Tiếng chuông của làng quê non nước
Tiếng chuông chùa ngân nga, văng vẳng trong không gian rồi
tan loãng giữa xóm làng sau khi đã thâm nhập chốn dương trần và đưa nhân gian
vào cõi tịch tĩnh hư không. Thời gian lắng đọng cùng hồn người. Cảnh vật như cộng
hưởng cùng tiếng chuông. Tất cả đều trở nên lung linh trầm mặc.
Tiếng chuông chùa thi vị và đầy sức cảm hóa làm nảy sinh ra
biết bao cảm hứng về âm nhạc và thơ văn, chan chứa chất liệu cốt tủy của tinh
thần Phật giáo cùng với mối sầu cảm ướp đầy tình tự quê hương. Tiếng chuông
chùa quả thật có một năng lực hồi sinh rất lớn.
Vì sự nhiệm mầu đó nên xưa nay đã có biết bao người phát nguyện đúc chuông, từ
vua, quan cho đến muôn dân:
“Đúc chuông tạo tượng xây chùa
Trong ba phước ấy dân - vua đều làm.”
Chuông vang trong âm nhạc
Tiếng chuông chùa đến trong dòng nhạc Việt khơi lại tâm tình riêng tư của con
người. Nguyễn Văn Đông miêu tả quang cảnh hiu quạnh, cô đơn của lữ khách trong
những “đêm đông” lạnh lẽo:
“Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống.
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông.
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời.
Cùng mây xám về ngang lưng trời…”
Hoàng Trọng thời tìm lại giây phút êm đềm lúc về lại mái nhà xưa khi đã “dừng
bước giang hồ” sau một đời rong ruổi:
“Chiều nay sương gió
lữ khách dừng bên quán xưa.
Mơ màng nghe tiếng chuông chiều
vương về bên quán tiêu điều…”.
Tiếng chuông chùa vang vọng trong khúc “nhạc chiều” khiến
Doãn Mẫn như quên hết đi đám bụi trần vương mắc:
…“Chuông chùa vương tiếng ngân.
Âm thầm trong chiều vắng.
Đường tơ lắng buông trong huy hoàng.
Ru hồn quên hết nỗi chứa chan niềm cay đắng…”
…“Vương sầu làm chi cho ngày thắm phai.
Mỗi khi tiếng chuông vẫn ngân dài…”
Còn Y Vân và Nguyễn Hiền cảm nhận thấy mùa xuân đầy hương sắc
và muốn trai gái trong làng cùng trao nhau câu ân tình “anh cho em mùa xuân”
khi nghe tiếng chuông chùa vẳng trong ánh trăng thanh:
“Ngoài đê diều căng gió.
Thoảng câu hò đôi lứa.
Trong xóm vang chuông chùa.
Trăng sáng soi liếp dừa…”
Tô Vũ nhờ “tiếng chuông chiều thu” mà nhớ lại bao kỷ niệm của
thời niên thiếu:
…“Từ miền xa tiếng chuông ngân.
Hồi buông lớp lớp theo gió vàng”
…“Hồn ta chìm đắm tiếng chuông xa vời.
Hồi chuông ngân nga trong chiều thu ngợp gió”
… “Hồi chuông ngân nga ru hồn mơ.”
…”Ngày nào khi chiến chinh xong.
Hồi chuông vui reo như tiếng đồng.
Chuông ran lời ước cũ.
Tình ta đẹp bao nhiêu.
Hồn anh thầm lắng tiếng chuông ban chiều”
Riêng với Hoàng Giác tiếng chuông gợi niềm nhung nhớ một bóng
hình người đẹp trong giấc “mơ hoa” xa xưa với lời tâm sự: “tôi liên tưởng ngay
đến các cô ở làng hoa Ngọc Hà mà sáng sáng tôi hay gặp trên đường tôi đi học…
Và đấy là bản nhạc đầu tay trong cuộc đời sáng tác của tôi”:
“Chuông chiều ngân tiếng vấn vương lòng trông theo cô hái
hoa.
Bước đi bâng khuâng muôn ngàn sầu nhớ bóng mờ mờ xa…”
Trong khói sương buổi chiều cao nguyên Đà Lạt thời âm giai tiếng
chuông chùa Linh Sơn khiến ưu phiền trầm lắng và tình thương lên ngôi. Minh Kỳ
nở nụ cười khi lòng chợt dâng niềm nhớ “thương về miền đất lạnh” dấu yêu:
“Linh Sơn đâu đây buông tiếng chuông ban chiều.
Như ru ai say trong giấc mơ dạt dào.
Cho thế nhân thôi, ru hết u sầu.
Để lòng quay về bến yêu…”
Chuông thức tỉnh lòng người
Âm hưởng của tiếng chuông chùa cũng đã đi vào thi ca tạo nên
một nét đẹp nhân văn rất đáng quý. Tiếng chuông là phương tiện thiện xảo của cửa
thiền để mở đường nhập vào đời sống tâm linh, là âm thanh trầm hùng kêu gọi thế
nhân quay về trong thực tại. Chuông ngân như một cuộc hành hương từ chốn phong
ba về vùng tĩnh lặng an nhiên.
Tiếng chuông thức tỉnh cả âm cảnh lẫn dương trần, thức tỉnh
bao tâm hồn còn mãi đắm chìm trong cõi mộng, tuy sống trong cõi vô thường mà
không ý thức về sự thật vô thường của vạn thể. Cuộc đời là một hơi thở rất nhẹ
và mong manh, chỉ cần ngừng lại nửa phút là giũ bỏ tất cả.
Tiếng chuông chùa như một thông điệp của trí tuệ và từ bi,
như lời nhắn nhủ của Đức Phật: "tất cả những gì theo duyên khởi cũng đều
theo duyên diệt."
Trong “Nghi thức thỉnh đại hồng chung” mà các chùa thường đọc
và thường được khắc lên chuông, có mấy câu đại ý rằng: “Xin nguyện tiếng chuông
này lan tỏa trong pháp giới. Địa ngục dù có tối tăm, tất cả đều được nghe. Nghe
âm thanh này tâm được thanh tịnh. Hết thảy chúng sinh thành bậc chánh giác.” Sư
Trí Hải dịch:
“Giờ con xin đánh chuông này
Tiếng vang thấu khắp mọi nơi xa gần
Ai nghe thấy lòng trần nhẹ bỗng
Đạo Bồ-Đề được chứng lên ngay.”
Đỗ Phủ khi đến “chơi thăm chùa Phụng Tiên ở núi Long Môn”,
trên núi cao ngửa mặt trông lên bầu trời sao, thân mình tưởng như nằm ngủ trong
mây, gần sáng cảm tác rằng: “nghe tiếng chuông chùa khiến cho lòng người phải tỉnh
ngộ sâu sắc”:
“Dục giác văn thần chung
Linh nhân phát thâm tỉnh.”
Với người dân Việt thì tiếng “chày kình” gõ lên chuông chùa
đã âm vang từ mấy nghìn năm lịch sử dân tộc vẫn còn lắng đọng trong tâm hồn, cả
ngày nay tới mãi mãi ngàn sau.
Chày kình là chiếc dùi thỉnh chuông có chạm hình con cá Kình.
Tiếng chuông luôn dóng lên để thức tỉnh lòng người. Trong “truyện Kiều” khi tới
đoạn miêu tả sự hạ thủ công phu của Thúy Kiều sau những năm lưu lạc với những
chán chường đau khổ, phải tìm về nương náu nơi cửa Phật để mong thoát kiếp trần
duyên, Nguyễn Du cũng đã có hai câu thơ:
“Sớm khuya lá bối phiến mây
Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương”
Cũng nghe tiếng chày kình, nhưng giữa “Hương Sơn phong cảnh”
Chu Mạnh Trinh không chỉ say sưa với cảnh đẹp mà đã giật mình tỉnh thức vì tiếng
chuông. Tỉnh thức để thấy cho rõ sự thật vô thường của cuộc đời. Nhờ như vậy mà
con người sống có ý thức hơn, minh triết hơn. Tiếng chuông ở đây vừa dẫn dắt
con người hòa nhập với cảnh vừa thức tỉnh đưa con người rời cõi mộng ảo quay về
với thực tại:
“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái
Lửng lơ khe yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.”
“Muôn hồng nghìn tía tưng bừng
Suối khe hát nhạc, thông rừng dạo sênh
Chim cúng quả, cá nghe kinh
Then hoa cài nguyệt, chày kình nện sương.
Sư Huyền Không khi “nhớ chùa” luôn nhớ đến mái ngói rêu phong
ẩn mình trong hoa lá, hương hoa hòa quyện lan tỏa. Trong cảnh tịch mịch đó âm
ba của tiếng chuông lại vang lên dịu dàng như lời vỗ về an ủi những cuộc đời hiền
lành lam lũ:
“Mỗi tối dân quê đón gió lành,
Khắp chùa dào dạt ánh trăng thanh
Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi
An ủi dân hiền mọi mái tranh.”
Tiếng chuông chùa đối với Quách Tấn như một kỷ vật thiêng
liêng nên mỗi lần trông thấy cảnh núi non chùa chiền hay mỗi khi chợt tỉnh giấc
nồng, tiếng chuông cũng hiện đến:
…“Núi Nhạn chuông ngân trời bảng lảng,
Đầm Ô sen nở gió thơm tho.”
…“Mây nước nhuốm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân.”
Quách Tấn tâm sự: “Người đến viếng cảnh chùa, lòng không rửa
mà trong, thân không cánh mà nhẹ, ngồi tựa bóng cây đón mát, tưởng chừng mình
đã xa lánh hẳn cõi trần tục”… “Nếu không có tiếng chuông lay mộng thì mộng còn
mãi chìm trong bóng mây rán, hoặc làm con cò vương hương bay lờ lững trong hồ
sen yên tịnh”:
…“Gió ru hồn mộng thiu thiu
Chuông chùa rơi rụng bóng chiều đầu non”.
…“Mây tạnh non cao đọng nắng chiều
Tiếng chuông chùa cũ vọng cô liêu.”
…“Chùa ẩn non mây trắng
Bóng in hồ liễu xanh
Mai chiều chuông đã tạnh
Vòng sóng còn long lanh.”
Còn với Tuệ Nga thì “tiếng vọng hồng chung” quả thật đã khiến
cho người cõi trần được tỉnh thức và riêng người tu thời thêm tinh tấn vô ngần:
…“Âm vang tiếng vọng hồng chung
Gọi người thức tỉnh thoát vòng u mê
Hồng chung ngát ý Bồ Ðề
Chuông ngân thanh thoát đường về bến hoa”…
…“Đại Hồng Chung xóa sương mù
Giúp người tinh tiến đường tu viên thành”…
Quả thật tiếng chuông chùa là pháp âm vi diệu, làm thức tỉnh
khách hồng trần, quay về bờ giác ngộ, bỏ ác làm lành, hồi tâm hướng thiện.
Chuông tiêu trừ phiền não
Trong “Nghi thức thỉnh đại hồng chung” cũng ghi mấy câu ngụ ý
rằng: “Nghe tiếng chuông, phiền não vơi nhẹ, trí tuệ tăng trưởng, tâm bồ đề
sinh, lìa chốn địa ngục, ra khỏi hầm lửa, nguyện thành Phật để cứu độ chúng
sinh.”
Bao khổ đau, ách nạn, chướng duyên phải đối diện trong đời
chính là địa ngục, là hầm lửa, đốt bùng lên bao nhiêu muộn sầu. Tiếng chuông
chùa chính là nhân duyên xúc tác để làm khởi sinh tâm bồ đề, hóa giải những
xung đột, trái ngang, những dằn vặt khổ đau của con người trần tục, tiêu trừ
các phiền não, vơi bớt đi bao nhiêu là ham hố dương trần, gieo thiết tha tình
người vào lòng cuộc sống.
Chính vì nghe tiếng chuông ngân mà khách hành hương trút hết
mọi nỗi ưu phiền, như Chu Mạnh Trinh đã tả:
“Lạ cho vừa bén mùi thiền
Mà trăm não với ngàn phiền sạch không”.
Sư Nhất Hạnh khi “nghe chuông” cũng đã cảm nhận thông điệp của
chuông:
“Nghe chuông phiền não tan mây khói,
Ý lặng, thân an, miệng mỉm cười
Hơi thở nương chuông về chánh niệm
Vườn tâm hoa tuệ nở xinh tươi”.
Tiếng chuông của làng quê non nước
Chùa và tiếng chuông là hình ảnh và hồn thiêng của đất nước đã thẩm thấu mặn mà
trong tâm khảm của dân tộc Việt Nam và trở thành một bộ phận hữu cơ gắn liền với
sinh hoạt làng xã, không thể tách rời. Cha ông ta có câu: “Đất vua, chùa làng,
phong cảnh Bụt”. Chùa đã trở thành trái tim của làng quê và tiếng chuông là biểu
tượng của tỉnh thức.
Nhà nông nghe chuông công phu khuya mà trở dậy, nhóm bếp thổi
cơm rồi chuẩn bị lùa trâu ra đồng. Buổi chiều họ nghe tiếng chuông thu không mà
lùa trâu quay trở về chuồng. Đêm về tiếng chuông là tiếng canh gà nhẹ nhàng
đánh thức dân làng trong những lúc ngủ say. Chuông chùa quả là cái “đồng hồ báo
giờ” của làng xóm:
“Tiếng chuông vượt núi len sông
Vào làng thức tỉnh dân nông ra đồng.
Chuông không ngại ngày đêm mưa gió thổi
Chuông không vì sông núi bể đèo ngăn
Tiếng của chuông là bản thể xa xăm
Đây vọng lại mấy ngàn năm âm hưởng.”
Chúng sinh hãy lắng nghe tiếng chuông của Vương Duy đời Ðường
khi ông về vui thú cỏ cây ở Võng Xuyên (Cốc khẩu sơ chung động, Ngư tiều sảo dục
hi):
“Nhẹ nhàng chuông ngân thung lũng
Ngư tiều lác đác dời chân”
Với Sư Huyền Không, tiếng chuông và mái chùa đã sớm tối đồng
hành với người dân quê Việt Nam, từng nuôi dưỡng tâm hồn cho biết bao thế hệ, để
cùng nhau xây dựng quê hương xứ sở:
“Vì vậy, làng tôi sống thái bình
Sớm khuya gần gũi tiếng chuông linh
Sắn khoai gạo bắp nuôi dân xóm
Xây dựng tương lai xứ sở mình”.
Với Nguyễn Bính thì trong khung cảnh thiên nhiên với nhịp sống
hài hòa tinh tế, tiếng chuông chùa ấm áp đã hiện hữu và gắn liền với con
người, với quê hương dân tộc. Tiếng chuông hiện hữu trong tâm thức mỗi người
dân như những hiện tượng thiên nhiên bình thường nhất:
“Quê tôi có gió bốn mùa
Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm
Chuông hôm, gió sớm, trăng Rằm
Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi
Mai này tôi bỏ quê tôi,
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi bỏ chùa”.
Nguyễn Bính đã phác họa nên một bức tranh thủy mặc làng quê
thật đẹp đẽ nên đi xa ai cũng nhớ cũng thương về chốn cũ:
“Mấy chiều vắng bặt hơi chuông
Sư bà khuyên giáo thập phương chửa về”.
Nhớ tiếng chuông chùa
Vua Trần Nhân Tông trong cảnh “chiều thu làng Vũ Lâm” với suối
khe lồng bóng cầu treo, với ngấn nước long lanh cùng nắng chiều nghiêng soi đã
để tiếng chuông ngân vang trong chốn thâm sơn tĩnh mịch đó lại trong tâm hồn và
thi ca:
“Núi non quạnh quẽ lá rơi,
Phôi pha sương khói mây trôi chuông rền”.
Và trong “cảnh chiều Lạng Châu” thời:
“Mây thu lạnh lẽo chùa xưa
Thuyền ngư xao xác thoảng đưa chuông chiều”
Nguyễn Trãi trong thời gian lui về trí sĩ ở Côn Sơn, huyện
Chí Linh tỉnh Hải Dương khi “nghe mưa” (“thính vũ”) cảm thấy tiếng chuông đi
vào giấc mơ thật nhẹ nhàng. Ngâm thơ rồi nhưng vẫn không ngủ được. Chập chờn
mãi đến lúc sáng trời:
“Cửa ngoài tre sột soạt
Nhập mộng chuông khua hoài
Thơ ngâm rồi khó ngủ
Dứt nối đến trời mai”.
Sư Huyền Không với tâm hồn sâu nặng tình quê nên khi nghe tiếng
chuông ngân lại “nhớ chùa”, mái chùa của dân tộc:
“Chuông vẳng nơi nao, nhớ lạ lùng,
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung.
Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của Tổ tông”.
Hồ Dzếnh nhớ lại khi cùng chị nuôi đi lễ chùa đầy hớn hở vui
tươi. Nhớ lại thời tuổi trẻ với nỗi u hoài. Nhớ cái tình, cái hồn tốt đẹp của
thuần phong mỹ tục Việt Nam cái không khí vui tươi dân dã của tục đi lễ hội
chùa "Rằm tháng Giêng" ngày xa xưa:
"Hàng năm tôi đi lễ chùa
Chuông vàng khánh bạc ngày xưa vẫn còn
Chị tôi thấy vắng trong hồn
Ít nhiều hương phấn khi còn ngày thơ
Chân đi đếm tiếng chuông chùa
Tôi ngờ năm tháng ngày xưa trở về".
Còn tiếng chuông chùa của Quách Tấn như một kỷ vật thiêng
liêng nên mỗi lần trông thấy cảnh núi non, bóng tịch dương đổ xuống, chùa chiền
từ đâu trong tiềm thức trỗi dậy, cảnh thiên nhiên gợi nhớ:
…“Núi Nhạn chuông ngân trời bảng lảng
Đầm Ô sen nở gió thơm tho”.
…“Mây tạnh non cao đọng nắng chiều
Tiếng chuông chùa cũ vọng cô liêu”.
Dù cho mỗi khi Quách Tấn tỉnh giấc nồng tiếng chuông cũng vẫn
vọng đến:
“Mây nước nhuốm phong trần
Nơi đâu tình cố nhân
Những đêm buồn tỉnh giấc
Chùa cũ tiếng chuông ngân”.
Với Phạm Thiên Thư thời hình ảnh cái chuông chùa treo trên
gác chuông gợi nhớ lại kỷ niệm hò hẹn tình cảm cũ:
“Ngày xưa anh đón em
Trên gác chuông chùa nọ
Bây giờ anh qua đó
Còn thấy chữ trong chuông”…
Trước “động hoa vàng” tiếng chuông chùa đôi khi ngân vọng theo sóng nước đêm
trăng rồi tan loãng vào nhau cùng hình ảnh một chiếc thuyền con buông
lái:
“Thuyền ai buông lái đêm rằm
Sông thu ngân thoảng chuông trăng rì rào”
Nghe tiếng chuông vang vọng chơi vơi dần dần thấm đẫm vào từng
hạt bụi của thế giới này và có khả năng làm đảo lộn diện mục của vũ trụ, Phạm
Thiên Thư tâm sự:
“Chuông ngân chiều lặng trầm tư
Tiếng lơi đẫm hạt thiên thư bềnh bồng”…
Riêng với Tâm Minh, kẻ tha hương, thời cõi lòng vẫn rộn ràng
dù Xuân đất khách chẳng còn tràng pháo đỏ và thiếu cả bóng mai vàng. Giữa cái ồn
ào náo nhiệt nơi xứ người, tiếng chuông êm ả thanh thoát của ngôi chùa xưa quê
cũ hình như vẫn còn vang vọng mãi trong tâm hồn như một kỷ niệm khó quên:
“Chúc Xuân lời vẫn ươm tình nghĩa
Mừng Tết thơ luôn đượm ánh quang
Thoang thoảng hương trầm khơi kỷ niệm
Vẳng chuông chùa cũ tiếng còn vang.”
Tiếng chuông thiên mụ và hàn sơn tự
Và sau cùng, nói đến âm ba của những hồi chuông kim cổ cần phải
nhắc tới tiếng chuông chùa Thiên Mụ và Hàn Sơn Tự.
Lần đầu ghé chốn Thần Kinh và sau đó thực hiện liền bút ký
“Mười ngày ở Huế” Phạm Quỳnh không cố ý "biên tập" thơ tiền nhân. Ông
chỉ mượn nửa bài thơ cũ, thêm bớt đôi chỗ, nhằm "tức cảnh" khác. Có
người lại cho rằng ông chỉ ghi lại nguyên văn mà thôi. Hai câu thơ đó như sau:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương”
Phạm Quỳnh viết thêm: “Cả cái hồn thơ của xứ Huế như chan chứa
trong hai câu ca ấy. Chùa Thiên Mụ là một chốn danh lam, có cái tháp bảy tầng,
làng Thọ Xương thì ở bờ bên kia. Đêm khuya nghe tiếng chuông chùa với tiếng gà
gáy xa đưa văng vẳng ở giữa khoảng giời nước long lanh mà cảm đặt thành câu
ca".
Có người phân tích kỹ cho rằng tiếng chuông Thiên Mụ ngoài âm
sắc của tiếng đồng được chế tác bằng một kỹ thuật đúc truyền thống hoàn hảo của
Phường Đúc-Huế, nó được vang xa nhờ vào vị trí đặt chuông trên đồi cao, lại có
dòng sông Hương trải dài như một chất dẫn truyền tự nhiên. Bên dòng Hương lững
lờ thơ mộng, tiếng chuông cứ ngân dài lan tỏa trong không gian. Không gian càng
rộng, càng yên tĩnh, tiếng chuông nghe càng sâu lắng. Chỉ một tiếng chuông
nhưng đã đọng bao buồn vui, khắc khoải của một đời người. Tiếng chuông sẽ tùy hạnh
nguyện đánh chuông của thiền tăng mà âm sắc vang vọng thanh thoát và nhịp điệu
của tiếng chuông sẽ khác hẳn nhau.
Hàn Sơn Tự về sau được gọi là Phong Kiều tự vì ở gần cầu
Phong Kiều. Đến đời nhà Đường chùa lại được đổi tên là Hàn San Tự. Chùa nổi tiếng
nhờ có bài thơ “Phong Kiều Dạ Bạc” của Trương Kế. Ông sáng tác bài này khi đi
thi trượt trở về ghé qua Tô Châu, tức cảnh mà sinh tình. Trương Kế đã vẽ ra cái
hình ảnh kẻ lữ thứ, đêm dài nằm trên thuyền bên bờ sông nghe quạ kêu sóng vỗ,
ngắm đèn chài leo lét về khuya đắm chìm trong trăng tà sương lạnh với tiếng
chuông chùa đang ngân nga. Quả là hình ảnh của sự thức tỉnh, giải thoát, bỏ lại
thuyền ở bến mơ để vượt lên bờ giác.
“Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
Bản dịch của Tản Đà:
“Quạ kêu trăng lặn sương rơi
Lửa chài, cây bãi đối người nằm co
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San”
Tiếng chuông chùa quả thật đã làm nảy sinh ra nhạc và thơ,
chan chứa chất liệu cốt tủy của tinh thần Phật giáo cùng với tình tự đất nước
quê hương, nhất là với những kẻ phải sống kiếp tha phương!.
Tháng 2 năm 2016Ngô Tằng Giao
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét