Phụ nữ Việt Nam
Phụ nữ Việt Nam là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự
phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam. Lịch sử đã và luôn minh chứng sự hiện
diện của phu nữ trong các vai trò quan trọng của xã hội. Quá trình xây dựng,
lao động sản xuất, đấu tranh chống thiên tai, địch họa, tề gia... Được khẳng định
qua năng lực và phẩm hạnh trong các hoạt động xã hội, bao gồm cả trong lĩnh vực
phi truyền thống nhất, góp một phần to lớn công sức và trí tuệ cho nền hòa bình và văn minh nhân
loại.Chiếm 51% lực lượng lao động ở Việt Nam, phụ
nữ ở nông thôn vẫn đóng vai trò chính trong hoạt động sản
xuất nông nghiệp. Phụ nữ vẫn đóng vai trò chính trong công
việc gia đình và nuôi dạy con cái. Trong số các đại biểu của Quốc hội Việt Nam, tổ chức quyền lực cao nhất, phụ
nữ chiếm 27,3% và được Liên Hiệp Quốc đánh giá là: "Phụ nữ Việt Nam tham
gia hoạt động chính trị cao nhất thế giới". Theo thống kê, số lượng nữ
sinh theo học tại bậc trung học phổ thông là 53,8%, tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học
là 36,24%, thạc sĩ 33,95%, tiến sĩ 25,96%.
Đặc điểm
Phụ nữ Việt Nam thời xưa
Lịch sử Việt Nam luôn ghi nhận phụ nữ là nguồn hạnh phúc,
chăm sóc chồng con, đỡ đần cha già mẹ yếu, là chỗ dựa trong các phương diện cuộc
sống gia đình.
Phụ nữ có các vai trò là người yêu, người vợ, người mẹ, người
phục tùng bền bỉ sự nghiệp của Quốc gia:
Quốc
Mẫu Âu Cơ, gần 5000 năm trước kết duyên cùng vua Lạc Long sinh được 50 con trai 50 con gái; Trưng Vương (40-43),
tuy triều đại này chỉ tồn tại 3 năm, nhưng đã chứng tỏ được tinh thần bất khuất
của người phụ nữ trong thời kỳ đầu giữ nước; Triệu
Thị Trinh (225-248) cùng anh Triệu Quốc Đạt khởi nghĩa năm 248 chống quân Đông
Ngô cai trị tàn ác; Thái Hậu Dương Vân Nga (942-1000) là người đàn
bà quyền lực của 2 triều đại nhà Đinh và nhà
Tiền Lê, bà được biết đến với vai trò là vợ của 2 vua; Nguyên phi Ỷ Lan
(tên thật là Lê
Thị Ỷ Lan) triều Lý, bà xuất thân từ gia đình nông dân nhưng sau trở thành
Hoàng thái hậu; Công
chúa Huyền Trân (cuối thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14) là con gái vua Trần
Nhân Tông, bà được gả cho vua Chiêm Thành (Champa) để đổi lấy
hai châu Ô và Lý cho nước Đại Việt; Công chúa An Tư (thời
vua Trần Nhân Tông), là con gái út vua Trần Thánh Tông,
bị gả cho Thoát Hoan nhằm trì hoãn cuộc xâm lăng của quân giặc, chờ thời cơ
đánh thắng giặc; Công chúa Ngọc Hân (1770-1799) là con vua Lê Hiển Tông, bà có tài văn học nên được Hoàng Đế Quang
Trung Nguyễn Huệ phong làm Bắc cung Hoàng Hậu; Công chúa Ngọc Vạn (thế kỷ 17) giữ những chức
vụ quan trọng trong triều Chân
Lạp, bà đã có công mở đường cho người Việt trong cuộc Nam tiến mở rộng
giang sơn; Bùi Thị Xuân (?-1802) là tướng tài giỏi của nhà Tây Sơn, vợ của danh tướng Trần
Quang Diệu...
Phụ nữ là nhà văn, nhà thơ có danh phận được nhiều đời truyền
tụng, như: Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1746) người tỉnh Bắc Ninh,
hiệu là Hồng Hà nữ sĩ rất giỏi thơ văn; Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1780-1820) có tài thơ văn cả về
chữ Nôm và chữ Hán; Bà Huyện Thanh Quan (Đầu thế kỷ 19) tên thật
là Nguyễn Thị Hinh, bà được mời làm Cung Trung giáo tập, dạy cung phi và công
chúa trong cung; Thái Hậu
Từ Dũ (1810-1902) người tỉnh Gia Định, hiệu Từ Dũ Bát Huệ Thái hoàng
Thái hậu, là quý phi của vua Thiệu Trị, sinh ra vua Tự
Đức nên trở thành Thái Hậu.
Ngoài ra có những phụ nữ là dân thường, lam lũ với cuộc sống,
với những số phận và tâm tư hạn hẹp nhưng được lịch sử trân trọng lưu lại với
nhiều hình ảnh và ghi chép từ những thời buổi đang còn Nho giáo độc
tôn.Phụ nữ Việt Nam thời xưa. Hình ảnh phụ nữ thông qua văn thơ, ca dao, tục
ngữ truyền tụng trong dân gian: "Thân cò lặn lội bờ ao -
Gánh gạo nuôi
chồng tiếng khóc nỉ non". Phần nào minh chứng người phụ nữ xưa thường bị gạt
ra lề cuộc sống thiết yếu nhưng chặt đầy tính gia phong cổ hủ. Bị dồn nén vào
khuôn khổ chật hẹp của đời sống gia đình: "Tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử" (Ở nhà theo cha. Lấy chồng theo chồng,
chồng chết theo con trai). Khi lấy chồng, người con gái phải học hành để gánh
vác nhiều công việc chính trong gia đình. Họ học không để thi cử, tiến thân, mà
để chuẩn bị cho cuộc sống mới bên nhà chồng. Có quan niệm, hôn nhân đối
với người phụ nữ là do số phận sắp đặt sẵn, may mắn thì gặp được người chồng tử
tế, giỏi giang, lỡ lấy phải người chồng vũ phu hoặc nghèo khó thì phải gắng chịu.
Người phụ nữ làm dâu có trách nhiệm và quán xuyến mọi việc gia đình, theo thời
gian đã có được ý chí và nghị lực can trường, tuy nhiên thực tế cuộc sống vẫn đẩy
họ đến cảnh cam chịu, gần như suốt cả cuộc đời phải gánh chịu những hậu quả
không ra gì về cả thể xác và tinh thần.
Với quan niệm "Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính
chuyên chỉ có một chồng", người phụ nữ là nạn nhân của chế độ đa thê (bất
kể là vợ cả hay vợ lẽ), luôn chìm đắm trong những mối mâu thuẫn, bất hòa, khổ
đau. Khi người chồng chết người phụ nữ cũng mất quyền thừa kế tài sản và phải
phục tòng người con trai của họ.
Phần lớn phụ nữ Việt Nam thời xưa không được coi trọng, không
có được những địa vị xứng đáng trong gia đình, xã hội, phải chịu nhiều sự áp đặt,
bất công, tư tưởng trọng nam khinh nữ (Nam trọng nữ khinh, nam ngoại nữ nội).
Người phụ nữ không có được cơ hội phát triển ngang tầm với phát triển của xã hội,
là hình bóng sau lưng người chồng trong các gia đình nhưng vẫn được xem là tác
nhân trong sự thành công của người chồng.
Phụ nữ Việt Nam thời xưa.
Hình ảnh Mẹ Suốt - người đã lái đò chở bộ đội, thương binh, đạn dược qua sông Nhật Lệ trong những năm 1964 - 1967 là tiêu biểu của hình ảnh Người Phụ nữ Việt Nam bất khuất, trung hậu trong chiến tranh
Phụ nữ Việt Nam thời chiến tranhTính đề cao đối với người phụ nữ Việt Nam từ xưa vẫn là tinh
thần làm việc và đấu tranh có lịch sử hàng nghìn năm. Phụ nữ Việt Nam cống hiến
rất nhiều và mọi mặt cho nền độc lập, thống nhất dân tộc. Từ các cuộc chiến
tranh đó đã sản sinh ra những phụ nữ đảm đang, bất khuất, để lại danh tiếng cho
các đời sau như Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Hoàng
Ngân, Mạc Thị Bưởi, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Thị Lét, Tạ Thị Kiều, Kan Lịch, Lê Thị Hồng Gấm, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình, Nhất
Chi Mai, Nguyễn Thị Út (Út Tịch).
Với sự mở đầu trang sử là cuộc chiến chống quân xâm lăng của Hai
Bà Trưng bằng lời thề xuất quân, "Một xin rửa sạch nước thù, Hai
xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẹn vẹn sở
công lênh này". Vài thế kỷ sau người thiếu nữ Triệu
Thị Trinh tự khẳng định là một nhi nữ hào kiệt, "Tôi muốn cưỡi
cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá kình ngoài biển Đông."[1]
Các cuộc chiến tranh sau này xuất hiện nhiều phụ nữ tiêu biểu
trong khó khăn gian khổ. Họ là những con người gan dạ không quản ngày đêm và
bom đạn, vừa lao động sản xuất, vừa sẵn sàng cho chiến tranh. Tinh thần của họ
là "Ruộng rẫy như chiến trường, cuốc cày như vũ khí", gồm có
hàng vạn nữ nông dân và công nhân "tay cày, tay súng", "tay búa,
tay súng" làm nên một hậu phương vững chắc, trên ruộng đồng, công trường,
nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ...
Người phụ nữ bước ra từ các cuộc chiến tranh giải phóng của
dân tộc, được nhân dân và nhà nước Việt Nam tôn vinh là những nữ anh hùng và những bà mẹ Việt Nam anh hùng, được Chủ tịch Hồ
Chí Minh trao tặng 8 chữ vàng "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm
đang".
Phụ nữ Việt Nam thời nay
Ngày nay tuy chưa phải đã hết những định kiến, nghi ngại, thậm
chí là kỳ thị, nhưng xét toàn diện, thì người quan sát trong và ngoài Việt Nam
đều có sự thống nhất nhận xét về phụ nữ Việt Nam, cả về số lượng và chất lượng
đóng góp đã gìn giữ và phát huy được vai trò đối với thực tiễn phát triển xã hội
trên mọi lĩnh vực thiết yếu.Phụ nữ Việt Nam thế kỷ 21 (APEC 2006) Từ phải đảm đương vai trò "đối nội" trong khuôn khổ
gia đình, phụ nữ ngày nay còn tài cán với các trọng trách "đối ngoại".
Là một sự nghiệp không còn chỉ dành cho nam giới.
Họ phải khẳng định giá trị, khả năng bằng sự nghiệp và tính vươn lên của bản
thân. Khát vọng với sự nghiệp không đơn giản chỉ như thoát khỏi vòng cương tỏa
từ khuôn khổ gia đình. Hơn thế nữa họ khẳng định vị thế như là những người đứng
đầu tập đoàn, công ty doanh nghiệp, thậm chí là những lãnh đạo trong các tổ chức
của chính phủ.
Những thành tích của họ được xã hội ghi nhận và đánh giá cao
trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ và giáo
dục. Không ít nữ học sinh, sinh viên đạt giải cao trong các kỳ thi cấp quốc
gia và quốc tế. Tầng lớp nữ trí thức có những công trình khoa học giá trị, mang
lại hiệu quả kinh tế cao: Số nữ Giáo sư chiếm tỷ lệ 3,5%; Phó giáo sư 5,9%; Tiến
sĩ 12,6%; Tiến sĩ khoa học 5,1%; 19 nữ Anh hùng lao động, và nhiều Giải thưởng
Kovalépscaia, Nghệ sĩ Nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú. Tỷ lệ nữ là đại biểu Quốc
hội tăng qua các thời kỳ bầu cử (khóa I (1946-1960) là 3%, đến khóa
XII (2007-2012) tăng lên là 25,76%). Ngành Giáo dục và Đào tạo từng
có nữ bộ trưởng, và đương nhiệm thứ trưởng, và nhiều phụ nữ làm
cán bộ quản lý các cấp Vụ, Viện, Sở, Phòng, Ban, các trường và các đơn vị giáo
dục: Có 11 nữ nhà giáo được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, 1.011 nữ nhà giáo được phong
danh hiệu Nhà giáo Ưu tú... [2]
Người phụ nữ Việt Nam tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau
và có ảnh hưởng không nhỏ đối với giá trị và lợi ích của toàn xã hội. Được thể
hiện thông qua các môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ thuật...
Song, xét cho cùng thì cái gì cũng có hai mặt của nó, tuy có
rất nhiều phụ nữ khẳng định được vị thế của mình trong xã hội thời nay nhưng
không ít phụ nữ đòi quyền bình đẳng với nam giới bằng cách như bia bọt rượu
chè, tình dục bừa bãi...
Các nữ lãnh đạo nổi tiếng:
Nữ
vương: Trưng Trắc
Anh hùng dân tộc: Trưng
Nhị, Triệu Thị Trinh
Hoàng hậu: Dương Vân Nga, Linh Nhân Hoàng Hậu Ỷ Lan, Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung
Cung phi: Bà chúa Chè Đặng Thị Huệ
Nữ tướng: Lê Chân, Bát Nàn Công
Chúa, Bùi Thị Xuân
Nữ quan: Bà Huyện Thanh Quan
Phó Chủ tịch nước: Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình, Trương Mỹ Hoa, Nguyễn
Thị Doan, Đặng Thị Ngọc Thịnh
ủy biên Bộ Chính trị: Nguyễn Thị Xuân Mỹ, Nguyễn Thị Kim Ngân, Tòng Thị Phóng, Trương
Thị Mai
Bí thư Trung ương Đảng: Hà Thị Khiết
Phó Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Thị Thập
Bộ trưởng: Trần Thị Trung Chiến, Phạm Thị Hải Chuyền, Nguyễn Thị Kim Tiến, Nguyễn Thị Hằng, Lê Thị Nga
Văn hóa truyền thốngÁo dài truyền thống Mặc dù bị ảnh hưởng không ít từ các nền văn hóa ngoại quốc
trong suốt hàng nghìn năm bị đô hộ, phụ nữ Việt Nam vẫn giữ gìn được nét đẹp vốn
rất riêng cho họ khi hiếm quốc gia nào có được. Xã hội càng ngày phát triển,
con người càng văn minh nhưng những đức tính truyền thống của người phụ nữ từ nông
thôn đến thành
thị vẫn nguyên giá trị, đó chính là những vẻ đẹp trong gia đình, xã hội;
vẻ đẹp người làm vợ, làm mẹ; vẻ đẹp nữ doanh
nhân, ca
sĩ, thi sĩ, diễn
viên, hoa hậu, tri thức;
vẻ đẹp ý nhị, lịch sự...
Những nét đẹp hiện đại kết hợp nhuần nhuyễn với những đức
tính truyền thống tạo nên dáng vẻ và tính cách mang ý nghĩa với bản chất thuần
Việt, tiêu biểu cho các tầng lớp phụ nữ Á Đông.
Tuy không thể đua với nam giới về sức vóc, tài trí, hay việc
tranh đoạt trong thiên hạ nhưng vẫn nhiều công việc gia đình và xã hội cần đến
người phụ nữ. Lịch sử Việt Nam đã từng ghi nhận những hình ảnh thường ngày về
người phụ nữ cổ truyền. "Sớm ra ruộng lúa, tối về
nương dâu", người phụ nữ ngày xưa tầm tơ canh cửi là chủ
nhân của những bánh xe quay sợi bằng đất nung từ thời Lý. Họ lập được những kỷ
lục về trồng dâu nuôi tằm với một năm tám lứa. Tơ lụa, sa the, lĩnh,
láng mà nước ngoài chuộng mua phần lớn đều sản xuất ra từ những bàn tay khéo
léo của họ. Hình ảnh người phụ nữ "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời",
tần tảo làm lụng rất phổ biến ở các vùng làng quê Việt Nam là lực lượng lao động
chính trong các mùa vụ sản xuất lương thực. Công việc của họ là làm đồng,
làm gốm,
chèo truyền, bán hàng, bật bông kéo sợi, dệt vải, may vá quần áo, ngoài ra họ
còn là những nghệ sĩ sáng tác và hát dân ca, múa dân tộc...
Tứ đức
Trở lại với sự khâm phục và ngưỡng mộ của toàn xã hội, người
phụ nữ Việt Nam không bỏ quên những đức tính tốt đẹp sinh thành từ một dân tộc
có cội nguồn Mẹ Âu Cơ, Tứ đức của họ được ví như "khuôn vàng thước ngọc".
Theo quan niệm từ thuyết Khổng
Tử thì Tứ đức phụ nữ là Công, Dung, Ngôn, Hạnh:
Công: là nữ công gia chánh, đề cao sự khéo léo và chu
đáo của người phụ nữ đối với các công việc nội trợ trong gia đình.
Dung:
là dung nhan, đề cao cái đẹp tâm hồn và hình thức bên ngoài (biểu hiện sự tươi
tắn, không ủ dột trên nét mặt, chăm chút cho mái tóc, hàm răng và trang
phục).
Ngôn: là lời nói, nhưng không bao giờ chỉ đơn thuần là lời
nói, đề cao cả trí tuệ và tâm hồn người
nói (biết cân nhắc lời ăn tiếng nói, không quá lời lúc nóng giận, không ba hoa
khi hứng chí, giả dối khi giao tiếp).
Hạnh: là hạnh kiểm, đức hạnh (mực thước,
nghiêm trang trong dáng đứng, bước đi; thủy chung, yêu chồng, thương con; giàu
lòng nhân ái, hy sinh vì người khác).
Người phụ nữ ngày nay là những công dân bình đẳng trong cộng
đồng xã hội đó. Sống có trách nhiệm với cộng đồng, có hoài bão và nỗ lực trong
công việc, đã thể hiện phẩm chất đạo đức của chữ Hạnh. Trong mỗi giai đoạn lịch
sử, thước đo về chuẩn mực đạo đức đã có sự đổi khác, khi xét Tứ đức người phụ nữ
cần có sự hiểu biết nhất định về hoàn cảnh lịch sử trong các giai đoạn để có ứng
xử phù hợp, sự kế thừa và phát triển thêm những giá trị đạo đức ở người phụ nữ
trong cuộc sống ngày nay cho phù hợp với thời đại, cũng là vấn đề mà xã hội
đang quan tâm.
Tín ngưỡng
Thờ cha mẹ
Theo phong tục,
tập quán và tín ngưỡng của người Việt Nam, nhất
là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thường
có sự so sánh, phân biệt giữa nam giới với phụ nữ. Ngoài việc người đàn ông có
trách nhiệm thờ cúng cha mẹ, tổ tiên thì người phụ nữ lấy chồng phải hoàn toàn
theo chồng, phải có trách nhiệm thờ phụng tổ tiên nhà chồng. Họ không được thờ
phụng cha mẹ đẻ tại nhà mình kể cả khi không có anh em trai, khi đó phải nhờ một
người đàn ông khác, có thể là em hoặc cháu trong họ nội thờ cúng hộ. Tập tục xấu
này thường tạo ra tiêu cực trong đời sống văn hóa người phụ nữ. Muốn có được
người thừa tự, nhiều gia đình chỉ có con gái đã nhận thêm con nuôi là trai. Người
chồng cho vợ đi "xin" hoặc người vợ cho chồng đi "ở" với
người phụ nữ khác để có con trai. Họ có tâm niệm "bế con chồng hơn bồng
cháu ngoại" và không băn khoăn nhiều đến việc để lại hậu duệ, miễn là phải
có người "hương khói" về sau.
Lễ chùa, đình và đềnNgười phụ nữ đang hành lễ ở Chùa Trấn Quốc, Tây Hồ, Hà Nội. Phật giáo (Tiểu thừa) được du nhập trực tiếp từ Ấn
Độ qua đường biển vào Việt Nam khoảng thế
kỷ 2 sau Công
nguyên. Phật giáo Việt Nam không hẳn xuất thế mà thường nhập thế, gắn với
phù chú, cầu xin tài lộc, phúc thọ hơn là tu hành thoát tục.[3] Người
phụ nữ đi chùa lễ Phật để cầu an, cầu sự may mắn cho bản thân và người thân
trong gia đình. Theo quan niệm cũ thì bản chất phụ nữ là chân yếu, tay mềm, cần
có sự che chở, giải thoát những bất công, nỗi khổ đau phát sinh từ cuộc sống.
Ngoài nhờ cậy từ các yếu tố con người và xã hội giải quyết giúp đỡ thì họ thường
tìm đến để cầu nguyện dưới các tượng Phật, các Thần và Tiên ở Chùa, Đền, miếu, phủ...
Điều khác biệt trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam là từ các pho tượng như tượng
Bà Man Nương, tượng Bà Trắng, Bà Đỏ đến tượng Kim đồng - Ngọc Nữ... đều mang
dáng dấp và vẻ đẹp người phụ nữ, bên trong đó quy tụ nhiều nét nghệ thuật thế tục.
Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt
Nam thờ các nữ thần (còn gọi là các Thánh Mẫu), các Thánh Mẫu có sự gắn bó với cuộc
sống trần tục, gần gũi với dân gian. Tín ngưỡng này có từ lâu đời, hiện thân của
nó là các hiện tượng tự nhiên mây, mưa, sấm, chớp.
Khi trách nhiệm người đàn ông là công việc săn bắn, giữ đất, giữ làng thì công
việc nông nghiệp do người phụ nữ hoàn toàn đảm nhiệm. Từ hình ảnh người phụ nữ
cụ thể được dân gian nhân hóa thành một bà Mẫu cao cả tâm linh và quyền năng.
Qua đó, Mẫu còn được hiểu như là đất, nước,
cây lúa, là mọi
thứ làm ra sự sống cho con người. Thờ các Thánh Mẫu được xem như một chỗ dựa
tinh thần của người phụ nữ, thường mang đậm màu sắc tín ngưỡng của các vùng thuần
nông nghiệp. Các đền đài, miếu, phủ thờ tập trung chủ yếu ở các vùng đồng bằng
và trung du như Phủ
Giầy (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Đền Suối
Mỡ (Bắc Giang), Chùa Bà Đức Sanh (Bình Thuận)...
Cưới hỏi
Trước đây người Việt gọi là lễ rước dâu, ngày nay trong ngôn
từ của đời sống thường ngày được gọi là lễ
cưới. Theo nghi thức truyền thống thì người phụ nữ được hưởng những quyền lợi
đầu tiên khi bước chân đến nhà chồng, đồng thời xem đó như sự ràng buộc và
tính pháp lý để người chồng phải có trách nhiệm với người
vợ trong cuộc sống tiếp theo của hai người. Nghi lễ cưới hỏi thường tuân theo
các trình tự như sau:
Chạm ngõ: là nghi thức gặp gỡ hai bên gia đình để biết nhau một
cách công khai, chính thức;
Lễ ăn hỏi: nhà trai mang lễ vật sang nhà gái hỏi vợ, được
đựng trong các tráp phủ vải điều màu đỏ gồm trầu, cau, rượu, chè, bánh cốm, bánh
xu xê, mứt sen, xôi, thủ lợn, lợn
sữa quay.
Lễ đính hôn: hay lễ cầu hôn, đối với phong tục phương Tây là lễ trao nhẫn đính hôn.
Lễ vấn danh: xem tuổi xung, hợp theo tín ngưỡng của đôi trai
gái để chọn ngày giờ tốt cho các nghi thức trong lễ.
Lễ nạp tài: nhà trai mang sính lễ sang nhà gái, là trầu cau,
gạo nếp, thịt lợn, quần áo và đồ trang sức cho cô dâu. Nhà gái sẽ sử dụng một
phần vào lễ ăn hỏi và một phần vào trong lễ cưới.
Lễ xin dâu: vào trước giờ đón dâu, mẹ chú rể hoặc một hai bà
cô, bà dì sang nhà gái xin đón dâu.
Đón dâu: đoàn nhà trai sang nhà gái đón dâu về.
Lễ vu quy: tổ chức tại nhà gái để tiễn cô dâu đi lấy chồng.
Lễ thành hôn: được tổ chức chính thức bên nhà trai.
Lễ tơ hồng: lễ khấn ông Tơ bà Nguyệt và cao đường (cha mẹ), diễn ra tại nhà
trai, chỉ gồm những người thân thích.
Lễ hợp cẩn: là buổi lễ kết thúc đám cưới, trước giường có bàn
bày rượu và một đĩa bánh phu thê (xu xê). Một cụ già đứng lên rót rượu vào chén
đưa đôi vợ chồng cùng uống cạn chén, cùng ăn hết cái bánh. Sau đó mọi người ra
ngoài hết trừ lại hai vợ chồng mới cưới.
Lễ báo hỉỷ: là tiệc mặn hoặc ngọt tổ chức sau nghi lễ cưới
chính thức tại quê quán của cô dâu hoặc chú rể.
Lễ lại mặt: do chú rể mang về nhà gái một món đồ lễ tạ sau
ngày cưới như một lời cảm ơn bên thông gia.
Lễ cheo: lễ vật hoặc kinh phí nộp cho làng, xóm khi có người
con trai mới lấy vợ, với dụng ý để xóm làng tiếp nhận thêm thành viên mới.
Tuần trăng mật: là thời điểm
nghỉ ngơi cho cặp vợ chồng trẻ sau những ngày căng thẳng khi tiến hành hôn lễ.
Tình mẫu tử
Người phụ nữ mang nặng đẻ đau, là người chắp đôi cánh ước mơ,
là nguồn ánh sáng dẫn đường cho người con để bay đến chân trời hi vọng. Với người
phụ nữ, con cái là máu thịt, là điều đáng quý trong cuộc đời họ. Tình mẫu tử
thiêng liêng cũng chính là cội nguồn của mọi tình cảm.
Ngày nay, công việc chăm sóc con nhỏ không còn vất vả như
xưa. Tuy nhiên, người mẹ vẫn là người đóng vai trò chính trong việc hướng con
cái mình đến một cuộc sống hoàn thiện cả về thể chất và tinh thần. Tình mẫu tử
thiêng liêng thổi vào tâm thức người phụ nữ trong xã hội đang phát triển và hội
nhập một sức sống mới mẻ, để dần có sự bứt phá về quan điểm, cách nuôi dạy con
cái. Những gia đình có điều kiện kinh tế luôn có xu hướng cho con cái họ theo học
trường nổi tiếng trong ngoài nước. Các gia đình vùng nông thôn, miền núi, kể cả
những nơi đang phải đối mặt với nghèo khó cũng thấy được tính quan trọng việc học
hành đối với tương lai con cái. Ngay cả khi lớn lên, người sát cánh cùng con
cái trên con đường đời đầy gian lao và thử thách vẫn là mẹ. Họ là những mẫu người "giản
dị mà sâu sắc, kín đáo mà không tĩnh lặng", được thể hiện trong các câu
hát, câu thơ sâu lắng. Có câu hát: "Tình mẹ bao la như biển Thái Bình
dạt dào...", tình yêu thương của người phụ nữ làm mẹ được so sánh như biển
Thái Bình rộng lớn.
Đại văn hào Nga Macxim Gorki đã viết: "Đời thiếu mẹ hiền,
không phụ nữ/ Anh hùng, thi sĩ, hỏi còn đâu?".
Người Việt có một ngày lễ mà giới tăng ni Phật tử thường gọi
là ngày lễ Vu
Lan vào ngày rằm tháng bảy (15-7) âm lịch.
Đây là một đại lễ báo hiếu, là cơ hội quý báu để những người con hiếu thảo báo
đáp công sinh thành của cha mẹ mình.
Hoạt động xã hội của Phụ nữ Việt Nam
Tổ chức
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được thành lập ngày 20 tháng 10 năm 1930. Là thành
viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thành viên
Liên đoàn phụ nữ dân chủ Quốc tế, thành viên Liên đoàn các tổ chức phụ nữ ASEAN (Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á).
Hệ thống tổ chức gồm 4 cấp:
Cấp trung ương
Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi là cấp tỉnh)
Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương
đương (gọi là cấp huyện)
Cấp xã, phường, thị trấn và tương đương (gọi là cấp xã)
Những tên gọi trong lịch sử: Hội Phụ nữ Giải phóng (1930-1935), Hội Phụ nữ Dân chủ
(1936-1938); Hội Phụ nữ Phản đế
(1939-1941); Đoàn Phụ nữ Cứu
quốc (1941-1945).[4]
Các ngày kỷ niệm: Ngày 20 tháng 10 và Ngày 8 tháng 3 hàng năm.
Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam là cơ quan
trực thuộc Chính phủ phối hợp hoạt động của Chính phủ giải quyết những vấn đề
liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ.
Việt Nam đã ký Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) của Liên Hiệp Quốc.
Phụ nữ Việt Nam thế kỷ 21 (APEC 2006)
Áo dài truyền thống
Người phụ nữ đang hành lễ
ở Chùa Trấn Quốc, Tây Hồ, Hà Nội.
"Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như
già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ" |
|
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh, 8/3/1952 |
Sân khấu tuồng Nam Bộ.
Tính hoạt động nghệ thuật ở người phụ nữ Việt Nam có sự lồng
ghép giữa các giai đoạn lịch sử, giữa dân tộc và thế giới mở hiện đại. Nghệ thuật
có nguồn gốc từ nền văn hóa đa sắc tộc, phục vụ nhu cầu tinh thần cho chính dân
tộc họ. Nghệ thuật thăng trầm cùng lịch sử vốn có nhiều giai đoạn chiến tranh
và hòa bình. Người phụ nữ ở vào những hoàn cảnh xã hội nhất định đã đem đến những
hiệu quả tinh thần, thông qua những hoạt động lao động nghệ thuật, bao gồm: Thể thao, Điện ảnh, ca múa nhạc, thời
trang, điêu
khắc, hội họa, ẩm thực, tiêu
dùng, đối nhân xử thế...Điện ảnh và sân khấu
Người Phụ nữ Việt Nam nổi bật trong các tác phẩm điện ảnh, được thể hiện đặc sắc theo suốt 3 thời kỳ:
Thời kỳ 1959-1975, tuy điện ảnh Việt Nam ra đời trong chiến tranh nhưng đã phát triển được nhiều tác phẩm nổi tiếng như Chung một dòng sông, Vợ chồng A Phủ, Con chim vành khuyên, Đường về quê mẹ, Nổi gió... Và là thời kỳ đầu của cả phim truyện, phim tài liệu và phim hoạt hình của Việt Nam, với nhiều tác phẩm giành giải thưởng tại liên hoan phim quốc tế.[5]
Thời kỳ 1976-1986, có nhiều biến động về kinh tế, xã hội, xuất hiện những mâu thuẫn vì tồn đọng cái cũ trong cái mới. Những tác phẩm điện ảnh ra đời nhưng đã có sự biến đổi mạnh mẽ về phong cách tiếp cận và khai thác đề tài về người phụ nữ. Được thể hiện khá rõ nét qua những bộ phim Mùa gió chướng, Chom và Sa, Hòn đất, Đứng trước biển, Chuyến xe bão táp,...
Thời kỳ từ 1987 đến nay là thời kỳ xóa bỏ bao cấp và hội nhập quốc tế, điện ảnh đã và đang phản ánh thực tế cuộc sống người phụ nữ Việt Nam trong xã hội hiện tại. Một phần quay về với những số phận con người trong và sau chiến tranh như Anh chỉ có mình em, Bông hoa rừng Sác, Hà Nội 12 ngày đêm,... Phần khác là những người đàn bà trăn trở, vật lộn với cuộc sống mưu sinh trong phim "Giải hạn", "Hải Nguyệt"; sự sao nhãng cuộc sống bản thân, gia đình và xã hội để lao vào một kiếp đời phù du của những cô gái nhảy đáng thương trong phim Gái nhảy; là nhân vật Dần, một điển hình cho người phụ nữ chịu thương, chịu khó, đức hạnh và dịu dàng trong phim Áo lụa Hà Đông...
Bên cạnh ngành điện ảnh, phụ nữ Việt Nam còn là lực lượng diễn viên chủ lực trên các sàn diễn kịch trường, hát dân ca, hát chèo, hát bội (hát tuồng) và hát cải lương.
Một số hình ảnh của Phụ nữ Việt Nam trong lao động sản xuất và nghệ thuật:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét