biết bao giờ mới đạt được.
Hiện nay cán bộ vẫn phải cần có đại gia đình, có cha mẹ trông nom con cái cho,
nấu ăn cho, làm nhiều việc trong nhà cho, vì ở tập thể họ thấy không thích bằng
ở nhà riêng; cho con vô nhà trẻ không bằng có cha mẹ săn sóc cho. Nhà tôi ở
Long xuyên không năm nào không giữ giùm một vài đứa trẻ, con của mấy đứa cháu đảng
viên cán bộ. Thiếu nữ Hà nội trong giới phong lưu những năm trước thế chiến,
khi kiếm chồng chỉ đặt một điều kiện: Phi cao đẳng bất thành phu phụ; Thiếu nữ
ngày nay đặt tới năm điều kiện mà họ gọi là 5B: Bằng cấp, Bìa, Buồng, Bà, Bình
bịch, nghĩa là có bằng phó tiến sĩ, có sổ riêng của hạng cán bộ cao cấp để mua
nhu yếu phẩm, có buồng riêng, vợ chồng không phải ở chung với một gia đình khác
trong một phòng ngăn đôi tại cơ quan, có bà nội hay ngoại làm bếp, giữ con cho,
và có xe máy dầu (Honda, Vespa...) mà ngoài Bắc gọi là xe bình bịch. Tôi không
biết phụ nữ các nước xã hội chủ nghĩa khác có đòi nhiều như vậy không, nhưng đọc
sách báo, tôi thấy họ cũng không muốn sống tập thể mà ước ao có một "ổ ấm"
riêng, như phụ nữ các nước tư bản.
Khi mới mở thêm trường mẫu giáo nào, cô giáo phải đi năn nỉ từng
nhà gởi con tới học. Em nào nghỉ lâu quá mà không cho hay thì cô giáo phải đích
thân tới tận nhà hỏi xem vì lí do gì. Cô nào chán dạy, xin thôi thì hiệu trưởng
phải tới nhà năn nỉ đừng thôi; họ cũng cứ thôi, thôi nhiều quá. Kì khai giảng
1980-1981, Long xuyên có khoảng 100 cô giáo mẫu giáo thôi dạy mà thị xã chỉ đào
tạo cấp tốc được 70 cô; niên khóa 1981-1982 cần 100 cô, chỉ có 15 đơn xin dạy.
Học mẫu giáo một hai năm, sáu tuổi lên cấp I, năm năm sau lên
lớp 6, cấp II, khỏi thi. Lên lớp 10, cấp III thì phải thi.
Năm 1975, một giáo viên cấp I ở Bắc vào cho tôi hay trong cả
3 cấp đó, giáo viên giờ học nào cũng phải tuần tự theo đúng 5 bước: bước 1: ổn
định lớp trong 2 phút; bước 2: kiểm tra bài cũ 10 phút; bước 3: giới thiệu bài
mới 1 phút; bước 4: giảng bài mới 20 phút; bước 5: củng cố bài mới, tức tóm tắt
lại cho học sinh hiểu rõ, dễ nhớ. Năm bước đó từ xưa nhà giáo nào cũng biết,
cũng theo, chỉ khác là không bị khép vào thời điểm: bước 2 và 4 có thề dài ngắn
tùy môn.
Điều lạ lùng nhất là người ta còn bắt buộc:
● Cùng một ngày đó, một giờ đó, tại khắp các trường (ít nhất
là cấp I) trong nước từ Lạng sơn đến Cà mau phải dạy cùng môn đó, cùng một bài
đó, cùng trong một sách đó.
● Hơn nữa, trong một giờ học đó, tới phút nào đó, các giáo
viên toàn quốc cũng phải làm những công việc đó, hỏi lại bài cũ chẳng hạn, rồi
tới phút nào đó lại nhất loạt làm công việc sau, chẳng hạn giảng bài mới...;
● Cùng một trường, các giáo viên dạy cùng một lớp phải họp
nhau cùng soạn bài với nhau cho ngày hôm sau để cùng đặt những câu hỏi như nhau
khi hỏi lại bài cũ, cùng giảng những điều như nhau khi dạy bài mới...
Tôi hỏi giáo viên cấp I ở Bắc vào đó:
- Thế lỡ hôm đó thầy giáo một lớp nào đau, nghỉ thì sao?
Đáp:
- Có người thay.
Lại hỏi:
- Ở trong Nam này miền Tây nhiều nơi vào giữa mùa lụt trường
phải tạm đóng cửa nửa tháng thì sao?
- Tôi không biết. Ti giáo dục ở tỉnh sẽ giải quyết.
Tôi lại hỏi:
- Ỏ Nga, Trung hoa có vậy không?
- Đó là chính sách của Nga, mình theo họ, không biết Trung
hoa có theo không.
Tôi nghĩ bụng: những chỉ thị vô lí như vậy, ai mà thi hành
triệt để được, sẽ thành "lettre morte" như người Pháp nói thôi. Và quả
nhiên năm 1981 nó đã thành như vậy.
Nhà giáo đó lại còn cho tôi hay: sách giáo khoa mà sai - và vẫn
thường sai - chẳng hạn bảo Sài gòn nằm trên bờ sông Cửu long thì tất cả các
giáo viên cũng phải dạy sai như vậy, không được phép sửa; rồi báo cáo lên ti,
ti lên bộ. Chỉ có bộ mới có quyền sửa sai, và phải hai ba năm sau, in sách mới,
người ta mới sửa.
Tôi thấy kì cục quá, không tin nổi, năm sau hỏi một giáo sư đại
học Hà nội, ông xác nhận là đúng: cái gì bộ giáo dục in thì phải coi là pháp điển,
phải tuân theo triệt để. Nhưng ông ta lại nói thêm: một trường cấp Il nọ gặp
trường hợp đó cho phép giáo viên muốn dạy theo sách cũng được, muốn dạy đúng sự
thực cũng được; cấp trên có hỏi, ông ta sẽ trả lời và chịu trách nhiệm.
Tôi hỏi:
- Như vậy thì cứ dạy đúng sự thực?
- Chỉ có một số ít thôi, còn đa số theo đúng sách, không dám
sửa.
Tôi hiểu chính sách của người ta rồi: luyện tinh thần kỉ luật,
làm tiêu ma óc phán đoán, ý chí cá nhân; và tôi không trách một đứa cháu tôi ở
Hà nội, một cán bộ cao cấp vào hạng trí thức, năm nay trên 60 tuổi, có tú tài
Pháp hồi thế chiến thứ nhì mà không có một chút tinh thần phê phán nào hết,
trên nói sao thì tin vậy, đúng như người Pháp nói; có thể "avaler touts
sorts de couleuvres".
Muốn vô đại học thì sức học không quan trọng bằng lí lịch. Gần
đây một hiệu trưởng ở Hà nội có uy tín, được sinh viên trọng, phải nhường ghế
cho người khác vì ông ta có lương tâm, thí sinh điểm cao mới cho vô học, lại
công bố số điểm của mỗi thí sinh nữa, bị cấp trên trách là không có lập trường
giai cấp. Còn ở Nam thì một ông bạn tôi làm ở ti giáo dục thành phố Hồ Chí Minh
bảo chính phủ sắp các thí sinh thành 12 thành phần: thành phần 12 thấp nhất gồm
con ngụy quân, ngụy quyền hạng nặng; rồi tới thành phần 11 gồm con ngụy quân ngụy
quyền hạng trung, cha còn đương "cải tạo"; cao hơn một cấp là con ngụy
quân ngụy quyền hạng nhẹ, con đại tư bản v.v..., cao hơn nhiều là con lao công,
thợ thuyền, cao nhất là con gia đình cán bộ hay hệt sĩ... Tôi nhớ đại khái như
vậy. Những thí sinh thuộc thành phần 12, 11, 10 thì dù học giỏi cũng không được
chấm bài, đừng thi vô ích. Vì vậy mà trên tôi đã nói: giáo dục chỉ có vẻ bình đẳng
thôi. Một cán bộ giáo dục ở Hà nội mới phàn nàn với tôi: con mình học giỏi, có
tên trong danh sách được tuyển đi học ở Nga, mà không chạy chọt thì già đời
cũng không được đi.
Có nơi thí sinh không có quyền lựa trường. Tỉnh cần bao nhiêu
sinh viên trong ngành nào thì chỉ cho thi vào những ngành đó lấy đủ số thì
thôi.
Ở Đại học và Cao đẳng, sinh viên ăn ở tập thể, được nhà trường
nuôi, nhưng vẫn phải xin cha mẹ mỗi tháng từ 100 đến 200 đồng để mua thêm thức
ăn. Ra trường chắc chắn được bổ dụng, số lương cao nhất mới đầu chỉ vào khoảng
60 đồng (từ 1980 trở về trước, giữa 1981 mới tăng lên). Thủ trưởng bắt làm gì
cũng phải làm: cán sự điện tử mà làm lao công, dược sĩ mà giữ kho... Một đứa
cháu tôi học lớp 11 được khen là tiên tiến mà muốn bỏ học, tập bán chợ trời,
cha mẹ khuyên bảo gì cũng không nghe, đáp: "Dù con có học 5-6 năm nữa thì
cũng chỉ tốn tiền ba má, mà tốt nghiệp ra, làm kĩ sư thì cũng không đủ ăn, tối
về vẫn phải đạp cyclo để kiếm thêm, thôi thì tập buôn bán hay lao động từ bây
giờ lại hơn."
Vì tất cả những lẽ trên, ở Nam thanh niên chán học, số học
sinh lớp 12 kém xa năm 1974 như trên tôi đã nói.
Một điểm tấn bộ là chính quyền mở nhiều lớp bổ túc văn hóa
cho công nhân viên, cán bộ. Dạy buổi tối, mỗi tuần học hai buổi, mỗi buổi 2 giờ.
Có đủ các cấp I, II, III. Vài cán bộ y sĩ, dược sĩ bốn năm chục tuổi, thời
kháng chiến không được học, nay học bổ túc từ lớp tư, lớp năm; đêm nào cũng học,
một năm lên 2, 3 lớp.
Học xong mỗi khóa phải thi. Nhưng thi rất dễ. Nghe nói có thầy
đọc câu trả lời cho thí sinh chép, vì bắt những cán bộ mấy chục tuổi đảng thi lại
hoài thì cũng kì, mà lại bị cấp trên trách là không biết dạy. Tiện hơn hết là
cho đậu bừa đi. Ai cũng biết đó chỉ là hình thức. Có dược sĩ trình độ mới tới lớp
tư, học rút trong hai năm hết lớp 10, như vậy đủ rồi. Một nhân viên công an cấp
cho tôi giấy phép đi đường một tháng mà đề từ 31-1 đến 31-2-1980.
° °
°
Văn hóa
Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất
cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của
Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyển Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm
1976 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc
Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền
không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó
mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ
những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng
những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông
mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ
ngâm... in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.
Năm 1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt
các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để
kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả
phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được
phép lưu hành.
Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt
bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông
tin văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi
trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ,
sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy.
Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ
tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà
được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
Một nhóm ba thanh niên cũng xin vào xét tủ sách của tôi. Nhà
tôi tiếp họ, hỏi:
- Các cháu học ở đâu? Có đọc sách ông Nguyễn Hiến Lê không?
Một người học Đại học, đáp có đọc sách tôi. Nhà tôi bảo:
- Nhà này là nhà ông Nguyễn Hiến Lê đấy.
Họ vội vàng xin lỗi rồi rút lui.
Lần đó sách ở Sài gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi
trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông
ấy kêu người lại bán với giá cao.
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ
thị "ba hủy", chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao
nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là
đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy),
và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán,
vật lí... Mọi người hoang mang, gặp nhau ai cũng hỏi phải làm sao. Có ngày tôi
phải tiếp năm sáu bạn lại vấn kế.
Mấy bạn tôỉ luôn nửa tháng trời, ngày nào cũng xem lại sách
báo, thứ nào muốn giữ lại thì gói riêng, lập danh sách, chở lại gởi nhà một cán
bộ cao cấp (sau đòi lại thì mất già nửa); còn lại đem bán kí lô cho "ve
chai" một mớ, giữ lại một mớ cầu may, nhờ trời.
Một luật sư tủ sách có độ 2.000 cuốn, đem đốt ở trước cửa
nhà, chủ ý cho công an phường biết. Rồi kêu ve chai lại cân sách cũng ngay dưới
mắt công an.
Ông bạn Vương Hồng Sển có nhiều sách cổ, quí, lo lắng lắm mà
cũng uất ức lắm, viết thư cho sở Thông tin văn hóa, giọng chua xót xin được giữ
tủ sách, nếu không thì ông sẽ chết theo sách.
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta
có trong nhà, đem lại sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên
Thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Hủy hết, hủy hết.
Bà Đông Hồ quen ông Giám dốc thư viện thành phố, bán được một
số sách cho thư viện, tặng thư viện một số khác với điều kiện được mượn đem về
nhà mỗi khi cần dùng tới.
Tôi nghe lời khuyên của một cán bộ Văn hóa, làm đơn xin sở
Thông tin văn hóa cho tôi giữ tủ sách để tiếp tục làm việc biên khảo, đơn đó
ông bạn cán bộ đem thẳng vô ông chủ sở, ông này chỉ đáp miệng rằng tôi là nhân
sĩ thành phố, cứ yên tâm. Họ có thói việc lớn, việc nhỏ gì cũng không trả lời bằng
thư, sợ lưu lại bút tích mà chịu trách nhiệm.
Ít tháng sau tình hình dịu lần rồi yên, không nhà nào bị kiểm
kê. Chính quyền bảo để xét lại và một năm sau, nạn "phần thư" kể như
qua hẳn. Tủ sách của tôi không mất mát gì cả, nhưng từ đó tôi không ham giữ
sách nữa, ai xin tôi cũng cho.
Ngành báo chí và ngành xuất bản, chính quyền nắm hết vì coi
đó là những công cụ giáo dục quần chúng. Ở Sài gòn chỉ thấy bán vài tạp chí
Nga, Ba lan, tư nhân muốn mua dài hạn phải đăng kí trước ở sỏ Bưu điện. Một người
cháu tôi từ Pháp gdi về cho tôi một tờ Nouvel Oservateur (của khối cộng), số đó
bị chặn lại. Nghe nói tờ Humanité của đảng cộng sản Pháp cũng không được bán
trong nước.
Tôi chưa thấy một cuốn sách Nga hay Trung hoa nào bán ở Sài
gòn, trừ mấy cuốn về Lénine, về khoa học đã được dịch ra tiếng Việt. ở các thư
viện Hà nội có thể có sách bằng Nga văn hay Hoa văn nhưng chỉ cán bộ mới được
phép coi, mà cán bộ trong ngành nào chỉ được coi về ngành đó thôi. Cũng có người
đọc lén được.
Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến
1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc
vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng
không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có
thể đoán được. Một nhà văn hợp tác với viện khoa học xã hội lại nhờ tôi giới
thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt dể dịch cho viện bộ
Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một
ông "bự". Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không nổi vì phải tạo hằng ức
danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đâ có một vạn thuật ngữ
rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi
lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người
ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết
có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ Văn hóa vào
hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!
Tháng 4-1980, có một thông cáo cấm kiều bào hải ngoại gởi một
số đồ nào đó về cho thân nhân trong nước, như quần áo cũ, các thực phẩm đóng hộp,
các thuốc tây không có prospecties cho biết cách dùng, trị bệnh gì..., mà chỉ
cho người ta một thời hạn không đầy một tháng để thi hành. Kẻ nào thảo thông
cáo ra quyết định đó không hề biết rằng những gia đình có thân nhân là kiều bào
ở những nơi xa xôi, hẻo lánh khắp thế giới, phải viết thư cho họ thì họ mới biết
mà thi hành chỉ thị được; và ở thời này, thư máy bay từ Sài gòn ra Hà nội mất
có khi một tháng (trường hợp của tôi), từ Sài gờn qua Pháp, Gia nã đại mất hai
tháng, có khi bốn tháng. Báo chí vạch điểm đó ra cho chính quyền thấy, họ mới
gia hạn cho thêm 5 tháng nữa. Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của
dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?
Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với
nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy
anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có
bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài gòn, lóa mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói
láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Một anh bộ đội đi xe đò từ Long xuyên lên Sài gòn nghe hai chị
bình dân miền Nam nói với nhau lên Sài gòn sẽ mua xe tăng, máy bay, tàu chiến...
mỗi thứ vài chục cái; anh ta hoảng hồn, tới trại kiểm soát vội báo cho kiểm
soát viên hay có gián điệp trên xe. Chiếc xe phải đậu lại ba bốn giờ để kiểm
soát, điều tra rất kĩ, sau cùng mới hay rằng hai chị hành khách đó đi mua máy
bay, xe tăng, tàu chiến bằng mủ về bán cho trẻ em chơi. Hành khách trên xe nổi
dóa, chửi thậm tệ anh bộ đội; khi xe tới bến Phú lâm, họ còn đánh anh ta tơi bời
nữa. Kết quả của nền giáo dục miền Bắc như vậy. Chính một cán bộ nói với tôi:
"Càng học càng ngu. Thầy ngu thì làm sao trò không ngu? Nhồi sọ quá thì
làm sao không ngu? Có được đọc sách báo gì ngoài sách báo của chính quyền đâu
thì còn biết chút gì về thế giới nữa?"
Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà nội người nào có được 50 cuốn
sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi
nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn,
bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin
lời đó được.
Trước 1975, thấy cuốn nào in ở Bắc cũng từ 10.000 bản trở
lên, có thứ 30.000, 100.000 bản, tôi và các bạn tôi phục đồng bào ngoài đó ham
đọc sách. Bây giờ tôi hiểu lí do. Hà nội mỗi năm xuất bản không biết được 100
nhan đề không (trong này, thời trước được khoảng 1.000 nhan đề); sách được gởi
đi khắp nơi không có sự cạnh tranh, mà ai cũng "đói sách"; lại thêm
nhiều sách có mục đích bổ túc cho sách giáo khoa, nhất là loại dạy chính trị,
như vậy in nhiều là lẽ dĩ nhiên. Sách bán rất rẻ, nên cuốn nào viết về văn học,
sử học mới ra cũng bán hết liền. Mấy năm nay, giấy khan, in ít, sách vừa phát
hành đã bán chợ đen ở Hà nội, không vào được tới miền Nam; những cuốn như lịch
sử tỉnh Vĩnh phú, ngay cả bộ Hồ Chí Minh toàn tập, ở Long xuyên không làm sao
kiếm được một bản, các cơ quan giáo dục cũng không mua được. Trái lại bộ Lê Nin
toàn tập giấy rất tốt, thì ở khắp miền Nam bán chạy veo veo; người ta mua về để
bán kí lô.
Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều,
trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng
chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.
° °
°
Y TẾ
Tại các nước tiên tiến ở Tây phương, trung bình cứ 1.000 dân
có một bác sĩ; mà họ cho là còn thiếu, phải tăng gấp đôi số bác sĩ mới đủ. Ở miền
Nam nước mình, trước 1975 khoảng 10.000 dân có một bác sĩ, mà đa số làm việc ở
thành thị, thành thử nông thôn có nơi 20.000 dân mới có một bác sĩ. Như vậy bất
công, sức khỏe nông dân không được săn sóc, họ phải dùng thuốc bắc, thuốc nam
do các thầy lang bốc cho.
Tình trạng đó chung cho các nước kém phát triển. Trước 1975
tôi được đọc một cuốn của một bác sĩ Âu nghiên cứu các nước đó ở Phi châu. Đại
ý ông đề nghị phải đào tạo thật mau nhiều nhân viên y tế cho nông thôn. Cho họ
học độ sáu tháng, biết ít điều căn bản về vệ sinh (chà răng, nấu nước trước khi
uống, đề phòng một số bệnh như sốt rét, tháo dạ, kiết, nhất là các bệnh truyền
nhiễm), biết băng bó, chích thuốc và biết dùng 5-6 chục thứ thuốc thông thường.
Dân trong ấp, xã bị bệnh thì lại họ trước, họ không trị được
thì đưa ngay lên quận; quận có bác sĩ đa khoa, trị không được thì đưa ra tỉnh;
tỉnh có bác sĩ chuyên khoa, đủ dụng cụ, đủ thuốc... Lần lần nhân viên y tế nông
thôn vừa làm việc vừa học thêm, có thể lãnh trách nhiệm quan trọng hơn, đưa lên
giúp việc ở quận.
Chính sách đó rất hợp lí và chính quyền mình cũng đã áp dụng
nó. Đó là một điểm tấn bộ.
Nhưng vì chiến tranh, nhân viên y tế các cấp của mình đa số
ít được học, nên chúng ta thấy những y sĩ (y sĩ Bắc có quyền ra toa, nhưng kém
bác sĩ một bực), học chỉ tới lớp năm (hết cấp I), chỉ biết dăm chục tên thuốc,
không biết đo huyết áp, không biết thế nào là đau mắt hột..., chỉ đáng làm một
nhân viên y tế nông thôn thôi. Còn bác sĩ được đào tạo ở Bắc thì xét chung, sự
hiểu biết cũng kém xa bác sĩ đào tạo ở Nam.
Thêm cái nạn bác sĩ cũ ở Nam, Trung vượt biên nhiều quá có thể
nói cứ mười người thì 5 người đã đi rồi, hai ba người cũng tính đi nữa; số bác
sĩ đào tạo ở Sài gòn không được bao nhiêu, thành thử thiếu rất nhiều; các bác
sĩ làm tại các dưỡng đường thường phải khám bệnh cho cả trăm bệnh nhân một
ngày. Nhân viên y tế nông thôn cũng thiếu, tinh thần trách nhiệm rất thấp: một
huyện nọ người ta tiêm thuốc ngừa dịch tả cho ba người lớn và chín trẻ em thì
tám trẻ chết.
Tệ nhất là nạn thiếu thuốc, thiếu cả thuốc đỏ, thuốc tím, do
đó sinh ra nạn ăn cắp thuốc, ra toa cho người không có bệnh để họ bán thuốc chợ
đen. Có nơi có cả một tổ chức chặt chẽ từ trên xuống dưới để ăn cắp thuốc như vậy
và nhiều bác sĩ, y sĩ miền Nam đã bị nhốt khám. Ở Bắc, một số báo Nhân dân đầu
tháng 8-1981 cũng kêu ca về nạn đó.
Cũng may mà có hằng trăm ngàn kiều bào ớ ngoại quốc gởi thuốc
về giúp thân nhân, nếu không sức khỏe của dân sa sút không biết tới đâu.
Vì không thể trông cậy ở khoa châm cứu được: đa số các thầy
châm cứu chỉ mới được học 5-6 tháng, không có kinh nghiệm mà chính khoa đó hiệu
quả cũng rất hạn chế. Người ta rêu rao rằng, châm cứu trị tuyệt được bệnh loét
bao tử, bệnh trĩ v.v..., kiên nhẫn theo người ta bốn năm tháng, rốt cuộc tiền mất,
tật mang.
Thuốc bắc kiếm không ra vì không được nhập cảng, mà thuốc nam
(gọi là thuốc dân tộc) cũng không có đủ. Nhà Võ Văn Vân không bào chế nhiều thứ
thuốc nữa vì thiếu dược liệu hay vì không có lợi? Báo chí có hồi rầm rộ khen
rau dấp cá trị được bệnh trĩ, mà đã có nhà nào nấu cao rau dấp cá cho dân chưa?
Tôi đã uống thử, thứ rau đó không phải là thần dược như người ta khoe.
Tệ nhất là nạn thiếu vệ sinh. Ai cũng biết y tế phải lo vấn đề
vệ sinh cho dân trước hết; nhưng vì thiếu tiền, thiếu nhân viên (mặc dầu nhiều
cơ quan khác dư nhân viên), hoặc vì chính sách, đường lối, nên từ cơ quan tới
đường sá, tư gia, đâu đâu cũng dơ dáy. Sau ngày 30-4-75, khẩu hiệu "Nhà sạch,
đường sạch" được dán ở khắp đường phố Sài gòn, và ở các tỉnh, thị xã nào
cũng sạch sẽ được dăm sáu tháng; rồi từ đó mỗi ngày mỗi dơ. Nhiều cơ quan nuôi
gà, heo ngay trong phòng của họ và từ trên lầu thượng họ trút nước dơ xuống đường.
Phòng bệnh nhân trong các bệnh viện hôi hám không chịu nổi; phải bịt mũi khi đi
tới gần cầu tiêu. Không có lao công lo việc vệ sinh, các y tá phải thay phiên
nhau lau chùi hành lang, họ làm lấy lệ, lau xong vẫn như chưa lau; còn trong
phòng thì gia đình bệnh nhân phải quét dọn lấy, ai nấy chỉ lo chỗ thân nhân
mình nằm thôi. Ngay giữa thị xã Long xuyên, bên hông tu viện cũ của Thiên Chúa
giáo - nay là một cơ quan gì đó - người ta phóng uế đầy đường. Có chỗ dân bỏ
kinh tế mới mà về, ăn ngủ ngay trên lề đường, phóng uế ngay chỗ đông người mà cảnh
sát ngó lơ.
Gần cuối kế hoạch năm năm đầu tiên (1976-1980), người ta làm
một "chiến dịch" vệ sinh để "dứt điểm" và người ta lựa ngay
khu sạch sê nhất trong thị xã làm "thí điểm", phái một nhóm đi xịt
thuốc DDT cho từng nhà; thuốc đã pha loãng nhiều rồi mà lại chỉ xịt vài phòng tối,
vài bụi cây thôi. Không cần xem xét chỗ chứa rác, cầu tiêu. Thế là xong chiến dịch,
có thể báo cáo lên trung ương là đã dứt điểm.
Chính sách, đường lối tuy đúng mà thiếu người, thiếu phương
tiện, thiếu tinh thần thì cũng hóa dở.
° °
°
TƯ PHÁP
Từ năm 1975, trường luật bị bãi bỏ. Sinh viên luật có thể xin
chuyển qua ngành kinh tế, ra làm các ngân hàng. Nhưng đa số bỏ học, làm phu
khuân vác, đạp xích lô. Một ông ngoài năm chục tuổi ngồi xe, nghe người thanh
niên đạp xe nói chuyện với bạn gặp giữa đường, biết họ là bạn trường luật với
nhau, vội vàng đòi xuống xe, trả tiền cả cuốc, rồi đi bộ về nhà. Sinh viên đạp
xe đó năn nỉ khách lên ngồi, ông nhất định không chịu, không nhẫn tâm để một
trí thức đạp xe cho mình. Cậu ta bảo: "Như vậy là bác giúp cháu có cơm ăn
mà", ông ta cũng cớ lắc đầu nguây nguẩy rồi rảo bước đi.
Đó là chuyện năm 1975. Nay thì thanh niên trí thức làm đủ các
việc lao động rồi, bổ củi mướn, chở cát, vác gạo..., không ai ngạc nhiên, mà
cũng không ai thương hại cho họ nữa, họ dễ dàng kiếm được vài ba chục đồng một
ngày mà lại tự do, chứ làm thư kí ngân hàng 40 đồng một tháng thì sống sao nổi.
Vả lại lao động là vinh quang mà. Nữ sinh viên thì bán thuốc lá rời hoặc quần
áo cũ ở lề đường.
Trong Nam trước 1975 chưa có bộ luật mới, tạm dùng bộ luật
cũ. Còn ớ Bắc bỏ luật cũ mà không có luật mới (nghe nói năm 1981 người ta mới
tính thảo bộ luật mới), không có trường luật thì tôi không hiểu người ta dạy xử
án ra sao.
Năm 1975 có lần tổ chúng tôi họp để xử một người trong tổ mắc
một tội nào đó tôi không nhớ. Ông tổ trưởng đề nghị hai cách trừng trị: một là
bắt người đó bồi thường, nếu không bồi thường được thì tịch thu tài sản; hai là
bắt người đó đi cải tạo một thời gian. Cách nào được nhiều người đồng ý thì
theo cách đó.
Khi phường có tòa án nhân dân rồi (năm 1978?) thì để tòa xử.
Một "ông tòa" là học trò cũ của một bạn tôi. Tôi hỏi cậu ta:
"Cháu xử theo luật nào?" Cậu ta cười, đáp: Cháu đặt ra luật để xử -
Thực vậy sao? - Dạ, bây giờ ai đặt luật cũng được. Vì có bộ luật nào đâu?
Cũng có luật sư do chính quyền chỉ định để bênh vực cho bị
cáo. Luật sư ăn lương, theo nguyên tắc không được nhận thù lao của thân chủ.
Nhưng một người bà con tôi đậu cử nhân luật thời tiền chiến, năm 1970 làm thị
phó Hải phòng, rồi hồi hưu, được làm luật sư, bảo tôi nếu giúp đỡ được nhiều
cho thân chủ thì người ta cũng đền công mình, và mối năm được vài ba vụ, cộng với
số tiền lương, gia đình ông sống phong lưu.
Chính phủ bênh vực giai cấp vô sản; hạng bần dân dù bị tội nặng
cũng xử nhẹ - trừ tội phản động dĩ nhiên. Những vụ ăn trộm, ăn cắp thì luôn
luôn cảnh cáo qua loa rồi thả, bảo người đi thưa: "Người ta nghèo nên phải
ăn trộm, anh có của thì anh phải giữ. Muốn bỏ tù người ta thì anh phải nuôi
cơm".
Nếu trong khi bắt kề trộm, lỡ tay đánh nó bị thương thì mình
có lỗi, chứ kẻ trộm không có lỗi.
Có lẽ vì vậy mà 5-6 năm nay gần như không nhà nào trong tổ
tôi không bị ăn trộm, ngay ông tổ trưởng cũng mấy lần bị mất xe đạp, máy thâu
thanh. Tôi còn bị trộm nhiều hơn nữa. Còn việc bẻ trộm trái cây, bắt trộm gà vịt
thì rất thường, tới nỗi không ai muốn trồng trọt, chăn nuôi gì cả.
Một ông tổ trưởng có một vườn măng cụt, sầu riêng, chôm chôm ở
Lái thiêu, huê lợi trước 1975 rất khá, mà năm 1978 phải bỏ vì nạn ăn cắp. Đó là
một nguyên nhân kinh tế suy sụp, của công bị mất cắp, ngân hàng bị thụt két.
Một người khác có một vườn trồng mấy trăm gốc chuối, chỉ
trong một đêm chúng hạ hết những buồng nào gần ăn được. Dừa, nhãn, xoài, đu đủ...
đâu đâu cũng vậy. Cứ kể như mình phải chia cho chúng một nửa huê lợi thì mới được
yên thân. Tôi không hiểu ở Bắc ra sao và như vậy rồi sẽ đi tới đâu.
Hiến pháp vẫn trọng quyền tư hữu nhỏ, nhưng đảng còn trọng lập
trường giai cấp hơn. Giai cấp được trọng nhất là giai cấp đảng viên, như giai cấp
quí tộc đời Chu ba ngàn năm trước: họ phạm một tội gì như ăn cắp, hối lộ, ức hiếp
dân, giết dân v.v... thì đảng xét xử trước, nếu cần mới đưa họ ra tòa; thường
thì chỉ cảnh cáo họ thôi chớ không đưa ra tòa; tòa không được bắt giam họ, trừng
trị họ (trừ vài trường hợp đặc biệt) nếu không được phép của đảng. Giai cấp yên
thân nhất là giai cấp vô gia cư, vô nghề nghiệp.
Tôi nói với một anh bạn học cũ, làm "tòa" - danh từ
mới là gì, tôi không biết - rằng đời Chu ở Trung hoa, hình pháp của triều đình
chỉ để xử bọn dân đen, còn bọn quí tộc có tội thì họ xử lần nhau bằng "lễ"
tức tục lệ riêng của họ. Đó là ý nghĩa câu: Hình bất thướng đại phu, lễ bất há
thứ dân. Bây giờ ngược lại. Đó là thắng lợi nhất của giai cấp vô sản. Mà có lẻ
đó cũng là áp dụng một phần chính sách làm chủ tập thể nữa chăng?
Tôi không được biết hiến pháp đầu tiên của chế độ. Quốc hội
đã họp nhiều lần để sửa hiến pháp đó ngay khi quốc gia được thống nhất, nhưng
mãi đến 1981, mới ban bố hiến pháp mới, còn bộ luật thì chắc phải đợi nhiều năm
nữa.
° °
°
NGOẠI GIAO
Về ngoại giao nước mình đã đứng hẳn về phe cộng sản. Như vậy
các nước tư bản ngại không muốn đầu tư vào Việt nam mà sự phát triển kinh tế sẽ
chậm.
Khi Miên, Việt hục hặc nhau ớ biên giới (nghe nói từ đầu năm
1976?) thì tôi đã ngạc nhiên; rồi đầu năm 1979, Trung hoa đem quân tàn phá mấy
tỉnh cực bắc của mình thì ai cũng chán nản, kể cả một số bạn của tôi ở Bắc. Thế
này thì tình anh em trong thế giới cộng sản cũng chẳng đẹp gì hơn tình giữa các
nước tư bản với nhau ư?
Luôn trên hai chục năm từ 1950 đến 1974, Trung hoa hết lòng
giúp mình thắng thực dân Pháp, rồi Mĩ mà mới ba năm sau khi thắng Mĩ, Hoa Việt
đã choảng nhau là nghĩa lí gì? Nguyên do ở đâu?
Có người bảo tại trong hiệp định Paris, mình và Trung hoa, có
lẽ cả Mĩ nữa, đã thỏa thuận ngầm với nhau về một điều nào đó rồi mình không giữ
lời hứa, nên Trung hoa phải "ra tay" và Mĩ đứng về phía Trung hoa. Có
phải vậy chăng? Mà thỏa thuận ngầm đó ra sao?
Có người lại bảo tại mới thắng được Mĩ, mình đã muốn làm chủ
cả bán đảo Đông dương, lãnh đạo Miên, Lào thành một cường quốc chặn đế quốc
Trung hoa không cho tiến xuống miền Đông nam Á. Còn theo chính phủ thì chỉ tại
Trung hoa muốn bành trướng xuống Đông nam Á mà mình không chịu lệ thuộc nên họ
xúi Miên phá mình và đích thân quấy rối mình nữa.
Người dân không sao biết được những bí mật ngoại giao, quân sự.
Cứ tuân lệnh chính phủ thôi. Và toàn dân phải tuân lệnh chống với kẻ thù cả hai
phía: phía tây nam và phía bắc. Một mình không chống nổi với Trung hoa, chúng
ta phải nhờ cậy Nga, đứng hẳn về phía Nga, mà Nga vốn bất hòa với Trung hoa từ
1960. Nga bỗng nhiên được những căn cứ quân sự rất tốt ở Đông nam Á và sát biên
giới Trung hoa, từ trước không hề mơ tưởng tới, sẵn lòng giúp mình liền. Tránh
lệ thuộc Trung hoa thì mình lại lệ thuộc Nga, vậy là bạn ở xa mà kẻ thù ở gần.
Lại thêm, khắp Đông Á, từ Nhật bản, Phi luật tân tới Mã lai á, Indonésia, Thái
lan không một nước nào không ngại sự Nga có căn cớ quân sự ở miền này, nên có
ác cảm rõ rệt với mình. Tôi ngại rồi đây Đông Á sẽ biến thành Tây Á để cho tư bản
và cộng sản tranh nhau ảnh hưởng.
Vậy là chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình mới chấm dứt được
vài năm thì chiến tranh thứ ba đã bắt đầu. Từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến
nay đã trên 35 năm rồi, gần như chiến tranh liên miên, bây giờ còn phải chịu họa
binh đao mấy chục năm nữa? Khắp thế giới không có dân tộc nào khổ như mình.
Công việc kiến thiết quốc gia đành chậm lại nữa, kinh tế sẽ xuống dốc nữa.
Trong cuộc hội họp một nhóm giáo sư Đại học ở Hà nội, có người đã phàn nàn:
"Nous payons notre idiotie".
Nghe nói một cán bộ cao cấp ở Bắc việt trong một phái đoàn
ngoại giao qua Ý, bỏ phái đoàn mà xin tị nạn chính trị, tuyên bố với thế giới rằng
lí do chỉ vì ông ta chán ngán vì thấy Việt nam có một lực lượng binh bị mạnh thứ
sáu trên thế giới mà về kinh tế thì đứng vào hàng mười nước nghèo nhất thế giới.
Cao miên và cả Lào thành một gánh nặng cho dân tộc mình. Các
thành phố Cao miên vẫn còn vắng hoe, dân tản cư chưa về bao nhiêu, thiếu điện,
thiếu nước, chợ búa lèo tèo ít người, nhân viên các cơ quan thì một nửa là người
Việt, phải làm hết mọi việc cho người Miên; dân chúng miễn cưỡng theo chính phủ
mình chứ 100 người thì cả 100 chỉ mong Sihanouk về. Mỗi ngày Nga đổ vào nước
mình sáu triệu rúp hay Mĩ kim (?) thì mình đổ vào chiến trường Bắc việt và Cao
miên bao nhiêu?
° °
°
TÔN GIÁO
Về tôn giáo, chính sách của chính phủ là tôn trọng tự do tín
ngưỡng, miễn là các giáo phái yên ổn tụng niệm.
Mấy năm đầu có vài sự bất hòa, xung đột nhỏ, dẹp được ngay (bắt
một số tu sĩ Công giáo và Phật giáo), và hai ba năm nay chính quyền trả lại
chùa chiền cho giáo hội, không dùng làm nơi hội họp nữa; ở vài nơi tín đồ tới
chùa khá đông, rất ít đàn ông. Nhiều nhà tu hành hoàn tục để mưu sinh. Cũng có
một số vượt biên. Không còn hạng khất sĩ nữa, họ tự giải tán, mỗi người đi mỗi
nơi để kiếm ăn.
Có thể nói chính sách của mình cởi mở hơn Trung hoa.
Đảng viên không được theo tôn giáo, cũng không được cúng giỗ
tổ tiên, nhưng được phép "tưởng niệm" (sic) mà không đốt nhang, không
vái, ai muốn làm giỗ ông bà thì phải đóng cửa làm lén.
CHƯƠNG XXXI - KẾT QUẢ SAU 5 NĂM
"T
hất-Bại Trong Hòa Bình"
Mấy tháng đầu sau ngày 30-4-75, các bạn kháng chiến, già cũng
như trẻ, nhất là trẻ, đều có tâm lí chung là hăm hở hưởng thụ sau mấy chục năm
gian khổ sống chui, sống nhủi trong rừng, trong bụi, dưới hố dưới hầm. Đành rằng
phải bắt tay ngay vào việc kiến thiết, nhưng đã có đường lối sẵn rồi, có kinh
nghiệm hai chục năm ở Bắc thì không có gì khó; vả lại đã thắng được Mĩ, thành
cường quốc thứ ba trên thế giới, sau Nga và Trung hoa thì có việc gì mà làm
không được, chỉ trong 5 năm sẽ tiến bộ, hai chục năm sẽ đuổi kịp Nhật bản về
kinh tế.
Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ đã
không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách
mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa,
tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. "Đó là quyền của
mình mà!"
Tóm lại, ai cũng "hồ hởi", tin tưởng. Chỉ có thủ tướng
Phạm văn Đồng là tỏ vẻ ưu tư một chút. Trong một cuộc hội họp ở Sài gòn, ông bảo
các bạn đồng chí: "Nous avons gagné la guerre, il ne faut pas perdre la
paix" (Chúng ta đã thắng trong chiến tranh, đừng để thất bại trong hòa
bình). Ông thấy rằng thắng được địch rồi mới là khởi sự bắt tay vào việc, chưa
thể nghỉ ngơi, hưởng thụ được; mà công việc kiến thiết trong thời bình còn khó
khăn gấp bội công việc diệt địch. Thời chiến hễ nung được lòng yêu nước của quốc
dân rồi, giữ cho lòng đó đừng giảm, quốc dân kiên trì chịu đựng được tớỉ phút
chót thì không còn vấn đề gì nữa: thiếu cái gì đã có Nga, Trung hoa cung cấp
cho; trái lại trong thời bình mới phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, ngoại
giao, kinh tế, nhất là kinh tế. Nước ta nghèo, thiếu vốn đầu tư thiếu kĩ thuật
gia, khó phát triển kinh tế mau được. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của
cách mạng sụp đổ.
Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu
tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà
còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5
năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong
khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.
- Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc
dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn
miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực
làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối 1975 đã có
đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần
trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài gòn, bàn về vấn đề thống
nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Đào Duy Anh (đã có hồi sống ở
Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói
mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống
nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.
Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự
chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc
rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có thể nói
90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc.
Có nhiều nguyên nhân.
Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm,
coi người Nam là "ngụy" hết, trụy lạc, bị nhiễm độc nặng của Mĩ. Ngay
hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến rằng dân Sài gòn
hư hỏng quá rồi Họ chỉ nhìn bề ngoài, chỉ thấy một số thanh niên híp pi, lêu
bêu ở ngoài đường; tôi phải giảng cho họ hiểu rằng đó chỉ là thiểu số, chứ đại
đa số người trong này ghét Mĩ, ghét văn minh Mĩ, có thể nói gia đình nào cũng
có người có cảm tình với kháng chỉến, giúp kháng chiến cách này hay cách khác,
nếu không vậy thì làm sao kháng chiến thành công được. Chỉ nội một việc biết
người nào đó là kháng chiến mà không tố cáo cũng đủ có công với kháng chiến, chớ
đừng nói là còn che chở, giúp tlên bạc, tiếp tay cho nữa. Chỉ trừ một số phản
quốc, theo Mĩ, Thiệu triệt để vì quyền lợi, còn thì không có gia đình nào trong
Nam là ngụy cả. Một số người yêu nước, có tư cách, mới đầu gia nhập kháng chiến,
sau vì lập trường chính trị, phải rời hàng ngũ, về thành, mà không ưa Pháp, Mĩ,
hạng đó không nên coi người ta là ngụy. Bọn thanh niên hư hỏng chỉ ở Sài gòn mới
có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.
Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực
dân da trắng đối với dân "bản xứ", tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm
nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho
họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: "Tôi là
kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa".
Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng
chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những
dốt về văn hóa, kĩ thuật - điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ
không được học - thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy
nhau... Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự
hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất
vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã
hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ,
học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú...
Thì ra: "Nhìn xa ngỡ tượng tô vàng... "
Ngay giữa các đồng chí cũng không có tinh thần đoàn kết: địa
phương nào chỉ làm lợi cho địa phương đó, không nghĩ tới quốc gia; cơ quan nào
cũng chỉ làm lợi cho cơ quan mình mà không giúp đỡ cho cơ quan bạn; ai nấy chỉ
lo cho bản thân mình thôi mà không nghĩ tới đoàn thể. Một ông bạn tôi ở Hà nội
vào Sài gòn để đòi số tiền vài cơ quan khác thiếu của cơ quan ông. Tôi ngạc
nhiên hỏi: "Đâu phải là xí nghiệp tư mà giữ tiền lại để làm lợi cho mình.
Đều là của công hết mà. hễ thu được tiền thì tự nhiên họ trả lại cho cơ quan
anh, sao phải vào tận đây để đòi?" Anh bạn ấy đáp: "Nếu họ nghĩ như
anh thì còn nói gì?".
Trong mỗi cơ quan ở Sài gòn cũng có sự chia rẽ. Cùng là công
nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn
ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc,
nay trở vô Nam; bọn "nằm vùng" cũng không ưa bọn tập kết về đó; bị
khinh nhất là bọn ngụy được tạm dùng lại, mà bọn này thạo việc hơn hết. Chỉnh
vì thiếu đoàn kết cho nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào
"Đoàn kết, đại đoàn kết". Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô
tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với
nhau vì quyền lợi thôi; đo đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và ở Bắc
có câu này: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.
Hễ thân với nhau thì giúp đỡ nhau, công việc gì cũng dễ dàng,
chứ cứ áp dụng đúng qui chế thì khó khăn nhất, chậm trễ nhất; người ta lè phè,
tà tà, không làm cho mình đâu, nhắc nhở hoài chỉ làm cho người ta thêm ghét. Cờn
đâu là tinh thần tập thể nữa?
- Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất
công hơn thời trước nhiều.
Marx và Lénine muốn tạo một xã hội không có giai cấp, công bằng,
bình đẳng. Nhưng Staline cho sự bình đẳng là "không xứng" (indique) với
một xã hội theo chủ nghĩa xã hội (1), và ở Nga, theo nhà bác học Sakharov
(trong một bài báo đã dẫn) thì năm 1972 xã hội đã bất bình đẳng mà còn bất
công. Không còn tình trạng tư bản bóc lột thợ thuyền, nhưng giai cấp lãnh đạo
được hưởng rất nhiều quyền lợi còn giai cấp công nhân thì sống thiếu thốn. Cây
quạt lương bổng (eventail des salairs) vẫn mở rộng, có phần còn hơn ở các nước
tư bản; nói cách khác, lương giữa một viên giám đốc với một thợ không chuyên
môn còn cách biệt nhau rất xa, hơn ở phương Tây. Kravchenko trong cuốn đã dẫn
cũng phàn nàn rằng các đồng chí "bự" (grosses légumes) sống như ông
hoàng, có phòng ăn nêng, thức ăn riêng, tiệm mua dược phẩm riêng, thợ hớt tóc
riêng, nhà thương riêng, cầu tiêu riêng... cái gì cũng riêng, và ông ta chua
xót thấy cách bóc lột thời ông bất lương hơn cách thời Nga hoàng (trang 525,
105).
Ở nước mình cũng như Nga, không còn cái tệ tư bản bóc lột thợ
thuyền; chế độ lương của mình còn hơn Nga là không có sự cách biệt rất xa giữa
cấp cao và cấp thấp: công nhân viên mới vô được khoảng 40 đồng một tháng, kĩ sư
mới ra trường được khoảng 55 đồng, giám đốc khoảng 150 đồng, bộ trưởng 200 đồng;
nhưng các cán bộ cao cấp cũng được hưởng rất nhiều quyền lợi, tha hồ mua thức
ăn, đồ dùng đủ thứ với giá chính thức; nghe nói có trường hợp vợ họ mua về bán
chợ đen; và một người Nga hay Đức đã phải bảo lương những cán bộ tuy chỉ có 200
đồng mà sự thực họ được hưởng ít nhất là 2.000 đồng. Thủ tướng Phạm văn Đồng có
lần đề nghị sửa đổi chế độ lương bổng: tăng lương cho những cấp trên, nhưng sự
phân phối nhu yếu phẩm thì đồng đều; đề nghị đó bị đảng bác bỏ.
Có người nói một số "ông lớn" đi đâu cũng có người
hầu xách bình nước sâm Cao li để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có
một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi
không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do "anh em
cách mạng" đưa ra cả.
Một ông bạn tôi bảo có vô nhà thương mới thấy có cả chục
(sic) giai cấp bệnh nhân, tùy giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao,
trị bệnh ra sao, cấp thứ thuốc nào v.v...
Người chết cũng phân biệt giai cấp khi đăng cáo phó: cán bộ
thường thì được mấy phân trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân; lời
cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Đúng là đường lối Staline.
Sài gòn được giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một
hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng thích những
xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí v.v...) của thời Thiệu.
Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?
Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân
viên từ 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết,
chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980
chỉ còn bằng 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi
chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới
không đâu có chế độ lương bổng kì cục như vậy (2). Người nào cũng phải bán đồ
đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay xở mọi cách, làm sao sống
được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà nội đã phàn nàn:
"Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm
nào cả. Thật lạ lùng!" Kravchenko (trang 185) nói chính phủ Nga bắt dân
đói để dân biết phép chính phủ mà phải răm rắp tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi
như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp dụng cho những kẻ thù của chế độ
thôi, tức bọn ngụy quân ngụy quyền còn ở trong một số trại cải tạo.
- Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng, nên
không có kỉ luật, dưới không tuân trên, loạn.
Chương trên tôi đã nói tới cái tệ mỗi tỉnh là một tiểu quốc,
địa phương tự do tới mức không tuân lệnh trung ương (ngay xã cũng không tuân lệnh
tỉnh, huyện), lấy lẽ rằng chỉ địa phương mới hiểu tình trạng của địa phương, cấp
trên không nên xen vào; cái tệ nhân viên được lệnh đi công tác mà không đi, nằm
ỳ ở nhà, một tuần sau trở lại sở, trả sự vụ lệnh mà không bị khiển trách; cái tệ
nhân viên muốn bỏ sở về giờ nào thì về, lấy cớ là phải kiếm gạo, chủ nhiệm đành
làm thinh, chứ không biết đáp sao.
Tôi kể thêm một trường hợp nữa. Ông giám đốc một cơ quan nọ đến
tuổi về hưu, bảo người giúp việc: "Tôi sẽ không về, về thì mất hết quyền lợi:
xe hơi, "bìa" (sổ đặc biệt đề mua nhu yếu phầm), nhà ở v.v..., mà còn
bị xã ấp nó ăn hiếp, hoạnh họe cái này, cái khác; không, tôi không về," Một
ông giám đốc mà sợ công an ấp vì công an có quyền bắt ai thì bắt, giam ai thì
giam. Một viên công an bảo: "Tôi làm việc bốn năm năm rồi, mà bây giờ mới
biết quyền hạn của tôi, từ trước tôi muốn làm gì thì làm".
Vì mất kỉ luật, cho nên thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự: ở
miền Nam trốn tới 90%, có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ, đưa họ
ra mặt trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài họ được, gạo đâu mà nuôi? Họ
sống yên ổn ngay ở làng vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn đào ngũ
thì toàn quốc tới 25%. Trước kia người ta hi sinh để giành độc lập; bây giờ độc
lập rồi lại đánh nhau với nước anh em, người ta không hăng hái nữa.
Nghe nói ở một tỉnh nọ, viên giám đốc sở tài chánh kiêm giám
đốc ngân hàng (?) ôm 60 lượng vàng cùng với 30 viên công an xuống một chiếc tàu
của chính phủ, mang theo đầy đủ khí giới (và không biết bao nhiêu lượng vàng nữa)
dể vượt biên. Tin đó chưa lấy gì làm chắc nhưng chuyện công an - cây cột chống
đỡ chế độ - ôm vàng vượt biên thì mấy năm nay nghe thường quá rồi.
Tinh thần vô kỉ luật đó, không biết một phần có phải do chính
sách giáo dục trẻ em không. Người ta cấm đánh trẻ - điều đó có thể hiểu được -
cấm nghiêm khắc với trẻ, chúng nghỉ học thì lại nhà mời chúng đi học; chúng làm
biếng thì không bị phạt mà cô giáo bị trách là dạy dở. Kì tựu trường có nơi còn
tổ chức múa lân, đốt pháo để dụ trẻ em đi học nữa. Cô giáo nào mời được ít trẻ
thì bị rầy. Riết rồi cô giáo ngán dạy quá, cứ tự ý nghỉ bừa, hiệu trưởng phải tới
nhà năn nỉ, nếu không thì lỗi ở hiệu trưởng chứ không phải ở cô giáo. Và người
ta ngán luôn cả nghề sư phạm: dốt hoặc muốn tránh nghĩa vụ quân sự mới phải thi
vô sư phạm.
Kỉ luật như vậy, trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất
kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng.
Một số cán bộ già ớ Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép.
Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.
- Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của
kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt nam trước thế chiến
tự hào là "tiền rừng bạc bể", có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh
mông ớ miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát phong phú ớ miền Bắc mà bây giờ
thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.
Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ớ Bắc vào, chúng ta ở Nam
mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau hai chục năm sống dưới
chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70% (3); có hồi gạo
quí tới nổi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân
sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà có đủ gạo
nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước
mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ
an hay Hà tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước
mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà.
Bát ăn mỗi người mỗi năm chỉ được một cái, hễ vỡ thì phải ăn
bằng sọ dừa. Vải mỗi năm chỉ được phát một hai thước đủ để vá áo. (Ở miền Nam
năm 1980, có nơi mỗi người chỉ được 6 tấc.)
Nhiều người vào Sài gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ
cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai... đem ra, vì ở ngoài đó thường cần
dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường. Nhưng một
người Ba lan trong ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền
Nam sẽ "đuổi kịp miền Bắc", nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng,
rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc
men, thực phấm, quần áo... về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu
đứng như anh em miền Bắc rồi.
Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì
năm 1979 đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có
cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu
Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống
rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt
cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở
Long xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy
chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.
Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng,
về Sài gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm
một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ... để
bán cho "ve chai". Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong
nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.
Ở Bắc tình hình hiện nay điêu đứng hơn những năm kháng Mĩ.
Nghe nói ngoài đó đã xuất hiện câu ca dao (4):
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Trinh,
Ba anh có biết dân tình cho không?
Rau muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.
Ở Nam có nơi hai tháng nhân viên chưa được lãnh lương, chắc
nhiều gia đình không đủ tiền mua rau muống cho con nữa. Một bạn tôi đã phải ăn
nước mắm kho khô.
Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu
lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập
đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quĩ?) mua heo con, phân công nhau
nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, tết mới có thịt liên hoan. Người ta
thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kì một dịp gì cũng liên hoan được:
một bạn đồng nghiệp được ban khen, ngày tựu trường, bãi trường, họp bạn để học
tập, ban hành hiến pháp mới, làm xong một công tác, mỗi ngày lễ, tết... mỗi năm
liên hoan cả chục lần là ít.
Cơ quan nào cũng có đủ nhà bếp, chén đĩa, xoong chảo, người
làm bếp (lựa trong nhân viên) để nấu ăn làm tiệc Và khi ngồi vào bàn tiệc thì
chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn cho thật mau (tới nỗi có người bảo
cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô Tất
Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.
Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường Đại
học Hà nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều
đầy vết bẩn. Hỏi như vậy làm sao chịu được, ông ta nhún vai đáp: "Lâu rồi
quen đi" Không nên trách ông ta. Dù muốn sống sạch cũng không thể được:
đâu có vôi để quét tường? đâu có xà bông để rửa sàn? đâu có giẻ để lau? Nước
thì có nhưng phải xuống dưới sân để hứng rồi xách lên 5-6 chục bực thang, ai mà
không ngại?
Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu tình trạng không thay đổi thì
chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở
trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế - mà trước kia họ sống rất sạch
- mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh bốn năm người
cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.
Câu "nghèo cho sạch, rách cho thơm" của ông cha,
chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.
° °
°
Xã Hội Sa Đọa
Điều đáng ngại nhất là sa đọa về tinh thần, tới mất nhân phẩm.
- Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng cấu kết với
nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén
lút. Có giá biểu đàng hoàng: xin vô hộ khẩu một thành phố lớn thì bao nhiêu tiền,
một thị xã nhỏ thì bao nhiêu, một ấp thì bao nhiêu. Muốn mua một vé máy bay, vé
xe lửa thì bao nhiêu. Muốn được một chân công nhân viên, phải nộp bao nhiêu...
Cái tệ đó còn lớn hơn tất cả các thời trước.
Nếu một cán bộ nào bị dân tố cáo nhiều quá thì người ta cũng
điều tra, đưa cán bộ đó tới một cơ quan khác (có khi còn dể kiếm ăn hơn cơ quan
cũ), đem người khác (cũng tham nhũng nữa) lại thay. Ít tháng sau dân chúng
nguôi ngoai rồi, người ta lại đưa kẻ có tội về chỗ cũ. Người ta bênh vực nhau
(cũng là đảng viên cả mà) vì ăn chịu với nhau rồi. Dân thấy vậy, chán, không
phí sức tố cáo nữa. Có người còn bảo: "Chống chúng làm gì? Nên khuyến
khích chúng sa đọa thêm chứ để chúng mau sụp đổ".
Có những ông trưởng ti uống mỗi ngày một ve Whisky (tôi không
biết giá mấy trăm đồng), hút hai ba gói thuốc thơm 555 (30 đồng một gói). Bọn
đàn em của họ cũng hút thuốc thơm, điểm tâm một tô phở 6 đồng, một li cà phê sữa
4 đồng, sáng nào như sáng nấy mà lương chỉ có 60-70 đồng một tháng.
- Như vậy thì tất phải có những vụ ăn cắp của công (Kho một
trung tâm điện lực nọ cứ bốn năm tháng lại mất trộm một lần mà không tra ra thủ
phạm; rất nhiều bồn xăng bị rút cả ngàn lít xăng rồi thay bằng nước...), thụt
két, ôm vàng trong ngân hàng đề vượt biên, có khi lại tạo ra những vụ kho bị cướp,
bị cháy v.v... Y tá ăn bớt thuốc của bệnh nhân rồi tố cáo lẫn nhau, giám đốc biết
mà không làm gì được. Lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ. ăn cắp nhỏ thì chỉ bị đuổi
chớ không bị tội, vì "họ nghèo nên phải ăn cắp", mà nhốt khám họ thì
chỉ tốn gạo nuôi. Vì vậy chúng càng hoành hành, ăn cắp, ăn cướp giữa chợ, cảnh
sát làm lơ, còn dân chúng thì không dám la, sợ bọn chúng hành hung. Ăn cắp lớn,
không thể ỉm được thì phải điều tra, bắt giam ít lâu rồi nhân một lễ lớn nào
đó, ân xá; không xin ân xá cho họ được thì đồng đảng tổ chức cho vượt ngục rồi
cùng với gia đình vượt biên yên ổn.
- Nạn "phe phẩy" (buôn lậu, làm chợ đen) còn bành
trướng hơn nữa. Có thể nói một phần ba dân miền Nam (ở Bắc chắc ít hơn) làm nghề
đó. Họ móc nối với những nhân viên kiểm soát, với giới xe đò; và cứ năm chuyến
bị tịch thu một chuyến thì họ vẫn còn sống được. Chỉ có nghề đó là đủ ăn, đôi
khi phè phỡn nữa, còn làm nghề gì khác cũng sạt nghiệp. Bọn "lơ xe"
bán vé cho bọn buôn lậu đó, giấu hàng cho họ, kiếm mỗi ngày được 200 đồng, bằng
lương tháng một bộ trưởng. Dĩ nhiên họ cũng phải chia một phần cho công an, kiểm
soát viên. Họ hút toàn thuốc thơm, uống toàn cà phê fin (filtre: lọc), ăn một
tô phở 6 dồng (giá 1980), bận toàn đồ Mĩ. Người ta gọi họ là các "ông
lơ". Một đứa cháu của tôi học lớp 9, vào hạng tiên tiến, thấy họ sống sung
sướng như vậy, muốn bỏ học để học làm lơ xe, cũng bắt đầu hút thuốc lá, uống cà
phê rồi.
Ngoài Bắc không có gạo ăn mà miền Tây trong Nam làng nào cũng
có cả chục lò - nghe nói có làng cả 100 lò - nấu rượu lậu để đưa lên Cao miên
và tiêu thụ ngay trong miền. Người ta pha vào trong rượu một chất hóa học gì đó
- thuốc trừ sâu - cho nồng độ của rượu cao; uống rất có hại.
Người ta nói đã có những vụ buôn lậu thuốc phiện; nếu có thì
cũng nhỏ thôi, kém xa thời Mĩ, Thiệu. Nhưng đồ lậu như vải, thuốc thơm, thuốc
tây... thì khoảng một năm nay lan tràn thị trường: tàu Thái lan đậu ngoài khơi,
ghe tàu của mình từ bờ băng ra, đưa vàng ra đổi các thứ đó, cả đồng hồ điện tử
từ Singapore hay Nhật bản nữa.
Lại thêm dọc biên giới Việt - Miên, Miên - Thái có nhiều đường
buôn lậu từ Thái qua Miên rồi qua Việt. Không biết vàng Việt nam mỗi năm chạy
ra nước ngoài bao nhiêu.
Có đồ lậu thì luôn luôn có đồ giả. Bọn tàu Chợ lớn cái gì
cũng làm giả được, từ rượu tới thuốc hút, dầu thơm... nhiều nhất là dược phẩm
Tây phương, vì thứ này vừa hiếm vừa đắt. Một bác sĩ khuyên tôi đừng mua
Ampicilline, B12, Vitamine C (chích), Syncortyl ở chợ trời. Chị hốt rác trong
khu tôi ở một buổi sáng thấy trong một thùng rác một bọc lớn đầy ống Vitamine C
để chích. Có tới 200 ống, mỗi ống 2cc, mà chỉ bán cho người ta có 6 đồng. Chỉ
khổ dân quê. Thế nào cũng có y sĩ, y tá chích cho họ thứ đó và chém 5 hay 3 đồng
một mũi.
Nạn cờ bạc không công khai như trước, nhưng nạn "xổ số
đuôi" thì công khai rồi; người ta bàn nhau nên đánh số nào, số nào ở ngay
giữa chợ. Xưa mỗi tuần chỉ xổ số một lần, nay mỗi tuần bảy tám lần vì tỉnh nào
cũng xổ số, tự trị mà! Người dân chỉ ngong ngóng chờ giờ xổ số để dò số mà bỏ
bê công việc. Nhiều người sạt nghiệp, nhưng cũng có nhiều người nhờ đó kiếm được
miếng ăn; thầy giáo hồi hưu, đại úy đi cải tạo về, ngồi bán giấy số ở chợ, kiếm
được mươi đồng một ngày.
Nạn cho vay nặng lãi cũng kinh khủng. Một cán bộ giáo dục, đảng
viên, cho bạn trong sở vay 100 đồng, mỗi tuần trả lời 20 đồng, tính ra mỗi năm
1.000 đồng, vốn được nhân lên gấp 10. Bạn hàng ở chợ không chơi hụi tháng như
xưa nữa, mà chơi hụi tuần, hụi ngày!
Nạn đĩ điếm đã hết đâu. Ngay cuối năm 1975, một cán bộ cách mạng
đã bảo các bạn kháng chiến ở bưng về mắc bệnh hoa liễu hết rồi; một số cán bộ rất
nghiêm trang đạo mạo - có kẻ ngoài 70 tuồi - từ Hà nội vào, năn nỉ các bạn
trong Nam chỉ chỗ cho họ hưởng thú mê li đó một lần cho biết mùi. Chỉ khác là
bây giờ người ta làm nghề đó một cách không lộ liễu quá như trước. Họ rất thích
sách khiêu dâm, và loại sách này với loại truyện chưởng lan ra Bắc từ mấy năm
nay rồi.
Tóm lại bao nhiêu cái xấu xa thời trước vẫn còn đủ mà có phần
còn tởm hơn nữa.
° °
°
Con Người Mất Nhân Phẩm
Trong một xã hội như vậy, con người dễ mất hết nhân phẩm, hóa
ra đê tiện, tham lam, bất lương, nói láo, không còn tình người gì cả.
Năm 1975 đa số các cán bộ, công nhân viên ở Bắc vào thăm gia
đình, họ hàng ở trong Nam, còn giữ chút thể diện "cách mạng", bà con
trong này tặng họ gì thì họ nhận, chứ không đòi; về sau họ không giữ kẽ nữa, tặng
họ một thì họ xin hai, không tặng họ cũng đòi, khiến một ông bạn tôi bực mình,
nhất định đóng cửa không tiếp một người bà con, bạn bè nào ở Bắc vào nữa.
Gởi họ mang ra giùm một cuốn sách tặng một người ở Hà nội, họ
giữ lại 5-6 tháng, vợ chồng con cái, bạn bè coi cho hết lượt, sách nhàu rồi, họ
mới đem lại cho người nhận sách; có khi họ lấy luôn, nhắc họ, họ bảo thất lạc,
để kiếm. Mà ba người nhận được sách thì chỉ có một người cảm ơn tôi.
Một nhà văn đất Bắc làm cho một tờ báo nọ nhờ một nhà văn
trong Nam viết bài, hứa sẽ trả bao nhiêu đó. Viết rồi đưa họ, họ đăng, nhưng kí
tên của họ rồi đưa cho nhà văn trong Nam nửa số tiền nhuận bút thôi, còn họ giữ
lại một nửa. Vừa ăn cắp văn, vừa ăn chặn tiền. Chưa bao giờ miền Nam có bọn cầm
bút bẩn thỉu như vậy. Một bạn học giả của tôi ở Bắc khuyên tôi đừng giao bản thảo
của tôi cho ai hết, không tin ai được cả, họ sẽ đạo văn.
Thời Pháp thuộc, không bao giờ nhân viên bưu chính ăn cắp đồ
trong các bưu kiện. Thời Nguyễn văn Thiệu thỉnh thoảng có một vụ ăn cắp nhưng
nhỏ thôi. Từ bốn năm nay ở khắp miền Nam, cứ 10 bưu kiện ở ngoại quốc gởi về
thì có 6-7 bưu kiện bị ăn cắp hoặc đánh tráo vài ba món, thường là dược liệu và
vải. Kêu nài thì nhân viên bưu chính bảo: "Không nhận thì thôi; có muốn
khiếu nại thì cứ làm đơn đi". Không ai buồn khiếu nại cả vì cả năm chưa có
kết quả, mà nếu có thì số bồi thường không bõ. Cho nên chúng tha hồ ăn cắp, ăn
cướp một cách trắng trợn. Trắng trợn nhất là chúng lấy trộm tất cả bưu kiện
trong một kho, như ở Long xuyên năm 1981; nếu là kho lớn thì chúng đốt kho như ở
Tân sơn nhất hai năm trước.
Nhơ nhớp nhất là vụ một cán bộ nọ vào hàng phó giám đốc, mưu
mô với vợ, làm bộ tổ chức vượt biên cho vợ chồng con cái một đứa cháu ruột, bác
sĩ ở Sài gòn, nhận mấy chục lượng vàng của cháu (và sáu chục lượng vàng của gia
đình bên vợ đứa cháu đó nữa vì họ cũng muốn vượt biên), rồi lừa gạt người ta, tố
cáo với công an bắt hết cả nhóm trên mười người khi họ ra Vũng tàu chờ ghe đưa
ra khơi. Đa số cán bộ ở Nam đã tư bản hóa rồi, một xã hội chủ nghĩa xã hội mà
như vậy thì chủ nghĩa đó chỉ còn cái tên thôi.
Sống dưới chế độ cộng sản, con người hóa ra có hai mặt như
Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ;
luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người
ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người
kia. Ngay một phó viện trưởng cũng làm vỉệc điểm chỉ đó mà bạn trong viện không
hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó lại bị người khác kiểm soát lại. Ở Nga thời
Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa
số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó.
Nạn làm tiền, tống tiền lan tràn khắp các ngành, cả trong
ngành cứu nhân độ thế và ngành tống táng. Để cho bác sĩ ngụy đủ sống mà khỏi vượt
biên, chính phủ năm 1980 cho phép họ ngoài giờ làm việc được khám thêm bệnh ở
nhà và định cho họ số tiền thù lao là 1 đồng ở Sài gòn, 0,8 đồng ở tỉnh (5).
Nhưng ở Long xuyên bác sĩ nào cũng thu của bệnh nhân 10 đồng. Có kẻ ra một cái
toa cần 9 thứ thuốc toàn thứ đắt tiền, trị đủ các bệnh: tim, phổi, gan, thận,
bao tử... cho một bà lão suy nhược, rồi bảo lại mua của một tên buôn lậu đồng lõa
với họ. Tính ra toa đó mua cho đủ thì mất cả triệu đồng cũ (2.000 đồng mới). Một
số bác sĩ không làm tiền cách đó, không ra toa mà bắt bệnh nhân mỗi ngày lại để
các ông ấy cho thuốc và chích cho, và phải trả các ông ấy từ 60 đồng đến 100 đồng
mỗi lần. Năm 1981, tiền thù lao từ 10 đồng đã hạ xuống còn 5 đồng, có lẽ vì bác
sĩ làm riêng khá đông, cạnh tranh nhau. Và tháng 7-1981 có lệnh không cho bác
sĩ công làm tư tại nhà nữa, mà muốn làm tư thì lại dưỡng đường làm ngoài giờ
làm việc. Chưa thấy ai theo.
Bệnh nhân lỡ mà chết thì bị hàng xăng tống tiền: quốc doanh định
45 đồng kể cả một bịch thuốc lá và 4 thước vải thô, nhưng tang gia phải trả 400
đồng thì xăng mới được ghép lại kĩ, khỏi trống hổng trống hoảng với 8 cây đinh
đóng hờ. Rồi tới nhà đòn cũng đầu cơ: hạ huyệt xong, phủ qua một lớp đất cho bằng
mặt, muốn có cái mồ cho ra mồ thì phải đưa thêm vài trăm đồng nữa. Nếu đem
thiêu mà cứ nộp đúng lệ thì xương ống, xương hông bị ném riêng vào một chỗ, chứ
không thiêu hết. Ai nỡ để cha mẹ mình què!
Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá, định lương rẻ quá
không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ kim chưa một
xã hội nào phi lí như vậy. Vì biết mình phi lí nên có nơi chính quyền làm ngơ
cho bác sĩ làm ăn, cho phép cả giáo viên ngụy dạy thêm tại nhà.
Nói cho ngay, thời nào trong xã hội cũng có một số người
lương thiện. Và ông Phạm văn Đồng đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt thòi nhất.
Tôi được biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi heo thêm,
chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống; quần áo thì vá đụp, có thể
nói họ nghèo như các nông dân nghèo nhất thời xưa.
Tóm lại sau 5 năm chúng ta không thấy chút tiến bộ nào cả mà
chỉ thấy sự chia rẽ trong xã hội, sự tan rã trong gia đình, sự sa đọa của con
người, sự suy sụp của kinh tế. Ông Hồ Chí Minh có lần nói: "Muốn xây dựng
xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa". Con người vẫn là
quan trọng hơn cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có con người tốt thì
cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần, tư cách đại đa số cán bộ càng
ngày càng sa sút, hủ hóa mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông Hồ đã thấy
trước cái mòi suy vi đó khi ông thốt ra lời trên chăng?
° °
°
Phong Trào Vượt Biên
Tôi không biết trước giờ giải phóng, từ Bến hải trở vào trong
số trên 20 triệu dân có bao nhiêu người vội vã di cư để trốn cộng sản. Dăm bảy
ngàn hay vài chục ngàn? Người nào cũng có tâm trạng não nề: bỏ quê cha đất tổ,
bỏ thân thích bạn bè, bỏ cả sản nghiệp (có người mới mua được ngôi nhà vài ba
chục triệu - hồi đó khoảng 100.000 đồng cũ một lượng vàng - chưa ở được 5-6
tháng đã phải bỏ lại) để qua nước người ăn nhờ ở đậu, làm thứ công dân "da
màu", một thứ công dân hạng hai, và bắt đầu xây dựng lại từ đầu; như vậy
ai mà vui cho được? Những người đi đó hoặc là quân nhân, công chức trong các
chính phủ trước, hoặc đã có thời sống với cộng sản ở Bắc, sợ chế độ ngoài đó,
đã di cư một lần nay lại di cư lần thứ hai. Những người ở lại xét chung, đều sẵn
sàng chấp nhận chế độ mới, dù chưa biết rõ nó ra sao; một số đông còn hăng hái
tiếp tay với chính quyền mới để xây dựng một xã hội tốt đẹp cho tương lai nữa.
Nhưng chẳng bao lâu nhiều người thất vọng, qua năm 1976, đã
có lác đác một số thanh niên vượt biên. Họ không có tổ chức, không chuẩn bị kĩ,
lên miền cao nguyên ở Trung rồi kiếm đường qua Lào, từ Lào sẽ qua Thái lan. Họ
bị bắt hoặc thấy nguy phải quay về.
Từ năm 1977 người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên
phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói: "Cây cột
đèn nếu đi được thì cũng đi". Dù phải gian lao cực khổ tới mức nào, hễ ra
khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ở lại trong nước mà
chết lần chết mòn, người ta nghĩ vậy. Cha mẹ già chỉ có mỗi một người con mà
cũng khuyên nó vượt biên; chồng đi "cải tạo" - nghĩa là bị giam trong
những trại tập thể chưa biết bao giờ mới được về vì là "ngụy hạng nặng",
phải cải tạo tư tưởng, đời sống - cũng nhắn vợ con vượt biên được thì cứ vượt,
dắt con theo. Một thanh niên vượt biên thoát mới tới Thái lan đánh điện về cho
cha mẹ: "Ba má nhớ hôm nay là ngày sinh nhật của con không?" và cha mẹ
mỉm cười, hiểu.
Có ba cách vượt biên.
Cách chính thức, sướng nhất là có người thân, cha mẹ, vợ chồng
hay con cái ở ngoại quốc xin cho được đoàn tụ gia đình. Trường hợp đó được
chính phủ cho phép, được ủy hội quốc tế tị nạn (Haut commissariat des réfugiés:
H.C.R.) giúp đỡ. Đơn gởi rồi, sáu tháng hay một hai năm sau được đi. Sớm muộn
là tùy mình biết "phải trái" hay không. Đi thì gia sản để lại hết, chỉ
được mang theo ít tư trang với ít tiền ăn đường.
Cách bán chính thức, theo nguyên tắc, cho người Việt gốc Hoa,
nhưng người gốc Việt mà muốn thành gốc Hoa thì cũng không khó. Có tiền là được
hết.
Một người đứng ra tổ chức, nộp đơn xin cho cả nhóm người -
khoảng vài trăm - vượt biên kèm theo hồ sơ của từng người, và nộp cho chính phủ
4 lượng vàng. Chính phủ cho phép rồi, bọn người đó tập trung lại một nơi, hùn
nhau đóng thuyền, đóng xong, chính phủ sẽ cho công an xuống xét thuyền, xét lí
lịch, hành lí từng người (mỗi người cũng chỉ được mang theo ít tiền thôi), rồi
cho phép nhổ neo ra khơi, chính phủ bảo đảm an ninh cho tới khi ra hết hải phận
quốc gia, rồi từ đó thuyền muốn đi đâu thì đi, chính phủ không biết tới. Rất ít
nước chịu tiếp thu bọn đó, và xét kĩ từng người rồi mới cho lên bờ.
Có thuyền chở khẳm quá, thuyền đóng cho 200 người thì chở tới
300, lại thêm chính quyền địa phương "gởi" một hai trăm người nữa, ngồi
chen chúc nhau như cá hộp, không nhúc nhích được, như vậy ba bốn ngày, ăn uống,
đi tiểu rất bất tiện mà cũng rán chịu. Có chiếc vừa ra khơi được vài chục hải
lí, gặp cơn dông, chìm, xác chết tấp vào bờ, ngồn ngang trên bãi cát.
Có trường hợp chính phủ đã nhận đủ vàng, thuyền đóng chưa xong
thì có lệnh trên hoãn các cuộc vượt biên chính thức lại; hoãn cả năm rồi và hiện
nay (1980) còn rất nhiều người phải ở chỗ đóng thuyền, vì họ làm khai sinh giả,
nhà đã bị tịch thu, chỗ đâu mà về. Họ xin chính phủ trả lại số vàng, chính phủ
chỉ trả một phần ba, hoặc trả tất cả theo giá vàng chính phủ định, không bằng
1/5 giá vàng trên thị trường. Họ lêu bêu, thành một bọn vô gia cư, vô nghề nghiệp,
sống cực điêu đứng.
Cách thứ ba là đi chui, nghĩa là đi lậu. Một người đứng ra tổ
chức, một nhớm từ 20 đến 4-5 chục người, hùn nhau từ 4 đến 7-8 lượng vàng đóng
thuyền, kiểu thuyền đánh cá, mua một bãi biển, nghĩa là đút lót cho công an,
chính quyền ở làng có bãi biển, đút lót cả cho công an vài nơi chung quanh để
người vượt biên khỏi bị xét hỏi, thuyền yên ổn được rời bến ban đêm. Công an những
nơi có bãi biển đó nhờ vậy làm giàu rất mau, có kẻ chỉ một hai năm được vài chục
lượng vàng và ôm vàng vượt biên. Do đó mà trong dân gian xuất hiện truyện tiếu
lâm dưới đây.
"Một hôm nọ, người canh lăng bác Hồ bỗng thấy xác ướp của
bác biến đâu mất, hoảng hốt đi tìm khắp nơi, tìm ở nhà sàn của bác không thấy,
về quê hương bác ở Nghệ an cũng không thấy, nghi rằng bác vào chơi thành phố của
bác, liền vào Sài gòn kiếm, sau cùng một đêm, thấy bác ngồi một mình, rầu rĩ ở
bến Sáu kho, thành phố Hồ Chí Minh, hỏi bác, sao lại ra ngồi đấy, bác đáp:
"Bác không muốn ở nước này nữa, muốn qua phương Tây đây, mà tụi công an
đòi bác sáu cây, bác có cây đâu mà nộp cho chúng"
"Cây" là "cây hai lá rưỡi" nói tắt, tức một
lượng vàng vì mỗi lượng có hai lá rưỡi vàng".
Thường là thoát được, ít khi gặp tàu tuần; nhưng nhiều khi gặp
bão, thuyền chìm, làm mồi cho cá mập, hoặc gặp bọn cướp biển Thái lan. Chúng vơ
vét hết, chỉ chừa cho mỗi người một cái quần cụt, và có thiếu phụ bị chúng hiếp
dâm tới 19 lần (6). Sau cùng may phước tới được bờ biển Thái lan hay là một đảo
Mã lai - sướng nhất là được một tàu Tây phương vớt - lúc đó mới kể là còn sống.
Có một trường hợp xui lạ lùng. Một đoàn người lên được một đảo
Mã lai, ở được ít lâu rồi một hôm chính quyền trong đảo lùa họ xuống hết thuyền
của họ, bảo đề đưa đến một đảo khác; nhưng ra khơi, chúng cắt đỏi cho thuyền
trôi đâu thì trôi (máy móc bị chúng gỡ rồi) và ít ngày sau, thuyền giạt vào bờ
biển Cà mau, bị bắt giam hết, người thì 5-6 tháng, người thì 3 năm.
Mặc dầu nguy hiểm như vậy, người ta vẫn không sợ, thua keo
này bày keo khác. Có người tới lần thứ tư mới thoát, lại có người lần thứ 10 vẫn
chưa thoát, mà sản nghiệp tiêu tan hết, không biết sống bằng gì.
Có người mạo hiểm dám băng ra khơi bằng một chiếc tắc ráng
(ho-bo): loại xuồng nhỏ, chở được độ mươi người, chạy bằng xăng, lướt trên nước
rất mau. Vậy mà thoát được
Từ cuối 1979 thêm một cách vượt biên nữa bằng đường bộ, ngã
Cao miên. Hoặc theo xe nhà binh, hoặc theo người Miên đi buôn lậu, lên tới Nam
vang rồi tới Battambang, Sisophon. Phải mang theo vàng để đóng thuế mãi lộ. Tới
biên giới Thái lan, nếu biết tiếng Anh, tiếng Pháp thì sẽ được Ủy hội quốc tế tị
nạn giúp đỡ. Nghe nói cách đó chỉ tốn 2-3 lượng, mỗi chuyến đi chỉ được vài ba
người ăn bận như bọn buôn lậu. Cũng nguy hiểm như vượt biển. Một đứa cháu nhà
tôi trong túi chỉ có 100 đồng, không biết tiếng Miên, không quen ai ở Miên mà
cũng vượt biên cách đó
Người nào vượt biên được một nước nào tiếp thu rồi, được trợ
cấp hay kiếm được việc làm rồi, cũng gởi ngay về cho thân nhân một gói thực phẩm,
thuốc uống, qưần áo... bán được một hai ngàn đồng. Họ làm lụng cực khổ, (rửa
chén trong quán ăn...) nhịn hút thuốc đề giúp gia đình vì biết rằng người ở lại
thiếu thốn gấp mười họ. Chính nhờ họ mà nhiều gia đình miền Nam mới sống nổi,
nhờ họ một phần mà dân miền Nam có thuốc tây để uống, có vải may quần áo, không
đến nỗi rách rưới quá. Trong hoạn nạn tình cha mẹ, con cái, vợ chồng lúc này lại
đằm thắm hơn xưa. Cái rủi thành cái may.
Về vật chất họ được đầy đủ, nhưng về tinh thần họ rất đau khổ.
Nhớ bà con họ hàng, nhớ quê hương xứ sở, nhớ day dứt, gia giết. Họ khóc thương
thân phận anh hay em ở trong các trại cải tạo mỗi bữa chỉ được một nắm bo bo;
thân phận cha mẹ chú bác phải đẩy chiếc xe bán củi, bán chuối dưới mưa, dưới nắng,
đau ốm không có thuốc uống; thân phận con cháu quanh năm không được một li sữa,
một cục đường. Ở một xứ gần như trời luôn luôn u ám, họ ước ao được nhìn thấy một
tia nắng, một nền trời xanh, và khi trời xanh, ánh nắng hiện lên thì họ càng nhớ
quê hơn nữa; họ muốn được vuốt ve thân cây chuối nhẵn bóng và mát rượi; được
nhìn ánh vàng nhảy múa trên những tàu dừa phe phẩy dưới gió nồm; nhìn hoài những
con đường thênh thang trải nhựa, họ chán ngấy, mơ tưởng được đi chân không trên
những con đường đất ở giữa hai bờ cỏ, dưới bóng lưa thưa của hàng so đũa, ven một
cánh đồng lúa xanh: mặt đất ấm hơn mặt đường nhựa biết bao mà có gì thơm mát bằng
mùi lúa xanh, sau mấy năm ngửi mùi xăng nhớt.
Có những thiếu phụ thay đổi hẳn tính tình: ở nước nhà thì
thích trang điểm, đi dạo phố, họp bạn; qua nước người thì suốt ngày ở trong
phòng lau chùi, quét tước, nấu ăn cho chồng con, không chịu ra đường, chồng con
lôi kéo cũng không đi; một ngày kia họ sẽ loạn tinh thần mất. Khổ nhất là những
bà 50-60 tuổi, không biết ngoại ngữ, không sao thích ứng được với đời sống Tây
phương, mới xa quê được một năm đã đòi về, ngày nào cũng ngóng tin nhà, và được
thư thì đọc đi đọc lại tới thuộc lòng. Ngày đêm họ cho quay băng "Sài gòn
ơi, li biệt" của Thanh Thúy, băng "Ta chẳng lẽ suốt đời lưu
vong" của Phạm Duy mà khóc mướt. Giọng ảo não không kém bài hát của dân tộc
Do thái khi bị đày ở Babylon hồi xưa.
° °
°
Trong số những người ở lại, đáng thương nhất là những cặp vợ
chồng già không có con cái, bị chính phủ chặn lương hưu trí, rán sống lây lất
vài năm, bán hết đồ đạc để ăn rồi tự tử.
Rồi tới những người sản nghiệp tiêu tan vì đi kinh tế mới hoặc
vì vượt biên mấy lần mà thất bại, sống cầu bơ cầu bất ở vỉa hè các thành phố lớn
nhỏ như bọn ăn mày.
Rồi những cô giáo, cô kí chồng đi cải tạo 5 năm đằng đẵng, ở
nhà xoay xở đủ cách, làm việc đêm ngày, nhịn ăn nhịn mặc để nuôi bốn năm đứa
con, vài tháng lại tiếp tế cho chồng một lần. Họ vì hoàn cảnh mà hóa đảm đang,
tư cách lại cao lên, không chịu nhận sự giúp đỡ của họ hàng, bạn bè.
Rồi những thiếu nữ học hết Đại học sư phạm hay Luật mà không
muốn làm công nhân viên vì lương thấp quá, kiếm một cái sạp nhỏ nửa thước vuông
bán thuốc rời hay quần áo cũ, thuốc tây ở lề đường, vất vả nhưng kiếm được 10-
15 đồng mỗi ngày, đủ cơm cháo cho cha mẹ và em. Họ lễ phép, chăm chỉ, dễ
thương.
Tất cả những người đó và còn nhiều hạng người khác nữa đáng tự
hào là ngụy. Ngụy mà như vậy còn đáng quý gấp trăm bọn tự xưng là "cách mạng"
mà tư cách đê tiện.
Có ai chép Ba đào kí cho thời đại này không nhỉ? Trong tập ký đó dày ít gì cũng vài ngàn trang, truyện buồn rất nhiều mà truyện vui cũng
không thiếu, truyện nào cũng cảm động, đánh dấu một thời và làm bài học cho đời
sau được.
Người Ta Đã Nhận Định Sai
Vậy dù có lạc quan tới mấy cũng phải nhận rằng công việc xã hội
hóa miền Nam này tới nay đã thất bại. Chỉ mới dựng được cái sườn thôi mà đã có
nhiều dấu hiệu tỏ rằng sườn đó đã nghiêng ngả: rất nhiều cán bộ đã hủ hóa, hùng
hục làm giàu bằng mọi cách, thành một bọn tư sản rồi, tinh thần quân đội đã sa
sút, hợp tác xã nông nghiệp đã thất bại, chính sách kinh tế mới phải bãi hỏ; một
vài địa phương đã rụt rè lập lại chế độ tư bản: cho dân mặc sức kiếm lợi, cho
chợ trời tha hồ phát triển, cho tăng giá xe đò, cho mua xăng và dầu lửa tự do,
giá gấp mấy chục lần giá chính thức. Xí nghiệp đánh cá Côn sơn được dùng chính
sách chia lời; hễ nộp đủ số cá cho chính phủ rồi thì làm thêm được bao nhiêu,
được chia nhau hưởng. Chỉ trong một hai năm, xí nghiệp phát triển rất mạnh, mua
thêm được mấy chục chiếc tàu mới, thuyền trưởng được chia 2.000 đồng một tháng,
thủy thủ 1.500 đồng (lương bộ trưởng chỉ khoảng 200 đồng); chính phủ thấy vậy
buộc họ chỉ được tiêu một phần ba số đó còn thì phải gởi ngân hàng, nhưng không
biết họ có tuân không.
Ngành nào cũng kẹt, kẹt cứng, chính quyền không biết xoay xở
ra sao, vá chỗ này thì toạc chỗ khác, càng dùng những biện pháp nhất thời thì
càng lúng túng. Ngay các cán bộ trung kiên cũng phải nhận rằng tình hình mấy
năm sắp tới còn nguy kịch hơn, chỉ còn trông cậy vào việc tìm mỏ dầu ở ngoài
khơi Vũng tàu. Nếu trong ba năm nữa không tìm được mỏ nào có thề khai thác mà
có lợi, không sản xuất được dầu thô thì tương lai dân tộc sẽ ra sao? Mà nếu tìm
được thì lại phải chịu cái nguy khác: rất có thể Việt nam thành nơi tranh chấp
về dầu giữa các cường quốc. Thật bi đát.
Chỉ tại người ta đã tính lầm. Thắng được Mĩ rồi, người ta tin
rằng sẽ làm bá chủ bán đảo Đông dương, không nhận định được đúng tình hình thế
giới.
Người ta nhận định sai tài năng, đạo đức, tinh thần hi sinh của
cán bộ, tưởng rằng cao lắm và có thề dể dàng kiến thiết miền Nam thành một xã hội
xã hội chủ nghĩa, không ngờ cán bộ tuy rất đông mà rất kém cỏi về mọi mặt, mà tối
đại đa số không ưa xã hội chủ nghĩa, thích đời sống miền Nam hơn.
Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày
30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền
Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hóa; nhờ ngôn luận được tương đối
tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại
quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc...; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta
ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi
là tố cáo người hàng xóm (7) chứ đừng nói là người thân, nói chung là không có
hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy
vì người Nam bị coi là ngụy hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng
là ngụy với nhau mà!
Như vậy mà đưa cán bộ Bắc vào cai trị họ, dạy chính trị họ
thì làm sao không thất bại? Bọn đó quê mùa, ngu dốt, nghèo khổ, vụng về, tự cao
tự đại, bị người Nam khinh ra mặt, mỉa mai; lớp dạy chính trị cho dân chúng mỗi
ngày một vắng, hiện nay cả năm không họp một lần.
Một thất bại nặng nề của cách giáo hóa đó là báo Nhân dân
không ai đọc, người ta mua về để bán "ve chai", ngay cả bộ Lénine
toàn tập cũng vậy.
Sau 5 năm, cả triệu cán bộ và thường dân Bắc vào Nam mà Bắc
Nam miễn cưỡng sống với nhau, lơ là với nhau, Nam coi Bắc là bọn thực dân, tự
coi mình là bị trị. Làm gì có sự hợp tác?
Ông Hồ Chí Minh rất sáng suốt, từ 1962 đã thấy sự thống nhất
Việt nam không có lợi mà gây rất nhiều vấn đề khó khăn, chỉ tạo gánh nặng cho Bắc
(coi lại cuối chương XXI). Nếu 1975 ông còn sống thì chắc ông để cho miền Nam
trung lập (đúng như lời tuyên bố của Mặt trận giải phóng khi mới vô Sài gòn),
làm một cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài, mà sẽ mau thịnh vượng, lợi chẳng những
cho Nam mà cả cho Bắc nữa. Những người nối nghiệp ông tự cho là khôn hơn ông.
(1) Kravchenko. J' ai choisi la liberté. Trang 114
(Seft-1948).
(2) Tháng 7 năm 1981, lương đã được tăng gấp hai, nhưng chính
phủ cho tay này thì lấy lại bằng tay khác: giá nhu yếu phẩm, vé xe đò, tem gởi
thư... cũng tăng lên như vậy, có thứ tăng gấp 10 nữa.
(3) Tháng 8 - 1980. một cán bộ giáo dục ở Hà nội vào báo tôi
bây họ phái ăn độn 90%, cực khổ hơn những năm 1973 - 1974 nhiều lắm, mà tình trạng
đó còn kéo dài lâu. Thân phận không bằng con heo ở trong Nam.
(4) Thời này nước mình xuất hiện nhiều ca dao và truyện tiếu
lâm hơn thời cuối Lê nữa; trong một đoạn ở sau về Phong trào vượt biên, tôi sẽ
chép một truyện tiếu lâm. Nghe nói đã có người thu thập những ca dao và truyện
tiếu lâm đó để lưu lại.
(5) Do đó mà có câu mỉa mai này: vá ruột xe máy thì được 3 đồng
mà vá ruột ngườỉ chỉ được 8 hào.
(6) Coi phụ lục "Kinh hoàng trên đảo Kokra" ở cuối
bộ.
(7) Một thím làm tổ phó lo về đời sống được công an phường gọi
đi học tập. Mới hết buổi đầu, thấy công an chỉ dạy cách dò xét, tố cáo đồng bào
(ăn uống ra sao, chỉ trích chính phủ không, khách khứa là hạng người nào...),
thím ta xin thôi liền, về nói với bạn: "Tôi không làm công việc thất đức
đó được". Lớp học đó bỏ luôn.
CHƯƠNG XXXII - TA PHẢI BIẾT SỐNG THEO TA
M
ột Cuộc Đàm Thoại - Bài Học Của Cổ Nhân
Mấy năm gần đây, một số cán bộ trẻ miền Nam lại thăm tôi. Họ
đều là độc giả của tôi, biết tôi nhiều từ hồi tôi ủng hộ phong trào đòi viện Đại
học Sài gòn dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ, có người hoạt động cho kháng chiến ở
thành, sau ngày 30-4-75 được chính quyền tin dùng làm chuyên viên: bác sĩ, kĩ
sư, kiến trúc sư v.v...
Người nào tới cũng hỏi tôi:
- Bác lúc này còn viết lách gì không?
Lần nào tôi cũng đáp:
- Dù không xuất bản được cũng phải viết. Vừa để đỡ buồn, vừa
để học thêm. Mấy năm nay tôi chuyên nghiên cứu về triết gia Trung hoa thời Tiên
Tần, đọc lại các kinh sách của Khổng, Mạnh, Lão, Trang, Tuân, Hàn... và kinh Dịch
mà tôi cho là dung hòa được tư tưởng của Khổng, Lão tổng hợp nhân sinh quan của
dân tộc Trung hoa cuối thời Chiến quốc, thời thịnh nhất của Trung triết.
Một lần, cuối năm ngoái, một bác sĩ trong nhóm đó, biết ít
nhiều chữ Hán, hỏi tôi:
- Bác thấy tư tưởng của các triết gia đó nay còn dùng được
không?
Tôi đáp:
- Vẫn còn nhiều điều dùng được. Tri thức của ta hơn cổ nhân
nhiều. Một em mười tuổi bây giờ cũng biết về vũ trụ, thế giới, vạn vật, kĩ thuật...
nhiều gấp mấy Khổng, Lão, nhưng về đạo đức chúng ta không hơn cổ nhân, về phép
xử thế chúng ta vẫn còn phải học cái khôn của cổ nhân. Ngay về chính trị cũng vậy
nữa. Có những chân lí thời nào cũng đúng, cồ nhân đã do kinh nghiệm mà tìm ra
được, truyền lại cho ta trong kinh sách đấy, chúng ta đọc cả rồi đấy, nhưng
quên đi, hoặc nhớ mà không theo, nên phải thất bại. Tôi nghĩ tri thức rất dễ
truyền: các định lí toán, các luật vật lí học một lần là nhớ và áp dụng được
ngay; còn cái khôn của cổ nhân thì cơ hồ không thể truyền được, đích thân chúng
ta phải từng trải rồi mới hiểu được, nhớ được bài học của cổ nhân. Mỗi người đều
phải "sống" cuộc đời của mình, mỗi thế hệ đều phải sống cuộc sống của
nó, sống từ đầu, có kinh nghiệm rồi mới rút ra được một nhân sinh quan, gần như
tự tìm lấy hết, không nhờ được cổ nhân chút gì cả. Cho nên thời nào cũng có rất
nhiều lầm lẫn...
Tôi lấy một thí dụ: mấy năm nay đại đa số các trí thức Bắc,
Nam, già trẻ mà tôi được gặp thường phàn nàn về chính sách "hồng và
chuyên" của chính phủ. Đảng coi trọng những cán bộ có tư tưởng cách mạng,
có công lao với cách mạng hơn những chuyên viên, dù những cán bộ đó không có học
cũng chỉ huy những chuyên viên hiểu biết về ngành gấp mười họ. Ta thấy nhiều
trường hợp ông chánh chỉ có tiểu học ra lệnh cho ông phó có bằng phó tiến sĩ,
xen vào công việc chuyên môn của ông phó, nhất là lại có thái độ kì thị ông
phó, vì biết rằng ông phó giỏi hơn mình, rồi do tự ti mặc cảm mà sinh ra hống hách,
ngăn cản công việc của ông phó. Chính sách đó có hại cho việc kiến thiết; chính
vì nó mà hầu hết các chuyên viên ở Nam rất có khả năng, rất có nhiệt tâm phục vụ
mà không được chính quyền dùng; một số rất ít được dùng thì lại bị chèn ép: chẳng
hạn một thạc sĩ giáo sư Đại học y khoa, rất nổi tiếng về giải phẫu, phải chịu
tùy thuộc một học trò của mình, chỉ vì cậu này đã "nằm vùng", được
chính phủ cho là "hồng", tin dùng; giáo sư đó bảo sẽ giải phẫu cho một
bệnh nhân nào đó vào ngày nào, giờ nào; học trò của ông ta gạt đi, định cho một
ngày khác; ông ta bực mình đáp: "Tùy ý đồng chí' và ít tháng sau ông vượt
biên với cả gia đình. Hiện ông ở Mĩ.
Chính Lénine đã nói: "Phải trọng chuyên viên như con người
của ta" vì trong thời kiến thiết, chuyên viên mới là cần nhất; tuy thuộc
nhiều kinh điển của Marx, tuy lập trường chính trị rất đúng mà không biết nghề
thì cũng không làm được việc.
Người ta không theo Lénine là tại sao? Tại người ta tin như Hồng
vệ quân Trung hoa rằng một cái đập xây không đúng phép, sắp vỡ, đương nứt nẻ,
muốn rã, chỉ cần mở "cuốn sách đỏ", tụng những lời của Mao Trạch Đông
là làm cho đập vững lại (vụ đó đã được quay phim ở đâu đó chắc để chê cách mạng
Văn hóa của Mao) hay tại người ta muốn thưởng những người có công lớn trong thời
kháng chiến nên giao phó những chức vụ cao cho họ?
Khổng Tử trong thiên Tiên tiến, bài 24 (Luận ngữ) đã cảnh cáo
chúng ta rồi. Tử Lộ, học trò của ông, làm gia thần họ Quí, tiến cử Tử Cao làm
quan tể đất Phí. Khổng Tử trách: "Như vậy là làm hại con người ta"
(vì Tử Cao chưa được học bao nhiêu). Tử Lộ đáp: "Làm chức tể thì có nhân
dân để trị, có thần xã tắc (đất đai, mùa màng) để thờ (thế là học), hà tất phải
học sách rồi mới gọi là có học?" Khổng Tử mắng: "Vì thế mà ta ghét những
lời lợi khẩu" (cưỡng lí để tự biện hộ).
Không học về canh nông mà làm viện trưởng viện nghiên cứu
canh nông, không biết gì về hành chánh mà làm tỉnh trưởng. Sao không thẹn với
Đông Đức: sau thế chiến, một đảng viên có công lớn được mời làm thứ trưởng, ông
ta từ chối, xin được học thêm ít năm ớ đại học đã.
Kinh Dịch, quẻ Sư, hào 6 cũng đã khuyên ta khi chiến thắng rồi,
luận công mà khen thưởng thì kẻ ít học, dân thường tuy có tài chiến đấu, lập được
công, cũng chỉ nên thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, vì
công việc kiến thiết quốc gia phải là người có tài, có đức mới gánh nổi.
Lẽ đó rất tự nhiên, từ xưa nước nào cũng theo, như đời Trần
nước ta, các tướng có công, được phong đất, phong tước, mà việc nước thì giao
cho các người có học. Nước Anh sau mấy năm thế chiến rồi cũng chỉ thưởng tiền
cho các danh tướng; chẳng những vậy, năm 1945, khi chiến tranh chấm dứt, họ
thay cả viên Thủ tướng, cho Churchill về vườn, mặc dầu ông có công nhất trong
việc cứu quốc, diệt Đức; như vậy chỉ vì chính sách thời bình khác thời chiến,
nên phải dùng người khác.
Chính vì không phân biệt chính sách thời bình và thời chiến
mà sau khi hòa bình trở lại - ở Bắc năm 1954, ở Nam năm 1975 - Đảng cho địa
phương tự trị như trong thời chiến, và lại dùng những người thời chiến để cai
trị trong thời bình; do đó gây nhiều cái tệ mà tệ lớn nhất là cán nặng hơn gáo:
mỗi tỉnh là một tiểu quốc, bất chấp cả trung ương, thậm chí một nhân viên rất
nhỏ kiểm soát xe hàng, làm bậy, không theo quyết nghị trung ương, bảo hành
khách: "Tôi ở địa phương chỉ biết lệnh địa phương, bà con biết lệnh trung
ương thì cứ gởi đơn thưa trung ương".
Như vậy là tiểu nhân tha hồ hoành hành, muốn tịch thu gì của
hành khách cũng được, không ai răn đe họ khi họ mới mắc tội nhỏ, không ai chế
ngự họ khi họ mới ló mòi, lâu rồi thành loạn. Tệ đó, quẽ Phệ hạp và quẻ Cấu
trong kinh Dịch đều đã cảnh cáo nhà cầm quyền từ ba ngàn năm trước rồi. ớ nước
ta ngày nay, chính quyền có cương quyết thay hết các ông hồng mà không chuyên
đi (1) thì lấy người đâu để làm việc, và cái phe hồng mà không chuyên đó, bị mất
quyền lợi, tất cấu kết nhau, đâu để yên cho chính quyền. Cái hại đó, tôi e một
thế hệ nữa chưa hết được.
° °
°
Trong việc trị dân, người nào có quyền vị thì phải có trách
nhiệm. Qui tắc đó rất sơ đẳng, bọn Pháp gia - như Thương Ưởng, Hàn Phi - đều nhắc
tới nhiều lần. Mà đạo Nho thời nào cũng chủ trương rằng dân mắc tội là lỗi ớ tại
người trên; người trên mắc tội thì chỉ người trên chịu, dân không liên can gì tới.
Trách nhiệm của người cai trị thật minh bạch; muốn vậy quyền của người trên
cũng phải rõ rệt, chỉ người nào có trách nhiệm mới có quyền quyết đoán, mưu việc.
Thiên Thái Bá, bài 14 (Luận ngữ) Khổng Tử bảo: "Không ở chức vị nào thì đừng
mưu tính việc của chức vị đó", như vậy đề định rõ quyền hạn, trách nhiệm của
mỗi người.
Chúng ta ngày nay theo chính sách "cai trị tập thể",
mỗi khi quyết định một việc gì, bất kì lớn nhỏ, cung tập họp cả mấy chục đồng
chí của nhiều cơ quan để thảo luận ở hội trường của tỉnh, huyện, hội trường nào
cũng đồ sộ, xây cất rất tốn kém. Mỗi cơ quan lại có một hội trường riêng, nhỏ,
họp hằng tuần về những vấn đề nội bộ. Quyết định tập thể có điểm tốt là biết được
ý kiến nhiều người, tránh nạn độc đoán, nhưng hội họp nhiều quá, tới nỗi mỗi tuần,
nhân viên phải đi họp ba bốn buổi tối, lần nào cũng kéo dài hai ba giờ mà chẳng
giải quyết được gì - vì càng nhiều ý kiến lại càng khó quyết định - thì mất thì
giờ vô ích, ai cũng ngán. Tai hại nhất là công việc bê trễ, không ai dám lãnh
trách nhiệm, trút trách nhiệm cả cho tập đoàn, mà tập đoàn làm chủ tức là không
ai làm chủ hết.
Tôi có lần là nạn nhân của chính sách đó. Tôi muốn về Long
xuyên nghỉ khá lâu, xin ủy ban nhân dân phường cho phép tôi chở về Long xuyên
ít bàn ghế, một số sách và ít đồ cần dùng. Phường không dám cho phép, bảo tôi
xin phép công an, công an cũng không dám cho phép, bảo tôi trở lại phường; tôi
dĩ nhiên không chịu làm trái banh để hai cơ quan đó tung cho nhau, bảo công an
bàn tính với phường rồi trả lời cho tôi. Họ bàn tính với nhau không biết mấy lần,
cứ hẹn lần, bắt tôi đi đi về về tám lần, không cơ quan nào chịu nhận trách nhiệm
kí một giấy phép rất tầm thường như vậy. Tôi nổi dóa, đòi gặp chủ tịch ủy ban
nhân dân phường, họ bảo ông đi vắng - ông này còn khó gặp mặt hơn thiên tử thời
xưa, không bao giờ tôi thấy mặt ông cả - sau cùng tôi bảo sẽ khiếu nại lên bí
thư thành ủy, lúc đó họ mới chịu cho phép. Thật là tốn biết bao thì giờ cho tôi
và cho cả họ. Ai cũng phàn nàn trong chế độ này, nhân viên nào cũng sợ lãnh
trách nhiệm mà quyền hành thì rất lớn.
° °
°
Chương 30 - 31 Đạo đức kinh, Lão Tử khuyên kẻ dùng binh khi đạt
được mục đích thì thôi, đừng ỷ mạnh, tự phụ, khoe công; thắng cũng không cho là
hay, nếu cho là hay thì tức là thích giết người. Tổ tiên ta đã theo đúng lời
đó. Lê Lợi sau khi thắng quân Minh, Quang Trung sau khi thắng quân Thanh, đều
khiêm nhu, mềm dẻo với Trung hoa.
Mustapha Kémal sau khi thắng quân Hi lạp ở Dumulu Punar, bắt
được hai tướng Hi lạp là Tricopis và Dionys, tiếp đãi họ rất nhã nhặn trong lều
của ông, mời họ giải khát rồi cùng nhau phê bình chiến lược của hai bên, làm
cho họ phải khâm phục. (Chính phủ mình có lẽ không ai nhớ bài học của Lê Lợi và
Quang Trung, và tướng Trần văn Trà chắc chắn không được đọc tiểu sử của
Mustapha Kémal. Giá tướng Trà khi vào dinh Độc lập cũng nhã nhặn với tướng
Dương văn Minh như Kémal và nếu chính phủ mình sau khi nhận được lời khen của
thế giới, chỉ nhã nhặn tuyên bố rằng dân tộc Việt Nam bất đắc dĩ phải giành lại
độc lập và sở dĩ thành công là nhờ chính nghĩa, chịu kiên nhẫn và được các nước
anh em ủng hộ; bây giờ đây sau ba chục năm chiến tranh chúng tôi xóa hết các hận
thù, chỉ muốn yên ổn kiến thiết và rất mong được sự giúp đỡ của tất cả các nước,
cộng sản cũng như tư bản; nếu có thái độ như vậy, đừng ham làm chủ bán đảo Đông
dương ngay thì tôi chắc chúng ta không phải chịu chiến tranh thứ ba chưa biết sẽ
kéo dài tới bao giờ nữa. Chúng ta đang bị sa lầy ở Cao miên, cầm chân ở Bắc Việt,
đương mất máu lần, Nga tiếp máu cho được bao lâu và với điều kiện nào? Thế là mới
thoát được ách Mĩ thì đã bị ngay nạn Trung hoa, Việt nam trước là nơi tranh chấp
của Trung hoa và Mĩ, nay thành nơi tranh chấp của Nga và Trung hoa.
° °
°
Kinh Dịch, quẻ Giải khuyên khi hoạn đã giải được rồi, chiến
tranh đã hết, dân chỉ mong an cư lạc nghiệp, người trị dân nên có chính sách
khoan đại, giản dị; tuy phải trừ những cái tệ cũ, nhưng chỉ nên sửa cho sự bình
trị được lâu dài thôi, không nên xáo động nhiều quá, nhất là nên làm cho mau
xong, đừng đa sự.
Quẻ Cách lại khuyên thay cũ đổi mới là một việc khó, ngược với
thói thủ cựu của con người, cho nên muốn có kết quả thì sự cải cách phải hợp thời,
phải sáng suốt, soi xét rạch ròi, thận trọng, tính toán kĩ, làm sao thỏa thuận
được với lòng người, đừng nóng nảy; và cải cách tới một mức nào đó thì nên ngừng
lại, đừng cầu được hoàn toàn thì mới khỏi thất bại.
Giá chính phủ biết khoan dung lại biết giản dị, không cải
cách gấp mà tiến hành từ từ thì có thể 90% miền Nam đoàn kết với chính quyền mà
sự cải cách tiến được đều đều, vững, không phải sửa sai, thụt lùi mấy lần, mà
cũng không có sự tan rã, hỗn loạn trong xã hội như hiện nay.
Mấy ngày đầu tháng 5-1975, người Nam nào cũng phục tinh thần
kỉ luật của quân đội giải phóng và chính sách khoan hồng của chính phủ. Tuyệt
nhiên không có cuộc "tắm máu" hồi tết Mậu Thân ở Huế như nhiều người
lo ngại, mà cũng không có vụ trả thù cá nhân nào. Nhưng chẳng bao lâu, thái độ
khinh bỉ, căm thù lần lần xuất hiện. Người ta coi đồng bào trong này đều là ngụy
hết, người ta mưu mô tước đoạt tài sản của ngụy, bắt ngụy đi kinh tế mới để cướp
nhà của ngụy. Tại giữa chợ Trương Minh Giảng, một chị cán bộ ở Hà nội vô, nói với
bạn cũng cán bộ ở Bắc vô sau: "Chị đừng lo, tụi nó sẽ bị đuổi đi kinh tế mới
hết, lúc đó chúng ta sẽ có nhà rộng để ở".
Tinh thần chia rẽ, thù oán từ đó phát sinh và mỗi ngày hố giữa
Nam Bắc mỗi sâu thêm.
Rồi chính sách bắt ngụy quân, ngụy quyền đi cải tạo nữa. Mới
đầu người ta bảo mỗi người mang theo quần áo, thức ăn, tiền nong dủ cho 15
ngày, nên ai cũng tưởng chỉ độ 15 ngày là về, trong 15 ngày đó chính quyền sẽ
chỉ bảo, dẫn dắt cho hiểu đường lối của chính phủ, lối sống mới và diệt những
thói quen tật cũ đi; như vậy là điều rất tốt, và ai cũng hăng hái xách khăn gói
lên đường cải tạo. Hết nửa tháng rồi hai ba tháng. rồi nửa năm vẫn chưa được về,
lúc đó người ta mới hiểu rằng phải cải tạo cho tới khi nào thấy cải tạo hoàn
toàn rồi thì mới được về. Và khi nào xong thì không biết. Tới nay (1981), đã 6
năm, vẫn còn nhiều người chưa được về. Có thể bị cải tạo 10 năm như ở Nga
chăng? Người ta quên bài học của tổ tiên: vua Trần Nhân Tôn sau khi thắng được
quân Nguyên, bắt được tráp thư từ vãng lai với giặc của mấy ngàn người, không
thèm coi, đốt đi hết, nhờ vậy mà đoàn kết được toàn dân.
Đọc cuốn J'ai choisi la liberté (đã dẫn), nhất là bộ
L'archipel du Goulag của Soljenytsine (gồm 4 cuốn, 2 cuốn đầu đã dịch ra tiếng
Pháp và in ở Paris trước 1975), chúng ta phải nhận rằng chính sách của ta không
quá tàn nhẫn như chính sách của Nga. Một số trại của mình có chính sách nhân đạo
nữa: ăn uống tuy thiếu thốn, nhưng được gia đình tiếp té đều đều, nên người học
tập không xuống cân, tinh thần tốt, được lao động vừa sức, được đọc sách báo...
Nhưng có nhiều trại rất khắc nghiệt. Một thiếu phụ sau máy năm xa cách, được đi
thăm chồng tại một trại miền bắc Trung Việt, khi gặp chồng, không nhận ra được
nữa, tưởng là người khác, mãi đến khi chồng cất tiếng hỏi, mới hết nghi ngờ. Chồng
cô ta đã thay đổi hẳn từ thể xác tới tinh thần, mất mấy chục kí lô. đi không vững,
hốc hác, chậm chạp, gần như một cái xác không hồn, lầm lì, hỏi mới đáp, không
còn tình cảm, không suy nghĩ, không nhớ gì cả. sống mà như chết rồi.
Đi cả ngàn cây số mới tới trại mà chỉ được gặp mặt chồng có nửa
giờ, lại không được khóc, nếu khóc thì bị đuổi ra liền. Hết nửa giờ, vợ chồng
chia tay nhau, vợ nhìn theo chồng đẩy chiếc xe chở đồ tiếp tế về chỗ giam; khi
chồng khuất bóng rồi, cô ta gục đầu xuống bàn mà khóc, khóc không biết bao lâu,
hết nước mắt mới đứng dậy, loạng choạng ra khỏi trại.
Có trại gọi là "trại bò", không phải để nhốt bò mà
để nhốt những ngụy quân ngụy quyền cao cấp; phòng giam họ chỉ có một cái cửa
cao độ một thước, muốn vô thì phải bò.
Lối trừng trị như vậy tôi cho là vô ích, không "cải tạo"
được con người. Tôi đã nói ở một chương trên, đại đa số những ngụy quân ngụy
quyền ở trong nước không có tội gì cả, ngoài cái tội sống ở miền Nam, dưới chế
độ Mĩ, Thiệu thì phải theo luật Mĩ, Thiệu; nhưng ngay cả những kẻ có tội đi nữa,
nặng thì giết họ đi, nhẹ thì cứ dĩ trực báo oán, như vậy càng dễ cải hóa họ
hơn, cần gì phải hành hạ như vậy; dĩ oán báo oán, oán bao giờ mới hết được? Đã
hành hạ họ lại không cho con họ vô Đại học mặc dầu học giỏi. Người ta chê bài học
của Khổng Tử: Thiên Ung Dã, bài 4 ông bảo cha Nhiễm Hữu (Trọng Cung) là người
ác, nhưng Nhiễm Hữu là người hiền thì cũng dùng.
Làm cho người dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà
rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm; bảo là cho họ đi học tập, cải tạo
tinh thần mà sự thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính
quyền? Lệnh trung ương ban hành, địa phương không theo, làm ngược hẳn lại;
lương hưu trí không phát, tiền tiết kiệm gởi ngân hàng không cho rút ra mà
không thẳng thắn cho họ biết lí do, cứ làm thinh để dân chờ hết ngày này qua
năm khác, chờ chán thì tuyệt vọng, thôi không đòi hỏi nữa; cho người ta đăng kí
vượt biên bán chính thức, thu của mỗi người bao nhiêu lượng vàng, rồi bỗng
nhiên ngưng lại hết mà không trả lại đủ vàng cho người ta; thâu thuế của người
ta và cho phép bán ở chợ trời rồi đột nhiên bao vây cả một khu, tịch thu hết
hàng hóa; khi chưa nắm chính quyền thì hứa sẽ bỏ hết các thuế chợ, chia đất cho
dân cày; nắm chính quyền được ít lâu thì thuế chợ còn nặng hơn trước, mới chia
đất cho dân thì đã bắt dân vào hợp tác xã nông nghiệp, bỏ quyền làm chủ miếng đất
của họ mà làm chủ tập thể; tuyên bố với quốc dân và thế giới rằng miền Nam theo
chế độ dân chủ, trung lập, rồi một năm sau đã thống nhất quốc gia, hủy bỏ chế độ
đó, bắt miền Nam theo xã hội chủ nghĩa như miền Bắc; báo chí, các đài phát
thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính những
cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy dân làm sao
tin chính quyền được.
Mở bộ Luận ngữ ra sẽ thấy cả chục bài khuyên nhà cầm quyền giữ
chữ tín với dân, đặc biệt là bài 7 thiên Nhan Uyên:
"Tử Cống, một môn đệ của Khổng Tử, hỏi về phép trị dân.
Khổng Tử đáp: "Lương thực cho đủ, binh bị cho đủ, dân tin chính quyền".
Tử Cống lại hỏi: "Trong ba điều đó, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều
nào trước?" Đáp: "Bỏ binh bị". Tử Cống lại hỏi: "Trong hai
điều còn lại, bất đắc dĩ phải bỏ một nữa thì bỏ điều nào trước?" Đáp:
"Bỏ lương thực. Từ xưa vẫn có người chết, nếu dân không tin chính quyền
thì chính quyền phải đổ" (dân vô tín, bất lập).
Một số học giả phương Tây như linh mục Cras nhận rằng không
có học thuyết nào trọng đức thành tín bằng đạo Nho, mà đức đó thời nay bị người
ta coi rẻ nhất. Ở thời Khổng Tử, chính quyền nào không được dân tin thì chính
quyền đó phải đổ. Vì dân có thể nổi loạn, lật đổ vua, hoặc kéo nhau qua nước
khác ở, tìm một ông vua khác để thờ. Ở thời đại chúng ta, khoa học đã tặng nhà
cầm quyền những phương tiện cực kì hữu hiệu để đàn áp dân chúng; họ lại nắm sự
phân phối thực phẩm, có những thuật mềm nắn dắn buông, vuốt ve dân chúng, cho
nên một chế độ độc tài không bao giờ sụp đổ vì chính sách tàn bạo của nó; nếu một
nhóm người cầm quyền biết đoàn kết với nhau, quyết tâm bắt dân theo đường lối của
họ thì dân phải răm rắp cúi đầu tuân lệnh. Nhưng khi dân thấy chế độ độc tài
không đem lại cho họ được một cái lợi gì thì họ phản kháng một cách tiêu cực,
tà tà, lè phè, không hăng hái làm việc - chính quyền mình ba năm nay chống tiêu
cực mà chẳng có kết quả gì cả - và khi chính quyền thấy chính sách độc tài
không có lợi cả cho chính quyền nữa thì tất phải thay đổi chính sách.
Lúc này ai cũng thấy trong thành phần nòng cốt của chế độ, tức
đảng viên, quân nhân, nhất là công an, đã chán nản, sa đọa rồi. Ở Long xuyên
năm ngoái đã xảy ra một vụ: một anh bộ đội và một anh công an gây nhau ở khu chợ,
hằm hè rút súng ra tính hạ nhau. Sau anh bộ đội hỏi anh công an: "Lương
anh bao nhiêu một tháng mà anh hút thuốc thơm 2 đồng một điếu? Cứ lục túi các
anh công an thì không anh nào không có một gói thuốc thơm. Các anh lấy tiền đâu
mà mua?" Anh công an không đáp được, tẽn, bỏ đi.
Đã có nhiều tin quân đội dùng tàu, xe nhà binh chở đồ lậu ở
Miên về bán tại các tỉnh gần biên giới. Lại có tin công an ôm vàng và súng ống,
dùng tàu chính phủ vượt biên. Tới mức đớ thì thế nào cũng phải thay đổi, ngay đồng
bào miền Bắc cũng mong mỏi sự thay đổi từ mấy năm nay rồi, vì ngoài đó cũng trụy
lạc không kém trong này. Cứ coi mục "ý kiến bạn đọc" trên tờ Nhân dân
thì biết.
° °
°
Kinh Dịch đã xét trường hợp phải làm cách mạng (như trên tôi
đã nói), lại xét cả trường hợp trừ bỏ sự li tán mà đoàn kết lại (quẻ Hoán), muốn
vậy phải bỏ tinh thần bè phái, nếu cần thì giải tán bè phái, để tập hợp quốc
dân mà lo việc nước, tức giải tán cái nhỏ để gom cái lớn lại. Việc đó chính phủ
cách mạng đã có một lần làm rồi (năm 1946). Hễ thành tâm thì có kết quả. Nhất
là phải thay đổi chính sách kinh tế, bớt thuế má đi, phải cho dân có lợi thì
dân mới hăng hái sản xuất.
Từ văn minh nông nghiệp chuyền qua vãn minh cơ giới, kĩ thuật,
sự phát triển kinh tế đòi hỏi rất nhiều vốn. Vì cần nhiều nguyên liệu, nhiên liệu,
máy mổc mà máy móc phải cải thiện hoài, thay đổi hoài. Bọn tư bản phương Tây đầu
thế kỉ trước bóc lột công nhân tàn nhẫn, vô nhân đạo, bỉ ổi; nhưng chúng ta phải
nhận rằng chúng bóc lột như vậy một phần nhỏ để gia đình chúng hưởng, một phần
lớn để gây vốn, mua thêm máy móc, xây dựng thêm nhà máy, cải thiện phương tiện
vận tải giao thông... nhờ vậy kinh tế mới phát triền được.
Ngày nay các nước lạc hậu, nghèo như nước ta mà muốn xây dựng
một cơ sở kĩ nghệ gần như bắt đầu từ số không thì dù được nước bạn viện trợ, hoặc
tư bản nước ngoài đầu tư, cũng phải dùng cách đó của tư bản, bắt dân chúng làm
việc nhiều, tiêu pha ít, ăn lương ít để tạo một số vốn cho quốc gia, nói trắng
ra là phải bóc lột lao động, chỉ khác là chính quyền chứ không phải cá nhân bóc
lột, mà chính quyền có quyền gấp ngàn cá nhân, tha hồ bóc lột mà không cho dân
phản kháng, lấy lẽ rằng bóc lột để xây dựng tương lai cho quốc gia, cho các thế
hệ sau, chứ không để cho một giai cấp nào hưởng.
Tuy nhiên, muốn cho dân chúng chấp nhận chính sách khắc khổ
đó thì trong xã hội:
- phải có sự công bằng: từ trên xuống dưới đều chịu khắc khổ
chung; ngay những bà già vô học ở Nam cũng bảo: nếu cán bộ giữ chính sách
"ba cùng" - cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân, như trong hồi chiến
tranh thì bảo gì mà dân không vui vé làm?.
- phải cớ sự quản lí chặt chẽ, không dung túng sự phung phí,
gian tham;
- phải trọng những nhu cầu tối thiểu của dân, đừng làm trái hẳn
với bản tính con người, nghĩa là phải cho dân đủ ăn, đủ mặc, có chút tiêu khiển,
có chút lợi, có chút của riêng thì dân mới đủ sức mà làm việc, có chút hứng thú
để tăng năng suất lên.
Không thể tặng cho người ta mĩ hiệu là "chiến sĩ xây dựng
xã hội chủ nghĩa", ngày đêm hô hào người ta "hi sinh cho đời con cháu
được sung sưđng" để bắt người ta sống cực khổ suốt đời, đời này qua đời
khác được; vì nghĩ cho cùng khuyên người ta hi sinh cho đời con cháu thì có
khác gì các cụ hồi xưa khuyên ăn hiền ở lành để phúc cho con; có khác gì các
tôn giáo Ki Tô, Hồi Hồi, Phật khuyên tín đồ chịu cực trong cõi trần này đề chết
đi được lên thiên đường hoặc cõi niết bàn không?
Bạn bác sĩ ấy chăm chú nghe tôi nói non một giờ, khi về bảo
tôi: "Cháu xin phép bác được thỉnh thoảng lại học bác nữa".
Hôm nay để ghi lại cuộc đàm thoại, tôi sắp đặt lại qua loa, dẫn
thêm vàị đoạn trong kinh sách và thêm một vài ý (như quẻ Hoán) còn đại cương
thì giữ đúng.
Nhưng ghi xong rồi, tôi nghĩ lại mà tự trách mình hôm đó đã
nói nhiều quá, quên mất lời cổ nhân: "Không cùng đạo với nhau thì làm sao
có thể nói chuyện với nhau được?"
° °
°
Mình Theo Cả Những Lầm Lẫn Của Người
So sánh những nhận xét của tôi ở trên với những điều tôi đã
được đọc trong mươi cuốn về đời sống ở Nga sô, Trung cộng, tôi thấy chính sách
của mình y hệt chính sách của hai nước đàn anh đó, những lầm lẫn của mình chính
là những lầm lẫn của họ.
Năm 1947, sau 30 năm cách mạng dân Nga cũng bị nhồi sọ như
dân mình; xã hội họ cũng có những sự bất công, những kẻ "phe phẩy",
những chợ trời, những nhà tập thể dơ dáy như dân mình; cũng cớ nạn mua chợ đen
vé coi hát, cũng cấm dân tiếp xúc riêng với người ngoại quốc (2); cũng có nạn
bè phái như mình; cũng có lệ muốn thưởng một cán bộ thì cho thêm một số tiền bỏ
vào bao thư riêng; các ông lớn của họ cũng cách biệt quần chúng như ở nước
mình; những kẻ gian trá cũng có thể lén lút làm mọi cái xấu xa, miển là đừng chống
chính quyền; người Nga nào cũng có hai mặt, ớ nhà thì khác, ra ngoài thì khác
như mình.
Họ cũng trọng hồng hơn chuyên, cũng thay đổi chủ trương,
chương tnnh liền liền, thợ họ cũng không đủ ăn, công việc gì cũng không chạy;
cán bộ của họ cũng sợ trách nhiệm như cán bộ của mình; chính sách cải tạo còn
tàn nhẫn hơn chính sách của mình; sự tổ chức bầu cử y như mình, v.v...
Họ có thời "băng rã" (dégel) rồi băng lại đóng lại
(gel); Trung hoa cũng có thời "trăm hoa đua nở" rồi mấy tháng sau,
trăm hoa lại bị cấm nở; trăm hoa của mình cũng đua nở sau Trung hoa ít tháng,
và cũng bị cấm nở sau họ ít tháng. Năm 1966 mình khôn hơn Trung hoa là không
làm cách mạng văn hóa, nhưng năm 1978 mình cũng đã chuẩn bị kĩ để phát động một
cuộc cách mạng văn hóa như họ, tính đốt hết các sách báo ở miền Nam, chỉ giữ lại
những sách dạy nghề và khoa học tự nhiên, y như Tần Thủy Hoàng chỉ cho giữ những
sách thuốc, sách nông nghiệp... (3) May sao chính quyền (miền Bắc hay Nam?) kịp
đổi ý, cho hoãn lại cuộc cách mạng đó.
Ngoài ra, cách thức phụ cấp cho sinh viên, đối đãi với trí thức,
chính sách học tập chính trị, hội họp ở phường, ấp, dăng, dán biểu ngữ ở khắp
nơi, phát thanh bằng loa oang oang mà không ai buồn nghe...; cả lối giáo dục trẻ
em, bổ túc văn hóa, công trình khai quật cổ tích chung quanh đền Hùng
(4)...mình đều theo sát gót Mao Trạch Đông.
Tôi có cảm tưởng rằng mình chép đúng đường lối của hai nước
đàn anh, không xét hoàn cảnh, dân tình, phong tục của mình có khác họ hay
không. Tôi chưa thấy mình có một sáng kiến gì cả, ngay cả những danh từ như
biên chế, phụ đạo, tham quan, tranh thủ... mình cũng chép nguyên của Trung hoa.
Tôi phục G. Orwell từ 30 năm trước, trong cuốn 1984 đã tiên đoán và vẽ đúng xã
hội Trung hoa những năm 1960 và xã hội Việt nam ngày nay. Nhưng Nga, sau khi
Staline chết đă hơi thay đổi đường lối (5), Trung hoa sau khi Mao Trạch Đông chết
đã bỏ chính sách của Mao, xích lại gần phe tư bản, và nhiều nước như Ba lan, Tiệp
khắc, Hung gia lợi, Nam tư... đã có từ lâu chính sách của họ, chính phủ mình lẽ
nào không biết?
° °
°
Xu Hướng Của Thời Đại
Dự Đoán Sai Của Marx
Tôi nghe nói bộ Tư bản luận của Karl Marx rất dày, khó đọc mặc
dầu văn hay, và ngay ở âu Mĩ, chỉ có một số lí thuyết gia cộng sản, một số triết
gia, sử gia là đọc trọn bộ đó thôi. Vì vậy tôi không bao giờ kiếm đọc nó cả.
Nhưng tôi đã tò mò đọc một số tác phẩm của một số học giả, văn nhân Âu theo cộng
hay không theo cộng, viết về học thuyết Marx. Đại khái họ nhận rằng học thuyết
đó có hai cống hiến cho nhân loại:
1- Sự biến chuyển của xã hội, sự diễn tiến của lịch sử tùy
thuộc một phần quan trọng vào kinh tế.
2- Giai cấp vô sản bị giai cấp tư bản bóc lột, và phải diệt
giai cấp tư bản để tạo một xã hội công bằng, không ai bị bóc lột, mọi người đều
bình đẳng với nhau; (Muốn vậy phải hạn chế tự do cá nhân. Hễ bình đẳng thì mất
tự do; hễ tự do thì không bình đẳng, không thể lưỡng toàn được).
Học thuyết đó xuất hiện giữa thế kỉ trước, tới nay đã trăm rưởi
năm, và người ta thấy Marx có nhiều điều tiên đoán sai, chẳng hạn:
- Cách mạng vô sản sẽ xuất hiện trước hết ở những xứ kĩ nghệ
tiến bộ như Đức, Anh; nhưng sự thực nó xuất hiện ở Nga, một xứ kĩ nghệ kém nhất
châu Âu hồi đầu thế kỉ chúng ta; sau đó nó lại xuất hiện ở những nước nông nghiệp
rất lạc hậu về kĩ nghệ, như Trung hoa, Việt nam...;
- Marx tin rằng giai cấp vô sản ở khắp thế giới đoàn kết với
nhau để cùng diệt giai cấp tư bản ở mọi nước, do đó không còn tinh thần quốc
gia nữa, thế giới sẽ đại đồng; nhưng bây giờ người ta thấy ngay ở Nga, Trung
hoa, Đông Âu, chế độ cộng sản nào cũng mang nặng tinh thần quốc gia tới mức hai
nước anh em với nhau mới thề sống chết có nhau, đoàn kết để diệt tư bản mà ít
năm sau đã đâm chém nhau vì vấn đề ranh giới, chủ quyền, cũng xâm lấn nhau, phản
nhau y như bọn thực dân tư bản vậy; hiện nay Trung hoa lại liên kết với Mĩ để
chống Nga nữa, không cho Nga bành trưđng ớ Afganistan, Đông Á. Không biết bài
ca quốc tế: "Prolétaires de tous les pays, unissez-vous" (Hỡi anh em
vô sản tất cả các nước, đoàn kết với nhau lại) nay còn ai hát nữa không; Marx
muốn diệt chiến tranh nhưng chiến tranh lại xuất hiện giữa các nước cộng sản với
nhau;
- Ông đoán rằng chế độ tư bản sẽ chết, nhưng tới nay nó vẫn mạnh
chớ không chết, mà trái lại về sự phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của dân
thì các nước cộng sản không sao cạnh tranh nổi với nó (lời Garaudy, một giáo sư
Pháp theo cộng), vì nó biết tự thích ứng với hoàn cảnh, tự thay đổi, tìm được
cách giải quyết lần lần những cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị (lời một
chính trị gia cộng sản ở Đông Đức); nó không đi tới chế độ độc quyền (monopole)
mà tiến tới chế độ kinh tế tự do trên thị trường (économie du marché) để thị
trường được đlêu hòa. Trái lại, chính những nước cộng sản mới theo chế độ độc
quyền, độc quyền quốc gia.
- Marx muốn xóa bỏ hết sự bất bình đẳng, xóa bỏ giai cấp,
nhưng ớ Nga, Đông Âu không còn giai cấp tư bản nữa thì lại xuất hiện một giai cấp
mới, giai cấp cán bộ, thư lại, từ quyền lợi tới lối sống, đều cách biệt hẳn với
giai cấp thợ thuyền, nông dân.
- Marx hi vọng thay đổi được bản tính con người; Nga đã dùng
những biện pháp rất mạnh trên 60 năm nay, hai ba thế hệ rồi mà bản tính con người
không thay đổi gì cả: vẫn ham có tư sản, hưởng tự do, hưởng lạc như Âu Mĩ (6).
Hiện nay đã có một sự nứt rạn nặng trong khối cộng, nếu họ
không khéo giải quyết với nhau thì trước cuối thế kỉ này sẽ có sự tan rã: Nga,
Trung hoa thành kẻ thù của nhau, Trung hoa nhảy qua phía Tây phương; Việt, Hoa
cũng hằng ngày sỉ vả nhau, gây hấn với nhau; các nước Đông Âu như Ba lan, Tiệp
khắc, Nam tư (có lẽ cả Lỗ ma ni, Bulgarie nữa) đã bỏ chính sách kinh tế của Nga
mà khuyến khích nhiều xí nghiệp tư, coi trọng quan niệm lợi (profit), nghĩa là
coi nhẹ lí thuyết chính trị mà tìm cái lợi, nhờ vậy mức sống của dân cao hơn ở
Nga; Hung gia lợi cho dân chúng tự do hơn, bỏ chế độ độc đảng; hai năm nay Ba
lan cũng đòi được vậy; mà đảng cộng sản Pháp cũng muốn vậy; đảng cộng sản Ý, Bồ
đào nha đã tỏ ý độc lập, không chịu theo chính sách ngoại giao của Nga trong
vài biến cố quốc tế; đảng cộng sản Nhật còn có tinh thần độc lập hơn nữa; hầu hết
các nước đó đều thấy chính sách hợp tác xã nông nghiệp (Kolkhoze) của Nga thất
bại và không bắt nông dân vào hợp tác xã nữa. Nhất là khắp Âu Mĩ, không nước
nào chịu "chế độ xã hội chủ nghĩa Goulag" (socialisme du Goulag)
nghĩa là chế độ xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng trại giam, trại cài tạo (Goulag)
của Nga trong thời Staline.
Ngay ở Nga, từ 1965, cũng đã sửa đổi đường lối kinh tế, cho một
số xí nghiệp được tự do, cải cách lối quản lí và lối sản xuẩt để có nhiều lợi,
và có lợi thì chia cho công nhân viên một phần, một phần giữ lại để khuếch
trương xí nghiệp. Kossyguine đã biết nghe lời kinh tế gia Libermann chú trọng tới
các luật kinh tế, bỏ quan niệm giáo điều đi. Đại học cũng bớt bị chính trị hóa
rồi. Thanh niên được đọc các sách phương Tây và họ rất thích văn học Pháp. Họ
muốn được tự do tư tưởng. Còn phụ nữ Nga thì đòi được hòa bình và hạnh phúc, mức
sống cao hơn, sao cho gần được mức sống của Mĩ, và rất thích đời sống gia đình,
ghét đời sống tập thể (theo Jean Marabini trong cuốn L'URSS à le conquite du
futur - Denoel - 1967).
Ngay nhà văn cộng sản Pháp Aragon, trong cuốn Histoire
parallèle de l'URSS (1962) cũng chê chính sách của Nga trong suốt thời Staline
cầm quyền. Nga đâu còn là một thần tượng để các nước đàn em thờ nữa.
Nhà bác học Sakharov trong tờ Express tháng 8-1972, nhận rằng
Nga có tiến bộ về xã hội, kinh tế, nhưng các nước cũng tiến bộ như vậy, có phần
còn hơn Nga, tiến nhờ kĩ thuật chứ không phải nhờ chủ nghĩa. Ông chê nhà cầm
quyền Nga giả dối, ích kỉ, tàn nhẫn; giáo dục và y tế Nga rất tồi tệ vì bọn cán
bộ cao cấp được biệt đãi mà bọn thường dân bị ngược đãi; chính quyền dùng nhà
thương điên để nhốt bọn trí thức chỉ trích đường lối chính quyền; chính quyền
dùng tới 40% lợi tức quốc gia vào quân sự, võ bị, nên mức sống của dân tăng lên
chậm...
° °
°
Nguyện Vọng Của Con Người Thời Nay
Đọc sách báo phương Tây trong hai chục năm nay tôi thấy giới
trí thức nhất là hạng trẻ ở các nước tư bản và cộng sản có những nguyện vọng giống
nhau, và tôi gọi những nguyện vọng đó là xu hướng của thời đại. Nguyện vọng của
họ tất nhiên khác hẳn những nguyện vọng của đa số các chính trị gia, nhất là bọn
cầm quyền và có thể tiến bộ hơn nguyện vọng của những người già.
Đại khái tôi thấy xu hướng của thời đại chúng ta là:
1- Ngán chiến tranh lắm rồi, thanh niên Nga như trên tôi đã
nói, đòi được hòa bình, mà thanh niên Pháp mười bốn năm trước (1966) đã muốn bỏ
quân dịch đi, thay bằng dân dịch, nghĩa là không muốn vào trại tập quân sự nữa
mà muốn tự nguyện phục vụ dân sự về mọi ngành hoạt động: canh nông, y tế, kĩ
nghệ, giáo dục... Ở các nước nhược tiểu. (Kể chung trai và gái, 63,7% thích dân
dịch, chỉ có 20,6% thích quân dịch, khoảng 15% không có ý kiến - coi bài
"Thanh niên Pháp ngày nay muốn gì?", trong cuốn Những vấn đề của thời
đại của Nguyễn Hiến Lê - Mặt Đất xuất bản - 1974)
2- Muốn được tự do, tư tưởng và nhu cầu cá nhân phải được tôn
trọng; ngay ở nhiều nước cộng sản, người ta đã muốn bỏ chế độ độc đảng mà đòi
có nhiều đảng, mặc dầu cùng theo một chế độ chính trị; vì ai cũng nghĩ rằng có
nhiều đường lối đưa tới chế độ xã hội chủ nghĩa, mỗi đường lối hợp cho một dân
tộc, một giai đoạn nào đó, không nhất thiết phải theo đường lối của Nga hay của
Trung hoa.
3- Muốn được công bằng, có sự bình sản, không có kẻ giàu quá,
nghèo quá, không còn sự bóc lột cá nhân. Sự thực là ớ các nước tư bản tiến bộ
hiện nay, nhờ pháp luật che chở, gần như hết sự bóc lột đó rồi. Lại thêm các xí
nghiệp lớn thời này cần vốn rất lớn, không một người nào đủ vốn lập được, phải
kêu cổ phần, và hạng thợ thuyền, thư kí cũng mua được cổ phần, do đó sự quản lí
không ở trong tay một người, một gia đình, mà ở trong tay những người chuyên
môn về quản lí, những kĩ thuật gia, những người này phải nghĩ đến cái lợi của
xí nghiệp, không thể bóc lột vô sản trắng trợn như thế kỉ trước được. Sự bóc lột
chỉ còn ở những nước lạc hậu thôi; ở các nước cộng sản tôi chắc một ngày kia hiện
tượng quốc gia bóc lột cá nhân sẽ không còn khi mà nó không cần thiết để phát
triển kinh tế, có thể làm trở ngại sự phát triển kinh tế nữa; lúc đó ở khắp thế
giới, sự tăng tiến tài sản, lợi tức sẽ chung cả chứ không riêng cho một giới
nào, giai cấp nào (tư bản hay cán bộ lãnh đạo).
4- Muốn hạn chế sự phát triển, sự sản xuất mỗi ngày mỗi nhiều
để hưởng thụ rồi hưởng thụ một cách phí phạm để có thể sản xuất được nhiều, như
vậy là phát triển để phát triển, phát triển một cách mù quáng, vô mục đích. Các
nhà nghiên cứu ở Massachusett Institute of Technologie (MIT) đã họp nhau để tìm
ý nghĩa, mục đích cho công việc của họ. Lên cung trăng rồi lên hỏa tinh để làm
gì khi mà hai phần ba nhân loại còn đói?
Với lại chúng ta nên nhớ rằng văn minh kĩ thuật chỉ là một
giai đoạn trong lịch sử, nó sẽ chấm dứt một ngày nào đó vì nó không thể phát
triển vô cùng tận được. Đã có một số khoa học gia, kinh tế gia, chính trị gia
chủ trương phải ngưng sự phát triển lại - người ta gọi họ là bọn Zégiste -; và
nhiều thanh niên Âu Mĩ ghét lối sống ồ ạt, quay cuồng chạy theo vật chất, mà muốn
có một đời sống ổn định, giản dị, gần thiên nhiên.
5- Người dân trong các nước tiên tiến, đặc biệt là giới thanh
niên có học đã thấy chế độ dân chủ đại nghị (Parlementarisme) không hợp thời nữa.
Dân chỉ mấy năm được đi bầu đại diện một lần, rồi đại diện của mình sẽ suy
nghĩ, quyết định thay mình; như vậy là đem tương lai của mình giao phó cho người
chứ không phải là dự vào việc nước. Khắp thế giới, chế độ nào tự mệnh danh là
dân chủ cũng là giả dối (hypocrisie) hết như Raymond Aron nói, vì không ở nước
nào dân được làm chủ thực sự cả, không ở nước nào giai cấp bị bóc lột, ức hiếp
cố thể lên cầm quyền cả. Khẩu hiệu "của dân, vì dân, do dân" không
đúng. Có thể là của dân, vì dân (hiếm lắm!) nhưng có chính quyền nào là do dân
điều khiển, định đường lối, chính sách đâu? Phải thay đổi chế độ ra sao cho dân
có thề đích thân dự vào việc nước, đó là đòi hỏi chung của thế hệ đang lên.
Trừ nguyện vọng thứ 4 và thứ 5 là mới mẻ, không thể xuất hiện
ở thời nông nghiệp được vì thời đó chưa có chế độ dân chủ đại nghị, cũng không
có máy móc, không thể sản xuất nhlêu được; còn ba nguyện vọng trên: hòa bình, tự
do, bình sản đều là nguyện vọng chung của nhân loại từ thời thượng cổ.
Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca, Ki Tô, chỉ trừ Mahomet, đều ghét
chiến tranh; cả bốn vị đó đều muốn bình sản.
Khổng Tử trong bài 1 thiên Quí thị bảo: "Bất hoạn quả
nhi hoạn bất quân" (Người trị nước không lo thiếu mà lo sự phân phối không
quân bình); Lão Tử (chương 48 Đạo đức kinh) khuyên tổn hữu dư bổ bất túc (lấy bớt
chỗ dư để bù vào chỗ thiếu), chương 77 lại hỏi: "Ai là người có dư mà cung
cấp cho những người thiếu thốn trong thiên hạ?" Thích Ca trong kinh A Hàm
cung khuyên phân phối tài sản cho công bằng, tuy không triệt để xóa bỏ giai cấp
nhưng bảo mọi người phải có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, còn Ki Tô cũng như
Mặc Tử rất bênh vực giai cấp nghèo.
Về sự tự do, Lão Tử có thái độ cực đoan, không muốn ban giáo
lệnh cho dân, lại càng không ban cấm lệnh, vì càng nhiều cấm lệnh thì dân càng
nghèo (chương 57). Đạo Nho có chủ trương ôn hòa, thực tế hơn. Sử chép vào khoảng
845 trước Tây 1ịch, Thiệu Công tâu với vua Chu là Lệ Vương:
"Khi nhà vua biết trị nước thì thi sĩ tự do làm thơ, kép
hát tự do đóng trò, các viên thái sử chép đúng sự thực, các đại thần biết can
gián, người nghèo không giấu nỗi bất bình về thuế má quá cao, thư sinh học bài
lớn tiếng (...), dân bày tỏ ý kiến về mọi việc và ông già bà cả phàn nàn về đủ
thứ" (Do Will Durant dẫn ớ đầu cuốn Văn minh Trung hoa).
Lời đó có thể chép vào đầu đời Hán, dù vậy chăng nữa thì
2.000 năm trước, triết gia Trung hoa cũng đã có những tư tưởng chính trị tiến hộ
biết bao, phái mà ngày nay gọi là Tân tả phái (nouvelle gauche), cũng không hơn
được.
° °
°
Sự Tranh Chấp Giữa Nga Và Mỹ
Thế giới còn biến chuyển nhiều, chúng ta đương ở trong một thời
hổn độn, không ai đoán được tương lai ra sao.
Trong hai chục năm tới chưa thể có một chính quyền thế giới
(governement mondial) chưa thể đại đồng được, nhưng nhân loại cũng không bị diệt
vì chiến tranh nguyên tử đâu. Cộng sản và tư bản tuy xích lại nhau đấy - cộng sản
hơi tự do hơn một chút, tư bản bớt bất công hơn; nhưng hai khối vẫn chống nhau
(hễ loài người chưa bỏ được ý thức hệ thì còn chia rẽ), không có sự "hội tụ"
được. Một học giả Mĩ nhận rằng dân chúng Nga thích chế độ của họ từ khi chế độ
đó được cởi mở lần lần, và tuy muốn có một mức sống như Mĩ nhưng không muốn trở
về chế độ tư bản, tuyệt nhiên không muốn cho cá nhân bóc lột cá nhân nữa, vì khắp
thế giới không có dân nước nào được hưởng nhiều bảo đảm vật chất mà phải làm việc
rất ít như dân Nga. Còn dân các nước tư bản thì đại đa số vẫn thích sự tự do
kinh doanh, phải tranh đấu, lao lực hơn nhưng đời sống có hứng thú hơn, không bằng
phẳng lặng lẽ tới buồn nản, mặc dầu một số thanh niên đã thấy sự cạnh tranh làm
cho cuộc đời bận rộn quá. Tôi không biết nhận xét đó đúng tới mức nào, nhưng
tôi thấy có lí.
Vậy thì Nga Mĩ không thể thắng nhau bằng ý thức hệ được;
nhưng họ cũng không dám dùng chiến tranh nguyên tử để diệt đối phương vì cả hai
sẽ chết hết. Chỉ còn một cách là dùng chiến tranh lạnh, tranh nhau ảnh hưởng ở
châu Phi, châu Mĩ la tinh, Tây Á, Đông Á, ở những nước yếu mà có rất nhiều tài
nguyên cần thiết cho sự phát triển kĩ nghệ của họ: dầu lửa ở bán đảo Á rập, Ba
tư, mỏ cobaltz ở châu Phi, mỏ đồng, nhôm, uranium... ở châu Phi và châu Mĩ la
tinh. Nước nào dùng ngoại giao, võ lực, tiền bạc hoặc thực phẩm mà liên kết,
làm chủ được nhiều nước trong thế giới thứ ba đó, làm chủ được nhiều tài nguyên
trên địa cầu thì kinh tế, kĩ nghệ nước đó sê mạnh mà thắng nước kia. Đó là
chính sách của bọn thực dân mới. Khi nào chiếm hết tài nguyên trên mặt đất, họ
sẽ tìm cách chiếm tài nguyên dưới đáy biển. Hiện nay các nước lớn đã họp hội
nghị quốc tế để tìm cách vạch ranh giới trên biển, chia nhau khu vực ảnh hưởng.
Thực dân còn sống dai lắm. Không còn chiến tranh vì ý thức hệ nữa, mà chỉ còn
chiến tranh vì tài nguyên và chiến tranh này gay go hơn chiến tranh ý thức hệ nữa.
Tôi sợ giữa thế kỉ sau, thế giới vẫn chưa thể đại đồng được.
Từ 1945 tới nay, phe tư hản phải lùi bước ở nhiều nơi, vì họ
không đoàn kết với nhau, không cương quyết, kiên nhẫn, không đảng nào nắm quyền
được lâu, và cũng vì họ phải tôn trọng dư luận quần chúng. Nhưng từ nay trở đi,
nếu cương quyết thì họ giữ vững được trận tuyến vì khối cộng đã bị chia rẽ,
Trung hoa đã bước qua khối Tây phương, Đông Âu cũng không liên kết chặt chẽ với
Nga nữa; và cũng có thể các nước nhược tiểu lần lần thấy rằng theo Nga kinh tế
cũng chẳng mau phát triển gì hơn theo các nước tư bản, trái lại là khác, như Bắc
Hàn so với Nam Hàn, Trung hoa lục địa so với Trung hoa Đài loan. Đông Đức với
Tây Đức. Mà không mau phát triển về kinh tế thì mức sống thấp hoài, dân cứ phải
hi sinh hoài, sẽ chán nản, biết bao giờ mới đạt được mục tiêu của Marx, Lénine,
là vượt tư bản về bình đẳng, tự do và phong túc.
Điều quan trọng nhất là phe tư bản, đặc biệt là Mĩ, phải bỏ
chính sách ủng hộ bọn tham nhũng làm tay sai cho mình mà biết dùng hạng có tư
cách, có tinh thần cách mạng, được dân chúng trọng. Simon Leys trong cuốn Les
habits neufs du Président Mao (Ed. Champ Libre - 1977) trách Tây phương giúp
triều đình Mãn Thanh hủ lậu dẹp bọn cách mạng Thái Bình thiên quốc; rồi qua đầu
thế kỉ XX, cũng lại ủng hộ Mãn Thanh dẹp phong trào dân chủ, coi thường Tôn Dật
Tiên mà tin Viên Thế Khải; sau cùng nghi ngờ Tưởng Giới Thạch khi Tưởng tỏ ra
cái vẻ một nhà cách mạng, mà hết lòng tin Tưởng khi Tưởng lộ chân tướng một nhà
độc tài, không hề biết tới Mao Trạch Đông mặc dầu Mao được nông dân ngưỡng mộ.
Đó là nguyên nhân chính khiến dân tộc Trung hoa không ưa Mĩ và Tây phương.
Mĩ cũng lại phải bỏ cái thói khinh miệt dân tộc nhược tiểu,
vung tiền ra làm sa đọa họ, lập những ổ trụy lạc, cờ bạc, ma lúy, đĩ điếm như
Han Suyin đã trách trong cuốn Un été sans oiseaux. Ngay ở nước ta cũng vậy, khi
Mĩ chỉ gởi qua giúp mình một số cố vấn thì dân còn có cảm tình với họ, tới khi
họ đổ bộ nửa triệu lính lên lãnh thổ mình, làm xáo trộn xã hội mình thì mình chỉ
mong họ thua mà cút đi càng sớm càng tốt.
Nếu phe tư bản không thay đổi chính sách và thái độ đó thì sẽ
thua cộng sản. Cộng sản sẽ lấn dần như tằm ăn dâu nhờ đường lối mềm dẻo của họ,
kiên nhẫn nhắm hoài mục đích, không lúc nào quên, hễ tư bản lửa rơm tỏ vẻ hung
hăng thì họ đấu dịu, đợi lúc tư bản quên đi, lo hưởng lạc, hoặc chán nản thì lại
âm thầm tiến tới.
° °
°
Sửa Sai
Hôm nay là ngày Thương binh Liệt sĩ (27-7-81 ), tôi viết thêm
mươi trang này để thay ba trang 629-631 trong bản đầu tiên, mà tiêu đề là
"Nhân năng hoằng đạo".
Tôi nhớ đâu như đảng cộng sản Việt nam thành lập năm 1930. Đến
nay đã nửa thế kỉ, đã có mấy triệu người ở trong đảng và ngoài đảng cùng nhau
hi sinh để mong xây dựng một tương lai tốt đẹp cho quốc gia, dân tộc?
Xương các vị đó gom lại, chất lên, chắc thành một ngọn núi
cao lớn gấp 10 ngọn núi Nùng. Anh hồn các vị đó nếu linh thiêng, nhìn xuống
tình cảnh dân tộc mình mà tôi mới phác họa vài nét trong chương XXXl sẽ phẫn uất
ra sao, có về dự lễ ngày hôm nay nữa không. Anh hồn của ông Hồ nữa! Tất cả những
người có tâm huyết tôi được biết, tuổi từ 50 trở lên đều có lời than thở như vậy.
Thật bi thảm! Ai ngờ đâu?
Trong dân gian miền Nam này đã xuất hiện câu:
Quốc gia đã phá tán, Cán bộ hóa tư bản, Dân chúng đều chán nản,
Dắt díu nhau di tản.
Không biết câu đó đã ra tới Bắc chưa? Những người nào muốn cố
giữ lòng tin thì chỉ còn tự an ủi rằng: Nga và Trung hoa đã trải qua một thời
như vậy; đó là một thứ bệnh "tuổi thơ" của chế độ, cũng như bệnh sốt,
đỉ tướt, mọc răng của em bé; rồi đây sẽ qua cơn "phát dục" (crise de
croissance), chế độ sẽ tốt đẹp, mạnh mẽ. Nhưng tôi tự hỏi còn nhiều nước khác
cũng theo xã hội chủ nghĩa như Nam tư, Đông Đức..., họ có mắc thứ bệnh đó
không? Hay là họ có cách đề phòng, có thuốc chữa? Còn dân tộc Pháp, sau này có
thể theo xã hội chủ nghĩa, có sẽ phải trải qua một cơn phát dục như vậy không?
Mới ba bốn năm nay, bệnh hóa trầm trệ, nhưng nó đã bắt đầu
phát từ lâu rồi, theo lời nhiều bạn trí thức của tôi ở Bắc thì từ mấy năm trước
khi Hồ chủ tịch mất; và như tôi đã nới, một tờ niên báo kinh tế bằng tiếng Anh ở
Hương cảng cuối năm 1974 đã nhận thấy ba chứng này của Bắc việt: quản lí dở,
thiếu kĩ thuật gia, nhiều tham nhũng, vì vậy mà kinh tế Bắc không tiến được.
Tôi cho rằng truy nguyên lên thì lỗi lầm của mình bắt đầu từ
1950, hay trễ nhất là từ 1954: chính quyền không hiểu hoàn cảnh nước mình mà muốn
tiến mau quá. Dục tốc thì bất đạt.
- Trong phần 1 chương VII và phần II chương XIV tôi đã nói: tới
1945, nước mình vẫn là một nước nông nghiệp rất nghèo, kĩ nghệ chưa phát triển,
thợ thuyền rất ít mà giới sĩ phu xuất thân từ bình dân, đa số có đạo đức, sống
giản dị như bình dân, được dân chúng kính trọng, nên không có giai cấp đấu
tranh (hiểu theo Karl Marx); thực sự là hạng bóc lột thì chỉ có bọn tư bản Pháp
và một số rất ít đại điền chủ ở trong Nam thôi.
Trong cuộc kháng chiến 1945- 1954, gần như toàn dân theo hoặc
có cảm tình với ông Hồ Chí Minh vì ông là một nhà cách mạng lão thành, kiên cường,
có nhiều kinh nghiệm, tiêu biểu cho lòng ái quốc của dân tộc; chúng ta theo ông
để đuổi Pháp ra khỏi nước, diệt bọn tư bản ngoại quốc và một số tay sai của
chúng, chứ không phải để diệt những đồng bào có dăm ba mẫu ruộng, một xưởng
dùng vài ba chục thợ hoặc một cửa hàng dùng dăm bảy người bán hàng. Rất ít người
có lòng căm thù giai cấp, muốn tạo một xã hội cộng sản. Hoàn cảnh của ta khác
xa Nga và Trung hoa: Nga có những lãnh chúa làm chủ cả mấy ngàn héc-ta, cả chục
ngàn nông nô; Trung hoa cũng có lãnh chúa, có bọn quân phiệt như một ông vua
trong một hai tỉnh mà mỗi tỉnh rộng bằng cả miền Nam nước mình.
Mấy năm đầu kháng chiến, nhờ tinh thần đoàn kết của nhân dân,
quân đội của ta mỗi ngày một mạnh, đương đầu nổi với quân Pháp mặc dầu khí giới
rất ít, xấu. Rồi từ 1950, Mao thống nhất Trung quốc rồi, giúp mình khí giới và
cán bộ, nhưng buộc ông Hồ phải lập lại đảng cộng sản đã bị giải tán từ 1946 để
đoàn kết nhân dân, thu hút hết các đảng phái. Và ông Hồ dã theo ý Mao, lập lại
đảng cộng sản, đổi tên là đảng Lao động (có lẽ ông biết dân không ưa danh từ cộng
sản). Vậy là ông đã biến cách mạng dân tộc thành cách mạng vô sản, đúng đường lối
của Mao. Từ đó giữa các cán bộ đảng viên và các cán bộ có khuynh hướng hoàn
toàn quốc gia, xảy ra những chuyện xích mích và một số người kháng chiến bỏ về
thành nhiều hơn trước.
Năm 1954, thắng Pháp rồi, Việt nam lại theo Mao Trạch Đông, tố
khồ các điền chủ mặc dầu họ chỉ có vài mẫu ruộng, mặc dầu họ đã kháng chiến, hoặc
có con theo kháng chiến, lập được nhiều công. Thế là trên 800.000 người bỏ quê
hương mà di cư vô Nam. Hố chia rẽ sâu thêm.
Trong chiến tranh Việt Mĩ, có thể nói không có gia đình nào
trong Nam không có ít nhất là một người giúp Mặt trận giải phóng hoặc có cảm
tình với Mặt trận. Điều đó tôi có nói rõ ở chương XXXl; Vậy mà thắng Mĩ rồi,
người nào ở từ sông Bến hải trở vào mà không kháng chiến cũng bị coi là ngụy hết,
bị đối xử có khi còn tệ hơn thời thực dân Pháp nhiều. Và chỉ hơn một năm sau,
những lời hứa hẹn của Mặt trận (tự do dân chủ, trung lập, không trả thù...) bị
nuốt hết; miền Nam thống nhất với Bắc dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Mặt trận bị
giải tán. Người Nam nào cũng thất vọng, bất bình. Không còn gì là đoàn kết nữa.
Giữa người Bắc và người Nam, giữa người Nam với nhau nữa, kháng chiến với không
kháng chiến, có cái không khí giữa thực dân và dân bị trị. Chính ông Đào Duy
Anh ở Bắc vào cũng thấy vậy nên trong một cuộc hội họp về thống nhất quốc gia,
đã bảo cần nhất là phải thống nhất nhân tâm đã
- Cũng vì muốn cấp tốc thành lập xã hội chủ nghĩa, sợ bỏ lỡ
"cơ hội ngàn năm một thuở" (lời một cán bộ), người ta hấp tấp dựng
các cơ sở mới, nhồi chính trị vào đầu óc dân, chú trọng đến chính trị hơn kinh
tế, tưởng rằng nếu dân thuộc được mấy khẩu hiệu: tư bản bóc lột, giai cấp đấu
tranh, đảng lãnh đạo, vô sản làm chủ, lập hợp tác xã nông nghiệp, làm chủ tập
thể, lao động là vinh quang, cùng nhau thi đua..., là Việt nam thành một nước
xã hội chủ nghĩa, tiến kịp Nga sô, hơn Trung hoa và Đông Đức rồi. Người ta
không hiều rằng nếu kinh tế không phát triển, dân nghèo đói thì vô sở bất vi,
hóa ra ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, tham nhũng, buôn lậu... không còn nhân cách nữa,
mà xã hội sẽ thành một xã hội đồi trụy, chứ đâu phải là xã hội xã hội chủ
nghĩa.
Người ta theo sát Mao Trạch Đông, trọng hồng hơn chuyên.
Nhưng chuyên đã không có mà cái hồng chỉ có bề ngoài thôi, còn bề trong thì trắng,
một màu trắng lem luốc. Điều này tôi đã nói nhiều rồi, không muốn nhắc lại. Biết
mấy ngàn giờ học chính trị chỉ như nước đổ lá khoai, tới nỗi cán bộ đi học cũng
phải ngán, bực mình thốt lên: "Càng học càng dốt, vì người dạy dốt
quá".
Dốt mà dạy dân, lại trị dân nữa, chả trách trong một buổi họp
của hội Trí thức yêu nước ở thành phố Hồ Chí Minh, một vị đã bực mình phải thốt
lên câu này: "Tôi chấp nhận vô sản chuyên chính nhưng không chấp nhận vô học
chuyên chính". Vị đó bị bắt giam ngay ít giờ sau buổi họp.
Muốn phát triển kinh tế thì một nước nghèo, lạc hậu như nước
mình cần rất nhiều vốn để đầu tư, nhiều kĩ thuật gia giỏi. Kĩ thuật gia giỏi của
mình ở ngoại quốc khá nhiều, nhưng họ không kháng chiến (dĩ nhiên), không được
"học chính trị" (cũng dĩ nhiên nữa) nên họ "không thể hồng' được,
không thể dùng được, trừ một số rất ít. Còn vốn đế đầu tư thì sau mấy chục năm
chiến tranh, mình làm gì có? Trông ở nước ngoài không được: các nước tư bản
ngán mình quá từ khi mình tuyên bố là nước xã hội chủ nghĩa có lẽ từ trước nữa,
từ năm 1956 kia: các xí nghiệp Pháp ớ Bắc đã phải rút vốn về làm ăn nơi khác rồi;
còn các nước anh em thì tuy quí mình lắm, nhưng lại ít vốn, còn đương lo kiến
thiết cho họ. Đành phải đầu tư bằng sức lao động của dân, bắt dân làm việc nhiều
mà ăn ít; ăn ít thì không đủ sức, làm tà tà, láy lệ, sản xuất mỗi ngày một kém
cả về lượng lẫn phẩm, rốt cuộc kinh tế càng suy hơn và chính cán bộ phải phàn
nàn rằng chính phủ bóc lột dân quá mức. thiếu cái tình người.
- Sai lầm thứ ba, tôi cũng đã nói rồi, là sau khi đuổi được
Mĩ đi, mình chưa kịp lấy lại sức, đã nuôi cái mộng làm bá chủ bán đảo Đông
dương, thành một cường quốc ở Đông nam Á, không tự lượng sức mình, cũng không
nhận định được tình hình thế giới, khiến Trung hoa, Miên, Thái, Mĩ, Nhật đâm
ghét mình mà mấy năm nay mình bị sa lầy ở Miên, bị quấy rối ở Bắc Việt, phải nhờ
cậy vào uy thế của Nga, do đó lại bị sa lầy hơn nữa, và không biết bao giờ mới
gỡ khỏi nước bí đó.
Muốn sửa sai, chúng ta phải
- gây lại lòng tin của dân, tình đoàn kết của người Nam,
không phân biệt cách mạng hay ngụy nữa, không phân biệt giai cấp (ở một chương
trên tôi đã nói có tới 12 giai cấp), rút bớt quyền lợi của đảng viên đi, đảng
viên phải sống khổ như dân, làm việc nhiều hơn dân để làm gương cho dân; diệt tệ
quan liêu, bè phái, tham nhũng... cho dân tự do phát biểu ý kiến về mọi vấn đề
trong các cuộc hội họp, trên báo, trên đài phát thanh...
- trọng kĩ thuật hơn chính trị, chuyên hơn hồng, chuyên dễ biết
được, còn hồng nhiều khi chỉ là bề ngoài, chuyên mới đắc lực trong việc kiến
thiết; bỏ một số cơ quan, rút thật nhiều nhân viên trong các sở đi mà đồng thời
tạo công ăn việc làm cho mọi người; cho dân đủ sống, đừng bóc lột dân quá; bỏ
các địa phương đi hoặc rút lại còn hai ba thôi; cho những người đi cải tạo về...;
- rút ra khỏi cảnh sa lầy ở Miên, lấy lại tình hòa hảo với
các nước ở Đông Á;
Từ cuối năm 1980, nhất là gần đây, chính phủ đã nghĩ tới việc
sửa sai đó, đã:
- thực tâm muốn diệt tham nhũng, cách chức, bỏ tù một số, kết
quả chưa thấy gì: bọn đó nhiều quá, nếu diệt cho hết thì không có người làm việc
mà sẽ gây nhiều cuộc chống đối vì chúng có gốc rễ lớn; và hình như đương tính sẽ
cho các cán bộ hồng nhưng không chuyên về vườn hết;
- nghĩ tới lợi ích cá nhân, cho nó cũng quan trọng như lợi
ích đoàn thể, lợi ích quốc gia; dùng chính sách khoán sản phẩm cả trong nông nghiệp
lẫn công nghiệp, cứ theo báo chí thì nhiều nơi có kết quả, nhưng ở Trung cũng
có nơi dân phàn nán rằng khoán nặng quá; họ phải làm việc nhiều hơn mà không có
lợi gì hơn trước hoặc có chút lợi thì không bõ công, nên họ bỏ vô Nam kiếm cách
sinh nhai; tăng gấp đôi lương công nhân và viên chức nhưng đồng thời tăng giá mọi
mặt hàng, có thứ gấp bốn gấp mười và ở chợ trời và thị trường tự do, vật giá
tăng theo, thành thử đời sống của họ không được cải thiện chút nào, rốt cuộc là
cho tay này chính phủ lấy lại bằng tay kia, có vậy mới giữ đồng bạc khỏi bị phá
giá kinh khủng như Trung hoa thời 1945-1949. Phải trừ tận gốc, vá víu không ích
lợi gì.
- muốn cùng với Trung hoa và khối Asean tìm một giải pháp cho
Cao miên nhưng đề nghị của mình bị họ bác bỏ mà đề nghị của họ mình cũng bác bỏ
ở Liên hiệp quốc, vậy là hai bên chưa nhích được một bước nào lại gần nhau.
Điểm cuối này rất khó giải quyết vì ta không chủ động được
còn phải tùy thuộc ba nước lớn: Trung hoa, Nga, Mĩ mà Trung hoa và Mĩ, cả khối
Asian nữa cương quyết không chịu cho Nga đặt chân lên miền Đông Nam Á. Tôi ngại
rằng Đông Nam Á sẽ thành như Tây Á, lộn xộn trên 35 năm rồi mà chưa biết bao giờ
mới yên được.
Tóm lại chính phủ có vẻ rụt rè quá. Trong nội các mới thành lập
tháng 7-1981, các chức vụ quan trọng nhất vẫn ở trong tay những người cũ, chỉ đổi
chỗ của Trường Chinh và Nguyễn Hữu Thọ lẫn cho nhau mà thôi. Trường Chinh lên
làm chủ tịch nhà nước, Nguyễn Hữu Thọ làm chủ tịch quốc hội, mười điều mới sửa
lưng chừng được một, hai.
Chính phủ nào cũng vậy, dù là chính phủ cách mạng đi nữa, khi
đã nắm chính quyền được vài ba chục năm thì cũng hóa bảo thủ. Vì có muốn làm cải
cách lớn lao thì rất ngại gặp nhiều sự chống đối của những kẻ sợ mất quyền lợi
và xã hội sẽ bị xáo động trong một thời gian lâu như Trung hoa hiện nay. Sự sai
lầm đã đâm rễ sâu quá thì dễ gì bứng được? Cho nên phải sáng suốt sửa ngay từ
khi nó mới phát. Như kinh Dịch nói: "Lí sương, kiên băng chí": đạp
lên sương thì biết là băng dày sắp đến, phải sớm biết để đề phòng kịp lúc.
° °
°
Một Lối Phát Triển Riêng - Một Lối Sống Riêng
Nếu may mắn ta giải được tất cả những khó khăn hiện tại thì
ta phải đặt lại vấn đề chính trị và phát triển kinh tế để đạt được những mục
tiêu này: · thành một nước thực sự độc lập, tự do · không cần mạnh, giàu, chỉ cần
tạo được hạnh phúc cho dân. Tôi đã nghĩ đến vấn đề đó từ lâu, đã phát biểu vài
ý kiến rải rác trong cuốn Một niềm tin (1965), rồi trong bài tựa cuốn Bài học
Israel (1968), trên tạp chí Bách khoa (số 424 ngày 1 -3-75). Dưới đây tôi gom
những ý đó 1ại, bổ túc, sửa đổi ít điểm cho có hệ thống.
- Khi đã rút ra khỏi đầm lầy Cao miên, chúng ta nên tuyên bố
với thế giới rằng chúng ta theo chính sách trung lập hoàn toàn trọng hòa bình,
không gây chiến, không tham chiến, giảm binh số, vũ khí tới mức tối thiểu, chỉ
còn là một lực lượng cảnh sát trong nước thôi.
Dĩ nhiên ta sẽ không đứng vào một liên minh quân sự nào hết,
yêu cầu các nước lớn cho ta đứng ngoài các cuộc tranh chấp của họ, tự đặt ra
ngoài các khu vực ảnh hưởng của họ, không mua khí giới, nhận khí giới của nước
nào cả không dự cả những cuộc vận động phi liên kết nữa vì tôi nghĩ rằng những
vận động đó càng có nhiều nước dự lại càng dễ biến chất đi, không nhiều thì ít
bị ảnh hưởng của khối này hay khối khác, hoặc có cảm tình với khối này, khối
khác mà hễ được cảm tình của khối này thì mất cảm tình của khối khác, gây thêm
sự xung đột nữa. Vả lại nhiều nước dự thì thế nào cũng có lúc ý kiến sẽ khác
nhau rồi lần lần chia rẽ, tan rã, lúc đó sẽ bị các nước lớn lung lạc. lôi kéo.
Chính sách tôi đề nghị đó mới thực sự là phi liên kết, âm thầm,
không khen chê ai hết, không để cho ai lấy cớ mà lợi dụng mình được.
Không, chúng ta cứ tuyên bố thẳng rằng chúng ta không muốn
nghe nói tới chuyện tranh chấp của các khối, xin các khối quên chúng ta đi, như
không có chúng ta trên bản đồ thế giới của họ, đừng nhắc một lời nào đến chúng
ta.
Khối nào hay nước nào muốn ức hiếp ta, trừng trị ta về kinh tế,
chúng ta còn vui nữa (coi đoạn dưới); nếu trừng trị ta bằng võ bị thì chúng ta
không chống lại, có giết dân, chiếm đất, cướp mùa màng, tài sản của chúng ta,
chúng ta cũng không kháng cự, chúng ta chịu chết để xem khắp thế giới có thái độ
ra sao. Nếu có nước nào tự nguyện đem khí giới, quân đội giúp chúng ta chống lại
xâm lăng, chúng ta sẽ khẩn khoản xin họ "đừng, đừng". Nếu họ cứ vô để
đánh nước xâm lăng chúng ta thì chúng ta sẽ dắt díu nhau đi chỗ khác để hai bên
giết nhau. Chúng ta sẽ chết nhiều đấy, trước khi thế giới động lòng mà có thái
độ cương quyết với kẻ xâm lăng; nhưng chúng ta sẵn sàng chịu sự hi sinh đó, coi
đó là một điều kiện không thề thiếu được để giữ sự tự do, độc lập hoàn toàn của
mình. Chết như vậy tôi cho là sẽ ít hơn và có ý nghĩa hơn chết vì mượn sức nước
khác để chống kẻ xâm lăng, rồi lại làm tôi tớ cho nước khác đó. Dân tộc mình
không thể bị diệt được, và qua cơn thử thách đó rồi, chúng ta sẽ được yên ổn sống,
vĩnh viễn sống trong hạnh phúc.
- Như vậy chỉ cần hi sinh nhiều lắm là một thế hệ thôi mà tạo
hạnh phúc cho các thế hệ sau.
- Đó là về võ bị, ngoại giao. Về kinh tế, chúng ta tìm một đường
lối phát triển riêng.
Từ thế kỉ XVlII, nhờ những tiến bộ khoa học, những phát minh
cơ giới như máy hơi nước, xe lửa, máy điện, máy nổ... Tây phương mỗi ngày mỗi
phát triền về kinh tế; họ cải thiện phương pháp tổ chức, sản xuất mỗi ngày một
mạnh, bóc lột công nhân để đầu tư, hóa giàu, mạnh, đi chinh phục thế giới, gây
nạn thực dân, gây thế chiến; bây giờ đây, sản xuất quá thừa thãi, họ mắc cái bệnh
tiêu thụ phí phạm, tiêu thụ để sản xuất, sản xuất để tiêu thụ, mà đời sống của
họ mỗi ngày một bận rộn, quay cuồng, không còn thì giờ đề hưởng sinh thú nữa
(Coi cuốn Travailler deux heures par jour - Ed. du Seuil - 1979).
Phương pháp phát triển của họ rất có hiệu quả, các nước cộng
sản Nga và Trung hoa muốn vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa, vừa phát triển cho thật
mau để đuổi kịp họ, mạnh như họ, nhưng không kiếm được đường lối nào riêng đã
theo đường lối của họ, dùng phương tiện của họ: tập trung tài nguyên và quyền
hành, bóc lột giai cấp lao động; như vậy là lấy phương tiện làm cứu cánh, rút
cuộc là "không có được một cứu cánh nhân bản (finalité humaine), thành một
chế độ tư bản về bản chất mà mang những xấu xa, hủ hóa của chế độ xã hội"
(capitalisme dans son enence et socialisme dans ses perversions), như Garaudy
đã nhận định trong cuốn L'anternative (Robert Laffont - Paris 1972) (7). Và ông
bảo Pháp phải kiếm một đường lối phát triển riêng, nhưng ông chưa đưa ra một đường
lối nào cả.
Chúng ta nghèo lại càng phải kiếm một đường lối hợp với hoàn
cảnh, tài nguyên thiên nhiên, mức tiến hóa còn rất thấp của mình. Chúng ta phải
sống theo lối nghèo, đừng đua đòi Âu Mĩ. Trong giai đoạn hiện tại, chúng ta chỉ
nên nhắm mục tiêu này: làm sao cho dân chúng đừng đói rét, đau có thuốc uống,
và đồng thời giảm lần lần được sự bất quân trong xã hội, mà vẫn giữ được cái
tình người. Tôi cho rằng hạnh phúc của dân ở đó chứ không phải ở chỗ được làm
dân một cường quốc trên thế giới đi chinh phục nước người để bỏ thây ở rừng rậm,
sản xuất thừa thãi để sống quay cuồng bừa bãi.
Chúng ta chỉ lựa những kĩ thuật nào thật cần thiết cho quốc
gia trong đường lối phát triển chúng ta đã tự vạch, chẳng hạn kĩ thuật canh
nông, chế tạo máy cầy, phân bón, dược phẩm, đồ điện, máy bơm nước, máy dệt, máy
giấy...; còn kĩ thuật của các nước tiên tiến, không hợp với nhu cầu của mình mà
quá lốn tiền, chỉ lợi cho một phần nhỏ nhân dân, lại phải tùy thuộc vào sự viện
trợ của nước ngoài về nguyên liệu, về kĩ thuật gia, về đồ phụ tùng thì nhất định
phải gạt ra ngoài, đừng cho thanh niên học về những ngành đó.
Nếu có thể được, ta hợp tác với vài nước cũng kém phát triển
như mình, nhu cầu như nhau nhưng tài nguyên khác nhau, đề thành một khối bổ túc
nhau về kinh tế.
Điều quan trọng nhất là ta phải tự lực cánh sinh, đừng nhận một
sự viện trợ có điều kiện chính trị nào của các cường quốc; nếu nhận thì là tự
đút dầu vào cái tròng của họ mà mất tự do, độc lập. Ta phải rán "trồng lúa
lấy mà ăn, dệt vải lấy mà bận, can đảm sống lối sống riêng của mình, hòa thuận
nhau, bao dung nhau, không ai giàu quá, không ai nghèo quá, chẳng cần ti vi,
máy lạnh, những phim cao bồi, những nhạc bi bóp...", (tựa Bài học Israel -
1968).
- Về chính trị ta càng cần có một chế độ riêng. Như ở điểm 5
tiết "Nguyện vọng của con người thời nay" tôi đã nói, khắp thế giới,
nước nào cũng tự xưng là dân chủ, tự do mà không ở nước nào, người dân được làm
chủ, được dự vào việc nước cả. Tại các nước dân chủ đại nghị thì dân chỉ được mấy
năm đi bầu đại diện một lần, rồi đại diện của họ sẽ suy nghĩ, quyết định thay họ.
Tại các nước xã hội chủ nghĩa như nước mình thì dân chỉ được bầu những người mà
đảng đưa ra, những người mà dân có khi không biết mặt mũi ra sao, chưa được
nghe tên tuổi một lần nào nữa. Garaudy trong sách đã dẫn bảo ngay trong các nước
cộng sản châu Âu, giai cấp thợ thuyền mang danh làm chủ quốc gia mà sự thực
không có chút quyền gì cả, vẫn bị ức hiếp; còn bọn cầm quyền tự cho mình là đồng
nhất với thợ thuyền, tiếng nói của mình là tiếng nói của thợ thuyền, do đó có bổn
phận thay thế thợ thuyền để cai trị, rồi dùng danh nghĩa đó đề thi hành dưới thời
Staline, một chế độ độc tài ghê gớm nhất từ xưa tới nay. Vậy thì ta có nên theo
gót tư bản hay cộng sản không? hay phải tìm cách nào, giáo dục dân cách nào cho
dân được thực sự dự vào việc nước?
- Về nhân sinh quan. Cuối chương XXlV tôi đã nói thời này cứ
khoảng 25 năm thì tri thức của loài người tăng lên gấp 4, không ai có thể học hết
được, dù chỉ những đại cương; nhưng kĩ thuật điện tử sẽ giúp ta ghi những tri
thức đó rồi khi nào ta muốn dùng thì máy sẽ tìm cho ta trong vài giây, như vậy
ta không cần nhớ nhiều nữa, chỉ cần luyện óc tưởng tượng, tập có sáng kiến,
khéo dùng những điều máy điện tử lựa ra cho ta. Ở nước ta, không biết tới đời
nào, học giả, học sinh mới có những máy đó để dùng, nhưng từ bây giờ, trong việc
giáo dục, chúng ta cũng nên chỉ cho thanh niên biết dùng kiến thức của họ hơn
là nhớ nhiều. Dĩ nhiên, chương trình phải hợp với nhu cầu và mục tiêu chúng ta
đã vạch. Mục tiêu đó là dựng một xã hội mới theo một lối sống mới, một nhân
sinh quan mới.
Chúng ta nên cho thanh niên hiểu rằng đừng nên mơ mộng hão
huyền, mong một ngày kia đuổi kịp Âu, Mĩ về phát triển, kinh tế, cơ giới, kĩ
nghệ được. Mình có thể có một số anh tài, bác học gia, phát minh gia, nhưng số
đó rất nhỏ so với các nước giàu có, tiên tiến; còn về sự phát triển tính theo lợi
tức trung bình mỗi năm của mỗi đầu người thì cái hố cách biệt giữa mình và Âu,
Mĩ, sẽ mỗi ngày sẽ sâu thêm: hiện nay mình chỉ bằng 1/100 của Mĩ, vài chục năm
nữa có thể chỉ bằng l/200: nước mình nghèo, tài nguyên ít, vốn thiếu, có gắng sức
lắm thì họ tiến được 10, mình tiến được 2; càng ngày họ càng để mình lùi lại xa
ở sau.
Mà ví dụ có do một phép mầu nào, chẳng hạn tìm được mỏ dầu lửa,
phong phú như ở Koweit, hay mỏ vàng, mỏ kim cương như ở Nam phi..., lại có đủ
kĩ thuật gia để khai thác, có thể phát triển mau được mà trong ít chục năm theo
gần kịp một nước như Gia nã đại, Tây Đức, Nhật bản, bước vào giai đoạn hậu kĩ
nghệ, vào "kỉ nguyên thừa thãi" (èrc d'abondance), sản xuất quá nhiều,
tiêu thụ không hết, ví dụ may mắn mà được như vậy thì ta thử hỏi lối sống của
Âu, Mĩ mà Nga, Trung hoa mong đạt được đó, nó có tốt đẹp không?
Chương XXIV tôi đã vạch ra sự phi lí của cáỉ vòng luẩn quẩn tiêu
thụ để sản xuất, rồi sản xuất để tiêu thụ; nó phi lí mà lại gây ra nạn chiến
tranh giữa các cường quốc đi chiếm đất, chiếm tài nguyên của các nước lạc hậu
như mình; nó lại khiến cho tài nguyên thế giới mau cạn, không khí, sông biển, đất
đai bị nhiễm độc; nó tạo nên một lối sống quay cuồng, chật vật, hết sinh thú, một
đời sống bất an của bọn "nouveaux nomadcs", dời chỗ hoài, có nhà cửa
mà không có tổ ấm, gần như không có gia đình nữa; nguy nhất là nó sẽ làm cho cá
nhân lúc nào cũng bị kiểm soát chặt chẽ, mất hết tự do; đầu thế kỉ sau nó sẽ
đưa nhân loại tới đâu nữa, tôi không biết, nhưng chắc chắn là cái tình người
càng ngày càng mất.
Văn minh hậu kĩ nghệ (post industriel) của phương Tây như vậy
đó. Ngay ở phương Tây cũng đã có nhiều người chán nó. Chúng ta cần thay đổi
nhân sinh quan, xét lại quan niệm về hạnh phúc, kiếm một lối sống khác.
Chúng ta đừng đo hạnh phúc bằng lợi tức hằng năm, bằng đô la
nữa. Lợi tức của các nước kĩ nghệ tiên tiến gấp trăm ta nhưng họ đâu có sướng gấp
trăm ta. Không phải cái gì cũng đánh giá bằng tiền được. Đời sống vật chất tới
một mức nào đó thì nên cho là đủ, không nên đeo đuổi hoài sự tấn bộ vật chất mà
bỏ đời sống tinh thần, tình cảm đi. Sự phát triển về kinh tế tới một mức nào đó
cũng phải ngừng, không thể tiến hoài được, tiến hoài thì sẽ đi tới đâu? Bộ
Trang Tử kể chuyện một ông lão làm vườn chịu khó nhọc gánh từng thùng nước từ
giếng lên để tưới rau, chứ không chịu dùng một cái "máy" đằng sau nặng,
đằng trước nhẹ, đem nước lên rất dễ cho đỡ phí sức, chỉ vì ông ta nghĩ hễ dùng
cơ giới thì tất có cơ sự, rồi có cơ tâm. Ông ta có lí một phần, nhưng người
sáng suốt thì biết dùng cơ giới mà vẫn không có cơ tâm, nghĩa là không làm nê lệ
cơ giới. Sở đoản của phương Tây là làm nô lệ cho cơ giới. Chúng ta có lúc dùng
xe hơi, máy bay, nhưng cũng có lúc chỉ dùng xe đạp và nếu trời mát, có nhiều
thì giờ thì ta đi bộ.
Sống giản dị, ăn uống thanh đạm, vui vẻ với nhau, có tình cảm,
biết hưởng cái vui tinh thần trong cảnh thiên nhiên, tôi cho như vậy là hạnh
phúc, mà hạnh phúc đó đâu có cần lợi tức nhiều.
Một số nhà khoa học phương Tây, như Lynton K. Caldwell trong
cuốn In defense of Earth ( 1972), Victor C. Ferkiss trong cuốn Technological
man (1969), đã khuyên chúng ta trở về đời sống thiên nhiên, vì con người là một
phần của thiên nhiên, hễ làm trái thiên nhiên thì gặp họa. Thuyết của họ giống
thuyết Lão, Trang. Một số thanh niên Âu Mĩ bây giờ thích đọc Đạo đức kinh của
Lão, chán văn minh kĩ nghệ của họ rồi.
Trong hai tạp chí Pháp cách đây 7-8 năm, tôi thấy đăng tin ở
Mĩ, không nhớ tiểu bang nào, một số người Mĩ lập một làng, sống chất phác, sung
sướng, gần với thiên nhiên, chỉ dùng rất ít cơ giới, tựa như đời sống thời đại
nông nghiệp; nhiều người ở các nơi khác xin gia nhập, làng phát triển, du khách
tò mò tới coi khá đông. Ở Pháp cũng có một làng như vậy ở miền Normandie hay
Bretagne, đã trên nửa thế kỉ nay giữ nếp sống nông nghiệp thời thế chiến thứ nhất,
không dùng xe hơi mà dùng xe ngựa, cày ruộng, trồng trọt, câu cá toàn bằng những
dụng cụ thời trước, không có ti vi, chỉ có vài máy thâu thanh cho cả làng để chỉ
bắt những tin cần biết, tục cổ giữ được hết; có một số thanh niên bỏ làng ra tỉnh
hoặc đi nơi khác nhưng số đông ở lại và những người lớn tuổi thì thỏa mãn về đời
sống đó lắm. Đọc hai thiên du kí đó tôi mong được tới nơi sống một thời gian
xem đời sống và tình người ra sao. Có vẻ như Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm.
Ở những nước văn minh, tự do cá nhân được tôn trọng thì có thể
có nhiều làng kiểu đó. Nhưng cả một nước năm sáu chục triệu dân mà muốn sống biệt
lập ra ngoài lề thế giới thì tôi biết rằng khó quá. Các nước đàn anh rất văn
minh nỡ lòng nào để cho mình một đời dã man như vậy! Chê nhạc giật gân, vũ lõa
thể, báo khiêu dâm của họ thì được, hoặc chê cả phi cơ phản lực, vệ tinh nhân tạo
của họ thì cũng được đi; đến như tẩy chay những vũ khí tối tân, cứ 5 năm lại cải
tiến một lần, những khí giới hóa học, vi trùng, những bom hạch tâm của họ thì
là phản động rồi, họ đâu chịu tha thứ, nhất định phải lôi mình về thế giới văn
minh của họ chứ. Tôi biết vậy. Hình ảnh một nước Việt nam tôi đã phác họa ở
trên chỉ là một không tưởng, nhưng tôi vẫn giữ nó; có lúc lại còn mơ tưởng một
ngày kia, Việt nam thành một cái "havre", một cái bến yên lặng cho
nhân loại nữa. Và du khách thế giới kéo nhau tới thăm... Biết đâu chừng! (8).
(Hôm nay, 2-10-81, đọc lại tiết này, tôi thấy chính sách của
tôi chỉ là chính sách bất bạo động, bất hợp tác của Gandhi áp dụng vào một nước
nhược tiểu đối với các cường quốc trên thế giới.)
(1) Công việc này tháng 9-81, chính quyền rục rịch làm, chờ
xem kết quả ra sao.
(2) Một kĩ sư, giáo sư cúa Cuba, Nga... qua giúp mình thì cán
bộ mình chỉ được tiếp xúc với họ ở chỗ làm việc và trong giờ làm việc; ra đường
gặp nhau thì phải làm bộ như không hề biết nhau.
(3) Mao tự hào về cách mạng đó lắm. Tây phương chê ông ta là
Thủy Hoàng ngày nay, ông ta mỉm cười bảo ông hơn Tần Thủy Hoàng cá trăm lần chứ
vì Thủy Hoàng chỉ chôn sống 460 kẻ sĩ, còn ông thì giết tới 46.000 trí thức kia
(Theo Simon Leys - sách đã dẫn).
(4) Trong cuộc cách mạng văn hóa, vệ binh đỏ phá hủy nhiều di
sản văn hóa quá nên Trung hoa bị Tây phương chê. Năm 1970 Mao muốn thân với Tây
phương tó ra mình rất trọng văn hóa cố, chứ đâu có dã man, cho khai quật ít mộ
cổ. Việt nam theo gót Mao, cung khai quật khu chung quanh đền Hùng để tìm cố
tích. Khi công việc khai quật ngưng ở Trung hoa thì ở Việt nam cũng ngưng. Y
như hình với bóng.
(5) Về nông nghiệp họ đã bỏ những nông trường quốc doanh như
trên tôi đã nói. Về văn hóa họ cho cách mạng văn hóa là đào tạo những cán bộ giỏi,
biết sử dụng tất cả nhửng cái hay cúa loài người, muốn vậy phải một thời gian
lâu dài (theo Lô gíc lịch sử - sách đã dẫn - mới dịch và xuất bản vài năm nay ở
VN)
(6) Coi thêm tập Con đường hòa bình - Lá Bối 1970 - trong đó
tôi còn kể thêm vài lời tiên đoán sai cúa Marx nữa.
(7) Garaudy là một lý thuyết gia quan trọng cúa đảng cộng sản
Pháp, làm giáo sư, soạn được non 30 cuốn, hầu hết về chính trị, nhất là về chế
độ cộng sản. Có tư tưởng độc lập, không chịu theo đường lối của đảng nên bị trục
xuầt khỏi đảng năm 1970, nhưng ông vẫn giữ chủ nghĩa cộng sản.
(8) Hai tiết "Sửa sai" và "Một lối phát triển
riêng, một lối sống riêng" này tôi mới viết thêm ngày 31-7-81 để thay tiết
"Nhân năng hoằng đạo" trong bản viết tay đầu tiên.
CHƯƠNG XXXIII - LẠI TIẾP TỤC VIẾT
H
ồi kí kết Hiệp định Paris, tôi đã tính sáu mươi lăm tuổi, hoà
bình trở lại rồi tôi sẽ nghỉ. Cuối năm 1975, tôi vừa đúng sáu mươi lăm tuổi,
nói với một bạn thân:
- Chúng mình già rồi, không nên làm gì nữa, chỉ mong người ta
cho mình ở yên để coi những bước thăng trầm trong buổi giao thời.
Bạn tôi đáp:
- Như vậy là tốt nhất.
May mắn là chính quyến thấy tôi đa bịnh và tuổi cao, cho tôi
được thong thả. Nghe nói ở Nga, những người già khỏi học chính trị, vì người ta
nghỉ tuổi đó nan hoá, mà lại "gần đất" rồi nên chú trọng vào sự huấn
luyện bọn trẻ hơn.
Tuy nhiên hai năm đầu, vì đã lỡ có một chút danh, tôi cũng
không được nhàn, phải học tập đường lối chính phủ, làm một số bổn phận công
dân, dự vài ba cuộc họp với tư cách trí thức yêu nước, hoặc nhân sĩ, và tiếp nhiều
bạn văn ở bưng về, ở Bắc vô.
Tôi lại may mắn là khỏi phải lo về gia đình. Vợ tôi, bà họ Trịnh
mắc kẹt ở bên Pháp từ 1972 vì phải trông hai đứa cháu nội, vì con tôi đã li
thân với vợ, đương xin toà li dị. Một hai tháng sau ngày Giải phóng, liên lạc
được với ngoại quốc tôi báo tin nhà cho họ biết, và ít tháng sau tôi cũng được
tin bên đó.
Ở bên đây chỉ còn tôi và bà họ Nguyễn. Chị giúp việc nhà xin
nghỉ luôn để về quê ở Thừa Thiên làm ruộng. Nhà tôi kêu một đứa cháu, nữ sinh Đại
học sư phạm lại ở cho bớt hiu quạnh và tôi yêu cầu nhà tôi ở lại Sài Gòn với
tôi tới khi mọi việc ổn định rồi hai vợ chồng sẽ về Long Xuyên luôn cho gần bà
con, họ hàng và khi chết khỏi phải xa quê.
° °
°
TIẾP BẠN VĂN - DỰ CÁC CUỘC HỌP
Như một chương trên tôi đã nói, chiều ngày 1.5.1947 tôi mới
ra khỏi nhà đi thăm bác sĩ Nguyễn Hữu Phiếm, nhưng ông đã cùng gia đình di tản
tới đảo Guam rồi từ đó qua Pháp. Cô em ruột tôi và cô Mộng Đơn em nhà tôi cũng ở
đảo đó để đợi qua Mĩ.
Tối ngày 3.5, nhà văn Nguyễn Văn Bổng bút hiệu Trần Hiếu Minh,
tác giả tiểu thuyết nổi tiếng Con trâu - và Rừng U minh, hồi giải phóng chắc
đương hoạt động tại thành nên lại thăm tôi trước hết, do một bạn văn giới thiệu.
Ông ta đã đọc một số sách của tôi, thích cuốn Tô Đông Pha, nên lại làm quen.
Người Trung, ngoài ngũ tuần, có học khá, ăn nói thận trọng.
Vài hôm sau, cũng vào buổi tối, nhà văn Nguyễn Huy Khánh cùng
với cô Hợp Phố (em Thiên Giang) cũng lại chơi. Tôi quen ông Khánh từ non hai chục
năm trước, viết bài tựa cho cuốn Khảo về tiểu thuyết Trung Hoa của ông. Ông là
nhà biên khảo, biết chữ Pháp, chữ Hán, nghe nói có nhiệm vụ khá quan trọng
trong thời kháng chiến. Về Sài Gòn, ông điều khiển tờ Giải phóng, rồi qua tờ Đại
đoàn kết cơ quan thông tin của Mặt trận tổ quốc. Hồi nằm vùng ở thành ông có viết
ít bài cho tờ Bách Khoa nên có cảm tình với anh em Bách Khoa, và giúp đỡ cho
tôi được ít việc trong buổi đầu sau ngày Giải phóng. Đối với tôi, ông thành thực,
cởi mở.
Khoảng một tháng sau, Thiên Giang (theo kháng chiến sau Tết Mậu
Thân) từ Hà Nội mới vô, cùng với ông Khai Trí lại thăm tôi, đương lúc tôi đau.
Về chí hướng chúng tôi đã xa nhau từ lâu, cho nên gặp nhau tuy niềm nở mà không
thân mật.
Tôi không tham dự cuộc mít tinh đầu tiên ở Dinh Độc lập để mừng
chiến thắng (không nhớ ngày nào) vì vừa lớn tuổi, vừa đau. Nghe nói có tới nửa
triệu người. Phải đi từ một hai giờ khuya, sáu giờ tới dinh, chín mười giờ mới
giải tán. Nhiều ông già bị một cơn mưa, mà phải đứng bốn giờ liền, về nhà đau cả
tuần lễ.
Sau ngày mít tinh đó, tôi mới lại toà soạn Bách Khoa. Tấm bảng
đã bị hạ. Gặp bốn năm anh em, ai cũng có vẻ lo lắng. Họ cho hay từ ngày 2.5,
nhiều nhà báo, nhà văn ở Sài Gòn, mỗi ngày lại trụ sở tạm thời của cơ quan văn
hoá nào đó ở đường Nguyễn Du, từ bảy giờ sáng tới trưa để xin "chỉ thị"
của cách mạng. Họ tự ý tới chớ không ai mời; các cán bộ cách mạng bận việc tíu
tít mà cũng chưa có chỉ thị của cấp trên, mặc cho họ ngồi đó, sau đưa cho họ tờ
giấy bảo họ ghi những hoạt động của họ trong thời Diệm, Thiệu. Ngồi không suốt
một tuần, họ chán, lần lần không tới họp nữa. Họ có mặc cảm tội lỗi.
Trước ngày Giải phóng tôi đã bị chứng nước tiểu đục, đi tiểu
buốt, bác sĩ Phiếm trị không hết hẳn, mà da qui đầu co lại muốn bít lỗ tiểu.
Sau ngày Giải phóng tôi nhờ bác sĩ trẻ Nguyễn Chấn Hùng, độc giả của tôi trị
cho. Cậu ấy cho là tại da qui đầu cả, cắt đi, cho uống ít thứ thuốc nữa, hết
luôn.
Trong thời gian trị bệnh, hội Nhà văn Giải phóng Sài Gòn -
Gia Định mời tôi dự buổi bầu Ban chấp hành, tôi không dự được.
Một hôm đi mua thuốc, tôi gặp ông bà Trần Thúc Linh, ông lái
xe hơi, thấy tôi vẫy tôi lại đưa tôi về nhà. Tôi thấy ông bà đều có vẻ buồn,
đoán được lí do, nhưng không hỏi. Mấy năm trước Giải phóng, ông hoạt động ngầm
cho cách mạng, bị chính phủ Thiệu giam hai lần; một người con trai của ông tên
Chương, đương học Y khoa, ra bưng một hai năm rồi về, ít lâu sau bị giết một
cách tàn nhẫn: xô hay liệng từ từng lầu thứ ba trường Y khoa xuống đất, chết tức
thì. Cái chết đó làm ông đau xót. Ngày đưa đám cháu Chương - cháu rất mến tôi -
trông thấy tôi, ông nức nở khóc ròng, tôi không hiểu nước mắt ở đâu ra nhiều thế.
Giải phóng rồi mà ông buồn, ít nói, chắc có nhiều tâm sự. Ít
lâu sau, tôi thấy ông trong danh sách Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí
Minh. Năm kia (1978), bà Linh xin qua Pháp thăm con, đợi cả năm mới được phép.
Ông ở lại Sài Gòn với người con út, cũng ở trong Mặt trận Tổ quốc. Tháng
3.1980, tôi hay tin ông đứt mặch máu, tê liệt nửa người, mê man một tuần, ở
trong Bệnh viện Thống Nhất, như ông Nguyễn Ngọc Thơ trước kia. Bệnh viện Thống
Nhất trị cho ông gần hết, ông xin qua Pháp trị tiếp. Hiện ông ở Pháp. Ông ham
hoạt động, có sáng kiến, có đởm thức, có nhiệt tâm, ăn nói rất hoạt bát.
Tháng 6.1975, cô Cao Thị Quế Hương trong Ban Trí vận khu Sài
Gòn - Gia Định dắt Nguyễn Kim Thản, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Hà Nội lại
thăm tôi. Nói chuyện với nhau khoảng một giờ về vấn đề giữ cho tiếng Việt được
trong sáng. Tôi tuyên bố rằng đã thôi nghiên cứu về Ngữ pháp hơn mười năm rồi,
lúc này chỉ đọc Trung triết thôi, và bảo ông nên tìm thăm ông Trương Văn Chình
và bác sĩ Trần Ngọc Ninh, hai người này biết nhiều hơn tôi về Ngôn ngữ học.
Vài tổ chức Văn hóa mời tôi dự các buổi diển thuyết, tôi đều
không dự được.
Tháng bảy, Hội Nhà văn Giải phóng mời tôi dự một cuộc toạ đàm
với hai cán bộ Văn hoá cao cấp ở Bắc vô: Thứ trưởng Hà Huy Giáp và thứ trưởng
Hà Xuân Trường. Chỉ có năm nhà văn ở Sài Gòn được mời: Vũ Hạnh, bà Phương Đài,
Nguyễn Ngọc Linh mà tôi là nhà văn duy nhất không nằm vùng.
Tôi lớn tuổi nhất, đưa ý kiến trước hết, yêu cầu chính quyền
vạch rõ đường lối văn hóa của Bắc, giải toả nỗi thắc mắc và lo ngại của cả ngàn
nhà văn trong Nam - như trường hợp nhà văn Bình Nguyên Lộc - và nên cho họ biết
sớm có thể dùng họ được hay không, nếu không thì họ kiếm cách khác mưu sinh.
Ông Hà Huy Giáp có vẻ cởi mở, bảo cứ phục vụ nhân dân là đúng
đường lối của chính phủ rồi; nhà văn nào cũng được tự do phát biểu ý kiến, tự
do sáng tác theo cảm nghỉ của mình, và những nhà văn như Bình Nguyên Lộc - có lần
thách đố học giả miền Bắc - nên yên tâm, đừng có mặc cảm gì hết.
Chính quyền theo chính sách đoàn kết và khoan hồng mà! Ông
nói thêm: "Dĩ nhiên, những tác phẩm nào không hợp với chủ trương của chính
phủ thì chính phủ không dùng".
Ông phàn nàn rằng cán bộ văn hóa Sài Gòn đã đốt nhiều sách viết
về văn thơ của ta, cả nhiều bộ tự điển nữa.
Tôi hỏi ông: "Trong bộ Văn học Trung Quốc hiện đại, tôi
chê cuộc cách mạng Văn hóa 1966 của Mao Trạch Đông, ông nghỉ sao?". Ông
đáp: "Tôi không biết cuộc cách mạng đó ra sao, nhưng Trung Hoa có đường lối
Văn hóa của Trung Hoa, mình có đường lối Văn hoá của mình".
Sở dĩ tôi hỏi vậy vì hồi đó, Sở Thông tin Văn hoá thành phố
đương kiểm duyệt những tác phẩm của tôi. Kết quả là họ không cấm một cuốn nào của
tôi cả, như một chương trên tôi đã nói, chỉ bảo bộ Văn học Trung Quốc hiện đại
còn phải xét lại (rồi họ im luôn); còn cuốn Bài học Iraël thì họ chỉ khuyên các
sạp sách cũ đừng nên bày bán. Lần đó họ cấm toàn bộ tác phẩm của 56 nhà văn
trong Nam mà họ cho là phản động hay đồi truỵ.
Tháng 8.75, Đại hội trí thức yêu nước ở Nhà hát thành phố (Quốc
hội thời Thiệu), tôi được mời dự với tư cách nhân sĩ thành phố. Hai người dìu cụ
Trần Tuấn Khải bước lên bàn chủ toạ trên sân khấu. Cụ ngồi yên, trước sau chỉ
nói một câu đại ý: "Tôi đã tám mươi tuổi rồi, nhưng thực ra tôi chỉ mới một
tuổi, mới sanh ngày Giải phóng". Cử toạ im lặng, cảm động hay buồn cho cụ?
Ít tháng sau cụ làm bài "Mừng anh khoá về" đăng trên tờ Văn nghệ
13.9.75. Không ai để ý tới bài đó cả. Cụ lẩy bẩy đứng vậy ngó hình Chủ tịch Hồ
Chí Minh khi trổi bản Quốc ca. Nghe nói mãi năm ngoái chính quyền mới trợ cấp cụ
mỗi tháng 150đ.
Khi nghỉ để giải khát, tôi về trước.
Hai tháng sau, có Đại hội Văn nghệ thành phố cũng hợp tại Nhà
hát thành phố, để giới thiệu các hội viên trong đợt đầu, toàn là những văn nghệ
sĩ nằm vùng tôi không hề biết tên. Nhà văn Lý Văn Sâm mời tôi phát biểu ý kiến,
tôi từ chối, ông ta có vẻ thất vọng.
Trong Đại hội đó tôi ngồi cạnh nhà văn Thiếu Sơn Lê Văn Sĩ,
tác giả cuốn Phê bình và Cảo luận mà tôi đọc từ đầu thế kỉ. Hồi làm việc ở Sở
Thuỷ lợi Sài Gòn, tôi biết ông có họ xa với bên ngoại của tôi (ông quê ở Đoan
Loan), làm việc ở Sở Bưu điện Gia Định, nhưng không có dịp gặp nhau. Mập, lùn,
lớn hơn tôi vài tuổi, có bệnh huyết áp cao. Ông khen tác phẩm và bài báo của
tôi, bảo: "Ở trong khu bị chiếm và viết được như vậy - ông muốn nói: tôi
can đảm, thẳng thắn chỉ trích chính phủ - là được lắm".
Hồi trẻ ông theo đảng SFIO của Pháp, thời kháng chiến ra bưng
ít lâu; thời kháng Mĩ theo Mặt trận giải phóng rồi ra Bắc được chính phủ ngoài
Bắc cho qua Pháp "tham quan" một thời gian; giải phóng rồi trở về Sài
Gòn, làm một nhân sĩ. Tôi hỏi ông sẽ viết lách gì những không, ông mỉm cười,
đáp:
- Thời trước mình viết, nguỵ nó bỏ tù mình cũng không sao;
bây giờ viết để cho cách mạng bắt giam mình thì kì quá, mà lại kẹt cho họ nữa.
Tôi cười, quí ông là người hiền lương, thành thực, có tư
cách.
Hai năm sau ông mất vì đứt mạch máu. Trong hai năm đó, tôi chỉ
thấy ông viết vài bài ngắn, một đăng trên tờ Sài Gòn Giải phóng vào cuối 1975,
đại ý là: muốn đoàn kết thì đồng bào miền Bắc nên bớt mặc cảm tự cao đi, còn đồng
bào miền Nam nên bớt mặc cảm tự ti đi.
Đọc bài đó, tôi viết thư cho ông bảo: "Không biết đồng
bào Bắc có bớt được chút mặc cảm tự cao nào không, chứ người miền Nam rất ít ai
còn mặc cảm tự ti".
Ông không đáp, nhưng khoảng một tháng sau ghé toà soạn của
Bách Khoa, nói với Lê Ngộ Châu: "Anh Lê không làm cách mạng nhưng đáng quí
hơn nhiều người làm cách mạng".
Chính ông dắt ông Như Phong, giám đốc Nhà xuất bản Văn học Hà
Nội lại thăm tôi. Tôi tặng ông và Như Phong mỗi người vài cuốn biên khảo của
tôi. Như Phong hỏi tôi có tác phẩm nào có thể in hoặc in lại thì đưa cho ông
coi. Tôi đưa cho ông cuốn Đông Kinh nghĩa thục, cuốn Chiến Quốc sách mà ở Bắc
chưa ai viết, với tập bản thảo Tôi tập viết tiếng Việt. Ông trở ra Hà Nội, một
năm sau không có tin tức gì cho tôi cả, tôi viết thư đòi tập bản thảo, nửa năm
sau nữa ông mới trả.
Cuối năm 1975, chính quyền phát động phong trào thống nhất tổ
quốc. Nhà văn Nguyễn Đỗng Chi, tác giả cuốn Cổ văn học sử, lại thăm tôi, xin
tôi viết một bài về vấn đề thống nhất để đăng trong một tạp chí nào đó. Tôi từ
chối, lấy cớ là đau và không có tài liệu lịch sử. Giá tôi có viết thì cũng uổng
công vì tạp chí ông nói đó sau không thấy ra.
Cũng vào khoảng đó, Đào Duy Anh ở Hà Nội vào, tìm tôi. Hôm
đó, khoảng bảy giờ, tôi đang ăn sáng thì một ông già tóc râu bạc phơ, mập, lùn,
to xương đứng ở ngoài sân nhìn qua cửa sổ có lưới sắt hỏi tôi.
- Ông Nguyễn Hiến Lê có nhà không?
Tôi không biết là ông, mà không muốn tiếp người lạ, nên đáp:
- Không, ông ấy về Long Xuyên rồi. Chưa biết bao giờ về.
Ông ta quay ra. Ít bữa sau ông trở lại, gặp nhà tôi, xưng
danh, nhà tôi cho tôi hay, tôi ở trên lầu xuống tiếp liền.
Hỏi nhau về gia đình, hoạt động văn hóa của nhau, rồi nói
chuyện thời cuộc. Ông khuyên tôi nên coi các cán bộ ở bưng về như con cháu
mình, tìm hiểu họ chứ đừng trách họ. Họ gian lao chiến đấu cả chục năm, thành
công thì tất nhiên muốn được hưởng lạc, muốn được nắm quyền và tin chắc rằng
chính sách của họ đúng, phải có tin như vậy mới làm việc được. Họ ít được học,
không có kinh nghiệm hành chánh, cho nên phải dò dẫm Khi ra về ông hỏi con trai
tôi ở đâu, tôi đáp làm kĩ sư ở Pháp, ông bảo: "Tốt, Pháp là một nước văn
minh".
Tôi hỏi ông:
- Làm sao anh biết tôi mà lại thăm?
Ông đáp:
- Tôi vô đây kiếm tài liệu viết về trí thức tiến bộ miền Nam.
Khi tới Huế tôi đã nghe nhiều người nói về anh; tới Nha Trang Quách Tấn khuyên
tôi vào Sài Gòn nên lại tìm anh; sau cùng tới Sài Gòn, Phạm Văn Diêu bảo nên lại
thăm anh trước.
Năm đó (1975) tôi gặp ông một lần nữa, tặng ông ít cuốn sách,
ông tặng tôi cuốn Tự điển Truyện Kiều (viết công phu) soạn xong đã lâu, đưa nhà
xuất bản, bị họ dìm cả chục năm, sau nhờ thủ tướng Pham Văn Đồng can thiệp, họ
mới in cho. Sách mới phát hành mấy tháng đã hết.
Năm sau ông lại vô Sài Gòn, chúng tôi gặp nhau vài lần.
Năm 1978 ông trở vô một lần nữa, tôi mời ông ở lại chơi ít
ngày, được biết rõ ông hơn. Ông ân hận rằng có hồi làm chính trị, thất bại, tự
xét kĩ không làm chính trị được, nên chuyên về Văn hoá. Ông ngại rằng hai ba chục
năm nữa, kinh tế vẫn chưa tiến được, và xã hội chủ nghĩa vài trăm năm nữa cũng
chưa xây dựng xong, mình sẽ bị phương Tây bỏ lùi lại sau rất xa nếu không có sự
thay đổi mạnh mẽ.
Năm ngoái (1979), ông lại vô Sài Gòn, ở sáu bảy tháng, nhưng
tôi bận việc nên ít có dịp gặp ông. Ông mất một lá phổi, một vai xệ xuống, hơn
tôi bảy tuổi mà còn mạnh quá: nói chuyện suốt ngày được, ngồi nghe ông tôi thấy
rất mệt. Ông mượn tôi ít cuốn sách Trung Hoa về Hàn Phi và bản thảo tôi viết về
Hàn Phi để kiếm tài liệu.
Tôi đọc được một tập Hồi kí khoảng 50 trang đánh máy, chép lại
những hoạt động chính trị và văn hóa của ông từ hồi trẻ (thời dạy học) đến năm
1970. Cơ hồ ông muốn minh oan rằng suốt đời ông trung thành với cách mạng. Ông
viết được khoảng bốn chục tác phẩm (kể cả những tập chưa in, như dịch Đạo đức
kinh, Thi kinh, dịch Thơ Đường), chuyên khảo về sử, hiệu đính văn thơ Nôm (Kiều,
Hoa Tiên), và nghiên cứu về chữ Nôm. Ông đào tạo được ba nhà biên khảo về sử:
Hà Văn Tấn tác giả cuốn Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Phan Huy Lê tác giả
cuốn Lam Sơn khởi nghĩa, và Trần Quốc Vượng, người soạn chung với Vũ Tuân Sán
cuốn Hà Nội nghìn xưa. Ông là học giả siêng năng, có uy tín nhất ở Bắc. Hè năm
1981, ông vô Nam nữa, ở 5-6 tháng, đi thăm Rạch Giá, Long Xuyên, ghé chơi tôi một
ngày. Trong lúc tậm sự, ông tỏ vẻ buồn về thời cuộc, hy vọng có sự thay đổi lớn;
và bảo rằng đọc tác phẩm của tôi ông càng thấy thích, thèm một cuộc đời viết
văn tự do, độc lập như tôi. Chính ông đã sống một cuộc đời như vậy khi mở nhà
xuất bản Quan Hải tùng thư còn bà thì mở tiệm sách ở Huế. Ông tiếc thời đó
chăng?
Quê ông ở làng Thanh Oai (Hà Đông), hồi nhỏ học ở Thanh Hoá,
rồi Vinh, sau dạy học ở Quảng Bình, bà con một vị tổng đốc ở Huế cũng có một thời
dạy học. Con cái thành tài hết. Em ruột ông có vài người làm cán bộ cao cấp.
Mấy năm sau 1975 tôi còn gặp non mười nhà văn và học giả miền
Bắc như Vũ Tuân Sán, bạn học trường Bưởi của tôi, có cử nhân luật, thông chữ
Hán, chuyên khảo về danh nhân và bia Hà Nội; Thạch Giang, nghiên cứu chữ Nôm và
Truyện Kiều; Hoàng Phê soạn Tự điển Việt; Hướng Minh, bạn học trường Bưởi, dịch
sách Pháp và viết báo v.v
Có vài người ngỏ ý muốn lại thăm tôi, nhưng tôi nhờ bạn từ chối
khéo cho. Ai lại thăm tôi cũng niềm nở tiếp nhưng không đáp lễ ai cả.
Xét chung, các học giả miền Bắc có cảm tình với tôi, chính
quyền đối với tôi cũng có biệt nhãn. Sở Thông tin Văn hoá Thành phố coi tôi như
một nhân sĩ; Ban Tuyên huấn Thành phố có lần phái một nhân viên lại thăm tôi,
nghe tôi sức khoẻ mỗi ngày mỗi suy, nhân viên đó đề nghị giới thiệu tôi để vào
điều trị ở bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện cho hạng cán bộ cao cấp, nhiều máy
móc và thuốc men nhất thành phố). Tôi từ chối, tự xét bệnh chưa nặng có thể điều
trị ở ngoài được.
Khi nhân viên đó ra về rồi, ông Đào Duy Anh hỏi tôi:
- Người ta săn sóc sức khoẻ của anh như vậy mà sao anh tỏ vẻ
lơ là?
Tôi đáp:
- Tôi có công gì với cách mạng đâu mà vô đó nằm? Hưởng một ân
huệ mà mình không đáng hưởng, tôi cho không phải là phúc. Vô đó người ta gọi
tôi là đồng chí tôi sẽ mắc cỡ, chịu không nỗi. Tôi chỉ mong được sống yên ổn,
không ai nhắc tới tôi, không ai nhớ tên tôi nữa.
Khi có phong trào vượt biên rầm rộ, có tháng 65.000 người bỏ
quê hương. Cơ quan cho người lại dò xét xem tôi có ý định đi ngoại quốc không
và khuyên tôi đừng nên đi đâu cả. Tôi bảo họ: "Nếu tôi muốn đi Pháp thì đã
đi từ lâu rồi vì tôi có đủ điều kiện để đi theo cách chính thức".
Tôi biết thái độ của chánh quyền đối với hạng nhà văn miền
Nam mà họ gọi là "Tiến bộ" như tôi. Cứ yên ổn sống, đừng thắc mắc gì
cả, vài ba năm xuất hiện một lần trong một cuộc hội nghị nào đó, chẳng cần đưa
ý kiến, hoặc viết một bài báo dài ngắn gì cũng được, ngắn thì tốt hơn, vô thưởng
vô phạt, để tỏ rằng mình còn ở trong nước và hợp tác với chính quyền, như vậy
là được rồi; còn đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa đã có chủ trương của cấp
trên.
° °
°
Năm 1976, tôi lại khạc ra máu như năm 1954, mới lên Sài Gòn,
nhưng lần này nhẹ hơn. Tôi uống đọt chùm ruột hai lần thì hết. Bác sĩ Liêu
Thanh Tâm rọi phổi, chụp hình quang tuyến, so với năm 1954 thấy không tăng, nên
tôi chỉ cần nghỉ ngơi và uống thuốc bổ. Bác sĩ Trần Ngọc Ninh hay tôi đau lại
thăm và giúp đỡ vài việc.
Nhờ có bệnh đó tôi xin phép miễn dự Đại hội Văn nghệ thành phố
thảo luận về đường lối văn nghệ. Hội họp làm ba đợt, mỗi đợt khoảng một tuần,
cho vài trăm nhà văn. Các nhà biên khảo dự đợt đầu, rồi tới các thi sĩ, tiểu
thuyết gia v.v Gọi là thảo luận, chứ thực ra Uỷ ban của Hội đem ra mổ xẻ tác phẩm
một số nhà văn, có ý mong họ tự kiểm thảo. Đa số nhà văn trách Uỷ ban không hiểu
hoàn cảnh của họ: ở dưới chế độ kiểm duyệt của chính phủ Thiệu không thể muốn
viết gì là viết được. Một vài nhà văn còn can đảm nhận rằng đã viết những tác
phẩm mà cách mạng gọi là đồi truỵ, nhưng như vậy không phải là tội lỗi: những
truyện đó tả đúng xã hội thời đó, và ở trong xã hội nhà văn có hoá đồi truỵ
cũng là chuyện thường.
Rốt cuộc ba tuần kiểm thảo chẳng đi tới đâu, so với phong
trào chỉnh huấn ở Bắc năm 1953 thì dễ dãi, cởi mở hơn nhiều, mà đa số nhà văn
Nam có thái độ đàng hoàng hơn.
Nhưng sau đó cũng có khoảng hai chục nhà văn bị đưa đi
"cải tạo tư tưởng", một số được thả về sau ba bốn năm như Nhã Ca,
Dương Nghiễm Mậu, Tạ Tị, một số chết trong trại như Nguyễn Mạnh Côn, hoặc gần
chết mới được thả về, tới nhà vài ngày thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ Hoàng
Chương (Vũ bị giam ở Chí Hoà, khỏi phải đi trại cải tạo), hiện (1981) còn một số
ít chưa được về như Duyên Anh. Võ Phiến, Lê Tất Điều, Nguyên Sa qua Mĩ trước
ngày giải phóng; Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan cũng đã đi từ lâu.
Suốt một năm rưỡi từ 5/75 đến cuối thu 76, tôi sống tương đối
thảnh thơi: sách của tôi được phép bán, và nhiều người, cả Bắc lẫn Nam, mua;
giá mỗi ngày mỗi tăng như cuốn Đắc nhân tâm: năm 1975 giá 2đ thì năm 1981 giá
50đ ở chợ sách cũ. Năm 1983 giá 300đ. Tôi không làm gì cả, nằm nhà dưỡng sức,
vài ba ngày lại toà soạn Bách Khoa cũ một lần để gặp lại bạn văn (ngày nào cũng
có 5-6 anh em cầm bút lại đó tán gẫu); rồi dạo khu chợ trời từ đường Lê Lợi tới
Chợ Cũ, đường Nguyễn Huệ. Mỗi tuần họp tổ một lần. Mỗi tháng lại chen chúc, chờ
đợi ở ngân hàng xin rút ra 60đ cho hai vợ chồng.
° °
°
SÁCH BÁO MIỀN BẮC
Tôi để nhiều thì giờ nhất vào việc đọc sách báo miền Bắc: Báo
Nhân dân, Hà Nội mới, Dân chủ, Tổ quốc, một số tạp chí chính trị, triết học,
khoa học, nhất là tạp chí văn học. Sách của nhà xuất bản Văn học, Khoa học xã hội,
sách cho trẻ em và dăm ba tiểu thuyết sáng tác hoặc dịch.
Xét chung tôi thấy ngành xuất bản ở Bắc không phát triển bằng
trong Nam, đa số nhà văn, nhà biên khảo làm việc ít, chậm, không hăng say,
không "đua nở". Trong hai chục năm sau ngày tiếp thu Hà Nội, không có
nhà văn nào cho ra được chín mười tác phẩm, trung bình chỉ được một hai.
Không có gì kích thích cho họ sáng tác mạnh. Họ đều là công
chức, dù không viết gì thì cũng lãnh được khoảng 60đ mỗi tháng; nếu viết thì phải
có danh lớn, hoặc bồ bịch, bè phái mới hi vọng được in, vì vậy ta thấy nhiều cuốn
có lời đề tựa của một "Anh lớn" nào đó vào hàng bộ trưởng, thứ trưởng,
điều tối kị ở trong Nam.
Về loại sáng tác, tôi thấy thơ và tiểu thuyết kém, các nhà nổi
danh thời đó như Huy Cận, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nam Cao, Tô
Hoài, Bùi Hiển viết ít hơn trước mà nghệ thuật cũng không hơn gì trước.
Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng, đóng góp rất lớn cho cách mạng,
có bài có hồn thơ, nhưng có những câu rất khó hiểu, như bài Đời đời nhớ Ông,
ông viết:
"Thương cha thương mẹ thương chồng,
Thương mình thương một thương ông thương mười".
Hay trong một bài kỉ niệm Nguyễn Du, ông gọi Nguyễn Du là
anh, bài đó tôi không thể hiểu nổi!
Một thiếu niên (tên Trần Đăng Khoa?) 12 tuổi đã in tập thơ đầu
tiên, cảm hứng dồi dào, giọng thơ hồn nhiên, ai cũng tưởng là có tương lai,
nhưng lớn lên, chưa thấy bài nào hay cả.
Về tiểu thuyết thì có dăm tác phẩm nổi tiếng tả tinh thần
kháng thực dân như cuốn Con trâu của Nguyễn Văn Bổng nhưng tưởng tượng không dồi
dào, tâm lí không sâu sắc, bút pháp không có gì mới mẻ. Truyện ngắn được vài
cây viết như Lê Vĩnh Hoà (em ruột Võ Phiến) cũng toàn là viết về chiến tranh, đọc
vài tập rồi không muốn đọc thêm nữa. Tiểu thuyết gia được trọng dụng nhất là
Nguyễn Đình Thi. Nguyễn Tuân vẫn được nể.
Thơ và tiểu thuyết ngoài đó không đa diện, nhà văn ngoài đó
có ít hình ảnh mới, dùng chữ không táo bạo. Nhưng phải nhận rằng Bắc không có
những tác phẩm tệ lắm như trong Nam; tác phẩm nào cũng lành mạnh, sàn sàn,
trung trung, ít có tác phẩm nổi bật, thật sâu sắc. Chỉ có Nguyễn Tuân là giữ được
ít nhiều bản sắc trong một cuốn viết về Sông Đà.
Trước ngày giải phóng tôi thấy công trình khảo cứu tập thể,
xét chung thì thận trọng hơn, công phu hơn, ít lỗi hơn trong Nam. Nhưng lối làm
việc tập thể đó có nhược điểm: rất chậm, thiếu phối hợp chặt chẽ nên không nhất
trí, chẳng hạn bộ Chiến tranh và Hoà bình của Léon Tolstoi do bốn người dịch
chung, không đều tay mà một số danh từ đầu sách dịch khác, cuối sách dịch khác.
Cái tệ lớn nhất là gây tật thiếu tinh thần trách nhiệm.
Mới mở tập đầu A-C bộ Tự điển tiếng Việt phổ thông của Uỷ ban
khoa học xã hội Việt Nam (Hà Nội - 1975), tôi thấy Ban biên tập gồm 12 nhà, với
sự cộng tác trên một trăm học giả, văn nhân, thi sĩ, từ Đào Duy Anh, Hoa Bằng tới
Nguyễn Công Hoan, Nguỵ Như Kontum, Nguyễn Xiển, Thanh Tịnh, Tô Hoài, Trần Văn
Giáp v.v, rồi tới một Hội đồng xét duyệt gồm 9 nhà: Nguyễn Khánh Toàn, Cù Huy Cận,
Bùi Huy Đáp, Đào Văn Tiến, Hoàng Phê (ông này vừa là chủ biên, vừa là một hội
viên trong hội đồng xét duyệt!), Phan Triều, Tạ Quang Bửu, Trần Quỳnh, Tú Mỡ.
Trước sau mất 11 năm (1964-1975) mới ra được tập đó. Thấy họ làm việc đông đủ,
lâu năm, kỹ lưỡng như vậy, tưởng công trình phải đồ sộ, gần đạt được mức hoàn hảo
(không có tự điển nào hoàn toàn không có lỗi), nhưng khi lật ra một số từ thì
tôi thất vọng.
Có những điều vô lý, bất tiện như từ a pa tít ghi là xem
apatit, tôi phải lật trên mười trang sau mới tìm được apatit: "khoảng vật
chủ yếu canxi photphat", tôi không hiểu tại sao Ban biên tập dùng tới hai
cách viết, một cách rời, một cách liền; sao không viết liền như canxi,
photphat. Sao lại bất nhất trên nguyên tắc như vậy?
Có những lỗi rất nặng như từ cọng, biến thể ngữ âm của cộng,
mà Ban biên tập gọi là "tiếng địa phương", thì sai quá. Cọng chỉ là
cách phát âm sai của người Nam, cũng như cây cau, họ phát âm là cây cao, như
con tôi họ phát âm là coong tui v.v không thể gọi là tiếng địa phương được.
Có những từ định nghĩa chưa sát, hoặc mù mờ như:
Biến tốc, không thấy ghi danh từ hay động từ, theo nghĩa:
"làm thay đổi tốc độ", tôi đoán nó là động từ. Nhưng "hộp biến tốc"
thì là danh từ?
Khi ông Hoàng Phê, chủ Ban biên tập lại chơi, tôi đưa ra mấy
nhận xét đó với dăm sáu nhận xét nữa, ông làm thinh, bảo ông Hoàng Văn Hoành
(cũng trong Ban biên tập) ghi chép, và lúc ra về, ông Hoành bảo tôi rằng nhiều
nhận xét của tôi có lí.
Các sách biên khảo tập thể khác cũng vậy, tuy công phu mà
cũng có vài lỗi nặng, khiến tôi có cảm tưởng rằng họ làm việc tập thể đấy,
nhưng chẳng ai chịu trách nhiệm cả; ngay cả Hội đồng xét duyệt cũng chưa chắc
đã đọc lại tác phẩm, có đọc thì chỉ lật lật, lướt qua vài chỗ thôi.
Trái lại, một số công trình biên khảo cá nhân rất có giá trị,
như bộ sử Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của Hà Văn Tấn, rồi tới bộ Lam Sơn
khởi nghĩa của Phan Huy Lê
Xét chung, công việc khảo cứu về sử (sử dân tộc cũng như sử
văn học) và công việc khảo cổ, khai quật để tìm di tích miền núi Hùng Vương ở Bắc
hơn hẳn trong Nam.
Về Việt ngữ, ngoài đó cũng tốn công nghiên cứu nhưng kết quả
không được bao nhiêu (trừ ngành chữ Nôm), không bằng kết quả vài cá nhân trong
Nam như Lê Ngọc Trụ, Trương Văn Chình
Họ hiệu đính được vài ba truyện bằng thơ của ta, nhưng lại
không in chữ Nôm, kém hẳn cuốn Lục Vân Tiên của nhóm Lê Thọ Xuân trong này.
° °
°
TÔI GÓP Ý
Khi Việt Nam đã thống nhất, tôi viết một bài Góp ý về việc Thống
nhất tiếng Việt đăng trên tờ Giải phóng chủ nhật ngày 12.9.76. Đại ý tôi bảo rằng
tiếng Việt từ hồi nào tới giờ vẫn thống nhất, nay chỉ cần "nhất trí"
hay "qui định" một số tiếng thôi; công việc đó mới xét tưởng là dễ
dàng nhưng thực ra cũng có khá nhiều vấn đề nan giải và tôi nêu ra một số vấn đề
về thống nhất:
1. phát âm, 2. chính tả, 3. từ ngữ, 4. ngữ pháp.
Bài đó không dài, được độc giả ở Nam và Bắc khen. Chẳng hạn
Vũ Tuân Sán bảo: Bài viết sâu sắc, chứng tỏ một kiến thức có tầm khái quát lớn,
thật "Bách khoa"; được đăng lại trên báo Đoàn kết của Hội Việt kiều ở
Pháp, (có lẽ ở Tây Đức nữa), và trên một tờ báo của đồng bào di cư qua Mĩ, với
một trang giới thiệu tôi, do Nguyên Sa viết.
Một bạn đọc cũ của tôi di cư qua Gia Nã Đại đọc bài báo đó bảo
tôi là một trong số ít nhà văn được cảm tình của cả Nam và Bắc.
Vấn đề thống nhất tiếng Việt nêu lên rầm rộ ở khắp nước năm
1976 rồi lặng xuống. Năm 1978, tháng 10, có một hội nghi thống nhất chính tả ở
Sài gòn, trưởng ban tổ chức là học giả Hoàng Tuệ ở ngoài Hà Nội vô. Tôi không dự
mà chỉ viết thư góp ý kiến, đại ý bảo "Gần hoàn toàn đồng ý với Ban tổ chức
về nguyên tắc tiêu chuẩn hoá chính tả, chỉ xin nhắc lại chủ trương của tôi (đã
đăng trên tờ Giải phóng chủ nhật năm 1976) là giữ đúng cách viết tên người tên
đất của nước ngoài như Napoléon, Marseille, Shakespeare, London; chỉ một số thuật
ngữ khoa học là cần phiên âm; muốn vậy phải mạnh bạo "cải tiến và bổ sung
chữ quốc ngữ", chẳng hạn:
- Tạo một số phụ âm mới: bl, cl, fl, gl, pl, vl, sl,, br, cr,
fr.
- Tạo một số vần mới: ab, eb, ib, ob, ub,, ad, ed,,, ar, er
để giữ được gần đúng dạng chữ của phương Tây mà khi đọc sách
ngoại quốc, dễ nhận ra, đỡ bỡ ngỡ. Ví dụ Nil, Broglie, Chrome sẽ phiên âm là
Nil, Brogli, Crôm chứ không phiên âm là Nin, Bờ-rô-gờ-li, Cờ-rôm như ngày nay.
Cuối tháng 10 năm 1979, Ban tổ chức Hội nghị Khoa học toàn quốc
ở Hà Nội, mời tôi ra dự về vấn đề "Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt",
tôi đã định đi, rồi vì sức khoẻ kém, đi không được. Sau đọc các báo cáo đăng
trên báo, tôi thấy Hội nghị đã gần như nhất trí về việc để nguyên các tên người,
tên đất ngoại quốc, mà không cần phiên âm. Như vậy là sau ba năm (1976-1979), mới
tiến được một bước nhỏ. Tôi ngại tới cuối thế kỉ vấn đề thống nhất chính tả vẫn
chưa giải quyết xong.
Năm 1977, tôi viết một bài nhan đề là Đoàn kết, gởi báo Đại
đoàn kết, đại ý buồn rằng tinh thần phục vụ của anh em kháng chiến xuống nhiều
rồi, gây nhiều bất mãn trong dân chúng (tôi dẫn chứng vài trường hợp có thật),
muốn "Đoàn kết" thì chính cán bộ phải khiêm tốn và làm gương cho dân,
việc khó nhọc thì làm trước dân, hưởng thụ thì sau dân; nhưng báo không đăng, sợ
gây sự bất bình của tất cả cán bộ trong nước chăng?
Ngoài ra, do theo lời yêu cầu của Lê Huy Dân, bạn học cũ của
tôi ở trường Yên Phụ, thư kí toà soạn tờ Nguyện san Tổ quốc, tờ báo của Đảng Xã
hội (được coi là tờ báo của giới trí thức), tôi viết hai bài cho báo đó:
- Một truyện ngắn làm tôi xúc động, đăng trên số tháng chạp
1977. Tôi phê bình các truyện ngắn của Nam Cao, viết trước cách mạng 8/1945, đặc
biệt khen truyện Một đám cưới; nhưng toà soạn cắt bỏ đi khoảng một phần ba, chỉ
giữ phần phê bình riêng truyện Một đám cưới thôi.
- Chủ nghĩa thực dân và vấn đề kì thị chủng tộc ở Nam Phi,
đang trên số 11 năm 1978. Bài này cũng bị cắt bỏ đi nhiều. Từ đó có vài tờ báo
xin bài tôi đều từ chối hết.
Năm 1978 Thứ trưởng Văn hoá Hà Xuân Trường mà tôi đã gặp ở
Sài Gòn trong một cuộc toạ đàm năm 1975, vào Sài Gòn, phái một nhân viên rất
lanh lợi tên là Hải, lại mời tôi dự một cuộc họp để lập một Uỷ ban Trung Hoa học
(Sinologie) nghiên cứu về Trung Hoa. Tôi không dự, cho rằng chương trình đó lớn
quá, thực hiện không nổi.
Cũng trong năm 1978 thì phải, một cán bộ trong Hội Văn nghệ
Giải phóng thành phố Hồ Chí Minh lại bảo hội muốn đề nghị lên chính quyền trợ cấp
mỗi tháng 30đ cho năm sáu nhà văn ở Sài Gòn, trong số đó có cụ Trần Tuấn Khải,
ông Giản Chi, ông Thuần Phong, và tôi. Tôi bảo tôi còn tự túc được, không dám
làm phiền chính quyền trợ cấp; nhưng cụ Trần Tuần Khải chắc cần lắm, mà 30đ một
tháng chẳng nhằm gì đâu, phần tôi nên để tặng cụ. Sau đó cũng chìm luôn, và năm
ngoái tôi hay rằng riêng cụ Trần được trợ cấp một tháng 150đ. Vậy người ta đã
theo đề nghị của tôi.
Một bạn học cũ của tôi ở trường Bưởi, anh Phó Đức Vinh, có tú
tài bản xứ, hợp tác với tờ Thanh Nghị (bút hiệu Hướng Minh) trước 1945 đã đăng
vài truyện ngắn. Sau khi tiếp thu Hà Nội, thỉnh thoảng viết ít bài trên vài tờ
báo ngoài đó, lúc này hợp tác với nhà xuất bản Văn học; năm ngoái (1979) đề nghị
tôi dịch cho nhà đó một danh tác của Anh hay Pháp do tôi tự lựa, tôi từ chối vì
không có thì giờ, còn bận làm xong vài công việc đã dự định.
Mới đây ông lại bảo tôi không có thì giờ dịch thì xem trong số
các tác phẩm văn học tôi đã dịch và in trước ngày Giải phóng như Cầu sông
Drina, Mưa, Kiếp người, Cổ văn Trung Quốc có cuốn nào nên in lại thì sửa chữa rồi
gởi cho ông cùng với nguyên tác để ông đề nghị với nhà Văn học tái bản; lòng
ông rất tốt, nhưng ông không hiểu nỗi lòng của tôi. Ngày 30.6.80 tôi viết thư tạ
tấm lòng ông, kể qua tâm sự tôi, tự nhận định giá trị mấy cuốn ông nêu ra đó và
bảo chỉ có cuốn Cổ văn Trung Quốc là đáng tái bản hơn cả, nhưng lúc này tôi đã
dời về Long Xuyên, không thể trở lên Sài Gòn mà sửa ấn cảo (chữ Hán) được, ông
tính sao thì tính (bức thư đó tôi còn giữ phó bản).
Tưởng như vậy ông hiểu ý tôi mà cho tôi được yên thân, không
ngờ giữa năm nay (1981) ông lại viết thư cho hay nhà Văn hoá đã lựa cuốn Kiếp
người, yêu cầu tôi sửa sớm sớm cho để nhà xuất bản sắp chữ liền. Tôi lại đáp hiện
còn bận việc lắm, sức khoẻ lại kém, chư thể sửa được.
Nữa tháng sau tôi được thư ông Vũ Tuân Sán ở ban Hán Nôm, cho
hay nhà Văn học đã nhờ ông đọc cuốn Cổ văn Trung Quốc của tôi; ông đọc xong đưa
hai người nữa đọc, tất cả đều "đáng giá rất cao" cuốn đó, và ông sẽ
viết "Đề cương" (tôi đoán là Compte rendu) cho nhà Văn học. Vậy thì rất
có thể họ sẽ xin phép tôi tái bản cuốn đó nữa.
(Sau mục Tôi góp ý từ trang 593 của bản thảo cho đến trang
617 đã in trong Đời viết văn của tôi, Văn Nghệ xuất bản năm 1986.)
° °
°
BẠN BÈ
Trong ba năm viết lách liên tiếp đó, nửa tháng tôi mới ra khỏi
nhà một lần, nhưng nhận được rất nhiều thư từ bốn phương và được rất nhiều bạn
tới thăm.
Ngoài thư của người thân, họ hàng ở Pháp, Mỹ, thư các bạn cũ ở
Nam, còn thêm thư của bà con, thư các bạn cũ ở miền Nam, còn thêm thư các bà
con, bạn cũ mới ở Bắc và nhiều thanh niên nhờ tôi khuyên bảo hoặc chỉ xin được
gặp mặt tôi để "vững tin những giá trị cũ" trong buổi giao thời này.
Bốn bạn văn (Đông Xuyên, Quách Tấn, Bàng Bá Lân, Toan Ánh) buồn,
không biết làm gì cũng viết lách cho qua ngày, viết rồi để đó như tôi; có bạn gởi
tôi đọc rồi góp ý kiến.
Thường lại thăm tôi có các bạn Giản Chi, Học Năng, Dã Lan, Trần
Thúc Linh, Lê Ngộ Châu, nhất là Vương Hồng Sển.
Tôi quen ông Vương từ hồi mới lên Sài Gòn, khoảng 1956, nhưng
hồi đó mỗi người đi một đường nên ít khi gặp nhau; mãi đến ngày Giải phóng mới
gặp nhau thường. Ông hơn tôi tới chín tuổi, tóc bạc phơ nhưng vẫn còn mạnh, mỗi
tuần xách ba toong từ Gia Định ra Sài Gòn tìm kiếm sách cũ, và cứ khoảng nửa
tháng ghé tôi, cho tôi mượn vài cuốn sách hay, nói chuyện một hai giờ. Ông nhớ
rất nhiều phong tục, nhân vật trong Nam nên câu chuyện của ông rất vui. Tủ sách
của ông rất nhiều sách quý; chẳng đợi tôi hỏi ông cũng tự mang lại cho tôi mượn.
Mỗi ngày ông còn có thể đánh máy bản thảo được 8 giờ. Ông đã có cả ngàn trang hồi
ký và biên khảo chưa in, mấy ngàn tấm thẻ về địa danh Nam Việt.
(Mục Về vườn từ trang 620 đến hết trang 624 của bản thảo đã
in trong Đời viết văn của tôi, Văn Nghệ xuất bản năm 1986. Và Phụ lục Một cũng
đã in trong Đời viết văn của tôi.)
PHỤ LỤC I
T
ôi tự xét mình hồi 60 tuổi
Sàigòn 8.1.1972
Các con
Tục lệ của mình không coi trọng sinh nhật bằng tử nhật. Chỉ một
số gia đình sang trọng mới làm lễ chúc thọ cha mẹ, ông bà (hoặc thầy học) khi
những vị đó 60 tuổi trở lên: vừa 60 tuổi được coi là lão rồi, có thể dưỡng lão,
mọi việc trong nhà giao cho con cháu, mà việc nước cũng để cho "đàn sau
gánh vác".
Vì tục lệ đó cho nên ba không bao giờ nghĩ tới - mặc dù có thể
nhớ tới sinh nhật của vợ con, ngay của chính ba nữa - cho nó là không quan trọng.
Nhưng năm nay thì ba nghĩ tới, vì hôm nay ba đúng 60 tuổi Tây (tuổi ta 61 mà
tháng rưỡi nữa qua năm Nhâm Tí đã là 62), nghĩa là đã sống được một hoa giáp
(60 măm).
Hồi trẻ có người đoán số ba, bảo chỉ hưởng lộc tới năm nay
thôi. Ba cho là sai; ba có thể sống được mươi năm nữa, nhưng từ năm nay thấy
mình già rồi; mấy tháng trước té cầu thang, trật gân, mất ba tuần mới khỏi, và
gần đây bác sĩ Mazaud chuyên về tim bảo động mạch của ba bắt đầu cứng
(artériosclérose), và nghe tim có double souffle (phì phì), ngày nào cũng phải
uống hai thứ thuốc sédocaréna và cordarone (hoặc amplivie), có lẽ cho tới suốt
đời. Viết lách bình thường (dĩ nhiên trí nhớ đã giảm), nhưng đi nhanh và xách nặng
không được. Tóm lại không có gì quan trọng: 60 tuổi mà như vậy cũng là
"normal". Má con kém ba 3 tuổi còn mạnh hơn ba, chỉ có một con mắt bị
cataracte, bệnh đó dễ trị, khi nào nó "chín" thì mổ.
Vậy hôm nay là sinh nhật của ba, cũng chẳng ăn mừng gì cả.
Các cụ ngày xưa thường nhân dịp đó làm một bài thơ "tự trào", nghĩa
là tự giễu mình. Ba không làm thơ thì ôn lại cuộc đời đã qua.
Tuổi thơ và thiếu niên của ba cực khổ. Mồ côi cha từ hồi 10
tuổi ta, nhờ mẹ và bà ngoại mới được học hành, và cũng nhờ truyền thống gia
đình, nhờ số tốt nên mới nổi tiếng là học giỏi trong họ nội họ ngoại và xuất
thân được ở trường Cao đẳng Công chánh. Nếu sinh vào một gia đình khác thì đậu
tiểu học rồi tất phải phá ngang mà đi làm. Có thể nói nhà chỉ đủ cơm ăn với
rau, đậu; đau ốm thì uống thuốc Nam rẻ tiền rồi để cho cơ thể tự chống với bệnh
tật chứ không mời ông lang, nhất là bác sĩ (một lần coi mạch của bác sĩ thời đó
là 5đ bằng 5.000đ bây giờ). Thời đó những gia đình như gia đình mình sống nhờ
thiên nhiên, gọi là nhờ số cũng được: bản chất mạnh thì sống, yếu thì chết.
Đầu năm 1935 ba ra làm việc, năm 1937 lập gia đình, 1938 có
con, thì năm 1939 đã bắt đầu thế chiến thứ nhì. Trong mười năm 1935-1945, vì hậu
quả của cuộc khủng hoảng kinh tế và của chiến tranh, cần kiệm lắm, gia đình mới
đủ sống, để dành được một chút, năm 1945 tản cư, của cải mất hết. Từ 1945 đến
1950 vì không chịu trở lại Sở Công chánh nên sống thật vất vả.
Từ 1950 mới vào dạy trường Trung học Long Xuyên, vừa viết
sách; ba năm sau, cần kiệm lắm, mới gây được một số vốn là non 200.000đ (bằng
hai triệu ngày nay) và 1953 bỏ dạy học, lên Sài Gòn sống bằng cây bút. Nhưng mới
lên Sài Gòn thì bị hai bệnh nặng: lao phổi và loét bao tử (ulcère bulbaire), trị
4-5 tháng mới hết. Hết rồi, tận lực làm việc, năm 1960 mua được căn nhà ở Kì Đồng
này, lúc đó ba đã là 50
Tóm lại trong non 50 năm vất vả, lúc lên lúc xuống, từ hai
bàn tay trắng mới xây dựng được thì vì chiến tranh bị tiêu huỷ hết, rồi lại từ
hai bàn tay trắng xây dựng lại nữa. Nét chính trong đời ba là trải qua những
đau khổ trong cảnh nghèo hồi nhỏ, nên lớn lên lúc nào cũng tận lực chiến đấu với
nó; tính tình có lẽ do đó mà nghiêm khắc, gay gắt, đó là "mặt trái của huy
chương"; nếu sinh vào hoàn cảnh như các con các cháu ngày nay, không phải
chiến đấu thì tính tình chắc ôn hoà hơn, nhưng nghị lực chắc cũng kém.
Có thêm điểm này nữa cũng đặc biệt: tuy chống với cảnh nghèo
mà không bao giờ ba ham làm giàu: năm 1953 lên Sài Gòn, có tiếng tăm một chút rồi,
một số bạn rủ ba xuất bản sách giáo khoa hoặc mở trường tư (trung học), hai nghề
đó ba làm thì tất thành công và mau giàu, ba từ chối hết, chỉ viết rồi xuất bản
sách của mình thôi, mà má con cũng chỉ dạy riêng một lớp tại nhà thôi, không muốn
khuếch trương kinh doanh, hễ dư ăn, phong lưu rồi thì thôi. Ngay bây giờ, chỉ
xuất bản sách của ba thôi, lợi tức cũng có thể tăng lên gấp đôi, gấp ba nhưng
ba không muốn: ba bán tác quyền khoảng 50 cuốn cho mươi nhà xuất bản khác, chỉ
giữ lại mươi cuốn xuất bản lấy thôi. Nghĩa là ba để thì giờ mà viết chứ không
muốn kinh doanh làm giàu, và biết "tri túc", hạn chế nhu cầu cùng thị
dục của mình. Tri túc là một nét của triết lí phương Đông của nhà Nho (tri túc
nghĩa là biết thế nào là đủ rồi thì thôi, không cần thêm nữa). Ba nhận thấy rằng
con, Hằng và Hải đều không ham làm giàu, tính tình liêm khiết, điều đó đáng
khen, giữ được nếp nhà đấy.
Nhờ tri túc như vậy, nhờ để thì giờ mà viết lách, nên tuy non
hai chục năm nay - từ 1953 - sự nghiệp văn chương của ba tiến nhiều. Tới nay có
trên trăm cuốn (tome), non 90 nhan đề (titre), khoảng một nửa là dịch, một nửa
soạn. Về số lượng (quantité) đó, từ trước tới nay chưa ai hơn được. Về phẩm
(qualité), ba được coi là cây bút biên khảo và dịch thuật có giá trị nhất; và
ba nghĩ rằng trong trên 100 cuốn đó, sau này khi ba chết, còn được mươi cuốn
lưu lại đời sau (trong dăm ba chục năm); văn xuôi của ba có được vài chục bài
ngắn, dài vào hạng mẫu mực (classique), hay. Nhưng điều đáng mừng hơn là ba được
mọi giới trọng là nhà văn độc lập, có tinh thần nhân bản và tinh thần quốc gia
cao, có tính tình liêm khiết: đã trên mười lần, ba từ chối những cái mà người
ta cho là vinh dự của người cầm bút, như giải thưởng văn chương, làm giám khảo chấm
giải thưởng văn chương, làm giáo sư đại học, vô uỷ ban điển chế văn tự, dịch
thuật, và hội đồng Văn hoá Giáo dục v.v Ba cho những cái đó là hư danh mà cũng
không ưa những cơ quan đó, người cầm bút nên quí nhất sự độc lập và sự liêm khiết.
Còn sống được mươi năm nữa, cuộc sống được bảo đảm về vật chất
rồi ba mong giữ được hai điều đó: độc lập, thanh khiết cho tới cùng và viết hoặc
dịch thêm độ mươi cuốn nữa để cho có công việc mà đời bớt buồn, thế thôi.
Cái vui nhất là ít năm nữa được thấy hoà bình, các con cháu,
cả Hằng và Hải, về đây tụ họp ít tháng, cúng giỗ ông bà - gia đình mình học
hành được như ngày nay là nhờ tổ tiên mấy đời sống liêm khiết và rất trọng sự học
- rồi đi thăm ít nơi thắng cảnh của non sông, thăm quê hương mồ mả ở Hà Nội,
Sơn Tây. Sau đó các con có tản mác mỗi người một nơi thì cũng là lẽ tự nhiên; nếu
không xây dựng được gì cho quốc gia dân tộc thì sống một đời chính trực, giữ được
tư cách, dạy dỗ con cái cho đàng hoàng, cũng là tạm được rồi. Ước nguyện đo,
bao lâu nữa mới toại?
° °
°
PHỤ LỤC II
Dư luận về Giải Tuyên dương sự nghiệp Văn học, Nghệ thuật năm
1973
Báo ĐẠI DÂN TỘC - số 13.12.72 - Mục Hí trường:
Phủ Quốc Vụ Khanh Văn Hoá loan báo sẽ có thêm ba giải Tuyên
dương sự nghiệp Văn chương và Mỹ thuật cho giới văn nghệ sĩ. Mỗi giải một triệu
đồng, sẽ phát vào dịp Tết Quí Sửu.
Xin đề nghị một danh sách học giả, văn nghệ sĩ để đồng bào
văn nghệ giới tuyển chọn:
Học giả Nguyễn Hiến Lê, thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải, thi sĩ
Vũ Hoàng Chương, kịch sĩ Năm Châu, hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, nhạc sĩ Lê Thương.
Trong sáu vị chỉ chọn ba, vậy xin chọn quí vị nào lớn tuổi nhất,
vì sợ không tuyên dương sự nghiệp của quí ví đó trong năm nay, sang năm các
ngài sẽ vắng mặt khi trao giải!
Đó là cụ Nguyễn Hiến Lê, Trần Tuấn Khải, Nguyễn Gia Trí (...)
Vương Hữu Bột
Cũng báo trên, số 29.12.72, cũng mục trên, và cũng kí giả
Vương Hữu Bột.
Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hoá đã gởi cho nhà báo bảng
thể lệ về Giải Tuyên dương sự nghiệp Văn chương - Học thuật - Mỹ thuật.
Theo thể lệ ai cũng có thể đứng ra giới thiệu người được
Tuyên dương rồi Hội đồng tuyển trạch sẽ chọn lựa.
Một đặc điểm là trong phiếu giới thiệu phải có chữ kí của người
được giới thiệu để tỏ ý chấp nhận sự giới thiệu dự tranh giải thưởng.
Đây là một điều phòng xa tốt.
Lỡ có những người được giới thiệu, để tuyển trạch để trao giải,
lại không chịu nhận giải thì sao? Như trước đây mấy năm, Ban tổ chức đã trao giải
thưởng biên khảo cho cụ Nguyễn Hiến Lê, nhưng cụ Nguyễn Hiến Lê lại không tới
nhận giải.
Không lẽ chúng ta phải ban hành một sắc luật buộc các nhà văn
hóa khi được trao giải thưởng phải tới lãnh(...)
Cũng là báo trên, số 18.1.73, cũng mục trên, cũng kí giả
trên.
(...) Cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần lãnh giải về Học thuật cũng
xứng đáng, dù rằng các tác phẩm của cụ có tính cách phổ thông hơn là thâm cứu.
Gần đây có người kí trùng tên với cụ Nguyễn Duy Cần, viết trên báo Khoa học huyền
bí, một tờ báo quá bình dân, không phải có đúng là cụ không? Không lẽ một học
giả lão thành được tuyên dương sự nghiệp mà lại tham dự vào cả các tờ báo rất
phổ thông như vậy?(...)
Về giải Tuyên dương Văn học, Nghệ thuật năm nay (...). Về
ngành Biên khảo ở Việt Nam hiện tại, người mà tôi cho là có công nhất phải kể đến
Nguyễn Hiến Lê. Nhưng vì một lẽ nào đó, ông không muốn nhận giải. Thật là một sự
đáng tiếc. Nếu không có ông Nguyễn Hiến Lê, ông Thu Giang (Nguyễn Duy Cần) nhận
vinh dự kể trên kể cũng là một điều ổn thoả (...).
Kí giả Lô Răng
°
Đúng như ông Lô Răng viết, tôi không muốn nhận giải.
Năm đó ông Mai Thọ Truyền làm Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn
hoá, ông Nguyễn Duy Cần là cánh tay mặt ông Truyền, ông Giải Chi ở trong ban
tuyển trạch.
Ông Đông Xuyên, bạn chung của ông Giản Chi và tôi, bàn với
ông Giản Chi giới thiệu tôi để dự giải Tuyên dương, ông Giản Chi gạt đi, bảo:
"Bác ấy không nhận đâu, đừng giới thiệu".
Cũng vào khoảng đó, ông Lê Ngộ Châu và ông Võ Phiến ở tạp chí
Bách Khoa lại chơi vào một buổi chiều (trong khi tôi đương tiếp ông Từ Mẫn,
Giám đốc nhà xuất bản Lá Bối) và cùng ngỏ ý muốn giới thiệu tôi. Trước mặt ông
Từ Mẫn, tôi đáp:
- Cảm ơn hai anh, nhưng thể lệ là tôi phải kí vào phiếu giới
thiệu của hai anh. Tôi không muốn tranh với ai cả, không chịu kí đâu. Tôi không
muốn nhận một số tiền nào của chính phủ này hết.
Giải thưởng đó là một triệu đồng mà giá vàng hồi đó khoảng
40.000 đồng một lượng.
° °
°
PHỤ LỤC III
Trích thư ngày 9.9.1977 của Trần Quí Nhu bên Mĩ
(...) Đa số người Việt Nam chỉ đọc tiếng Việt và cần đọc để
giải trí nên ở các tiệm thực phẩm Việt Nam và Trung Hoa có bày nhiều tạp chí,
bán có vẻ chạy. Báo mua năm cũng nhiều. Có nhà mua hai ba tạp chí. Tiệm dược phẩm
cũng bán nhiều sách Tự Lực Văn đoàn, kiếm hiệp tái bản. Có tạp chí in lại Bài học
Israël, Bán đảo Ả Rập.
Khi Sài Gòn in sách đánh dấu cuốn thứ 100 của anh, một tạp
chí ở đây in lại bài Góp ý về việc thống nhất tiếng Việt của tờ Giải phóng. Bài
của anh dài hai trang, bài giới thiệu dài một trang nữa. Nguyên Sa gọi anh là
"lão trượng họ Nguyễn" và nhắc tới vụ anh từ chối là giám khảo cho giải
Văn chương khoảng trước Tết Nguyên đán hai năm trước.
°
Từ ngày Giải phóng tới nay (1980) tôi viết bốn bài gởi đăng
báo, một bài về tác phong cán bộ ở Bắc vô và bưng về, tờ Đại Đoàn Kết không
đăng; hai bài trên tạp chí Tổ quốc về văn học và về thực dân da trắng ở Nam Phi
(2 bài này bị cắt nhiều) và một bài đăng trên tờ Giải Phóng số chủ nhật ngày
12.9.1976 về việc thống nhất tiếng Việt. Chỉ có bài cuối này là tôi đắc ý mà
cũng được nhiều độc giả cả Nam lẫn Bắc khen.
°
Kinh hoàng trên đảo Kokra
(Trích báo Đất Mới - Tin tỵ nạn)
Những thảm cảnh trên biển Thái Lan vẫn tiếp tục xảy ra hãi
hùng cho đồng bào tị nan. Một trong những thảm cảnh này vừa được phanh phui do
những nhân chứng đã được cứu thoát qua những cơn kinh hoàng trong 21 ngày tại đảo
Kokra do bọn hải tặc Thái Lan gây ra. Trong số nhân chứng có nhà văn Nhật Tiến
và hai vơ chồng nhà báo, ông bà Dương Phục, đã được đưa ra ánh sáng cho dư luận
thế giới được biết vì những thảm cảnh hải tặc thường được các nhà chức trách
Thái Lan làm ngơ vì bất lực và bọn cảnh sát Thái Lan thì đồng lõa để ăn có với
bọn cướp nên chúng tự do hoành hành.
Đảo Kokra, một đảo hoang trong vịnh Thái Lan đã trở nên sào
huyệt không che giấu của bọn hung thần ác quỷ.
Có 157 đồng bào bị bọn hải tặc giam giữ trên đảo là do nhiều
toán khác nhau mà chúng đưa đến để bóc lột. hãm hiếp, hành hạ... cực kỳ dã man
không bút nào tả xiết, và ngoài sức tưởng tượng của con người. Sau đây là một
vài thảm cảnh hãi hùng.
Bà Nguyễn thị Thương 36 tuổi, đã tốt nghiệp tại Hoa Kỳ, cựu
giáo sư trường Bách khoa Thủ đức cho biết: chiếc thuyền của bà chở 107 người khởi
hành ở Rạch giá ngày 1-12-1979. Gia đình bà gồm chồng bà là giáo sư đại học Trần
Quang Huy, bà cụ thân sinh, hai em trai, hai em dâu và 7 đứa cháu. Sau ba ngày,
sau khi thuyền tới hải phận Thái Lan thì bọn cướp xuất hiện. Chúng ra lệnh cho
27 người bước qua tàu của chúng rồi lục soát và cướp bóc, chúng rất hung hãn với
đàn ông và hãm hiếp đàn bà. Hành động xong, chúng buộc thuyền của chúng ta vào
tàu của chúng và kéo đi. Chúng mở tốc lực thật nhanh và quẹo thật gắt để cố
tình làm cho thuyền đắm... và thuyền đã chìm mang theo 80 sinh mạng xuống đáy
biển. Số 27 người mình trên tàu của chúng bị chúng mang đến sào huyệt là đảo
Kokra, nhưng trước khi tàu tới, chúng đã ép 7 người đàn ông phải nhảy xuống biển
bơi vào bờ. Cả 7 ông này đều không ai đủ sức bơi nên đã chết đuối trong đó có
ông Trần Quang Huy, chồng bà Thương. Mục đích của chúng là giết hết các người
đàn ông có mặt. Còn lại 20 người đàn bà chúng đưa lên đảo để làm mồi cho thú
tính dã man của chúng.
Ông Dương Phục và bà vợ là Vũ Thanh Thủy thuộc toán khác cho
biết: ông bà đã mục kích bọn cướp bắt ông Ngô văn Liên 54 tuổi há mồm để bẻ gãy
3 chiếc răng vàng. Chúng đè ông xuống lấy búa đập, nhưng không được, chúng lấy
tournevis nạy cũng không ra, sau chúng kiếm được một cây kìm rỉ sét để vặn chéo
3 chiếc răng. ông Liên ôm mồm rên la, máu chảy xối xả suốt một ngày; chúng bỏ 3
chiếc răng vàng vào túi và bắt đứa con gái ông 16 tuổi mang đi mất.
Các nạn nhân khi lên tới đảo, nhất là phụ nữ thì tản mát đi
tìm các khe núi, hốc đá để trốn tránh bọn chúng. Chúng hành hạ các đàn ông và bắt
đi tìm thân nhân phụ nữ; nhiều người không chịu, bị chúng hành hạ tàn nhẫn: ông
Trần Minh Đức không nghe lời chúng, bị chúng dùng dây xiết cổ họng đến chết.
Ông Nguyễn Minh Hoàng bị chúng treo lên cành cây, ông giãy giụa làm gẫy cành,
chúng liền đá ông lăn xuống dốc núi, người em trai ông lại đỡ anh liền bị chúng
dùng búa chém vào đầu, máu ra có vòi. Hai tên cướp cắp nách ông này dí đầu vào
đống lửa, máu chảy xuống xèo xèo cho đến khi ông ta bất tỉnh.
Một cô bé 15 tuổi đã phải trốn tránh, chui rúc một mình trong
một hốc đá với bao nỗi sợ hãi. Sợ từng tiếng lá xào xạc, từng tiếng động nhẹ, sợ
từng đàn chuột chạy qua chân, từng con ốc xên bò trên người và sợ luôn cả ma...
Nỗi sợ mỗi ngày một gia tăng, sau nhiều ngày chịu dựng không nổi, em đã phải bò
ra và bị 4 tên hải tặc thay phiên hãm hiếp.
Một thiếu nữ 20 tuổi sau đêm đầu tiên bị hãm hiếp quá nhiều
đã trốn trong các bụi rậm. Bọn cướp biết vậy nên đã nổi lửa đốt các bụi cây, cô
bị cháy nát cả sau lưng nhưng cũng không chịu bò ra. Với tấm lưng nát bấy, thịt
da nứt nẻ. cô còn tiếp tục trốn chui rúc cho đến lúc quá đau đớn vì sự cọ sát của
các cánh cây, cô mới phải bò ra ngoài, nhưng luôn luôn nằm úp mặt xuống đất đưa
tấm lưng nứt nẻ hôi thối vào mặt bọn hải tặc để được chúng buông tha, bọn cướp
còn lấy gậy đánh vào vết thương của cô để đùa giỡn.
Một cô bạn khác đã phải lấy phân bôi đầy người, đầy mặt để hy
vọng bảo vệ tấm thân, mùi hôi thối đã làm chính cô nôn oẹ nhưng bọn cướp vẫn
không tha, thay nhau hãm hiếp và còn đánh đập cô tàn nhẫn vì tội trát nhơ bẩn
lên người.
Cô C. 23 tuổi, kỹ sư hóa học, sau khi bị hải tặc hãm hiếp, đã
trần truồng nhảy từ mỏm đá cao xuống biển với tiếng rú thê thảm. Ai cũng tưởng
cô sẽ nát thây vì bờ đá nhọn hoắt, nào ngờ một ngọn sóng to đã đỡ cô lên và hất
cô vào một hang đá ngầm trong núi và tại đó cô đã sống sót trong nhiều ngày cho
đến lúc nhân viên Cao ủy Liên Hiệp Quốc đón ra.
Bà Vũ Thanh Thủy còn cho biết: Khi bọn chúng đốt tất cả các bụi
rậm, bà và một người bạn gái đã phải lui sâu vào trong rừng, leo lên sườn núi
chênh vênh, bên bờ vực thẳm. Các bà ngồi ép bên sườn núi, dầm nắng dãi mưa, qua
những đêm lạnh lẽo rét run lẩy bẩy, phải ôm chặt lấy nhau để có chút hơi ấm. Mỗi
khi có cơn gió mạnh thổi qua các bà phải bíu chặt lấy nhau để khỏi bị thổi bay
xuống vực. Các bà đã chọn những nơi nguy hiểm như thế và có ý định nếu gặp khi
có tên cướp nào đi tới một mình thì các bà sẽ hất nó xuống biển.
Các nạn nhân đã sống trong kinh hoàng đói khát cho đến ngày
thứ 21, khi có một chiếc trực thăng bay ngang qua. May thay trên đó có ông
Schweitzer, một nhân viên của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc, ông đã trông thấy
các nạn nhân và ông đã trở lại đảo Kokra trên một chiếc tàu cảnh sát Thái Lan để
cứu nạn nhân đưa vào trại Songkla. Tại sở cảnh sát, chính ông đã đảm bảo an
ninh cho các nhân chứng để khuyên họ khai hết sự thật ra ánh sáng. Có tin vài
tên hải tặc đã bị nhận diện và bị bắt để điều tra, nhưng lạ thay, sau ít ngày
chúng đã được thả ra và còn đi dọa nạt các nạn nhân khác nữa.
Người ta rất ngạc nhiên về thái độ của các nhà đương cuộc
Thái Lan trong những vụ này, nhất là bọn cảnh sát Thái Lan đã vào hùa với chúng
một cách rõ rệt. Điều này rất dễ hiểu vì các nhà đương cuộc Thái Lan rất nổi tiếng
về tham nhũng, rất dễ bị bọn cướp mua chuộc để lộng hành.
Số 157 đồng bào được cứu thoát khỏi địa ngục trần gian Kokra
đang được định cư tại trại Songkla để đợi ngày đi nước khác. Sào huyệt Kokra đã
được ông Schweitzer ghi vào hồ sơ để chuyển về Liên Hiệp Quốc.
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
T
ruyện dài "Cộng sản bịp bợm" tiếp diễn đã bảy mươi
năm, và sẽ còn tiếp diễn mãi không biết dến bao giờ mới dứt. Vô số người từng bị
lừa, trong đó khối kẻ thuộc hạng đại trí thức: khoa học gia, nghệ sĩ, triết
gia, học giả v.v... tên tuổi vang lừng khắp hoàn cầu. Đến khi thức tỉnh, những
phần tử lương thiện nhất đấm ngực chịu tội trước dư luận; số lớn còn lại thì im
lặng, nín khe trong sự bẽ bàng. Còn quần chúng, còn các dân tộc không thức tỉnh
kịp thời trước khi đại họa xảy đến, thôi thì chỉ có kêu trời, và vùng vẫy, và
quần quại.
Truyện dài "Cộng sản bịp bợm" đại khái cũng như
chuyện "xem thơ Trạng Quỳnh", có khác là khác nhau ở chỗ chuyện Trạng
Quỳnh đưa tới một tiếng chửi đổng rồi một trận cười, còn chuyện cộng sản thì
đưa tới chỗ tàn đời.
Trước tháng 8-1945 cũng như trước tháng 4-1975, số đồng bào
ta khắp Nam Bắc bị cộng sản lừa bịp chắc chắn phải đến nhiều triệu người Học giả
Nguyễn Hiến Lê là một.
Ông Nguyễn đã đọc sách viết về cộng sán, đã nghe những lời
khen chê về cộng sản, đã tìm hiểu về cộng sản, nhưng sau khi cộng sản chiếm
xong miền Nam, ông sống với chúng ít lâu, rồi ông sững sờ: Chưa từng có thời
nào tệ đến thế.
Sự thức tỉnh nào dưới chế độ cộng sản cũng đau đớn:
Ông Nguyễn đã có lần rưng rưng nước mắt. (trang 486 bản thảo)
Ông xác nhận: "Muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm
năm. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người
miền Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình, khen chê gì thì nghe,
muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết
lờ mờ một chế độ thôi." (trang 473 bản thảo)
Và ông viết hồi ký, ghi lại những điều mình đã thấy về cộng sản.
Ông Nguyễn viết xong hồi ký sau năm năm sống dưới chế độ cộng
sản, nhưng sự thức tỉnh chắc chắn không ngừng lại sau năm năm. Hồi ký viết năm
1980, ngay một năm sau ông đã phải "sửa lại nhiều chỗ", phải viết lại
mấy đoạn, phải thêm vào một số ghi chú, và lại nhận là mình vừa lầm nữa! (trang
510 bản thảo). Nếu ông không sớm qua đời, quá trình thức tỉnh của ông sẽ còn tiếp
tục, và biết đâu ông không rút thêm một bài học thứ hai, là: dăm năm chưa đủ biết
hết các trò bịp của cộng sản.
Nhưng mặc đầu hồi ký chấm dứt sớm, mặc dù sự nhận định của
ông lúc bấy giờ có thể chưa phù hợp vối nhận định của nhiều người trong chúng
ta hiện nay, ông Nguyễn cũng đã để lại cho chúng ta một tài liệu có giá trị.
Trong vòng trên mười năm qua hiếm có tài liệu nào kể tội cộng sản Việt nam được
khúc chiết và toàn diện như vậy.
° °
°
Vả lại ngoài giá trị của tác phẩm, còn có tấm lòng của tác giả.
Nguyễn Hiến Lê là một trong số những nhà văn đóng góp nhiều
nhất vào nền văn học miền Nam. Trong suốt ba mươi lăm năm ông cúc cung tận tụy
vừa viết vừa dịch trên trăm tác phẩm; sự nghiệp ấy — về phẩm cũng như về lượng
— là một hãnh diện của văn học miền Nam chúng ta. Sau ngày cộng sản đến, ông vẫn
tiếp tục trước tác, nhưng tuyệt nhiên không cho in một trang sách nào dưới chế
độ mới. Mọi bản thảo, mọi di cảo của ông, một khi viết xong liền dược chuyển ra
hải ngoại. Sách ông viết đã giúp ích nhiều thế hệ thanh niên trong nước, sách
ông viết lại đuổi theo chúng ta trên bước đường lưu vong, thân xác ông đã vùi
xuống quê hương miền Nam, nhưng tác phẩm của ông, tâm hồn ông vẫn hướng về chúng
ta; sự lầm lẫn trong đời, ông cũng hướng về chúng ta mà bộc bạch.
Trong ý nghĩa ấy chúng tôi trước tiên chọn xuất bản tập cuối
cùng trong bộ hồi ký đồ sộ của ông để trình độc giả. Sau này, khi điều kiện cho
phép, sẽ cố gắng tiếp tục cho in các tập I và tập II.
California ngày 10 tháng 5 năm 1988
Nhà xuất bản Vãn Nghệ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét