Vũ Trọng Phụng và một lớp người
thành thị một nền văn chương
đô thị
Nhìn vào tấm ảnh Vũ Trọng Phụng còn sót lại và in ở tập I của Tuyển
tập Vũ Trọng Phụng hôm nay, khó lòng có ai nghĩ rằng con người đó mất đi
khi mới 27 tuổi.
Cái gì là thần thái chính hiện lên trên khuôn mặt đó? Một
chút chán chường hoài nghi về thế thái nhân sinh toát ra sau cặp mắt mệt mỏi.
Mà cái nhìn chậm rãi pha chút mệt mỏi ở đây lại như một điều cả quyết - không,
sự chán chường của tôi là không thể nào cứu vãn được. Nó là kết luận tôi buộc
phải rút ra từ cả cuộc sống sôi nổi với cái thế “day tay mắm miệng” quyết liệt
của mình. Tôi đã định từ chối mà không sao từ chối nổi. Vậy tôi bằng lòng chấp
nhận nó. Sống ngắn ngủi thế cũng đã đủ rồi. Ra đi không có gì phải nuối tiếc nữa.
Dẫu sao cũng còn hơn chán vạn kiếp sống thiểu lực nhạt nhẽo khác.
Và Vũ Trọng Phụng đã toại nguyện.
Từ tác phẩm của Vũ Trọng Phụng người ta cũng bắt gặp một cái
nhìn cuộc sống tương tự như vậy - một cái nhìn đã ổn định, đã vững vàng, đã đủ
cay đắng chua xót, cả hăm hở lẫn chán chường rồi, nên cũng coi như đã trọn vẹn
và tất cả là không thể sửa chữa được nữa.
Một điều người ta thường ngạc nhiên mỗi khi nghĩ tới những
trang văn của Vũ Trọng Phụng là sao con người này có thể biết nhiều đến thế. Chữ
từng trải đối với ông hình như không hợp, phải nói là ông biết lắng nghe, biết
tổng hợp, biết từ một cuộc sống hữu hạn của mình thu góp lấy tinh hoa của bao
cuộc sống khác, nên mới có sự thông thuộc, sự thành thạo đối với nhiều mảng sống
khác nhau vậy. Từ lễ phát chẩn đông hàng ngàn người trước cổng một nhà triệu
phú đến một buổi tối sáng trăng, mấy người nhà quê ngồi bóc lạc luộc gẫu chuyện;
từ những đám bạc, những đám hút xách, cảnh chơi bời của đám nhà giàu và công chức
Hà thành, tới một buổi việc làng, một bữa cơm chạy lụt… tất cả bấy nhiêu khung
cảnh, sự việc rồi là lời lẽ của con người, những chi tiết trong trang phục,
thoáng lo lắng chợt hiện ra trong tâm tư một bà mẹ già… hầu như cái gì Vũ Trọng
Phụng cũng biết, cũng mô tả một cách rành mạch. Stéfan Zweig nói rằng trong
Balzac “có cả một thời đại, cả một vũ trụ, cả một thế hệ”. Đôi lúc đọc những Cơm
thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Số đỏ, Giông tố… người đọc bất chợt nghĩ rằng
cũng có thể nói về Vũ Trọng Phụng bằng một câu tương tự.
Ta sẽ ngạc nhiên hơn, nếu như nhớ rằng mặc dù trải rộng ra
như vậy nhưng cũng như ở nhiều nhà văn lớn, thế giới của Vũ Trọng Phụng là một
thế giới định hướng rõ rệt. Tác giả biết nhuộm cho cái nhân gian do ông vẽ ra một
sắc thái chỉ riêng ông có. Trong khi chiếm lĩnh khách quan, văn chương của ông
vẫn chủ quan đến từng chi tiết. Dù viết về cái gì ông cũng tìm ra được lý do để
mang được cách giải thích nhân sinh của mình vào đó, và tạo ra đủ cớ để cho người
ta phê phán ông là định mệnh, cay nghiệt, hoài nghi, và cả khiêu dâm nữa.
Dù viết về cái gì, ông cũng để lại dấu ấn con người mình,
cách nghĩ mình, cả tính mình. Từ các trang sách, ông mỉm cười với hậu thế:
– Tôi là thế đấy. Tôi độc đáo và không lặp lại như một hiện
tượng thiên nhiên. Tôi luôn luôn mời gọi người tới lý giải!
Nghị Hách và Xuân Tóc Đỏ, ông đồ Uẩn và cụ Cố Hồng, người tù
chính trị được tha có tên là giáo Minh và ông già Hải Vân hành tung bí mật dám
làm đủ chuyện ám muội. Rồi bà Phó Đoan, thị Mịch, Tuyết, Loan, cụ Cử, chị Tuất
v.v… và v.v… Thế giới nhân vật của Vũ Trọng Phụng khá đông và thuộc nhiều giới
khác nhau. Khi được nâng lên đến mức điển hình, một số người trong họ là tài liệu
quý, giúp đỡ đắc lực cho những ai muốn nghiên cứu về xã hội hoặc tìm hiểu tài
nghệ ngòi bút Vũ Trọng Phụng. Nhưng còn như để hiểu tâm sự người viết, cái phức
tạp đa đoan của chính tác giả, thì có những nhân vật chỉ đóng vai phụ, hoặc có
vẻ không tiêu biểu gì, thật ra lại là một thứ chìa khóa khá tốt, mà người
nghiên cứu không có quyền xao nhãng.
Ý chúng tôi muốn nói tới nhân vật Long trong Giông tố.
Vốn có một cuộc sống cơ cực, tủi nhục (đặc biệt về mặt tinh
thần), lại tiếp thu được một ít kiến thức, và có lúc có cả triết lý nữa, nhân vật
này giống như một thứ chất hỗn hợp. Chỉ có điều đáng tiếc là quá trình hỗn hợp ở
đó đang dang dở, chưa hoàn thành. Khi lăn lộn ở “dưới đáy” xã hội, Long không
tiếp thu được phần khỏe mạnh của cuộc sống lao động. Còn như sự học của
Long thì cũng nửa vời chắp vá nốt. Bởi vậy, càng có dịp tiếp xúc rộng -
nay ở ấp Tiểu Vạn Trường Thành, mai xuống Cảng, ngày kia ra ngõ Sầm Công… -
Long càng chán chường, hoang mang, không tìm ra cuộc đời với cái nghĩa lý thật
của nó.
“ – Thưa ông, hiện nay tôi có một điều khổ tâm không thể
tả được. Tôi khổ lắm, tôi giận thân, giận đời lắm, tôi muốn liều lĩnh làm một
điều gì xằng bậy, một điều gì càn dở, chỉ cốt được hả giận mà thôi (…)
– Tư tưởng phá hoại lạ.
– Vâng, chính thế. Tôi chỉ muốn được khổ sở cho nó bõ một thể.
– Ông Long, ông điên mất rồi.
– Thưa ông, chẳng phải tôi không biết như thế là điên đâu.
Nhưng không hiểu vì sao tôi muốn điên lắm, không thì không chịu được nữa. Trời
ơi, nếu ông có là tôi, thì ông mới hiểu được những nỗi đau đớn của tôi”
Nội dung cả đoạn đối đáp rõ, riêng câu cuối cùng của Long có
một ý nghĩa đặc biệt. Nó hé ra cho thấy rằng ở Long cái ý thức về cá nhân đã
lên đến cực điểm. Long mạnh, Long khác người vì phần ý thức ấy, nhưng Long cũng
lại là nạn nhân của phần ý thức ấy.
Ở chỗ này, Long rất gần Vũ Trọng Phụng.
Có những ngòi bút như Vũ Trọng Phụng trong văn chương vì có
không biết bao nhiêu Long trong đời sống. Những điều như Vũ viết ra, như Long
nói ra, là cái phần tự ý thức của một lớp người hỗn tạp, táp nham, đau đớn, ê
chề, nhưng lại biết suy nghĩ và khổ vì sự bế tắc không lối thoát của mình: lớp
dân nghèo thành thị.
Do những đặc điểm lịch sử, sự phát triển của chế độ phong kiến
ở Việt Nam trải qua nhiều khuất khúc và không thể gọi là mang tính chất điển
hình. Ngay vào thuở cực thịnh của chế độ đó, các yếu tố thị dân vẫn là một cái
gì phát triển không bình thường. Những người thành thị được gọi bằng cái tên
không mấy cảm tình, dân kẻ chợ (và xách mé hơn mà cũng đúng thực chất
hơn, dân tứ chiến) Trong văn học Việt Nam thời phong kiến, và rộng hơn,
trong tâm lý phổ biến ở xã hội, trong đời sống tinh thần nói chung bao giờ cũng
thấy đầm ấm một tinh thần lạc quan nó là cái đặc tính cố hữu của những người sống
gần thiên nhiên. Một yếu tố bao trùm khác là xu thế ca tụng cái thanh cao, cái
trong sạch của cuộc sống nông thôn, ca tụng thú điền viên, bài bác khinh bỉ cuộc
sống thành thị, cho là ở đó, nhân tình thế thái điên đảo, đồng tiền làm hư hỏng
con người.
Nhưng muốn hay không muốn, thành thị cứ phát triển. Con người
kẻ chợ cứ hiện ra rõ nét dần trong văn học, hơn thế nữa, cũng ngày một rõ hơn,
mạnh dạn, tự tin hơn là những tiếng nói văn học đại diện cho nếp sống, nếp nghĩ
của lớp người kẻ chợ đó. Trong Cung oán ngâm khúc, người ta bắt gặp một
triết lý bi quan ở dạng cô đọng; sự kết hợp giữa cung đình và thành
thị đẻ ra lối nói kiêu sa pha chút nhục cảm, một thứ nhục cảm mới nẩy nòi, nên
còn thô vụng (Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn - Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên…). Với Hồ
Xuân Hương, các yếu tố nhục cảm được sử dụng một cách khéo léo hơn, đủ sức trêu
trọc, chòng ghẹo người ta hơn, nghĩa là được tác giả quan niệm một cách tự
nhiên hơn. Cái lý tưởng điền viên kia không có nghĩa lý gì với Hồ Xuân Hương cả.
Trong thơ ca của người nữ sĩ sống nhiều ở Hà thành này, nhân vật trữ tình luôn
luôn chon von trong một thế đứng đơn độc, mặc dù đang ở giữa mọi người nhưng
không sao tìm được sự thông cảm của con người, và nhìn cái gì cũng ra kỳ hình,
dị dạng (Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom - Oán hận trông ra khắp mọi chòm -Mõ
thẳm không khua mà cũng cốc - Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om). Sự cô đơn cá
nhân đó cũng là chỗ gần gũi giữa Hồ Xuân Hương với một người như Trần Tế Xương.
Tuy là sống cùng thời nhưng nếu thơ Nguyễn Khuyến đi sát cái nhịp hài hòa bình
thản thôn dã và không hề phân vân trong việc tìm lại sự yên tĩnh đã mất thì thơ
Tú Xương là tiếng nói trực tiếp của những con người thành thị, với tất cả sự trắng
trợn có thể có của nó (Vợ lăm le ở vú, Con tấp tểnh đi bồi…); tiếng nói ấy
không ngại chua chát, cay nghiệt khi nói về một cuộc sống đã mất hẳn sự hòa điệu,
sự thanh cao mà người ta hằng mong muốn.
Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương không phải những
hiện tượng ngoại lệ. Làm nền cho họ là cả một dòng văn học liên tục. Từ dòng
văn học đó, từ Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, từ Hoàng Lê nhất thống
chí (nhân vật Tuần huyện Trang với câu nói nổi tiếng: - Sợ thày chưa
bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình…) qua các truyện ngắn của Nguyễn
Bá Học, Phạm Duy Tốn thời kỳ Nam phong… Chúng ta có thể tổng hợp lại
để nêu lên một số nét tiêu biểu của các nhân vật thành thị trong văn học Việt
Nam: ở họ, mối quan hệ quân bình với hoàn cảnh mà ta thường bắt gặp trong cả
các nhân vật văn nhân hiệp sĩ lẫn người nông dân, mối quan hệ ấy không còn nữa.
Những phẩm chất mà người ta hay ca ngợi - một tấm lòng nhân hậu, một chữ tâm bền
bỉ, một thái độ an bần lạc đạo… chỉ còn trong ký ức. Thay vào đó là một lối sống
ích kỷ, một thái độ chính trị có khi hoạt đầu, một chủ nghĩa cá nhân cực đoan.
Dưới sự hướng dẫn của những nguyên lý ấy, họ có lối sống mạnh, gấp gáp. Họ
không cần được tiếng khen là chừng mực, thanh nhã. Họ thích những gì mạnh, gắt,
đập vào cân não. Điều kỳ lạ là bất chấp bao nhiêu những bài báo, chê bai từ
phía các bậc trí giả, các nhân vật đó vẫn sống, dòng văn học này vẫn có những đại
diện của mình và suy cho cùng, gom góp lại, vẫn mang tới cho đời sống văn học
những sắc thái mới lạ, cả nền văn học cũng nhờ đó, có thêm sức sống.
Đến Vũ Trọng Phụng, thì cái chất thành thị ấy cũng trở nên đậm
đặc, và có thêm những biểu hiện mới. Người ta có thể cắt nghĩa điều này một phần
bằng cái hoàn cảnh mà Vũ Trọng Phụng trưởng thành.
Từ một ít phố xá bé nhỏ bao quanh các thành lũy quân sự trong
thời phong kiến qua thời Pháp thuộc. Hà Nội nhanh chóng trở thành một thành phố
với phố xá sầm uất hơn, nhà cửa khang trang hơn và nhất là dân cư đông đúc hơn.
Đấy chính là một thứ chỗ trũng, thu hút người ở nông thôn ra, trong số đó có những
người nghèo không cam tâm chết mòn sau lũy tre xanh, những người bị đè nén bị oan ức, những người ngày hôm qua còn là những thầy đồ, thầy lang, thậm
chí cả lý dịch nữa (1)
vì những cơ nhỡ như thế nào đó, rơi tụt xuống cái miệng vực ghê gớm, là thành
phố. Từ nông thôn ra Hà Nội, họ làm đủ nghề, từ con sen thằng ở “cơm thầy cơm
cô”, kéo xe, canh cửa, cho tới mở cửa hàng lặt vặt, dạy tư, làm thầy ký ở các
hãng buôn. Và cả viết văn viết báo nữa! Nhà văn mà con nhà nghèo, lớn lên trong
sự căm uất lớp người giàu có; nhà văn mà chỉ học đến tiểu học đi làm thuê làm
mướn rồi do những tất nhiên ngẫu nhiên như thế nào đó, phá ngang đi viết báo,
viết văn - có lẽ không ở nước nào có đội ngũ nhà văn kỳ lạ như vậy. Nhưng đấy
là một sự thực. Chính từ một thực tế như thế, văn học Việt Nam trước 1945 có
cái nét mặt bình dân với cả cái hay cái dở của nó, mà đến nay, chúng ta còn
chưa gọi ra đầy đủ.
ở trên, trong khi nói qua về Nguyễn Gia Thiều, chúng tôi đã
lưu ý rằng ở tác giả Cung oán ngâm khúc, chất thành thị gắn liền với chất
cung đình. ở cả Hồ Xuân Hương, lẫn Trần Tế Xương, người ta cũng còn luôn luôn bắt
gặp những vang bóng của một cuộc sống phong lưu ổn định - một thứ chất trí thức
pha chút hiển quý. Còn Vũ Trọng Phụng? Chúng tôi không nhắc lại tiểu sử nhà văn
ở đây. Chỉ biết rằng không thiếu những cây bút đương thời có hoàn cảnh xuất
thân như tác giả Số đỏ: đó là những người làm nghề trí thức đời thứ
nhất, trước họ, trong gia đình họ, chưa ai làm nghề này cả, và muốn hiểu họ, phải
hiểu cả gốc gác xa xưa của gia đình họ nữa.
Do những điều kiện mà xã hội tư sản mới hình thành mở ra
(trong đó có xu hướng dân chủ hóa không cưỡng lại nổi), đây là những dịp đầu
tiên mà tầng lớp dân nghèo thành thị có được tiếng nói của mình trong văn học.
Nhưng những con người thành thị mới một hai đời này cũng bộc lộ một sự không
thuần nhất đến lộ liễu. Rời khỏi nông thôn họ có cái may mắn là cắt đứt
khỏi sự trói buộc của hoàn cảnh quen thuộc, một hoàn cảnh vô cùng tù đọng, trì
trệ. Cái ngưỡng tự do của họ được rộng mở. Với chút căn cốt của dân lao động vốn
có, một số trong họ vẫn giữ được cái nhân hậu của con người, lòng yêu chính
nghĩa, niềm tin và cả cái khỏe mạnh trong ý nghĩ về cuộc sống (đương thời,
Nguyên Hồng chính là người phát ngôn của tầng lớp dân nghèo thành thị với
cái phần căn cốt tốt đẹp đó). Nhưng ở rất nhiều người khác, thì sau những năm
tháng bị đày ải ở nông thôn, những gì tốt đẹp hầu như thui chột, rụi rọ đi,
thay vào đấy, là lòng căm ghét con người, cái nhìn ghen tị, thù hận - những phẩm
chất gắn liền với cái mà người ta gọi là chất lưu manh. Lưu manh nghĩa là không
bị ràng buộc bởi một chuẩn mực nào hết. Lưu manh trong ý muốn đạp đổ tất cả.
Cũng phải công nhận rằng so với những người nông dân thì lớp
dân nghèo thành thị ở chung quanh Hà Nội những năm trước Cách mạng 1945 được tiếp
nhận một nền giáo dục đáng kể hơn nhiều. Nhưng kiến thức thì có mà căn bản văn
hóa thì chưa. Những người có hiểu biết về nền giáo dục mà thực dân Pháp thi
hành ở Việt Nam trước đây đều biết rằng nó chỉ nhằm đào tạo ra những người thừa
hành mà không hề muốn làm công việc mở mang trí tuệ như thực chất của giáo dục
đòi hỏi. Ngay ở bậc cao học, kiến thức được truyền thụ cũng mang tính chất primaire,
nghĩa là sơ đẳng, thực dụng. Còn nói chi việc học ở các bậc tiểu học là cái
trình độ mà nhiều nhà văn của chúng ta được nhận! Để bù lại, sau này vào nghề
văn, một người như Vũ Trọng Phụng đã học thêm rất nhiều (ai đó kể rằng ông thường
có mặt sớm nhất bên những chuyến tàu chở hàng từ Pháp sang để đón sách báo).
Nhưng nhìn chung, làm sao mà tránh khỏi chắp vá, què quặt? Nhiều lần trong các
văn phẩm của mình, Vũ Trọng Phụng đã nhắc tới học thuyết Freud. Đúng ra, phải
nói ông đã mang tiếng là tuyên truyền cho nó. Nhưng từ góc độ của ngày hôm nay
mà xét, phải nhận cách giải thích về Freud của tác giả Số đỏ, Giông tố…
nông nổi và mang màu sắc dung tục. Là một phát minh vĩ đại của thế kỷ này, phân
tâm học của Freud và những người kế tục như (C.G. Jung) phong phú hơn, sâu sắc
hơn, khoa học hơn và cũng… cận nhân tình hơn nhiều. Cách tiếp nhận Freud của
Vũ Trọng Phụng chỉ là một ví dụ về khả năng tiếp nhận các vấn đề khoa học - tự
nhiên cũng như xã hội - của nhiều người dân thành thị đương thời, kể cả những
người hành nghề trí thức.
Người ta thường vẫn lấy làm lạ khi thấy một ngòi bút sáng suốt
như Vũ Trọng Phụng lại mê tín và công khai trình bày sự mê tín của mình trên
nhiều trang sách. Nhưng chẳng phải là chính đặc điểm đó lại thông báo chính xác
hơn hết cái phương diện tinh thần ở Vũ Trọng Phụng và chỉ ra đầy đủ gốc rễ mà
cũng là đặc điểm của tài năng văn học này: Ông là dân nghèo thành thị từ đầu đến
chân. Với tầng lớp dân nghèo đó, khi ông gần gụi, khi ông căm ghét, nhưng bao
giờ ông cũng vẫn là họ, chơi vơi và bế tắc, không tìm đâu ra lối thoát như phần
lớn bọn họ.
Theo một con số thống kê đưa ra trong cuốn Giáo
trình lịch sử văn học Việt Nam tập 5 (bản in 1978), thì riêng năm 1937, ở
Việt Nam có 110 nhật báo (gần như tất cả là báo tư), 159 tập kỷ yếu và các tạp
chí. Trong các năm 1938-1939, số nhật báo sẽ lên tới 128, còn con số kỷ yếu tạp
chí cũng tăng lên ít nhiều.
Khi báo đã nhiều như vậy, thì nghề làm báo cũng phát triển. Mỗi
tờ báo trên thực tế, chỉ do vài người viết giúp. Những người này nếu viết được
văn thì càng tốt. Bởi lẽ ngoài phần tin tức và quảng cáo vốn là lý do để tờ báo
có bộ mặt một cơ quan thông tin đại chúng, báo còn thường cùng lúc đăng nhiều
tiểu thuyết, ngày nọ tiếp ngày kia (thường gọi là phơi-ơ-tông) lấy việc cần phải
theo dõi liên tục câu chuyện để kéo độc giả.
Từ một trường làm báo này, đã hình thành những cây bút vừa viết
văn vừa viết báo, những nhà báo kiêm nhà văn có sức làm việc đều đều, và tay
nghề vững chãi.
Chẳng những Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tam Lang, Vũ Trọng Phụng mà
Nhất Linh, Xuân Diệu, Thạch Lam… đều đã trưởng thành từ môi trường báo chí ấy.
Đương thời, có lúc cũng một số báo Phong hóa đăng theo kiểu
phơi-ơ-tông mấy tiểu thuyết của Khái Hưng. Bản thân Thạch Lam cũng từng làm thư
ký tòa soạn Ngày nay một thời, từ đó, viết nên Hà Nội ba sáu phố
phường và nhiều tiểu luận văn học có giá trị.
Cố nhiên, đây chỉ là một sự giống nhau bề ngoài, nó là đặc điểm
của những người làm nghề cùng thời (sau Cách mạng, không thấy cách tồn tại của
các nhà văn như vậy nữa)
Còn trong thực tế, chỗ khác nhau giữa họ rất nhiều. Tất cả bắt
đầu ngay từ câu hỏi dơn giản: Tại sao họ cầm bút?
Ở chỗ này thì trường hợp một trí thức như Nhất Linh có ý
nghĩa một bằng cớ để so sánh.
Đi du học về, rồi thấy cần phải mở mang dân trí nên Nhất Linh
viết văn. Cùng với Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam v.v… ông lập ra nhóm Tự Lực
Văn Đoàn. Họ vừa viết, vừa làm chủ tờ báo và nhà xuất bản. Viết xong, đã có cơ
quan in ngay tác phẩm của mình. Lỗ lãi không cần lắm. Đã có những nguồn lợi tức
khác bảo đảm sinh kế cho họ và gia đình.
Khi không phải lo chạy ăn từng bữa, người ta tha hồ ngồi nghĩ
đủ việc, cả việc lông bông lẫn việc lớn!
Trước đây, với lối nghĩ dung tục đã thành nếp, một số nhà
nghiên cứu văn học ở ta thường bảo những nhà văn đó chỉ viết để phục vụ cho bọn
trưởng giả, không được việc gì cho dân cho nước mà dễ dàng làm tay sai cho đế
quốc phong kiến. Ngày nay rõ ràng không thể nghĩ hợm hĩnh vô lối như thế được nữa.
Ngày nay chúng ta nói rằng sự bảo đảm vật chất cũng là một điều kiện quan trọng
để nhà văn có thể tạo ra những tác phẩm có giá trị, còn cái căn bản trí thức
thì thật cần, nó tạo cho người viết văn một cái phông vững vàng để chạy đường
trường.
Chỉ có điều đáng tiếc là số nhà văn kiểu ấy trước Cách mạng đếm
không đầy mười đầu ngón tay.
Về mặt chủng loại mà xét, đặt bên cạnh Nhất Linh, Khái Hưng,
kiểu nhà văn như Vũ Trọng Phụng phổ biến hơn nhiều.
Trong số này, có người là nhà nho lỡ thời, không thi cử nữa,
xoay ra viết giúp cho tờ báo nào đó, sống độ nhật. Có người trước cũng giàu có,
nay thất cơ lỡ vận, thù đời mà đi viết văn. Lại có chàng trai quê, ngơ ngơ ngác
ngác, trước chỉ lêu lổng rượu chè rồi làm thơ cảm khái, hoặc thơ… chọc ghẹo mấy
cô hàng xén, nay nhận ra rằng hình như những điều gọi là tâm sự của mình đó, có
người mua, thế là mang bán; mới đầu bán rẻ, sau khôn hơn, bán đắt hơn, đủ sống
và có thể nhận cả đơn đặt hàng nữa. Thế là thành nhà thơ nhà văn.
Chỗ bi đát thứ nhất của lớp người viết văn kiểu này là họ buộc
phải sinh nhai bằng ngòi bút. Qua những điều mà chính họ kể lại, cuộc
săn tìm miếng cơm manh áo cho mình và gia đình mình lắm khi hiện ra như một
quang cảnh vừa buồn cười, vừa ứa nước mắt. Bản thân những kỷ niệm mà các bạn
văn của Vũ Trọng Phụng kể lại khi ông vừa nằm xuống đã chứng minh cho điều ấy.
Nhưng thực tế đời sống còn bi đát hơn ở chỗ mặc dù luôn luôn
bị cái hàng ngày kéo xuống như vậy, các ông vẫn phải làm nhà văn, với tất cả những
yêu cầu cao cả mà nghề nghiệp này đòi hỏi.
Thật vậy, cái trớ trêu của nghề văn là ở chỗ nó không biết đến
điều kiện cụ thể của người viết và điều này có vẻ như đánh thẳng vào lớp nhà
văn dân nghèo thành thị. Với cái vốn sơ học yếu lược khi vào nghề, họ phải luôn
luôn nghĩ rằng những (A. France), (R. Rolland), (L. Tolstoi), (Dostoievski) là
đồng nghiệp của mình. Trong những căn phòng tranh tối tranh sáng, hoặc là
lúc nào cũng ồn lên tiếng chửi nhau đánh nhau… họ phải nói tới lương tâm
chính nghĩa. Họ đã khổ, nhưng còn có lớp dân quê và những phu phen, thợ thuyền
bên hàng xóm, còn khổ hơn, lúc nào cũng tính chuyện nhờ họ giải bày niềm oan uổng.
Trong khi những chuyện mè nheo hàng ngày không ngừng giày vò họ, họ vẫn phải
nghĩ rộng tới người khác, phải nghĩ mình có trách nhiệm chấn hưng phong hóa,
giáo huấn người đời, và kín đáo tố cáo chế độ thuộc địa cũng là thức tỉnh lòng
yêu nước, nếu có thể.
Trên đôi vai bé nhỏ của các nhà văn ấy chồng chất tầng tầng
gánh nặng mà ở các nước, chỉ bọn trí thức no đủ mới làm nổi.
Biết bao nhiêu nhà văn nhà báo loại này đã đầu hàng, đã nhẫn
nhục coi công việc viết lách như một nghề kiếm sống thuần túy, đã viết nhanh,
viết ẩu, viết theo thời thượng, cốt cho các ông chủ báo bằng lòng, rồi lại chán
chường khinh bỉ công việc của mình. Một ngòi bút như Vũ Trọng Phụng không xa lạ
với những đồng nghiệp như vậy. Nhưng Vũ Trọng Phụng đã đi xa hơn họ. đồng thời
với việc làm nghề thành thạo, Vũ Trọng Phụng biết mang lại cho nghề văn một
chút ý nghĩa mà nó thường có ở mọi thời và mọi nước:
Văn học là tiếng kêu khắc khoải của con người trước một thực
tế đời sống không bao giờ họ cảm thấy bằng lòng và sự thật là không bao
giờ hiểu hết.
Nếu biết nhìn kỹ thì mỗi một hiện tượng riêng lẻ đều mang những
đặc điểm chung của chủng loại, nghĩa là đều có ý nghĩa tiêu biểu. Chỉ riêng nó
thôi, cá nhân nào cũng mang sẵn trong nó chất điển hình rồi, điển hình ấy chỉ
chờ ta đến khám phá.
Cái chân lý sơ giản ấy đã đúng cho mọi người thì cũng đúng
cho các nhà văn. Một lúc nào đó, tôi ngờ rằng trong một cuốn từ điển làm riêng
về văn học Việt Nam, người ta sẽ gọi Vũ Trọng Phụng là một nhà văn tiêu biểu của
thế kỷ XX. Nhà văn này xuất thân từ một tầng lớp đã cung cấp cho văn học Việt
Nam từ đầu thế kỷ đến 1945 nhiều cây bút nổi tiếng. Như một giống cây khỏe,
trong khi vươn lên mãnh liệt, tài năng của Vũ Trọng Phụng vẫn bắt rễ rất sâu
vào cái khu vực tranh tối tranh sáng là cuộc sống lớp dân nghèo thành thị đã sản
sinh ra ông. Và ông khai thác nó một cách triệt để. Với tất cả vẻ chua chát,
phũ phàng, cay đắng hằn học khiến người ta vừa thích vừa ngại, giọng văn Vũ Trọng
Phụng tưởng là xa lạ, thực ra là sự tiếp tục ở giai đoạn mới cái dòng văn học
thành thị trong văn học Việt Nam, cái dòng văn học được làm nên bởi những tên
tuổi như Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Trần Tế Xương và bao người khác.
Chẳng những thế, hiện tượng Vũ Trọng Phụng còn có ý nghĩa
tiêu biểu ở một phương diện khác: qua ông người ta hiểu tâm tình, hoàn cảnh, lối
làm việc, chỗ mạnh chỗ yếu của số đông những người cầm bút Việt Nam. Phần lớn họ
sống lầm lụi giữa nhân dân lao động (cái điều người ta thường chê trách rằng họ
sống xa nhân dân chẳng qua là một câu chuyện bịa đặt); bản thân việc cầm bút của
họ trước tiên cũng là một thứ lao động cật lực. Nếu như đôi lúc, sau những
trang văn phần lớn do sinh kế thúc ép mà phải viết vội ấy, họ có hiện ra như những
người hàm hồ, lắm lời, nói quá nhiều chuyện tầm phào, thuyết minh cả những điều
mình chưa biết cặn kẽ, để rồi sau đó lại chán ngán, buông xuôi, kêu to lên tiếng
kêu bất lực, v.v… và v.v… thì ngẫm cho kỹ, tất cả đều đáng thông cảm. Vả chăng
mặc dù, lẫn vào bao nhiêu trấu sạn và cả rác rưởi nữa, cái phần tinh hoa tốt đẹp
của mỗi người vẫn là không gì thay thế được. ít nhiều công việc mà những người
cầm bút như Vũ Trọng Phụng đã làm đều có gắn với hồn thiêng đất nước và cái
mong mỏi khôn cùng là mong cho xã hội ngày một văn minh tấn tới. Đấy cũng là lý
do khiến tác phẩm của họ sẽ còn lại mãi với lịch sử.
1989
Đã in Tạp chí văn học 1990, số 2
Bước đi tự phát ở một ngòi bút ghi
chép lịch sử
Ấn tượng sâu sắc nhất mà có lẽ tất cả bạn đọc đều chia sẻ khi
đọc Số đỏ, ấy là cái sự nhố nhăng nhảm nhí của đời sống được nhà
văn phác họa theo lối châm biếm. Nói như Lưu Trọng Lư, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã “chế nhạo tất cả những cái rởm cái xấu cái bần
tiện cái đồi bại của một hạng người một thời đại“. Hiện đại ở đây
đồng nghĩa với sự tàn phá nhân cách, làm hỏng con người. Hiện đại là một bước
đi không thể chấp nhận được. Thế nhưng liệu đã có thể nói đó là tất cả cái cuộc
sống trên đường hiện đại hóa được nói tới trong tác phẩm Số đỏ?
Có phải xã hội đương thời chỉ có tàn lụi mục nát vô phương cứu vãn hay thực ra nó đang vận động theo một phương hướng đầy triển vọng và
chính ngòi bút Vũ Trọng Phụng cũng đã tham gia vào việc ghi chép lại cái
quá trình đổi khác đó - một việc chắc chắn là chính ông cũng
không ngờ tới?
Hiện đại hóa là gì và ý nghĩa lịch sử của nó
Đặt xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX trong toàn bộ sự
vận động chung của lích sử dân tộc, chúng ta thấy nó là một bước rẽ ngoặt
mà nội dung căn bản là hình thành nên một xã hội kiểu mới khác hẳn xã hội Việt Nam từ
đó về trước. Trong cả sử học lẫn các bộ môn khác của khoa học
xã hội, trong đó có lịch sử văn học, người ta thường gọi đó là quá trình hiện
đại hóa.
Trong một bài viết mang tên Tìm nghĩa khái niệm hiện đại (có
in trong sách Nhìn lại một thế kỷ văn học, NXB Chính trị quốc
gia, H.2002) chúng tôi đã có dịp trình bày cách hiểu về quá trình này, dưới đây là mấy nét tóm tắt:
- Đó là sự chuyển biến từ kiểu xã hội phong kiến
trung đại sang một xã hội công nghiệp hóa, có đô thị phát triển. Bắt đầu
từ cơ sở kinh tế, cuộc chuyển biến này kéo theo hàng loạt biến động, nhiều quan niệm của con người về bản thân mình cũng như về thế giới có thay đổi. Đồng thời với sự trưởng thành của ý thức xã hội thì con người cá nhân
trong họ cũng được giải phóng.
- Bởi đây là sự chuyển biến từ một xã hội theo kiểu
phương Đông sang một xã hội xây dựng theo mẫu hình phương Tây lúc ấy, nên người
ta còn gọi nó là Âu hóa. Thực chất của hiện đại hóa trong điều
kiện lịch sử đầu thế kỷ XX chính là Âu hóa. Không chỉ ở Việt Nam mà ở
Trung quốc và ở nhiều nước châu á khác, hiện đại hóa đều được sử dụng
với nghĩa cụ thể như vậy. (Còn tới cuối thế kỷ XX nó vẫn được dùng nhưng có
hàm nghĩa mới thì đó lại là chuyện khác).
- Muốn hay không muốn cũng phải xem đây là một bước tiến
bộ. Tính đến hoàn cảnh đương thời, thì đây là công thức duy nhất
có thể đưa xã hội ra khỏi điểm chết mà sự vận động của lịch sử trước đó đẩy tới.
Không phải hiện đại hóa hoàn toàn đối lập lại quyền lợi chính đáng của dân tộc. Ngược lại, chính trong hoàn cảnh hiện đại hóa mà ý thức dân tộc, vốn có từ
trong quá khứ, bắt đầu mang một nội dung mới thích hợp hơn do đó
trở nên hoàn thiện và có sức thúc đẩy lịch sử tiến tới. Đặc biệt với
công cuộc công nghiệp hóa, ý thức dân chủ có dịp nảy nở mạnh mẽ.
Một trong những tư tưởng cơ bản được trình bày trong Văn
minh tân học sách của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục (tổ chức tập hợp những
bậc trí giả thức thời hồi đầu thế kỷ XX), đó là tình trạng
lạc hậu cổ hủ của xã hội Việt Nam trước khi tiếp xúc với văn minh Tây phương. Đến một nhà yêu nước như Phan Chu Trinh thì tư tưởng đó là cả một
ám ảnh. Theo Phan Chu Trinh, sự lạc hậu nếu không được nhận thức và được khắc
phục thì mọi nỗ lực dành lại độc lập đều vô nghĩa. Trong Thư gửi
chính phủ Pháp, ông viết “Nước Nam đã lâu nay học thuyết sai lầm, phong tục
hư hỏng, không có liêm sỉ, không có kiến thức... Trong một làng một ấp cũng cấu
xé lẫn nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau như thù hằn; có dẫu ai có muốn
lo toan việc lớn, chưa kể rằng không có chỗ mà nương thân, không
có khí giới mà dùng, không có tiền của mà tiêu, giá phỏng Chính
phủ (đây là chính phủ thực dân Pháp - VTN chú) cho mượn dăm nghìn
khẩu súng, cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm
gì thì làm, chẳng qua vài năm nếu không báo thù lẫn nhau thì cũng tranh
giành địa vị với nhau, nếu không cướp đoạt tiền tài thì cũng giành giật tước vị,
tự chém giết nhau đến chết hết mới thôi (…)” (1)
Có thể nói sự sáng suốt của những người vừa yêu nước
thương nòi vừa nhìn xa trông rộng và có tư tưởng canh tân xã hội trên đây đã có sức chi phối đối với sự phát triển của xã hội Việt Nam mà quá trình hiện
đại hóa nói ở đây là bằng chứng. Dù công cuộc hiện đại hóa đó tiến
hành dưới sự kiểm soát của bộ máy thực dân, song vẫn phải ghi nhận một sự
thật dẫu sao quá trình đó đã xảy ra. Không có quá trình hiện đại hóa này thì không có xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX như chúng ta đã thấy, không những
không có đô thị, nhà trường kiểu mới, đường sắt, bưu điện, báo chí…, mà cũng không có sự tiếp xúc bình thường giữa Việt Nam và thế giới. Nói cho hết lẽ, phải thấy không có quá trình hiện đại hóa thì không có
luôn cả sự phân hóa giai cấp như các nhà nghiên cứu lịch sử thường
phân tích, không có giai cấp công nhân và một bộ phận trí thức kiểu mới, không có sự du nhập của ý thức hệ Mác Lênin, dẫn đến những biến động
có tính chất bước ngoặt từ sau Tháng Tám 1945.
Hiện đại hóa đã tự phát có mặt trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như thế nào?
Hãy bắt đầu bằng một chi tiết nhỏ trong chương II của Số
đỏ, cái đoạn tả cảnh xảy ra tại một bóp cảnh sát khi một viên quản
ngồi than thở sự đời với một thầy cảnh sát dưới quyền, thầy min đơ (1002):
- Thầy có tiếc cái thời buổi ngày xưa, cách đây mười năm không?
- Tiếc lắm ! Mười năm trước đây, dân ta còn ngu...
- Ngày nay dân ta văn minh mất rổi rõ thảm hại! Thầy phải biết
là xưa kia, xã hội tinh những du côn với nặc nô, tinh những người bất lịch sự
chỗ nào cũng phóng uế, cũng đánh nhau. Hồi ấy có khi bốn người ngồi một xe! Họ
chửi nhau hàng nửa giờ, đánh nhau vỡ đầu, nhà cửa của họ thì rác rưởi, nước cống
nước rãnh tung tóe, ngập lụt. Chó của họ cũng chạy ra ngoài đường nhông nhông…
Xe đi đèo, hay không đèn là nhan nhãn. Bây giờ mọi sự đã thay đổi cả...
Điều bất ngờ là ở chỗ đằng sau câu chuyện mà tác giả thuật lại
để chế giễu tự nó có một ý nghĩa khác. Không gì khác, cái thời buổi ngày xưa mà
hai nhân vật nói ở đây chính là xã hội Việt Nam trước hiện đại hóa, với một nếp
sống phải nói là lạc hậu và chẳng có gì là đáng ước ao, nếu không nói rằng
đáng từ bỏ. Còn thay thế nó lại là xã hội nền nếp quy củ.
Và sự thay đổi mà các viên cảnh sát than phiền là hỏng là đáng chê trách
thì theo lương tri thông thường, lại là một sự thay đổi theo hướng
tiến bộ hợp với tinh thần của nhân văn và đạo lý.
Nếu tiếp tục khảo sát tác phẩm theo hướng này, người
ta sẽ thấy Số đỏ vô hình trung đã phác họa một khuôn mặt khác của
xã hội trong một giai đoạn lịch sử có những đảo lộn hàng trăm năm chưa từng
có. Từ đầu thế kỷ XX trong lòng xã hội phong kiến, những nhân tố của một xã hội theo kiểu phương Tây đã nảy sinh và tới những năm ba
mươi có thể nói cái nền nếp mới ấy đã trở nên ổn định thay cho nền
nếp xưa “thế là hết nhẵn nhụi“. Đóng vai trò đầu tàu cho lịch sử là những
đô thị mới vừa hình thành. Trong kiến trúc trong đường xá cầu cống trong kiểu
ăn ở đi lại... của con người, chúng khác hẳn so với cái gọi là đô thị thời
trung đại. Phân công lao động trong xã hội đã khá cao, nhiều nghề mới nảy
sinh, không phải chỉ có me tây đĩ điếm như nhiều người thích
bêu riếu, mà quan trọng hơn có người đi du học, có luật sư bác sĩ, có các loại cửa hàng và khách sạn đầy đủ tiện nghi, có cả các loại sân
thể thao được xây riêng trong từng gia đình và thày dạy đánh quần vợt. Đặc biệt
ý thức công cộng của mỗi thành viên trong xã hội được nâng lên một bước. Đằng
sau cái câu nói đơn sơ “Lúc này đến cả thằng phu xe cũng biết luật“ là một sự thật: xã hội đã vượt qua giai đoạn tự phát mạnh ai nấy sống. Làm gì
người ta cũng phải chú ý xem phản ứng xã hội với mình là như thế nào. Báo chí
có mặt ở mọi nơi mọi chỗ.
Cũng nên lưu ý thêm là theo sự miêu tả của tác giả thì Xuân
tóc đỏ có lúc ăn vận theo kiểu hề Charlot để gây chú ý, cũng như ông Joseph
Thiết có nhắc đến Léon Daudet - họ là những nhân vật nổi tiếng mà xã hội Việt Nam thời thuộc địa có biết và tên tuổi thường xuất hiện trên mặt
báo; ấy là không kể có cả một buổi hội thảo không chính thức về học thuyết
của Freud (đoạn đầu chương XIII). Những mẫu hình của văn hóa hiện đại đã xuất
hiện để thay thế cho những khuôn vàng thước ngọc dẫn lại từ thời Nghiêu Thuấn
mà mọi người đều đã ngán đến tận cổ!
Ở trên chúng ta đã nói rằng con người trong Số đỏ hiện
ra với nhiều nét khó coi ,ồn ào học đòi, tham lam dâm đãng. Song suy cho cùng
những thói xấu ấy vẫn là bề ngoài. Nếu không xem các tiêu chuẩn đạo đức
vốn có từ thời phong kiến là bất biến mà xét kỹ cái trình độ sống của con
người, nhất là văn hóa chung sống của những con người đó, cái ý thức của
họ về sự tiến bộ chung của xã hội, chúng ta thấy gì? Rõ ràng, đặt
bên cạnh những con người đơn giản, sống cầm chừng, chậm rãi rời rạc của xã hội trung đại, thì con người lúc này luôn hiện ra với vẻ gấp gáp
linh hoạt, sẵn sàng thích ứng với mọi biến chuyển lúc nào cũng có thể xảy
ra. Mọi người, từ Xuân đến bà phó Đoan, từ vợ chồng Văn Minh đến ông TYPN
(Tipphờnờ)… và cả mấy người già như cụ cố Hồng đều có ý thức về cuộc đời
mà họ đang sống, muốn sống theo những tiêu chuẩn mới mẻ mà họ
tin tưởng chứ không phải thế nào cũng được muốn đến đâu thì đến.
Đây là lời bà Văn Minh giảng giải cho một khách hàng về
ý nghĩa của cửa hàng Âu hóa do hai vợ chồng bà ta chủ trương:
- Thưa bà chúng tôi chỉ tiến theo luật tiến hóa chung của
xã hội. Giữa buổi canh tân này cái gì là bảo thủ thì bị đào thải đi. Bà có biết
rằng từ khi chúng tôi mở cửa hiệu này ra thì đã bao nhiêu người vợ được cứu
vớt, tìm thấy lòng yêu của chồng, lại được hưởng hạnh hạnh phúc gia đình rồi
đó không?
Còn đây, cái quan niệm về ăn mặc mà cửa hàng của bà ta noi theo:
- Thưa bà, những nguyên tắc về y phục đã thay đổi.
Chúng tôi mà có chế ra kiểu này cũng là vì theo cái quan niệm y phục của
các nhà thợ may lớn ở Tây phương. Quần áo để tô điểm, đẻ làm tăng sắc đẹp chứ
không phải để che đậy…
Đặt trong mạch chung của tác phẩm thì đây có vẻ như lời lẽ
mòn sáo của một kẻ học đòi. Nhưng thử tách nó ra như một văn bản độc lập, chúng ta thấy đây là những ý tưởng nghiêm chỉnh (một số điều đến nay
chúng ta cũng đang áp dụng). Con người bấy giờ đặc biệt có ý thức về một
cuộc sống khác với những gì họ sẵn có chứ không một chiều nệ cổ. Họ
đã nhìn rộng ra cả thế giới chứ không chỉ chăm chăm quay đầu về cái
sân nhà mình hoặc cái làng con con của mình. Họ lại đã có được ý thức
đúng đắn về thời gian và mối quan hệ giữa thời gian và bản thân mình. “Nó
cảm thấy đời nó từ nay mà đi dễ thường đã vào một kỷ nguyên mới.” -
Không nên một chiều cười giễu cái câu tự nhủ ấy của Xuân tóc đỏ, ngược lại
nên ghi nhận ở nhân vật cả cái ý chí lập nghiệp lẫn một sự tiên cảm chính
xác về tương lai.
Số đỏ kết thúc bằng việc Xuân nhường chức vô địch quần vợt cho đối thủ người Xiêm La. Câu chuyện có vẻ hoàn toàn bịa đặt song đằng sau
nó cần phải ghi nhận một điều: một cá nhân như Xuân đã biết làm chủ hành
động của mình, và sự tính toán ở đây chẳng những là hợp thời mà còn là khôn
ngoan.
Trong khi làm lại cuộc sống, cố nhiên, trong tiềm thức, con người Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX tự hiểu rằng mình có một quá khứ hết sức
nặng nề. Trên mọi phương diện, họ đều nhận ra một sự đối đầu giữa cũ và
mới, giữa lối cổ và lối kim. Nếu như thường xuyên chúng ta bắt
gặp ở họ cái vẻ huênh hoang thì chẳng qua cũng chỉ là một cách nói
to lên những điều lớn lao để tự động viên mình. Sự thay đổi quá nhanh không khỏi
dẫn tới những sự vội vã ép uổng, những nét kệch cỡm, nhưng không phải vì thế
mà đáng sổ toẹt tất cả.
Có hai con người trong một Vũ Trọng Phụng
Âu hóa không chỉ là tên gọi của cái cửa hàng thợ may nơi
nhân vật Xuân trong Số đỏ đến học việc và bắt đầu một cuộc tiến thân. Âu hóa cũng chính là nội dung của quá trình chuyển biến của cái xã hội
nho nhỏ mà tất cả các nhân vật của cuốn tiểu thuyết này - từ những nhà cải
cách xã hội như vợ chồng Văn Minh, các trí thức như ông Josef Thiết, ông
đốc tờ Trực Ngôn… đến lớp người mạt hạng như Xuân cùng mấy ông thày bói mấy cô
bán hàng mấy chị vú em - bị cuốn hút theo.
Suy rộng ra, dễ ước đoán là qua cuốn tiểu thuyết, tác
giả muốn làm một cuộc tổng kết cơ bản, khái quát cả quá trình chuyển biến
của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Đã rõ là có hai tầng hiện thực khác nhau được ghi
nhận trong các trang sách của nhà văn họ Vũ: một đằng là cái đời sống ở cái vẻ
nó đập ngay vào mắt mọi người; và một đằng nữa là cái đời sống ở bề sâu, cái phần ẩn dấu và chỉ bộc lộ ra một cách tự phát, người đọc cũng dễ bỏ qua.
Thái độ của tác giả với hai mảng hiện thực ấy cũng khác
nhau rõ rệt. Có vẻ như với Vũ Trọng Phụng, cái phần xấu xa của đời
sống đương thời là đáng quan tâm hơn cả. Ông tố cáo. Ông lên án. Toàn bộ kiệt tác Số đỏ của ông được xây dựng trên cảm hứng phê phán
đó. Ngược lại, cái mảng hiện thực thứ hai có vẻ nằm ngoài ý thức của ông. Ông chỉ nhân tiện mà nói tới. Sự chểnh mảng của ông với cái phần đời sống này rõ rệt đến mức mà người ta chỉ nắm được nó bằng cách tách sự việc đứng
riêng ra, để chúng độc lập bên cạnh cái nhìn của các nhân vật vốn là
nhân vật phản diện, thậm chí độc lập với tác giả.
Có điều không phải vì thế mà nó cái đời sống ở bề
sâu ấy không hiện ra một cách rõ rệt. Bây giờ mọi sự đã thay đổi cả.
Một câu như vậy quả đã thâu tóm được quá trình biến đổi của xã hội, và ở
chỗ này có thể bảo Vũ Trọng Phụng là một người chép sử trung thành,
mặc dù ông không có ý thức đầy đủ khi làm công việc ghi chép
quan trọng ấy.
Đọc các nhà văn cổ điển cỡ như Balzac, người ta đã được chứng
kiến không ít trường hợp trong con người nhà văn có sự đối lập, trong khi thái
độ ông ta đối với thực tế thế này thì bức tranh xã hội được ông vẽ ra lại có ý
nghĩa khác hẳn.
Trường hợp Vũ Trọng Phụng ở đây cũng có gì na ná như vậy.
Thử giải thích cái nhìn và thái độ của Vũ Trọng Phụng:
Yếu tố chủ quan…
Các nhà viết tiểu sử đã sớm ghi nhận Vũ Trọng Phụng thuộc loại
dân nghèo mới từ bỏ làng quê để nhập tịch vào đô thị. Nhưng lên với Hà Nội ông và gia đình vẫn sống rất thanh bạch. Thay cho cái nghèo chân chất của người
nông dân là cái nghèo nhếch nhác luộm thuộm của đám người nằm ở dưới đáy của Hà
Nội băm sáu phố phường.
Có những người nghèo song cam phận, nhẫn nhục, có cái nhìn
nhân hậu đối với sự đời, song lại có những người do nghèo mà
sinh ra cay nghiệt hằn học chỉ muốn đập phá hết cả. Vũ Trọng Phụng chính là
thuộc típ người thứ hai. Dù đã nhọc lòng đi tìm sự thay đổi, song ông và những
người như ông vẫn không tìm thấy miền đất hứa để có thể tạm bằng lòng với số phận
mà sống trong thanh thản. Bởi vậy, ông nhìn mọi biến thiên xảy ra trong
xã hội như là những chuyện vô lý. Sự đối mặt thường xuyên với mọi loại sa ngã
hư hỏng bất công giả dối khiến ông đớn đau căm uất.
Nói cách khác, nhà văn thân yêu của chúng ta không thoát khỏi mình để có một cách nhìn khách quan với xã hội và xem tiến bộ
xã hội như một tiêu chuẩn đánh giá đời sống. Khách quan mà xét, phải nói rằng
ông bảo thủ, cố chấp. (2)
Qua các hồi ức của những người quen biết riêng với Vũ Trọng
Phụng, từ lâu người ta đã biết rằng tác giả Số đỏ là
một người, trong sinh hoạt hàng ngày, có nhiều phần nệ cổ chứ không mô-đéc
như những người bạn của ông (mà Nguyễn Tuân là một ví dụ). Tới đây chúng ta lại thấy ông nệ cổ cả trong cách nhìn đời nói chung. Từ sự bảo thủ trong quan niệm đạo đức tới bảo thủ trong quan niệm
xã hội, kể ra cũng là một bước đi tự nhiên, không thế thì mới là chuyện lạ.
… Và yếu tố khách quan
Đặc điểm của hiện đại hóa ở Việt Nam là nó diễn ra
không bình thường. Nó không nảy sinh như một sự phát triển nội tại
mà là từ bên ngoài ấn vào. Mà yếu tố bên ngoài đây lại là nước Pháp thực dân,
lúc đó đang đóng vai trò của một thế lực đi xâm lược. Một thời gian dài, với
người Việt Nam, chấp nhận hiện đại hóa tức là chấp nhận hành động
đồng hóa của bọn xâm lược. Điều đó trái với tinh thần quật cường chống
ngoại xâm (bằng bất cứ giá nào đẩy các thế lực ngoại nhập ra khỏi đất nước)
đã thành một truyền thống của lịch sử dân tộc.
Chẳng những thế, trong thực tế, công cuộc hiện đại hóa diễn
ra trong máu và nước mắt. Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đã quá trì trệ và con người
quen lặn ngụp trong sự lạc hậu rất ngại thay đổi. Đổi mới đối với họ thường
khi là một việc làm quá sức.
Bởi vậy (kết hợp cả hai yếu tố trên), người ta không
ngạc nhiên nhận thấy rằng ngay từ khi mới bắt đầu, hiện đại hóa đã không
được người Việt Nam tiếp nhận một cách tích cực. Kẻ biết nhìn ra ý nghĩa tiến
bộ của nó rất ít. Trong lòng mọi người, sự ngại ngần trở đi trở lại. Đủ thứ
áo khoác mỹ miều được lôi ra sử dụng để che đậy cho sự thù ghét và sợ hãi cái mới. Đọc lại văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, người ta thấy với Tú
Xương rồi Tản Đà tiếp đó là các nhà văn xuôi như Trọng Khiêm, Đặng Trần
Phất…, hiện đại hóa đều được miêu tả như một quá trình gây ra đau khổ cho
con người. Tiếp đó, nhiều ngòi bút cùng thời với Vũ Trọng Phụng, những
Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Nguyên Hồng, Nam Cao… đều miêu tả đời sống theo
cái cách ít nhiều lên án hiện đại hóa. Sự bảo thủ mà trên đây chúng tôi
nói ở Vũ Trọng Phụng suy cho cùng cũng là nét bảo thủ của khá nhiều người, kể cả những người thuộc diện tinh hoa của xã hội. Thậm chí còn có thể
nói nó là một thứ vô thức tập thể đang chi phối cách nghĩ một
thời. Trong trường hợp này, các nhà văn thực sự chỉ là công cụ của lịch sử.
Chẳng những sinh thời Vũ Trọng Phụng, quá trình hiện đại hóa xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX được một số người xem là có ý nghĩa tiêu cực mà ở nhiều thế hệ tiếp theo, cho đến ngày hôm nay của chúng ta, lối nhìn nhận
đó vẫn đóng vai trò chủ đạo. Có lẽ chính vì thế mà khi tiếp xúc với
các tác phẩm ra đời trong thời kỳ này, người ta thường chỉ đọc ra
cái phần có ý nghĩa phê phán, còn như cái phần mà ngòi bút chép sử
của các nhà văn đã hoạt động một cách tự phát - như trong trường hợp
của Vũ Trọng Phụng với Số đỏ - thì lại bị đẩy vào bóng tối quên
lãng. Về phần mình, chúng tôi cho rằng nếu nhìn nhận về hiện đại hóa như trong bài này và trong một số bài viết trước
đây chúng tôi đã thử đề nghị, thì ngay với Vũ Trọng Phụng người
ta đã có thể đi tới những kết luận khác hẳn. Trong khi có vẻ làm
giảm hào quang ở ngòi bút nhà văn họ Vũ do chỗ bộc lộ ở ông một
ít yếu tố bảo thủ -, thì đồng thời cách nhìn nhận và đánh giá này làm
cho ông -, trước mắt chúng ta, trở nên sâu sắc hơn và những trang văn của
ông cũng trở nên nhiều tầng nhiều lớp phong phú hơn. Dù không
cố ý, song nhà văn này đã làm được cái thiên chức mà các nhà văn lớn
của một thời đại thường được giao phó, đó là phản ánh được một phần,
theo cái cách riêng của mình, những phương diện cơ bản cùng là cái xu thế phát
triển của thời đại (xin hiểu thời đại nói ở đây là khái niệm thời đại lớn mà nhà nghiên cứu văn học người Nga đồng
thời là nhà triết học M.M. Bakhtin đề nghị). Riêng đối với con người Việt Nam hôm nay, trong một giai đoạn mới của công việc hiện đại hóa - trường
hợp của Vũ Trọng Phụng vẫn đang là một bài học, ít nhất thì nó cũng có thể
giúp chúng ta tham khảo rút kinh nghiệm để có được một cách nhìn
đúng đắn đối với mọi biến thiên đang xảy ra trước mắt, phân biệt được những
biểu hiện bề mặt vốn nhiều rác rưởi và cái xu thế lớn của lịch sử.
Chú thích:
(1) Dẫn theo Tuyển tập Phan Chu Trinh, Nguyễn Văn
Dương biên soạn, NXB Đà Nẵng 1995, các tr.352, 353.
(2) Thực ra đọc lại đoạn đối thoại giữa thầy quản và
viên cảnh sát ở tr. 21-22 thì thấy những điều mà họ nói về thời đại trước
Âu hóa tự nó với những người có lương tri bình thường đã thành một sự phê
phán, và lời than tiếc cuối cùng của họ rằng ”Cái thời
tốt đẹp của các cụ nhà ta không còn nữa “cất lên có chút gì đó ngớ ngẩn và giống như một sự mai mỉa. Trong thực tế người đời dù có cổ hủ đến mấy chắc
cũng không ai ăn nói như vậy. Có lẽ nên giả thiết thêm là trong sự lẫn lộn giữa
đùa và thực, ngòi bút nhà văn đã có phần sa đà hơi quá? Hay là ý thức bảo thủ đã vào sâu trong Vũ Trọng Phụng tới mức nó khiến ông
bất chấp cả mọi lôgíc thông thường?
Biện hộ cho Xuân tóc đỏ
Trong thực tế giao thiệp, cũng như khi tiếp xúc với các tác
phẩm văn chương, ngời ta rất dễ quan liêu, tức là mặc sức cho những ấn
tượng ban đầu thao túng, từ đó, tạo nên những huyền thoại, kể cả huyền
thoại về những con ngời được xem là tốt, lẫn những con ngời bị
gán cho đủ mọi thói xấu. Và việc lật lại các huyền thoại bao giờ
cũng mang trong nó tính chất một cuộc thể nghiệm, cần được trao đổi nghiêm chỉnh.
Sự trùng hợp kỳ lạ
Trong chương mở đầu Số đỏ, Vũ Trọng Phụng có đoạn
tả lại cái cảnh Xuân đi xem bói, và khi ông thầy bảo khai
ngày sinh tháng đẻ, thì nhân vật này - tạm gọi là nó như Vũ Trọng Phụng thường
gọi - đáp lại gọn lỏn “Hai mươi lăm tuổi đấy bố ạ. Tháng mười,
ngày rằm, giờ gà lên chuồng“. Trong cuộc hội thảo vào dịp kỷ
niệm 80 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng (10/2002), nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc
Giác Hải có một tham luận (1) phát hiện ra sự liên hệ thú vị: những con số nói trên liên quan đến người đã tác thành ra nhân vật
chính của Số đỏ. Tức ngày sinh tháng đẻ của Vũ Trọng
Phụng cũng là ngày sinh tháng đẻ của Xuân. Cho đến ngoại hình của
tác giả cũng có những nét của nhân vật. Không cần là người thạo tử vi,
chỉ theo lẽ thường mà suy, người ta đã có thể nghĩ: giữa
nhân vật chính của Số đỏ và tác giả như vậy là có một mối duyên nợ kỳ
lạ. Nhân vật không còn là một thứ chúng sinh bình thường, một thứ công
cụ để ông trình bày tấn trò đời. Mà phải nói cái anh chàng mà ông thác
sinh ra đó có một mối quan hệ riêng với ông, nó là một phần con người của ông. Đây là loại nhân vật có lô gích nội tại, có quy luật
phát triển riêng; sau khi đã đẻ ra nó, nhà văn không thể đứng từ một
khoảng cách rất xa để tùy tiện điều khiển, mà phải nhập thân vào nó,
coi nó như người có thật, tìm hiểu, lắng nghe, đối
thoại với nó. Đến lượt mình, người đọc cũng phải có cách nghĩ khác về Xuân. Lâu nay khi bàn về một con người, hoặc nhân vật
của một tác phẩm văn học, ở ta có một thói quen là cố tìm cách sắp xếp xem nhân vật hay con người đó thuộc vào dạng tích cực hay tiêu
cực, được tác giả đưa biểu dương hay phê phán. Với Xuân, người ta có thêm cơ hội để gắng đi tới một hệ thống phân loại cận nhân
tình hơn. Việc tìm ra và xác định rõ cái chất người ở Xuân
đòi hỏi một cái nhìn cởi mở, vượt qua mọi thành kiến mà hàng ngày ta
không để ý.
Chưa hẳn đã là lưu manh thứ thiệt
Cái danh hiệu “quý hóa” mà nhiều người nghĩ tới và không ngần
ngại gán cho Xuân tóc đỏ gói gọn lại trong hai tiếng lưu manh. Theo cách
hiểu thông thường, nhân vật lưu manh thường là loại người sống bên
lề xã hội; lưu manh đồng nghĩa với những gì xấu xa: hư hỏng, lừa bịp,
dối trá. Như vậy, Xuân bị gán cho những tội vạ nặng nề nhất. Thậm chí
có thể nói, trong tâm trí của nhiều người, ngay đến Chí Phèo suốt
ngày say khướt và mang mọi người ra chửi, sẵn sàng gây vạ cho cả
làng Vũ Đại, xem ra còn có gì đó dễ chấp nhận hơn là Xuân tóc đỏ. Thành kiến
này, cố nhiên, có cái lý riêng của nó. Chính tác giả đã sớm tóm tắt
cho người đọc biết trước mặt họ là một con người hoàn toàn vô giáo dục (câu đầy đủ trong nguyên văn như sau: “Cảnh ngộ tạo nó
nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái lắm thạo đời lắm“). Đúng là trong suốt cuốn truyện, Xuân có làm vài việc dễ gây
phản cảm. Nhưng Xuân không hoàn toàn hư hỏng như người ta thường nhầm và khái
quát một cách vội vã. Trong cách ăn nói và trước tiên là cách nghĩ của
Xuân không có dấu hiệu của sự hèn mọn, đểu giả (2). Thứ nữa, một
thói xấu thuộc loại khó chấp nhận nhất của lưu manh là lười biếng, không chịu làm việc thì Xuân không mắc. Khi tham gia
vào việc phục vụ các bà các cô ở tiệm Âu hóa, cũng như khi trở
thành nhân vật của giới thể thao quốc gia, nó chỉ làm những việc
mà nó thông thạo và có năng khiếu (3). Rồi khi ngẫu nhiên tham gia vào việc chữa bệnh cho ông già tám mươi tuổi thân sinh của cụ cố Hồng, nó đâu có tự đứng ra khoác lác, chẳng qua bị giới thiệu là sinh viên trường
thuốc với ông đốc thì nhận tràn đi, mà không cải chính, thế thôi; cũng như cái việc chữa cho ông cụ bằng thuốc thánh xin ở đền Bia, thì
đó là do thói quen mà làm, chứ không thể nói Xuân cố tình bịp bợm.
Chung quanh hai chữ lưu manh, cùng lúc tồn tại những cấp
độ ý nghĩa khác nhau. Đúng là nói tới lưu manh, người ta nghĩ ngay tới
những hành động cụ thể. Nhưng trong sự giao tiếp hàng ngày, lưu manh còn
được dùng với nghĩa sâu sắc hơn. Đó là tinh thần khinh rẻ đồng loại, bỏ
qua những chuẩn mực thông thường, bất cần, nổi loạn. Đứng đằng
sau các hành động lưu manh thường là một triết lý có màu sắc hư vô: Chúa đã chết, chẳng còn có gì là lương tâm thiêng liêng nữa, và cái gì con người
ta cũng có quyền làm. Bởi vậy, không chỉ thấy ở dân vô học mà trong nhiều trường
hợp, tinh thần bất chấp đạo lý toát ra cả trong hành động cũng như tư tưởng của
những người có bằng cấp cẩn thận, và hai tiếng lưu manh hoàn toàn thích hợp để
gọi họ. Như trong Hoàng Lê nhất thống chí, một nhân vật
là huyện Trang trong cảnh hỗn loạn, công khai làm chuyện động trời
là bắt vua lấy thưởng, nhân vật này đã tự giải thích hành động của
mình bằng câu “triết lý” xanh rờn: “Sợ thày không bằng sợ
giặc, yêu chúa không bằng yêu thân. Sự bất cần ở đây đã
lên đến mức cùng cực, và phải gọi đó là một triết lý lưu manh. So sánh
với các nhân vật loại “có học“ như vậy, thì Xuân của chúng ta
chưa đến nỗi. Nó không ích kỷ và cá nhân chủ nghĩa tới mức đi ngược đạo
lý thông thường. Đứng trước cuộc đời, nó còn biết sợ. Còn đây, một sự
so sánh khác: trong kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam, có hẳn một
chùm truyện viết riêng về hai nhân vật nổi tiếng là Ba Giai Tú Xuất. Vốn họ cũng là người có được học hành đàng hoàng, thi cử đâu ra đấy, song sống
trong một hoàn cảnh ngang trái, cụ thể là hoàn cảnh một xã hội nhố nhăng
hỗn loạn (thuở giao thời khi Việt Nam vừa mới trở thành thuộc địa của
người Pháp), niềm tin của một trí thức ở Ba Giai cũng như Tú Xuất tan nát hoàn toàn. Họ lao ra đường làm bậy. Gặp ai họ cũng tìm cách trêu chọc thậm chí hạ nhục. Nói như cách nói của những năm đầu
thế kỷ XXI này, phải gọi Ba Giai Tú Xuất làm nên một cặp bài trùng, chuyên nghề khủng bố lẻ, cười cợt ngay trên nỗi đau khổ của người
khác. Nhân vật ở đây thực đã rơi xuống vũng bùn của thứ chủ nghĩa
hư vô ở dạng thấp hèn, trong cơn tuyệt vọng tự cho
phép mình tha hồ phá phách. Xuân tóc đỏ xa lạ với những cách
cư xử kiểu ấy. Nó không bao giờ làm những việc đáng để gọi là bất
nhân bất nghĩa. Ngược lại, ở nó chỉ có một ám ảnh là làm sao ra khỏi
tình trạng khốn quẫn và tìm cho mình “một chỗ đứng dưới ánh mặt trời“.
Nên biết thêm rằng bản chất lưu manh không chỉ thể hiện ở
tình trạng bần cùng hóa về đường vật chất, mà còn bao hàm thái độ khinh
miệt đối với trí tuệ và các giá trị tinh thần, kể cả kiến thức và sự uyên bác. Sự khinh miệt này làm cho các nhân vật
lưu manh trở nên đối lập hoàn toàn, tức một thứ khắc tinh của những
người trí thức chân chính; sự thắng thế của tư tưởng lưu manh góp phần vào việc
hủy diệt niềm tin nơi các trí thức ấy, làm cho họ không còn tin ở mình, ngấm
ngầm khuyến khích họ biến chất, tức cũng chung một triết lý sống với những kẻ vô học càn rỡ, láo lếu. Nhìn lại, thấy những “ưu điểm”
loại này cũng không có chỗ đứng trong tâm trí Xuân. Liều lắm, nó
chỉ suồng sã vỗ vai đùa bỡn với đốc tờ Ngôn hoặc Josef Thiết, nhưng dừng
lại ở đó, và trong bụng vẫn dành cho họ sự kính trọng, khi cần thì thành thực
nhờ họ giúp đỡ.
Một người lập nghiệp
Các nhân vật được xếp vào loại tích cực (với nghĩa đáng
khen đáng noi theo) trong văn học cổ cũng như văn học hiện đại ở Việt
Nam thời kỳ 1932-45 thường là những người yếu đuối, bị chèn ép. Như trường
hợp chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Trong sự cảm thụ thông thường, nhân vật này thường được xem như có nhiều phẩm chất tích cực,
đáng biểu dương ca ngợi. Nhưng hãy thử đọc lại tác phẩm: Nét nổi
bật ở chị Dậu là thương chồng thương con. Nghĩa là người đàn bà
nông dân này có một đời sống tình cảm thuần phác và đôn hậu. Song, khi chỉ
vào đời với những phẩm chất ấy, người ta rất dễ chuốc lấy bất hạnh. Về nhiều phương diện, trong chị Dậu thấy lặp lại cái phần thiếu xót nằm
sâu trong tính cách cô Kiều thân thiết của tất cả chúng ta: Họ đều
là những người không có được sự hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh xã hội
nói chung, về tình thế của mình nói riêng, do đó trên đường đời nhiều
phen rơi vào bị động bất lực. Trong Truyện Kiều, khi gia đình
khó khăn thì Kiều chỉ biết có cách khóc lóc rồi sẵn sàng bán mình cứu cha, dấn thân vào cuộc sống phong trần; cũng như sau này, qua ít
ngày theo Từ Hải ngang dọc, Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Còn trong Tắt
đèn, hành động khá nhất của chị Dậu là dám túm lấy cổ cai lệ đến thu thuế,
ấn dúi hắn ra cửa, tiếp đó túm tóc lẳng cho tên người nhà lý trưởng ngã
nhào ra thềm, rồi bị giải lên phủ, cuối cùng phải đi làm vú
lấy tiền trả nợ. Nhìn lại các nhân vật được nhiều cảm tình của bạn đọc
như Mai trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng, cô hàng xén
hoặc mẹ Lê trong các truyện ngắn của Thạch Lam, chúng ta cũng thấy
những nét tương tự. Dù hiện ra với nhiều tính tốt, như mau mắn, tử tế,
nhân hậu, song thật khó lòng nói rằng đó là những nhân cách
trưởng thành và đạt tới một triết lý sống chắc chắn. Trong khi khâm phục giá trị đạo đức của họ, đồng thời phải nhận rằng cái tư cách
nạn nhân có làm cho họ bé nhỏ đi ít nhiều.
Một loại nhân vật khác cũng gần với Xuân là những Tám
Bính, Bảy Hựu… trong các tác phẩm của Nguyên Hồng. ở đây, các
vai lưu manh được miêu tả với đủ chuyện kinh thiên động địa. Chủ ý
của Nguyên Hồng là nhấn mạnh rằng ở những con người tưởng như đã
tha hóa ấy, cái phần lương tri tốt đẹp vẫn còn. Nhưng cũng chỉ có thế. Nhân
vật của Nguyên Hồng chưa ra khỏi thế giới nhỏ hẹp chật chội của lớp người bần
cùng. Còn Xuân của Vũ Trọng Phụng thì được ném vào một trường hoạt động
mới, để gia nhập vào cái thế giới rộng lớn mà người ta tưởng như chẳng
liên quan gì đến nó. Biết mình xuất thân hèn hạ, Xuân không mặc cảm,
mà vẫn hồn nhiên tham gia vào những việc có vẻ như rất trọng đại. Và nhất là vẫn giữ được một sự chủ động hiếm có. Đằng sau câu chuyện mê tín (vốn là một thói xấu dễ tha thứ), việc Xuân đi bói hé ra cho thấy một ám
ảnh ghê gớm trong lòng nhân vật: Nó muốn có một ngày mai khác với hôm
nay. Và nó tin rằng nếu biết cố gắng, thì cái hậu vận tươi sáng đó trước sau
sẽ đến. Đây là một nét tâm lý chỉ thấy ở những con người có
lòng tự tin mạnh mẽ. Bàn về Chí Phèo như một siêu mẫu, nhà nghiên
cứu Đặng Anh Đào cho rằng qua anh Chí, Nam Cao đã thâu tóm
được một khát vọng nóng bỏng của con người trong mọi thời đại, đó là khát vọng hoàn lương, khát vọng đổi đời (4). Trở lại với Số
đỏ, có thể thấy cả hai khát vọng đó cũng nằm sâu mãi trong tâm trí Xuân và dần dần được thực hiện. Trong chương XVI, khi dẫn Xuân đi khai tên ở Tổng cục thể thao (ngày nay gọi
là đi đăng ký dự thi), Văn Minh đã giúp chúng ta khái quát một chân
dung. Chẳng những nhác trông thấy Xuân, Văn Minh đã thầm nghĩ ngay rằng “Ừ cái mặt thằng này thế mà cũng đỡ ma cà bông rồi đây” -, ở đoạn dưới, ông chủ
cửa hàng Âu hóa còn nói thẳng với Xuân: “Từ khi anh về giúp việc
cho chúng tôi, là địa vị anh cứ dần dần thay đổi, cho đến bây giờ thì
anh đã nghiễm nhiên là một người khác“. Sự đổi đời không còn
là cái ao ước xa vời. Mà với Xuân nó đã trở thành hiện
thực! Có dễ trong văn học Việt nam từ 1945 về trước, ít có nhân vật nào
thành công một cách chính đáng như vậy. Để đạt mục đích, đúng là Xuân có gặp
may, nhưng sự may mắn đó chỉ đến với những con người có sự chuẩn bị đón
nhận. Sự đổi đời ở đây là một kết quả hợp lý, nó
là phần thưởng sau bao kiên trì nỗ lực. Cái ý thức “mình cũng có
thể như mọi người, thậm chí làm hơn mọi người“ đã ăn sâu vào Xuân để rồi cộng với những nỗ lực thích đáng, tự nó làm nên những cú vượt thoát ngoạn
mục.
Một bước phát triển trong đời sống tinh thần
Để có thể thành công trên đường lập nghiệp, một cá nhân phải
có sự trưởng thành trong trình độ làm người. Trên nhiều
phương diện, Xuân của Vũ Trọng Phụng đã đáp ứng nhu cầu đó. Nghe
ra có vẻ hơi kỳ, nhưng vẫn có thể nói Xuân là một tính cách chắc chắn, ổn
định, ít nhất là trên mấy khía cạnh sau đây:
1/ Xuân rất nhạy cảm, nên thường nhận thức
rõ tình cảnh mà mình rơi vào và có sự đáp ứng khá hợp lý. Vừa sống, nó vừa nhìn vào những người chung quanh lo học hỏi và tìm cách đáp ứng cái vai trò mà mọi người trông chờ ở mình. Vả chăng, đó không phải là cách thích ứng hèn hạ, thích ứng với bất cứ giá
nào đến nỗi tha hóa, tức đánh mất mình. Với cái vẻ “thạo đời và tinh quái sẵn
có“, dù phải làm gì thì Xuân vẫn là Xuân, nếu
như không nói là dần dà nâng được địa vị của mình lên một cách đàng hoàng. Đọc
những câu như “Xuân trầm tư mặc tưởng“, hoặc “tự nhiên nó quá đứng
đắn, rất có ý tứ“, mới đầu nhiều người có thể bỏ qua, tưởng chỉ là một
câu đùa giỡn của Vũ Trọng Phụng, song những nét chấm phá đó hoàn toàn nhất
trí với tính cách Xuân nói chung. Thành thử có thể nói nếu có đùa thì đó
là một trò đùa rất nghiêm chỉnh. Và cả cuốn Số đỏ được viết theo kiểu
“đùa rất nghiêm chỉnh“ ấy.
2/ Xuân sống tự trọng. Nhiều lần ta bắt gặp ở nó “cảm
giác hổ thẹn“. Hứa với ai điều gì, là nó lo thực hiện. Ai làm ơn
cho nó, nó đều nhớ. Có lỗi với ai (kể cả cái lỗi lớn là chiều ý bà Phó
Đoan khi về ở nhà bà), nó áy náy không yên và tìm đủ cách chuộc lỗi. Vậy là có một chút gì đó thuộc về lương tâm vẫn còn sống mãi trong lòng
Xuân. Chính tác giả cũng đã mấy lần viết những câu tạt ngang đại
loại “Vốn là người cũng có lương tâm nó nhận thấy rằng…” hoặc “Nó hiểu ngay ra nghĩa chữ tín ở đời“. Với niềm tự
tin sẵn có, Xuân sẵn sàng đối mặt với sự thật: Thấy có người nói xấu
mình, nó đi hỏi bằng được. Tức là nó muốn tìm tới một sự sòng phẳng, một
điều mà người ta hay nghĩ rằng những ai xuất thân hèn hạ và thiếu tự tin
không bao giờ có.
3/ Ở Xuân sớm hình thành một thói quen, đúng hơn
một định hướng sống khá chính xác: Nó không nhẫn nhục cam chịu sống
với cái vị trí mà người ta đẩy nó vào hoặc khép mình theo những chuẩn mực mà xã hội áp đặt cho loại người lưu manh. Những nền nếp cũ
không hề có mặt để trói buộc nó. Một cách chủ động, nó dám sống
khác với thói thường, miễn thấy đó là phải. Nói cho to tát, tức nó muốn sống
theo đúng tầm vóc của con người nói chung. Trong việc này, cái lý lịch “trên
không chằng dưới không rễ“ của nhân vật trở nên một điều kiện thuận
lợi. Nó dễ dàng tìm cho mình một sự tự do với đúng nghĩa của từ này.
Trên đường lập nghiệp, nó không sớm cầu an và dừng lại giữa chừng, mà
quyết đoạt được tới hiệu quả cao nhất có thể có. Việc Xuân vươn ra ở trình độ
quốc gia (dù là trên lĩnh vực thể thao), cho thấy về căn bản, định hướng sống của nó là đúng.
4/ Một điều kiện nữa giúp Xuân thành công mà cũng là dấu
hiệu cho thấy nó đã đạt đến trình độ khá cao trong sự phát triển lý tính, ấy là việc Xuân rất hiểu mình cũng như vị trí
của mình trong con mắt mọi người. Có lần tả Xuân cáu, tác giả bảo rằng
“lúc ấy Xuân quên hẳn mình. Nó đã bất tự tri”. Một lời
chê nhỏ như vậy thực ra là một lời khen lớn: Tức là hàng ngày Xuân vẫn tự
tri, cái sự tự tri (tự biết chính mình) ấy đã thành một bản tính tự nhiên, chỉ thỉnh thoảng nó mới quên. Hãy đọc lại đoạn Văn Minh báo với
Xuân cái việc định gả em gái là Tuyết cho nó. Những tưởng đang trong cảnh long
đong kiếm sống, vớ được vợ giàu chẳng khác chết đuối vớ được cọc, Xuân
phải túm ngay lấy cơ hội. Đằng này không, Xuân lập tức trả lời là mình
không dám nhận. Và trước mặt ông anh vợ tương lai, nó nói thẳng rằng
mình “không cha không mẹ, lêu lổng từ bé, nhặt ban quần, bán phá sa, đã làm
nhiều nghề hèn“. Nói như các cụ ngày xưa, vậy là Xuân thuộc loại
tri kỷ tri bỉ, biết mình biết người; hoặc theo thuật ngữ của tâm lý học, ở nó có một sự tự ý thức khá đầy đủ. Nó không quên quá khứ, càng
không mắc bệnh hoang tưởng. Trong cái năng lực tự ý thức ấy,
có mặt cả sự tự tin, tỉnh táo, lẫn sự lương thiện, bấy nhiêu lý
do cùng lúc khiến cho người đọc buộc phải nhận rằng mặc
dầu thuộc loại ở mãi dưới đáy xã hội nhưng Xuân chưa bị làm hỏng.
Chẳng những thế, còn có thể nói nó đã hấp thụ được một trong những cách nghĩ mới mẻ mà xã hội hiện đại vừa mang tới
cho con người đương thời. Sự tỉnh táo của Xuân lúc này có thể sánh ngang với
Chí Phèo khi Chí cãi lại Bá Kiến “Không được! Ai cho tao lương
thiện… Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!“ mà nhiều người vẫn ca ngợi.
Con người hiện đại, anh là ai?
Sau khi kể lại tỉ mỉ việc Xuân gia nhập vào xã hội của những
bà phó Đoan, Văn Minh, đến chương XIV, Vũ Trọng Phụng để hẳn mấy
trang nói riêng về việc Xuân tóc đỏ được mọi người đánh giá ra sao. Điều này không chỉ là nhu cầu của người trong cuộc mà còn là của chính độc giả
theo dõi câu chuyện. Thế nhưng rút cuộc Xuân là người thế nào? Chịu,
những người thường xuyên tiếp xúc với Xuân mỗi người một ý, không ai xác
định được cho chính xác. Người yêu người ghét, người này thấy
Xuân vô tích sự, người khác lại thấy Xuân được việc. “Người chê
Xuân vô học, người lại quả quyết rằng về học thức của Xuân thì đã
mấy ai bằng“. Và tác giả chốt lại bằng một câu buông lửng: “Sau cùng
thì không còn một ai biết rõ cái giá trị của Xuân là
đáng khinh trọng thế nào nữa“. Việc một nhân vật trở
nên một cái gì người ta không kết luận được như thế này không chỉ
khiến cho câu chuyện đọc thêm hấp dẫn, mà suy cho cùng, nó càng chứng tỏ nhân vật có phần vượt khỏi tầm tay của tác giả như phần trên chúng tôi đã lưu ý. Hơn nữa đây cũng chính là một đặc
điểm người ta thường thấy ở loại nhân vật hiện đại trong văn
học. Những ai có dịp tìm hiểu văn học phương Tây thế kỷ XX hẳn
biết nhân vật trong các tiểu thuyết thời nay có sự phát triển khá lạ
lùng. Nói chung, không bao giờ họ nằm yên trong những cái khung xã hội mà người đọc quen hình dung. Họ vào đời như dấn thân vào những cuộc
phiêu lưu. Dường như mỗi người bị đẩy đi giữa một đám đông hỗn độn
và toàn bộ nỗ lực của họ là tìm cách tự khẳng định mình trong sự hỗn độn
đó. Có khi họ thấy đời là một cuộc chơi và quá trình chơi
thú vị hơn kết quả. Lại có khi họ bị ám ảnh bởi ý nghĩ điều gì cũng có
thể xảy ra đối với mình, cả điều xấu nhất lẫn điều tốt nhất. Khi giả thiết rằng
thế giới này là điên rồ và mình cũng chẳng thoát khỏi cơn điên ấy, con
người trong tiểu thuyết hiện đại không còn bị ám ảnh quá đáng bởi
lương tâm và các vấn đề đạo đức. Đường đời của nhiều nhân vật lúc này phần lớn phụ thuộc vào việc họ tự chế ngự những mặc cảm cuối cùng còn sót lại
trong người, để hiện thực hóa cho được những tiềm năng sẵn có. Bảo rằng họ thành công cũng được, thất bại cũng được.
Không cần khiên cưỡng gì lắm, cũng có thể nói rằng người
ta dễ dàng tìm thấy một số đặc điểm trên đây trong tính cách và số
phận Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng Phụng, và chắc chắn là rồi đây, khi
cần nghiên cứu kỹ càng đầy đủ hơn vấn đề hiện đại hóa của con
người Việt Nam thế kỷ XX, Xuân còn được nhắc tới như một dẫn chứng độc
đáo.
Sở dĩ văn học thế kỷ XX đưa ra loại nhân vật nói trên,
bởi ngay trong đời sống, những con người loại này đã hình thành, và chính sự
đổi khác của đời sống buộc tiểu thuyết phải khác trước thì mới biểu hiện
được cái đời sống đã thay đổi đó. “Nay là thời mà lối viết trữ
tình hoặc để cho dốc bầu tâm sự không còn được thịnh hành, và một
khi bị mang áp đặt, thì cả những tình cảm tốt cũng dễ bị dị ứng”.
“Những hài kịch phi lý, đó là cách tốt nhất để viết về cái thế giới
kỳ cục mà người ta đang sống”. “Tính hiện đại mang trong nó sự giải
phóng cá nhân, sự thế tục hóa toàn bộ những tiêu chuẩn giá
trị, sự phân hóa không thể kết hợp của chân thiện mỹ “- những nhận
định loại đó rất dễ gặp trong các tài liệu nghiên cứu viết về phương Tây
hiện đại.
Tương tự như vậy, có thể nói sở dĩ Xuân tóc đỏ có thể có mặt
và tự do đi về trong kiệt tác của Vũ Trọng Phụng, ấy là bởi chính sự
phát triển của hoàn cảnh đã mở ra những tiền đề cho loại nhân vật
này phát triển. Từ chỗ là một thực thể cổ lỗ ngưng đọng, xã hội Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX đã trở thành một xã hội hiện đại một cách nhanh chóng đến
mức tự nó cũng kinh ngạc về sự biến chuyển của chính mình. Trong lúc
chưa thể tự nhận diện một cách chính xác, người ta đành tạm bằng lòng với những giả thiết chung chung, kể cả những nhận thức
tưởng là gần đúng mà thực ra là lầm lẫn. Ở chương VII của Số đỏ, tác giả kể khi cụ tổ tám mươi ốm, có một người con (cũng đã già)
gọi là ông Hai ở nhà quê ra chơi, và Vũ Trọng Phụng không quên nói rằng trong
con mắt của ông Hai mọi chuyện lúc bấy giờ thật là kỳ quặc. Quả thật, hai chữ kỳ quặc đã diễn tả chính xác
cái ấn tượng mà nhiều người bình thường có được từ cuộc sống
và con người ở Hà thành khoảng những năm ba mươi của thế
kỷ trước. Bởi suy cho cùng cái nhìn của ông Hai nói ở đây có
liên quan tới cái nhìn của những người nông thôn, là nơi mà công
cuộc hiện đại hóa chỉ tác động tới một cách hời hợt. Điều quan trọng hơn
là cho đến những năm cuối của thế kỷ XX, đầu XXI, cái nhìn loại
này vẫn được nhiều người vô tình lặp lại. Thành thử, những
thành kiến kéo dài với một nhân vật như Xuân tóc đỏ từ trước đến nay kể
ra cũng là tự nhiên, và chỉ có cơ thay đổi khi tiến
trình hiện đại hóa mà Xuân đã sống, đã vùng vẫy để tự khẳng định, được chúng ta nghĩ lại cũng như đánh giá lại.
Chú thích:
(1) Một phần tham luận này đã được in trong Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm Vũ Trọng Phụng NXB Văn học 2003.
(2) Ngay từ 1990, Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết Trào
phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ đã sớm nhận xét “Xuân tóc đỏ
thực sự không chơi đểu với ai cả, chẳng qua những người chung quanh nhầm hoặc
lợi dụng y“. Bài viết in trong Vũ Trọng Phụng, tài năng và sự thật, NXB Văn học 1998, tr 110.
(3) Khi sửa chữa lại bài trên và cho nó một cái tên
khác là Dị ứng với cái rởm một phương diện của trào
phúng Vũ Trọng Phụng (in trong Bản sắc hiện đại…,
sđd, tr 91) Hoàng Ngọc Hiến nhận xét: “ Xuân là sinh viên
trường thuốc rởm là ”thượng lưu trí thức“ rởm, là thi sĩ rởm…
nhưng năng lực đánh quần vợt của Xuân là tài năng thực, hơn nữa một tài
năng xuất chúng“
(4) Khả năng tái sinh của Chí Phèo, bài viết
này có in lại trong Nam Cao, con người và tác phẩm, NXB Hội
nhà văn, 2000, tr 283.
(1) Theo một lối nghĩ công thức nào đó, thì lý dịch không thể bị bần cùng hóa trở
thành dân nghèo thành thị. Nhưng đây vẫn là trường hợp có thật, bản thân gia
đình Vũ Trọng Phụng là ví dụ.
13/12/2009Vương Trí Nhàn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét