Thứ Hai, 21 tháng 12, 2020

Một định nghĩa về người cầm bút

Một định nghĩa về người cầm bút

Trong cái thế giới hỗn độn là đời sống văn học trước năm 1945, chung quanh tên tuổi Nguyễn Tuân, người ta thường thấy chất lên đủ thứ giai thoại kỳ cục. Rằng ông chơi ngông không kém gì Tản Đà hồi nào; rằng ông cầu kỳ, lẩn mẩn, thích làm dáng, thích khác đời v.v... và v.v… Những điều đó ít nhiều không phải không có chỗ đúng. Có nhiều lý do xui khiến Nguyễn Tuân làm thế, trong đó có lý do quan trọng này: ông muốn phủ nhận xã hội đương thời. Không được biểu hiện qua những hành động tranh đấu nồng nhiệt, lòng yêu nước trong ông chỉ còn cách thoát ra ở dạng chán chường tất cả và đi vào phụng thờ những gì đã thuộc về quá khứ. Có tư cách nghĩa là không thuận theo đời thường - ông sống vậy và viết vậy. Trong lúc một số người chạy theo “Âu hóa” thì ông quay về với những vẻ đẹp “vang bóng một thời”. Trong lúc một số người viết văn lai căng, thì ông không quản nghiền ngẫm, tu luyện công phu để tạo cho văn mình những đường nét cổ kính mặc dù đó là vẻ cổ kính rất hiện đại. Luôn luôn, trong từng bài viết, thậm chí, trong từng câu văn, ông muốn tạo những hiệu quả bất ngờ và ít nhiều, đã thực sự làm được điều đó. Bởi con người có thiên lương và rất phóng túng nơi ông lại là con người giữ được cái cảm giác thiêng liêng trong hành nghề và hiểu chỉ với trình độ nghề nghiệp cao, thì sự độc đáo của mình mới có ý nghĩa. Người nghệ sĩ như kẻ đóng một cái khung - ông nói vậy - phải tháo ra đóng lại, đến lúc cảm thấy không ai đóng hơn được mình mới thôi. Một nhà văn bạn ông nhận xét mỗi khi viết, ông thường có cái dáng cặm cụi rất đáng trọng.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay, cuộc đời Nguyễn Tuân cùng thay đổi trong cái thay đổi chung của cả đất nước, dân tộc. Cộng với những sự thúc đẩy sâu xa như lòng yêu nước, thiện chí muốn làm những việc có ích, hình như ở ông còn thấp thoáng cái ý tưởng sau đây, nó là một sự thách thức thú vị: nhiều người dự đoán một nghệ sĩ phóng túng như chàng Nguyễn ngày trước sẽ không thể chịu đựng được những yêu cầu chặt chẽ của đời sống cách mạng? Thì ông sẽ sống được và sống thoải mái cho họ biết! Và thế là ông sẵn sàng “tự cải tạo”. Nhiều nét cá tính của ông, trong điều kiện xã hội mới, có một bộ mặt khác hẳn. Ông sống bám sát các sự kiện xảy ra trong xã hội và luôn tìm cách đóng góp phần mình để thúc đẩy đời sống vận động đi tới. Ông đi với bộ đội trong nhiều chiến dịch gian khổ hồi chống Pháp. Ông trở lại Tây Bắc, Điện Biên những năm 1958, 1959. Chuyện đồng bào và bộ đội ở đó làm đường, dựng nhà, vừa lo  sản xuất, vừa lo bảo vệ Tổ quốc được ông kể lại trong tập Sông Đà nổi tiếng. Rồi ông đi lại nhiều lần ở bờ bắc Bến Hải, chuẩn bị cho tập Sông tuyến… Đi đến đâu, ông cũng tìm thấy những nét đẹp, đẹp trong cảnh sắc thiên nhiên, và nhất là đẹp trong hình ảnh con người vượt qua gian khổ khẳng định ý chí của mình. Viết văn, với ông hôm nay giống như những dịp trò chuyện với người tri âm, tri kỷ, vẫn đậm đà, duyên dáng như xưa, song câu chuyện giờ đây lại thường có được cái ý nghĩa thiết thực, lành mạnh mà người cán bộ Nguyễn Tuân cảm thấy cần phải có mỗi khi nói điều gì đó, với đông đảo bạn đọc. Trong lúc ngòi bút ông trở nên thân tình với đại chúng hơn, thì qua sự tiếp xúc, ngày càng nhiều người cảm thấy cần nâng mình lên, để gần gũi hơn với ông. So với trước năm 1945, độc giả của ông hôm nay đông đảo hơn hẳn.
Trong lao động nghệ thuật, ngòi bút Nguyễn Tuân vẫn giữ được vẻ nghiêm túc vốn có. Nguyễn Tuân thường bảo viết văn là một sự khổ hạnh. Khổ hạnh chuẩn bị, để có một tầm hiểu biết rộng rãi, một vốn liếng văn hóa cơ bản. Lại khổ hạnh, kỹ lưỡng trong từng công việc cụ thể. Nghĩ rằng lúc nào đó mình sẽ phải viết về những nhịp cầu trên đất nước, ông thu thập cả một tập hồ sơ về các loại cầu, các kiểu cầu, trong đó có cả những tấm ảnh để khi viết nhìn vào đó cho được cụ thể. Vậy mà chưa đủ. Khi đến với cái cầu ông định tả, ông đếm kỹ xem ở đó có bao nhiêu nhịp, tổng cộng bao nhiêu miếng ván ở bờ bắc, bao nhiêu ván ở bờ nam v.v… Bao giờ Nguyễn Tuân cũng hết mình trong công việc như vậy. Con mắt nghệ thuật ở ông quy tụ được những phẩm chất khác nhau: rất cụ thể mà cũng rất thơ mộng; vừa nhạy cảm vừa uyên bác.
Tên tuổi Nguyễn Tuân vốn gắn với thể tùy bút. Đó là một thể văn xuôi rất mềm mại, ở đó nhà văn không cần nhân vật, không cần cốt truyện, chỉ đứng ra mà kể, mà tả trước bạn đọc. Bởi vậy, tùy bút cũng là một thể rất khó, nếu người viết không đủ bản lĩnh, tác phẩm rất dễ rơi vào nhàm chán. Về phần mình, Nguyễn Tuân đã lui tới trong tùy bút khá thoải mái. Qua các thiên tùy bút, con người Nguyễn Tuân có dịp hiện ra rõ rệt và quả thật, đã từng để lại ấn tượng đậm đà trong tâm trí nhiều người chúng ta cũng như cả một số bạn bè nước ngoài. Đọc Nguyễn Tuân, thấy người Việt Nam hôm nay đã làm nên những sự nghiệp lớn lao đánh Pháp, đuổi Mỹ và giờ đây đang hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước. Nhưng đọc Nguyễn Tuân còn thấy con người Việt Nam - trong đó có mỗi chúng ta - thường vẫn xao xuyến trước vẻ đẹp của một nhành hoa, vẫn bồi hồi lắng nghe một điệu quan họ hoặc nhìn mãi không chán một bức tranh làng Hồ, lại biết hết sức trân trọng tiếng nói thiêng liêng của cha ông và muốn góp sức để tiếng nói đó ngày mỗi thêm trong sáng, thêm giàu có. Nhưng không phải chỉ có thế. Cùng với Nguyễn Tuân, chúng ta thấy yêu những bông tuyết đầu mùa Leningrad, nụ hồng kỳ diệu Sophia, yêu Lỗ Tấn và B. Brecht, mê Dostoievski và Picasso. Không gì tốt đẹp của nhân loại mà lại xa lạ với chúng ta cả!
Trong hơn ba phần tư thế kỷ làm người của mình, Nguyễn Tuân  có đến gần nửa thế kỷ cầm bút. Đúng là ông đã khởi nghiệp trong sự gắn bó chặt chẽ với quá khứ (từ những Nguyễn Du, Tú Xương mà ông sẵn sàng đọc đi đọc lại, đến Tản Đà, Thạch Lam mà ông có quen biết riêng). Song phần chủ yếu ở ông là thuộc về nền văn học sau 1945. Trong đội ngũ các nhà văn Việt Nam hôm nay - những người đã làm tất cả để có thể có ích ngay cho sự nghiệp cách mạng - Nguyễn Tuân là một trong những người đứng ở hàng đầu.
THAY ĐỔI ĐẾN TỪ
NHỮNG NĂM KHÁNG CHIẾN
Cùng với tiếng súng toàn quốc kháng chiến 19-12-1946, xã hội Việt Nam lật sang một trang lịch sử mới. Trong 9 năm kháng chiến gian lao, dường như mỗi con người đều thay đổi, trong đó có những người thực sự làm lại đời mình để thích ứng với hoàn cảnh mà cũng là để đóng góp nhiều nhất vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Nguyễn Tuân là một bằng chứng về sự đổi thay đó. Khi một cá nhân càng có bản sắc, thì những dịp làm lại cuộc đời của cá nhân đó càng để lại những ấn tượng rõ rệt.
Một ông Nguyễn khác
Về phương diện nghề nghiệp viết văn mà xét, nét đặc sắc thấy rõ nhất ở văn xuôi Nguyễn Tuân xưa nay là tính chất chủ quan “đặc sệt” của nó. Trong khi các nhà văn khác phải gửi gắm mình vào nhân vật nọ hay nhân vật kia, thì Nguyễn không cần một cuộc hóa thân nào cả. Ông lấy ngay chính mình ra để viết. Ấn tượng sâu đậm nhất còn lại sau khi đọc các tùy bút của ông trước cách mạng là con người kỳ cục cực đoan của chính tác giả. Vấn đề không phải là ông chỉ biết có mình, lấy mình làm trung tâm vũ trụ, mà quan trọng hơn, cái triết lý cá nhân chủ nghĩa đó được ông đẩy tới cùng, khai thác thật triệt để, trình bày nó một cách khá chu đáo, thành thực mà cũng là khá… trâng tráo, không chịu che đậy giấu diếm điều gì cả. Hình như phải cố ý làm vậy, sống vậy, ông mới thỏa chí! Rồi yêu văn ông, người ta phải chấp nhận con người đa sự, con người khinh bạc cao đạo, có vẻ chán đời, mà cũng là con người rất thiết tha với đời nơi ông. Hay dở tùy mỗi người đánh giá. Chỉ biết ông rất khác đời cái đã!
Chính đặt trên cái nền của chàng Nguyễn trong quá khứ mới thấy Nguyễn Tuân hiện lên trong các tùy bút kháng chiến là một con người khác hẳn. Xưa Nguyễn rề rà, chậm chạp, sẵn sàng đứng giữa đường giữa sá làm phiền mọi người. Nay Nguyễn thanh thoát gọn ghẽ, như một cán bộ đi công tác, cùng anh đội viên ăn cơm nắm luồn rừng suốt chiến dịch. Con người ăn uống cảnh vẻ điệu bộ ngày xưa, nay sẵn sàng gặp gì ăn nấy, vừa mở mắt là ăn ngay cũng được, ăn uống dễ dàng như mọi người. Và đáng lưu ý nhất, nếu Nguyễn ngày xưa luôn ngán ngẩm dè bỉu chung quanh, hình như cảm thấy cuộc đời là không xứng với mình thì nay chàng Nguyễn ấy tha thiết với mọi biểu hiện của cuộc sống, thấy đầm ấm tin yêu được sống giữa mọi người. Đến công tác từ một miền đất nghèo trở về, Nguyễn bảo rằng một phần tâm hồn của mình đã để lại đó. Nguyễn tự nguyện xin làm cán bộ dân vận, khi đi theo bộ chỉ huy chiến dịch. Và Nguyễn rất hay nói tới nghĩa vụ trách nhiệm. Từng ấy tính nết, từng ấy đức hạnh, làm nên hồn cốt một người cán bộ, mà tất cả những ai đã biết Nguyễn trước kia, lại thấy Nguyễn bây giờ, không sao tin nổi.
Vẻ nhẹ nhõm
“Cuộc kháng chiến giành tự do đã làm xiêu đổ nhiều giá trị tư tưởng cũ. Chúng tôi muốn đổi máu, chúng tôi muốn đoạn tuyệt với cái dĩ vãng nghệ thuật mà giờ nghĩ tới còn thấy thẹn. Sự chuyển hướng nghệ thuật, chúng tôi cảm thấy khó khăn nặng nề như chuyển một trái núi”.
Họa sĩ Tô Ngọc Vân đã viết như vậy, trong bài Vẫn tranh tuyên truyền và hội họa (1948). Có vẻ như đó là lời tự thú của cả một thế hệ văn nghệ sĩ tiền chiến về những thay đổi đã đến với họ trong kháng chiến. Đối chiếu cụ thể hơn với trường hợp Nguyễn Tuân thì sao?
Đúng là chỉ nhìn bề ngoài đã thấy ông có thay đổi.
Mà sở dĩ có sự thay đổi trong cách sống, cách làm việc bởi vì ông có những chuyển biến cả trong ý thức lẫn trong tình cảm. Trên phương diện ý thức, ông muốn làm một cuộc đoạn tuyệt với dĩ vãng. Ngay trong tình cảm ông đã dứt khoát. Với những gì hôm qua thấy tự hào, hôm nay ông thấy xấu hổ.
Tuy nhiên, bảo rằng sự chuyển biến ấy khó khăn như chuyển một trái núi, thì cũng hơi quá. Có thể là điều ấy đúng với một số người nào đó, song lại không đúng với một số người  khác. Như Xuân Diệu như Hoài Thanh. Hoặc như Nguyễn Tuân chúng ta đang nói. Mà suy cho cùng, người dễ, kẻ khó, ai cũng có cái lý của riêng mình. Nếu như chỉ đọc Vang bóng một thời người ta dễ tưởng tượng Nguyễn Tuân là một tín đồ hết sức trung thành với chủ nghĩa truyền thống. Song đến các tùy bút, thì ngược lại, ta bắt gặp ở Nguyễn Tuân một khuôn mặt thật hiện đại và phải nói là ông đã đi tới cùng của những biểu hiện đáng gọi là hiện đại đương thời. Từ thái cực nọ sang thái cực kia, Nguyễn bước những bước thật nhẹ nhàng trong khi ở những người khác nhiều khi nặng như đeo đá. Nói ngay một chuyện cụ thể như sự đi về với ả phù dung. Ai đã trót sa đà bên ngọn đèn dầu lạc trước kia đều biết, một trăm người bước vào, đến chín mươi chín người không ra nổi, mà có ra thì cũng thân tàn ma dại. Nhưng có một người đã ra khỏi một cách lành mạnh, tự nhiên, đó là ông Nguyễn. Từ những chuyện nhỡn tiền đó mà suy, người ta mới hiểu vẻ nhẹ nhõm của con người Nguyễn từ sau năm 1945. Hóa ra, đi với cái gì cũng nặng căn là Nguyễn mà rũ bỏ cái gì cũng dễ dàng lại cũng là Nguyễn. Sự phức tạp mà người ta thường lưu ý, mỗi khi nói đến ông, suy cho cùng vẫn có vẻ đơn giản riêng của nó.
Hành động theo sát ý nghĩ
Muốn tìm nguồn gốc mọi sự thay đổi trên của Nguyễn Tuân không thể không biết đến bài viết mang tên Lột xác từng được dùng làm lời bạt cho tập Nguyễn. ở thiên tùy bút ghi lại những suy tưởng trong giai đoạn bàn lề của lịch sử đó, Nguyễn Tuân vừa tổng kết con người trong quá khứ, vừa làm một cuộc thanh toán với nó. Và ông nói những điều mà trước kia người ta nghĩ không bao giờ ông nói. Rằng phải thừa nhận đời sống. Rằng người “nghệ sĩ vốn còn kèm thêm người chiến sĩ nữa”. Rằng giờ đây trang viết phải đóng góp vào việc hình thành những “con người mới” (câu chữ trong ngoặc kép là những thứ đã được Nguyễn Tuân dùng trong nguyên bản Lột xác).
Đối chiếu với những lời tuyên bố trong Lột xác, với mọi hoạt động của Nguyễn trong kháng chiến, người ta thấy gì? Thấy con người này đã làm mọi việc với sự suy nghĩ thấu đáo, chứ không phải chỉ hứng bất tử làm đại đi như thỉnh thoảng ông vẫn tự miêu tả. Và điều quan trọng hơn, ông có khả năng hành động. Khi đã nghĩ rằng làm thế này thế kia mới đúng, thì ông có khả năng làm bằng được điều đã dự định.
Vừa thay đổi, vừa nhất quán
Một trong những cái khó thường gặp khi tìm hiểu về một con người là nhận ra ở người đó sự liên tục, trong khi vẫn chấp nhận một sự thay đổi hợp lý do tác động của hoàn cảnh.
Với một nhân cách độc đáo như Nguyễn Tuân, thách thức đó càng không tránh khỏi. Trong những năm ngay sau hòa bình lập lại 1954 và nhất là trong chống Mỹ, nhiều người có thành kiến cho Nguyễn Tuân là chỉ biết giữ nguyên con người tiền chiến của mình, “chứng nào tật ấy” “ngựa quen đường cũ” (kèm theo là thích hưởng thụ”, “ngang bướng”, “cạnh khóe”). Ngược lại, đối chiếu Nguyễn Tuân trước 1945 và Nguyễn Tuân trong kháng chiến chống Pháp, người ta lại kêu là ông nông nổi và có phần tùy thời trong những chuyển biến của mình. Mỗi ý kiến đó đều có hạt nhân hợp lý riêng để rồi sự thực có lẽ là nằm ở giữa, sự thực là một tổng hợp biện chứng giữa hai ý kiến cực đoan đó. Cũng như tất cả chúng ta, Nguyễn Tuân có mối quan hệ hai chiều bởi hoàn cảnh, bảo ông chẳng thay đổi gì cũng đúng mà bảo ông đã lột xác, đã thành một người khác cũng đúng - nếu không giải thích làm sao cái chuyện cả trước lẫn sau 1945, ông luôn luôn là nhân vật hàng đầu của giới văn nghệ.
HUYỀN THOẠI MỘT THỜI
Theo kiểu Hemingway
Cùng với sự phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, sự tiếp nhận văn chương của con người thời nay so với người xưa có thêm những phương tiện mới: nếu muốn , họ có thể đồng thời vừa đọc sách một nhà văn, vừa biết rất rõ về nhà văn ấy. Con người tác giả không còn là một yếu tố trung tính và càng không được thông tin càng tốt. Ngược lại, con người tác giả cũng phải tham gia vào quá trình chinh phục bạn đọc. Ví như Hemingway chẳng hạn. Sinh thời, ông là một cá nhân được gần như cả xã hội để ý theo dõi. Những cá tính kỳ lạ của ông, khả năng cô độc, khả năng dai dẳng ngồi xem đấu bò, đi săn, đi câu giữa đại dương v.v… những cái đó được người ta săn tìm truyền tụng đồn thổi bàn tán, không kém gì tác phẩm của ông. Có người bảo rằng Hemingway không vô tư trong việc này. Dường như ông cố ý trình ra trước xã hội một con người nhà văn như ông muốn. Ông hiểu rằng những giai thoại kia giúp cho ông đến với độc giả thêm nhanh chóng, thuận lợi.
Khỏi phải nói, ai cũng biết việc tự giới thiệu như thế không phù hợp với thói quen của các nhà văn lẫn bạn đọc ở Việt Nam. Chúng ta thường bảo nhau rằng phương tiện tốt nhất và gần như duy nhất để nhà văn đến với bạn đọc là tác phẩm. Trong khi cuốn truyện, bài thơ làm việc, con người nhà văn càng không dây dưa vào đấy càng tốt.
ấy thế nhưng trong Văn học Việt Nam hiện đại cũng đã có một nhà văn dựng tạo sự nghiệp của mình theo kiểu Hemingway nói trên. Trong khoảng gần năm chục năm cầm bút ông đã tạo nên quanh mình cả núi giai thoại, chính những giai thoại nửa thật nửa bịa đó là một chất dẫn truyền rất tốt để tác phẩm của ông có thêm cái lung linh mà người đọc phải cố tìm biết.
Nhà văn đó là Nguyễn Tuân.
Thích ứng theo hoàn cảnh
Theo một số nhà văn đương thời kể lại thì trước Cách mạng , ngay từ khi chưa viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã nổi tiếng trong giới làm văn làm báo như một người chơi ngông, tiêu tiền như rác, hết sức khinh bạc nói chung là  có những cách ứng xử vượt lên mọi quy cách thông thường.
Không có gì lạ khi thấy trong văn xuôi, những khía cạnh đó của con người chàng Nguyễn vẫn được giữ nguyên, thậm chí được tô đậm lên ít chút. Nhà văn công khai lấy chuyện riêng của mình ra để viết. Đôi khi ông có đội cho nhân vật một cái tên họ khác đi thì cũng chỉ là một sự thay hình đổi lốt sơ sài, lộ liễu. Sự tò mò không bớt đi mà chỉ càng được khơi thêm mạnh mẽ. Đọc ông, trong tâm trí bạn đọc luôn luôn dậy lên những thắc mắc, không biết giữa ông với những Bạch, Nguyễn, những kẻ xưng tôi trong các tùy bút, có mối quan hệ như thế nào. Vậy là sự tiếp xúc của ông với bạn đọc đã hình thành. Nó làm cho người ta cứ phải nấn ná giữa các trang sách để từ đó, khi đã đọc Nguyễn Tuân một cách kỹ lưỡng, sẽ bắt gặp một con người nữa, con người tha thiết với đời mà cũng là con người nhân hậu, tự trọng, hết lòng cùng nghề nghiệp, biết gắn bó với vẻ đẹp trong truyền thống nghệ thuật của ông cha bằng một óc thẩm mỹ độc đáo. Cái tầng  thứ hai này, cố nhiên, sẽ là lý do để người ta yêu thích ông lâu dài. Nhưng nếu không có cái tầng thứ nhất với cả những trò chơi trội độc đáo của chàng Nguyễn thì không chắc ngay từ đầu tác phẩm của ông có được sức cuốn hút như nó đã có. Xét về tác dụng, huyền thoại mà ông góp phần tạo ra không thừa, mà như nghề y cổ truyền, nó là một thứ thang để “dẫn” thuốc cho con người.
So với quãng đời trước Cách mạng, thì từ sau 1945, cuộc sống riêng của tác giả diễn ra theo một phương hướng khác hẳn. Cũng như tất cả các đồng nghiệp khác, nhà văn Nguyễn Tuân từ đó có thêm một tư cách mới: tư cách chiến sĩ. Con đường để ông đến với bạn đọc thường khi là con đường thẳng, không khuất khúc như xưa. Nhưng đó là trên đại thể. Nhìn kỹ thì thấy, cách tồn tại của Nguyễn Tuân trong văn học vẫn có chút gì khác thường và trong việc đưa tác phẩm của ông đến với bạn đọc, con người ông vẫn có một vai trò như không hề thấy ở các nhà văn cùng thời. Hãy chỉ nói tới một thời điểm rõ nhất: 20 năm cuối đời ông. Lúc này, tên tuổi Nguyễn Tuân vẫn được nhiều người truyền tụng. Đại khái, người ta hay rỉ tai nhau rằng đấy là một ngòi bút ngang bướng, sẵn sàng nói ra những câu chướng tai, thích tự do cá nhân. và giữa thời chiến mà còn khư khư giữ lấy nhiều nếp sinh hoạt cầu kỳ, xa lạ. Không chỉ những người trong giới văn chương mà cả những người thuộc các tầng lớp xã hội khác không liên quan lắm với văn chương, cũng biết về ông như vậy. Và người ta lại tìm đọc ông để vừa thưởng thức văn tài, vừa cảnh giác dò tìm những chỗ ngang ngạnh của ngòi bút. Thế là một lần nữa, Nguyễn Tuân lại “ghi điểm”. Xét trên một phương diện nào đó thì sự tò mò mà ông gợi ra (trong đó cái sai xen lẫn cái đúng) đã giúp rất nhiều vào việc phổ biến những bài ký viết về phi công Mỹ và nhiều loại đề tài khác mà Nguyễn Tuân cho in những năm cuối đời. Nhờ vậy, điều ông viết ra (tội ác và sự kém cỏi của địch, thế mạnh, thế tất thắng của ta) - những cái đó lại đến với người đọc sâu sắc hơn. Nếu không ngại dùng chữ huyền thoại thì có thể bảo là cho đến lúc nhắm mắt, Nguyễn Tuân luôn luôn tạo được huyền thoại về mình, huyền thoại ấy lần này giúp ông làm tròn sứ mệnh một chiến sĩ, một cán bộ viết văn mà ông đã tự nguyện mang tất cả tài năng và tâm huyết để thực hiện. Từ chỗ là một ngòi bút cô độc (như hai câu thơ cổ ông dùng làm đề từ cho bài ký Sông Đà: Chúng thủy giai đông tẩu - Đà giang độc bắc lưu -– mọi con sông đều chảy ra biển đông, chỉ riêng sông Đà chảy ngược lên phía bắc), ông đã trở thành một nhà văn của mọi người như những câu được viết trong sổ tang ông ngày ông nằm xuống ba năm về trước.
Vang bóng một thời
Tìm hiểu cuộc đời Nguyễn Tuân chắc nhiều người không thể quên một chi tiết: ngay từ khi chưa đầy 30 tuổi, người tài tử ấy đã mấy phen ngồi uống rượu ngang ngửa với ông thần ngông Tản Đà. Vậy là sự già dặn đến với ông ngay từ lúc trẻ. Chắc chắn, sự già dặn ấy đã giúp ông có được cái định hướng độc đáo trong việc tổ chức đời sống của mình mà việc tạo huyền thoại, sống trong huyền thoại nói trên, là một ví dụ.
Nay thì cùng với Nguyễn, tất cả đã trở thành quá khứ. Trong khi những đứa con tinh thần thật sự của tác giả, những Một chuyến đi, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa đàn, Sông Đà, Chuyện nghề v.v… dần dần trở lại đúng các vị trí mà chúng phải có, thì những huyền thoại không còn giữ được vẻ thiêng liêng kỳ thú ngày nào. Đến với hiện tượng Nguyễn Tuân giờ đây, trong lòng không khỏi thoáng qua cảm tưởng thanh vắng y như đến chùa nhưng ngày hội đã hết, chỉ còn gác chuông, mái ngói và những pho tượng trầm tư. Ai người mau xúc động thấy thế lại còn muốn ngả sang vẻ ngậm ngùi nữa! Họ quên mất rằng khi đặt tên cho tác phẩm đầu tay của mình là Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã tự chứng tỏ ông là người có một quan niệm chắc chắn về thời gian: thời gian làm nên những giới hạn cho mỗi đời người, song những ai sống hết lòng với cái thời của mình, người đó  coi như đã tìm được cách để đến với vĩnh viễn.
HUY CẬN: MỘT VẺ ĐẸP CỦA QUÁ KHỨ
Từ hồi  tuổi mới 20 - 25, Huy Cận đã biết tạo cho thơ mình một vẻ đẹp khá già dặn. Cái tên Lửa thiêng, có lẽ không hẳn đã hợp với các bài thơ trong tập, đơn giản là vì chất thiêng ở đây còn thấp thoáng một vẻ phôi phai trần tục và khó lòng nói là đã có được sắc thái riêng. Mà phù hợp hơn, khi muốn tìm ra cái phần tinh hoa trong thơ Huy Cận lúc ấy, tôi muốn dùng chữ đẹp xưa, như tên một bài thơ khác của ông. Thật vậy, nếu nhớ tới Xuân Diệu, luôn luôn ta nhớ cái líu ríu cuống quýt mau với chứ vội vàng lên với chứ của ngày hôm nay thì giọng thơ Huy Cận thật khoan thai trầm mặc, nó là tiếng nói của một nhà thơ luôn sống với một quãng lùi để có thể nhìn mãi tận xa xưa. Cũng giống như Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, thơ Huy Cận hồi ấy  cho chúng ta biết một khía cạnh đặc biệt làm nên cái điệu tâm hồn Việt Nam. Ngậm ngùi. Chiều xưa. Tràng giang. Nhạc sầu... Những bài thơ đó thuộc về cách nghĩ một thời. Quá khứ hằn lên với những vết mòn. Mờ xa mà thắm thiết. Và xa vắng, và đìu hiu. Tôi nghĩ tới cái màu ngói cổ. Tôi nghĩ tới cái cái hòa sắc riêng của những đền chùa Việt Nam, những bức tường rêu phong, những hàng cột không chói lọi sơn son thiếp vàng, mà màu đỏ ở đây như có cái vẻ trĩu xuống đất, lẫn vào chung quanh, nhẫn nại, cam chịu.
Cũng đã có lần Huy Cận nói tới một vẻ đẹp hoang dại dân dã Đường trong làng hoa dại với mùi rơm - Tôi cùng người đi dạo giữa đường thơm. Nhưng những bài thơ hay nhất của ông thường có cái vẻ sang trọng pha chút quý phái. Cố nhiên không bao giờ ta quên rằng hồn thơ ấy chỉ có thể hình thành nhờ ảnh hưởng Tây phương. Dấu vết của thơ Pháp còn trải khắp tập Lửa thiêng (kiểu như Sớm hôm nay hồn em như tủ áo - ý trong veo là lượt xếp từng đôi). Có điều, ở những bài hay nhất trong tập, ta gặp lại cái vang hưởng Trung Hoa vốn đến với ta từ lâu lắm. Xa rồi khuất ngựa sau non - Nhỏ  thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu. Tràng đạc là gì? Có phải là tiếng chuông lắc trên cổ con ngựa? Sao không nói sông dài mà lại phải gọi Tràng giang? Không ai định hỏi và xưa nay tác giả cũng không nói. Cũng như ta không bao giờ thắc mắc về những gió thanh tân, tình vạn lý, những đồng trăng lục nhạt vàng thanh lối gần..., chỉ có cảm tưởng những chữ ấy câu ấy nói hộ một điều bấy lâu vẫn sống âm thầm dai dẳng trong mỗi tâm hồn.
Cái vẻ chín tới này không chỉ có mặt trong Lửa thiêng mà về sau, còn một lần nữa đến với Huy Cận. Những năm sáu mươi của thế kỷ XX không chỉ là một giai đoạn thanh bình hiếm có đến với đất nước sau cuộc kháng chiến chống Pháp, mà còn đánh dấu một bước phục hưng thực sự trong đời sống thơ ở Hà Nội. Nó không đi tìm những cái mới lạ. Mà nó quay về với cái lãng mạn và bằng sự hồn nhiên của mình, đạt tới một trình độ cổ điển mới. Chế Lan Viên có Ánh sáng và phù sa với cái phần e ấp chờ đợi hồi hộp khát khao ít thấy; Ánh sáng và phù sa tuy không được dư luận coi là tiêu biểu song theo tôi lại là cái phần hay nhất trong sáng tác của họ Chế. Rồi Tế Hanh có Gửi miền Bắc không dễ dãi như tác giả này vốn có; Xuân Diệu có Cầm tay, chùm thơ tình, mà chất lượng hoàn toàn có thể đọ với Thơ thơ ngày xưa. Và Huy Cận có Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời… Nếu đối diện với những bài hay nhất rút ra từ ba tập này, chúng ta sẽ thấy lại cái vẻ chín, đầy đặn, chắc chắn  của thơ ông. Thu tới ngoài kia - Nghe nhân thơm trong trái nặng - Nghe nhựa ấm trong cành thưa - Nghe run rẩy tiếng gió ru lúa chín - Xôn xao cuống lá rụng thay mùa. Sinh thời, nói chuyện với tôi, Nguyễn Minh Châu tỏ ý rất chịu bài Chín với mấy câu  mở đầu như vậy. Còn đám học trò cấp ba chúng tôi hồi trước chiến tranh thì mê đủ thứ, cả cái  cảm giác lộng lẫy toát lên từ sự hài hòa của trời đất trong Đoàn thuyền đánh cá, lẫn cái đạm bạc như một bức tranh thủy mạc của Mưa xuân trên biển (mà một câu trong đó là Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm), rồi nữa, cái lạ lùng bất ngờ của những bài thơ Huy Cận viết từ nước ngoài (Trò chuyện với Kim Tự tháp, Xem tranh Tề Bạch Thạch v.v...). Quá mê các bậc đàn anh tới mức chịu đi sau làm cái bóng của họ là lỗi của một lớp người trẻ tuổi, song quả thực, có dễ gì vượt được một chuỗi tài năng cùng lúc tỏa sáng như vậy. Họ đã chín trong hoàn cảnh của họ, còn chúng tôi phải chăng cái sự sống sít, dang dở theo mãi như một nghiệp chướng?…
Một bạn Việt kiều, cũng quê Hà Tĩnh như Huy Cận, sau mười lần về nước, gần đây có nhận xét rằng người Hà Nội có vẻ quá “chúi mũi“ vào thưởng thức văn chương, tự ru ngủ trong những câu thơ vần vèo thánh thót mà coi nhẹ tư tưởng bộc lộ qua trang viết. Lúc tỉnh táo và thử làm khác mình đi, tôi cũng muốn nghĩ thế. Nhưng biết làm thế nào?!. Thơ, với chúng tôi, đó là tuổi trẻ, là sự có mặt trong đời, là hy vọng, là cái sự hồn nhiên được gặp gỡ với bao nhiêu tâm hồn. Như với Huy Cận mà hôm nay ra đi. Chỉ vừa nghe tin ngày 19-2 ông đã vĩnh viễn nằm xuống là tâm trí đã xôn xao như những gì nhạy cảm nhất đang cùng rung lên trong lòng. Không còn những chuyện tầm thường nhếch nhác của đời sống hàng ngày, không còn bao nhiêu trơ lỳ, già cỗi, thoái  hóa, nó chia rẽ những người cùng sống một thời, mà chỉ còn những câu thơ hay nhất tác giả từng viết, những câu thơ thời trẻ bọn tôi đã thuộc, lục tục kéo tới. Tác giả Lửa thiêng là thế, thơ Huy Cận đã thuộc về một phần tài sản tinh thần của cả mấy thế hệ hôm nay.
CON NGƯỜI NGUYỄN TUÂN QUA MỘT SỐ SÁNG TÁC TRƯỚC 1945
I- ĐỊNH HƯỚNG VÀO HIỆN TẠI
Vang bóng một thời, cuốn sách mang lại danh tiếng và hoàn chỉnh một bút pháp cho ngòi bút Nguyễn Tuân có chút gì đó giống như một tập ảnh. Gom góp những thể nghiệm riêng từ thời thơ ấu và đắp thêm vào đó nhiều kỷ niệm qua lời kể của các người thân trong gia đình, tác giả tập truyện tuy lúc ấy còn trẻ song đã muốn làm một việc có ý nghĩa lâu bền: Đó là dựng lại cho sống động cái cuộc sống đang chìm dần vào dĩ vãng. Nhân vật của Vang bóng một thời thường là những người già. Cốt cách họ ổn định chắc chắn. Đời sống họ êm ả, phẳng lặng. Với nhiều người trong họ, sống nghĩa là chuồi theo thói quen, là tận hưởng nốt niềm vui thiêng liêng mà họ cảm thấy đang mất dần và sẽ không bao giờ trở lại. Song le, chính vẻ mòn mỏi của cuộc sống đã thành nền nếp lâu đời ấy lại vẫn gây nhiều quyến luyến, và nhất là lại toát ra một vẻ đẹp riêng,  để lại một dư vị riêng không gì so sánh nổi, cho các trang sách.
Nghề văn vốn rộng như cuộc đời. Giá kể cứ đi mãi vào quá khứ, ghi chép thật tài hoa mà cũng thật tỉ mỉ những cảnh sống đã một đi không trở về, nhất là lại biết nhìn những ngày xưa êm ái ấy bằng con mắt hiện đại, người ta cũng có thể tạo nên một cái danh trong nghề cầm bút và mang lại một đóng góp cho lịch sử - lịch sử văn hóa nói riêng cũng như lịch sử ở khía cạnh dân tộc học, xã hội học nói chung.
Nhưng Nguyễn Tuân không phải là loại người có thể suốt đời đơn độc trở về với vang và bóng, tức suốt đời sống với những nhân vật đã già, đã mất hết ham muốn kiểu ấy. Con người chàng Nguyễn - như chúng ta thấy trong Một chuyến đi viết từ trước tập Vang bóng một thời - là con người của những đam mê nhất thời và những đắm đuối không định trước. Vốn thông minh và nhạy cảm, con người ấy thèm khát tắm mình vào cái không khí hiện tại, nắm bắt cho hết mọi hình sắc của nó, lắng đọng mọi thanh âm của nó, muốn buông thả, muốn vùng vẫy trong hiện tại, để rồi nói ngay về cái hiện tại ấy, trình ra trước mọi người những xúc động mà mình thu nhận được ngay “trước mũi” mọi người, và lấy sự độc đáo của cái tiếng nói riêng ấy làm lý do tồn tại của ngòi bút. Trong văn Nguyễn Tuân thời trẻ không thiếu những đoạn nhân vật như sung sướng quá không tìm nổi phải nói buột ra những lời say đắm, nào là “cảm thấy được sống lúc này với những cảm giác tinh vi của mình là một cái đặc ân, là phải mang một cái ơn sâu nặng đối với tạo hóa”, nào là “thấy được sống cũng là đủ là một cái tác phẩm rồi, chả cần phải làm việc gì nữa” (Nguyễn). Sự sùng bái hiện tại khiến cho một thời gian dài sau Vang bóng một thời, gần như Nguyễn Tuân không bao giờ trở lại với cái quá vãng vàng son ấy nữa. Thay cho lịch sử là cái đời sống đang trôi chảy. Thay cho những ông già ngồi uống trà, nhấm nháp hương cuội và bảo ban con cháu làm đèn trung thu  giờ đây đi lại trên trang sách Nguyễn Tuân là hình ảnh những chàng trai sôi sục ham muốn, bươn bả đi và viết, từng trải lão luyện trong nghề làm người, và coi việc hưởng thụ hiện tại, hút hết hương thơm và mật ngọt của cuộc đời hôm nay, là lẽ sống. Các tập sách nổi tiếng của Nguyễn Tuân như Tùy bút I, Tùy bút II, Nguyễn, và cả tiểu thuyết Quê hương - cuốn văn xuôi dài nhất trong đời cầm bút của Nguyễn - xoay đi xoay lại đều là những biến thể khác nhau của cùng một công việc là định hướng vào hiện tại và ghi lại những bước đường trôi nổi của cái con người vừa tìm cách cưỡng lại hoàn cảnh, vừa luôn luôn nhoẻn cười vì sự thích ứng kỳ lạ của mình với mọi đổi thay của hoàn cảnh.
II- CHỦ NGHĨA XÊ DỊCH
Nói trong các tập sách Nguyễn Tuân viết sau Vang bóng một thời có nhiều nhân vật khác nhau, cũng không hoàn toàn đúng hẳn. Khi mang tên Hoàng, khi được gọi là Nguyễn, là Bạch, song các nhân vật ở đây đều là những hóa thân của cùng một con người, là những biến điệu từ cùng một tính cách. “Lòng kiêu căng… đã xui ta chỉ chơi có một lối độc tấu”. Lời tự thú ấy, không chỉ liên quan đến cái thể tùy bút Nguyễn Tuân sử dụng, mà trước hết, là liên quan đến các nhân vật đi về trên các trang sách. Trong cái sự chỉ để cho một con người tính cách ngang ngược như thế nằm ườn ra trong tác phẩm, Nguyễn Tuân như thách thức với văn giới, với các đồng nghiệp, và trước tiên là với bạn đọc:
– Tôi cóc cần gì hết! Chỉ tôi thôi cũng đủ làm nên tính đa dạng muôn màu muôn vẻ của các văn phẩm ký tên tôi.
– Tôi sẽ làm cho các anh không thể chán tôi nổi!
– Nói cho nghiêm chỉnh, tôi muốn chứng minh rằng cái tôi mà các anh bảo là nghèo nàn bé nhỏ ấy vô cùng giàu có: nó là cả một khu mỏ mà người ta đào bới cả đời không hết!
– Và sống đến đâu, tôi sẽ viết đến đấy!
Đâu là nét tính cách chủ yếu làm nên bộ mặt hấp dẫn của cái nhân vật “độc tấu” mà Nguyễn Tuân đã khai thác trong các tập Tùy bút, cũng như trong Quê hương và các tập sách in trước 1945?
Người ta sẽ thất vọng nếu như tưởng tượng rằng đó là một con người làm nên những chuyện kinh thiên động địa xoay chuyển cả bánh xe lịch sử hoặc gây ra những vụ bê bối giật gân khiến cho những người chung quanh anh ta phải nhiều phen rắc rối.
Không! Sự đời trong Nguyễn Tuân không ngoắt ngoéo theo kiểu ấy. Như tên gọi của một thiên tùy bút đã chỉ rõ, nhân vật ở đây, chỉ có mỗi một căn bệnh duy nhất là Thèm đi. Sau những ngày ngồi một chỗ, để cho trí tưởng tượng bay bổng và thấy hết thi vị của việc đi, con người ấy lại dồn mọi hăm hở và tìm thấy đủ vui buồn trong chuyện xuôi ngược: Khi là chuyến dềnh dàng trên một con thuyền lênh đênh từ Thanh Hóa ra tới vùng biển Quảng Ninh (Chiếc va ly mới); khi theo đường sắt rong ruổi một cách tùy tiện, qua các tỉnh miền Trung (tùy tiện nghĩa là sẵn sàng nghỉ lại ở một vùng nào đó vài ngày, sau đó mới đi tiếp), cứ thế kéo dài cuộc chơi cho tới khi đặt chân tới cái ga cuối cùng trên tuyến đường sắt Bắc-Nam là ga Sài Gòn (Một chuyến đi thăm nhau). Cho tới Quê hương thì Nguyễn Tuân còn cho nhân vật của mình lang thang sang tận châu Âu, châu Mỹ: Bạch ở đây từng là thủy thủ xuyên đại dương và những khoái hoạt của sự đi mà Bạch muốn truyền đến cho ta, là có phảng phất cả hơi gió mặn! Cứ thế, bằng vào năng lực ngôn ngữ ma quái của mình, Nguyễn Tuân đã nâng chuyện đi của con người lên tình trạng một thứ kỳ thú siêu việt, đến mức những ai thường phải quanh quẩn trong bốn bức tường gia đình, phải thèm muốn, phải ao ước. Đọc văn Nguyễn Tuân không phải chỉ có niềm vui, một sự sướng tai bởi được nghe một người lẻo khẩu kể chuyện, mà rất có thể người đọc sẽ thấy buồn, thấy ngứa ngáy, thấy đời mình chả ra sao, nếu như người ta ở vào cái tâm trạng của anh chàng Tần ở trong truyện, loại người thê tróc tử phọc mà lại không chịu đầu hàng và thỉnh thoảng vẫn bị xao động trước những người bạn giang hồ quen nay đây mai đó. Trêu tức mọi người, với Nguyễn, với Bạch, cũng là một niềm vui lành mạnh bởi chẳng qua cái việc ấy nó tô đậm thêm sự thực chàng sẵn sàng nhắc đi nhắc lại: dù hay dù dở mỗi con người là một nguyên bản độc đáo, không ai thay thế nổi.
III- SẮC THÁI PHƯƠNG ĐÔNG
Một nét hấp dẫn đễ thấy rõ của chủ nghĩa xê dịch trình bày trong Nguyễn Tuân là ở cái sắc thái phương Đông của nó. Nhân vật Bạch trong Quê hương cũng như chàng Nguyễn trong các tùy bút, là một người thấm nhuần văn hóa cổ truyền Trung Hoa, và luôn luôn nghĩ bằng những ý tưởng mà các nhà nho thông thạo thơ văn từ đời Đường, đời Tống thường nghĩ. Nói về mình chàng hay dùng những chữ như hành nhân, lữ khách, du tử, cùng lắm thì là kẻ lưu đãng, các chuyến đi thú vị được gọi bằng những cuộc đăng trình, viễn trình. Và đây, một đoạn trong Quê hương nói về cảnh ly biệt:
“Sương nhìn cái bóng trắng của Tần lâu mãi mà không chịu nhòa với khói than đá, nhớ đến cái thú vị cuộc tiễn đưa về thời xưa cũ, người ta bày một cái đoản đình, một cái trường đình, uống cạn một chén rượu, người ngồi trên ngựa dùng dằng mãi mới ra roi và nối cương, kẻ đứng dưới thì ngậm ngùi vòng hai cửa tay áo rộng lại, lạy một lạy và hướng mãi về phía đám bụi hồng không chịu tan bay sau móng ngựa”
Tương tự như vậy, là một cách tiễn đưa được tả trong Tùy bút I:
“Chuyến này anh đi một hơi thấu mãi vào lục tỉnh Nam kỳ lập nghiệp, thân bằng cố hữu đưa tiễn ở sân ga Hà Nội ồn quá. Thiếu một chút nghi lễ và thêm một tí bùi ngùi nữa thì đủ là cảnh tế sống một anh tráng sĩ đời Chiến Quốc tại bờ sông Dịch “một đi không trở về”. Gió xuân cuối mùa chiều nay ở bến ga thế mà cũng lạnh”
Những người có làm quen với văn hóa cổ điển Trung quốc đều biết rằng, bên cạnh hình ảnh nhà nho hành đạo, hoặc các nhà nho ẩn dật chờ thời, thì trong văn thơ từ đời Tiền Hán cho đến Đường Tống luôn luôn thấy xuất hiện loại nhà nho tài tử. Phần lớn họ là những người tài cao học rộng, song càng hiểu lẽ đời, họ càng thấy cuộc đời này quá chật hẹp. Không cam chịu sống theo những ràng buộc sẵn có, họ lấy sự rong chơi làm niềm vui. Để đạo đức sang một bên, cái yếu tố được các nhà tài tử này đặt lên hàng đầu là tài và tình, và trong cuộc vui chơi, càng yêu thêm được những vùng núi non hùng vĩ, biết thêm nhiều cảnh sơn thủy kỳ lạ, có thêm nhiều cảm xúc tốt đẹp, từ đó, có thêm được những vần thơ cao quý, họ càng lấy làm bằng lòng với mình. Sang đến Việt Nam cái lẽ sống của người tài tử kiểu ấy, đã trở thành hạt nhân tính cách của hàng loạt văn thi sĩ có tài và bảng danh sách các nhà nho loại này sẽ bao gồm suốt từ Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát qua Chu Mạnh Trinh, Dương Khuê, và gần với Nguyễn Tuân hơn cả là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Cái đặc tính chính làm nên bộ mặt tinh thần của loại nhân vật tài tử này, tóm lại là ở một chữ phá cách. Song đó là một sự phá cách thông minh hơn người, độc đáo hơn người và cũng tự trọng hơn người. Thoát khỏi vòng danh lợi, thậm chí cũng vứt bỏ luôn cái ảo tưởng của kẻ ẩn dật, muốn tỏa sáng bằng cách tự tu dưỡng, làm mẫu cho chung quanh, đám tài tử này thật sự sống như leo dây sẵn sàng làm một cuộc thách thức với các giá trị đã ổn định, và không kêu gọi sự an phận như đạo nho thường làm, mà đi đến đâu là khiến cho lòng người ở đó xao xuyến không yên. Rồi người ta sẽ bảo họ ngông, họ kiêu ngạo, sau khi đã không tìm ra lý do gì để bảo họ là không lương thiện, là thiếu đạo đức. Nhưng một khi trong thâm tâm, họ đã tự nhủ là phải luôn luôn vượt lên trên nỗi ‘lèm đèm lẹt đẹt lờ mờ, luộm thuộm và bằng lòng của tất cả chung quanh” thì cái sự ngông ấy tránh làm sao nổi! Ấy, cái cốt cách của con người tài tử xưa nay độc đáo là vậy, mà cái sự xê dịch đi về của những chàng Nguyễn chàng Bạch trong văn Nguyễn Tuân, sở dĩ làm cho người ta nao lòng, cũng là vì lẽ vậy! Trước mắt chúng ta quả thực là một con người học vấn hơn người, lại tinh tế, từng trải hơn người, biết rung động với từng biến thái nhỏ của đời sống. Có điều nếu chỉ quy sự hấp dẫn của loại nhân vật này vào cốt cách phương Đông thì cũng không đủ. Tuy Nguyễn Tuân là người đã từng đi lại với Tản Đà như đôi bạn vong niên, lại nhiều phen rong chơi bên cạnh nhà thơ nổi tiếng bởi những bài thơ giang hồ ngất ngưởng là Lưu Trọng Lư, song ở ông chất tài tử vẫn có những chỗ hơi khác: Ông tỉnh táo. Ông có ý thức về mọi hành động mình làm. Trong khi vẫn say vẫn bốc, ông không quên sự tự suy xét, tự đánh giá. Kiến thức ông vững vàng, ngón nghề của ông hiện đại, không quê mùa, mà cũng không hề âm lịch, chẳng những thế, dường như ông cố ý làm cho các hành động của mình có được cái ý nghĩa kỳ cục để gây ấn tượng. Bảo Nguyễn Tuân tây hơn hết trong cái chất tài tử phương Đông của mình cũng không phải quá, mặc dù, như về sau, chúng ta sẽ thấy, cái cốt cách phương Đông kia lại nằm ở một tầng rất sâu trong tâm thức ông. Và nó sẽ là yếu tố níu kéo ông lại, khiến cho con người thái quá nơi ông nửa vời, dang dở.
IV- VÀ TINH THẦN VĂN HOÁ PHƯƠNG TÂY
Từ mẫu hình xã hội phong kiến chuyển sang mẫu hình xã hội tư sản theo kiểu phương Tây, nếu như có một đặc điểm thấy rõ nhất là cần lưu ý nhất của văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thì đó là sự biến chuyển nhanh chóng của nó. Sau giai đoạn giao thời đầu thế kỷ XX, nền văn hóa mới chỉ hiện ra đúng là mình vào khoảng từ 1925-1930 trở đi. Song từ đó, cho đến 1945- nghĩa là trong chưa đầy hai chục năm tiếp theo, nó phải diễn lại gần hết những bước đi mà văn hóa phương Tây đã trải qua trong vài trăm năm. Bởi vậy, nên mới có tình trạng cướp đường mà biến chuyển. Nhìn lại hình ảnh con người hiện lên qua các sáng tác văn chương nghệ thuật người ta có thể ghi nhận một cuộc chạy tiếp sức liên tục: Đại khái ở văn xuôi của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, đấy là những con người rành mạch, góc cạnh, và mối quan hệ của mỗi cá nhân với hoàn cảnh xã hội thì thật chặt chẽ. Đến Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, nhất là trong Phấn thông vàng của Xuân Diệu và những truyện ngắn in trong Gió đầu mùa, Sợi tóc của Thạch Lam, trước mắt ta đã là những con người khá hiện đại. Nét đặc biệt của các nhân vật lúc này - nhất là nhân vật chính, tức hình ảnh tác giả - là chỉ có mối quan hệ lỏng lẻo với xã hội. Ngược lại, mỗi cá nhân là cả một thế giới phiền phức mặc dù thế giới đó thường không bao giờ hoàn chỉnh. Bảo mỗi cá nhân đều nhạy cảm mau mắn cũng đúng, mà bảo họ vẩn vơ yếu đuối lại càng đúng. Sự định hướng là quá khó khăn: hầu như họ cứ để cho mình trôi nổi mà không thật sự biết mình muốn gì, và đứng ngoài mà nhìn thì thấy ranh giới của mỗi cá nhân là không xác định rõ rệt. Đến lượt mình, Nguyễn Tuân cũng sẽ thẩm thấu những ảnh hưởng xa lạ kia theo cái cách riêng ông mới. Từ A. Gide và đám người cùng chí hướng, nghĩa là từ những ngòi bút mở đầu cho nền văn học giàu chất triết học hiện đại ở Pháp, ông cũng như nhiều thanh niên trí thức Việt Nam đương thời tìm thấy sự gợi ý cho một cách sống, và trong khi không quên những nền nếp mà ông đã miêu tả một cách thần tình trong Vang bóng một thời, con người ấy lại bắt ngay sang những thói quen, những cách nói cách nghĩ mà ai người có đọc văn học Pháp lúc này sẽ nhận ra là có một sự “đồng thanh tương ứng” kỳ lạ để rồi Việt hóa khá thành thục, tạo nên một loại lãng tử hiện đại. Nhân vật của ông nhìn kỹ đều là những con người lửng lơ vượt thoát ra ngoài mối quan hệ bình thường với xã hội. Họ như không đi mà chỉ bay là là trên mặt đất, không đậu hẳn vào đâu, gì cũng biết, mà hóa ra không ràng buộc với cái gì cả. Nghề nghiệp, không xác định. Gia đình nhà cửa, không thiết tha. Cho đến cả tiền tài, sự nghiệp cũng không phải là điều họ quan tâm đuổi bắt. Thế thì loại người này đã trở thành hư vô chăng? Không hẳn. Niềm say mê mà nhân vật Nguyễn Tuân và chính ông để cả đời theo đuổi, là say mê tìm hiểu chính mình và khắc họa bức chân dung tinh thần khác người của mình trước đồng loại.
Đứng đằng sau chủ nghĩa xê dịch là một ý tưởng quan trọng hơn: ý niệm về sự tự do của con người, tự do không giống một ai, tự do đến mức dám đi ngược mọi thành kiến thông thường, thói quen thông thường miễn sao nó tạo ra niềm khoái lạc, và trúng với ý thích cá nhân của con người trong cuộc, còn có vì thế mà gây ra khó chịu với người chung quanh thì cũng không ngại: Tôi vẫn lương thiện cơ mà! Tôi có ăn cắp ăn trộm của các ông bà đâu? Tôi sống trong phạm vi luật pháp đấy chứ?! Còn việc tôi bạn bè với ai, tiêu tiền như thế nào, ăn mặc ra sao, cái đó kệ tôi, các người càng khó chịu thì tôi lại càng phô ra cho các người bực mình nhân thể! Trước con mắt dòm hành xét nét của chung quanh, nhân vật con người tự do ở đây đã đủ lý lẽ để cãi lại, và anh ta sung sướng mà chắc chắn rằng, về lý mà xét, không ai làm gì được mình. Ấy bao nhiêu chuyện xê dịch của Bạch - tức chuyện bỏ nhà lang thang, rồi tuần nào cũng ra ga để rình rập quan sát cảnh mọi người lên đường, rồi trốn vợ, trốn con thuê một chỗ ở riêng để bày biện ra một khung cảnh viễn du - tức là tự tình hâm nóng niềm hứng thú xê dịch của mình - bấy nhiêu “trò nỡm” mà nhân vật Bạch phô ra trước bạn đọc chỉ là những cách khác nhau để nhà văn ở đây nói cho hết nói đến cùng nói một cách cặn kẽ, về sự thiết yếu của nhu cầu tự do ở con người. Tiếp theo các tùy bút, đến Quê hương một lần nữa Nguyễn Tuân muốn làm sống lại một vài ý niệm ông tiếp nhận từ A. Gide, toàn bộ cuốn truyện dài này là một thứ minh họa đẹp đẽ cho cái mệnh đề mà các nhà nghiên cứu thường rút ra khi nói về Gide: “Sự khẳng định cái Mình đó trước hết là một sự tìm kiếm, là quyền tuyệt đối được lang thang, là một cuộc săn lùng tự do” (1)
V- SỰ PHÂN THÂN
Đứng ở góc độ tâm lý học mà xét toàn bộ văn chương Nguyễn Tuân thời tiền chiến dường như được xây dựng trên một định đề thông thường: mối bận tâm lớn nhất của con người, chỉ là bận tâm về chính mình. Niềm say mê muốn trở thành một cá nhân độc đáo có thể giải phóng ở con người một năng lượng lớn lao và làm nên cả một khung cảnh tưng bừng là bức tranh tâm lý nhiều khi khá sặc sỡ.
Đó là những định hướng mà chỉ con người (kể cả con người phương Tây) những thế kỷ gần đây mới có.
Tính hiện đại của văn Nguyễn Tuân bắt nguồn từ ở chỗ ấy.
Nhưng tâm lý học cũng đồng thời cảnh cáo: sự tự biểu hiện cá nhân không đơn giản chỉ khuôn vào một hình ảnh như cá nhân đó vẫn tưởng. Ngược lại, khi cá nhân đó thông báo về mình như anh ta muốn, thì đồng thời lại xuất hiện những yếu tố ngoài sự kiểm soát của anh ta, và một hình ảnh thực sự về cá nhân được thông báo phải bao gồm cả hai bộ phận nói trên.
Cố nhiên là trường hợp của Nguyễn Tuân cũng không ra ngoài cái thông lệ ấy.
Trong một tùy bút mang tên Một giấc ngủ (in ở Tùy bút), Nguyễn Tuân từng kể về cái tình trạng éo le khó xử ông thường vẫn gặp phải khi ngồi trước trang giấy trắng: vừa muốn viết vừa không muốn viết. Cầm bút không nổi mà không cầm lấy bút cũng không xong. Ông bộc bạch:
“Cái gì mà lúc nào trong người tôi cũng hình như có một thằng người thứ hai cứ hục hặc sống để mà xét nét từng ly từng tí. Khó chịu nghẹn lên đến cổ. Nếu tôi cần mẫn thì ích cho thần xác tôi; nếu tôi lười thì tôi bị hại: can chi đến thằng người thứ hai đó cứ suốt ngày sa sả như một người đàn bà lắm nhời, hở trời! Chớp mắt thì thôi không nói làm gì, nhưng hễ mở mắt ra là y như rằng, cái thằng người đạo đức đó đã lẻn vào lòng tôi để làm  khổ tôi.
Thật là đủ trò. Hết mắng, hết dè bỉu, mỉa mai, hắn lại dằn vặt, dọa ruồng bỏ tôi. Chán chẳng ăn thua gì, hắn lại xoay ra nịnh tôi và có giây lát hắn còn an ủi tôi là khác nữa. Thế có sốt ruột không? Cái thằng người thứ hai đó thực là ồn quá”.
Câu chuyện Nguyễn Tuân nói ở đây không chỉ liên quan đến sự chăm và lười của ngòi bút, mà thực ra, đã động tới một vấn đề lớn của con người hiện đại: sự phân thân. Khi nói về tính nhiều vẻ, cũng tức là sự phân tán của cái tôi trong con người nói chung, nhà văn Ý hiện đại là L. Pirandello từng nhận xét đại ý: “Mỗi người chúng ta thường uổng công tưởng tượng mình là một cái gì nguyên vẹn, nhất trí, một thực thể duy nhất trên đời. Có biết đâu là trong mỗi chúng ta có thể có hàng trăm hàng nghìn dáng vẻ khác nhau, và cái sự mâu thuẫn “đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”, nhiều khi không phải là vấn đề đạo đức mà là vấn đề bản năng, nghĩa là nó cứ bộc lộ ngoài ý muốn của ta, ta không sao kiểm soát nổi”. Những nhận xét này được viết ra dường như để dành riêng cho nhiều nhân vật của Nguyễn Tuân nói chung và Bạch của Quê hương nói riêng. Vâng Bạch ở đây thất thường quá, lạ lùng quá, Bạch vừa từng trải, vừa khờ khạo, Bạch khá sâu sắc song cũng khá nông nổi, Bạch cứng cỏi có nhiều phen đến sắt đá, song Bạch lại cũng là con người thật mềm yếu và dễ bị thương. Và thế là trong mọi hoạt động, trong cư xử, trong thái độ đối với bản thân và chung quanh, trước mắt chúng ta dường như có hai con người song song tồn tại: Một mặt, Bạch ham sống và thèm khát được sống hết mình, sống một cách thực cá nhân, không muốn quanh mình luẩn quẩn có ai. Mặt khác Bạch lại rất nhạy cảm với hạnh phúc gia đình và luôn luôn hiện ra như một con người được giáo dục kỹ lưỡng trong quan hệ với cha mẹ vợ con. Những lúc say sưa, cố nhiên Bạch tưởng chàng chỉ tha thiết trước hết với những vui buồn bản thân. Song chàng đã nhầm. Lúc tỉnh táo trở lại, Bạch biết rất rõ rằng chung quanh mình những người thân ấy có lẽ sống riêng của họ, và họ đều đáng yêu, đáng mến đến mức Bạch không quên tự nhủ là nên cư xử cho biết điều, đừng vì mình mà để cho họ phiền muộn. Vả chăng, chỉ ngay trong chuyện đi thôi thì ở Bạch cũng đã đầy những suy nghĩ tiền hậu bất nhất. Đúng là có lúc Bạch bảo đi chỉ để mà đi, đi để quên nơi vừa đi mà nhớ tới những nơi chưa tới, song chẳng qua đấy là những lúc hứng bất tử lên Bạch nói cho sướng miệng, bởi sau đó ngay giữa sân ga chàng lại rền rẫm lên rằng thật ra nếu đi không mục đích thì buồn lắm, người lãng tử thật sự chỉ đẹp trong những chuyến đi có mục đích trong lành! Bởi biết rõ Bạch chỉ là hóa thân của Nguyễn Tuân nên đọc đến đây, người ta có thể tự hỏi: thế thì trong Nguyễn Tuân giữa con người phóng túng cực đoan với con người biết điều nhạy cảm nghe được từng vui buồn thoáng qua trong một cái nhìn, một giọng nói, và luôn luôn biết tự điều chỉnh cho hợp với chung quanh, đâu là con người chân thực? Thưa: Nguyễn Tuân là cả hai con người ấy cộng lại, Nguyễn Tuân là cả sự thái quá, lẫn sự do dự của Bạch. Cái sợi dây làm nên mối quan hệ của Nguyễn Tuân với hoàn cảnh quanh ông thật dài, thật quanh co, nhưng bao giờ cũng là có, những chàng Nguyễn chàng Bạch của ông chưa bao giờ bứt ra khỏi nó, ngược lại phải nhận nó đã là một bộ phận của con người ông, đến mức thiếu nó đi, ông lại cảm thấy trống vắng. Chính cái cách quan hệ của Nguyễn Tuân với chung quanh như thế này sẽ là một nét tính cách đặc sắc quán xuyến trong con người ông, nó khiến cho nhà văn thường xuyên đầu hàng, do dự nhưng cũng chính nhờ có nó mà ông có chút gì đó gần với mọi người, và từ sau 1945 trở đi, trong một hoàn cảnh xã hội đổi khác, thì ông lại có thể trở thành một người viết văn cho khắp cả bạn đọc đông đảo, và bên cạnh đó, trong một thời gian dài, là một cán bộ văn nghệ vững chãi. Nhưng đấy là chuyện về sau. Trước mắt đặt trong hoàn cảnh văn chương tiền chiến, người ta thấy Nguyễn Tuân trong Tùy bút cũng như trong Quê hương đã đi được khá xa trong việc miêu tả con người đương thời. Bản thân ông là một hợp thể quy tụ khá nhiều ảnh hưởng. Và muốn lý giải con người ông được thấu đáo, không thể không viện dẫn đến những chuẩn mực văn hóa mà ông đã tiếp nhận.
VI- DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA VĂN HÓA
Sau các tập Tùy bút I và II và truyện dài Quê hương, Nguyễn Tuân còn tự trình bày về mình trong một sáng tác gần một trăm trang lúc đầu gọi là tiểu thuyết, sau chỉ để trống, thực chất cũng là một tùy bút kéo dài, ấy là Nhà Nguyễn. Như tên gọi của nó đã chỉ rõ, tác phẩm này dành để nói cuộc quay trở về của đứa con lưu lạc. Song, cái chuyện làm nhà ở đây, chỉ là một cái cớ để Nguyễn Tuân phác ra cái khung cho câu chuyện dễ theo dõi. Phần hấp dẫn nhất của Nhà Nguyễn là những đoạn Nguyễn Tuân trình bày một số nhận xét ngang ngược về người đời (như đoạn văn nổi tiếng giễu những kẻ ấm đầu chỉ thích được khen là có tài). Và điều thú vị hơn là ở cái hướng phát triển của tình thế: mặc dù đến cuối tác phẩm, nhân vật Nguyễn, có trở thành chủ nhân chính thức của ngôi nhà nhưng sự thực là chàng chẳng hề mang vợ con về đó sum họp và cuối cùng thì cái cơ ngơi mới được làm đó, lại sử dụng phí hoài là mang cho thuê. Còn nhớ, khi bắt buộc Nguyễn làm nhà, ông Tú Quán, thân sinh ra Nguyễn, đã đi tới một nhận định khá cơ bản về người con trai “thường  sống một cách vô thường ngoài gia đình”, ông Tú “biết rằng mình vốn sinh ra nó nhưng thời đại mới chính là người định cho nó tất cả những tính nết kia”. Cái mà ông Tú kêu bằng thời đại ở đây, chính là lối sống mới, cách sống mới, sản phẩm của một nền văn hóa đang ồ ạt gây ảnh hưởng hồi ấy: văn hóa phương Tây. Khi đã buộc được Nguyễn trở về làm nhà, tức ông Tú đã qua mặt được thời đại, buộc thời đại phải khuất phục trước những truyền thống. Ngược lại, trong cái việc Nguyễn mặc xác cái nhà mới làm vẫn tiếp tục sống dông dài, lại có thể đọc ra một thông điệp ngược lại: cuối cùng thì nền nếp lại ở vào thế thất bại, không đủ sức đóng cương vào con ngựa đã đi hoang ấy nữa. Và gộp cả Quê hương lẫn Nhà Nguyễn lại, đã có thể rút ra một sơ đồ nhất quán về nhân vật chính trong Nguyễn Tuân: Luôn luôn tâm hồn chàng là bãi chiến trường, ở đó, hai khuynh hướng văn hóa trái ngược giao chiến với nhau, cuộc giao chiến ấy mãi mãi kịch liệt, tuy rằng phần thắng lợi bao giờ cũng thuộc về cái nền văn hóa đã hình thành nên trong lịch sử lâu dài của xứ sở, và đã hóa thành phần vô thức trong mỗi con người. Khi cái con người rất mực cá nhân chủ nghĩa ấy đã phải thống thiết mà kêu lên rằng “cái thân của mình đã không hẳn là của mình” tức chàng đã “tự đánh dấu” về cái nguồn gốc văn hóa sâu xa mà chàng hấp thụ từ nhỏ, còn cái khao khát tự do mà chàng học được ở phía trời tây chỉ là nằm ngoài tay với. Có điều lý do của sự dằng xé và bất lực của Bạch không phải nằm ở nhân cách chàng, mà xem ra là ở mối quan hệ phức tạp giữa kẻ trí thức này với hoàn cảnh, và suy cho cùng, trong sự đa đoan rắc rối của chính hoàn cảnh. Có lúc, hai nền văn hóa Đông và Tây đã gặp nhau, đã có một cuộc hôn phối tốt đẹp để rồi tạo nên một thứ con lai khỏe mạnh, kết hợp nhuần nhị những ưu thế của mỗi bên. Song suy cho cùng giữa hai nền văn hóa xa lạ, vẫn chưa bao giờ có sự đồng nhất hoàn toàn, và những cá nhân đi tiên phong trong việc du nhập cái mới lạ của phương Tây vào với cái xã hội đậm chất phương Đông này, sẽ chỉ trở thành vật hy sinh cho những thể nghiệm phiêu lưu của họ. Không phải ngẫu nhiên, thoạt kỳ thủy, khi mới đăng báo, cuốn truyện có số trang dày dặn nhất này của Nguyễn Tuân, lại có cái tên là Thiếu quê hương. Quê hương đây không phải chỉ là bạn bè, gia đình, nhà cửa, quê hương đây, nên được hiểu là cả cái hoàn cảnh rộng rãi, nó cho phép cả những cá tính độc đáo nhất có dịp nảy nở. Nếu thiếu đi một hoàn cảnh cởi mở như thế tức không có một trường hoạt động khác đi về chất, thì mọi sự đổi mới và du nhập ảnh hưởng qua những tính cách lẻ tẻ rút cục trong chừng mực nào đó đều dẫn tới bi kịch. Và cái bi kịch đầu tiên ở một người quyết liệt như Nguyễn Tuân chính là là một sự dang dở. Nguyễn không bao giờ đi đến cùng trên con đường đã lựa chọn. Nguyễn nửa đường đứt gánh. Hiềm một nỗi nhìn cho rộng ra thì thấy tác giả Quê hương đâu có đơn độc trong sự dang dở đó. Người ta kể rằng W.Faulkner và M.Proust là hai nhà văn lớn có nhiều đóng góp vào việc hiện đại hóa văn xuôi. Tuy nhiên, đó là một người Mỹ, và một người Pháp. Cốt cách hai dân tộc này khác hẳn nhau, nên hai nhà văn lớn và có nhiều nét gần gũi trong tìm tòi cũng khác hẳn nhau. Nói như Sartre: “Faulkner là một gã tuyệt vọng và chính bởi y tuyệt vọng nên y liều, y đi đến cùng trong mọi suy tưởng của mình. Proust là một tay cổ điển và một người Pháp: bọn Pháp chỉ liều mình một cách tạm bợ và thế nào cũng tỉnh táo trở lại” (1).  Một sự biết điều lắm khi hóa ra nửa vời luôn luôn chi phối Nguyễn Tuân cũng có những lý do tương tự: Trước sau, ông vẫn là một hiện tượng của dân tộc này, ông thuộc về cái xứ sở chôn rau cắt rốn của ông chứ không thể và không bao giờ là một hiện tượng ngoại nhập! Vả chăng bao giờ cũng vậy, sự phân định ảnh hưởng không có nghĩa là đánh giá, trong nghệ thuật mỗi sắc độ có thể có một vẻ đẹp riêng, chỉ cần một ngòi bút biết mình ở vào sắc độ nào rồi tự tìm tòi, tự khai khai thác, để chín đẹp trong cái - sắc độ vốn có, ngòi bút ấy sẽ có được những sáng tác độc đáo không gì có thể thay thế. Quê hương chính là một trường hợp như thế. Sự dây dưa tình nghĩa có gây ra một chút nửa vời trong nhân vật Bạch, song về trấu trúc mà xét, chính nó làm nên đường mối chính của cuốn tiểu thuyết. Phải nhận Nguyễn Tuân đã thực là tài, khi, chỉ dựa vào sự dùng dằng lui tới của Bạch, mà đã kéo được liền liền mấy trăm trang sách, trong đó có những trang rất đẹp, và rất thực nữa. Người đọc Quê hương thường không bao giờ quên những đoạn Nguyễn Tuân tả một đêm gió ở vùng mỏ, hoặc những buổi chia tay ở sân ga, hoặc khung cảnh một huyện miền núi Thanh Hóa. Dưới con mắt của Bạch, nhiều vùng quê nổi tiếng trong đó có Hải Phòng, Vàng Danh, Uông Bí… hiện ra sinh động lạ lùng. Hóa ra, không ít thành kiến về Nguyễn Tuân xưa nay là lầm, con mắt ông không chỉ có màu khinh bạc, mà thực ra, là một cái nhìn quyến luyến với người, tha thiết với cảnh, kèm theo đó, là những ý nghĩ chân thành muốn cho chung quanh ngày một đẹp hơn, tốt hơn. Ngày nay đọc lại, bạn đọc rộng lượng sẽ hiểu cho rằng chính những trang viết tình nghĩa này lại trở thành chiếc neo gắn bó mọi văn phẩm của Nguyễn Tuân với quê hương.
Ghi chú về văn bản
1/ Quê hương, truyện dài của Nguyễn Tuân, thoạt đầu được gọi là Thiếu quê hương và in nhiều kỳ liên tiếp, tên báo Hà Nội tân văn, từ 2-1-1940 trở đi (tờ báo này do Vũ Ngọc Phan “lo phần bài vở” thực tế cũng là một thứ chủ bút). Đến năm 1943, cuốn truyện được nhà xuất bản Anh Hoa cho in thành sách, song lại chỉ mang tên Quê hương (bỏ chữ thiếu). Các nhà nghiên cứu văn học thành thạo về giai đoạn này cho biết Nha kiểm duyệt bỏ chữ  thiếu cho khỏi “sái”, mọi tác phẩm ra đời lúc này phải phù hợp với tinh thần “Cần lao, gia đình, Tổ quốc” của chính quyền Pháp lúc đó  do thống chế Pétain đứng đầu.
2/ Trước 1975, Quê hương từng được nhà xuất bản Trường Sơn ở Sài Gòn in lại, nhưng bản Trường Sơn này chỉ gồm 20 chương đầu của cuốn sách, từ chương XXI trở đi bỏ hẳn, không rõ tại sao. Bản Trường Sơn này cũng không có lời đề từ Nguyễn Tuân đặt ở đầu sách (“… Nhưng mà, ở đây, giờ biết nên gửi tặng ai?” - Ng. T.) mà chỉ có câu của Paul Morand. Trong bản in lần này chúng tôi khôi phục, như bản Anh Hoa Song theo Tuyển tập Nguyễn Tuân (1982) cho biết, thì so với báo, bản in Anh Hoa vẫn thiếu chương cuối. Có điều, ở Thư viện Quốc gia gần đây chúng tôi hỏi mượn Hà Nội tân văn 1940 nhiều lần mà không được, có lẽ là báo đã bị thất lạc, rất mong các nhà nghiên cứu khác tiếp tục sưu tầm văn bản bổ sung.
TÊN TUỔI CÒN MÃI VỚI THỂ TÙY BÚT
I. MỘT BỘ PHẬN TRONG VĂN NGHIỆP
Mỗi khi muốn khen một nhà văn có tài và độc đáo, người ta thường nói rằng ông ta có những tư tưởng riêng để theo đuổi và đào sâu, ông ta biết “đẻ ra” những nhân vật có khả năng vượt qua cái mỏng mảnh của trang giấy để trà trộn vào đám người đang sống; chẳng những thế, nhiều khi cái tên riêng được đặt cho các nhân vật vừa được nhà văn sáng tạo trở thành tên chung dùng để gọi những người đời có tính cách tương tự.
Trong chừng mực nào đó, Nguyễn Tuân là một nhà văn ngay từ dăm bảy năm bắt đầu làm  nghề tức là thuở tiền chiến đã đạt tới cái chuẩn đó của nghề nghiệp. Tư tưởng khinh bạc, chán đời, sớm thấm thía trong các tác phẩm đầu tay của ông và ngày càng được ông đẩy mãi lên. Còn như về mặt nhân vật, thì tuy tác giả không đưa ra được nhiều bộ mặt khác nhau như một Vũ Trọng Phụng, một Khái Hưng.. song nhân vật mang nhiều tính cách tự truyện của ông (dù được gọi là Nguyễn, là Bạch hay gì gì nữa) , vẫn là một tính cách “trộn không lẫn”, nhắm mắt lại nhiều người vẫn hình dung ngay được cốt cách cái con người tài tả thường xuyên đi lại trên trang sách. Và nếu không xấu hổ, người ta phải mạnh dạn mà nói rằng, nhân vật Nguyễn không xa lạ với những người bình thường; trong mỗi chúng ta không ít thì nhiều, đều có những mày nét, những khía cạnh của chàng Nguyễn: nhiều ý tưởng nhiều cảm giác của chàng, là những điều chính chúng ta đôi lúc cũng cảm thấy, chẳng qua, ta lẩn tránh, không dám công nhận, càng không muốn trình ra trước mọi người rằng ta cũng nghĩ cũng cảm như thế.
Một phương diện nữa cho thấy sự chín đẹp của văn tài Nguyễn Tuân là những cống hiến của ông trên phương diện thể loại. Trước sau Nguyễn Tuân sống chết với thể tùy bút. Một người đọc bình thường cũng dễ dàng cảm thấy rằng những tùy bút của ông có một khí hậu riêng, ở đó có một giọng điệu bao trùm, khiến nhiều bài viết, bịt tên tác giả đi, người ta vẫn biết chắc rằng phi ông Nguyễn ra, không ai viết nổi. Trong sự hình thành và cái cách tồn tại riêng của nó, tùy bút in dấu con người Nguyễn Tuân - nó không phải chỉ là một thứ hình thức thuần túy mà trở nên một bộ phận của nội dung, tức đã là một phần những thông điệp mà ông gửi tới bạn đọc.
II. NHỮNG LIÊN HỆ LỊCH SỬ
Do những nguyên cớ khác nhau, và trước tiên, do những hạn chế ngặt nghèo đối với sự tự do của người nghệ sĩ, nền văn xuôi trung cổ Việt Nam chưa thể biết tới thể tùy bút, như ngày nay con người hiện đại quan niệm. Thuở vua Lê chúa Trịnh, tức những năm tháng hỗn loạn của chế độ phong kiến, cũng đã có một cuốn sách mang tên Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ ra đời, nhưng chữ tùy bút ở đây, không phải là để chỉ thể loại của tác phẩm mà là có liên quan tới cách viết cũng là cái phóng túng trong công việc cầm bút. Vả chăng, đọc vào thì thấy đấy là một thứ ghi chép của nhà nho nghèo nhân quan sát sự đời mà tìm cách ghi lại để các thế hệ sau cùng biết, chứ cái phần thấy đậm gắt ở tùy bút Nguyễn Tuân là chất chủ quan của nhà văn, cái đó ở Vũ trung tùy bút không có.
Bước sang thế kỷ XX, cùng với việc xây dựng lại toàn bộ nền văn học theo hướng Âu hóa, thì hệ thống thể loại văn xuôi cũng thay đổi. Nhìn vào tiểu thuyết chẳng hạn, người ta nhận ra một sự điều chỉnh đi dần tới hợp ý, tức là từ chỗ ban đầu chỉ có những “đoản thiên“, mà còn mang nặng chất truyện kể dân gian, dần dà hình thành nên những “truyện vừa“ (tức “trung thiên tiểu thuyết“) mang đậm dấu ấn của thể tài. Trong ý niệm của nhà văn và độc giả đương thời, tiểu thuyết là những cuốn văn xuôi kể chuyện vài trăm trang, với bút pháp dựng người dựng cảnh hiện đại; còn với những đoản thiên hôm qua, dù là có cách viết khác đi, người ta đã có một tên gọi khá đích đáng là truyện ngắn.
Thế còn cái thể tài vốn có từ lâu và khá đa dạng là thể ký thì sao?
Với Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác, Pháp du hành trình nhật ký và Một tháng ở Nam Kỳ, cùng Mười ngày ở Huế của Phạm Quỳnh, thể du ký đã sớm định hình. Đó là giai đoạn từ 1932 về trước. Kế đó, từ sau 1932, ở vào giai đoạn phát triển đầy đặn của văn học tiền chiến, thì một thể ký khác lại được ưa chuộng, và đã tạo nên những mẫu mực, ấy là phóng sự. Tung hoành trên nhiều tờ báo, một cây bút văn xuôi xuất sắc như Vũ Trọng Phụng đã có lúc được mệnh danh là vua phóng sự. Và đó là một sự vinh thăng xứng đáng: các tác phẩm nổi tiếng của ông như Cơm thày cơm cô, Cạm bẫy người chẳng những có nội dung xã hội bao quát, mà cũng còn là những thành tựu xuất sắc, đẩy tới sự hoàn chỉnh của thể loại. Có điều bản thân cái gọi là thể ký cũng là của một không gian rộng rãi, sau những thể tài nghiêng về sự ghi chép khách quan như du ký, phóng sự nói trên, cũng ngày càng nổi lên cái nhu cầu của cả người viết lẫn người đọc đối với những thể tài mà ở đó, cái phần chủ quan của người viết hằn rõ, khiến cho sự phản ánh khách quan quanh co hơn, qua sự khúc xạ rắc rối hơn, song lại mang tới niềm vui kỳ lạ cho bạn đọc. Tùy bút của Nguyễn Tuân ra đời trong hoàn cảnh đó. Trong bộ Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965) Phạm Thế Ngũ ở Sài Gòn cũ đã nói rất rõ: “Thật ra những tác phẩm của Nguyễn Tuân cũng chỉ xuất nhập lối đoản thiên, có nhiều tính cách ký sự. Duy có điều là ký sự của ông không phải như ở giai đoạn Nam Phong, một bước tập tành để tiến vào tiểu thuyết mà là đại biểu cho một giai đoạn già dặn, khi người ta đã chán những câu chuyện khuôn sáo, nhạt nhẽo và muốn phá vỡ để tự do, tùy bút, viết gì thì viết, ghi chép gì cũng được”. Vậy là tùy bút của Nguyễn Tuân có những liên hệ lịch sử của nó với sự phát triển của tư duy văn xuôi đương thời. Giới nghiên cứu văn học đã nhiều lần lưu ý mối quan hệ giữa Tản Đà và Nguyễn Tuân về cái chất lãng tử của người cầm bút, sự lịch duyệt, sự am hiểu văn hóa phương Đông cùng cảm quan tinh tế về cái đẹp bộc lộ qua các trang viết. Nhưng cũng nên nói thêm là trong trường văn trận bút đầu thế kỷ, khi mà nền quốc văn mới chỉ vừa được thành lập, Tản Đà cũng là ngòi bút thể nghiệm nhiều trên lĩnh vực văn xuôi, và ngoài những cuốn tiểu thuyết viết còn non nớt, hình như ông rất muốn tìm tới một thể tài mà ở đó, con người tài tử nơi ông có dịp hiện ra đầy đủ. Những mong mỏi của Tản Đà sẽ được Nguyễn Tuân tìm cách thể hiện trong những điều kiện thời đại cho phép. Tùy bút Nguyễn Tuân, ở phương điện này, chính là sự kéo dài của tản văn Tản Đà, đến một trình độ mà Tản Đà chưa thể nghĩ tới.
III. TÍNH CÁCH BỘT PHÁT CỦA SỰ KHAI PHÁ
Nói rằng sự hình thành của một dạng tùy bút độc đáo như tùy bút Nguyễn Tuân tất yếu sẽ phải xảy ra, là xét trên nguyên tắc. Còn trong thực tế, ở đây phải để ý tới những yếu tố tự phát ngẫu nhiên nó là chất men khiến cho sự sáng tạo vụt trở nên có một chút gì bất ngờ không tính trước.
Nguyên là ngay vào thời kỳ viết Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân viết hàng loạt tác phẩm trên Tao Đàn, Trung Bắc chủ nhật sau này làm nên Tùy bút I và Tùy bút II. Người ta có thể đặt câu hỏi: hai chữ tùy bút ông Nguyễn viết ở đây, là để chỉ cái gì? Chỉ thể loại của các tác phẩm mình sẽ in, như giờ đây, chúng ta bắt gặp ở một số bìa sách (Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Tạp văn Lỗ Tấn)? Hay ông chỉ muốn lưu ý rằng tác phẩm của mình là do tùy hứng viết ra? Đây là câu hỏi mà chỉ tác giả mới trả lời được, nhưng theo sự cảm nhận riêng của chúng tôi thì có lẽ là nghiêng về khả năng thứ hai. Tại sao? Ở đây, chúng ta có thể cùng nhớ lại một đặc điểm chung của sự sáng tạo văn chương ở Việt Nam là các nghệ sĩ mải làm, hơn là lo tuyên ngôn về công việc mình sẽ phải làm. Và với một người có cảm quan nghệ sĩ sâu sắc, mà cũng là người ham chơi và thường biến công việc thành trò chơi như ông Nguyễn, thì cái việc “chưa đẻ đã đặt tên”, hẳn là không mấy thích thú. Thành thử có một sự thực ai cũng thấy là ông đã bỏ lửng không xác định thể loại tác phẩm của mình, trong hàng loạt trường hợp , kể cả những bài lẻ đăng báo lẫn cả cuốn sách. Ví dụ giờ đây, hầu hết các tài liệu nghiên cứu, kể cả Tuyển tập Nguyễn Tuân (1982) đều chua rõ thể tài của Chiếc lư đồng mắt cua là tùy bút. Song chắc là do căn cứ vào một câu trong tập sách mà bảo vậy (“Có lẽ tập vở này cũng lại chỉ là những trang tùy bút chép lại một ít tâm trạng tôi trong những ngày phóng túng hình hài”). Còn bản in đầu tiên mà chúng tôi có trong tay, - cũng là bản duy nhất sinh thời Nguyễn Tuân được nhìn thấy - thì không đề gì cả. Một trường hợp gần đây hơn, cuốn Sông Đà, cũng ở vào tình trạng tương tự. Chỉ vì bởi lẽ, Nguyễn Tuân đã hóa thân hoàn toàn vào thể tùy bút, viết gì cũng ra tùy bút, cho nên người ta mới không ngần ngại xác định thể loại cho những trường hợp tự ông đã tảng lờ, không muốn gọi rõ. Nếu chúng tôi không nhầm thì đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, một nhà văn đã bắt tay vào làm công việc “khai sơn phá thạch” cho một thể tài mà trước mình không có, nhưng khi thể tài đã định hình rồi, thì ai cũng cảm thấy là trong “đội hình” của các thể văn xuôi nói chung không thể thiếu nó, và phải có nó, thì một loại nhà văn đặc biệt nào đó mới có dịp phô diễn hết tài năng cùng những độc đáo của ngòi bút, để cống hiến cho đời những hoa thơm trái ngọt, tức là những trang văn hay chắt ra từ kinh lịch từng trải và cốt cách của bản thân. Giờ đây, nhìn vào bất cứ cuốn từ điển thuật ngữ hoặc nói chung là bất cứ cuốn lịch sử văn học nào, hễ cứ nói đến tùy bút, là người ta phải nhắc đến Nguyễn Tuân. Và đó là điều tự nhiên, là phù hợp với sự thực lịch sử. Nguyễn Tuân xứng đáng được như vậy. Qua mối quan hệ giữa Nguyễn Tuân và tùy bút, người ta có thể đi tới một kết luận chắc chắn:
Với một nhà văn chân chính có tiềm năng sáng tạo thực sự, những quy phạm về thể loại mà các thế hệ trước để lại, chỉ là những điểm xuất phát. Rồi thế nào cái ngòi bút đầy bản lĩnh kia cũng phải tìm cách bớt đi một chút gì đó, thêm vào một chút gì đó, để góp phần làm mới cái thể tài mà người ấy đã sử dụng. Và lịch sử văn học cứ thế mà tiến tới.
IV. "NGƯỜI ẤY PHẢI CÓ THỂ TÀI ẤY"
Cái khó đầu tiên, mà nhiều người viết văn xuôi thường nhận xét khi nói về tùy bút, là ở tính chất quá tự do của nó. Quả thật là trong lịch sử văn học, không mấy ai đứng được với cái thể văn mà từ tên gọi đã toát ra tùy hứng tùy tiện ấy. Viết một hai bài thì thấy cũng hay hay, nhưng sống cả đời thì không dám. Ngay một bài tùy bút vài ngàn chữ cũng đã là quá mênh mông với người không quen thuộc. Nó làm người ta mất mặt như chơi. Nó rất kén tác giả. Ấy vậy mà tên tuổi Nguyễn Tuân lại gắn với mảnh đất đáng gọi là tử địa ấy. Ông là nhà tùy bút số một của văn học Việt Nam hiện đại; sau ông người ta mới gượng gạo nhắc tới một vài tên tuổi khác cũng có đôi ba phen thử sức trong nghề - ấy là sau khi họ đã phải vượt qua con đường khốn khó, hai bên là hai cái vực: hoặc là viết giống Nguyễn Tuân; hoặc không phải tùy bút.
Tại sao tùy bút lại gần như trùng khít với tên tuổi Nguyễn Tuân đến thế?
Trong bài viết ở phần thứ nhất của cuốn sách này chúng tôi đã lưu ý, thuở Nguyễn Tuân bước vào văn đàn, trong xã hội Việt Nam bắt đầu xuất hiện những con người mới. Họ không phải con người trung cổ đã quen thấy mấy thế kỷ trước, mà cũng không phải con người dở Tây dở ta thuở giao thời. Họ là những nhân cách hiện đại, với đúng nghĩa sang trọng của mấy chữ này. Ở họ, người ta chứng kiến sự hội tụ những ảnh hưởng tốt lành lấy từ cả hai nền văn hóa Đông Tây. Trình độ sống, trình độ làm người của họ được nâng lên đến một tầm vóc mới, mà biểu hiện tập trung là một quan niệm khác đi về tự do. Đó không phải là thứ tự do nông nổi, gặp đâu hay đấy, buông thả càn rỡ - gắn liền với một sự tầm thường về văn hóa - mà là một thứ tự do chân chính, muốn vượt ra ngoài lối mòn của thói tục, nhưng vẫn giữ được truyền thống xa xưa, muốn sống hết mọi vui buồn của con người bình thường trên mặt đất này, nhưng vẫn không thôi bám rễ vào mảnh đất của quê hương xứ sở.
Chính Nguyễn Tuân là một tay cự phách trong bọn người có cốt cách hiện đại đó. Và quả thật cái chủ quan của ông may ra có tùy bút là chịu được. Ông không chỉ viết bằng sự quan sát mà muốn phô bày cả mảng kiến văn ngồn ngộn lấy từ văn hóa cổ kim ư? Thể tùy bút sẵn sàng cho phép! Ông muốn chứng tỏ rằng mình yêu những ý tưởng, những suy nghĩ của mình hơn mọi thứ trên đời và được nói ra trực tiếp, chứ không muốn gửi vào miệng các nhân vật, tức không cần hóa thân thành anh Giáp anh Ất nào hết? Thì tùy bút cũng chỉ chờ có thế! Cũng như mọi nghề khác, nghề văn cần nhất ở người ta một sự biết người biết mình, một sự dũng cảm dám là mình, kèm theo đó là một sự tự tin, tin rằng mình có ích cho đời nay ở sự đơn nhất, độc đáo mà không ai lặp lại nổi. Bấy nhiêu yêu cầu vốn đặt ra với mọi thể văn, nhưng có lẽ ở tùy bút, nó trở nên trực tiếp nhất, và phải một nhân cách vững chắc, vừa giàu có vừa thuần nhất, vừa ngang ngược vừa biết điều như Nguyễn Tuân mới đi hết những ranh giới vốn rất co dãn của nó. Khi  đã có sự “đồng thanh tương ứng” đến thế, sự gặp gỡ giữa ông và cái thể văn xuôi phóng túng ấy trở nên một cuộc hẹn hò tự nhiên, và ngày càng đằm thắm. Giá kể vào tay người khác, một bài bút ký nói về Cửa Đại, sẽ chỉ gồm một ít trang tả cảnh, giỏi lắm là thêm một ít xúc động. Đằng này, Nguyễn Tuân lại thêm vào đó, một ít chi tiết có liên quan đến gia đình riêng, khiến cho cái khung cảnh sơn thủy kia không phải chỉ là đối tượng được ông mô tả, mà đã trở thành một bộ phận cuộc sống nơi ông, và thiên tùy bút rút lại, giống như một câu chuyện thân mật. Nếu như Được ốm nói rất tài về một tâm sự ngược đời, thì Những ngày Thanh Hóa, có quá nhiều sắc thái riêng tư, và chỉ nhớ rằng ai cũng có một xứ sở gọi là quê hương của mình, người ta mới giải thích được cái hứng thú đọc nó đến cùng. Nhân chuyện có mấy cái cà-vát mà khái quát lên cả một tính cách một cách sống, đã là một tài nghệ mà ai chẳng ao ước (Cái cà vát đen). Song nhân đi một chuyến xe, mà trình bày được một quan niệm về cái đẹp, thì lại phải một bậc thày như ông Nguyễn mới làm nổi (Chuyến xe tình). Có cảm tưởng như trong tay nhà văn này, tùy bút như không còn phép tắc luật lệ gì hết, mà hoàn toàn phó mặc cho sự điều khiển của ông, ấy vậy mà nó cứ hiện lên lung linh sinh động. “Viết như chơi như bời, mà văn chương vẫn như mây như sóng” “tất cả trở thành một khêu gợi, lấp lánh, huyền ảo” - những gì mà Nguyễn Khải bàn chung về sự thăng hoa của ngòi bút, có thể mang áp dụng hoàn toàn cho các sáng tác của Nguyễn Tuân trong Tùy bút I, Tùy bút II, cũng như Nguyễn, mà không có gì gò gẫm cả.
V. SỰ THỐNG NHẤT CHỦ QUAN VÀ KHÁCH QUAN
Từ điển bách khoa văn học của Liên Xô trước đây định nghĩa:
“Tùy bút (essai - tiếng Pháp) là tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ và có cấu trúc tự do, biểu thị những ấn tượng và suy nghĩ cá nhân về những sự việc, những vấn đề cụ thể và hoàn toàn không tính tới việc đưa ra cách giải thích cố định và đầy đủ về đối tượng.”
Trong một cuốn từ điển khác, người ta còn nói rõ thêm: “Được gọi là tùy bút, là những tác phẩm mà ở đó nổi lên trên bình diện thứ nhất những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo của riêng mình,  những người thích tự biểu hiện, tự phân tích, đồng thời là những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt chẽ như châm ngôn - những người đó mới đi vào tùy bút”.
Những định nghĩa nói trên gặp nhau ở một điểm: biện hộ cho tính chất chủ quan đầy rẫy trong các tùy bút, chẳng những thế cho rằng phải chủ quan mới ra tùy bút. Có thể là Nguyễn Tuân không đọc, mà cũng không biết tới những định nghĩa ấy nữa, song tác phẩm của ông, là một thứ minh họa tốt nhất cho chúng. Một người tò mò chỉ đọc tùy bút, rồi chắp nối những đoạn mà ông đã nói về mình đây đó, cũng đủ hình dung ra diện mạo con người ông. Không một chi tiết quan trọng nào liên quan đến bản thân bị ông bỏ qua, ông đã chi chút nhận xét ghi chép về mình một cách kỹ càng, khiến bất cứ ai muốn biết về ông, không còn điểm gì để than phiền nữa.
Thế có phải tác phẩm của Nguyễn Tuân chỉ còn một sắc thái duy nhất là tính cách chủ quan của nó? Không, không hẳn như vậy! Về lý thuyết mà xét, không có cái chủ quan nào của nhà văn là thuần túy. Ngược trở lại, cái chủ quan nào cũng là một sản phẩm khách quan. Có thể cái chủ quan ấy không trùng hợp với cái khách quan mà số đông vẫn hiểu, song trong cái vẻ đơn nhất và độc đáo của nó, hiện tượng chủ quan kia vẫn chỉ là một giống cây lạ mọc trên mặt đất, dù lạ lẫm đến mấy nó vẫn là “một phát ngôn“ của cái mặt đất từ đó nó tìm lấy sức sống. Về phía người nghiên cứu, nhiệm vụ đặt ra lúc này là tìm ra mối liên hệ giữa nó với hoàn cảnh, và nếu như công việc tìm tòi là khó khăn, thì trong khi làm, người ta lại có được nhiều thú vị.
Những nguyên lý này cũng đúng khi nhìn sâu vào trường hợp Nguyễn Tuân với con người được ông tập trung miêu tả trong các tùy bút. Trên đại thể đã có thể thấy: hình ảnh chàng Nguyễn với tất cả cái rắc rối, phức tạp, cả sự cực đoan lẫn những nóng lạnh khôn lường được bộc lộ, có vẻ như lạ lùng lập dị, song suy cho cùng đấy vẫn là một sản phẩm mà chỉ những năm cuối ba mươi, đầu bốn mươi của thế kỷ XX mới có. Từ những nhân vật tương đối đơn giản “thẳng như lòng súng, rắn như hòn đạn” (chữ lấy trong truyện ngắn Lập gioòng) của Nguyễn Công Hoan, đến những nhân vật đường viền không rõ rệt của Nguyễn Tuân, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX đã tự chứng tỏ ở nó có sự biến chuyển vừa mau lẹ, vừa chắc chắn. Và đó là một sự biến đổi hợp quy luật. Vả chăng, nói rằng Nguyễn Tuân chỉ say mê chính mình là đúng, nhưng ông đâu phải loại người nhắm mắt mà sống, ngược lại cái tôi của ông luôn luôn mài sắc năm giác quan để tận hưởng mọi hình ảnh ở chung quanh. Đọc nhiều tùy bút cũng như các truyện ngắn truyện vừa mang tính tùy bút của ông, thấy cái mà tác giả muốn mang ra khoe để chứng tỏ là mình hơn đời, không phải chỉ là chính ông, mà còn là khả năng nhận xét tinh tường, sự thẩm thấu đời sống sâu sắc. Nếu như ở Đôi tri kỷ gượng, Nguyễn Tuân đưa ra những mẫu mực khó quên về loại người nhạt nhẽo bằng phẳng thì đến Nhà Nguyễn, ông lại có đoạn tả rất hay về kẻ bất tài, nhất là khi cái thứ bất tài này lại đá tí học đòi huênh hoang (Vũ Ngọc Phan đã cho rằng so với những trang của La Bruyère trong Những tính cách, cũng không có gì thua kém). Có thể là so với nhiều nhà văn khác ở Nguyễn Tuân, người ta thấy bức tranh đời không được rộng lớn. Nhưng để bù lại, biết cái gì là ông biết đến nơi đến chốn. Giả sử như giờ đây, có một ai đó muốn tìm hiểu cuộc sống của lớp trí thức thành thị, nhất là cánh ký giả viết văn viết báo đương thời xem họ ăn gì chơi gì, đọc ra sao, hưởng thụ ra sao - tôi nghĩ nhất thiết người ấy phải đọc lại một số trang viết của ông Nguyễn. Ấy là không kể bao nhiêu trang tả cảnh tài tình mà Nguyễn Tuân đã cống hiến cho bạn đọc từ cảnh Hà Nội tập phòng không hồi 1939-45 (Những ngọn đèn xanh…) cảnh đi thuyền trên sông rồi men theo biển, ngược từ Thanh Hóa ra các tỉnh đồng bằng sông Hồng (Chiếc va ly mới). Óc quan sát thấu đáo, cộng với thói quen cái gì cũng muốn biết tường tận, biết từ sách vở người xưa đến sự mục sở thị riêng tư, cộng với một thói quen khi về già sẽ được đẩy mãi lên, là thích thống kê, thích đếm, thích nói đến số lượng - bấy nhiêu cách làm việc sẽ khiến cho văn phẩm của Nguyễn Tuân đôi khi còn mang rõ tính cách khảo cứu là một đặc tính còn thiếu trong văn chương ta. Hóa ra, câu chuyện chủ quan của tùy bút Nguyễn Tuân chẳng qua là một cách nói có ý nghĩa tương đối. Nếu không công nhận với nhau ngay từ các tùy bút viết trước 1945, ngòi bút Nguyễn Tuân vẫn có nhân tố khách quan (khách quan theo kiểu riêng của ông), làm sao có thể cắt nghĩa được tính cách hướng ngoại của các tác phẩm ông viết sau 1945, như Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, cũng như làm sao cắt nghĩa được cách sống của người cán bộ, người đảng viên Nguyễn Tuân qua hai cuộc kháng chiến?
VI. MỐI QUAN HỆ VỚI TIỂU THUYẾT
Vào cái thuở mà Nguyễn Tuân chính thức bước vào văn đàn, trong nền văn chương Việt Nam, tiểu thuyết có một vai trò khó gì so nổi. Nó là dấu hiệu xác định chất lượng. Một ngòi bút văn xuôi phải có trong tay vài cuốn tiểu thuyết mới được coi là trưởng thành, là thuần thục!
Không rõ những điều đó có ảnh hưởng gì đến tư duy của Nguyễn Tuân trên phương diện thể tài, chỉ biết có một sự thực là cả Đôi tri kỷ gượng lẫn Nhà Nguyễn (hai sáng tác có dài hơi hơn, so với các bài viết thông thường), lúc in ra lần đầu trong các tập Mùa gặt mới I và II (1940 và 1941) đều ghi là tiểu thuyết. ấy là không kể, cái trường hợp duy nhất Nguyễn Tuân viết feuilleton trên Hà Nội tân văn, cuốn Thiếu quê hương mặc dù cả tác giả lẫn nhà xuất bản chỉ gọi là  truyện dài, song trong giới cầm bút, ai không biết truyện dài và tiểu thuyết chỉ là một. Người ta dễ nghĩ rằng một cảm giác “phải lòng phải bề“ tiểu thuyết đã thường trực nơi ông, nó trở đi trở lại không thôi và nhiều khi, ông phải tìm ra những cớ rất vu vơ để lui tới với cái thể tài đang là thời thượng đó. Một ví dụ: để tránh cho người đọc cảm giác đơn điệu, trong các sáng tác đề rõ là tùy bút, Nguyễn Tuân vẫn đổi giọng bằng cách đặt thêm ra nhân vật này nhân vật nọ, và để cho các nhân vật ấy đối đáp với nhau. Có điều, dù yêu nhà văn này bao nhiêu, người ta cũng phải nhận rằng đó là một cách để cho tùy bút đọc đỡ nhàm, chứ chưa thể gọi những sáng tác ấy là tiểu thuyết được. Bởi lẽ, mặc dù ở đó đôi khi cũng có một sườn truyện và một vài nhân vật, song câu chuyện không có lớp lang chặt chẽ, có khi kể đến chỗ hào hứng nhất thì bị bỏ lửng, còn như các nhân vật thì xuất hiện và biến đi khá tùy tiện và phải nhận là họ không có cuộc sống riêng, mà chẳng qua chỉ là cái loa giúp cho sự phát ngôn của tác giả. Có lẽ đây lại là một lý do nữa, để người ta bảo với nhau rằng Nguyễn Tuân sinh ra để viết tùy bút, lai do bản mệnh của ông ở đấy, trong tùy bút, ông tìm thấy mình và mặc dù là một tài năng lớn, nhưng không phải ông làm gì cũng được.
Thế nhưng, đấy là những kết luận rút ra khi người ta tìm cách đối chiếu tác phẩm của Nguyễn Tuân với một quan niệm phổ biến về tiểu thuyết, thứ quan niệm thông thường chi phối sự phát triển thể tài này trong cái thế kỷ rực rỡ của nó, là thế kỷ XIX.
Trong thực tế của sự sáng tạo văn chương, từ thế kỷ XX, chung quanh tiểu thuyết nhiều mưu toan đổi mới đã được theo đuổi, trong đó bên cạnh những người thích tiểu thuyết mở rộng mãi ra trong việc đuổi bắt thực tại (tạm dùng thuật ngữ: hướng ngoại) thì có một loại tiểu thuyết quay về với thế giới bên trong của con người (tiểu thuyết hướng nội). Theo quan niệm này thứ nhất tiểu thuyết không phải là thế giới khách quan thu nhỏ, mà chỉ là thế giới chủ quan của người viết được mô hình hóa, thứ hai, trong cái thế giới có phần khiêm tốn này, nhà văn không phải một thứ thượng đế cái gì cũng biết, thậm chí anh ta cũng không biết mình là gì nữa! Thế thì anh ta còn viết tiểu thuyết sao được? Không, ngược lại, chính vì muốn hiểu thế giới này, và hiểu chính mình, mà anh ta phải viết, và qua trường hợp riêng tư của mình, nhà văn giúp cho người đọc hiểu cả thế giới. Phải chăng theo cách hiểu này tiểu thuyết sẽ được tùy bút hóa? Cũng gần như thế (đây chủ yếu là ý kiến của một số nhà nghiên cứu tiểu thuyết ở Pháp). Để cho khách quan, phải nói ngay rằng hiểu rằng tùy bút nó không phải là hướng phát triển duy nhất của tiểu thuyết hiện đại, song đây là một hướng đi được một số người chấp nhận. Ở một thời mà điện ảnh và vô tuyến truyền hình đang bành trướng và những đêm biểu diễn nhạc pop thu hút đến hàng vài chục ngàn người như hiện nay, tiểu thuyết có bung ra, thì cũng khó lòng theo kịp các phương tiện sinh sau đẻ muộn nói trên, âu là trở về với chỗ mạnh sẵn có là triển khai cái rắc rối của thế giới nội tâm. Nhưng chính ở điểm này, chúng ta có thể không ngần ngại mà nói rằng công phu của Nguyễn Tuân không phải là đổ xuống sông xuống biển tất cả, niềm khao khát thầm kín nơi ông về tiểu thuyết, niềm khao khát ấy là chính đáng, và ông đã phần nào được bù đắp. Không phải ngẫu nhiên, trên một số báo Văn Nghệ cuối 1960, nhà văn Nguyên Ngọc có một bài viết mang tên Cảm tưởng đọc “Sông Đà”,  trong đó, có một câu chốt lại như sau:
“Tôi nghĩ rằng cái đặc trưng của tiểu thuyết là ở chỗ nó làm giàu cuộc sống chúng ta bằng những nhân vật, những người bạn. Sông Đà làm giàu tôi bằng những người bạn mới (…) Vì thế tôi muốn gọi tác phẩm mới ấy của Nguyễn Tuân là một tiểu thuyết.
Không nên ngớ ngẩn mà hiểu mấy câu trên đây của Nguyên Ngọc theo nghĩa đen. Muốn gì thì gì, Sông Đà vẫn là tùy bút, và một nhận xét có vẻ vụt ra như trên chỉ lưu ý chúng ta về một kiểu tư duy trong văn xuôi hiện đại, song nó lại rất cần cho những ai muốn hiểu đóng góp của ông Nguyễn trên phương diện thể tài văn học: hướng đi của ông là một hướng đi có triển vọng.
VII. NGƯỜI BẠN ĐƯỜNG VĨNH VIỄN
Cuộc phiêu lưu của Pinochio là tên gọi một tác phẩm của nhà văn Ý C.Collodi. Câu chuyện có nhiều lớp lang, nhiều tình tiết, song khởi đầu bằng một ý tưởng giản dị như sau: một ông thợ mộc làm ra một con rối để chơi, không ngờ khi hoàn thiện, chú người gỗ ấy biết nói năng trò chuyện, và nhiều lúc cưỡng lại cả cha đẻ ra nó, phải vất vả lắm rồi ông thợ mộc mới rèn giữa được chú bé nên người. Theo chúng tôi hiểu, ở đây, thiên truyện có dính dáng tới một mô-típ phổ biến của nhiều sáng tác văn chương: đó là khả năng kỳ diệu của sự sáng tạo. Khi một sản phẩm được làm bằng tất cả tâm huyết của người lao động, nó không còn là thứ vô tri vô giác nữa, mà trở nên một sinh thể, có cuộc sống riêng.
Trong chừng mực nào đó, thể tùy bút của Nguyễn Tuân sáng tạo nên cũng có số phận giống như chú người gỗ ấy. Nó cũng được nhà văn truyền vào đấy toàn bộ nội lực của mình. Nên cũng có những lúc, nó không “dễ bảo” nữa. Nó đòi hỏi một cách quan hệ tinh tế, “có đi có lại”. Thậm chí, có lúc ông muốn chia tay với nó cũng không được. Nó đã là một bộ phận của con người ông, ông sống với nó, mà cũng chết với nó.
Những gì xảy ra trong đời sáng tác của Nguyễn Tuân những năm sau 1945, làm chứng cho điều đó.
Như các tài liệu liên quan đến tiểu sử Nguyễn Tuân đã ghi rõ, mấy năm 46-47, kể cả khi tiếng súng toàn quốc kháng chiến đã nổ, Nguyễn Tuân đi theo một đoàn kịch biểu diễn khi ở Khu Năm, khi ở Khu Bốn, kết quả của chuyến đi hào hứng này là tập sách Đường vui (1948). Điều dễ hiểu là Đường vui có dáng dấp một tập tùy bút. Cũng dễ hiểu không kém, là tập tùy bút ấy có nhiều nét “ngắm rớt” và đậm sắc thái chủ quan. Trong cuộc tranh luận về nghệ thuật ở Việt Bắc 7-1949, khi bàn đến Đường vui, Nguyên Hồng nhận xét “Anh yêu mình quá, dựng mình lên nhiều quá”; còn một cán bộ văn nghệ khác thì bảo: “Tôi có cảm tưởng là anh đi trên bờ suối, đi trên đường để ngắm cảnh”. Những điều này không phải Nguyễn Tuân không biết, và ông đã khổ tâm vì nó lắm lắm. Trong cơn lúng túng, ông đổ tội cho thể tài. Sau khi nghe mọi người góp ý kiến, phát biểu tại buổi họp, ông bảo: “Nhân nói đến tùy bút, tôi có ý kiến là chúng ta ghi chép tài liệu đã nhiều. Bây giờ là thời kỳ viết tiểu thuyết, đừng viết tùy bút nữa?” Một chỗ khác ông nói rõ hơn: “Người viết tiểu thuyết có điều kiện khách quan hơn. Riêng tôi, ở tùy bút, tôi dễ phóng túng”. Rồi, đúng như đã hứa, một số cuốn sách ra sau Đường vui, như Thắng càn, như Chú Giao làng Seo… đều được ông gọi là tiểu thuyết. Chỉ có một điều hơi phiền: Những tiểu thuyết này không hay. Hơn thế nữa, những người tinh tường nhận ra rằng nó chỉ là tiểu thuyết ở cái vỏ, còn hơi văn, giọng điệu, vẫn là tùy bút. Có lẽ và cũng nhận thấy ra rằng sự thực là như thế, nên năm trong hai năm 1955 -1956,  khi tập hợp những gì đã viết hồi ở Việt Bắc, và mới về Hà Nội, Nguyễn Tuân gọi chung chúng là tùy bút: Tùy bút kháng chiến, Tùy bút kháng chiến hòa bình. Có điều, lịch sử vẫn có sự công bằng của nó. Những năm lăn lộn với thực tế đời sống quần chúng dường như đã nhào nặn lại con người Nguyễn Tuân. Và khi ông trở lại với mình một cách đúng đắn, thì tập sách dày dặn nhất của ông viết sau 1945 - tập Sông Đà, liền được sự khẳng định của bạn bè, và đồng nghiệp, ít ra là về mặt thể tài. Từ đó về sau, Nguyễn Tuân không còn băn khoăn đến câu chuyện này nữa, bản thân ông cũng như chung quanh đều hiểu rằng với ông, tùy bút đã là một phần cuộc đời, nó cũng là một thứ số phận mà bảo rằng ông lựa chọn nó, hay nó lựa chọn ông, đằng nào cũng được. Nhìn lại văn học Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, người viết có tài thì nhiều, trong đó có những ngòi bút tạo ra được một thế giới rộng lớn hơn, và phải nói là có một cái nhìn nhân bản sâu sắc hơn, so với Nguyễn Tuân, song đã mấy ai có được cái thể tài riêng của mình, như ông Nguyễn và thể tùy bút?.
NGUYỄN TUÂN VÀ SỰ ĐỘC ĐÁO TRONG VĂN CHƯƠNG
Ở bất cứ phương diện nào của nghệ thuật ngôn từ, ông cũng khéo léo đặt cái dấu ấn riêng của mình. Trước thứ văn bản “trộn không lẫn” ấy, các loại văn chương không dấu ấn riêng như một thứ gì hạng nhì, hạng ba.
1. Bước đầu: từ bỏ
Lúc mới viết, Nguyễn Tuân cho “trình làng” một thứ văn chương nhang nhác như “xã hội ba đào ký” của Nguyễn Công Hoan, tức là đi vào khắc họa những nét kỳ cục buồn cười của chung quanh. Nhưng rồi đặt vào hoàn cảnh thị trường văn chương đang hình thành, ông cảm thấy không ổn. Phải tìm ra được “mặt hàng riêng” của mình. Có vẻ như ở đây người ta phải dám chơi một tiếng bạc “được ăn cả ngã về không”. Và Nguyễn Tuân đã chấp nhận. Cái cách viết mới le lói hình thành qua vài bài in trên Đông Dương tạp chí của Nguyễn Giang bị ông từ bỏ. Một cuộc phiêu lưu bắt đầu, Nguyễn Tuân “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi vào con đường độc đạo chưa ai đặt chân.
2. Lấy bản thân làm tài liệu
Mọi người dễ nhận ra khi đọc Nguyễn Tuân là ông chỉ viết về chính những gì ông đã sống. Trong khi ở một số người cầm bút đương thời có hiện tượng “sống một đằng viết một nẻo” thì ông mang chuỗi ngày quý báu của mình đang thể nghiệm vào luôn các trang viết. Đọc những bài trong Tùy bút I, Tùy bút II, Nguyễn… người ta không những biết ông gia cảnh thế này, dòng dõi thế kia, mà còn được biết thói quen hút thuốc và đọc sách của ông, ý thích lang thang trên các đường phố Hà Nội của ông, thậm chí còn được biết ông làm thêm một cái nhà, hoặc đi dự một đám cưới ra sao.
Phải nói đây là cả một hướng đi bạo. Ngay ở phương Tây, từ thế kỷ XIX về trước, lối viết đi vào xây dựng hình ảnh bản thân đã bị lên án. Pascal từng bảo: “Cái tôi thật đáng ghét”. Đối chiếu với thói quen giao tiếp của người phương Đông thì cái cách nói về bản thân không biết mệt ấy lại càng khó coi. Nguyễn Tuân lại tình nguyện đi vào vùng cấm ấy có phải vì những ý nghĩ thường trực sau:
– Trong tất cả sự độc đáo trên đời, chỉ có sự độc đáo của mỗi cá nhân là bền vững nhất, chắc chắn nhất.
– Chỗ giống nhau của tất cả chúng ta là chẳng ai giống ai hết.
– Vậy cách tốt nhất trong giao tiếp là cứ hiện đúng như mình vốn có, biết đâu nhờ đó lại tạo nên sự đồng cảm.
Montaigne chắc không thể ngờ là cái câu ông viết trong Tiểu luận “Tôi chính là chất liệu cho sách của tôi” lại được một nhà văn nước Việt thực hiện một cách trọn vẹn.
3. Một chút quá đáng
Trên cái hướng lớn là khai thác bản thân, một động tác nữa được thực hiện để tạo nên vẻ độc đáo của văn chương Nguyễn Tuân, đó là ông luôn tìm cách tô đậm những gì khác người nơi mình. Trên các trang viết, con người tác giả thường hiện ra đầy thách thức. Ai kia quen sống theo khuôn khổ, hẳn không thể thích cách sống ngang tàng không chịu ràng buộc của ông. Trong sự chung sống, nếu như người đời thường trọng sự khoan hòa nhân ái, thì ông sẵn sàng “lượm những hòn đá thực to ném lung tung, bất kể là trúng đích hay trật sang bên cạnh” (Đôi tri kỷ gượng). Cho đến lời lẽ hàng ngày của Nguyễn, theo chính ông miêu tả, thường cũng “lủng ca lủng củng dấm dẳng cứ như đâm vào họng”. Những người có quen biết ông Nguyễn đều biết rằng, thực ra, ở đây tác giả có phần thậm xưng. Đọc kỹ văn của Nguyễn Tuân, người ta nhận ra ông không chỉ ích kỷ, mà còn biết lo cho mọi người; có lúc rất khinh bạc, nhưng có lúc lại đôn hậu biết điều. Nói chung, phải nhận đó là một con người khả ái, bởi ý thức phục thiện và những tinh tế trong đối xử. Nhưng Nguyễn Tuân lại cứ thuận miệng mà tố mình lên như vậy là vì ông muốn tạo ra cho trang viết một hiệu quả nghệ thuật cần thiết. Và sự hấp dẫn của văn ông là sự hấp dẫn của kẻ làm xiếc, kẻ đi trên bờ vực. Theo dõi lời lẽ, cử chỉ của kẻ thường tỏ ra khác đời ấy, người bình thường không khỏi nhiều phen kinh sợ, nhưng rồi ra, lại được thở phào nhẹ nhõm. Và lúc tới được với con người đích thực nơi ông, cũng là lúc người ta hết lời cảm phục.
4. Độc đáo để thành thực
“Lúc mới giao thiệp loàng xoàng với chung quanh, người ta đã không chịu được chàng rồi. Bây giờ Nguyễn lại làm sách để ghi lại những cái lố bịch mà sự chung đụng mỗi ngày càng vạch rõ thêm, người ta lại càng không thể tha thứ cho chàng được nữa” (tài liệu đã dẫn).
Trong lời tự nhận xét trên, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy một sự thực: ở xứ sở này, sự độc đáo trong văn chương dường như là chuyện hai lần vô lễ, chung quanh không bao giờ chấp nhận. Câu hỏi đặt ra: tại sao ông Nguyễn vẫn xé rào mà đi và cuối cùng lại được kính trọng? ở đây, câu trả lời có liên quan đến một vấn đề cơ bản của nghệ thuật.
Mỗi khi có dịp tiếp xúc với bạn đọc, một số cây bút hạng nhì hay tỏ ý phân trần: trong tác phẩm tôi viết, tôi không thêm thắt bịa đặt gì cả. Tôi chỉ ghi chép sự thực như nó vốn có. ít ra, tôi đã biết điều, tôi đã khiêm tốn! Khốn khổ, nếu như sự thật trong nghệ thuật là cái chuyện bất cứ người trần mắt thịt nào cũng nhìn thấy, thì các tài năng làm gì còn có lý do mà tồn tại?! Không, cái gọi là sự thực khách quan ấy thường nhàm chán, vô bổ. Ngược lại, cái sự thực mà người ta mong tìm thấy ở tác phẩm văn chương  bao giờ cũng mang màu sắc chủ quan của các nhà văn chân chính, nghĩa là chỉ nhà văn đó mới nhìn ra, mà những người khác không thể thấy. Nói gọn lại tức là: trong văn chương, người ta không độc đáo thì cũng không thể thành thực.
5. Không dễ bắt chước
Thấy Nguyễn Tuân “chơi lối độc tấu” được nhiều người mến mộ, không ít cây bút vỡ ra bài học về sự độc đáo và cũng có ý học theo, mà trước tiên là tô đậm cho cuộc sống và văn chương mình những vẻ khác đời. Có điều phần lớn những cây bút học đòi này thất bại: sự độc đáo trong văn chương ở họ, rút lại là một cái gì dang dở bất thành, cá tính hiện ra thành cá tật, đôi khi đọc chướng anh ách và đọc một lần là người ta sợ, không dám đọc tiếp.
Đến được sự độc đáo trong văn chương, Nguyễn Tuân dựa trên một căn bản văn hóa vững chắc; muốn học cách khai thác bản thân như Nguyễn Tuân, trước tiên phải có vốn liếng từng trải thâm hậu và bản năng làm người nhạy bén như ông Nguyễn - bằng không, tẩu hỏaả nhập ma là chuyện khó lòng tránh khỏi.
SỰ BIẾN HOÁ CỦA CÁI ĐẸP
Nguyễn Tuân là người làm gì cũng có một sự dụng công và chăm chú khác thường. Mỗi khi cần nói về cái đẹp, ông lại càng tỏ ra trịnh trọng, như đang phải làm một công việc thiêng liêng. Ông đã bàn tới cái đẹp trong mọi hoàn cảnh có thể: Khi phác họa một bức tranh thiên nhiên; khi bàn về nghệ thuật; khi bắt gặp một kiểu nhân vật, một con người, một hình dáng, một cách cư xử. Hồi viết Vang bóng một thời, ngay trong những đoạn miêu tả một vài hành động thông thường như việc người này uống trà, người kia làm một cái đèn cho con chơi, thậm chí tả một đám cướp dở, ôn lại ít ngón nghề trước khi vào việc, ông cũng mỹ lệ hóa hành động của chúng, làm cho những hành động ấy hiện ra hấp dẫn kỳ lạ, như là do các nghệ sĩ thực hiện. Có vẻ như nếu trên đời này, có một ngôi đền dành để phụng thờ cái đẹp, thì Nguyễn Tuân chính là viên tư tế chuyên lo công việc đèn nhang cho người đến lễ. Rung cảm trước cái đẹp là dấu hiệu phải có ở một con người lịch lãm thạo đời. Hiểu biết về cái đẹp là niềm kiêu hãnh duy nhất mà người tài tử thèm muốn. Và mỗi giây phút bắt gặp cái đẹp là một đặc ân, một phút xuất thần của con người: Nhiều trang sách của Nguyễn Tuân trước 1945 được viết để nói với bạn đọc cái điều tâm huyết ấy. Từ sau 1945, trong hoàn cảnh đầy biến động của hai cuộc kháng chiến nối tiếp, nhà văn này vẫn tìm đủ mọi cách để nhắc tới vẻ đẹp. Hoặc ông tố cáo tội ác của những kẻ hủy hoại thẩm mỹ, hủy hoại nghệ thuật (như ở bài Xòe in trong Sông Đà). Hoặc ông lưu ý rằng chúng ta phải tạm thời hy sinh cái niềm vui ấy đi để làm những việc cần kíp (“Trời hãy đừng đẹp nữa” - một câu trong bài Giữa hai xuân). Và về sau thì ông lại để công săn tìm những vẻ đẹp mới mà trong thực tế hôm nay mới xuất hiện.
Đỏng đảnh, già dặn, quái gở
Cái đẹp vốn đa dạng như cuộc sống. Tuy nhiên, người đời vẫn gặp nhau ở một cách hiểu chung về nó, đại khái, trong cái vẻ đẹp phải có những nét hài hòa, mới và trẻ thì dễ đẹp; và theo truyền thống phương Đông, cái đẹp phải đi đôi với cái thiện. Nhưng đó là cách hiểu thông thường! Một người đến với văn chương độc đáo như Nguyễn Tuân không thể bằng lòng với cách hiểu đó mà phải đưa ra bằng được những quan niệm riêng. Ngay từ 1944, nhà phê bình tờ Tri Tân là Kiều Thanh Quế đã nhận xét: “Văn Nguyễn Tuân khi dí dỏm như cô gái làm nũng, khi lại đỏng đảnh như người đàn bà khó chiều”. Cái sự đỏng đảnh tai ngược mà Kiều Thanh Quế nói ở đây, cũng có thể dùng để nói về quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân. Ông hay nói tới những vẻ đẹp già dặn. Trong văn của ông, người đàn bà đẹp thường là những người đứng tuổi, thạo đời, giỏi ngón ăn chơi, song lại có học, nhiều khi chơi chua và hay nói phũ, để rồi biết dừng lại đúng lúc, và tạo nên sự quyến rũ của riêng mình. Rộng ra mà nói, cái đẹp của Nguyễn Tuân thường có khuôn mặt của cái lạ, cái khác thường, nói chung đó là những cái đậm, gắt mà người đời cho là ra ngoài khuôn khổ. Sự đa dạng của vẻ đẹp mà ông đưa ra có thể thấy ngay ở những từ xác định mức độ, sắc thái của cái đẹp được miêu tả. Ngược với cái đẹp hiền hậu kiểu Thúy Vân (mà tác giả gọi là một vẻ đẹp “vững chãi và ngu dại”, ông thích cái đẹp sắc sảo của Thúy Kiều (Một lần đi thăm nhau). Đi xa hơn, ông nói tới cả cái đẹp tả tơi, cái đẹp hỗn độn (Chuyến xe tình), cái đẹp ngột ngột (Đôi tri kỷ gượng). Trong những thiên truyện được gọi chung là yêu ngôn, Nguyễn Tuân lại hay tả lại sự ám ảnh của những vẻ đẹp oan nghiệt, cái đẹp rờn rợn, khiến cho người ta vừa thích vừa sợ (như vẻ đẹp của nhân vật cô gái bán giấy bút trong truyện Khoa thi cuối cùng). Cái đẹp qua cách miêu tả của ngòi bút Nguyễn Tuân như vậy trở nên thoắt ẩn, thoắt hiện, biên giới của nó như mở rộng hơn, và hồn cốt của nó sẵn sàng nhập vào cả những sự vật mà trước kia người ta ít ngờ tới.
Đi xa nhất trong việc tiếp nhận
Cùng với Thạch Lam, Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiền chiến tự đặt cho mình là phát hiện bằng được cái đẹp vốn tản mát trong đời sống. Thế nhưng sau chỗ xuất phát chung ấy thì hai người lại đi theo hai con đường hoàn toàn khác nhau.
Nếu cái đẹp ở Thạch Lam mang sắc thái thuần hậu, thì đến Nguyễn Tuân nó đi gần tới sự bất cần đời, ngạo nghễ, phá cách (“Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn rất nhanh” - Chuyến xe tình). Sự xuất hiện một quan niệm cực đoan như thế trước tiên do sự phát triển nội tại của văn học. Từ những năm 30, đời sống tinh thần ở xứ sở có sự biến chuyển nhanh chóng, từ “xanh” đến “chín”, từ đơn sơ học lỏm đến lúc có tất cả cái rắc rối phức tạp mà một nền văn hóaá làm theo mẫu hình phương Tây thường có. Thêm vào đấy phải tính tới môi trường lớn mà văn hóa Việt Nam lúc đó phụ thuộc. Nhìn lại văn chương những năm trước sau 1940, người ta không khỏi nhận ra những mảnh vỡ trong mỹ học của các trường phái suy đồi, siêu thực (nói chung là có màu sắc duy mỹ) - những trường phái này phát triển ở Pháp từ đầu thế kỷ XX, và theo sách báo in ra đều đều mà thấm dần vào xã hội Việt Nam. Trên cơ sở một quan niệm hiện đại về quyền tự do của con người, nếu Nguyễn Tuân cùng với một số văn nghệ sĩ khác có tiếp nhận chúng một cách dễ dàng thì cũng không phải là một điều khó hiểu! Cố nhiên, trong hoàn cảnh riêng của xã hội Việt Nam lúc ấy, những quan niệm hiện đại kia không được nhập cảng một cách trọn vẹn. Các nhà văn nhà thơ vốn có một nền học vấn vững chãi như Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, hoặc bên hội họa như Nguyễn Đỗ Cung v.v… thường không quên đưa vào đây những yếu tố duy mỹ trong nghệ thuật phương Đông (Lão Tử, Trang Tử hoặc chất huyền hoặc trong Liêu Trai), mặt khác, tiếp nhận tinh thần phá cách trong văn hóa dân gian Việt Nam để làm nên những cốt cách riêng. Ở phương diện này, Nguyễn Tuân trong thời tiền chiến là một trong những người đi xa nhất.
Theo sự quy định của thời đại
Từ sau 1945 tuy vẫn để tâm săn tìm cái đẹp, song ngòi bút của Nguyễn Tuân lại được hướng dẫn bởi một mỹ cảm khác hẳn. Nếu hôm qua, ông hướng về cái đẹp theo cái cách lạnh lùng khinh bạc và nghiên về phân tích nội tâm thì hôm nay, ông ngả sang bao quát ngoại giới. Có dịp đi nhiều biết rộng, ông thích thú khi nói tới cái đẹp bao la lộng lẫy (và đôi khi hung dữ nữa) của rừng và biển. Nếu hôm qua, ông cảm nhận một cách sâu sắc sự oái oăm “cái gì đẹp quá thì chóng tàn”, “cái gì đẹp quá thì ít khi được là thực”, thì ngày nay, cái đẹp ấy không yểu mệnh nữa mà trở nên chắc thiệt, lành mạnh. Để xác định vẻ đẹp tiêu biểu cho ngày hôm nay, có lần Nguyễn Tuân đã đặt hẳn bên cạnh nó mấy chữ mà có lẽ trước khia ông không ngờ tới: đẹp, bây giờ phải đồng thời lành, tốt, bổ (bài Cửa Tùng). Tại sao lại có sự chuyển biến kỳ lạ như vậy? Người ta chỉ có thể hiểu được điều đó khi đặt hai giai đoạn phát triển trong mỹ cảm của Nguyễn Tuân vào hai giai đoạn lịch sử mà ông đã sống. Thời đại cũ yêu cầu độc đáo thì ông độc đáo đến ngoa ngoắt, thời đại nay yêu cầu sự có ích, thì ông thông thoáng hơn bao giờ hết. Và nếu trước kia, ông viết chỉ để dành cho một thiểu số bạn đọc gần gũi với ông, thậm chí người nghe thì thích song không hẳn đồng tình với ông thì ngày nay ông thuộc về một lớp độc giả đông đảo hơn hẳn. Mỗi thời ông lại phát biểu tư tưởng thời đại theo một cách riêng, và đó là điều tạo nên cho văn chương ông sự hấp dẫn.
MỘT TƯ DUY NGHỆ THUẬT KIỂU LIÊU TRAI
Yêu ngôn là tên gọi một tập sách nhà văn Nguyễn Tuân đã dự định làm từ mấy năm 1942-1943 rồi bỏ rơi. Hai chữ “yêu ngôn” dùng ở đây là nhằm để chỉ loại truyện ở đó có người mà lại có ma, mà cùng với người làm nên những chuyện ly kỳ quái đản song suy cho cùng lại gợi ra cho người đọc thấy cái tinh thần sâu xa của đời sống hiện thực.
Sinh thời Nguyễn Tuân, các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành tập. Nay dựa trên ý đồ và tài liệu sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại Yêu ngôn và tới… 1999 thì khai sinh cho nó thành một đầu sách của nhà xuất bản Hội Nhà văn.
Chúng ta có dịp đọc lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, ngoài ra còn có Khoa thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời), Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).
Song theo chúng tôi hiểu, ngoài cuốn Yêu ngôn này, tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai ở Nguyễn Tuân còn bộc lộ ở nhiều thiên tùy bút khác mà ông đã viết, chính cái phần tản mạn rời rạc ấy cũng cho thấy Nguyễn Tuân là một ngòi bút nhất quán trong phong cách biểu hiện. Sau đây là một tí bằng chứng rõ rệt nhất:
1. Ngay trong Vang bóng một thời đã nên lưu ý thêm tới Bữa rượu máu (có lúc gọi là Chém treo ngành) với đoạn kết nhiều ngụ ý “Lúc quan công sứ ra về, khi bước ra mười hai cái đầu lâu còn dính vào cổ người chết kia, giữa sân pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Trận gió xoáy hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ lăn lộn mấy vòng”.
Tìm đọc Phu nhân họ Bồ trong Tùy bút II in ra 1943 người ta thấy Nguyễn Tuân bắt đầu nói tới “vẻ đẹp quái gở” cũng như trong Chiếc lư đồng mắt cua có những nhận xét bâng quơ “Cái gì đẹp quá vốn ít khi là thực”. Cùng trong Tùy bút II, lại có một bài khác (có nhiều chất của một truyện ngắn), mang tên Một cái tết vô duyên. Đây là câu chuyện về một chàng trai trẻ, con của một người đào hát, nên có tính lang bạt kỳ hồ. Bữa ấy, theo lời nhắn của mẹ, cậu quay về gia đình ăn tết. Nhưng như có tiền định, khi cậu thử bói xem năm mới ra sao thì bói gì cũng hỏng. Bói bằng cách khai bút thì “bỗng quản bút chụt khỏi tay cậu, nhấn mực xuống xóa nhèm cả mấy chữ cuối cùng”. Ra sông bói đò thì nhỡ đò. Quay về bói tuồng, “cậu Tám thèm một cái mặt đỏ của một vai tuồng trung nghĩa”, nhưng “số phận đã cho cậu bói đúng vào chiếc áo bào xanh lè không có đầu”. Sau hết, tối lần ra chùa làng xóc thẻ, cậu rút phải một cái thẻ không có số hiệu quẻ bói. Như là một ma lực nào đó nhất định buộc cậu phải trở lại cuộc sống giang hồ và cậu Tám đành đầu hàng số phận.
2. Ngọn đèn dầu lạc và Tàn đèn đầu lạc là hai tập phóng sự Nguyễn Tuân viết về đám dân làng bẹp (cả hai vừa được xuất bản Hải Phòng dồn lại in vào thành một cuốn sách chưa đầy 200 trang). ở đây, khi nói rằng có một người đàn bà muốn ông tự diệt mình trong khói thuốc phiện, không ngần ngại liên tưởng ngay đến “con hồ ly trong truyện Liêu Trai yêu người thư sinh chán rồi rút cục là biến mất và để lại cho trần gian một cái xác co quắp, hình thù cổ quái”. Trong hai tập phóng sự này, mỗi khi nhắc nhở tới không khí nơi tiệm hút, là một dịp để tác giả kêu lên: “Gớm sao mà Bồ Tùng Linh thế!” “Sao mà Edgar Poe thế!”. Trong quan niệm của tác giả bấy giờ, thì loại thi sĩ và các nhà viết tiểu thuyết có hơi hướng thần bí mới là loại nhà văn đích thực, vượt lên trên các tác giả của loại văn chương hạ cấp (trong chương Tập ký ức của người bồi tiệm)
3. Một số người lầm tưởng rằng tư duy nghệ thuật kiểu Liêu Trai chỉ có ở các sáng tác của Nguyễn Tuân thời kỳ trước 1945. Nhưng không phải vậy. Trong kháng chiến chống Pháp, khi dựng lại không khí một vùng buôn lậu, ông viết: “Danh từ Cống Thần tôi tưởng như đó là tên một truyện quái dị, gợi đến một thiên tai có sự rùng rợn của thủy hỏa đạo đặc. Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ lật ngửa những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao nhiêu cái nhố nhăng kia lên giời (…)” (bài Cống Thần, in trong Tùy bút kháng chiến).
Sau này, viết Tình rừng khi tả những khu rừng cháy, ông lại để cho liên tưởng của mình đi khá xa. “Ngồi trong lòng đò đuôi én ngược thác sông Đà, tôi nhìn lên nhiều đám cháy trên đỉnh đầu, tàn cháy nương mùa xuân bay đầy trời như những đàn bướm đen nhúng cánh vào những ghềnh trắng bọt. Trên rừng cháy chỉ thấy khói không thấy người. Nghĩ mà thấy giận người đốt rừng, chính người đốt rừng ấy đang đốt bản thân mình, đang đốt cơ man nào là sách in, trong ấy có cả sách của mình nữa”. Hoặc như, khi Kể chuyện vĩ tuyến mười bảy (in trong Chuyện nghề), ông dừng lại kỹ hơn ở nơi mà người ta hay bảo là có ma. “Đêm trăng tại nhà thơ ép xác thiệt là buồn nhức xương… Đêm thanh vắng, gió ngàn lùa về tới đây cả tiếng tru tiếng sủa trăng của loài sói dấy lên từ phía Cây Tấm, Bến Tắt. Chao ôi, tôi thật là cái anh hay vẽ chuyện. Nằm ở nhà thờ Phước Sơn để nhìn những tủ sách Kinh La bụi bặm và bước đi mình toàn là tiếng lạo xạo trên cơ man là mảnh vỡ cửa kính giáo đường hoang vắng. Đêm gió lửa Tây ô mà sao lại thấy rùng mình và rờn rợn khi nhìn vào mảng tối chen với ánh trăng suông…”
4. Một phần tâm huyết của Nguyễn Tuân những năm cuối đời dồn vào việc viết phê bình. Nhưng đó là những trang phê bình của một người sáng tác nên cũng mang đậm sắc thái cá nhân, nói cách khác, tác giả đã mang vào đấy những kinh nghiệm sống riêng của ông, đọc bài phê bình người ta được biết không chỉ tác phẩm ông đang đọc, mà còn cái phần con người riêng của ông. Dĩ nhiên, là người đã viết yêu ngôn, Nguyễn Tuân cũng thường đọc ra ngay chất yêu ngôn ở văn người khác. Chẳng hạn, trong số rất nhiều truyện ngắn của Lỗ Tấn, Nguyễn Tuân có sự biệt nhãn với truyện Thuốc trong đó có chi tiết cái bánh bao còn nóng máu người “đầy rẫy một mùi thơm quái lạ”, và trong tay người ốm nó “phụt ra một luồng hơi trắng”. Đọc Tắt đèn ông liên tưởng ngay tới Những linh hồn chết của Gogol, trong đó có nhân vật địa chủ “bằng một gái rất rẻ, đã đi vơ vét những hồn ma là các tá điền nông nô đã chết, đem danh sách cầm cho nhà băng lấy tiền”. Còn khi trở lại với thơ Tú Xương, nhân mấy câu Ba kỳ trọn vẹn thêm kỳ nữa - ú ớ u ơ ngọn bút chì, Nguyễn Tuân có những lời bình rõ ra chất tư duy nghệ thuật riêng ở ông: “Đọc lên nghe nó hãi hãi như phải nghe một ông dở người cắm đầu bút vào, mồm thấm nước bọt cho đậm thêm nét bút chì và lấy quá tay hóa ra hóc thỏi chì. Nghe nó còn ghê ghê như người cảm xúc quá khích vì hút chì, máu uất bốc lên, đâm cấm khẩu giẫy đành đạch và ú ớ be be như có sự oan khiên, càng cần nói ra lời thì lại càng thất thanh đi”.
Xét ở phương diện kết hợp văn hóa Đông Tây trong một ngòi bút thì Nguyễn Tuân là một trong những trường hợp hiếm hoi: cái chất Liêu Trai nói ở đây làm cho các trang sách của ông có một vẻ thâm trầm cổ kính ít thấy trong văn chương thế kỷ XX. Cũng xin nói thêm là trước khi trở thành một hiện tượng nghệ thuật, kiểu tư duy này đã xuất hiện ở ông ngay trong đời sống hàng ngày.
Nhưng đây là một câu chuyện khá dài, chúng tôi sẽ xin trở lại khi có điều kiện.
Ý NGHĨA CỦA YÊU NGÔN
Mặc dù Khổng Tử thường dặn dò các môn sinh là đối với quỷ thần thì kính nhi viễn chi, và tốt hơn hết là đừng nói tới cái thứ mình không biết đó (bất ngữ quái, lực, loạn, thần), song đối với các nhà nho ở Trung Hoa và Việt Nam, những chuyện ma quái vẫn có một sức hút kỳ lạ. Nói nôm na là họ thường vẫn mê chuyện quỷ chuyện ma, không kém gì kinh sử! Do những duyên cớ cụ thể tác động hàng ngày, họ không thể nhìn trần thế một cách duy lý, như Đức Thánh Khổng Ngài đã khuyên, mà hay thích thêm vào đó một lớp sương mù huyền ảo. Trong cái cuộc sống ở ngoài mọi lề luật ấy, có người chết không chịu lìa hẳn cõi đời, vẫn muốn trở về tham gia vào mọi sinh hoạt trên dương gian, lại có nhiều những hồ ly tinh thèm sống, khao khát cảnh sống lứa đôi, thường hiện hình thành những cô gái đẹp quyến rũ đám học trò, do đó mà có những mối tình say đắm, khiến cho mỗi khi nghĩ lại, người ta lại vừa sợ vừa tiếc. Liêu Trai chí dị đã thành một thứ sách gối đầu giường của bao thế hệ. Đọc Tam Quốc, Thủy Hử để nuôi chí anh hùng, đọc Hồng Lâu Mộng để thấy cuộc đời hư ảo song bấy nhiêu thứ văn chưa đủ, người ta còn thích trở lại với Liêu Trai để biết thêm rằng ma sống lẫn với người, và đời sống cứ có cái vẻ thấp thoáng ẩn hiện không sao nắm bắt nổi. Cho tới các nhà nho Việt Nam đầu thế kỷ XX, thói quen đó còn được tiếp tục, mà người tiêu biểu là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu. Không phải ngẫu nhiên mà giữa trăm công ngàn việc, Tản Đà vẫn mê Liêu Trai và cuối đời đã dịch Liêu Trai với mấy câu đề từ nổi tiếng:
Nói láo mà thôi! Nghe láo chơi!
Dàn dưa lún phún hạt mưa rơi
Chuyện đời hẳn chán không buồn nhắc
Thơ thẩn nghe ma đọc mấy nhời
Cũng là một thứ vang bóng
Cũng như những Khái Hưng, Thế Lữ, Vũ Bằng…, Nguyễn Tuân thuộc loại trí thức mà trước khi mài đũng quần trên ghế nhà trường thuộc địa, đã được rèn cặp kỹ càng trong cuộc sống đậm chất nho phong của gia đình cổ. So với mọi người, ông chỉ có một chỗ khác, đó là con người nhà văn nơi ông sớm nhận thấy rằng phải tìm cách ghi lại những hình ảnh những âm thanh của cuộc sống mà cha ông mình đã trải, xem đó là một công việc cần kíp để chống lại sự tàn phá của thời gian. Và ông đã làm việc này một cách khá tỉ mỉ và chu đáo. Trong tập truyện ngắn liền với tên tuổi ông (tập Vang bóng một thời), ông hé ra cho thấy thế giới hôm qua không chỉ những nét đẹp, nét buồn, mà còn có cả những nét ma quái. Khoa thi cuối cùng kể lại một câu chuyện mang tính cách báo oán, vốn ám ảnh nhiều thi sĩ từ thời xưa và được họ dùng để giải thích mỗi khi thi trượt (do có lần làm hại một người đàn bà trẻ nào đó nên bị trả thù). Còn Trên đỉnh non Tản thì dựng lại không khí của một  “bồng lai tiên cảnh” mà con người chỉ biết trong mơ. Ta cũng chớ nên quên rằng Vang bóng một thời chỉ gồm 12 truyện, mà riêng trong đó, số truyện ngả sang không khí yêu ngôn đã lên tới con số 2. Loại nghệ sĩ như Nguyễn Tuân thường không làm việc gì có tính cách vu vơ, mà bao giờ cũng hướng sự sáng tác đi thành luồng mạch đàng hoàng. Bởi vậy, có thể nói là sau Khoa thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản, một cách viết đã được vạch ra, để rồi tiếp tục với những Loạn âm, Đới roi, Rượu bệnh v.v…
Những sự thăng hoa
Những người có đọc kỹ tác phẩm Nguyễn Tuân đều biết rằng có một tham số luôn luôn có mặt trong công việc sáng tạo của nhà văn này, đó là nhu cầu độc đáo. Nghĩa là làm việc gì, ông cũng muốn làm một cách khác người. Trong nghệ thuật, ông sợ nhất là những lối mòn. Trong khi khai phá vào những con đường riêng, ông còn muốn để lại những dấu ấn riêng, đậm và mạnh khiến cho người khác nhìn qua là nhận ra ngay.
Khi viết loại truyện yêu ngôn Nguyễn Tuân cũng giữ được thói quen đó. Kể ra, một truyện như Loạn âm còn có tính cách hiền lành (một ông quan chính trực không muốn lợi dụng tình riêng để chữa sổ nhà trời), hoặc một truyện như Xác Ngọc Lam còn dựa trên một môtíp có phần quen thuộc (cô Dó nhập vai hòn đá, giúp cho nghề làm giấy ở làng Hồ xưa có được trình độ tinh tế). Song bên cạnh đó, đã có những truyện đọc thật sảng khoái, nó cũng ma quái, nhưng là ma quái theo kiểu Nguyễn Tuân, kỳ cục, dữ dội. Thiên truyện Rượu bệnh quả không hổ với lời đề tặng Kính gửi vong linh ông bạn rượu Nguyễn Khắc Hiếu bởi trong đó, sự say sưa được cực tả để biến thành cái gì phi thường: “Cô Cốm khom khom rót. Một chén. Bốn, năm chén. Mười chén. Ba mươi chén. Chén nào Bố Ô cũng chỉ làm một hơi. Nhanh và ngon như kẻ khát dọc đường vớ được nước suối rừng, vục nón xuống mà múc lấy múc để. Và rượu vào đến đâu là chân tóc ông già lại đẫm tuôn mồ hôi ra đến đấy, làm dầm dề cả vải gối. Nhiều dòng nước trắng cứ theo mỗi chân tóc mà tuôn mạnh ra. Hết cả hai dầu gánh cô Cốm mà Bố Ô còn gào rượu nữa. Rồi ông già bèn cười sằng sặc nét mặt thắt nhăn lại, thanh âm càng rộn lảnh mãi lên”. Trong Chùa Đàn, có đoạn tả Bá Nhỡ đàn cho cô Tơ hát, tiếng đàn thu hút hết tinh lực của người đàn, đến mức “mấy đầu ngón tay Bá Nhỡ sưng và bật máu”. Rồi đến đoạn “máu chảy ra nhiều quá (…) Máu trong cơ thể Bá Nhỡ cứ đều một dòng tuôn mà thấm lậu ra ngoài”. ấy là lúc “Tiếng đàn hậm hực, chừng như không thoát hết được vào không gian (…) Nó là niềm vang dội quằn quại của những tiếng chung tình. Nó là cái dư ba của buổi chiều đứt chân sóng. Nó là cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa. Nó là cái lả lay nhào lìa của lá bỏ cảnh. Nó là sự khốn nạn khốn đốn của chỉ tơ con phím.
Lại có những trường hợp như thiên truyện Thạch tinh trong ruột một người có đoạn kể rằng gã đàn ông nọ, đi ăn cơm thiên hạ có nhiều sạn sỏi, lâu ngày đúc lại thành những hòn cuội trong dạ dày. “Kế đó, một lần ông ta dám thề nhảm với một người đàn bà và rủi gặp giờ thiêng, sau khi uống những giọt nước mắt của người đàn bà vào ruột, những hòn cuội kia bèn hóa thành thạch tinh. Nhưng thạch tinh ấy biết nói chuyện và làm hại người sống. Nó phá từ trong lòng người ta mà phá ra. Phá hại lúc còn sống chưa đủ, nó lại còn theo dõi đến lúc xuống huyệt nữa kia. Vì thế mà thi hài đã mai táng xong xuôi tưởng yên ấm, bỗng một đêm vào sáu tháng sau, nổ bật lên như có kẻ cắm cốt mìn vào mà bắn”.
Từ tiếng đàn thu hút từng giọt máu của con người, đến những hòn sỏi biết nói, toàn là những sự thăng hoa vượt bậc, những tưởng tượng siêu hạng mà phi Nguyễn Tuân có lẽ không ai nghĩ nổi.
Một nhà nghiên cứu tâm lý đã nói rất có lý, đại ý rằng cái tưởng tượng, thật ra, lại chính là cái giống chúng ta hơn cả.
Cái thực và cái đẹp
ở phương Tây, có một loại truyện cũng thường kể về các nhân vật ma quỷ và các hiện tượng dị thường, được mệnh danh là truyện kinh dị. Các tác giả cổ điển ở đây là E.Poe, E.T.A Hoffmann, và có thể kể cả N. Gogol. Theo như cách nói của một số nhà nghiên cứu phương Tây (được dẫn lại trong tạp chí Văn học nước ngoài số 4-1998) thì truyện kinh dị được xây dựng trên nguyên tắc là khai thác nỗi sợ. Bởi sợ là một nhu cầu tự nhiên của con người (tên bài viết của Đào Hùng, số báo đã dẫn).
Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi không thể làm cái việc lớn lao là so sánh loại truyện kinh dị ở phương Tây và truyện ma quái ở phương Đông, song nhân đây, chỉ muốn lưu ý thêm một khía cạnh quán xuyến trong các tác phẩm mang tính cách yêu ngôn của Nguyễn Tuân: chẳng qua, nó chỉ là một cách để giúp tác giả trình bày quan niệm của mình về thế giới thực và cái đẹp trên đời này. Nói một cách đơn giản cái thực thì bao giờ cũng lung linh ẩn hiện, mà cái đẹp cũng vậy, nhiều khi phải đi đến cùng của sự kỳ quái, người ta mới gặp được cái đẹp. Thành thử, đọc Nguyễn Tuân không có gì phải sợ, tuy nhiên, cái sự rờn rợn thì không thiếu, nó là thứ hiệu quả nghệ thuật mà trong văn học Việt Nam hiện đại, chỉ tác giả Vang bóng một thời mới biết làm và sự thực ông đã làm tới mức không ai bắt chước nổi.
VANG VÀ BÓNG, BIẾT TÌM ĐÂU?
Về những việc đáng ra có thể làm, mà chưa được làm, đối với Nguyễn Tuân nói riêng, với nhiều nhà văn nổi tiếng của chúng ta nói chung.
Sinh thời ông Nguyễn, đã có nhà phê bình tiên đoán người này mà nằm xuống thì hẳn là thiên hạ đi sau quan tài sẽ đông lắm. Sau quả có như thế. Nếu tính riêng thời tiền chiến, chỉ có thể nói Nguyễn là cây bút của một ít bạn đọc chọn lọc, nhưng từ sau 1945 tình hình có khác. Hơn 50 năm qua, ông đã là nhà văn của mọi người, người ta luôn nghĩ đến ông như một nhà văn bậc thầy, đồng thời là một con người lịch duyệt, tinh tế, tự trọng.
Từ sau đám ma rất to ấy, không ai còn nghi ngờ gì nữa, Nguyễn Tuân đã thuộc về hạng danh nhân của một thời. Theo chỗ tôi biết ở một số nước khác, một nhân vật cỡ như Nguyễn Tuân sau khi nằm xuống liền có ngay một cuộc tái sinh thật huy hoàng và đầy đặn.
Người ta phải lập ra ngay một ủy ban hay một hội đồng gì đó, chịu trách nhiệm về di sản của người đã khuất. Ủy ban này (thường có mặt cả đại diện gia đình) sẽ kiểm kê ngay những gì ông Nguyễn còn để lại, vào sổ từng đồ lề vật dụng ông Nguyễn vẫn dùng, miêu tả lại căn phòng của ông, tủ sách của ông, ghi chép về từng cuốn sổ tay ông dùng dở dang hay lá thư mới nhận. Sớm muộn ngôi nhà ông ở sẽ trở thành một nhà lưu niệm, một bảo tàng nhỏ, một địa điểm hành hương, để những ai có lòng ngưỡng mộ có chỗ mà đến tìm lại vang và bóng của cái con người đã từng là tiêu điểm chú ý của một thời đó.
Trong hoàn cảnh hiện nay, một cuốn phim tài liệu làm riêng về một nhà văn thật không khó khăn gì. Cái chính là làm sao có một bộ phim hay, xứng đáng với tầm vóc của ông Nguyễn, cái đó mới khó. Song, căn cứ vào uy tín đương thời của ông Nguyễn với giới văn chương nghệ thuật nói chung, có thể tin chắc là nếu tính chuyện làm một bộ phim thật công phu, thật đàng hoàng, vẫn có khối người dám đứng ra nhận, và tìm ra cách để làm. Sự độc đáo mà ai cũng biết, cũng xem như nét thần thái ở con người ông Nguyễn, buộc người ta cũng phải tìm đến những ý tưởng độc đáo để đáp lễ.
Những loại sách khác nhau có liên quan đến Nguyễn phải được biên soạn: một (hay nhiều) cuốn tiểu sử, viết kỹ về đời ông; một (hay nhiều) cuốn hồi ký của người đương thời, của gia đình và đồng nghiệp; tuyển các thư từ ông gửi đi và ông nhận; tuyển các công trình nghiên cứu về con người cùng sự nghiệp nhà văn bậc thầy này và nhất là tuyển tác phẩm của ông, loại tuyển có bình chú kỹ càng, không bỏ qua từng bài báo nhỏ nếu thấy nó có giá trị. Mặt khác, với những tác phẩm đáng gọi là lớn, tác phẩm để đời của ông (chẳng hạn Vang bóng một thời) sẽ có khảo chứng đến từng lần xuất bản.
Thế nhưng đối chiếu những mong mỏi đó với thực tế thì thấy mười năm qua, có việc chưa được tính: nhiều việc tính rồi chưa kịp làm; còn một ít việc đã làm thì quá sơ sài, đơn giản. Nói riêng về việc xuất bản sách:
Loại tác phẩm của chính ông Nguyễn
Lần đầu tiên tuyển tập Nguyễn Tuân được biên soạn là vào 1982. Tới 1994 một tuyển tập khác cũng đã được in ra, song chẳng qua chỉ là từ tuyển tập cũ “cơi nới” rộng ra một chút, chứ chưa thể nói bao quát hết Nguyễn Tuân, nhất là những của độc của lạ ông đã viết (độc ở đây vẫn làm cái nghĩa độc đáo đã nói). Tới quý II năm 2000, một toàn tập gồm 5 tập đã ra đời, song đã sưu tầm hết tác phẩm của Nguyễn Tuân chưa thì không ai dám chắc.
Loại tác phẩm có liên quan đến ông Nguyễn
Năm 1991, nhà xuất bản Hội Nhà văn đã có một cuốn sách mang tên Nguyễn Tuân, con người và văn nghiệp do nhà nghiên cứu Ngọc Trai biên soạn. Nhưng đó là một trong những năm khó khăn của giới xuất bản, thành ra nhiều tài liệu quý bị tước bỏ, cuốn sách in ra chỉ vẻn vẹn có 140 trang. Mãi tới năm 1997 này, một cuốn sách khác cũng mang tính cách tập hợp các bài mọi người đã viết về ông Nguyễn mới  được nhà xuất bản Văn học cho in. Đó là Nguyễn Tuân, người đi tìm cái đẹp (570 trang).
Cũng phải nói thêm là thời gian qua, một số bạn bè, người quen như Tô Hoài, Đoàn Minh Tuấn, Phạm Tường Hạnh..., thường vẫn nhắc nhở đến ông Nguyễn, có người đã ra  hẳn những đầu sách riêng, trong đó dày dặn nhất phải kể Cát bụi chân ai; song so với yêu cầu làm sống lại một nhân vật của lịch sử văn học thì một vài cuốn như thế chưa thấm tháp gì.
Nói cho đúng ra, những người có lòng với ông Nguyễn thì nhiều. ở chỗ riêng tư, người ta được biết rằng từ dăm năm trước ý định đấu sức lại làm một cái gì đó đối với di sản văn học của Nguyễn Tuân đã đến với hàng loạt nhân vật nổi tiếng như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, nhà văn Tô Hoài… và các ông đã bàn bạc một số đầu việc. Nhưng do gặp trắc trở nên dự định vẫn chỉ là dự định.
Nhân đây, cũng xin nói rộng ra một chút về tình trạng sưu tầm và bảo quản di sản của các nhà văn cỡ lớn ở ta nói chung.
Trong một dịp nói chuyện riêng, nhà văn Trần Ninh Hồ - người được giao phụ trách khâu bảo tàng văn học ở Hội Nhà văn - cho chúng tôi biết: tất cả những gì liên quan đến Nam Cao và Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng và Xuân Diệu, Hoài Thanh và Đặng Thai Mai… đều đã được xem xét, song việc triển khai Công việc cụ thể cho một bảo tàng thực thụ xem ra còn khá chậm chạp. Tại sao? Theo Trần Ninh Hồ, cái chính là nhận thức của chúng ta chưa theo kịp với công việc. Mải chạy theo thời sự trước mắt. Lo làm phong trào cho nổi hơn là để tâm theo đuổi những hoạt động thầm lặng. Đại khái cũng hiểu rằng lịch sử là quan trọng nhưng làm gì để khôi phục lại bộ mặt của lịch sử thì không biết. Và hình như trước sau vẫn để cho tư tưởng bình quân ngự trị.
Chi tiền cho hội nghị thì sẵn sàng, chi tiền cho một đợt kỷ niệm thì tốn mấy cũng chấp nhận, nhưng chi tiền để xin mua lại cây can nhà văn này thường dùng, cái balô nhà văn kia đã đeo khi đi chiến dịch… thì còn ngần ngại. Mà công việc để sưu tầm và tổ chức lại di sản của một nhà văn nổi tiếng gồm hàng ngàn, hàng vạn chi tiết cụ thể như thế. Rút cục, mọi chuyện đang còn trì trệ, mà trường hợp Nguyễn Tuân là một ví dụ.
Không biết bao giờ, những danh nhân của đất nước mới có được cuộc sống thứ hai sau khi nằm xuống như tất cả chúng ta đều mong ước!
NGUYỄN TUÂN VÀ THƯ VIỆN
Nhà văn bậc thầy Nguyễn Tuân chẳng những là một người ham đi, mà còn nổi tiếng là một người ham đọc - đọc cả với nghĩa giữ lấy một nhịp sống tự nhiên lẫn nghĩa phiêu lưu lang bạt, đấy là điều nhiều người đã biết. Từ đây, có thể có người tỉ mỉ hơn một chút đặt câu hỏi: Nguyễn Tuân đọc sách ở đâu, cái dạ dày sư tử ấy tìm nguồn cung đốn cho mình ở đâu? Câu trả lời: trước tiên là cái tủ sách riêng của cụ Nguyễn. Chừng nào mà nhóm di sản văn học Nguyễn Tuân - hãy giả định là đến một lúc nào đó sẽ hình thành được một  nhóm như thế - đi vào hoạt động, tôi ngờ một trong những việc đầu tiên nhóm phải làm là có thể làm một cách hào hứng là miêu tả lại cái tủ sách cụ Nguyễn đã mua, đã nhận, đã gom góp cho mình trong căn buồng trên đường Trần Hưng Đạo, nơi cụ ở liên tục từ sau 1954 đến khi qua đời. Bản thân cái tủ sách ấy, sự hình thành của nó, cái lỉnh lỉnh dư thừa thiếu hụt của nó, và hơn thế nữa, lai lịch từng quyển sách, những  chữ ghi bên lề trang sách, tất cả gộp lại làm nên một thứ chân dung đích thực của tác giả Vang bóng một thời.
Nhưng còn một nguồn cung cấp thức ăn tinh thần cho nhà văn này, một nơi mà khi Nguyễn còn trẻ, còn lang thang làm báo thuê bên cạnh Tam Lang, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng… và nhiều người khác, ông hay lui tới - ấy là Thư viện trung ương nay là Thư viện quốc gia, 31 Tràng Thi Hà Nội. Hai đoạn văn ngắn sau đây mà chúng tôi sưu tầm được nói lên điều đó.
Đoạn thứ nhất trích ra từ tạp chí Văn nghệ ra ở Việt Bắc cuối 1949. Hồi đó tờ tạp chí cơ quan của Hội văn nghệ Việt Nam mới ra được hơn chục số, đã thấy cần phải làm ngay một số đặc biệt về Hà Nội. Ngoài phần sáng tác, có phần ghi nhanh Người Hà Nội đi kháng chiến, phác họa một số gương mặt người Hà Nội trên những nẻo đường Việt Bắc năm ấy: ông giáo sư trường Bưởi Trần Văn Khang và cụ Tiên Đàm Nguyễn Tường Phượng, anh Cai Lộc chuyên phát hành báo chí và bà Hậu Loan chủ nhà hát ở Cống Trắng Khâm Thiên, anh Phở tàu bay và anh Két chuyên pha “cốc tai” ở nhà Thủy Tạ Bờ Hồ. Và tuy gọi là ghi nhanh, nhưng chùm bài viết toàn là do những cây bút lừng lẫy một thời như Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Thế Lữ… thực hiện. Chính trong phần ghi nhanh này chúng tôi đọc được đoạn văn ngắn Nguyễn Tuân kể lại cuộc gặp gỡ với một người thủ thư, qua đó, thấy cả cảm tình của nhà văn với cái thư viện lớn nhất Hà Nội mà trước đó, ông từng lui tới. Cái lối dùng chữ Hán sành sỏi “thời thanh bình độc thư, sân tàng thư lâu lá mùa thu rụng từng cái một…” cùng là lối chơi chữ “bao giờ Tây xuống tàu Pháp”, cho phép người ta nghe ra trong đoạn văn ngắn cái giọng riêng của Nguyễn (khi đó, nhà văn mới 39 tuổi).
Thời điểm viết đoạn văn thứ hai lại còn lùi xa hơn nữa: thời Thư viện trung ương còn mang tên người sáng lập ra nó là Pierre Pasquier. Cả thảy chỉ có mươi dòng, giống như một đoạn sổ tay, nhà văn thoạt đầu chỉ ghi cho mình, chứ không có ý định công bố. Sau khi nói lên một chút bực bội của người ra thư viện nhiều mà không tìm thấy chỗ ngồi (cảnh sinh viên học thi thường chiếm hết phòng đọc chính của Thư viện Hà Nội đến nay vẫn được tiếp tục), đoạn văn ngắn này chốt lại ở cái hoài vọng sâu xa của tác giả là muốn tìm lấy việc nghiên cứu và sáng tác làm lẽ sống. Trong Thư viện Pierr Pasquier được đăng lần dầu trong một số tạp chí Tao Đàn ra năm 1939, chính cái số Lưu Trọng Lư cho in bài viết ngắn về Nguyễn Công Trứ (Tên tác giả cả hai đều chỉ viết tắt, một bên là T. một bên là L. nhưng cái giọng riêng của tác giả thì không sao lầm được). Thời ấy, các nhà văn nổi tiếng sẵn sàng đóng góp những mẩu văn nhỏ như thế này cho các tờ báo, tạp chí mà họ yêu thích.
Đoạn thứ nhất: Gặp ông Nguyễn Văn Xước
Loạng quạng thế nào trên đường đi bến Quyển Sơn lại gặp ngay một cái bóng dáng yêu cũ kỹ của Thư viện trung ương. Cả một thời thanh bình dộc thư sân tàng thư lâu lá mùa thu rụng từng cái một bên đường Trường Thi. Thẻ đọc sách có ghi số cho nhà báo, hồi ấy Boudet ký. “Sĩ phu ba ngày không đọc sách, soi gương mặt mũi đáng ghét nói chuyện nhạt nhẽo khó nghe”. Anh Nguyễn Văn Xước, người vẫn lấy sách cho tôi mượn, làm Hành chính khu bộ cho biết rằng Thư viện trung ương vẫn không bị cháy và hỏi hồi này sách kháng chiến có “dépô-légal” đều đều không? Ôi bao giờ Tây xuống tàu Pháp để ta lại quay cái quạt trần trong phòng văn công cộng, ký tên vào phiếu lĩnh sách mà tĩnh tại hai buổi bạn với “thánh hiền”, phủi cái bụi thời gian trên gáy da mạ vàng?
Đoạn thứ hai: Trong thư viện Pierre Pasquier
Đã lâu tôi không tới thư viện. Lần thứ nhất tôi tới vào khoảng ba giờ chiều. Không còn một chỗ ngồi. Tôi phải đi về và tìm một cái cớ để tự an ủi mình: thanh niên ta là một thanh niên hiếu học, và là một triệu chứng đáng mừng cho tiền đồ nước nhà. Lần thứ hai tôi lại tới thư viện. Sớm hơn lần trước một chút, mà vẫn không may hơn: vẫn hết chỗ ngồi. Tôi lại tìm một cái lẽ để tự an ủi: ở trong sự học, không nên ganh tị nhau. Biết đâu sự chăm học của những chàng thanh niên ấy lại không quan hệ đến hạnh phúc của ta, của con cháu ta. lần thứ ba, tôi vẫn không ngã lòng, và cố nhiên là đến sớm hơn hai lần trước nhiều, nhưng mà vẫn như hai lần trước: thư viện hết chỗ ngồi. Lần này, tôi cố tìm ra một lẽ để cau có, và tôi đã có một lẽ rất chính đáng; tôi nhận thấy rằng đa số những người hàng ngày đến thư viện trung ương, chỉ là những cậu và  cô học sinh ban Tú tài, có khi họ chỉ đến đấy để làm nốt một bài tính bỏ dở từ hôm qua. Tôi không muốn nói: chỗ của họ không phải ở đấy, nhưng tôi muốn rằng những ghế ở thư viện trước hết phải dành cho những người đến đây để nghiên cứu, để tìm lục một cái gì mà không ở đâu có, những người lấy sự học làm mục đích cho sự học… Bao giờ ở trong thư viện của ta, mới được thấy cái cảnh tượng cảm động của những người suốt ngày lịm hồn đi trong sách vở, và nếu có xao lãng đi một vài phút là để nhá một miếng bánh tây hay nốc một hớp nước lã… Họ chỉ cầm lấy một chút hơi để rồi lại học. Sự sống đối với họ, chỉ là một phần nhỏ, và sự học là tất cả.
CÙNG ĐÓN TẾT VỚI ÔNG NGUYỄN
Đã gọi là nhà văn, xa gần ai chả viết về đời sống dân tộc, song trong các nhà văn Việt Nam hiện đại, nếu cần tìm một người biết từ những mảng sống, những thực tế ai cũng sống ấy, đưa lên thành nề nếp, thành một cái gì thuần thục kỹ lưỡng, tóm lại là biết xem xét đời sống ở bình diện văn hóa, thì người ta trước hết nghĩ đến Nguyễn Tuân (1910-1987). Cách sửa soạn cho một ấm trà ban mai hay cái nghi thức thiêng liêng mở đầu cho một ngày. Những đắn đo bàn bạc trước khi làm mấy cái đèn trung thu hay vẻ trịnh trọng trong việc đón cái Tết vốn chỉ được coi là dành cho con trẻ. Rồi ý nghĩa tìm thấy ở trò chơi thả thơ đánh thơ, quan niệm về nhân cách qua một kiểu viết chữ… Rồi đức hy sinh của một người chị cho một người em trai, niềm tự tin hay những kiêu hãnh chính đáng của một vị quan có học… Bao nhiêu nếp sống hàng ngày đã được Nguyễn Tuân ghi nhận! Thì dĩ nhiên là những ngày Tết nguyên đán cũng đã để lại vang và bóng của nó trong tâm trí Nguyễn Tuân, dù nhiều khi chỉ là những vang bóng thoáng qua. Lấy ví dụ như ở thiên truyện Hương cuội in trong Vang bóng một thời. Đặt bên cạnh những Chém treo ngành hoặc Ném bút chì có gươm khua, có máu chảy (dù là tất cả đã được làm một cách rất tài hoa), thì Hương cuội giống như một sự dềnh dàng cố ý cốt cho thấy cách đón xuân của cổ nhân cầu kỳ mà cũng thanh đạm đến như thế nào. Này là cảnh chuẩn bị Tết ở nhà cụ Kép: trong lúc đám dâu con đàn bà ngồi lau lá dong và làm bếp, còn lũ trẻ lo đánh bóng đỉnh đồng, lư hương, thì ông cụ chỉ loanh quanh bên cái chậu hoa, và để hết tâm trí tới việc sửa soạn bữa rượu Thạch lan hương. Quả thật, cái cảnh uống rượu nhắm với đá cuội tẩm kẹo mạch nha là một nét lạ của văn hóa Tết cổ truyền mà có thể đoán là khống mấy người thuộc lớp hậu sinh chúng ta được biết, và những trang văn Nguyễn Tuân thật đã có vai trò của những thước phim quay chậm để ghi lại tư liệu quý.
Sau Vang bóng một thời xưa đâu Nguyễn Tuân còn định viết Vang bóng một thời Tây. Rồi cái ý định ấy, cũng như nhiều dự định hay ho khác, đành xếp xó. Nhưng đây đó, nhà văn thích phác họa lại nếp sống một thời và mang lại cho nó vẻ thanh lịch của một hành động văn hóa, nhà văn ấy cũng đã kịp ghi lại vài nếp sống của xã hội ta khi chuyển sang thời Âu hóa, trong đó có cảnh đón Tết ở các đô thị. Đọc Một người cha về ăn tết (in trong Tùy bút I) người ta biết rằng vào những năm ba mươi của thế kỷ này, thành phố Hà Nội vẫn chỉ là nơi làm việc của nhiều công chức, chứ không phải gia hương của họ. Cuối tháng chạp âm lịch, hai mươi, hăm lăm gì đó - tùy cảnh tùy người - nhiều cặp vợ chồng giao nhà cho đầy tớ, rồi kéo con cái về quê ăn tết. Có thể là ở quê, họ lại sẵn sàng ngồi bên nồi bánh chưng cổ truyền suốt đêm để sống lại cái nền nếp vốn có của cha ông. Còn ở thành thị, nơi họ làm việc, thì cái nếp sống Tây phương cũng đã len vào thành những phong tục mới, nhuần nhị và thành thục. Trông nhà trong mấy hôm ấy, một trong những việc đám thằng nhỏ phải làm là để cái đĩa pha lê ra bàn giữa nhà cho bạn bè của chủ chúng (mà chúng thường gọi là cậu mợ) đến đặt danh thiếp.
Tuy nhiên cái độc đáo của Tết ở văn Nguyễn Tuân chưa phải là ở những mảng số được ông miêu tả ghi chép như vậy. Bởi lẽ, sự quyến rũ của văn ông là ở cái hình ảnh bao trùm của con người lãng tử, nên cái ấn tượng về Tết khiến người ta nhớ hơn cả cũng là cách xử sự kỳ lạ của chàng Nguyễn và những phiên bản của chàng vào những ngày mọi người khép mình chờ đợi. Mặc dù biết rõ là Tết sắp đến nhưng Nguyễn của chúng ta vẫn mải mê với việc vui chơi và sẵn sàng lang thang ở những chốn đâu đâu mà không hề đoái hoài tới việc tận hưởng mọi thú vui thông thường, kể cả việc về nhà sum họp cùng vợ con. Trong Những đứa con hoang, người ta gặp cái cảnh Nguyễn với hai người bạn xuống xóm vào một ngày tất niên, khi các nhà cô đầu tịnh không ai đi hát, và từ các bà chủ đến các cô con gái trong nhà có nghĩ gì, thì cũng là nghĩ đến chuyện làm ăn trong năm mới. Lại như câu chuyện Một người cha về ăn Tết. Cái việc tốt đẹp nói ở đầu đề thiên tùy bút, thực ra phải đâu là nằm trong dự định của Nguyễn mà chỉ là kết quả của sự tình cờ. Đang ở nhà bạn, định sống thêm một cái Tết tha phương, chợt trông thấy mấy đôi giày trẻ con, thế là lòng nhớ nhà của Nguyễn thức dậy và chàng mới ra ga, về quê trong chuyến tàu rạng sáng ba mươi. Tóm lại, sau trước, Nguyễn vẫn là Nguyễn, Tết chẳng qua là một dịp để con người ấy tiếp tục mài sắc cá tính của mình, càng mang tiếng chơi ngông, trêu ngươi mọi người, càng lấy làm đắc ý. Giữa cái xã hội Âu hóa nhố nhăng, để khẳng định cá tính, Nguyễn vẫn chỉ có một con đường độc đáo để đi, ấy là con đường đã in dấu chân của nhiều bậc lãng tử cuối mùa, mà ông Cử Hai trong Một cảnh thu muộn là ví dụ. Vâng, ông Cử Hai ấy cũng là một người đem cái tài hoa ra để đùa với cuộc đời. Đi dạy học thực tế với ông là một thứ “đi ngoạn cảnh hoặc là đi dâng hương ở các đền chùa cổ tích”. Bởi vậy mới có cảnh “gần ngày Tết nhất, người trưởng tràng lúc thu xong sổ đồng môn, chỉ khổ lên vì đi tìm thầy”. Giữa ngày vui của mọi người, cái con người nghệ sĩ không chịu sống cho người khác và hùa theo với người chung quanh ấy sẵn sàng ẩn trong một mái đình vắng nào đó, để gọt cho hết một lắp thủy tiên. Người ta có thể không sống theo và trước tiên là không thích thú với cách sống cao ngạo trái khoáy này, song phải công nhận người giữ được cái đạo đó phải là người có cuộc sóng nội tâm phong phú, nội lực vững vàng, trong khi biết tìm cho mình những thứ thức ăn tinh thần không giống một ai, họ thật đã có cuốc ống vượt lên cái phàm tục mà kẻ sĩ xưa nay hằng ao ước.
Đơn độc ngay trên quê hương mình, trốn tránh mọi người, chỉ lấy sự lang thang chỗ này chỗ nọ làm vui, những tưởng ở Nguyễn Tuân đã chết hẳn con người bình thường. Nhưng không, đến khi có dịp xa quê thực sự, thì Nguyễn Tuân lại có một cái Tết thật buồn, đến mức người ta phải tự hỏi không biết đâu mới là bản chất thực của cái con người phiền toái đó. Trong Một chuyến di ông đã kể lại kỹ lưỡng nhiều chuyện liên quan đến cái lần nhà tài tử nghiệp dư là ông, cùng với một số bè bạn, sang Hồng Kông đóng phim. Cảnh ông ăn Tết ở xứ người chính là xảy ra vào đầu năm Dần đó (1939). Hiện lên trước mắt chúng ta là một bức tranh hai màu đối lập. Một bên là cảnh dân địa phương náo nức vui thú. Những tràng pháo dài hàng vạn quả đua nhau nổ dữ dội. Những gốc đào tươi tua tủa hoa nhạt và nụ thắm. Rồi đêm Hương Cảng đỏ rực hẳn lên với phiên chợ Tết “như cảnh bài trí trong một truyện thần tiên hoặc trong Liêu Trai…”. Một bên là cái tâm trạng buồn thiu của người lữ khách cô độc, mắt mờ hồn mê, tiền không có, bạn không có, đi giữa đường vui phải giơ tay nắm chắc lấy lòng can đảm của chính mình để khỏi chán chường thêm. Vốn là điều làm nên sự kiêu hãnh của người lãng tử, sự khác người với Nguyễn Tuân trong những ngày Tết năm ấy chỉ còn là một cái gì nặng nề, không sao chịu nổi. Trong lúc tỉnh táo, tác giả cảm thấy rất rõ là mình đang đánh mất mình: “Tôi chiều nay hằn học với số phận, dám cáu kỉnh với cả cuộc đời phiêu lưu mà xưa nay tôi vẫn ca ngợi. Chiều nay, tôi cũng muốn vứt đi một cái gì”.
Chưa bao giờ như trong Một chuyến đi, con người Nguyễn Tuân lại hiện ra yếu đuối đến thế, bất lực đến thế! Song cũng là một sự thực kỳ lạ: ấy cũng là lúc Nguyễn đáng yêu hơn bao giờ hết. Sau cái lần vỏ ngạo ngược, ngông nghênh hóa ra chàng Nguyễn vẫn rất mềm yếu, rất tình cảm, nghĩa là rất gần với mọi người. Có lẽ vì thế, chúng ta hiểu vì sao sau này tỏng tiếng súng chiến tranh khi cùng một đoàn kịch đi suốt từ Hà Nộị tới Nam Trung bộ, khi lội suối trèo đèo theo bộ đội đánh đồn, nhiều cái Tết trong văn Nguyễn Tuân lại hiện ra với những nét vui vầy đầm ấm, và những ngày hòa bình sau 1954, hầu như Tết nào ông cũng có những bài tùy bút vui Tết với mọi người. Vẫn với cách nói hóm hỉnh vốn có, ông bảo rằng đó là những lần mình ngả từ vườn đào nhà ra mấy cành để góp mặt với những ngày vui ở chợ hoa Hàng Lược. Một trong những bài tùy bút của Nguyễn Tuân hồi ấy độ một cái tên khá lạ lùng Tôi bán năm cành hoa tết.
NGUYỄN TUÂN, NGƯỜI NHẬP VAI
I. Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.
Ở tuổi 76, nhà văn Nguyễn Tuân còn thích nhập vào hàng ngũ ít ỏi ấy của những người đi bộ trên đường Hà Nội. Mỗi buổi sáng, từ nhà mình bên phía Trần Hưng Đạo, ông làm một cuộc đi lại loanh quanh một số cơ quan quen thuộc: Hội Nhà văn, nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, báo Văn Nghệ, nhà xuất bản Văn học… Những bước ông đi ung dung chậm rãi; quần áo ông nghiêm ngắn, chỉnh tề; toàn bộ con người ông trên hè phố gợi người ta nhớ một cuộc đời văn học khá thành đạt, tuy không “tòa ngang dãy dọc” đồ sộ, nhưng tác phẩm viết ra thường có những đường nét riêng độc đáo. Người viết văn là một kẻ đi đường không bao giờ mệt mỏi - có lần Nguyễn Tuân đã so sánh vậy. Vả chăng, hình ảnh một cuộc hành trình ở đây không chỉ có nghĩa bóng, mà còn có thể hiểu theo nghĩa đen của nó. Trước khi có một tuổi già ung dung đi lại trên hè phố như thế, gót chân của con người từng trải ấy đã có dịp đặt trên hầu hết khắp mọi miền đất nước. Trước Cách mạng, ông từng là khách quen của các chuyến tàu xuyên Việt, cứ hứng lên là người lữ hành ấy xách va ly đi, và thích đi đâu là dừng lại ở đó: Thanh Hóa, Huế, Hội An v.v… Sau Cách mạng, những chuyến lên rừng xuống biển của Nguyễn Tuân càng dày hơn. Một lần nào đó, sau khi đặt chân lên một ngọn núi trong dãy Hoàng Liên Sơn, ông hóm hỉnh nói đùa với một nhà báo nước ngoài: “Giờ thì ngọn núi đã cao thêm một mét vì có tôi ở trên”. Một lần khác, ông đi tới Lũng Cú tột bắc. Một lần khác nữa, đi một chuyến dọc Cẩm Phả, Cô Tô, Vân Hải, một thứ huyện đảo “sáu trăm đảo dư” và ông đã xúc động kêu lên: “Chao ôi, thấy như mình vừa cầm hẳn vào bàn tay của hạnh phúc, một thứ hạnh phúc mà chỉ có Tổ quốc tươi đẹp mới ban nổi cho, và đã ban cho ta đúng vào lúc ấy”. Hào hứng, kỳ thú, có nhiều ấn tượng… không kể với riêng một chuyến nào, mà với mọi chuyến đi, Nguyễn Tuân đều có thể bằng lòng mà tự bảo vậy; về phần mình, những người đọc, chúng ta cũng có thể mượn luôn mấy chữ ấy để miêu tả cuộc đời của nhà văn, một cuộc đời đi dài suốt lịch sử văn học nửa thế kỷ qua.
II. Để nói về những kẻ sĩ không chịu sống trong khuôn phép, những trí thức có học mà không chịu ra làm quan, không để tâm vào hoạn lộ mà chỉ nhất định lấy cái tài của mình ra trình diện với đời, trong xã hội phong kiến, người ta đã có sẵn chữ tài tử, lãng tử. Thường đấy là những người có tư cách, không chịu cúi luồn, khinh bạc, ham chơi. Có điều, cách chơi của họ rất khác đời. Sự say sưa khi cầm trên tay quân bài lá bạc, hoặc chén rượu ngon, đối với họ, không phải là mục đích cuối cùng. Giữa một xã hội phong kiến cào bằng nhân cách, trói buộc người ta trong những quy ước tẻ nhạt, cách chơi của những bậc tài tử này là lối chơi của kẻ thạo đời, đã đọc đủ sách thánh hiền nhưng vẫn chán, đành lấy việc chơi đùa để khẳng định chỗ hơn người và cả khát vọng tự do của mình. Chỉ xét trong phạm vi thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người ta đã thấy nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng ở nước ta trước đây là những người như thế nào. Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà. v.v… Cuộc chạy tiếp sức của những bậc tài tử này cuối cùng có thêm chàng Nguyễn. Sở dĩ Nguyễn Tuân có thể diễn tả thành thục người và cảnh Vang bóng một thời, bởi xét trên nhiều phương diện, ông vốn là một tài tử nhà nòi, đã sống thật chín, thật kỹ cái nếp sống phong kiến trái mùa kia, tức bản thân ông là một kiểu người vang bóng. Thận trọng và tinh tế, hay nghĩ về đời nhưng lại khinh bạc quay mặt đi vì biết không làm sao xoay chuyển được cuộc đời, ham tìm những cái dẹp tao nhã, sẵn sàng bạn bầu cùng một ánh trăng suông, một nhành hoa lạ… những đặc tính ấy của Nguyễn Tuân thật ra là một sự thừa kế có phần tự nguyện nhưng cũng có phần bất đắc dĩ từ nhiều bậc tiến bối. Ông sống trong những cung cách sống xưa một cách tự nhiên, cứ để cho nó tha hồ “hành” mình và tự nó ngấm vào mình lúc nào không biết. Vào cái thời mà Nguyễn Tuân lớn lên, những năm ba mười bốn mươi của thế kỷ này, loại người giữ được cái chất tài tử ấy đi dần đến chỗ tuyệt chủng, nhưng chính vì thế, còn rơi rớt lại ở người nào đó, nó càng bền chắc và nhiều khi phô ra của cái vẻ khá sặc sỡ.
Một lý do nữa khiến cho cái bản chất lãng tử kia ở Nguyễn Tuân ngày càng được ông giữ gìn là nó có một vai trò đặc biệt giúp ông lập nghiệp. Nó cần cho ông trong đời. Bởi vậy, ông phải để tâm chăm chút nó và ông đã làm điều này một cách có ý thức. Gắn bó với quá khứ trong khi lịch sử đang sôi nổi nhiều biến động, giữ lấy chất lãng tử tự do trong lòng một xã hội thực dụng - ở một đôi người, cách sống ấy nhiều khi đã gợi nên cảm tưởng về một cái gì trái khoáy, lạc lõng, y như cảnh “bức sốt nhưng mình vẫn áo bông” mà Tú Xương đã tự chế giễu. Nhưng Nguyễn Tuân không ở vào cái thế bị động đó, bởi ông có một nghề lạ, là nghề viết văn, viết báo. Quá trình chuyên môn hóa rất mạnh trong lòng xã hội tư sản không làm con người nền nã trong bộ y phục cổ này ngần ngại. Ngược lại, với sự hỗ trợ của sách vở và kiến thức, với sự hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh, ông có ngay sự thích ứng tối ưu. Nương theo tình thế để sống, lấy ngay sự gắn bó với quá khứ làm chỗ mạnh để chọi với đời, con người ông trở thành một thứ hàng cao giá mà xã hội lúc đó không phải là không có yêu cầu (dù chỉ là yêu cầu rất ít).
Nếu có một thứ nghề sống, nghề làm người như cách nói của nhà văn ý Pavese ([1]) thì Nguyễn Tuân trước đây quả thực đã là một tay nghề có hạng, với nghĩa tốt đẹp của chữ “có nghề” này.
Từ sau 1945, với chất thiên lương và tinh thần yêu nước sẵn có, Nguyễn Tuân lại nhanh chóng phục thiện, để đứng vào hàng ngũ Cách mạng. Con người chủ yếu ở ông, từ nay, là con người cán bộ, con người chiến sĩ, nghĩa là thành viên của một tập thể có kỷ luật, tập thể ấy phấn đấu cho một lý tưởng nhất định, nên mỗi thành viên trong đó phải làm tất cả để đóng góp cho sự nghiệp chung. Người ta đã lưu ý tới khá nhiều những rơi rớt của con người cũ ở Nguyễn Tuân. Nhưng phải công bằng mà nhận là những sở trường cũ, khi được ông khai thác chính xác, lại giúp cho công việc của  ông rất nhiều. Như sự lịch lãm và những hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực đời sống, những yếu tố ấy đã là những võ khí tốt, khiến cho người chiến sĩ văn nghệ Nguyễn Tuân có được những chiến công phải nói là sáng chói. Sự độc đáo của Nguyễn Tuân bấy giờ lại trở nên đắc dụng. Đứng về tác dụng phục vụ mà xét, thì những bài viết về Hà Nội đánh Mỹ của ông thuộc vào loại mà trừ phi Nguyễn Tuân, không ai làm nổi. Ma toàn bộ sáng tác của tác giả Vang bóng một thời sau 1945 cũng cần được nhìn nhận theo một tinh thần như thế.
III. Dù thích hay không thích phong cách riêng của Nguyễn Tuân thì những người nghiên cứu văn chương ông thường vẫn nhấn mạnh đây là ngòi bút hết lòng với nghề và trải qua nhiều khổ hạnh trong việc rèn nghề. Vào cái thời mà các tài tử, lãng tử đã nói ở trên còn đang là bộ phận chủ yếu trong lực lượng sáng tác văn học, dĩ nhiên, ở ta chưa có các nhà văn chuyên nghiệp, người làm văn làm thơ lúc ấy không ai sống bằng ngòi bút, chẳng qua nhàn rỗi thì làm, nên việc rèn luyện tay nghề mới là một thú vui mà chưa phải là một bức bách không có không được. Từ đầu thế kỷ trở đi, số người sống trực tiếp bằng ngòi bút bắt đầu xuất hiện, song dẫu sao vẫn là nghề mới, lại được tiếng là nghề tự do, nên nhiều người đến với nghề còn tùy tiện, ỷ tài mà viết, viết không ai in thì bỏ tiền túi ra tự in, chán, ế hàng, thì cuốn gói, sang làm nghề khác; những người biết sống chết với nghề, vừa viết vừa tích lũy để nâng cao tay nghề và nói chung có một quan niệm nghiêm chỉnh về nghề nghiệp, còn là rất ít.
Không những luôn luôn phải được tính tới trong đám ngoại lệ ít ỏi này, mà Nguyễn Tuân vẫn còn là một mẫu mực tiêu biểu của loại nhà văn chuyên nghiệp. Với ông, nghề văn có được ý nghĩa của một thứ nghề có căn có cốt; muốn làm nghề đó chỉ có năng khiếu và say mê không đủ, mà người ta còn phải khổ công học hành để tự làm giàu mãi lên, vì biết sự hoàn thiện của nghề là vô cùng vô tận. Chẳng hạn riêng về việc đọc. Nguyễn Tuân thường nói tới loại người có “dạ dày” sư tử, cái gì cũng ăn và cũng tiêu hóa sạch. Những người viết văn, theo ông, cũng phải có một thứ dạ dày như vậy. Ai cũng biết sức đọc của ông thật là đáng kể, ngày nào không đọc được một ít thường bứt rứt trong người. Ông đọc và ông tìm cách thu hút tất cả lên trang viết. Ây là chưa tính những phút cặm cụi trước trang giấy trắng viết, sửa chữa, thêm bớt, viết lại, cốt sao không thể viết hơn được nữa mới thôi. Có điều, khi đã có được sự hướng dẫn của một mỹ cảm tốt, sự khổ hạnh ở đây không bao giờ đồng nghĩa với lối hùng hục kéo cày của những ngòi bút bất tài, mà vẫn có chút gì đó vui vẻ thanh thoát và trong những trường hợp thành công, tác phẩm có cái tự nhiên như hóa công ban cho vậy. Một tinh thần làm nghề tận tụy đã ngưng kết cho trong nó toàn bộ bản lĩnh làm người mà một nhà văn như Nguyễn Tuân vốn có. ở chỗ này, chúng ta có thể liên hệ tới một nhận xét của nhà văn Xô viết L. Léonov
“Khi nói tới con người, tôi cho rằng nói luôn tới nghề nghiệp là một điều cần thiết. Tổng quát mà nói, tôi thích những người yêu tột độ một cái gì đó. Đối với tôi, việc đi sâu vào cách nhìn đời sống của họ thông qua nghề nghiệp mà họ gắn bó là một chuyện rất thú vị. Nghề nghiệp chính là sợi dây xã hội nối kết con người với thời đại”.
Chính Nguyễn Tuân cũng hiểu nghề nghiệp một cách sâu sắc và hướng cuộc đời mình vào chỗ gắn bó hết lòng với nghề như vậy. Sự liên hệ của ông với thời đại theo nghĩa thông thường vốn được tiếng là mỏng mảnh, sơ sài, nhưng nếu hiểu theo nghĩa mà  Léonov nêu ở đây, đó lại là một sợi dây bền chắc. Sự ham đi, ham quan sát được nâng lên thành bệnh “xê dịch” ở ông, sự trăn trở trong việc dùng chữ đặt câu ở ông… tất cả những thói quen ấy có vẻ đẹp riêng và sự cần thiết không có không được. Nếu hiểu sự khinh bạc lộ liễu của Nguyễn Tuân trước Cách mạng chẳng qua cũng là một cách nhà văn mài sắc mình để làm nghề cho thật đắt, chúng ta sẽ không quá thành kiến với nó, và có thể hiểu tại sao nó lại tồn tại đồng thời với những phẩm chất ngược lại, như tinh thần phục thiện và một tấm lòng biết thông cảm. Chẳng phải từ sau Cách mạng, khi không còn thật cần thiết cho nghề nữa, thói quen khinh bạc đó ở ông đã được gột rửa rất nhiều?!.
Có đi có tới, có tìm có thấy, có gõ thì có mở cho, ở cái đầu cùng của sự hết lòng làm nghề, nhập thân với nghề, người ta còn bắt gặp những khi Nguyễn Tuân như mê đi trong ma lực của ngôn ngữ, ngòi bút như bị ốp đồng để rồi viết ra những áng văn rờn rợn một thứ chất kỳ quái. Trước Cách mạng, cộng với những bế tắc trong tìm tòi nghệ thuật, nhũng giây phút tự mê hoặc này đã làm nảy sinh trong ông những trang trang “yêu ngôn’, như Xác Ngọc Lam, Đói roi, Rượu bệnh và đỉnh cao là Chùa Đàn. Sau Cách mạng, với một liều lượng ít ỏi hơn, lại được sự kiểm soát của một lý trí tỉnh táo, những thoáng xuất thần ở ông thỉnh thoảng vẫn có, song thường dễ chấp nhận. Đó là, chẳng hạn, trong Sông Đà, những trang miêu tả ngọn núi Lai Châu, cuộc đời oan nghiệt của các cô xoè, hoặc khung cảnh con sông Đà chảy giữa đôi bờ tiền sử. Trong khi chờ đợi một sự nghiên cứu đầy đủ hơn về lối viết này của Nguyễn Tuân, điều chúng ta có thể nói ngay ở đây: thật ra, cách viết đó không phải một trường hợp hiếm hoi, một căn bệnh chỉ ông mới có. Trong nhiều sáng tác của các nhà văn hiện thực Đông Tây, người ta vẫn thấy các tác giả nói tới sự thăng hoa của nghề nghiệp; vào những phút xuất thần như vậy, sản phẩm mà người nghệ sĩ tạo ra là tiếng đàn có ma, những bức tranh lung linh như cảnh thật và những bài thơ thuộc loại “thi trung hữu quỷ” (chẳng hạn điều này đã được nói tới trong tiểu thuyết Kiệt tác vô hình của Balzac hay trong truyện ngắn Cây vĩ cầm của Rotsin của Tsékhov v.v…) Gần với chúng ta hơn, mới đây thôi, đầu 1986, nhà văn Nguyễn Khải cũng viết rất hay về hiện tượng kỳ lạ này:
“Các cụ thường nói: nghề dạy nghề, làm mãi một nghề, làm cho say mê, cho tận tụy cho tới tột cùng thì rồi cũng có ngày đạt tới cái thần của nghề. Làm nghề gì cũng thế, đã đạt đến cái thần của nó tức là đã phá bỏ được mọi điều ràng buộc, là người tự do hoàn toàn vì không còn gì có thể ngăn trở giữa mình với cái đích. Viết như chơi như bời và văn chương vẫn như mây như sóng, không còn thể loại, không còn chữ nghĩa, không còn cả mình với người, riêng với chung, to với nhỏ, cao với thấp, bi với hùng. Tất cả đã trở thành một, khêu gợi, lấp lánh, huyền ảo, mỗi lúc đọc mỗi khác, mỗi tuổi đọc mỗi khác, như chính nó đã là một hiện tượng tự nhiên mãi mãi tồn tại cùng với sự sống”
Từ những nhận xét loại này, chúng ta dễ thông cảm hơn với những bột phát của ngòi bút Nguyễn Tuân và cũng trân trọng hơn với những tìm tòi chính đáng ở ông.
Cũng cần phải nói ngay là ở đoạn trích trên, Nguyễn Khải không chỉ nói riêng tới nghề văn, tuyệt đối hóa nó, mà bảo rằng ở bất cứ nghề nào cũng có thể có sự thăng hoa nếu đi tới tột cùng. Bản thân Nguyễn Tuân cũng nghĩ như vậy. Với mọi nghề ông đều đề ra yêu cầu rất cao, bởi theo ông, nghề nào cũng có chỗ thâm sâu đáng tự hào của nó. Một đầu sách nhất của ông mang tên Chuyện nghề in ra đầu 1986. Là người biên tập đầu cuốn, sau khi tập hợp bài vở cho tác giả, tôi đặt tạm cho nó một cái tên ước lệ là Nói chuyện nghề nghiệp. Theo thói quen hay vặn vẹo chữ nghĩa của mình, khi nhìn thấy bốn chữ đó, Nguyễn Tuân lấy bút gạch đi chữ Nói ở đầu, chữ nghiệp ở cuối, chỉ để lại hai chữ ở giữa. Cho nó gọn nhẹ, Nguyễn Tuân bảo vậy. Và ông nói thêm:
- Thỉnh thoảng đi với một cán bộ nào đó, mình mới hỏi: “Ông làm gì?”, “Thưa anh, tôi bên Thanh niên”, “Thưa anh, tôi bên Công đoàn”. Mình không hỏi gì nữa, chỉ nghĩ người kia đã lơ đãng không trả lời đúng vào câu hỏi mình, hay không có nghề, chắc lý do sau thì đúng hơn. Bởi chỉ những người không có tự hào gì về nghề nghiệp mới lúc nào cũng chăm chắm nói về cái nơi làm việc của mình mà thực ra không biết mình sống ở đấy bằng nghề gì. Lo hành nghề cho lành nghề đã không xong, lại còn không nghề ngỗng rõ ràng, bảo đi làm gì cũng được, nghĩ cũng kỳ đấy chứ. Mà mình biết, hạng người đó vô khối. Nên ngay trong cái việc tưởng chỉ có cảm hứng như viết văn, cũng phải nhấn vào cái chữ nghề cho thiên hạ thấy!
IV.Tiến một bước nữa trong việc làm nghề, con người Nguyễn Tuân còn là con người trò chơi với ý nghĩa hiện đại của mấy chữ ấy.
Chúng hải giai đông tẩu
Đà giang độc bắc lưu.
Hai câu thơ chữ Hán ấy không chỉ đáng làm đề từ cho bài viết ở cuối tập Sông Đà mà lẽ ra, có thể dùng làm đề từ cho mọi sáng tác ký tên Nguyễn Tuân và cho toàn bộ cuộc đời con người đó nữa. Trong khi mọi con sông khác xuôi sang đông thì sông Đà một mình ngược lên hướng bắc, tinh thần của con sông ở đây là tinh thần đi ngược thói thường, sẵn sàng phiêu lưu tới những miền chưa ai biết, miễn sao đạt được những niềm vui lạ. Chơi là thế! Cũng như chơi là đặt ra quy tắc rồi lại tìm cách phá bỏ quy tắc; là kết hợp những cái tưởng như không thể kết hợp được với nhau: là cảm giác đóng kịch, cảm giác hội hè; là những hoạt động kèm theo nỗ lực, rồi từ nỗ lực mà sinh ra niềm vui và một nhận thức về cuộc sống. Khi bàn về Picasso, một nhà nghiên cứu Xô- viết từng đưa ra một khái quát: “Con người nói chung, con người hiện đại nói riêng, không chỉ là homo sepiens (con người trí tuệ), homo faber (con người làm việc), mà còn là homo ludens (con người chơi nghịch). Và đây không chỉ là mặt yếu mà còn là sức mạnh tinh thần của hắn, sự đảm bảo cho tự do của hắn”. Một khái quát như thế, không chỉ đúng với Picasso mà còn đúng với nhiều nhân vật lớn trong nghệ thuật thế kỷ XX, như Charles Chaplin, Stravinsky. Chúng tôi nghĩ rằng ít nhiều ở Nguyễn Tuân, cái chất con người trò chơi đó, cũng có. Viết chữ đẹp và giỏi cầm trống trong những khi đi hát ả đào, thạo về tranh, về tượng, biết nhiều về kỹ thuật sân khấu và kỹ thuật điện ảnh, ông sống nghiêm chỉnh mà lại như đang dễ dàng đùa bỡn với đời, đấy là một lẽ. Riêng trong việc viết lách, hầu như không bao giờ ông muốn đi theo cái nếp bình thường, mà cứ luôn luôn muốn tạo một ấn tượng khác lạ. ở chỗ người ta quen dùng chữ Hán, ông tìm bằng được một chữ nôm cùng nghĩa, để rồi những khi khác, người ta chỉ hạ những chữ thông thường, thì ông trương lên những chữ thật hiếm gặp, những chữ gốc Hán mà phải thuộc loại thông thái bặt thiệp lắm mới biết dùng. Ông không nghiêng hẳn về một lối viết nào, khi giản dị, thì giản dị không ai bằng mà khi cầu kỳ, thì cũng cầu kỳ không ai bằng. Thế thì bản sắc của ông ở đâu? Thưa, ở chính lối ham chơi kia, lối ham chơi như là sẵn sàng từ bỏ mình để đóng sang những vai khác, không phải là mình, càng lạ càng thú. Một ví dụ: Đọc văn cũng như tiếp xúc riêng với Nguyễn Tuân, người ta biết rằng ông ghét cay ghét đắng việc buôn bán và ông từng định nghĩa nghệ thuật là một công việc: “mà những con buôn quen sống với đổi chác hàng họ và buôn Tần bán Sở đều gọi là vô ích”. Nhưng thỉnh thoảng vai một người bán hàng vẫn len đến, mời gọi con người thích tìm những cảm giác lạ ấy. Lần đầu tiên đọc cái tít bài ký của Nguyễn Tuân trên một số báo Văn nghệ: Tôi bán năm cành hoa tết, tôi hơi ngờ ngợ, sau mới hiểu ra trò nghịch của ông già và tự cắt nghĩa được rằng tại sao, báo chí vẫn muốn mời ông viết ít dòng cho các số Tết. Có một lần, ông giải thích về một cái bìa mà ông đề nghị họa sĩ làm cho một cuốn sách:
– Cuốn sách chỉ có nhan đề là ký, ắt chữ ký phải đậm. Và  trong hai chữ tên tác giả, mình muốn lèo thêm một sự nhấn mạnh nữa là cho chữ Tuân nó cũng đậm ra. Thế là nhìn vào bìa thật nhanh người ta thấy hai chữ Ký và Tuân, người ta đọc ký Tuân, ký Tuân như khi ra chợ, người ta hỏi mua ký thịt bò, ký đường vậy.
Ai đã quen đọc văn Nguyễn Tuân đều biết đấy là lối chơi chữ nhiều khi đã thành một cái tật ở tác giả. Tuy nhiên, khi nhà văn đã lấy tên tuổi mình ra mà đùa như thế này, thì có nghĩa con người trò chơi đã thành một thứ bản thể thứ hai nơi ông. Lại nhớ đến Nguyễn Công Trứ tương truyền về già còn thích bận áo lụa xanh, quần vải đỏ, đi đâu đủng đỉnh trên lưng con bò vàng. Lại nhớ Tú Xương với những lời ỡm ờ khi đi hát mất ô và lời tự giễu “ở phố hàng Nâu có phỗng sành- Mắt thời thao láo mặt thời xanh”. Lại nhớ Tản Đà, đề ở Khối tình con thứ nhất:
Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang
Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng
Chẳng lề, chẳng lối, cũng văn chương
Còn non, còn nước, còn trăng gió
Còn có thơ ca bán phố phường.
Những người như thế, già từ khi còn ít tuổi, và cho đến già, cũng vãn còn một đứa trẻ con trong lòng, cho nên việc ham chơi đối với họ, cũng là sự thường. Trong một tài liệu viết về tâm lý học, tôi đọc được những nhận xét:
“Chơi là một cách để trẻ tự thích ứng, tự giáo dục”
“Trò chơi chính là một hình thức hoạt động tự do nhất và cũng là tự nhiên nhất của trẻ”.
“Trong trò chơi, trẻ có dịp phát biểu suy nghĩ của mình”.
“Trò chơi trước hết là một sự tự thực hiện; đứa trẻ không bộc lộ cái gì khác ngoài chính mình”
Lẽ nào những nhận xét ấy không thể áp dụng cho “đám trẻ” kỳ lạ này,  những nghệ sĩ lớn trong lịch sử nghệ thuật mà chúng ta hết lòng yêu và kính
V. Nếu như trong văn học sau 1945, có một nhà văn nào tạo ra chung quanh tên tuổi mình cả một huyền thoại ,thì người đó chính là Nguyễn Tuân. Trong khoảng hơn hai chục năm cuối đời  từng dòng chữ ông viết được soi ngắm và từng cử chỉ lời nói của ông được đồn đại rộng rãi. Luôn luôn những người trong giới văn học đã bàn về ông và đến hôm nay, những lời bàn ấy cũng chưa ngớt. Ghi lại những tiếng dội của cuộc đời và văn chương Nguyễn Tuân trong lòng người khác, tưởng cũng là một cách để hiểu con người ông cũng như không khí văn học một thời:
– Nguyễn Tuân rất độc đáo và tạo ra nhiều bất ngờ ngay trong cách sống hàng ngày. Người quen được người khác chiều và ít khi chiều ai, rồi quá đáng, rồi cực đoan, cái đó có cả. Nhưng sao vẫn có nhiều người ngưỡng mộ ông? Hình như ngoài chuyện tài năng người ta vẫn nhận ở con người đó có cái thực rất đáng trọng.
Còn như đến gần Nguyễn Tuân ấy ư? Chuyện ấy đôi khi ngại thật. Trong người ông cùng lúc có cả sức hút lẫn sức đẩy người khác, mà đẩy cũng mạnh lắm.
– Phải công nhận là Nguyễn Tuân có cái sòng phẳng của ông, ông không giấu cái tật mê thanh, mê sắc hồi xưa, song những duyên nợ dềnh dàng ấy, nay cái gì thấy cần phải dẹp đi, là tự ông dẹp đi liền. Một chuyện như thế này, không phải tự mồm Nguyễn Tuân nói ra, thì ai mà biết được. Đầu tháng 10-1954, ông có chân trong bộ phận cán bộ về tiếp quản thủ đô. Địa điểm tập kết là Hạ Hồi, Hà Đông. Trong khi những anh em khác chờ xe ô tô thì Nguyễn Tuân mượn bằng được chiếc xe đạp của ông chủ nhà trọ để đạp về Hà Nội. Về đến Bờ Hồ ông đang đi quanh quẩn thì nghe có tiếng chào: “Kìa, ông đã về”. Thì ra một bà chủ cô đầu. Bà hẹn ông đến chơi. Nhưng từ bấy đến khi ông qua đời, cái hẹn ấy ông vẫn chưa trả.
– Người nặng căn như thế, mà khi đi theo cách mạng, chuyển cũng đã ghê đấy chứ. Bởi văn chương Nguyễn Tuân vốn ghi lại trung thực những gì mà ông đã sống, nên đọc Tùy bút kháng chiến đã có thể thấy ông đã đi sát mặt trận thế nào. Trong Giữa hai xuân, ông từng nói qua về cảm giác lần đầu cầm quả lựu đạn. Và đây, một đoạn trong Lửa sinh nhật: “Tôi ngóng giờ khai hỏa. Nắm cơm chiều qua dắt theo thắt lưng, suốt một đêm hành quân giờ đã thiu. Nhưng thôi, cứ bỏ vào mồm. Tôi gối lên đàn kiến càng, cố nhắm mắt. Tai áp sát đất, càng nghe rõ tiếng dội của thuổng đào công sự”.
– Ngay đoạn sau này đi viết Sông Đà lại chả ghê à. Hồi ấy từ Quỳnh Nhai sang Than Uyên đâu đã có đường cái, ông phải xin hẳn một con ngựa và một dân quân, cứ theo đường mòn mà đi, ba ngày không gặp người đi ngược. Với hoàn cảnh bấy giờ, đi và viết Sông Đà phải nói là một chiến công.
– Kể đi thôi thì còn nhiều người khác đi bạo hơn ông, nhưng đây là việc đi của nhà văn, nó phải kèm vào việc viết. Sở dĩ Nguyễn Tuân viết được về Tây Bắc vì ông biết nhìn ra ở đấy vẻ đẹp; Ông xem Tây Bắc là một công trình nghệ thuật. Ngay viết về đường xá ông cũng lấy tiêu chuẩn một cái gì đang hình thành ra xét.
– Cũng trên phương diện nhìn nhận sự khổ hạnh ở Nguyễn Tuân, tôi thấy phải nói đây là một trong số ít nhà văn ở ta nhạy cảm về hình thức và có được cách hiểu toàn diện về bản chất cái đẹp trong hình thức nghệ thuật. Đọc văn Nguyễn Tuân luôn luôn cảm thấy hình thức đứng ra thách thức với nội dung, giữa hình thức với nội dung vừa sóng đôi nhau, vừa đuổi bắt nhau. Luôn luôn cảm thấy ông viết rất đặc biệt, mình không thể nào bắt chước nổi.
Nhưng nhiều khi Nguyễn Tuân cũng đi quá đà, dày vò chữ quá, không được tự nhiên như chính ông muốn. Cũng là cái tật như trong cuộc đời hàng ngày của ông.
– Lại nói chuyện con người Nguyễn Tuân ư? Những ai từng được làm quen với sân khấu Nhà hát lớn Hà Nội trước Cách mạng đều biết ông rất có duyên với nghề diễn kịch; dù ông chỉ đóng những vai phụ, nhưng thông thường, đó là những vai phụ khó quên. Từ chuyện sân khấu tôi muốn lên hệ sang chuyện đời. Hiểu nhập vai theo một nghĩa tốt đẹp, thì trong cuộc sống hàng ngày, Nguyễn Tuân cũng rất nhập vai, tức là đã định làm cái gì thì làm bằng được, làm đến cùng. Chẳng hạn như khi cần vận động quần chúng, người cán bộ ấy cũng giỏi lắm. Đã ai từng đi với ông Tuân trong một chuyến công tác xuống một đơn vị nào chưa? Chưa hả. Các anh có thể tưởng tượng được không, khi nói trước công chúng, đấy là một nhà thuyết giáo thực thụ. Thành thử, trong Nguyễn Tuân, bên cạnh một người lãng tử cuối mùa, một người làm nghề tự do rất cao tay nghề, như các anh đã nói, còn thấy có một chính ủy nữa. Lưu ý tới điều đó, xem nó như một yếu tố chủ đạo, ta sẽ cắt nghĩa được Nguyễn Tuân sau Cách mạng.
VI. Ở trên, khi cần phác ra một ít nét đại thể về con người Nguyễn Tuân, chúng ta đã nhớ lại các hình ảnh mà ông thích thú: Nhà văn như kẻ đi đường không bao giờ mệt mỏi. Nhưng chữ đi ở Nguyễn Tuân vốn không chỉ bó hẹp vào sự di chuyển trong không gian mà có nghĩa rất rộng: “Ngay cả lúc anh đăm đăm ngồi trước trang giấy trắng lạnh phau giữa phòng văn, anh cũng vấn là một con người đang đi. Đi vào cái đêm làm việc của mình. Đi cho đến chỗ tận cùng của đêm mình” Cái dạng đi này của Nguyễn Tuân còn ít được nói tới, nhưng thật ra, chính nó lại là khía cạnh quan trọng bậc nhất trong con người Nguyễn Tuân mà những người yêu mến văn ông cần biết.
Trước 1945, một nhà thơ có quen Nguyễn Tuân đã tả ông là một người sống cẩn thận, đủng đỉnh, cử chỉ nhỏ nhẹ, đàng hoàng, làm gì cũng đắn đo và có cái vẻ cặm cụi khác hẳn với những trò chơi ngông khinh bạc mà chúng ta vẫn nghe kể trong văn ông. Thói quen làm việc ấy vẫn còn lại ở Nguyễn Tuân cho đến cuối đời. Sau những chuyến đi rất dữ: đi dọc, đi ngang, đi lên, đi xuống, đường đi nước bước như kẻ bàn cờ trên sông hồ trăng nước.. nhà văn trở về căn buồng của mình, ở đó, ông đọc, ông ghi chép, ông lập hồ sơ cho những tài liệu cần thiết, nhất là ông suy nghĩ và làm công việc cuối cùng của nghề viết là cho tác phẩm hiện lên trên trang giấy. Nguyễn Tuân viết như thế nào? Theo lời kể của những người thân của nhà văn, thì ngồi đâu ông cũng viết được, không cần bàn. Nhưng tâm linh ông thì tôi tưởng, phải nói là một sự “nhập thiền” hoàn toàn, không thể khác được. Những ai đó có dịp đến thăm Nguyễn Tuân ở nhà riêng đều biết buồng văn của ông là cả một kho chứa ở đó ngổn ngang sách vở cổ kim đông tây, từ những cuốn sử ký, địa dư, sách du ký, sách dạy nghề, in từ những năm nảo năm nào, tới những tờ báo về nghệ thuật hoa viên rồi những bản tin nhanh và tài liệu in roneo nào đó nói về hoạt động của Việt Kiều ở nước ngoài mà bạn đọc xa gần mới gửi cho ông. Rồi tượng, an-bom và các loại sách kỷ niệm sau các chuyến đi nước ngoài. Rồi chính ông nữa, ấy là, ngoài những ấn bản in ra rải rác ở trong nước và nước ngoài nửa thế kỷ nay, còn không ít hình ảnh Nguyễn Tuân trong quá khứ, Nguyễn Tuân khi đóng phim, đóng kịch, Nguyễn Tuân trong ảnh của Trần Văn Lưu, Hoàng Kim Đáng, Nguyễn Tuân trong nét vẽ của những họa sĩ từng giao du với ông và đến thăm ông, những Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Trọng Kiệm, Nguyễn Trung v.v... và v.v… Ngồi viết giữa một cảnh tượng văn hóa như thế, là cả một sự thách thức. Sự cặm cụi của Nguyễn Tuân, đúng hơn, sự đơn độc của ông lúc này mới có được cái ý nghĩa mà nó phải có: ông muốn đối mặt với tất cả. ông muốn thêm vào một cái gì xứng đáng với tinh hoa văn hóa đang vây bủa quanh ông và đã là một phần sự sống trong ông.
Giả kể có đoán khi viết, Nguyễn Tuân thường thắp lên mấy nén hương, chắc cũng chả ai nhạc nhiên!
Giữa một cuộc sống trần tục xô bồ, trước sau ông vẫn là một nhà văn xem trọng sự thiêng liêng nghề nghiệp và sống với nó thành kính thật sự.
Nhìn lại cả đời văn Nguyễn Tuân, chúng ta thấy gì? Chúng ta nghĩ đến sự công bằng. Ai đối xử với nghề nghiệp ra sao, sẽ được nghề nghiệp đối xử lại như vậy. Cố nhiên, rộng hơn câu chuyện tác phẩm còn có câu chuyện về chính con người đã tạo ra các tác phẩm này nữa. Trong sự độc đáo của mình, cuộc đời Nguyễn Tuân có hấp dẫn chúng ta, nhưng suy cho cùng, đó không phải là lối nêu gương để chung quanh bắt chước. Không, Nguyễn Tuân không thể làm thế. Với tất cả cái hay cái dở, cái tài cái tật vốn có, lời kêu gọi của ông giản dị hơn: Mỗi người hãy sống đúng với bản sắc của mình.
Thật vậy, sau khi nói rằng sự làm người là nghiêm chỉnh, rằng chúng ta phải sống đúng sống tốt, như cái phần lương tri trong chúng ta vẫn yêu cầu, cuộc đời Nguyễn Tuân như còn muốn nhắn nhủ thêm một điều này nữa: muốn hay không muốn mỗi chúng ta đều là một thực thể đơn nhất, riêng biệt, không giống một ai khác và không ai thay thế nổi. Khi điều đó không phụ thuộc vào ý muốn của riêng ai mà là một cái gì tất yếu “không thể sửa chữa” thì tại sao chúng ta không tạm bằng lòng với mình, yên tâm là mình, nó  là điều để ta tự vệ tức tránh bớt được những dằn vặt vô ích, mà biết đâu đó chẳng phải là một cách giúp ta để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng đồng loại và do đó trở nên có ích hơn hết?
TÁC PHẨM MỚI SƯU TẦM
THẠCH TINH TRONG RUỘT MỘT NGƯỜI
Nguyễn Tuân
“… Đến lúc nào mà đá  lại biết nói
nữa, thì chúng bay sẽ chết hết…“
Kinh Sám Hối
GHI CHÚ VỀ VĂN BẢN
Sinh thời Nguyễn Tuân, các truyện Yêu ngôn đã viết chỉ mới kịp đăng báo chứ chưa được ráp thành tập. Dựa trên ý đồ và tài liệu sẵn có của tác giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã tìm cách dựng lại Yêu ngôn rồi  khai sinh cho nó thành một tập sách riêng. Yêu ngôn in ra lần đầu ở nhà xuất bản Hội Nhà văn 1999.
Chúng ta có dịp đọc lại ở đây Đới roi, Rượu bệnh, Xác ngọc lam, Loạn âm, Lửa nến trong tranh, ngoài ra còn có Khoa thi cuối cùng và Trên đỉnh non Tản (lấy từ Vang bóng một thời), Tâm sự của nước độc (lấy từ Chùa đàn).
Song theo chúng tôi tìm hiểu, Yêu ngôn không chỉ có vậy. Thiên truyện sau đây in ra lần đầu ở một tập sách mang tên Thơ văn mùa xuân (1943), vốn là một thứ sách tập hợp sáng tác của nhiều người khác nhau. Điều đáng chú ý là trong truyện này, tác giả đã ghi chú là sẽ cho in Tổ tôm người và ở cuối truyện thì có ghi rõ là rút ở tập Yêu ngôn. Tiếp đó, tới đầu 1945, trên tạp chí Thanh Nghị số đặc biệt (100,101,102,103,104), còn thấy NXB Tân Việt quảng cáo rằng đã in của Nguyễn Tuân một tập ký mang tên Xe đào (ghi rõ bản thường mỗi cuốn 7 đồng) và sẽ cho in Cậu lãnh một. Xe đào nói ở đây tức là xe điều, một quân trong cỗ tam cúc; còn lối gọi nhân vật là “cậu lãnh một” cũng xui người ta liên tưởng tới cách gọi nhân vật trong Chùa đàn. Lại một lần nữa chúng ta thấy sự liên tục của những mô típ và chất liệu. Bởi vậy mặc dù chưa tìm thấy các cuốn sách trên trong các thư viện (thậm chí Cậu lãnh một có thể là mới rao thế thôi, nhưng tác giả chưa cho in, thậm chí chưa viết), chúng tôi vẫn muốn tin  rằng  có cả một mạch tư duy “kiểu yêu ngôn“ mà vào khoảng 1942-1945, Nguyễn Tuân đã theo đuổi. Có khả năng cả loạt tác phẩm đã được thai nghén, và dù chỉ một số đã xuất xưởng, số ấy cũng nhiều hơn những truyện trong tập Yêu ngôn chúng ta đang có.
Dưới đây là thiên truyện Thạch tinh trong ruột một người, in đúng như văn bản đã tìm thấy, kể cả cách viết hoa trong một số tên truyện; chỉ riêng cách viết  một số từ, chúng tôi sửa theo quy định chính tả hiện nay. Chú giải đầu tiên của tác giả đánh dấu hoa thị, các chú giải sau đều là của người sưu tầm.
Từ cái chuyến đi chơi hội Đèn mùa Xuân năm ấy và đánh Tổ Tôm Người (*) ở làng Nguyệt Tường - về là cậu Bảy đau nặng. Bệnh lạ quá. Động ăn chút gì vào là thổ ra hết. Thuốc, đến chén này là chén thứ bốn mươi hai - tính đến cụ lang xóm Bình Xa này là ông danh y thứ mười một -, không chén thuốc nào chịu đi qua cổ họng cậu Bảy. Mặc dầu con bệnh cố nuốt nước thuốc mà thuốc không chịu xuống. Hễ uống ngụm nào là lại trả ra ngay. Nền gạch lá nem dưới giường kia, từ ngày cậu Bảy nằm liệt đó, đã mất cái màu hồng tái cố hữu của nó. Những nước thuốc thổ ra đây đã sơn lên một màu cánh gián dày cộm, mỗi khi gặp kỳ hanh nó lại nứt rộp ra từng tảng cạnh uốn cong. Gặp gió nồm, những tảng sơn đó lại nhũn sũng ra, lênh láng sánh đặc. Trông cứ như là thuốc phiện tốt, chan hòa mà không trôi chảy đi đâu cả. Đến thế này thì con bệnh đã phụ thày và phụ thuốc nhiều quá. Nước thuốc của đơn nào, cậu Bảy liền giả ngay cho thày đó, không hợp với ai cả. Trong khi nằm chờ sự lành vững cũ trở về với thể xác, ở các lỗ chân lông con bệnh vẫn tiết ra một thứ mồ hôi đỏ như máu, mỗi ngày thay đều mấy lượt quần áo mà người vẫn cứ đỏ đẫm ra như máu. Máu ấy khô cứng lại, dính bám vào da thịt, mỗi lần con bệnh bị dựng dậy để thay mặc, sự đau khổ thực không biết thế nào mà nói cho hết được. Đũng và cạp quần, đường hồ lá sen áo cánh dính bết vào đã đành. Lại đến cả đường bâu áo dài cũng phải khéo tay gỡ lắm thì mới tránh được sự nhăn nhó rên la cho con bệnh. Nhục hình đó, sớm chiều ngày nào cũng diễn lại. Vào những buổi thay áo và tắm khan cho cậu Bảy, thân quyến đều lánh đi hết. Chỉ có một người đầy tớ già làm việc bên giường. Cậu Bảy lo khổ về bệnh thì có một phần và đau xót về nỗi nhục nhã này thì có đến muôn nghìn. Không rõ có phải đây là một chứng nan y hay không, nhưng con bệnh tưởng phụ ngay được đời sống bằng một việc quyên sinh còn hơn là kéo dài ngày chờ khỏi với cái cảnh tượng một phế nhân tanh tởm xấu xí này. Hỡi ôi, trông cậu bây giờ, ai dám nghĩ rằng con người ấy, trước đây, đã từng bao nhiêu lần mặc áo gấm lam có vảy bạc và cưỡi một con ngựa màu phấn đạm.
Cậu Bảy tuy là người của thế kỷ này, nhưng nhất định không dùng ô-tô, mặc dầu cậu thừa sức sắm được - mỗi lần ngừng nhạc (1) ở cổng vườn nhà nào để hỏi thăm tiểu chủ nhân xem đêm trước hoa rụng nhiều hay ít, thì miệng nói ra toàn là thơ và nhời của câu đối cả! Con người phong lưu mã thượng ấy, giờ trông đáng kinh tởm lắm. Ngày nào cũng vậy, ở các lỗ chân lông, thay cho mồ hôi của một thứ bệnh thoát dương, chưa có tên chua trong y khoa xứ này thời này, máu cứ đều đều rỉ tuôn ra tưởng như không bao giờ cái chất quý ấy ở một người lại có thể cạn kiệt được. Gian buồng bệnh, tanh hơn lòng thuyền của người đi bể đánh cá dài hạn. Cho người lạ chợt vào đây, cái cử chỉ đầu tiên của người ấy là cứng chân kìm đà bước, ưỡn ngửa người ra sau để đưa tay lên cố mà băn khoăn với một cơn mửa lộn hộc. Và nhìn người nằm đờ trên giường bệnh áo quần tẩm ướt đỏ ngòm và dưới gầm bóng loáng nước thuốc nâu cô sánh lại, người ta nghĩ đến một vụ án mạng - tử thi nằm chờ quan huyện đến khám nghiệm, đối chiếu xác với phép sách Tẩy Oan.
Thân quyến cũng héo dần trong sự ngậm ngùi. Hết lễ bái ở đền này phủ nọ, hết bói toán tướng số thì lại ngờ đến mồ mả gia tiên xem có ai phạm tới không. Ông thầy địa lý cũng không hơn gì được ông thầy bói và ông thầy thuốc. Cô Chín - em ruột cậu Bảy - vốn biết anh mình không phải là một người thẳng thắn, trong tâm tính những lúc ra ngoài, ngờ anh đã dính vào một việc tình cảm ở chỗ đầu sông ngọn nguồn xứ Mường, đã chót chỉ non thề bể với con nhà lang đạo nào ở thượng du để đến nỗi người ta phải hờn giận mà chài ốm chăng. Bèn nói với mẹ nên đem vàng nhang lên dò hỏi ở những chỗ rừng xanh núi đỏ. Cũng vô hiệu. Cũng vẫn không chỉ được cái thứ mồ hôi đó ngày ngày tuôn rỉ ra khắp mình Cậu Bảy.
Ấy là sự thuốc thang chạy chữa. Còn như việc cơm cháo hằng ngày thì con bệnh chỉ chịu uống có nước đậu xanh xanh lòng; còn bất cứ cái gì khác là cũng đều trả ra hết. Người, ăn uống như thế, gì mà chẳng teo ngót mãi đi. Tứ chi như bốn thân que, khắp mình đường gân xanh nổi lên rõ; ổ mắt trũng xuống, xương lồng ngực đội mãi lên; cuống họng thắt lại, tiếng nói bé dần, nói ra không ai nghe thấy gì nữa; rồi đến thính giác lại càng hỏng quá; không nghe thấy một tiếng động gì của ngoại cảnh lọt được vào và riêng trong đầu mình thì suốt ngày đêm cứ thấy có cái gì nó kêu gào ngay ở đấy - lắm lúc nghe sợ quá, con bệnh lại rú lên, vật vã giẫy giụa, trông thương thảm vô cùng.
Một hôm, theo lệ thường vào thay quần áo lần thứ nhất mỗi ngày cho Cậu Bảy, người nghĩa bộc có tuổi bỗng kêu to lên, làm kinh động cả một gia đình ít lâu nay chỉ còn sống trong âm thầm. Y gọi cả nhà lại giường bệnh mà xem. Người nằm đây không đỏ đẫm như mọi ngày nữa và giờ lại trắng bệch. Thì ra, không hiểu vì phép sinh lý gì, màu đỏ trong người con bệnh đã hết từ đêm trước và, tuôn ra các lỗ chân lông, giờ chỉ toàn là một thứ máu trắng. Lấy tờ giấy bản để lên mình con bệnh một lúc lâu cho nó thấm hút lấy ít máu trắng, người lão bộc thè lưỡi nếm vào mảnh giấy ướt, thấy nó nhạt như vị nước lã, bèn khóc oà lên với một câu: “Thế này thì cậu con chẳng còn sống được mấy chốc nữa đâu. Cả nhà lo liệu đi thì vừa thôi.” Từ buổi nếm phải một thứ máu không có chất tanh, mặn và thay những quần áo không còn màu đỏ máu như trước nữa, người đầy tớ già xác tín rằng mình đang liệm sống cho một người lả dần về cõi khác.
Cuối tháng đó, người chú Cậu Bảy lật đật về đến nhà, sau khi nhận được gia thư do Cô Chín gởi đi. Ông tức tốc vào buồng bệnh, đem thẳng ngay cát bụi của đường xa vào gian phòng sâm tịch (2), muốn giáp mặt ngay đứa cháu để hỏi chuyện. Đã từ lâu, Cậu Bảy vốn không nghe được tiếng gì và không nói được ra tiếng, chú cháu phải lấy giấy mực ra để bút đàm. Tờ giáp (3)  cuộc hội đàm thân mật bằng bút này, xem lại y như  những lời hỏi cung và những lời thú tội. Gọn rõ  và cảm động.
Chú hỏi: “- Tháng giêng mùa vừa rồi, mày cho ngựa ngày ăn cỏ ở vùng nào?”
Cậu Bảy, cố thu hết thân lực vào đôi mắt, nhìn ông chú không chớp cố tỏ cho chú biết rằng mình không có điều gì phải minh (4)  cùng ai hết. Biết đứa cháu có tính gan bướng, ông chú bèn đấu dịu. Bèn viết lại: “Thầy cháu mất đi rồi, lớn nhất trong chi họ nhà ta, chỉ còn có chú. Vì sự mưu sinh, chú phải đi xa luôn. Chú không ở luôn ở nhà được để góp thêm tâm ý vào việc phục hưng gia tộc, thật là một điều lỗi đối với các cháu hàng dưới. Nay nhận được thư của em Chín cháu, kể rõ sự tai biến, chú vội về thăm cháu và cần nhất là hỏi cháu mấy điều, trước khi cháu chết - chú chẳng cần phải giấu mà không dám nói ngay cho cháu biết rằng sự sống của cháu bây giờ cũng chỉ là việc của khoảnh khắc đây thôi; có kéo dài lắm thì cháu cũng chỉ đậu được đến ngày thu phân tháng sau thôi”. Đến đây, ông chú chừng cũng bùi ngùi thay cho đứa cháu bạc mệnh, ngừng viết, nhìn Cậu Bảy. Mặt Cậu Bảy rớm lệ. Ông chú viết tiếp:
– Tháng giêng vừa rồi, cháu chơi ở làng Nguyệt Sương?
– Vâng. Chơi Tổ Tôm Người.
– Đúng rồi. Chẳng lúc về đây, tiện đường, chú rẽ vào làng Nguyệt Sương thăm ông Chánh Ba và được nghe một câu chuyện tự ải (5) . Người con gái quan Lãnh Tín gieo mình xuống đầm. Rồi ông Chánh Ba lại kể cho chú nghe về phong tư diện mạo một người khách phương xa đến chơi Tổ Tôm Người, khăng khít với một con Thang Thang. Cứ những dáng điệu người và lời thơ hạ chữ đối và gieo tử vận (6), do ông Chánh Ba thuật lại , thì chú đoán ngay ông khách phương xa ấy lại là cháu chú rồi. Thế còn cái con Thang Thang ấy? Ai sắm Thang Thang trong hội bài người?
– Bẩm chú, chính là con gái quan Lãnh.
Ông chú lịm người đi, tay rời hẳn bút ra. Thế này thì ông hiểu rồi. Chợt trong có một phút của trực giác, ông nhận thấy ngay liên can giữa bệnh người cháu và cái chết đuối của người con gái kia. Ông gặng hỏi: “Vậy chớ mày thề thốt những gì với con gái ông Lãnh Tín?”. Cậu Bảy không trả lời, khẽ thở dài. Ông đổi câu chuyện:
– Giờ tao hỏi về bệnh mày. Thế trong người mày bây giờ nó như thế nào? Kể rõ cho chú nghe.
– Kể lại cũng vô ích. Thuốc thầy nào chữa nổi. Cháu chỉ còn chờ có chết để tạ lỗi cùng con bài Thang Thang. Việc cô con gái quan Lãnh tự vẫn, cháu được biết từ trước khi chú nói. Chỉ có lửa vạc dầu sôi của một thế giới khác là mới tẩy hết được căn bệnh của cháu. Lửa của cuộc đời này, không đủ nóng để diệt những trùng trong mình cháu. Thôi, ngày giờ của cháu đang bị tính đếm từng li từng phút, chú để cho cháu được yên tĩnh mà nghĩ tới một hậu kiếp của cháu ở ngoài thế giới này.
– Làm ích được cho đời sống này chút nào, ta vẫn cứ phải gắng, gắng cho tới phút cuối. Bệnh của cháu, tự cổ lai đến giờ, chưa có một y gia cổ kim Đông Tây nào nói đến. Y học Thái Tây thì lại càng không có bàn đến nữa. Nó là ở ngoài khu vực y khoa hiện đại. Cháu cứ kể rõ chú nghe. Chú ghi lại để rồi sau sẽ thuật chép ra để chất chính (7) cùng những bậc Biển Thước của năm cõi lục địa. Đã hay rằng việc này là một việc quả báo, một việc âm oán. Nhưng biết đâu đấy? Cháu cứ kể rõ. Cháu gây nên tội ác, cháu đau khổ nhục nhã đến như thế, tưởng cũng là đủ cho linh hồn cháu siêu thoát rồi. Đời cháu, vào quãng cuối, thế mà lại còn hơn cả những cuộc đời kẻ khác trọn đời không làm một điều thiện nào và cũng chẳng làm một điều ác nào. Cháu cứ bình tĩnh mà kể lại chứng bệnh cháu, may ra có bổ ích gì cho người đồng thời không?
Tay run run, Cậu Bảy cầm bút. Những dòng chữ chằng vào nhau và chữ nọ dính bắt qua chữ khác như chữ phép lá bùa trừ tà. Chữ ít, không có linh khiếu, thiếu cả kiến lẫn thức (8), và lại không bác văn quảng học thì có người lại sẽ tưởng đây là một câu thai (9) của sứ Tầu gởi đố và ai giảng được thì sẽ  nhất đán (10 )được làm Trạng - theo đúng vào một lời tiên tri của Tả Ao bắt hòn đất nhà mình phải phát vào ngày giờ ấy đây.
Cậu Bảy kể rằng:
“Tính về thời kỳ thụ bệnh kể từ hôm người cháu tiết ra một thứ máu trắng cho đến về trước, cháu không biết gì cả. Thân xác cháu ở ngoài Thời Gian và Không Gian. Những chuyện mồ hôi đỏ như máu tuôn rỉ khắp mình cháu là sau này người lão bộc kể lại thì cháu mới rõ đấy thôi. Rồi mới biết kinh sợ và cháu thừa biết là cháu hỏng mất rồi, là đời cháu hết rồi.
“Máu đỏ chảy cạn hết, thì tiếp ngay đến việc cháu điếc và cháu câm. Ngày lại ngày, cháu nhìn lớp máu trắng tuôn đầy trên  mình cháu thay cho lớp máu đỏ trước, tịnh không nghe được ai nói vào một câu nào và cũng tịnh không nói ra với ai một lời nào.
“Đầu cháu rức nặng như bị đánh đai sắt vào. Ngủ được tí nào thì thôi, chứ hễ thức giấc dậy là như có người la ó trong đó. Tiếng kêu trong đầu rất là phồn tạp hỗn loạn. Có khi như gió ngàn đuổi mãnh thú. Có khi như bẻ bão  rượt sóng bờ. Có khi vang dậy như hầm thuốc súng nhỡ bén chạm phải lửa ngoài. Có khi lại xa vắng u tịch như vọng hưởng của đàn chiêu hồn bên sông không có đò chở. Ở trong đầu thì vang dậy kinh động như vậy mà nhìn ra quanh mình để lắng lấy tiếng một cái gì quen thuộc của hằng ngày nó có thể làm bạn với mình và nhắc cho mình nhớ rằng mình vẫn là người của cuộc đời này, thì cháu chỉ thấy có im lặng. Những bóng người qua lại của cả nhà này đều câm cả. Những hình ảnh đó cử động và mấp máy môi như người trong trò phim câm.
“Mất đến ba tuần khổ loạn như thế ở trong đầu. Được đúng một ngày một đêm, trong đầu cháu tắt hẳn tiếng kêu. Nhưng đến ngày sau thì trong người cháu lại có một việc biến rất mới lạ. Là ở trong bụng, lại có tiếng người rì rầm lào xào. Hình như đấy là một cuộc nói chuyện tay đôi của hai con người. Không rõ họ là già hay trẻ, đàn ông hay là đàn bà. Vì cái tiếng nói của họ là một thứ âm thanh không có tuổi không phân ra giống cái giống đực. Họ nói tuy bé nhưng rồi sau cháu cũng nghe được. Có lẽ vì cháu đã thành một người điếc đối với tất cả biểu diễn của cuộc đời bên ngoài bằng tiếng động, có lẽ vì thính giác của cháu chỉ còn có thu dồn vào để mình lại lắng cái tiếng của cuộc đời bên trong thôi, có lẽ vì thế mà cháu đã nghe nổi những cuộc đối thoại của họ trong bụng cháu chăng? Buổi sớm họ cười đùa, buổi trưa họ hờn giận, buổi chiều họ cãi nhau xỉ vả nhau để lúc khuya khoắt thì lại làm lành và cợt nũng nhau. Không rõ họ có ngủ phút nào trong người cháu không, chứ hễ cháu thức lúc nào là nghe thấy họ kể lể than vãn khúc khích lúc ấy.
“Một buổi nặng bụng buồn tay quá, cháu có đem việc này kể ra giấy cùng tên nghĩa bộc vẫn luôn luôn có mặt ở bên giường cháu. Ngay chiều ấy, cháu nghe thấy một cuộc than khóc vật vã của họ, tiếng thê thảm đưa từ dưới lên trên đầu, rung mạnh các thớ màng óc. Cháu nghe rõ mồn một. Câu của người thứ nhất:
”- Này, nó định trục hai đứa ta ra khỏi lòng nó đấy.
”Câu của người sau:
”- Sao biết? Và nó định dùng thuật pháp gì? Lòng nó là quê của ta rồi. Một vào nổi là ở mãi, trăm ngàn năm cũng không ra nữa. Chỉ có nó chết, là ta mới chịu rời đi đâu thôi. Chúng ta mà vào ngồi vững được ở đáy lòng nó thì càng là việc Giời. Giời đã bảo ta vào thì rồi cũng chỉ có Giời là bắt ta ra được thôi. Chứ thứ nó thì làm gì nổi.
“Đến đây, hai người lại hạ thấp giọng xuống.
”- Tao nghe thấy người nhà nó đang định cho nó ăn thịt chó để đánh bật chúng ta ra ngoài. Người nhà nó, chắc đoán ra hai đứa ta là ai rồi. Vậy chớ mày có sợ mùi thịt chó không?
”- Nếu thế này, thì cơ nguy đã đến nơi rồi.  Ra ngoài, lạnh và lạ lắm. Mà rồi ăn vào đâu, ở vào đâu.
”- Vậy mày sợ? Tao thì yên trí lắm. Nó muốn làm gì thì làm. Tao vững lắm. Không ra.
”- Người có chất dương  như anh, không sợ đã đành. Nhưng tôi thuộc về chất âm, nghe cái tin này, rất lấy làm buồn sợ. Chúng ta sẽ phải chia rời từ đây. Ra rồi thì khó mà vào lắm. Những lúc tưởng nhớ đến nhau, tôi ở ngoài sẽ thông tin với người ở trong bằng cách nào? Chẳng nhẽ biệt nhau lại có nghĩa là mất hẳn?
“Đến lúc này, cháu mới rõ rằng trong lòng cháu, có cả một người đàn ông và một người đàn bà và họ đang xây dựng một cái gì trong người cháu. Cháu lấy làm nghĩ nhiều. Cháu liền cho gọi lão bộc vào hỏi. Y cũng nói lại rằng ở nhà ngờ bệnh cháu thuộc về âm loạn và có người mách cho rằng muốn trừ tà khí thì không gì bằng thịt loài cầy và sắp nấu cầy cho cháu ăn. Cháu cười và bảo lão bộc nên thôi việc ấy đi. Cháu nghĩ rằng đằng nào thì cháu cũng tận số đến nơi rồi. Có trừ khử được những quái vật ấy ra khỏi lòng dạ mình thì cuộc đời của cháu ở cõi đời này cũng vẫn cứ phải tắt hết như thường. Trước, lúc còn lành mạnh, đã gây nên điều lỗi với đàn bà; giờ, người đã bạc nhược hao mòn đến thế này thì còn nên gây oán lụy làm gì với một người đàn bà khác - mặc dầu người đó là thuộc về giống yêu, giống quái đang mượn cái lòng bị hình phạt của mình để làm một nơi chung họp với một con quái khác. Không phải là cháu nghĩ đến sự báo thù của giống yêu quái này mà cháu sợ đâu. Điều oán của cháu gây nên ở đời thực tại này, cháu tin rằng cháu đã trang trả xong bằng cái chết mòn này rồi. Nhưng cái tương lai của cháu là ở ngoài đời thực tại này kia. Công việc kiến thiết của cháu lại phải ở ngoài thế giới này. Chết trong bây giờ ở đây, để mai kia cháu sẽ gặp lại con gái quan Lãnh ở chỗ khác để lập lại với nàng một cuộc sống khác công bằng hơn và đẹp hơn.
“Bây giờ cháu nhờ chú một việc này. Là chú sẽ cho táng cháu ở mé gò Bạch Ảnh, ở bờ phía đông đầm làng Nguyệt Sương, gần ngay chỗ con quan Lãnh gieo mình. Các bề trên trong gia tộc có gì phản đối về việc chôn cất này, chú thề với cháu là phải làm theo ý nguyện của cháu. Thôi, lạy chú, chú ra đi. Và cho đào huyệt sẵn đi thì vừa. Cái chết đã dâng lên đến nửa phần người cháu rồi.”
Lúc Cậu Bảy vừa thở hơi cuối cùng, quạ ở tám phương trời rủ nhau bay đến sao mà nhanh và nhiều đến thế. Những cây và các lũy tre các làng phụ cận bỗng hóa ra màu đen cả. Ở những cây đen ngòm ấy, loài ác điểu ngày đêm kêu không ngớt tiếng.
Trông thi hài Cậu Bảy, người thương tiếc thì ít mà sợ tởm thì rất đông. Trời là một đấng biết tha thứ, biết xóa bỏ, đối với một người đã biết hối lỗi là gì rồi, sao Trời lại còn bày thêm ra một việc thảm mục (11) đến thế nữa. Cái thây Cậu Bảy ở giữa giường thực không còn hình nữa. Ra từ lúc còn sống, xương Cậu Bảy đã rũa mòn dần mà không ai để ý tới. Thành thử cỗ quan làm cho người chết hóa ra to rộng quá. Bỏ bao nhiêu cỗ tổ tôm, bao nhiêu cuốn lịch, bao nhiêu giấy bản, bao nhiêu trà phát du (12) vào đấy cho vừa. Nói cho đúng ra, thì phải đến năm cỗ thi hài Cậu Bảy nữa thì mới chắc kín lòng săng.
Người ta lại phải thửa áo quan khác. Nó lại chỉ bé bằng thân hình cái tiểu sành có viền đường gấm hoa chanh. Thành ra lúc đám khởi hành, việc hung táng mà người  không rõ chuyện lại tưởng là cát táng (13).
Lúc hạ huyệt, quạ trên một giời cao, một loạt chà xuống mép bờ đầm bâu cứ đen đặc lại. Đứng xa trông, bờ đầm Nguyệt Sương như có người viền một vành khăn đen tròn không nhòe lép lấy một nét.
Việc tang ma chôn cất người cháu quá mấy tuần cơm cúng rồi, bấy giờ ông chú mới ngồi ở buồng sách tại mái tây biệt thự đã được xông hương trầm mà giở cuốn Gia huấn trong họ nhà ra ghi vào đấy những dòng dưới đây:
”Đây là những lời quý báu ta để lại cho lũ con chính thống của ta và cho lũ cháu trong họ nhà. Tụi bay, đứa lớn rồi thì phải đọc lấy mà làm trọng và đe mình từ ngay phút này; còn đứa nhỏ thì noi các đàn anh mà gắng hiểu ngay để sớm biết mà e sợ.
“Việc Cậu Bảy bị chết trong cảnh nghịch biến thương thảm - ta đã có thuật rõ kèm vào đây, ở chương Cố sự nơi cuối tập Gia huấn này - là một điều cảnh cáo của ý Trời. Ta vốn nặng lòng với những điều thuộc về đạo đức thường, ta rất lấy làm đau xót cho danh dự gia tộc đã bị Cậu Bảy làm tì ố. Người chết đã biết sám hối. Ta  cũng đã biết tha thứ. Nhưng còn ta còn sống, còn lũ bay còn sống đó!
“Nhân việc tai biến vừa xảy đến trong họ, ta lại nhớ đến một việc cũ.
“Trước đây, ta đã nhiều phen lên rừng xuống biển để tìm chân nhân. Một chuyến đò đi bể, còn độ phần tư đường, thì ghé được tới đảo có người bên  ta bị bọn giặc bể Tầu Ô bắt. Ta được thoát chết vì cái đức bình thản của ta trước sự rộ nạt của giáo mác lũ giặc. Đứa đầu đảng bèn đãi ta vào bực khách, lúc ăn ngủ ra vào đều lấy các thứ lễ tiết đối với cao sĩ ra mà dùng. Ngoài những lúc chúng phải bóc lột thuyền buôn để duy trì cuộc sống của chúng trên mặt nước cả, đầu đảng bọn cướp thường vời ta tới bàn để hỏi về thiên văn, địa lý và nhân luân. Hắn biết rằng hắn hỏi ta chẳng phải để mà theo; ta biết rằng ta có nói ra, cũng chẳng phải là để cho hắn nghe. Nhưng đã đãi nhau là đám có chữ, lấy chữ ra mà nói chuyện thì hỏi đến đâu ta đều trả lời rất thành thực và hắn cũng lấy lễ độ cất những câu ta viết ra. Từ đấy, hắn đãi ta vào bực thượng khách. Một buổi thuyền Tầu Ô vào vịnh Hạ Long, ghé đảo Cát Bà. Đổ bộ, hắn đưa ta vào hầm đựng của, ở trong một hang núi cách bờ độ lụi hết hai nén hương. Ta vào, chân tay bị vướng bởi vàng lụa, ngà voi, sừng tê, quế chính sơn, mật ong, sa nhân và nhiều thứ nữa. Hắn hỏi ta muốn gì và cười, tay giơ thẳng vào đống của cướp. Ta cũng cười, hai tay giơ lên giời, nghĩa là đụng vào trần hang. Ta để ý xem xét thấy bị mắc kẹt vào bọn châu báu phi nghĩa kia là một cuốn sách đã gần mục. Giở ra xem thì đấy là một tập lữ ký của Trần Dĩ Luyện - một hàng nhân trong một đoàn tuế cống sứ (14) qua Trung Quốc, về đời Thiệu Trị - nói về những điều tai nghe mắt thấy, bên cạnh con đường đi sứ ở Tàu (Ta vốn có khiếu riêng để nhớ những dã sử của nước nhà). Ta không đủ thời giờ để hỏi tên cướp xem hắn bắt được sách này ở trường hợp nào. Ta chỉ kịp bảo hắn rằng vàng bạc của hắn định cho ta, ta không lấy gì làm thú bằng việc xin hắn cuốn sách ấy. Hắn thuận và cố giữ ta ở lại. Ta nhất định bỏ hắn và thoái thác là nhớ quê cũ lắm. Sau hắn phải chịu, cho ta xuống thuyền nhỏ nhìn ta xuôi về Hải Ninh (15)  với một cuốn sách cũ.
“Sách đó, Cậu Bảy, vì thiếu tiền đi chơi đã bán cho một người nước Hiệp Chủng du-lịch qua xứ mình. Ta tiếc giận vô cùng. (Nếu tụi bay mà tiền và lực có dư và lại muốn nhìn thấy sách đó, ta dám cam đoan với lũ bay rằng sẽ thấy sách đó ở tủ kính một viện bảo tàng Mỹ nào, chứ không sai). Sách mất, nhưng trí nhớ của ta thì mất sao được. Ta đọc sách đến đâu, chữ cứ như chôn vào ruột. Vì thế mà ta mới nhớ nổi chuyện lạ của quan Hàn Lâm Trần Dĩ Luyện chép được ở dọc đường đi sứ, để kể nữa - không sai lấy một chữ một lời - cho tụi bay nghe lại:
“Đất Giang Tô, nhiều người đưa lụa trắng ra cho đoàn sứ nước ta đề thi. Thi (16) hay và chữ đẹp quá, họ đều  lấy làm cảm kích. Một nhà kia thanh bạch, không biết lấy gì tạ lại người đi qua chỉ có một thuở, bèn đem luôn một cái thảm sử trong gia tộc ra mà kể, tưởng làm như thế cũng là đáp được cái duyên tri ngộ trong muôn một. Tổ họ ấy ở đất ấy - tên người và tên đất, ngài Phó Công Sứ Nguyễn Đại Nhân có ghi rõ -, vốn là người có tài và có duyên, lúc ra ngoài, quanh năm chỉ đi chơi, chẳng mấy khi phải ăn bữa nào ở nhà. Những lúc ra ngoài, lại hay thề thốt với rất nhiều giai nhân bên đường. Cơm thiên hạ hay có nhiều sạn sỏi, ăn nhiều vào, sỏi sạn ấy tích lũy và đúc lại thành những hòn cuội trong dạ dầy. Ruột ông tổ nhà họ ấy đã có cuội. Kế đến một lần, ông tổ nhà họ ấy dám thề nhảm với một người đàn bà và rủi lại gặp giờ thiêng, sau khi uống láo những giọt nước mắt của người đàn bà vào ruột, những hòn cuội cũ kia bèn hóa thành thạch tinh (17). Những thạch tinh ấy biết nói chuyện và biết làm hại người sống. Nó phá từ trong lòng người ta mà phá ra. Phá hại lúc còn sống chưa đủ, nó lại còn theo rồi đến lúc xuống huyệt nữa kia. Vì thế mà thi hài tổ họ ấy đã mai táng xong xuôi tưởng yên ấm, bỗng một đêm về sáu tháng sau, nó bật lên như có kẻ cắm cốt mìn vào mà bắn.
“Có lẽ hai con người biết nói chuyện trong ruột Cậu Bảy là giống thạch tinh đó. Đời Cậu Bảy, tung tích bôn tẩu hồng trần, chắc trong bụng không thiếu gì sỏi sạn của cơm thiên hạ. Và nước mắt thiêng Cậu Bảy uống liều vào trong cơn trí trá với lòng người, chính là nước mắt của con gái quan Lãnh Tín làng Nguyệt Sương đó.
“Lũ bay nên khớp hai chuyện chênh nhau về cả thời lẫn không-gian, nhưng đều chung một lý do huyền bí, để tìm lấy một ý niệm trong đời sống đạo đức.
“Ta góp việc này vào tập Gia huấn, tự coi nó như một điều cần đáng thêm vào thập điều trong gia pháp. Lũ bay khá vâng theo”.
Sưu tầm và chú giải:
(*) Xem truyện Tổ tôm người sẽ đăng ở Thơ văn, tập mùa hạ.
(1) Tức là dừng ngựa
(2) Sâu và vắng
(3) Ngày nay hay viết: tờ nháp
(4) Làm rõ, cắt nghĩa
(5) Cũng có nghĩa tự tử tuy nghĩa ban đầu nói rõ  là tự thắt cổ
(6) Cái vần gieo đến mức tuyệt vời. Tương tự như tử công phu là hết sức công phu.
(7) Gạn hỏi để tìm câu trả lời đúng
(8) Kiến: điều thấy; thức: điều biết; đây chỉ cả kinh nghiệm lẫn hiểu biết qua sách vở.
(9) Câu đố
(10) Một ngày kia
(11) Đau xót cho con mắt (khi phải chứng kiến những chuyện thương tâm)
(12) Chúng tôi chưa tra cứu được.
(13) Người chết chôn xuống lần đầu gọi là hung táng, bốc mả chôn lại gọi là cát táng
(14) Đoàn đi cống theo chu kỳ hàng năm; hành nhân, nghĩa đen là người đi đường, nhưng đây chỉ người phiên dịch đi theo các sứ bộ
(15) Tên một tỉnh cũ sát biên giới Việt Trung, sau nhập vào thành tỉnh Quảng Ninh
(16) Đầu thế kỷ XX, trong  ngôn ngữ hàng ngày, nhiều người vẫn gọi thơ là thi.
(17) Chỉ phần tinh túy của đá.

(1) H. Berquint Quan niệm về cá nhân của A. Gide. Bài đăng trên báo Văn nghệ, Hà Nội, số 23-5-1992.
(1) Lịch sử văn học Pháp thế kỷ XX, NXB Thế giới, 1992, tr. 326
([1])  Cesare Pavese (1908-1950), tác giả tập Le métter de vivre.
29/11/2009
Vương Trí Nhàn
Theo https://dangbi.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...