Thứ Hai, 21 tháng 12, 2020

Thạch Lam và Hà Nội

Thạch Lam và Hà Nội

Trong số những phố phường cũ ở Hà Nội, phố Hàng Bạc thật có duyên với văn học: Nguyễn Tuân, Thạch Lam đều sinh ở đấy; Vũ Trọng Phụng đã sống ở đấy nhiều năm. Trong văn chương, Nguyễn Tuân không tả cụ thể Hàng Bạc nhưng như sau đây chúng ta sẽ thấy, ông thường tả rất kỹ khu trung tâm thành phố, chung quanh hồ Hoàn Kiếm. Vũ Trọng Phụng cũng thường nhắc tới trong các phóng sự tiểu thuyết của mình cảnh ăn chơi của những Tạ Hiền, Sầm Công, Hàng Buồm cách Hàng Bạc không xa. Riêng Thạch Lam có khác. Thuở nhỏ, ông theo gia đình về ở mãi cái huyện xa vùng Hải Dương (Cẩm Giàng) và Thái Bình (Tân Đệ), sau mới về học ở Hà Nội và ra làm báo. Lúc này, gia đình ông khi thì ở Hàng Bún, khi lên Yên Phụ. Có điều trong văn Thạch Lam, khu vực từ Đồng Xuân tới Bờ Hồ vẫn rất quen thuộc; nhân vật Hiệp trong Cô áo lụa hồng (tập Gió đầu mùa) từng mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá” đi dạo đủ các phố Hàng Ngang, Hàng Đường, Chợ Đồng Xuân, Hàng Lược…”. Và quan trọng nhất là cái cốt cách ra cảm thấy trong văn Thạch Lam. Đó là một giọng văn bình dị mà lại tinh tế, như người Hà Nội từng trải thanh lịch, tiếng nói Hà Nội dễ dàng, sang trọng. Nói Thạch Lam là một trong những nhà văn Hà Nội tiêu biểu, chính bởi những lý do đó.
Theo Thanh Tịnh kể lại, thì bề ngoài Thạch Lam dáng cao cao, thân hình mảnh khảnh, ăn nói điềm đạm, mới gặp người ta dễ lầm là một nhà giáo hơn là một nhà văn. Qua văn ông, chúng ta đoán ông sống thanh đạm, chăm lo nhiều tới cuộc sống nội tâm, không bị cuốn theo ngoại cảnh ồn ào. Ông tôn trọng mọi người, sợ làm phiền người khác, nhưng lại giữ được sự độc lập trong đầu óc và không phải là không phóng túng trong nếp nghĩ. Chắc chắn là ông không sống hùa theo mọi người. Chả thế mà viết văn giữa Hà Nội, bạn bè với nhiều đồng nghiệp trưởng giả, ông vẫn dửng dưng với mọi tiện nghi vật chất, và chỉ tìm thấy niềm vui trong một mái nhà tranh trông ra Hồ Tây ở Yên Phụ (làng Yên Phụ có con đường lát gạch và hồ Ao Vả, chứ không phải đường phố Yên Phụ!). Ông sống như thế cho đến những ngày cuối cùng trong đời. Theo nhiều tài liệu cho biết, ông chết vì bệnh lao, khi mới hơn 30 tuổi. Nhưng đọc văn ông cũng như xem cách sống của ông, thấy ở Thạch Lam tất cả đều đã đến giai đoạn chín, ổn định.
Trong một thiên truyện mang tên Phê-ra-guýt, thủ lĩnh của đám phàm ăn, Balzac từng nêu một nhận xét, như một con người phải xấu hổ khi làm điều đê tiện. ở đó, cũng có những phố cao thượng, những phố quả thực lương thiện, những phố trẻ trung mà công chúng chưa kịp có ý kiến về đức hạnh của chúng: tiếp đó, có những đường phố hung bạo… những đường phố đáng kính, những phố luôn luôn bẩn và những phố  lúc nào cũng sạch, những phố lao động làm ăn buôn bán. Tóm lại, những đường phố ở Paris có những tính chất của con người và vẻ ngoài của chúng gợi cho ta những ý nghĩ nhất định mà ta không cách gì cưỡng lại được”.
Ý nhà văn hào Pháp ở đây chỉ muốn nhấn mạnh khuôn mặt các thành phố thường đa dạng. Paris là vậy, Hà Nội của chúng ta là vậy, và Hà Nội được phản ánh trong các tác phẩm văn học cũng vậy. Qua văn Nguyễn Công Hoan, chúng ta đã bắt gặp một số mẫu người kẻ chợ, láu, học đòi, bạc bẽo, bất nhẫn, qua văn Vũ Trọng Phụng, ta biết thêm một Hà Nội của xã hội thực dân phong kiến với những mưu đồ xoay xở, những vụ bịp lớn, một con đường lưu manh hóa sẵn sàng mở ra với mọi thanh niên. Nhưng Hà Nội đâu phải chỉ có thế? Mãi mãi vẫn còn một Hà Nội nhạy cảm tế nhị, giàu lòng thương xót người khác, một Hà Nội rất tử tế, sang trọng nếu có thể nói như vậy. Như ở tác phẩm Thạch Lam chúng ta đang xét. Qua Một cơn giận, nhân vật xưng tội tự kể về một tình thế trớ trêu: do bực mình, nóng nảy, lạnh lùng, v.v… Tóm lại trong một trạng thái tâm lý không bình thường, anh đã vô tình đẩy người khác (ở đây là một phu xe nghèo khổ vào bước đường bất hạnh. Nhưng sự tỉnh táo đến rất nhanh, kèm theo là sự xót xa ân hận, và những hành động cụ thể, để sửa chữa, vớt vát lại tình thế, khiến người đọc truyện không khỏi cảm động. Qua Một cơn giận, ta cảm thấy tác giả có cách nhìn vào đời sống khá thấu đáo, lại biết thông cảm với mọi lầm lẫn ở mình và xung quanh. Con người Hà Nội, con người thành thị ở đây có những nét đáng yêu, đáng vì nể chứ không chỉ thuần có lạnh lùng, vô trách nhiệm, như người nọ, người kia vẫn mô tả.
Một trong những môtip thấy trở đi trở lại vài lần trong truyện ngắn Thạch Lam: một người thành phố về thăm quê hương của mình. Trong Trở về là thế, trong Dưới bóng hoàng lan là thế. Rồi Những ngày mới lại càng kỹ hơn, tỉ mỉ hơn. Trừ trường hợp nhân vật Tâm trong Trở về thấy chán ngán, ngại ngùng (anh ta gần như bỏ chạy khỏi nông thôn), còn trong hai truyện kia, nhân vật chính đều rất thiết tha với quê hương. Họ tìm thấy ở đấy những gì tượng trưng cho sự trong sạch, sự bền chắc trong tình cảm. Nói như ngày nay chúng ta thường nói, trở về với làng quê, đối với một số nhân vật trong Thạch Lam, là trở về với cội nguồn của đời sống. Ở đó, ta tiếp nhận được đời sống ở cái phần chân chất nhất, trong lành nhất của nó. Đấy cũng là điều Thạch Lam muốn nhắc nhở chúng ta. Trong đoạn văn viết về cốm rất nổi tiếng, trong tập Hà Nội ba mươi sáu phố phường.
“Cơn gió mùa hạ lướt qua vùng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá như báo trước mùa về một thứ quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy khi đi qua những cánh đồng xanh mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đọng lại, bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời”.
Nét đặc biệt của Hà Nội của chúng ta là thành phố luôn luôn gắn bó với các vùng nông thôn xung quanh, nhiều người lên đây làm thợ, buôn bán, đi học, thậm chí làm quan, đã sống hàng đời ở Hà Nội rồi, vẫn không khỏi thoáng qua một chút run rẩy khi nhớ về quê cũ. Trước rất nhiều nhà văn khác, Thạch Lam đã kêu lên như thế, tiếng kêu của ông nhẹ nhàng, nhưng đầy sức thuyết phục.
SỰ THỰC, CHẤT THỰC
QUAN NIỆM VỀ MỐI LIÊN HỆ ĐỜI SỐNG VÀ NGHỆ THUẬT
Quan niệm Viết truyện ngắn nào có khó gì đâu. Một sự xảy ra ngoài phố làm rung động trái tim ta, một câu chuyện thuật trong phòng khách làm nở một nụ cười khoái trá trên môi ta, một khu rừng âm u lạnh lẽo, một xóm nhà tranh rải rác dưới ven đồi, một cái quanh bán nước, một cái xe với anh phu kéo… hay không cái gì cả, sự trống rỗng một phút một giây của tâm hồn. Những cảnh tượng ấy dù trọng dù khinh đều là đầu đề câu chuyện, đều kích thích trí nghĩ ta mà ngấm ngầm tự cấu tạo nên một truyện ngắn. Ta chỉ việc viết lên giấy những điều trông thấy, nghe thấy và những ý tưởng nảy ra trong thâm tâm ta. Có thế thôi. Cái khó - nếu quả có cái khó - chỉ ở chỗ phải biết có thế thôi.
Mở đầu  bài tựa viết cho Gió đầu mùa, Khái Hưng đã thử gọi ra “quan niệm về truyện ngắn của Thạch Lam“ như vậy, và sau nửa thế kỷ nay đọc lại, người ta vẫn phải nhận rằng cảm giác của Khái Hưng là chính xác. Tức là nếu như Nguyễn Công Hoan là một bậc thầy về mẹo mực trong nghề bẫy người đọc thế này, che mắt người đọc thế kia thì Thạch Lam là một phản đề với nghĩa: ông gần như không chú ý gì đến kỹ thuật viết truyện. Ông chỉ cố viết sao cho chừng mực điềm đạm và không muốn làm mất thì giờ bạn đọc thế thôi.
Có thể coi đây như điểm xuất phát trên con đường đi tìm nét đặc sắc của truyện ngắn Thạch Lam. Nhà văn không dụng công tìm một bút pháp riêng cho truyện ngắn của mình. Khó lòng tìm ra ở ông những chiêu thức cụ thể. Mà bút pháp của ông gần như một thứ vô chiêu nghĩa là không chủ bụng cố ý gì cả. Có lúc nó như một câu chuyện lúc thân mật người ta kể cho nhau nghe. Có lúc nó như một màn kịch chậm rải buồn bã. Lại có lúc nó như một thiên hồi ức ông muốn chia sẻ với bạn đọc. Tùy câu chuyện ông muốn kể mà thiên truyện sẽ có được hình hài thế nọ thế kia.
Nếu muốn tìm một vài yếu tố lặp đi lặp lại ở cả mấy tập truyện Thạch Lam đã cho in thì người ta chỉ có thể phác ra như sau:
- Sự gợi tả mà gợi nhiều hơn tả. Ở chỗ những người khác có thể sổ ra hàng trang sách, tác giả chỉ viết dăm ba câu gì đấy cốt giúp bạn đọc liên tưởng và cùng với tác giả sống với không khí trong truyện. Trong cái vẻ từ tốn chậm rải, văn ông đồng thời  không bao giờ gợi cảm giác bôi ra nói lấy được.
- Sự tập trung. Bút pháp cô đọng nói trên cũng từng được Thạch Lam sử dụng trong tiểu thuyết Ngày mới nhưng đã thất bại và chỉ ở truyện ngắn mới thành công. Tại sao như vậy nếu không phải là cái lý do sau đây: trong các truyện ngắn nhà văn chỉ lo làm nổi chỉ một ấn tượng nào đó. Kể cả khi viết về một đời người, ông cũng không phân tán chi tiết mà chỉ nói vừa đủ về cái nét chính của cuộc đời ấy theo sự cảm nhận riêng.
Sự  thực tâm trạng
GIÓ LẠNH ĐẦU MÙA Người ta thường nhớ ngay đến Gió lạnh đầu mùa khi nghĩ tới Thạch Lam như một người viết truyện ngắn: tác phẩm này rất tiêu biểu cho cách viết nhẹ nhàng gợi nhiều hơn tả và đi vào những cảm giác vốn là đặc điểm của ngòi bút tác giả. Ông đặt mình vào tâm lý của một em bé để ghi nhận những xốn xang trong lòng mình trước sự thay đổi của thời tiết, ấy là cái ngày đầu tiên của một vụ rét. Những ai từng sống ở đồng bằng Bắc bộ hẳn sẽ đọc truyện này với rất nhiều cảm động ta đã từng sống qua những ngày như vậy ta cũng có cái ngẩn ngơ không đâu của em bé trong truyện và đây là một phát hiện của tác giả: Hình như trong giờ phút kỳ lạ ấy ta chợt nghĩ nhiều hơn về mọi người chung quanh, ta cảm thấy cuộc đời là thiêng liêng hơn. Thử đặt mình vào địa vị người viết truyện hẳn người ta phải lo cho Thạch Lam ông không có một cốt truyện chắc chắn để nương tựa. Nhưng Thạch Lam đã buộc nhiều người đọc phải đọc đến dòng cuối cùng do sự tự tin của ngòi bút.
ĐỨA CON ĐẦU LÒNG
Trong thiên truyện này, Thạch Lam cho ta thấy ông đứng rất gần nhân vật Tân, những cảm giác những suy nghĩ của Tân không phải do ông cảm thấy hoặc ông đoán ra mà là chính ông đã thể nghiệm. Nhưng chính là trong khi quan sát mình, nhiều người chúng ta vẫn không dám thành thật. Ta e ngại nói ra những cảm nhận vu vơ không đâu vào đâu mà gây ra sự hiểu lầm của người đọc. Thạch Lam thì khác. Bởi thế một vài đòng nghiệp có kinh nghiệm trong sự viết lách như nhà văn Khái Hưng mới sửng sốt trước sự chân thật của tác giả. Chẳng hạn cái câu “Tân nhìn đứa bé không thích chút nào. Cái thân hình khó chịu và chân tay ngẳng nghiu của nó làm chàng khó chịu“ nghe có vẻ tàn nhẫn, người Việt Nam bình thường nhiều khi có nghĩ như thế nhưng lập tức lảng tránh ý nghĩ của chính mình (cả cái câu ”Tân không thấy cảm động như chàng tưởng và cũng không thấy có cảm tưởng gì đặc biệt với đứa bé mới đẻ“ cũng là một lời tự thú vốn xa lạ với người mình). Có thể bảo ở chỗ này Thạch Lam quá Tây chăng, nhưng xem ra lại thấy nhờ thế mà một thiên truyện không có gì gay cấn như Đứa con đầu lòng buộc người ta phải đọc chậm và ngẫm nghĩ mãi.
ĐỘ KHÔNG CỦA LỐI VIẾT TRUYỆN NGẮN TRỞ VỀ
Thạch Lam thường hay viết về lòng trắc ẩn, tính nhẫn nại, sự hy sinh, tóm lại là những nét đẹp ở con người và Trở về thuộc về một số ít truyện mà trong đó có những nhân vật chúng ta tin là trong thâm tâm ông ghét bỏ. Thế nhưng truyện Trở về lại “rất Thạch Lam” ở chỗ tác giả giữ được sự đúng mực một cách tự nhiên. Sự bình thản và công bằng của tác giả bộc lộ rõ ở chỗ ông khéo tạo ra cho mình một dọng điệu trung hòa từ tốn như một người đứng ngoài mà thuật chuyện và không cần có ý kiến riêng vì ông tin rằng bạn đọc sẽ có cách phẩn ứng đúng với mọi diễn biến. Đây là một cách viết không dễ: trong tiếng Việt các đại từ chỉ người thường mang màu sắc tình cảm rõ rệt, tác giả rất dễ lộ mặt qua việc sử dụng chúng. Ở chỗ này phải nhận là Thạch Lam rất tự tin, ông vẫn gọi nhân vật Tân là chàng như mọi trường hợp khác, và hơn thế nữa, ông vẫn gửi vào nhân vật đó những xúc cảm của mình (Tâm nhớ lại cái đất ấy đã làm đau đớn bàn chân non nớt của chàng khi còn nhỏ ngày ngày cắp sách hoặc Tâm nhận thấy ở nhà quê người ta không thay đỏi mấy và tính tình vẫn y nguyên). Ngay trong những tác giả nước ngoài chúng ta cũng chi thấy có Tsékhov là đạt tới được sự khách quan hoàn toàn như vậy. Với những truyện như Trở về Thạch Lam cho thấy lối viết truyện đúng hơn lối tư duy văn học của phương Tây đã vào ông như một cái gì tự nhiên.
TÌNH XƯA
Trong tâm lý người đọc, cái kết của một truyện ngắn vốn là một cái gì rất quan trọng, người ta theo dõi cả truyện chỉ cốt cuối cùng tìm thấy một điều gì có nghĩa lý.
Nhưng nếu đọc Tình xưa bằng con mắt ấy thì cuối cùng người ta sẽ thất vọng. Tác phẩm này chỉ kể lại một cách chi tiết những biểu hiện tình yêu của một cô gái tỉnh nhỏ và cái phản ứng tợ nhiên của cậu học trò mới lớn đầu óc đang còn để cả vào sự học hành chứ chưa để tâm yêu đương.
So với nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam thì Tình xưa dài hơn chẳng những thế nó có cái vẻ quá kỹ lưỡng tỉ mỉ không thanh thoát gọn gàng như xưa nay vẫn là nét đặc sắc của ngòi bút tác giả. Nhưng chính vì vậy truyện ngắn này lại cho thấy một cách hiểu của tác giả về cái thể tài ông vẫn quen sử dụng và chúng ta thấy là ông có lý.
THẠCH LAM VÀ VĂN HÓA PHÁP
Những câu trích dẫn:
“Người ta có thể nói ban kịch đã đem một phần rực rỡ của sân khấu  Paris tới Hà Nội. Tài nghệ của các tài tử thật là đến chỗ thành thạo hoàn mỹ. Những tình tiết, những ý tưởng những tâm tư đều tả bằng những giọng điệu thấu đáo, tự nhiên mà tự nhiên trong mực thước. Và ở trên tài nghệ, đào cũng như kép, họ còn tỏ cho ta thấy một điều rất quý: họ yêu nghề và đóng kịch bằng tất cả sự cảm động của tâm hồn.
Trước những bậc đàn anh trong nghề cao quý này chúng tôi không khen. Chúng tôi chân thành yêu phục” (Ngày Nay số 11-3-1939)
Những câu văn quá Tây:
Ước gì các độc giả mà những tác phẩm sản xuất trong tình thế khó khăn ấy đã làm cho cảm động, các độc giả từ đây yêu mến văn chương và thú đọc sách hơn nữa.
NN 8-4-1939
THỬ HÌNH DUNG RA MỘT CON NGƯỜI
Đoạn đường từ Yên Phụ xuống Quan Thánh
Ngôi nhà bên hồ Ao Vả.
Lời kể của bà Thế: lúc sắp chết còn ra nhìn cây liễu
Lời kể của Thanh Tịnh
Sự từng trải của TL: Lời kể của Đinh Hùng
MỘT KIỂU NHÀ VĂN
TRONG MỐI LIÊN HỆ VỚI CÁC NHÀ VĂN ĐƯƠNG THỜI
Khái Hưng
Xét ở mối quan hệ trong đời sống hàng ngày
Xét ở mẫu hình văn hóa:
Nguyễn Tuân
Xét ở mối quan hệ trong đời sống hàng ngày:
Xét ở mẫu hình văn hóa:
VỀ VỚI CỘI NGUỒN TỪ VĂN HÓA
Hình như chỉ ngày hôm nay, những trang viết gắn liền với đời sống thanh bình của Thạch Lam mới hiện ra với đầy đủ ý nghĩa của nó
Một trong những đoạn văn hay nhất của Thạch Lam là đoạn viết về cốm, in trong Hà Nội băm sáu phố phường.
…”Cơn gió mùa hẹ lướt qua vùng sen trên hồ nhuần thấm cái hương thơm của lá, như báo trước mùa về của một thứ quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy, khi đi qua cánh đồng xanh, mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của bông lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ”.
Điều kỳ lạ của mấy câu văn ấy là ở cái không khí mà chúng tạo ra, mỗi lần đọc lại, một cảm xúc thanh sạch được khơi dậy. Ta mang máng nhận ra ở đó, có những liên tưởng tốt đẹp với nhân dân xứ sở, đến mức, đến mức… ta quên mất rằng, thực ra chúng được viết bằng một thứ ngữ pháp không thật thuần Việt, sản phẩm của một người đọc nhiều sách vở Pháp và có thể nghĩ bằng tiếng Pháp. Nhưng rồi nhiều người vẫn đối xử với đoạn văn viết về cốm ấy với nhiều ưu ái, thông cảm. Ấy cũng là cái thái độ mà người ta dành cho toàn bộ sản phẩm của Thạch Lam, bởi lẽ biết rằng ở thời của mình, đó là một ngòi bút có sự kết hợp nhuần nhị cả tinh hoa của văn hóa Đông Tây và luôn luôn mang lại cho sự sáng tác một vẻ đẹp cao quý.
Từ tây sang đông tìm về truyền thống, tìm về dân tộc
Tuy chính thức có chân trong Tự Lực văn đoàn, nhưng sự xuất hiện của Thạch Lam, có phần muộn mằn hơn so với mấy người cùng nhóm. Mãi 1937, Gió đầu mùa, tập truyện ngắn đầu tay của ông mới ra đời. Với tư cách là tác giả của những Hồn bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Đời mưa gió, Nửa chừng xuân, bấy giờ, cả Nhất Linh lẫn Khái Hưng đều đã tìm được chỗ đứng của mình trên văn đàn. “Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa” - “Đem phương pháp khoa học áp dụng vào văn chương Việt Nam” - “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ’ - là những điều chính ghi trong tôn chỉ của nhóm Tự Lực. Có điều phải nhận trong khi thực thi công việc… mấy yếu nhân của nhóm đôi khi cũng làm nhiều chuyện quá ồn. Đọc Nhất Linh và Khái Hưng, sau cái mừng vì người mình có thể bắt kịp thời đại, sống và cảm nhận hết những khía cạnh tốt đẹp của văn hóa phương Tây, nhiều người đương thời thuộc loại ưu thời mẫn thế không khỏi phấp phỏng lo ngại, không khéo cứ cái đà ấy mà kéo rồi xã hội ta đánh mất luôn chính mình, và trở thành bản sao của nền văn hóa phương Tây, dẫu sao cũng còn xa lạ.
Đặt vào hoàn cảnh ấy, mới thấy Thạch Lam xuất hiện như một nối tiếp hợp lý. Ông đã kịp đến để gặt hái những gì những người đi trước gieo cấy.
Về nhiều phương diện, ngòi bút viết nên những Gió đầu mùa, Sợi tóc… vẫn là đi từ văn hóa phương Tây mà trưởng thành lên. Người ta bắt gặp điều ấy qua những chi tiết làm nên tiểu sử đời ông, nền giáo dục mà ông chịu ơn, những câu văn còn phảng phất hơi Tây mà ông sẽ viết, những quyển sách, tờ báo đương thời từ bên Pháp gửi sang, mà ông thường nhắc tới, khi viết các bài báo nhỏ cho tờ Ngày nay. Nhưng sâu sắc hơn thế, Thạch Lam vừa tiếp nhận cái sáng sủa mạch lạc rất tiêu biểu cho văn chương Pháp, vừa thấm nhuần chất duy lý trong triết học Pháp. óc phê phán thường trực nơi ông, nó có mặt cả trong sáng tác lẫn những bài viết về nghề văn, sau này tập hợp lại trong tập Theo dòng. Người ta thường chỉ bảo nhau Thạch Lam là một ngòi bút tinh tế, mà quên rằng trong các tiểu luận, ông thường cũng hiện ra như một ngòi bút có những kiến giải tự chủ và rất nghiêm khắc. Những nhận xét của ông (đại loại: “chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và bạc nhược”, “Những phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung: là nông nổi, chỉ hời hợt bên ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sâu sắc”…) đối với tương lai, vẫn có ý nghĩa một sự cảnh tỉnh.
Có điều, không chỉ so với các nhà văn thuộc Tự lực văn đoàn, mà trong cả “dàn nhạc” tiền chiến, Thạch Lam vẫn là người có khuôn mặt phương Đông rõ ràng và khả ái hơn cả. Trong cái thủ thỉ thân tình của giọng điệu, cái đạm bạc đơn sơ của đường nét, chất liệu làm nên tác phẩm, những ngụ ý theo kiểu “ý tại ngôn ngoại” bàng bạc khắp nơi, Thạch Lam tự trình diện với một phong thái giàu chất hàm súc, kín đáo, mà ở phía trời Tây, các nhà văn thường ao ước. Trên con đường tìm lại ảnh hưởng của thơ Đường, của ca dao, trong việc bấu víu vào những chất liệu thuần Việt, kiểu như Hoa bưởi thơm rồi đêm đã khuya (Xuân Diệu), Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp (Huy Cận), các nhà thơ mới thấy ở Thạch Lam một người đồng hành đáng tin cậy, mà cũng đầy thách thức. Với Thạch Lam, hình như lẽ sống của văn chương không gì khác hơn những quan tâm đến cuộc sống quanh mình, những băn khoăn về bản sắc dân tộc, mà tự mình đặt ra, rồi lại tự mình tìm cách giải đáp. Từ Nhà mẹ Lê tới Hai đứa trẻ, từ Gió lạnh đầu mùa qua Cô hàng xén, một mô-típ được ông trở đi trở lại, là cái chất mòn mỏi, bình lặng ở cuộc sống đương thời. Trong khi nắm bắt cái hồn của thực tại chung quanh, ông không quen mang lại cho nó một chiều dày lịch sử, biết nhận ra từ đức hy sinh, vẻ tận tụy trong cuộc sống hôm nay cái hương vị của ngàn xưa. Rút cục thì với những người như Thạch Lam, văn hóa Tây phương không phải là cái đích. Từ những bậc thầy của văn hóa Tây phương ông sớm nhận ra những cái gật đầu đồng tình, khuyến khích: các anh phải giữ lấy chất phương Đông của các anh! Các anh phải đến với chính dân tộc, với mảnh đất dưới chân các anh! Đó mới là công việc phải làm của người trí thức chân chính! Thạch Lam là một trong những ngòi bút tiên khu trong cái tiến trình văn hóa mà sau này một ngòi bút của nhóm Thanh Nghị sẽ phác họa: “Cuộc phục hưng ở xứ ta khởi đầu bằng một sự lựa chọn ôn tồn ở hai nền văn minh á đông truyền thống và văn minh Tây phương với nhập tịch (thời kỳ báo Nam Phong) rồi nó đã đột ngột tới sự khinh miệt cái di sản tinh thần của nước nhà, sự ca tụng quá đáng và thiết tha những cái gì Âu Tây mang lại (thời kỳ Phong hóa, Ngày nay). Nay thái độ bồng bột ấy thay đổi và bọn trí thức đã trở lại tôn trọng những di sản của đất nước, những tinh túy của văn minh á đông, trong khi tin tưởng càng mạnh là phải học nhiều của Tây phương để đi tới sự thành công trong việc xây dựng một nền tư tưởng và một nền nghệ thuật Việt Nam xứng đáng”.
Ý niệm về kẻ khác.
Trong số vài chục thiên truyện Thạch Lam đã viết, có một tác phẩm đứng riêng ra một góc, đó là trường hợp truyện ngắn Người đầm. ở đấy nhà văn kể chuyên một người đàn bà Pháp vào rạp chiếu bóng để ngồi vào ghế hạng nhì như một người Việt Nam bình thường trong cái nhìn của nhân vật xưng tôi trong truyện, người đàn bà ấy cũng buồn, cũng lặng lẽ, trầm mặc, và rất cô đơn giữa mọi người. Và phản ứng chi phối bà lúc ấy là cách phản ứng thường thấy ở nhân vật Thạch Lam: cố thu mình lại, âm thầm chịu đựng, gắng gỏi làm tròn công việc của mình, và cũng không bao giờ quên thông cảm thương xót với kẻ khác (nỗi ái ngại chân thành mà bà dành cho đứa bé bán kẹo, khi ra khỏi rạp).
Thông thường người ta xem Người đầm là một cái gì lạc lõng so với mọi thứ được viết dưới tay Thạch Lam. Bị những ám ảnh thời sự chi phối, lại có người cho rằng đấy là một trong số ít ỏi những trường hợp nhà văn bộc lộ lòng căm ghét thực dân và chứng tỏ vai trò chủ nhân của mình. Song, có lẽ là hợp lý hơn, nếu đặt Người đầm vào cái mạch hòa nhập văn hóa Đông Tây mà chúng ta đang nói. Cuộc gặp gỡ bi thảm giữa hai dân tộc Pháp - Việt đã dẫn đến chế độ thực dân được xác lập ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX để rồi trở nên nguồn gốc những ác cảm khôn nguôi mà mỗi người chúng ta chôn chặt trong lòng, khi nghĩ về người Pháp. Nhưng bên cạnh rc, giữa các dân tộc còn có mối quan hệ văn hóa, ở đó hai bên xâm nhập vào nhau và để lại những hệ lụy kỳ lạ trong cả cộng đồng lẫn trong mỗi cá nhân. Những điều mà giờ đây, những bộ phim Pháp như Người tình, Điện Biên Phủ, Đông Dương đề cập tới là điều mà một trí thức như Thạch Lam đã thấp thoáng cảm thấy. Sự chín chắn về văn hóa (như được phác họa trong các phần trên) đã mang lại cho ông cái nhìn chừng mực trước mọi chuyện, và lòng dũng cảm vượt qua mọi mặc cảm cố hữu kể cả những mặc cảm khó vượt nhất. Đến lượt mình, sự chín chắn này lại đánh dấu một sự trưởng thành chung của cả xã hội. Về phương diện triết học mà xét, người ta bảo một chủ thể chỉ được coi là trưởng thành khi có được ý niệm chính xác về kẻ khác, và trước tiên là thấy trong kẻ khác đó những nét tương đồng với hình ảnh phóng chiếu của chính mình.
MỐI THIỆN CẢM ĐẾN SỚM
Truyện ngắn Người đầm đã được Thạch Lam hoàn thiện như thế nào để diễn tả một cách tinh tế nhất mối liên hệ tinh thần của chúng ta với những người vừa xa lạ vừa gần gũi: người Pháp.
Người đầm là một truyện ngắn của Thạch Lam, vốn in lần đầu trên báo Ngày nay (1937), sau in lại ở tập Nắng trong vườn (1938).
Nội dung Người đầm có thể tóm tắt như sau: Một lần, tác giả tới xem chiếu bóng ở rạp Pathé (trông ra Hồ Gươm; sau đổi là rạp Hòa Bình, nay thành Nhà hát múa rối), ở đó, ông gặp một người đầm, cùng đi xem với con gái. Có cái lạ là hai mẹ con người này chỉ ngồi ở ghế hạng nhì, chỗ vẫn thường dành cho người bản xứ. Chẳng những thế, ở bà toát ra vẻ khiêm nhường nhũn nhặn, “cái nhìn của bà rụt rè e lệ quá, khiến tôi ái ngại và cảm động”. Giờ nghỉ, ra ngoài, bà mua kẹo cho con, vẻ rất thân thiện với chú bé bán kẹo, nhất là khi thấy chú chạy vội đi vì sợ cảnh sát, thì bà buồn hẳn.
Cũng như nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam Người đầm kết thúc bằng cái cảnh ngoài trời “mưa bụi và gió lạnh”, còn hai mẹ con người đàn bao giờ “lủi thủi đi trên con đường vắng” ra về. Từ đó, tác giả - nhân vật xưng tôi trong truyện - không gặp lại bà nữa.
Người chủ hiểu biết, độ lượng và cái nhìn hợp lý về kẻ xa lạ
Mấy thế kỷ đã qua, kể từ khi hai dân tộc Pháp Việt có dịp tiếp xúc với nhau. Trong tâm thức người Pháp, người Việt thường hiện lên với những đường nét thế nào? Những hình ảnh này đã thay đổi ra sao theo thời gian? Bấy nhiêu câu hỏi lẽ ra phải sớm được đặt ra, và tìm lời giải đáp, qua các tác phẩm văn chương (cố nhiên là loại viết bằng tiếng Pháp), bởi gạt sang một bên những cái nhìn thực dân, có thể tin chắc là trong chừng ấy thời gian tiếp xúc, tâm hồn Pháp đã là một tấm gương tốt để người Việt tới soi mà nhận ra bóng dáng bản thân.
Tiếc thay, vì quá bận bịu, ở ta chưa ai ngó ngàng tới chuyện ngày cả.
Tình hình cũng chả khả quan gì hơn khi nhìn vào phần viết ngược lại, tức câu chuyện “bóng dáng người Pháp trong tâm thức người Việt”. Đại khái, chỉ biết rằng trong phần lớn trường hợp, người Pháp thường được phác họa như những kẻ lố lắng, thô lỗ, kỳ cục. Thơ Tú Xương tả cảnh thi cử: Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt - Dưới dân ông cử ngẩng đầu rồng; bài văn tế Francois Garnier, tương truyền là của Nguyễn Khuyến: Mắt ông xanh lè - mũi ông thò lõ - Tay ông cầm cờ - miệng ông huýt chó - nhà ông bày toàn những chai, vườn ông trồng toàn những cỏ. Cho đến giai đoạn xã hội Việt Nam trở nên ổn định và có phần thịnh trị, như từ sau 1932 trở đi, thì trong một đôi phen xuất hiện, hình ảnh này cũng chưa phải đã được cải thiện khá hơn. Nhân vật công sứ trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng chỉ là một sơ đồ thiếu sức thuyết phục. Trong khi đó, ở những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan như Tôi cũng không hiểu tại làm sao, Lại chuyện con mèo, mấy ông Tây “sơ-vin” lại hiện ra chẳng có gì là gây được thiện cảm, người này tàn nhẫn lạ lùng, người kia ngẩn ngơ máy móc trong cách nghĩ, cách sống.
Đặt trong khung cảnh này mà xét, thì với Người đầm, Thạch Lam đã bộc lộ một cái nhìn và thái độ khác hẳn. Tư thế của nhân vật xưng tôi ở đây, là tư thế một người chủ lịch lãm, đại lượng. Ông không giấu rằng, ông có những tình cảm tốt đẹp với dân tộc Pháp, vừa muốn thân thiện với họ, vừa muốn hiểu biết họ. Và sự thực là ông đã có một hiểu biết đến nơi đến chốn về dân tộc ấy, đến mức, chỉ hình ảnh một người đàn bà thôi cũng đủ gợi nên trong ông hàng loạt liên tưởng “Tôi hiểu cái buồn và cái lạnh lẽo của bà, lúc này có lẽ đang mơ màng nghĩ đến quê hương ở tận bên kia, cái làng nhỏ ở sườn đồi, cái chuông nhà thơ cao trên bụi cây, ánh đồng cỏ, mấy con bò đủng đỉnh, bên cái suối trong mà bọn chị em bạn cùng làng đang quỳ đập quần áo trên bàn giặt. Tôi đã đọc nhiều tiểu thuyết của người Pháp quá, nên có thể tưởng tượng được rõ rệt cái đời của người bên ấy”. Quay trở lại với hình ảnh của người đàn bà trước mặt, lúc này ở tác giả không còn có sự phân biệt đây là người ta, kia là người Pháp nữa, mà chỉ còn duy nhất một nhân vật phụ nữ yếu đuối cần được che chở. Thạch Lam nhìn bà chẳng khác bao nhiêu so với cách ông vẫn nhìn những bà mẹ Lê, cô Tâm trong Cô hàng xén, cô Liên trong Hai đứa trẻ. “Tôi tự nhiên đem lòng thương mến người đàn bà Pháp ấy. Cái vẻ buồn rầu âm thầm của bà làm cho tôi cũng buồn lây”.
Do chỗ được soi sáng từ một cái nhìn như thế, người đầm ở đây trở nên sinh động, trước tiên là có một đời sống nội tâm phong phú: nhạy cảm và biết điều; đơn độc song vẫn tế nhị; khiêm nhường cố thu mình lại, như bất cứ ai phải sống ở một nơi xa lạ, trong khi vẫn tìm cách khẳng định bản thân trước cái hoàn cảnh éo le và không có gì là dễ chịu ấy. Về mặt nhận thức mà xét, giờ đây, người đàn bà kia không còn là hiện tượng ngoại nhập lạ lùng kỳ quái, như vẫn thấy ở nhiều tác phẩm văn chương mà đã trở thành một con người bình thường, thành viên của một nhân loại thống nhất; kẻ đã trở thành chính ta, có nhiều cái ta trong hình ảnh kẻ khác ấy.
Vượt lên lối nhìn nhận thông thường để đi tới một tiên cảm lớn.
Với bút pháp hiện thực khá nghiêm ngặt, nói đơn giản với một sự tỉnh táo vốn có, khi tả người đàn bà Pháp ngồi trong rạp chiếu bóng, Thạch Lam không quên lưu ý “Tôi nhận thấy, cũng như tôi, những người khác ngồi chung quanh tò mò nhìn vào người đầm. Nhưng họ nhìn một cách sống sượng và chăm chú quá; trong những con mắt đó, đôi khi thóang qua một tia lãnh đạm và ác cảm nữa”. ở một đoạn sau, tác giả láy lại “Một vẻ buồn lặng lẽ và trầm mặc phảng phất trên nét mặt người đàn bà đó. Thỉnh thoảng bà ôm lấy con ghì chặt vào lòng, như se lại, trước cái ác cảm bà đoán thấy ở chung quanh”.
Hóa ra, không phải cái nhìn của Thạch Lam là cái nhìn chung của mọi người về người đầm. Mà ngược lại, bởi biết rằng cái cách nhìn nhận của mình còn đang là xa lạ, nói đúng ra, vượt lên cao hơn hẳn với chung quanh, nhà văn cảm thấy như được một sự kích thích thú vị và càng hào hứng theo đuổi những suy nghĩ riêng tư. Rút cục, chúng ta có một thiên truyện nó như chứng tích cho sự trưởng thành của ý thức cộng đồng: sau giai đoạn thù hận, đến giai đoạn chấp nhận người Pháp, bởi biết rằng, trong khi mang tới nhiều đau đớn và bất hạnh thì đồng thời họ cũng là cái cầu nối để chúng ta đến với thế giới hiện đại, và nhiều người trong họ vẫn là những người đáng mến.
Cần nói thêm rằng: Không phải ngay từ đầu nhà văn đã dám đi đến cùng trên con đường được ông lựa chọn. Trong bản in trên báo Ngày nay 1937, thiên truyện có một kết cục hơi khác với văn bản tồn tại sáu chục năm nay: mấy tháng sau buổi xem chiếu bóng ở rạp Pathé, tác giả có dịp gặp lại người đàn bà kia, thì bà đã thực sự bị hoàn cảnh làm cho xấu đi. Trong cung cách của một người Pháp nói tiếng Việt đã hơi sõi, bà quát mắng một người ăn mày “Xin cái gì nữa, đồ bú dù”, còn cô bé con cũng “níu lấy áo mẹ, giơ chân đá về phía những đứa trẻ khốn nạn kia, mồm mắng câu mà cô học được của anh bồi: “Cút, con khỉ”. Tóm lại người đầm hôm nào đã có đủ những thói xấu của đám người Pháp sống lâu ở Đông Dương. Có lẽ là do căn cứ vào bản in báo này, mà Nguyễn Tuân, trong bài viết nổi tiếng về Thạch Lam in ra năm 1957, đã hạ những câu bình phẩm “Trong cái tấm lòng quê hương mát mẻ của Thạch Lam, đôi lúc vẩn lên cái bóng dáng một vài con người thực dân Pháp, cái bóng dáng của một Người đầm (…). Qua cái hơi văn càng bình thản bề ngoài ấy, ta thấy thực dân cái (cũng như thực dân đực) càng trở nên kệch cỡm, nó dị dạng tới cái mức phải cho nó cút đi khỏi cái chân trời chung của cả tác giả lẫn độc giả”.
Nghĩa là, theo Nguyễn Tuân người đầm nói ở đây là đồng nhất ngay từ đầu, đồng nhất hoàn toàn, với hình ảnh một kẻ thực dân.
ở chỗ này, người đọc hậu thế, lại có dịp chứng kiến ngòi bút Thạch Lam tinh tế và tác giả đã cẩn trọng với trang sách của mình đến là ngần nào. Nếu chỉ giữ lại như văn bản đã in báo thì suy cho cùng, cái nhìn của Thạch Lam về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh vẫn có nét gì đó hao hao như cái nhìn của những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan và nhiều người đương thời.
Có lẽ vì sớm cảm thấy điều đó, nên khi đưa Người đầm vào tập Nắng trong vườn, Thạch Lam đã làm một cuộc thay đổi căn bản. Đoạn văn diễn tả cái cảnh gặp lại lần sau bị tước bỏ hẳn. Thay vào đó, chỉ là mấy câu buông lửng, “Từ đó, tôi không bao giờ được gặp bà ta nữa”, nghĩa là nhà văn không muốn nhìn nhận cái việc người đầm bị “làm hỏng”. Vẫn trân trọng lưu giữ “hình ảnh dịu dàng của người đàn bà đó”, tác giả kết thúc truyện ngắn bằng một ý nghĩ giản dị và đôn hậu. “Bây giờ chắc bà ta có công việc làm rồi”. So với bản in báo, thì bản in sách có mất đi một chút sắc sảo trong cách nhìn nhận nhân tình thế thái, song nghĩ kỹ, nó lại trung thành với chính Thạch Lam hơn, nó trở nên nhất quán trong cái ấn tượng mà nhà văn này khác với tất cả những người khác, muốn để lại trong tâm hồn bạn đọc. Với văn bản hiện nay, người đọc cảm thấy càng âm vang lên niềm ao ước của Thạch Lam, có lẽ nó đã là lý do chính thôi thúc ông viết Người đầm:
“Tôi mơ màng ao ước người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia bao nhiêu, và hai giống người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh em một nhà”.
Sau sáu chục năm trở đi trở lại trong tâm trí nhiều thế hệ bạn đọc, giờ đây, Người đầm của Thạch Lam càng hiện ra như bằng chứng của một tấm lòng độ lượng, một cái nhìn về con người mang dấu ấn của văn hóa, mà cũng là một tiên cảm lớn.
BÓNG HOÀNG LAN MÁT RƯỢI
Một trong những dấu hiệu của một tác giả lớn là người ta luôn muốn đọc lại tác phẩm của nhà văn ấy và mỗi thời đại lại có thể tìm thấy ở tác phẩm của ông một ý vị mới.
Không biết chữ “lớn” có hợp với Thạch Lam không (ông vốn không thích những gì đồ sộ, to tát), song tìm ra những ý vị mới ở tác phẩm của ông thì là điều luôn luôn có thể làm được, nếu người ta muốn.
So với các nhà văn tiền chiến Nhất Linh và Khái Hưng, Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Tuân thì Thạch Lam thuộc loại viết ít. Từ Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Ngày mới (1939) qua Theo dòng (1942), Hà Nội băm sáu phố phường (1943)… tổng cộng tất cả những gì ông viết ra đâu chỉ khoảng một ngàn trang sách. Tại sao lại có tình trạng ít ỏi như vậy? Vì ông mất sớm, khi mới 32 tuổi, ấy là một lẽ. Song lý do chính, phải nói là vì ông thuộc loại kỹ tính. Bản thân những điều ông  thường đề cập trong tác phẩm (tính cách cố hữu đời của dan tộc, những giá trị cao quý được tích tụ qua lịch sử, cái phần tốt dẹp không bị thời gian, không bị cuộc đời cơ cực làm phai nhạt...) đã đòi hỏi phải được đối xử một cách thận trọng chừng mực. Và cái giọng ôn tồn thường thấy ở Thạch Lam có lẽ lá thích hợp nhất để diễn tả những điều một người chín chắn như ông từng ấp ủ.
Đặt vào hoàn cảnh sống hiện thời, đôi khi người đọc hôm nay không khỏi cảm thấy văn phẩm của Thạch Lam có một chút gì như là lạc lõng. Ông nhất quyết không chịu chia sẻ cảm giác tốc độ mà con người hiện nay thường xuyên thể nghiệm. Trong khi chúng ta sống trong vội vã chụp giật, thì ông từ tốn, ý nhị. Trong khi con người hôm nay quay cuồng chạy theo lợi lộc trước mắt, viện đủ mọi lý do biện minh cho mình thì các nhân vật của ông đề cao đức hy sinh, thói quen sống chừng mực, gần như khổ hạnh, và không ngại nói đi nói lại rằng chỉ có một thứ mong manh mơ hồ, nhưng lại đáng ngưỡng mộ, đó là vẻ đẹp. Nay đang là thời nhiều người ngại ngùng trước mọi sự tinh tế. Người ta bảo nhau: “Cả trong đời sống lẫn trong sáng tác, phong cách cao quý, giọng văn thống thiết càng ngày càng bị quên lãng và thường khi bị đồng nhất với sự tô vẽ, giả dối”. Thật ra trong một khái quát như thế, không phải là không có rất nhiều sự thực. Đó là đúng với nhiều người. Nhưng vẫn phải trừ Thạch Lam. Người ta dễ nhớ đến ông và dù không tạo ra “những đợt sóng ồ ạt”, vẫn đọc lại ông đều đều. Đọc để hiểu thời ông sống, cái đó chỉ là một phần. Song quan trọng hơn, đọc để hiểu rằng bao giờ cũng vậy, bên cạnh cuộc sống trần trần trước mắt, con người ta phải biết nghĩ tới một cuộc sống khác. Trong mối quan hệ từ tốn với bạn đọc, văn phẩm của Thạch Lam dường như luôn thầm thì với chúng ta một điều gì đấy. Lúc này, đọc sách không chỉ có nghĩa là tìm cái giống mình trong văn chương, mà đọc sách đôi khi lại là cách tốt nhất để tìm tới những gì mình không có hoặc hình như có, nhưng để đâu không biết, không khéo thì đã đánh mất từ lúc nào. Buộc người đọc phải nghĩ lại như thế, thực không phải dễ dàng. Song nó cũng là một việc cần thiết mà văn học phải đảm nhiệm, nhất là khi người ta còn muốn tìm tới cái cơ may mà mọi người cầm bút thường vẫn ao ước, là tạo ra sự trường tồn cho trang viết.
THẠCH LAM VÀ HÀ NỘI BĂM SÁU PHỐ PHƯỜNG
Đến nay, Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam đã in lại đến bao nhiêu lần, không ai được biết. Lối làm xuất bản luộm thuộm của chúng ta là nguyên do của thiếu sót đáng tiếc đó. Tuy nhiên có điều chắc là hễ nhắc đến Thạch Lam thì cùng với nhiều truyện ngắn như Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Sợi tóc… cùng tập tiểu luận Theo dòng, người ta phải nhắc ngay tới Hà Nội băm sáu phố phường.
Dưới đây, để giúp bạn đọc hiểu thêm tác phẩm này, chúng tôi xin lưu ý một số chi tiết có liên quan đến văn bản và tác giả.
1. Trước khi được in thành sách, Hà Nội băm sáu phố phường đã được in trên báo, như một mục thường xuyên của tờ Ngày Nay (bài đầu tiên, in trong số 201 năm 1940).
2. Nhưng ban đầu, mục này không phải chỉ riêng có Thạch Lam viết, mà còn có sự đóng góp của các đồng nghiệp. Ngay số mở đầu nói trên, đoạn từ Người Pháp có Paris, người Anh có London…” ký tên Thạch Lam, nhưng đoạn Những biển hàng (“Đã có nhiều người nhận ra rằng phố Hàng Đào là phố của loài vật”) lại ký Thiện Sĩ. ở đây, có thể có giả thiết Thiện Sĩ đây chính là một biệt hiệu khác của Thạch Lam, và đó là lý do sau này những đoạn Những biển hàng đó cũng được đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường.
Nhưng cũng xin lưu ý, hai chữ Thiện Sĩ còn xuất hiện trên Ngày Nay trong nhiều trường hợp khác. Lại có cả một cuốn Sách Hồng (viết cho thiếu nhi) của nhà Đời nay, mang tên Lên chùa, cũng ký tên Thiện Sĩ và chúng tôi không dám cả quyết là những bài này, hoặc cuốn sách này, bao giờ cũng có hơi hướng văn Thạch Lam mà đôi khi có phảng phất giọng văn Khái Hưng.
Vậy chưa thể cả quyết dứt khoát Những biển hàng do Thạch Lam viết. Xin coi đây là một nghi án, tạm xếp đấy đã.
3. Đến số 203 của năm 1940, thì xảy ra một tình huống rõ ràng hơn. Số này mục Hà nội băm sáu phố phường nói riêng về các vườn hoa Hà Nội. Đoạn này ký tên Khái Hưng và cố nhiên, sau này không thấy có mặt trong Hà Nội băm sáu phố phường.
4. Về phần mình, không phải bao nhiêu  bài Thạch Lam  viết về Hà Nội, đều đưa vào Hà Nội băm sáu phố phường. Theo dõi Ngày Nay từ 1937 trở đi, chúng tôi còn gặp một vài bài ngắn, Thạch Lam đả động tới chủ đề này (xem phụ lục đi kèm). Hoặc ngay trong năm 1940, có lần trong mục Chuyện xa gần, cũng thấy xuất hiện những đoạn văn ngắn về Hà Nội ký tên Thiện Sĩ (chính là của Khái Hưng hay Thạch Lam, chúng tôi chưa xác định nổi).
Đến đây chúng ta có lý do để tiếc rằng Hà Nội băm sáu phố phường là cuốn sách hình thành sau khi tác giả đã qua đời. Nếu nó được chính Thạch Lam chuẩn bị cho in, hẳn đã có khác chút ít. Biết đâu Thạch Lam chẳng bổ sung thêm bài này bài nọ.
5. Người có công lớn trong việc tổ chức nên bản thảo Hà Nội băm sáu phố phường là Khái Hưng. Chúng tôi hình dung đóng góp của tác giả Nửa chừng xuân cho cuốn sách này của Thạch Lam trải ra trên hai phương diện: một là bàn bạc  với Thạch Lam về từng bài cụ thể, đôi khi có thể có sửa chữa thêm bớt, hai là khuyến khích Thạch Lam theo đuổi đề tài này đến cùng. Lưu ý là trong bản in lần đầu của Hà Nội băm sáu phố phường ở nhà xuất bản Đời nay, có kèm thêm lời Tựa mà Khái Hưng viết cho tập sách, đề ngày 20-VII-1943. Đây là một lời tựa viết rất hay. ở đó, người ta đọc ra không chỉ tình yêu của Thạch Lam mà cả tình yêu của Khái Hưng với Hà Nội, và điểm lại hình ảnh Hà Nội trong sáng tác của các nhà thơ cổ điển, vốn là một mặt mạnh của ngòi bút Khái Hưng (lâu nay, không thấy các bản Hà Nội băm sáu phố phường có in lời tựa này). Và lối đơn giản hoá công việc, tước đi khỏi tác phẩm những cái tưởng như râu ria vô bổ song thực ra rất có giá trị, là lối làm việc phổ biến, người ta đã làm với nhiều cuốn sách khác, chứ không riêng gì Hà Nội băm sáu phố phường.
CHUNG QUANH HỒ.
Cốc “kem năm”
Một năm trước chung quanh Bờ Hồ chúng ta còn thấy bầy các hàng nước chanh, nước đá. Những tấm vải che đã cũ, những bàn ghế long đinh, cái nụ cười và tiếng mời chào của các cô hàng.
Một vẻ đẹp và một cái thú riêng của Hà Nội.
Nhưng ở những căn hàng ấy còn có một cái lợi nữa: một người có năm xu cũng có thẻ ngồi hưởng gió mát và ngắm cảnh được. Thực là một cái thú rẻ tiền, ai cũng muốn hưởng.
Nhưng bây giờ thành phố đã bắt những hàng ấy phải triệt đi và cho  làm thay vào cái nhà thủy tạ lộng lẫy để dành riêng cho những người… lắm của. Còn bọn ít tiền, các công chức, thợ thuyền, bây giờ chỉ còn cách đứng ngoài mà nhìn. ở trong thủy tạ, người ta bán đắt quá: bảy hào một cốc rượu, hai mươi nhăm xu một cốc nước chanh.
Thành phố đáng lẽ phải làm cho người nghèo được hưởng lợi, thì lại chỉ nghĩ đến cách tiêu khiển cho kẻ giàu. (Mà người giàu thì đã thiếu gì cách tiêu khiển). Nếu nhà thủy tạ nộp môn bài, thì những hàng nước chanh nước đá trước  kia cũng nộp môn bài.
Nhưng câu chuyện không phải ở chỗ ấy, vì thành phố có phải là một nhà buôn kiếm lợi đâu.
Chỉ còn cách là nhà thủy tạ bán hạ giá. Nhưng nếu bán thế, người thầu lại sợ lỗ vốn. Chi bằng bây giờ phá quách cái nhà ấy đi, và thành phố lại cho các hàng bán như trước. Có thế, dân nghèo ở Hà Nội mới được ngồi hưởng cái gió mát chung của hồ.
Liễu rủ bên hồ
Trong vòng hai năm nay, người ra mới thấy chung quanh hồ bắt đầu trồng liễu. Bây giờ những cây liễu đã nhớn, buông tơ rủ xuống mặt nước rất đẹp. Thành phố đã làm một việc tốt để tăng thêm vẻ đẹp của hồ Hoàn Kiếm.
Nhưng sao trước kia không ai nghĩ đến trồng liễu? Chỉ thấy trồng những cây hoa thấp lè tè, và những cây gồi cao lênh thênh.
Tôi hiểu tại sao người Pháp lại thích cây gồi: vì cây đó gợi trong trí họ cái cảnh rực rỡ ánh sáng ở Phi Châu, hay ở ven biển Méditerrannée (Côte d’azur); mà người Pháp ở xứ lạnh thì ao ước ánh sáng mặt trời lắm.
Nhưng đối với người ta, cây gồi chỉ gợi đến cái cảnh nóng bức khó chịu của mùa hạ. Vả lại, nó không có bóng mát. Khí hậu bên ra chỉ cần một cái vườn râm mắt như vườn kiểu Anh thôi. Còn những thảm hoa kiểu Pháp, phải ở nơi thời tiết đầm ấm mới thích hợp.
Lễ phép không ngại gì
Một vài người cảnh sát của thành phố - cố nhiên không phải là tất cả - không có lễ phép trong khi làm phận sự mình. Họ chỉ quen mắng, quát người ta mà thôi.
Buổi chiều, dân thành phố ra Bờ Hồ hóng mát rất đông. Có hai vợ chồng người thợ vô ý ngồi lên bãi cỏ. Một thầy cảnh sát đến. Thấy người ta ngồi vào bãi cỏ cấm, đáng lẽ người cảnh sát ôn tồn bảo cho người ta biết thì phải. Đằng này không, người cảnh sát đến đằng sau hai người kia, nói một câu thô tục:
– Này, ngồi thế đã mát… chưa?
Thái độ lạ
Hôm gánh hát Phước Cương diễn ở Nhà Hát tây cũng có nhiều cảnh sát giữ trật tự. Nhưng xe cộ phải đi đến Hát Tây theo một đường.
Anh phu xe kéo tôi ngu đần quá, không biết lệ luật. Anh ta, cứ kéo ngay vào lối các xe đi ra. Có một thầy cảnh sát đứng đấy. Nhưng đáng lẽ bảo ngay cho anh phu xe biết, thầy lại đợi cho anh xe kéo vào quá xa, rồi mới quát:
– Ứ ừ, mù! Đi thế kia à?
Tôi vẫn biết không phải tất cả những người giữ trật tự trong thành phố đều như thế cả. Tôi cũng biết rằng nhiều người mình nói ngọt không chịu nghe, chỉ ưa mắng.
Nhưng đó không phải là một lẽ để người ta bỏ quách lịch sự. Sự lễ phép chỉ tôn người ta lên mà thôi, không làm mất giá trị người ta bao giờ cả.
Vấn đề nhà ở
Kỳ hội đồng thành phố vừa rồi, các ông đại biểu dân đã bàn định lập ra những nhà để cho các viên chức thuê. Số tiền thuê mỗi tháng từ 15 đến 18 đồng; mỗi cái nhà làm mất ít ra là 5.000đ.
Như vậy, chỉ các viên chức nào lương khá mới hòng thuê được mà thôi. Còn các viên chức lương nhỏ - số rất ít - và các thợ thuyền trong thành phố vẫn phải chui rúc vào những căn nhà tối tăm và bẩn thỉu như hang chuột.
ở bên Pháp vừa rồi, người ta mới dặt ra một tuần lễ gọi là “tuần lễ xã giao” hay “tuần lễ lễ phép” (semaine d’ubanité). Trong tuần lễ ấy mọi người phải theo đúng cách lịch sự, lễ phép trong bất cứ trường hợp nào và bất cứ ở đâu.
Người mình chưa mấy ai biết phép xã giao, giá có một tuần lễ như thế cũng hay. Nhưng tôi tưởng một tuần lễ không đủ, phải đặt ra “một năm xã giao” mới đủ.
Thạch Lam
Ngày Nay, số 65 ra ngày 27/6/1937.
CẢM XÚC VỀ ĐẤT NƯỚC
Đọc Hà Nội băm sáu phố phường, chúng ta đã có dịp cùng với Thạch Lam sống và lắng nghe nhịp sống của một vùng đô thị thuở thanh bình. Trước đó, đọc những truyện ngắn như Dưới bóng hoàng lan, Gió lạnh đầu mùa, Nhà mẹ Lê… chúng ta đã thấy nhà văn này mang nặng những tâm tình riêng và có một sự trân trọng riêng với những hồn quê mộc mạc.
Nhưng Thạch Lam - nhà văn với  một vốn liếng văn hoá vững chắc, cây bút có cốt cách tri thức điển hình - còn đi xa hơn thế. Trong mấy năm cuối đời, ông thường để cho cảm hứng trang trải tới những khu vực tưởng như trừu tượng hơn, mà lại là nơi cô kết mọi tình cảm của chúng ta - ông hay nói tới đất nước. Và con đường riêng được ông lựa chọn, là nói về nghệ thuật dân tộc. Trong những dịp tết, ông kể chuyện về những bức tranh Đông Hồ với “những màu tuy tươi thắm mà cổ xưa, màu cánh sen, màu xanh lá mạ, là bài ca hát của người và vật truyền nhau trên đồng ruộng”. Còn như đọc bài viết dưới đây, chúng ta sẽ được cùng ông trở lại với những tiếng hát dân gian - những điệu xẩm.
Ông phác ra khung cảnh ở đó người ta nghe hát. Ông chăm chú đọc ra những điều người ta trông chờ và gửi gắm qua các điệu hát.
Và nhất là ông tìm cách ghi lại những cung bậc tình cảm của mọi người - cả người hát lẫn người nghe -  trong cái cảnh diễn dân dã đó.
Nhà văn muốn thử làm một công việc khó khăn và hấp dẫn là mang lại cho tâm hồn dân tộc một hình hài, một khuôn khổ. Câu văn ông có chỗ lúng túng, ngập ngừng như chính ông cũng chưa biết làm sao ghi cho chính xác cái sự thực của tâm tình. Mặc! Ông vẫn cảm thấy phải nói ra bằng được những nỗi niềm bấy lâu đã nấu nung trong lòng mình. Cái hồn của đất nước được Thạch Lam gọi ra bằng những lời lẽ riêng. Ông đã nhuộm cho cảnh vật, cánh đồng, con đường, cây đa, bến nước… một sắc thái riêng - sắc thái Thạch Lam.
Giờ đây, người ta có thể nghĩ khác về đất nước, so với những điều Thạch Lam đã nghĩ gần sáu chục năm trước. Nhưng lòng yêu đất nước của ông, thì tưởng như nói đi nói lại bao nhiêu cũng không đủ.
DỌC ĐƯỜNG
Một con đường dài dưới sáng trăng. Hai bên dãy nhà lá thấp, mái tranh cũ như lẩn vào màu trời. Một cây đa lớn trong bóng tối thấp thoáng ánh trăng của vài chiếc bình vôi.
Đấy là một phố chợ nhỏ miền hạ du, một cảnh rất quen mắt ở chốn bùn lầy nước đọng. Trong các căn nhà lụp xụp và tối tăm ấy, sống những gia đình nho nhỏ Annam [1], những người nghèo hèn mà đời kiếm ăn thật là eo hẹp và chật vật. Những đêm sáng trăng này, họ vui vẻ. Tâm hồn giản dị cảu họ chịu ảnh hưởng của thời tiết một cách mật thiết, không tự biết. Cái vui của họ dễ đến, nhưng mà cũng dễ đi - và tiếng cười của họ có khi nổi lên vô tư lự.
Họ xúm quanh lại ngồi nghe một đám xẩm già, đánh cây đàn bầu gỗ mọt, và ca hát những bài hát tự nghìn xưa vẫn lưu truyền trong dân gian, ai cũng thuộc nhớ, mà lần nào họ cũng vẫn muốn nghe. Những bài hát thương tiếc cái tình tuyệt vọng của anh chài lưới Trương Chi, ngậm ngùi cái tình bằng hữu của Lưu Bình, Dương Lễ, hay tán thưởng lòng can đảm của Thạch Sanh. Muốn cảm động được đám người mộc mạc ấy, những tính tình kia cũng phải thu về giản dị và cổ sơ - những tính tình mới có của người bước vào vòng lễ nghĩa, của những tâm hồn chất phác như những tâm hồn vẫn giữ chất phác kia.
Qua cảm động đến vui cười, chế nhạo và giễu cợt. Những bài vè quê mùa, những câu đố hóm hỉnh, những bài ca hơi chút đĩ thỏa và trai lơ. Đánh tam cúc, Đi hái chè, Lấy chồng già, chồng trẻ… bao nhiêu tiếng cười thẳng thắn và hồn nhiên nổi lên khuyến khích và điểm vị cho câu hát. Và cái tiếng cười cợt trong câu hát ấy, hơi đơn sơ và thành thật, láu lỉnh như nháy mắt với người bên cạnh, giễu cợt có khi cay chua nhưng mà không ác ý, có đôi chút triết lý rộng lượng với những hèn yếu của người đời - đó là tiếng cười cợt An Nam, của lũy tre, của ruộng lúa. Lên đến cao nguyên, vùng rừng vùng núi, tiếng cười câu hát ấy đã thêm một chút man mác, rộng rãi nhớ thương, thêm một chút buồn xa xôi và tưởng nhớ.
Ai là người cúi xuống góp nhặt và thưởng thức những bông hoa trong nội cỏ đất nhà ấy, giữ lấy mùi hương thơm mát mẻ và kín đáo, từ xưa vẫn thấm nhuần cảnh vật quanh ta?.
Một chuyến đò ngang, một xó chợ, một đầu đường… chỗ nào có dăm ba người nghe là có đám xẩm xoan lên tiếng. (Dễ thử đến có khi chẳng có ai nghe nữa, mà một ông cụ xẩm cũng vẫn gẩy đàn và ca hát, đôi mắt đưa lên như cố hình dung những bóng người tưởng tượng, và lắng tai nghe chờ đợi không biết đến bao giờ một tiếng đồng trên chậu thau...). Cái giọng hát xẩm thật là một giọng hát đặc An Nam. Hay là tôi tưởng thế, bởi vì mỗi lần nghe cái giọng hát buồn buồn, tầm thường và quê mùa ấy, là mỗi lần tôi thấy như đè nén, quằn quại trên tâm hồn tôi, cái tâm hồn hèn mọn và nhẫn nại của giống nòi - của cả đồng ruộng nghèo nàn và bạc bẽo phủ sương chiều. Tôi không muốn một bài ca hùng hồn, hăng hái, đầy những công việc xuất thế, anh hùng, bởi vì không phải thật là như thế. Tôi nhận ra cái hèn mọn, nghèo nàn kia, nhận một sự buồn mà người ta phải chịu vậy, nhưng mà tôi yêu mến, thiết tha cái linh hồn thật của đất nước ấy, là linh hồn của tôi, có những ràng buộc chặt chẽ, những rung động thẳng ngay đến bên trong. Cái giọng hát quê mùa, không có gì là cao quý nhẫn nại, không có gì là siêu việt, là cái giọng hát đã làm cảm động những người cùng giống với tôi, những người sống chật vật, khó khăn, nhưng mà vẫn vui vẻ, vẫn tin trời, không ghen ghét mà cũng chẳng thù hằn ai. Trên manh chiếu rách giải ngay mặt đất đó, đã diễn ra bao nhiêu lần cái cảnh sinh hoạt của người bình dân An Nam. Tiếng đàn, nhị  một điệu nhắc đi nhắc lại, quen thuộc và êm ả, như trên cánh đồng lúa, ngày lại ngày, năm rồi qua năm khác, đem lại cũng chừng ấy công việc, chừng ấy vui buồn.
Đường, chợ chúng ta sẽ vắng lạnh, nếu không còn giọng ca hát nữa.
Làn khói rắc buổi chiều ở đầu làng, vì không có gió đưa, nên là là sát mặt đất để lẩn vào dải sương mù bắt đầu rơi xuống cánh đồng. Tiếng ếch nhái xanh rờn trên ruộng mạ. Và bóng người dãi qua cái quán gạch giữa cánh đồng, cái quán gạch giờ này trơ vơ và lạnh lẽo.
Bạn có nhận thấy cứ đến buổi chiều sương phủ, những làng mạc xa xa hình như thu bé lại, thấp xuống, thấp xuống để lẫn với đất ruộng, còn cánh đồng mênh mang bóng tối thì từ từ dâng lên ngang với chân trời? Giờ khắc ấy, ở đâu ra mà khắp cả, trên dưới và khắp bốn phương, hình như tiết ra ở cảnh vật, ở cây cỏ, ở ruộng nương, một nỗi buồn thấm thía, không đâu, một nỗi buồn vừa chán nản vừa chua xót, khiến người ta bỗng dưng thấy lạnh lẽo, thấy lẻ loi? Tranh giành, chiến đấu bấy giờ thấy vô ích và quá sức yếu ớt của mình. Phải dễ dãi, phải thân mật, để được gần gụi người khác cho thêm ấm cúng.
Đó là cái mạch buồn riêng của đất nước nhà, âm thầm như dòng suối dưới nội cỏ, cái mạch buồn hiu hắt chảy trong sông, hay xa xôi theo dải đê đến tận chân trời. Cảnh của ta tuy nhiều nơi thật là đơn sơ, bằng phẳng, nhưng có vẻ riêng biệt cám dỗ chúng ta. Chúng ta tha thiết mến yêu có lẽ vì cảnh vật như một tấm gương, và chúng ta thấy chiếu vào trong đó hình ảnh và tâm hồn của chính chúng ta.
Chúng ta nghèo nàn, nhưng chúng ta biết sự nghèo nàn ấy.
Dọc đường cái quan, ngày xưa, còn có chiếc cầu dịp đá, và bóng đưa của những cái cáng xanh. Những ngày rực rỡ, còn có võng lọng tưng bừng của một ông nghè về vinh quy, với cô gái quê má lúm răng đen, gọn mình trong chiếc võng, âu yếm nhìn ông tân khoa, chồng ta, và do công ta thức khuya dậy sớm hái dâu dệt lụa để chàng ăn học.
Bây giờ những cái đó đã mất rồi, mà trên đường, chúng ta chưa có cái gì khác thay vào. Chúng ta đi, hai bàn tay trắng [2].
MỘT CÁCH TÌM VỀ DÂN TỘC
Khi nói đến thời tiền chiến, nhiều người chỉ nghĩ đó là thời kỳ xã hội ta “Âu hóa”, hội nhập với thế giới hiện đại. Thế nhưng những năm tiền chiến - và nhìn rộng ra, cả mấy chục năm đầu thế kỷ XX - cũng chính là thời gian mà ý thức dân tộc trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Các nhà trí thức chia nhau gánh vác những công việc mà một dân tộc muốn tự hiểu mình, tự biết mình, bắt buộc phải làm: Viết lại lịch sử. Sưu tầm thơ văn cũ. Nghiên cứu về tục ngữ ca dao, về tranh dân gian, về ca trù. Bàn lại về Cung oán, về Truyện Kiều v.v… Việc gì cũng được làm một cách thận trọng. Riêng các nhà văn nhà thơ cũng đóng góp vào việc này theo cái cách của riêng mình. Có người viết truyện theo lối tiểu thuyết hóa các sự kiện, các nhân vật đã sống cách đây vài thế kỷ. Có người ghi lại những nếp sống cổ truyền đang dần mai một. Có người đưa vào thơ mình cái hồn thơ dân gian duyên dáng, trữ tình…
Có thể nói trong suốt trường kỳ lịch sử, chưa bao giờ sáng tác văn chương lại trở nên gần gũi với đời sống bình thường của xứ sở như lúc này.
So với một số đồng nghiệp trong Tự lực Văn đoàn, trên đường trở về với dân tộc, có vẻ như Thạch Lam không có nhiều may mắn trời cho. Ông không có cái vốn dân gian bền chặt như Tú Mỡ, cũng không biết chữ Hán và thuộc nhiều sử sách cũ như Khái Hưng. Trong khi một người như Nhất Linh còn có lúc viết một thứ văn nghiêng hẳn về quy phạm cũ (Nho phong, Người quay tơ) thì Thạch Lam, ngay từ lúc xuất hiện, đã bộc lộ một cốt cách Tây học không giấu vào đâu được. Chỉ cần quan sát kỹ câu văn của Thạch Lam, người ta có thể nhận ra sự gần gũi của ông với nền văn chương tiếng Pháp rõ rệt đến độ nào.
Nhưng Thạch Lam là một nghệ sĩ bẩm sinh, hơn thế nữa, một nghệ sĩ được đào luyện chắc chắn về văn hóa. Một người gọi là thấm nhuần văn hóa thực thụ, một trí thức chân chính, dù lớn lên trong hoàn cảnh nào, cũng sẽ nặng lòng với cái dân tộc đã sinh ra mình, cũng muốn trở về với cội nguồn, và có những xúc động sâu xa trước đời sống quê hương, nhất là khi quê hương đó đã phải chịu đựng nhiều đau khổ.
Và chúng ta, nếu chăm chú đọc lại Thạch Lam, sẽ thấy một vương vấn thường xuyên về dân tộc, như một ám ảnh. Ông để tâm suy nghĩ về quê hương, làng xóm, những người lao động nghèo túng vất vả, những nét phong cảnh như ngưng đọng tự bao đời. Và ông viết về những nét đẹp của quê hương như trong bài Tranh Tết mà sau đây bạn đọc sẽ đọc.
Với cái nhìn ngả sang xã hội học, trước tiên Thạch Lam tìm thấy ở những bức tranh tết (ở đây là tranh Đông Hồ) một ý nghĩa nhân sinh rõ rệt. ông yêu nhất ở tranh cũng như ở cuộc đời thường cái vẻ mộc mạc. Ông ân cần nhận ra rằng giữa người làm tranh và những người dân thường chẳng có sự khác biệt là bao, nhờ thế các tranh có được cái vẻ sống thật, nó là cái thi vị riêng mà chỉ các tác phẩm dân gian mới có. Còn như cái việc phần lớn các tác phẩm ấy mang tính cách khuyết danh, lại được ông xem như một nét đẹp; “Trong sự giấu tên kín tiếng của các nghệ sĩ xua ấy, có một cao quý và trong sạch đáng yêu”.
Song nói vậy, không có nghĩa là Thạch Lam chỉ biết có mơ mộng. Trong một bức tranh quen thuộc như Đám cưới chuột, ông ghi nhận một triết lý dân gian: nhẫn nhục chịu đựng, thích ứng để sống. Người ta cảm thấy khi viết những lời bình luận về bức tranh này, ở Thạch Lam vừa thoáng qua một nụ cười, vừa có một nỗi âm thầm đau xót, thông cảm.
4. Cái khó của một nhà văn khi viết về hội họa là phải diễn tả phải diễn ra bằng lời những điều nhà nghệ sĩ đã miêu tả bằng đường nét và màu sắc. Cũng là một điều dễ hiểu khi Thạch Lam đôi lúc tỏ ra lúng túng, và chắc chắn ông không bằng lòng với mình. Có điều, chỉ qua mấy câu bàn kỹ vào giá trị nghệ thuật của tranh dân gian, Thạch Lam vẫn tự chứng tỏ là ông hiểu khá kỹ về nghề vẽ và nhất là có một mỹ cảm tinh tế. Ông xa lạ với những gì vụng về, giả dối, lộn xộn. Ông thích những giá trị lâu bền. Khi Thạch Lam viết rằng “cái nghệ thuật phải tự nhiên và thật” thì đó không phải là nhận xét riêng của ông về tranh dân gian: đấy cũng là những tiêu chí nghệ thuật mà nhà văn này theo đuổi và đã có dịp bộc lộ qua các sáng tác.
Trong cái mỹ cảm tinh tế ấy của Thạch Lam, người đọc hôm nay nhận ra một phần quan niệm về cái đẹp của ông cha ta, của người Việt chúng ta nói chung. Và như vậy, đã có thể nói là trên con đường tìm về dân tộc, Thạch Lam (với cái vốn văn hóa Tây phương như đã nói ở trên) cuối cùng vẫn là một trong những người tới đích sớm.
Ghi chú về văn bản
Bài viết sau đây của Thạch Lam được viết ra đầu xuân 1941. Năm đó, cả Phong Hóa, Ngày Nay đều đã đình bản, tờ Chủ nhật ra được mấy số cũng bị rút giấy phép, nhóm Tự lực không còn báo trong tay, đành phải tổ chức một đầu sách gọi là Sách tết Đời nay. Lạ một điều là trong cuốn sách 48 trang khổ to như báo ấy, các tác giả Thế Lữ, Khái Hưng đều không ký tên thật của mình sau các bài viết. Và Thạch Lam cũng vậy. Chúng tôi chỉ căn cứ vào giọng văn và nội dung bài viết mà khôi phục lại tên tác giả.
TRANH TẾT
Những tranh ngày Tết người ta bán nơi nhà quê kẻ chợ. Đó là những tranh khắc gỗ, do mấy làng làm. Tranh vẽ nhiều cảnh, tất cả cuộc sinh hoạt của thôn xóm An Nam, những bà mẹ và trẻ em thường gọi là “tranh gà lợn”. Đó là những tranh rất cổ của ta.
Những bản gỗ của các tranh ấy không rõ có từ bao giờ, và do ai vẽ. Trong sự giấu tên kín tiếng của các nghệ sĩ xưa ấy có một cao quý và trong sạch đáng yêu. Đó hẳn là những người bình dân vẫn sống chung lộn với những người khác trên đồng ruộng, cùng sống một cuộc đời, cùng làm những công việc im lặng và khó nhọc. Họ không biết họ là nghệ sĩ, và có lẽ, nếu không có một trường hợp nào đó, một kích thích gì đột nhiên, họ suốt đời không bao giờ vẽ cả.
Những người đó vẽ với tất cả tâm hồn của họ. Vẽ đối với họ tức là sống lại ngay chính cái đời họ sống. Những cảnh đồng ruộng, các công việc cày cấy, những cảnh trong gia đình hay ở sân sau, được hoạ trên giấy một cách rất linh động và đúng nét. Cái khoa học dáng điệu của họ - nếu có thể gọi được thế, một sự tự nhiên, không xếp đặt trước - thật là lạ lùng. Dáng điệu của người cày ruộng, người quạt thóc v.v… như sống thật. Tất cả cái thi vị, một mạc và đơn sơ của đồng ruộng, phô diễn trên giấy. Những gia súc, vì họ sống gần gụi và thân mật với chúng, trong nét họa cũng trở nên thân mật như thực. Cả đến các gia thần, ông Táo Quân, ông Thổ Công, cũng chỉ là những người cùng sống chung dưới một nóc, có liên lạc mật thiết đến cuộc đời của người.
Những nghệ sĩ An Nam của thôn quê đó còn cả cái giễu cợt khôi hài ý tứ và chân thật nữa. Trong bức tranh “Đám cưới chuột”, hay “Ông đồ ếch và học trò” có thấm thía một cái duyên vui và rộng lượng. Những người giản dị ấy không mất lòng kính trọng của họ đối với mọi việc. Cái roi mây trong tay ông đồ hay cái hỏa lò để quạt nước cho thầy biểu hiện tất cả cái tinh thần cốt yếu của buổi học, cùng một lúc với cái khôi hài thân mật của người vẽ.
Trong cảnh “Đám cưới chuột” tôi thấy sự mềm dẻo và, quen đi, dai dẳng của cuộc sống. Bao nhiêu triết lý trong việc dâng biếu cá cho chú mèo! Tất nhiên là muốn được an hưởng thì phải đút lót; trước khi đám cưới đi, người ta đã trù tính rồi. Mới đầu còn là sợ hãi bắt buộc, rồi sau mãi, biết đâu lại không thành quen đi, và lấy làm sung sướng và vui vẻ nữa. “Ngài” sẵn lòng nhận cá, thế là ơn huệ rồi.
Tôi muốn dừng lại lâu hơn ở những cảm tưởng mà các tranh tết ấy đã dậy trong trí tôi. Không phả là họa sĩ, tôi e sự phán đoán về màu, nét của tôi không đủ đúng đắn. Những bức tranh mộc mạc ấy, ngày tết, trang hoàng cho vách đất, của phên ở thôn quê, chỉ là hình cảnh của cái đời ấy. Những màu tuy tươi thắm mà cổ xưa, màu cánh sen, màu xanh lá mạ, là bài ca hát của người và vật truyền nhau trên đồng ruộng: cái gì tựa như một tục lệ hằng năm nhắc lại, mà không vì thế mất vẻ đáng yêu.
Tôi ước ao những tranh ấy cứ còn mãi. Những bản gỗ ấy bây giờ còn ở làng Hồ (Bắc Ninh). Hình như còn vài làng nữa, tôi không nhớ tên. Những màu sắc đều lấy trong thảo mộc cả. Bởi vậy không có cái sắc lánh và lạnh rắn của kim loại, vẫn dịu và mát tuy rất tươi. Màu đen rất ấm cúng, êm như nhung, và màu trắng thì ánh như xà cừ.
Mấy năm gần đây, đã có thấy các chợ bày những tranh lối mới, vẽ những cảnh bây giờ. Nhưng vụng về và giả dối, thật rõ cái không trật tự, sự lẫn lộn của các giá trị ở buổi này. Không phải ai cũng có thể vẽ được những tranh đẹp như cũ. Phải cần một hoạ sĩ mà tâm hồn cảm thẳng ngay với cảnh vật của đất nước, không cần đến sự môi giới của trí thông mình. Cái nghệ thuật phải tự nhiên và thật.
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí mấy năm trước đây có khắc vài bản gỗ mà họa sĩ gọi nhũn nhặn là một “cuộc thí nghiệm”. Với tôi, sự thí nghiệm ấy đã thành công đầy đủ rồi. Trong mấy bức chụp đây, người ta thấy rõ họa sĩ đã đi đúng đường. Dáng điệu và các nét thật linh hoạt và phơi phới. Tôi không thể nói hết được cái giá trị cao về nghệ thuật.
Một hương vị cổ kính và mãi mãi hiện ra trong các tranh ấy. Cử chỉ của cô bé đội lá sen trên đầu để che mưa có tính cách gì bình dân và An Nam lắm. Và cây bàng lá thu che bóng cho chị hàng rươi tự bao nhiêu năm trở lại.
Những tranh Tết kia là hình ảnh bằng màu sắc của cuộc sống An Nam, cũng như những câu ca dao là nình ảnh thơ điệu. Hai nghệ thuật cùng một nguồn và nghệ sĩ nọ có khi là nghệ sĩ kia. Sống cùng một màu đất và cùng một gió mùa, họ lưu truyền cái gì là sâu sắc, bền chặt và tinh túy nhất của tâm hồn chúng của dân gian, yên tĩnh hay biến đổi, nhưng biểu lộ trong tất cả trạng thái có khi rất nhỏ nhặt của cuộc đời.
NHỮNG NGÀY TẾT DƯỚI CON MẮT
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI LỊCH LÃM
Sự tiết chế, sự điềm đạm vốn là một đặc điểm thấy rõ ở văn chương cũng như con người Thạch Lam (1910-1942).
Biết điều đó, người ta sẽ không ngạc nhiên, khi nghe ông kể rằng ông thường đón Tết một cách không mấy vồ vập, đúng hơn là đơn sơ thanh đạm. “Tết của nhà nghệ sĩ vốn giản dị… một chai rượu mùi, một gói kẹo, một gói thuốc lá, thế là đủ. Chẳng phải vì nghệ sĩ không ước ao hơn, nhưng vì nghệ sĩ vốn nghèo”. Có điều, trong khi đứng tách riêng ra không chịu đua đả với mọi người về những tiện nghi vật chất, thì nhà văn ấy lại vẫn mở rộng lòng đón Tết, và cũng đủ hồi hộp rung động trước cảnh xuân sang.
Qua văn ông, người ta đọc ra những cảm giác thiêng liêng mà có lẽ người Việt nào cũng trải qua, cái thiêng liêng nảy sinh trước tiên do bắt gặp những vận động tự nhiên của trời đất, nhưng lại càng thiêng liêng vì được cùng với người thân sống lại những phong tục tập quán đã được cộng đồng dân tộc hình thành qua ngàn năm lịch sử.
Những chiếc bánh chưng hay là nét đẹp của phong tục.
Những ai từng đọc Hà Nội băm sáu phố phường hẳn nhớ những tinh tế của ngòi bút nhà văn trong việc ghi lại các món ẩm thực hình thành của người dân thường Hà Nội. Trong khi quan sát mọi người chuẩn bị đón Tết, Thạch Lam cũng không quên nhắc lại những phong tục có tự ngàn đời, như việc gói bánh chưng chẳng hạn.
“Ồ, chiếc bánh chưng vuông vắn và đầy đặn, màu xanh như mạ non, gạo nhiễn ra như bông tuyết và giữ trong lòng bao nhiêu quý báu của miếng ngon: lượt đậu mịn và vàng đậm, những miếng mỡ trong như hổ phách, những miếng nạc mềm lấm tấm hạt tiêu. Và thoang thoảng một một chút mùi cà cuống, gắt như cô gái chua, sắc như mũi kim lạnh”.
Trong những đoạn văn như thế, người ta không chỉ thấy sự thành thạo trong chuyện ăn uống, mà còn bắt gặp sự nhạy cảm riêng của tác giả trước cái quan niệm hàm chứa đằng sau các món ăn: Với người Hà Nội thanh lịch, mọi chuyện không được phép qua loa lấy lệ, hoặc xô bồ tùy tiện thế nào cũng được, mà phải kỹ lưỡng thận trọng, tuân theo những luật lệ nghiêm khắc và chắc chắn, bao giờ cũng gửi vào đấy một ý niệm về vẻ đẹp.
Từ đấy, toát ra cái tinh thần của một nền văn hóa độc đáo mà theo tác giả, nếu không bảo nhau giữ gìn, ta sẽ đánh mất.
Phố xá với những sắc đa dạng
Sau khi tự nhận rằng chỉ chuẩn bị cho Tết ở mức tối thiểu, Thạch Lam kể:
“Thế rồi hai tay bỏ trong túi áo - và cầu trời cho thời tiết hơi rét và hơi mưa bụi, tôi lẫn trong đám đông xuôi ngược trên hai bên hè phố”. Nói cách khác, niềm vui của ông là được đi ngắm cảnh thiên hạ đón Tết. Trong tầm nhìn của ông, có cây cảnh phố xá, lại có đủ loại mặt người. Trầm lặng và như muốn lẫn đi giữa chung quanh, song con người ông vẫn có sức bao dung rất lớn.
Qua những truyện ngắn như Cô hàng xén, ta biết rằng Thạch Lam rất hay nói tới sự nhẫn nại, sự hy sinh. Thì ngay khi đi trên đường phố nhộn nhịp, ông cũng không quên điều đó.
“Các thiếu nữ trong ngày sắm Tết có rất nhiều vẻ đáng yêu. Đi đâu mà vội vàng thế? Về chậm sợ mẹ mắng hay sao? áo quần không kịp trang điểm, mái tóc không kịp vuốt ve, cho nên có một vẻ lơ đễnh, một vẻ xuềnh xoàng khả ái! Giờ này là giờ các cô đảm đang, đi mua đi bán, đem cái vui vẻ cho em trai và mẹ già, các cô hết lòng lắm. Chen lấn vào đàm đông, không sợ bị chèn ép xô đẩy. Đi guốc cao cho khỏi lấm gấu quần. Và nhất là tự nhiên và dung dị”.
Với tư cách tác giả Nhà mẹ Lê, Gió lạnh đầu mùa, Thạch Lam dành ít dòng để nói về Tết của người nghèo:
“… Ở ngoài bãi sông, Tết lại có một vẻ riêng đặc biệt. Trông đứa bé đội mũ bông, áo mới dài và rộng, đeo chiếc khánh mạ vàng, nhặt ngòi pháo đốt, thấy cả cái Tết ái ngại và nho nhỏ của cả một vùng”.
Và đây nữa, một nét Tết Hà Nội, dưới con mắt Thạch Lam:
“Đêm 29 Tết, vào giờ trước giao thừa… có ai lên trước chợ Đồng Xuân, để nhìn những cái gì còn lại, những cái gì bị khinh bỉ từ chiều? Những cành đào xấu xí, ít hoa; những bát thủy tiên tơi tả, đã chuyền tay hết người này sang người khác mà không được ai mua, những chậu cây cúc và thược dược rã rời và lấm đất. Dưới mưa bụi, bùn đã vấy lên trên những cành đào, mai rải rác trên đường, bao nhiêu bàn chân dày xéo (…). Để trang điểm cho những căn buồng tiều tụy, những căn nhà lá nghèo nàn ở các ngoại ô đối với nhiều người, tuy xấu xí tơi tả mặc dầu, những thứ ấy cũng vẫn là biểu hiện của ước mong, của trông đợi”.
Một nét thần thái
Rồi bao nhiêu chuẩn bị đã xong, điều mọi người háo hức chờ đợi, mùng một, mùng hai, những ngày Tết thực thụ đã tới với bức tranh thiên nhiên thoảng qua một chút xao động lẫn những cảnh tượng sinh hoạt như ngàn đời vẫn vậy: Thạch Lam không nói gì khác những điều ai cũng biết, ấy vậy mà đọc ít dòng ghi chép của ông, người ta vẫn cảm thấy như tất cả vừa được nhận ra lần đầu.
“Qua bãi cát rộng, con sông ngày Tết từ từ trôi mấy bông hoa nát không biết ở đâu về. Đây Tết rải rải khắp ven bờ. Một cái bến vài con thuyền đỗ, thế là cũng có khói hương cũng có hoa đào và xác pháo (…)
Ngoài trời lại mưa bụi. Xuân có vẻ đè nén, bao bọc và dằng dai:
Ngõ trúc lùn tùn tun ngọn trúc
Mưa xuân lún phún lụn ngày xuân.
Không hiểu tại sao hai câu thơ không nhớ của ai ấy thật đúng cái cảm giác tôi có lúc mùa xuân”.
Câu chuyện về những ngày Tết dưới con mắt Thạch Lam tới đây đã có thể dừng lại. Song có một điều người đọc không khỏi vương vấn:
Hình như nhân nói về một ngày lễ cổ truyền, Thạch Lam vừa động chạm tới một cái gì lớn hơn thuộc về thần thái của sinh hoạt cộng đồng, nghĩa là những yếu tố trường tồn trong thời gian. Và ai cũng muốn thử cắt nghĩa tại sao đến nay nhiều người còn rất thích văn Thạch Lam, có lẽ phần nào tìm được câu giải đáp: Lớn lên trong cảnh đất nước bị thực dân thống trị, song lại tiếp nhận được một cách nhuần nhị nền văn hóa Pháp, Thạch Lam (cũng như nhiều đồng nghiệp đương thời) đã biết hướng toàn bộ tâm tình vào việc yêu mến, tìm hiểu, khám phá cốt cách dân tộc. Mà cái cách trở về với dân tộc của Thạch Lam thì chân thành và cảm động. ở đây mọi tình cảm không ồn ào song lại rất thấm thía, càng hiểu cái nghèo túng chật vật của hoàn cảnh người ta cảm thấy nặng lòng với đất nước đã nuôi nấng mình lớn lên. Đó là cách nhìn, là tấm lòng của những trí thức chân chính.
MỘT SỐ BÁO TẾT
Trong thời kỳ hưng thịnh của mình Tự lực Văn đoàn có hai cơ quan ngôn luận là Phong Hóa và Ngày Nay: Phong Hóa xuất bản sớm hơn mang tính cách mở đường, nhiều khi ngả sang đấu tranh gay gắt. Trong khi, Ngày Nay được hình thành muộn hơn và do đó, đằm hơn, chín hơn.
Tên tuổi Thạch Lam đã xuất hiện trên Phong Hóa nhưng với Ngày Nay mới thật là cuộc trình diện đầy đủ. ở đây, có thời gian ông làm thư ký tòa soạn, lo việc sắp xếp bài vở và thực sự đã mang lại cho tờ báo một sắc thái riêng: sắc thái của một ấn phẩm chuyên về nghệ thuật.
Công việc chuẩn bị cho những số báo Tết càng cho thấy rõ điều đó.
Nhìn vào Ngày Nay số 198, số Tết 1940, trước tiên chúng ta bắt gặp mấy lời rào đón mà dù Thạch Lam không ký tên, ta cũng đoán ra chỉ ông mới viết như thế.
Ông thận trọng giới thiệu bức tranh phụ bản mang tên Dưới hoa do Trần Văn Cẩn vẽ, cho thấy rằng đây là “Một bức vẽ có giá trị, những nét uyển chuyển hợp với các màu nhã và êm dịu”, bởi lẽ, qua những hình ảnh được phác họa “hai thiếu nữ, tóc còn buông xõa, mình hơi gầy vì còn non trẻ đứng tựa dưới cành hoa phù dung” người ta có được “một cảm giác mát mẻ và tươi sáng”.
Ông dừng lại kỹ hơn ở bức tranh dùng làm phụ bản cho báo, bức Ba thiếu nữ của Tô Ngọc Vân. Nói về một tác phẩm mà như Thạch Lam gọi ra cái thần của người nghệ sĩ (cố nhiên đây là Tô Ngọc Vân trước 1945): “trong nét bút và màu sắc của họa sĩ này, có phảng phất một đằm thắm xác thịt, một tình yêu các hình thể nõn nà vừa đến độ nẩy nở. Một vài đường nhịp nhàng và hoạt động, sự hòa hợp của vài màu tươi thắm, thế là họa sĩ đủ khiến chúng ta có một cảm giác hơi say mê và ân ái. Và nhận thấy cùng một lúc cái nghệ thuật chắc chắn và cái thông minh ý nhị của họa sĩ”.
Tiếp đó, Thạch Lam trình bày qua về cách sắp xếp bài vở, về những khó khăn trên các phương tiện in ấn mà tòa soạn đã phải tìm cách vượt qua để mang lại cho tờ báo một tính cách hoàn hảo.
Đọc những dòng này, ai người có lúc vào trong hậu trường bếp núc của việc làm báo Tết, ắt hẳn cảm thấy được thông cảm: ra cái sự làm báo Tết, thời nào cũng vậy. Không phải ngẫu nhiên mà trong một bài viết ở số Tết ấy, Thạch Lam lấy câu cách ngôn Ả Rập sau đây làm đề tài:
Hưởng, đấy là khôn ngoan;
Khiến hưởng, đấy là đức hạnh.
Đặt vào hoàn cảnh của số báo, câu này có nghĩa: làm cho người khác vui, chuẩn bị những món thức ăn tinh thần ngon lành thanh sạch cho bạn đọc thân yêu, đấy là đạo đức của người làm báo. ở chỗ này, mỗi người cầm bút giống như nhiều nhân vật phụ nữ trong văn Thạch Lam, những người chí chút kỹ càng, lấy sự tận tụy hy sinh làm lẽ sống của chính mình.
Chẳng những đứng ra đạo diễn chung cả số báo, mà nhiều lần, khi làm báo Tết, Thạch Lam cũng đã góp vào đấy những bài viết riêng. Có khi ông viết về tục đi hái lộc, tục gói bánh chưng, có khi ông trình bày những suy nghĩ riêng về những bức tranh Đông Hồ - vốn là một “tài sản” của vùng Kinh Bắc xưa. Có khi đơn giản hơn mà cũng trực tiếp hơn, ông trình bày những suy nghĩ của mình về mấy ngày Tết. Có vẻ như ông muốn chia sẻ với chúng ta một ít tâm tình và gợi ý: nên hiểu nên sống mấy ngày Tết ra sao.
Bài viết Nghệ thuật ăn Tết tiếp sau đây là một trong những trường hợp đó.
Tuy ngắn, song Nghệ thuật ăn Tết được viết chặt chẽ, súc tích và mang đầy đủ ý vị riêng vốn có ở ngòi bút Thạch Lam, một ngòi bút thiên về cảm giác và thường có những xúc động giàu chất thơ.
Xin lưu ý thêm là cả mấy cái vi nhét nho nhỏ in kèm vào bài cũng là của chính Thạch Lam.
NGHỆ THUẬT ĂN TẾT
Hưởng, đấy là khôn ngoan; khiến hưởng, đấy là đức hạnh
(Cách ngôn Ả Rập)
Ngày Tết, đối với nhiều người, chỉ có thú vị khi nào nghĩ lại - Người ta thường hay cùng nhau nhắc tới những Tết năm ngoái, năm xưa với một vẻ mến tiếc âu yếm, lẫn với đôi chút ngậm ngùi. Nhất những Tết ngày còn nhỏ… Lúc ấy, cùng với những nỗi vui ngày Tết đã qua, còn vướng niềm thương tiếc tuổi niên hoa, cái tuổi mà người ta nhận là “vô tư lự”, ngây thơ và sung sướng.
Nhưng nỗi nhớ tiếc ấy chẳng ích lợi gì, mà lại ngăn chúng ta không toàn hưởng được thời khắc hiện giờ. Đậm đà, mạnh mẽ hơn bao nhiêu là sự hưởng thụ ngay hiện tại, thêm vào cái thú hưởng những giờ vui, cái thú vô song của sự mình biết mình đương hưởng.
Ngày còn ít tuổi, tôi không hiểu biết được cái thú uống trà. Chén trà thơm lúc đó như sao bằng được những mộng đẹp tôi đang mơ tưởng trong lòng. Bây giờ tôi đã có biết rồi - và thỉnh thoảng một buổi sớm hay trưa, nâng chén trà lên để nhìn qua hương khói. Hưởng hương vị chén trà thì ít, nhưng hưởng cái thú ở đời, và nhất là hưởng cái giờ khắc nghỉ ngơi, nhàn nhã, mà tự mình cho phép - (người ta chỉ có thể hưởng được cái khoái lạc của nghỉ ngơi, khi biết cái nghệ thuật nghỉ ngơi cũng như biết cái nghệ thuật làm việc).
Tôi hiểu là vô ích và điên dại cuộc theo đuổi mộng ảo không cùng, việc lần để ngày lại ngày hạnh phúc. Tôi hiểu rằng hoa nở sớm nay cũng tươi đẹp chẳng kém hoa nở ngày mai, thời tiết xuân nay êm dịp hơn xuân bao giờ hết, và trời trong cùng ánh nắng kia hiện giờ đã đẹp vô ngần…
Tết! Còn dịp nào trong đời ta nhiều thú vị vui tươi hơn nữa. Ngày Tết nhắc ta nhớ lại những Tết đã qua, và khuyên ta an hưởng ngay cái Tết bây giờ. Đêm giao thừa “thời gian qua nghỉ bước trên từng cao”[3] là giờ khắc say sưa êm dịu nhất. Hưởng mùi thơm thủy tiên, cánh hồng hoa đào nở, hưởng làn khói trầm vấn vít đủ lên cao. Hưởng đi, trong cái khoái lạc của sáng suốt, trong cái minh mẫn của tinh thần, trong sự thư thái thảnh thơi của lòng bình tĩnh. Tiếc thương như gia vị và mong mỏi như làm ấm nóng cái thú vô cùng.
Rượu sánh trong cốc pha lê trong trộn mùi khói pháo với hương thủy tiên. Tiếng pháo nổ vui từ nhà nọ sang nhà kia, liên tiếp, đi mãi vào trong đêm để làm vang động bầu không khí xuân của khắp cả các gia đình. Đó là tiếng hiệu lệnh của sự thông đồng chung hưởng.
Lúc đó mỗi nhà đều uống rượu thưởng năm mới. Rồi chiếc bánh chưng đầu năm mang lên, xanh mịn trên đĩa trắng. Bánh chưng gói khéo thì vuông và chắc rắn: gạo mềm và nhuyễn, nhân đậu và mỡ quánh vào nhau. Chỗ nạc thì tơi ra như bông gạo. Có nhà gói lắm nạc, nhưng nhiều mỡ vẫn ngon hơn: mỡ phần, chỗ giọi, lúc chín thì trong, và không có thớ. Bánh chưng kể mặn là phải vị. Nhưng có dăm bảy chiếc gói ngọt cũng hay. Chỉ khó làm sao cho đừng sượng, và đường với đậu phải biến với nhau mà thôi.
Tưởng lúc xén đũa đưa miếng bánh chưng lên, thoảng mùi lá dong thơm và mùi nếp cái, ăn với dưa hành trong như ngọc thạch, hoặc với củ cải đậm và ròn như pháo xuân! Đó là tất cả hương vị của cái tết An Nam, ngày nay và ngày xưa.
Sáng mồng một, chúng ta uống rượu và ăn mứt. Rượu hẳn là phải rượu tây: những thứ vang cũ ngọt như Porto, nồng chua như Vermouth, hay say như Cognacq. Uống những thứ ấy thích hơn liqueurs. Nhưng sao ta không có rượu ngon của ta? Tiếc vì bây giờ cái gì của người mình cũng vụng về và giả dối. Còn đâu thứ rượu cau có tiếng ở Hoàng Mai, thứ rượu cúc nổi danh ở tỉnh Bắc? Cái hào nhoáng, cái lộng lẫy bề ngoài đã thay cái chân thực, cái cẩn thận của người xưa. Đơn sơ và cẩu thả đã cướp chỗ của tốt bền, ở tất cả những sản phẩm của nước mình.
Mứt ngày trước cũng ngon và khéo léo hơn mứt bây giờ. May gần đây, sự làm đã khá. Đã có mứt sen Cự Hương, mứt khoai Việt Hương, vị cũng nhã, mà trình bày lại sạch sẽ, tinh tươm. Đem làm quà ngày Tết kể cũng tạm được.
Mứt phải đủ ngũ vị: ngọt, bùi, đậm, béo và cay. Thứ mứt gừng cay là quý nhất. Chỉ tiếc thay mứt gừng ngoài Bắc thô và mạnh quá. Tôi ước ao được một ngành mứt gừng ở trong Trung - mứt gừng của Huế, làm bằng mầm gừng non và cả nhánh, trong như ngọc và cay, mềm dịu cũng như con gái Huế.
Thế rồi đi du xuân ngày mồng một, nhìn cây nêu phấp phới trước các nhà, tiếng khánh sành reo theo gió. Một cuộc hòa nhạc của sắc màu: quần áo mới của bầy trẻ, xác pháo đỏ trên gạch rêu, màu hồng nhạt hay đỏ tươi của câu đối giấy dán trên cổng, và màu củ cẩm (hay cánh sen) trên những tranh tết - nhất cái màu tím mát ấy, màu của đất nước An Nam, của thời xưa chân thật mà không bao giờ nhìn tôi không thương nhớ ngậm ngùi…
Trong lúc đó, trời xuân đầy mây thấp và gần gụi, thời tiết êm ả như đợi chờ, gió xuân nhẹ như hơi thở, và cây cối đều nở mầm non, lộc mới - tất cả cái gì như đầm ấm, như dịu dàng. Còn hưởng cái thú nào man mác và thanh cao hơn nữa?
Cho nên ngày Tết, tôi mong các bạn cùng vui vẻ tươi sáng như ánh mùa xuân, trong khi lần giở những trang của tập báo vì các bạn này.
CÁI ĐẸP NHÂN HẬU
Không phải nhà văn tiền chiến nào cũng thích nói đến cái đẹp. Đọc các truyện ngắn truyện dài của Nguyễn Công Hoan hay cả loạt phóng sự và tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng, người ta thấy cái đẹp hầu như vắng mặt. Có vẻ nó giống như một thứ hàng xa xỉ, không dây dưa gì đến cuộc đời nhếch nhác này, và để được chân thành trong câu chuyện, tác giả ngầm bảo rằng, tốt hơn hết là không nên nhắc tới nó làm gì (!?)
ở một ngòi bút như Thạch Lam (cũng như ở Khái Hưng, Nguyễn Tuân, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh…) thì tình hình hoàn toàn ngược lại.
Từ những bài báo nhỏ đến những truyện ngắn cô đọng, viết văn với Thạch Lam đồng nghĩa với việc săn sóc tới cái đẹp, và nhắc nhở về sự có mặt của nó với mọi người. Ông nói tới vẻ đẹp trong thiên nhiên: buổi trưa vắng vẻ ở một làng quê hay ban mai yên ả ở một xóm nhỏ trung du (Dưới bóng hoàng lan, Nắng trong vườn). Ông nói tới vẻ đẹp hồn hậu trong xúc động đơn sơ của một thanh niên lần đầu làm cha, hoặc cái cảm giác lạ lùng của mấy em nhỏ trong một ngày chớm rét (Đứa con đầu lòng, Gió lạnh đầu mùa). Đối với những con người khiêm nhường mà cuộc sống bị đè nặng bởi những lo toan hàng ngày, Thạch Lam biết tìm ra những nét tính cách cao quý, nó là nhân tố làm cho người ta tồn tại và nhờ vậy, lại toát lên một vẻ đẹp riêng (Nhà mẹ Lê, Tối ba mươi). Một nét quán xuyến trong cách nhìn đời của Thạch Lam: tác giả luôn luôn mách thầm với chúng ta rằng vẻ đẹp là một cái gì chỉ hiện ra mong manh thấp thoáng nên dễ bị bỏ qua. Ông viết trong Theo dòng: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật tầm thường. Công việc của nhà văn là phải hiểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ, tìm cái đẹp kín đáo bị che lấp trong sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”
Quan niệm cổ điển và một thoáng gặp gỡ Đông Tây
Năm 1940, khi Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được in ra lần đầu, Thạch Lam sớm có bài giới thiệu quyển sách trên báo Ngày Nay (số ra 15-6-1940). Bài báo đáng được lưu ý, không phải chỉ vì nó đã nói đúng về Nguyễn Tuân mà còn là một dịp để Thạch Lam tự bộc lộ. Chỉ trong khuôn khổ chưa đầy 1000 chữ, ông đã 5 lần nhắc tới cái đẹp và những từ ngữ ông dùng để đi kèm chính là những thuộc tính mà theo ông có liên quan tới cái đẹp chân chính. Đó là vẻ nên thơ, sự cao quý, cái có ý nghĩa rồi cả sự khoáng đạt và một chút nồng nàn. Cũng có đến mấy lần ông nhắc lại hương vị cũ kỹ và nhẫn nại của một sự hy sinh hoặc tâm tình yêu mến dĩ vãng, tiếc thương và muốn trở lại những vẻ đẹp đã qua.
Cũng từ đây, người ta đọc ra một quan niệm về cái đẹp mà tác giả Gió đầu mùa theo đuổi. Trưởng thành từ một cốt cách học trò, người viết văn này dễ rung động với những gì thấp thoáng, dịu nhẹ. Ông tỏ ra xa lạ với những vẻ đẹp chói chang, quyến rũ, hoặc là cái lỗi có gì mang bày hết cả ra ngoài, phô phang lộ liễu. Hình ảnh mà ông thích nhất là bông mai trong trắng. Trong sự kín đáo và ẩn nhẫn biết điều, vẻ đẹp ông hay nói tới thường hàm chứa một sức sống tiềm tàng. Một quan niệm như thế phải nói là có nhiều chất cổ điển. Giữa thế kỷ của văn minh công nghiệp trong cái thời mà máy móc và các mốt thời trang bắt đầu du nhập và ngày càng bành trướng trong xã hội, văn chương Thạch Lam có vẻ là một thứ dòng nước ngược đưa người ta trở lại với quan niệm về cái đẹp của phương đông hoặc gần gũi hơn, trong cách hiểu về cái đẹp thường thấy ở ông cha ta. Vậy đâu là tác động của yếu tố thời đại đến ngòi bút này? Thực ra ở đây yếu tố thời đại vẫn có, nhưng cách ảnh hưởng của nó tới Thạch Lam lại có những nét đặc trưng riêng. Nên nhớ là giữa nền văn hóa phương Đông cổ truyền không phải chỉ có khác biệt mà còn có nhiều nét chung. Văn hóa cổ điển Pháp cũng nổi tiếng vì sự trong sáng, sự tinh tế và tinh thần nhân bản. Thứ nữa khi tiếp nhận nền văn hóa này, lớp người như Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Xuân Diệu, hoặc Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân… đã đứng vững trên mảnh đất quê hương ruột thịt. Trong sách vở mà nhà trường dạy học cũng như trong những quyển sách họ đọc ở ngoài đời có những lời lẽ khuyên họ phải biết trở về với cội nguồn dân tộc. Về phần mình, trong sự sáng tác văn chương, Thạch Lam sớm tự xác định cho mình một con đường riêng. Ông cho rằng, có một công việc mà một ngòi bút tự trọng nên đảm nhận, đó là làm sống lại cái đẹp cái thực vốn là những tính cách cố hữu trong nền văn hóa cổ truyền. Người và cảnh ông miêu tả vì vậy thường có thêm chiều sâu trong thời gian. Cái đẹp được ông chắt chiu gạn lọc. Tuy không nói ra trực tiếp, nhưng từ những gì ông tha thiết, thấy toát lên một lời giáo huấn kín đáo: nếu không được trân tọng giữ gìn, cái đẹp vốn đã mong manh sẽ tan mất đi và chúng ta sẽ mãi mãi sống trong bơ vơ tiếc xót.
Nỗi buồn giấu kín
Nhưng có lẽ đặc tính đáng nhớ nhất của cái đẹp trong văn Thạch Lam ấy là nó thường được miêu tả với một nỗi buồn sâu xa. Cảm giác chính còn lại trong người đọc sau khi đọc nhiều trang sách, từ Gió đầu mùa đến Sợi tóc, là một cuộc đời mờ mờ xám xám. Hãy nhớ lại Cô hàng xén, thiên truyện bao quát gần hết cuộc đời của một con người. Những phiên chợ quê nhiều màu sắc, thoáng qua rất nhanh, cùng với những năm tháng tuổi trẻ, ấp ủ nhiều hy vọng của người con gái chăm chỉ và giàu tình thương gia đình. Rồi cái khía cạnh người ta nhớ hơn cả khi nghĩ tới Tâm, ấy là con đường từ chợ về nhà vắng vẻ, cùng những lo âu đè nặng tâm hồn cô trong cuộc sống hàng ngày. Ngòi bút Thạch Lam thường tỏ ra có sự nhạy cảm lạ lùng với những gì đã an bài hoặc những nếp sống đã trở thành mòn mỏi. Một buổi tối phố huyện, nhà cửa như thiếp dần đi trong ánh sáng những ngọn đèn dầu leo lét. Những điệu hát xẩm vẳng lên trong một xóm nghèo. Mấy bức tranh dân gian màu sắc đạm bạc. Cảnh tết sơ sài ở một xóm nhỏ ngoại thành… Thạch Lam bằng lòng chấp nhận cuộc sống như nó đang có, nhưng vẫn không thôi tự nhủ lẽ ra nó phải khác kia, làm sao nó lại chỉ như chúng ta đang thấy! Một cảm giác bao trùm còn lại: Đời đẹp và buồn. Và nhờ gắn với cái buồn, cái thực, mà vẻ đẹp trong văn Thạch Lam lại có được sự sống riêng. Nó trở nên bền chắc. Nó không lẫn đi giữa những vẻ đẹp nhạt nhèo mà những cây bút tầm thường mang ra để an ủi bạn đọc. Cái thủa thanh bình xa vắng tác giả Gió đầu mùa hay nói tới giờ đã qua đi từ lâu, song sống trong tấp nập ồn ào, các thế hệ đến sau vẫn có thể tìm thấy ở cái vẻ đẹp cổ điển mà Thạch Lam hay nói tới một sự đồng cảm. Cổ điển ở đây đồng nghĩa với sống mãi.
THẠCH LAM: CỐT CÁCH MỘT TRÍ THỨC MỚI
I. Thạch Lam cho in tập truyện ngắn đầu tay của mình vào năm 1937 và qua đời vào năm 1942. Sự nghiệp sáng tác của ông như vậy chỉ kéo dài độ khoảng 5 - 6 năm. Trong cái thời gian ngắn ngủi ấy, khối lượng chữ nghĩa ông đã viết không thể gọi là nhiều. Tuyển tập Thạch Lam in ra ở Hà Nội 1988 dày 332 trang, khổ 15×22. Chúng tôi dự đoán: may lắm, tất cả những gì đứng tên Thạch Lam chỉ gấp độ hai lần cuốn tuyển tập đã in, không thể hơn được (1).
Ấy vậy mà trong tâm trí chúng ta, cái tên Thạch Lam vẫn tạo nên một ấn tượng sâu đậm. Trong số những  lý do tạo nên hiệu quả như vậy, có điều quan trọng này: Thạch Lam đã xây dựng được cái thế giới riêng của mình, một thế giới bé nhỏ, hạn hẹp - thậm chí, đôi lúc chúng tôi còn muốn nói nghèo nàn nữa - nhưng là một thế giới độc đáo không lẫn với ai. Thế giới ấy lặp đi lặp lại từ truyện nọ sang truyện kia. Thế giới ấy có cái vẻ riêng, những âm thanh riêng và nhất là cái nhịp điệu riêng của nó.
Chẳng  hạn, hãy nói về chuyện trời đất, khí hậu. Đọc Thạch Lam, rất ít khi người ta bắt gặp mùa hè. Cũng gần như không có ngày xuân nữa, nếu không phải là thứ ngày xuân mưa phùn gió bấc, tức là mùa đông còn sót lại. Bối cảnh được tả trong Tiếng chim kêu: “một đêm mưa phùn ẩm ướt và tối tăm về cuối tháng chạp” (Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, 1988, tr. 48 - các số trang nhắc sau đây đều lấy từ Tuyển tập này). Mấy câu mở đầu của Đói “Một cơn gió lọt vào làm Sinh tỉnh giấc. Anh thấy cái hơi lạnh của mùa đông thấm qua làn chăn mỏng” (tr.62). Một câu ở giữa Người đầm “Lúc chớp bóng tan, trời bắt đầu mưa bụi và gió lạnh” (tr.99). Đây nữa, những câu mở đầu Cuốn sách bỏ quên (tr.117), Gió lạnh đầu mùa (tr.90) Người lính cũ (tr. 75), Một cơn giận (tr.43) và khung cảnh được khắc họa đầu phần hai tiểu thuyết Ngày mới (tr.221). Một cái gì giống như vô thức đã chi phối tác giả, khiến ông tự lặp lại mình, mà không hay biết.
Cố nhiên, gắn liền với cái thời gian của se lạnh, của tái tê, buồn bã ấy, là một không gian u tịch và dù ở thành thị hay nông thôn, không gian đó thường có rất nhiều khoảng tối. “Chung quanh tôi, cái đen tối của đêm khuya dày dằng dặc” (tr. 79). “Diên nấc lên một tiếng rồi chạy trốn vào trong bóng tối của buổi chiều vừa xuống” (tr.116). “Nàng cúi đầu đi mau vào trong ngõ tối” (tr.146). “Ngoài đường trời hãy còn mưa, mưa buồn rầu và âm thầm trong tối” (tr.132). “Trường qua một cái cửa hẹp. Bóng tối bao bọc lấy chàng như một tấm màn lạnh lẽo” (tr. 221). Quả có như Phong Lê nói, ”Những khoảng tối” và sức gợi của nó thường trở đi trở lại nhiều lần trên trang văn của Thạch Lam. (Lời giới thiệu, tr.15). Để xác định cái trục thời gian - không gian mà ở đó nhân vật Thạch Lam hoạt động người ta chỉ còn có cách dùng những chữ: buồn, xám, nhợt nhạt, và… vô vọng. Vâng, vô vọng, không lối thoát, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Kể ra, ở một thiên truyện như Dưới bóng hoàng lan, còn thấy có mùa hè, những tiếng reo vui, một ít ánh sáng, nó khiến cho bóng tối thì dịu dàng mà không buốt lạnh. Nhưng đặt vào toàn bộ sáng tác của Thạch Lam nói chung, thì nó lại đứng riêng ra, như một trang sách sắp lạc. Đúng hơn, cái mơ màng trong Dưới bóng hoàng lan có vẻ như không có thực. Nó chỉ là một kỷ niệm. Chẳng qua, trước cơn xô đẩy của trường đời (một sự xô đẩy khiến nhân vật chính là Thanh “cảm thấy mình bé quá và lại đi xa”), người ta phải gắng tìm lấy một chỗ dựa về mặt tinh thần. Nhưng có chắc là chỗ dựa ấy bền vững không, không ai dám nói! Thành thử bên cạnh phần bóng tối miên man không dứt trong tác phẩm Thạch Lam, cái điểm tươi sáng mà thiên truyện Dưới bóng hoàng lan gợi lên thật cũng chẳng khác gì những kỷ niệm thời thanh xuân còn rơi rớt lại trong nhân vật cô hàng xén mang tên Tâm. Dù những ngày chợ búa có bừng lên rực rỡ và nhiều màu sắc đến đâu, chúng cũng chỉ là một quãng thời gian ngắn ngủi. Bởi phần chính trong cuộc đời ấy là một cái gì nhạt nhòa, âm điệu chính của cuộc đời ấy là một cái gì mòn mỏi. Mà đó không phải là trường hợp riêng của Tâm trong Cô hàng xén. Số phận những Mai (Trong bóng tối buổi chiều), Liên (Một đời người), Dung (Hai lần chết), nhân vật xưng tôi trong Người bạn cũ v.v… đều thế cả. Trước Nam Cao khá lâu, Thạch Lam đã bày ra cho thấy những kiếp sống mòn. Ông không đi vào một trường hợp nào thật sâu, thật kỹ. Nhưng ông thấy nó ở khắp nơi. Nó là quá khứ, là  hiện tại, lại cũng là  tương lai. Nó là cái mẫu số chung làm nên cuộc sống nhiều người. Đứng về mặt kết cấu mà xét, trong vẻ đa dạng của đời sống, người ta thường bắt gặp trong tác phẩm Thạch Lam những truyện ngắn dựa trên tình thế chung là cả cuộc đời nhân vật. Cuộc đời ấy đồng thời là một quá trình chuyển cảnh, sự di chuyển lặng lẽ, nhưng rõ rệt; trong cuộc đời ấy, ánh sáng cứ nhạt dần, con người cứ héo hon dần, cho đến khi chính họ mất hút đi trong bóng tối. Riêng trong Hai đứa trẻ, thì sự biến chuyển xảy ra chỉ trong thời gian ngắn, gói gọn trong một buổi chiều, nhưng cái hướng biến chuyển cũng đã rất rõ. Đầu truyện còn thấy có ánh sáng; cuối truyện, bóng tối đã quánh đặc lại. Trong bóng tối một vài biểu hiện của sự sống có được khắc họa như những điểm sáng linh động (mấy người phu ngồi hàng nước, gia đình bác xẩm và cả chuyến tàu nữa, chuyến tàu “rầm rộ đi tới”). Nhưng rồi chúng cũng tan biến, nhường chỗ cho bóng tối càng đặm đặc và chắc chắn hơn. Từ điểm này mà quy kết lên, có thể bảo Thạch Lam là nhà văn bi quan bậc nhất trong giai đoạn văn học trước 1945. Nhiều lần, trong các thiên truyện, nhân vật của ông biết rằng lẽ ra họ phải kêu to lên, đứng thẳng lên phản kháng, song họ lại “lờ mờ cảm thấy… không đủ can đảm… không đủ quả quyết với chính mình” (tr. 73). Đức hy sinh, thói quen nhẫn nại cam chịu có làm cho các nhân vật này có phần cao quý hơn (chúng tôi sẽ trở lại điều này ở một đoạn sau) nhưng mặt khác cũng làm cho họ bé nhỏ đi. Trong các nhân vật không có cái xu thế chống trả quyết liệt lại hoàn cảnh mà người ta coi là một đặc điểm phải có của nhân vật tiểu thuyết (có lẽ vì thế mà tiểu thuyết Thạch Lam hay bị chê là đọc kém hấp dẫn?) Nhưng nên nhớ rằng sự chọn lựa của các nhà văn không bao giờ chỉ là việc riêng của các nhà văn đó mà chắc chắn còn biểu hiện sự chọn lựa nào đó của cộng đồng, của xã hội. Trong lúc chưa giải thích được đầy đủ ý nghĩa cái nhìn bi quan của tác giả Cô hàng xén, chúng ta hãy ghi nhận nhà văn đã lựa chọn, đã có cách nhìn riêng và đã trung thành với chính mình. Cùng với lối sắp đặt không gian thời gian đã nói, lối miêu tả con người như thế này là đặc trưng cho văn xuôi Thạch Lam, nó cũng là một phương diện làm nên thi pháp Thạch Lam, nếu như chúng ta muốn đi tìm cái thi pháp đó.
II. Để hiểu rõ thêm hình ảnh con người được miêu tả trong văn Thạch Lam nói chung có một điểm phải dừng lại kỹ hơn: hình ảnh của tác giả với tất cả những biến điệu của hình ảnh ấy qua các tác phẩm.
Trong công việc này, người nghiên cứu Thạch Lam có một may mắn: Văn xuôi Thạch Lam là một thứ văn xuôi giàu chất tiểu sử.
Trong cuốn Hồi ký về gia đình Nguyễn Tường in ở Sài Gòn trước 1975, bà Nguyễn Thị Thế, người chị kề với Thạch Lam kể rằng: Về quê ngoại ở Cẩm Giàng, gia đình bà xin được một khoảnh đất ngay phố huyện, đằng sau nhà là đường xe hỏa. Nhà vắng, hai chị em chỉ mong có chuyến tàu sau nhà là chạy ra xem. Họ ở giữa một xóm chợ toàn người Hà Nam - Phủ Lý. Các gia đình đó, người làm nghề kéo xe làm mướn, như nhà bác Đối, người đánh cá, vớt tép như nhà mẹ Lê. Vẫn lời bà Thế kể: Bà tôi dù trong nhà còn ít gạo mà thấy chị Lê đem rá sang, thưa cụ bố cháu mấy hôm nay ốm không đi làm được, các cháu đói từ sáng đến giờ chưa có gạo thổi cơm, là bà tôi còn bao nhiêu gạo đem cho hết. Rồi gia đình bà Thế  lại chuyển từ Cẩm Giàng xuống Tân Đệ, ở Tân Đệ một năm mới lên Hàng Bún Hà Nội. Đối chiếu giữa lời kể đó với các chi tiết trong truyện ngắn Thạch Lam, thấy mọi chuyện gần như hoàn toàn trùng khít. Thạch Lam đã chỉ viết những gì mà bản thân ông từng sống.
Nhưng đấy vẫn chưa phải là điều quan trọng nhất.
Chất tiểu sử trong văn xuôi Thạch Lam, bộc lộ ra trước tiên là ở nhân vật.
Thế giới trong Thạch Lam sở dĩ hằn lên rõ rệt, trước tiên vì ở đó hiện lên hình ảnh một con người thống nhất. Dù viết chuyện chính mình trải qua hay nghe người khác kể lại (1), tác phẩm vẫn trở thành một thứ chân dung tự họa của nhà văn, bất kể ông muốn hay không.
“Trước ngọn gió đầu mùa, tôi không khỏi ngăn được những cảm giác sâu xa và mới lạ. Tôi đem tâm nghĩ ngợi đến những cơn gió đột khởi của lòng người, báo trước những sự thay đổi trong cái bí mật của tâm hồn” (V.T.N. gạch dưới). Trong lời nói đầu viết cho Gió đầu mùa, Thạch Lam hé ra cho thấy con người nhà văn trong ông như vậy. Và đó cũng là hình ảnh của ông mà người đọc tiếp nhận được qua tác phẩm. Ông thích yên lặng, thích đằm mình trong những suy tưởng riêng tư. Bởi đời sống, với ông, là một cái gì thiêng liêng, nên chi cách sống của ông là cách sống của một người rất kỹ tính. Chẳng những mọi suồng sã trong tình cảm, mọi xô bồ hỗn tạp trong giao tiếp xa lạ với ông, mà cả những lối sống, lối nghĩ hời hợt, nhợt nhạt, theo ông đều là không thể chấp nhận được. Trong quan hệ với mọi người, ông có những nguyên tắc chặt chẽ: không ai có thể hiểu hết người khác. Mọi lời nói ra đều bao hàm những điều chưa nói hết. Cuộc sống mãi mãi còn những bí mật. Nhưng sự quan tâm tới mọi người, tình thương với đồng loại, cả những phút se lòng trước đau khổ của những kiếp sống chung quanh chỉ là điều bắt buộc, thiếu nó, người ta không còn là người ta nữa. Trong chừng mực nào đó, hình ảnh con người Thạch Lam hiện lên qua tác phẩm có những nét tương đồng với con người Tchékhov  mà các nhà văn học sử đã mô tả. :“ý nhị nhưng buồn rầu, tốt bụng nhưng lạnh lùng, vị kỷ nhưng nhạy cảm với nỗi đau khổ của con người, Tchékhov cống hiến đời mình cho văn học và y học. Làm say mê lòng người nhưng lòng mình lại buồn chán”.
Sự buồn chán nói ở đây (và rộng hơn một phần cái nhìn bi quan nói ở trên) thật ra là đồng nghĩa với sự lương thiện. Chỉ có những người hết lòng với cuộc sống mới cảm thấy hết ý nghĩa buồn chán của nó.
Vả chăng, trong Thạch Lam cũng như trong các nhân vật của ông, sự buồn chán không hề dẫn tới thái độ buông xuôi, hoặc lối sống lưu manh tùy tiện. Khi là một người thợ, khi khác một công chức, một cô hàng xén thậm chí một cô gái trông hàng cho mẹ, song các nhân vật của Thạch Lam có chỗ giống nhau: họ đều là những người tận tụy với nghĩa vụ làm người của mình, ở họ, có sự lương thiện, sự trong sạch, dấu hiệu của một đời sống nội tâm ổn định. Trong khi có vẻ như là chịu đựng, thậm chí như là đầu hàng, người ta lại thấy toát lên ở các nhân vật ấy một khí phách cứng cỏi: họ vẫn là mình; không hoàn cảnh nào bẻ gãy nổi họ.
Hợp cả lại, bấy nhiêu sự tận tụy, sự trong sạch, sự cứng cỏi làm cho nhân vật của Thạch Lam có một nét chung này: sự cao quý.
Từ các truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, qua các tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, chúng ta biết rằng trong xã hội Việt Nam trước 1945, có một loại tính cách rất phổ biến là tính cách lưu manh. Với những kẻ lưu manh ấy, cuộc sống mất hết vẻ thiêng liêng mà nó phải có. Khi đã lưu manh hóa, con người ta không thấy có sự ràng buộc nào hết. Luật pháp họ cũng coi thường. Kỷ cương, đạo đức với họ càng vô nghĩa. Họ chỉ biết có lợi. Vì chút lợi nhỏ các nhân vật trong những Tôi xin hết lòng, Răng con chó của nhà tư sản, Một tin buồn, Đồng hào có ma v.v... dám làm bất cứ việc khốn nạn nào. Vì những món lợi lớn hơn, Nghị Hách sẵn sàng nhúng tay vào những việc kinh thiên động địa, bất chấp cả lễ nghĩa và liêm sỉ. Đám lưu manh ấy chen nhau xô đẩy nhau mà sống, rút ruột nhau, phỉ báng nhau, hành hạ nhau. Và qua cách miêu tả của Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng họ ngày càng đông đảo hơn và trở nên đểu giả hơn. Các nhân vật của Thạch Lam thuộc vào một thế giới hoàn toàn khác. Trong khi những bác sĩ, kỹ sư, bà phán, ông Nghị, ông dân biểu ở Nguyễn Công Hoan và Vũ Trọng Phụng cũng cư xử như một lũ vô học đích thực, thì ở Thạch Lam, đến mấy cô điếm cũng có cốt cách sang trọng của người được giáo dục cẩn thận từ nhỏ. Trong Tối Ba mươi, ngay ở chốn lầu xanh bẩn thỉu, hai nhân vật Liên và Huệ vẫn  cúng tất niên một cách thành kính, như bất cứ một ông đồ có học nào. Mặc dù phải làm một cái nghề khốn nạn, nó cho phép người ta nguyền rủa cả loài người, song Huệ cũng như Liên vẫn rất gần gũi với những Tâm (Cô hàng xén), Mai (Trong bóng tối buổi chiều), và nhiều nhân vật phụ nữ khác trong Thạch Lam. Thậm chí họ hơi cổ nữa. Song đạo đức mà họ noi theo ở đây rõ ràng là một thứ đạo đức truyền thống đã bắt rễ sâu vào cuộc sống của những người dân thường trên mọi miền của xứ sở. Không phải ngẫu nhiên, năm 1940, khi Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân vừa in, Thạch Lam nhận ra ở đó sự gần gũi về mặt đạo đức. Trên báo Ngày nay, số ra 15-6-1940, ông khen ngợi Vang bóng một thời nói chung, đặc biệt Ngôi mả cũ nói riêng (“truyện ngắn hay nhất của toàn tập”) do chỗ nó gợi chúng ta cái hương vị cũ kỹ và nhẫn nại của sự hy sinh. Dường như đó cũng là lúc Thạch Lam nhận ra ở Nguyễn Tuân một người cùng chí hướng cùng quan niệm: đi tìm chỗ dựa cho con người ở những giá trị đã ổn định trong quá khứ.
Chính định hướng về nguồn ấy đã là một nét làm nên cốt cách trí thức của ngòi bút Thạch Lam, một yếu tố căn bản tạo nên sự độc đáo của Thạch Lam trong nền văn học 1930-1945 .
III. Cùng với các truyện ngắn, các tiểu luận của Thạch Lam cũng được viết ra một cách tâm huyết, ở đây, lại hiện rõ cái hình ảnh con người tác giả mà trên đây chúng ta đã thấy.
Chẳng hạn, khi tác giả nói tới hướng tìm tòi lẽ ra nên có ở mỗi người cầm bút chân chính:
“Công việc của nhà văn là phát biểu cái đẹp chính ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, cho người khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”. (tr. 294)
Lại chẳng hạn như khi tác giả dựng nên chân dung loại bạn đọc lý tưởng mà thời nào cũng hiếm:
“… Họ không cần chú ý đến cách xếp đặt và bố trí câu chuyện trong tiểu thuyết. Họ cần gì vai chính này về sau có lấy hay không cô thiếu nữ xinh đẹp kia? Họ cốt chú ý đến cách diễn đạt tâm lý của tác giả, có đúng hay không đúng, hời hợt hay sâu sắc. Vì vậy, họ dửng dưng với cái tốt, xấu của người trong truyện: cái tâm lý của một bậc thánh hiền” (tr. 293)
Hóa ra ở Thạch Lam không chỉ có sự rung động đến cực điểm, sự tinh tế, sự ý nhị, như người ta vẫn nói. ở ông còn có sự dũng cảm nữa. Dũng cảm vượt lên những gì bình thường. Dũng cảm trong những tìm tòi đơn độc mà chưa chắc lúc đầu, đám đông chung quanh đã thông cảm.
Theo một quan niệm dung tục nào đó đã thành lối mòn trong ý nghĩ, nói đến trí thức là người ta nói tới bệnh xa quần chúng, cùng là thói dao động. Với Thạch Lam, chữ trí thức có một nghĩa khác. Trí thức là những người có sứ mệnh đi tìm sự thật. Trong khi có vẻ tách xa nhân dân, đi trước nhân dân, thực ra họ lại hết lòng vì nhân dân. Phải nói chính trí thức là lương tâm của nhân dân nữa, như cách hiểu của Tchékhov.
Mặc dù là một thành viên chủ chốt của Tư Lực Văn Đoàn, và là em ruột của Nhất Linh, Hoàng Đạo, nhưng, đúng như các nhà văn học sử lâu nay đã lưu ý, Thạch Lam vẫn có cách tồn tại của một nhà văn độc lập. Chỗ khác giữa ông với các tác giả Đoạn tuyệt, Con đường sáng không phải chỉ ở trong thái độ đối với các vấn đề của đời sống bấy giờ, mà còn là ở cách hiểu về vai trò của người trí thức nói chung trong xã hội. Tuy ông không trực tiếp nói ra, song gọi bằng ngôn ngữ ngày nay, có thể bảo ông xa lạ với mọi lối dấn thân nhẹ dạ, theo kiểu bầy đàn. Giá không qua đời từ năm 1942, chắc ông cũng không nhảy ra làm chính trị như mấy người anh ông đã làm, trong buổi chợ chiều của nhóm Tư Lực. Bản tính mạnh mẽ của ông không cho phép ông sa đà như vậy. Ở đây, có thể có những lý do thuộc về lịch sử. Thời gian mà Thạch Lam lớn lên, như các nhà sử học thường lưu ý, là thời gian người trí thức Việt Nam vừa qua cơn khủng hoảng (vụ Việt Nam Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học). Mặc dù không chịu ảnh hưởng của các sự kiện đó một cách trực tiếp, song một người nhạy cảm như Thạch Lam, đã sống qua cơn khủng hoảng đó một cách đầy đủ. Chính các tác phẩm của Thạch Lam mách bảo với chúng ta điều đó. Thiên truyện Người lính cũ có nét gì như là một thứ cảm đề của Nhớ rừng (Thế Lữ): nỗi tiếc thương về một thời tốt đẹp đã qua và không bao giờ trở lại nữa. Nếu ở Người bạn cũ sự bất lực của người trí thức ham hố dấn thân hôm qua được trình bày với tất cả sự trơ tráo bẽ bàng của nó (nhân vật xưng tôi xa lánh cuộc đấu tranh, từ chối không dám giúp cả người nữ đồng chí cũ), thì đến Tiếng chim kêu (câu chuyện một tối mùa đông, hai anh em nằm trùm kín chăn, không còn hiểu sự đời là gì), sự bất lực ấy hiện ra kín đáo hơn nhưng lại sâu sắc hơn: nó đã vào tận trong tiềm thức con người. Hình như cái nhìn bi quan của Thạch Lam về cuộc đời là có một lý do cụ thể như vậy. Nhưng cũng có thể thấy thái độ đơn độc của Thạch Lam thật ra có lý do sâu xa hơn, nhất là khi ta liên hệ nó với cách ứng xử của người trí thức trong những xã hội tương tự như xã hội ta trước 1945. Thời Thạch Lam sống chưa có chủ nghĩa hiện sinh. Nhưng chắc chắn là Thạch Lam có biết A.Gide và đã chịu nhiều ảnh hưởng của nhà văn này với một quan niệm tự do đến mức gần như tuyệt đối mà A. Gide thể nghiệm (1). Dĩ nhiên, đến Thạch Lam quan niệm ấy được dấu kín đi và trở nên mềm mại hơn, nhưng đúng là vẫn có nó, nó âm thầm sống trong tâm trí ông, có thể có lúc nó làm cho bản thân ông chán chường mệt mỏi khó tìm được người thông cảm, nhưng nó lại làm cho Thạch Lam mãi mãi độc đáo, không giống ai hết. Đặt trong hoàn cảnh cụ thể (việc ông có chân trong Tự Lực Văn Đoàn và có hai người anh là Nhất Linh và Hoàng Đạo) phải nói là quan niệm tự do trên đã cứu Thạch Lam, làm cho ông không vướng vào mọi chuyện phiền nhiễu mà đến thẳng với sự tiếp nhận của hậu thế.
Có một phương diện rất quan trọng, người ta thường đặc biệt lưu ý mỗi khi xem xét các trí thức, đó là thái độ của họ với nhân dân. “Đọc Nhà mẹ Lê, có lúc lầm tưởng như Thạch Lam có đi theo một đội phát động nào.” - Một lời khen vậy của Nguyễn Tuân đã nói hộ Thạch Lam khá nhiều. Tuy nhiên, đấy chưa phải là chỗ mạnh riêng của Thạch Lam. Trừ những kẻ bất lương, còn đa số các văn nghệ sĩ Việt Nam sống gần nhân dân và thường xót xa mỗi khi nghĩ đến nỗi khổ của nhân dân. So với họ, Thạch Lam chỉ có một chỗ khác: ông không trừu tượng hóa nhân dân để rồi lý tưởng hóa họ và có khi sa vào chỗ lừa mị họ nhằm mưu lợi. Con người đơn độc trong Thạch Lam chống lại lối hùa theo đám đông một cách vô trách nhiệm. Ông muốn tác động vào nhân dân bằng cái cách riêng của người trí thức. Đằng sau những trang viết khách quan, lặng lẽ của Thạch Lam thấm đượm một lời kêu gọi tha thiết, nó cũng là cái điều mà các trí thức lớn ở nhiều nước vẫn thường tự nhắc nhở: sứ mạng của trí thức là góp phần vào việc giải phóng nhân dân.
Cũng trong văn học 30-45, có một nhà văn cũng viết nhiều về trí thức, là Nam Cao, nhưng quả là tâm thế của người trí thức ở Nam Cao và Thạch Lam hoàn toàn khác nhau. Ở các nhân vật của Nam Cao, thường có một nét chung, là họ quá nhiều thèm muốn, luôn luôn trong họ có những ước ao nho nhỏ, ước ao chính đáng mà không sao thực hiện nổi, cho nên cũng không sao dập tắt nỗi - ước ao từ miếng cơm, manh áo, điều kiện tối thiểu để làm việc cho đến những phút thanh thản bên ánh trăng mơ màng, những người đàn bà nhàn hạ, ngồi ghế xích-đu, và cả… sự nổi tiếng trên văn đàn nữa. Phải tự đấu tranh rất căng thẳng thì những Điền, Hộ, Thứ… đó mới khẳng định được với chính mình rằng nhân dân nói chung, những người chung quanh nói riêng là rất tốt đẹp, và nhà văn phải có sứ mệnh viết về những sự tốt đẹp đó, còn mọi chuyện khác chỉ là phù phiếm. Những phút tự đấu tranh nội tâm căng thẳng như thế không thấy ở các nhân vật trí thức của Thạch Lam. Hình như ở họ không có gì phải thèm muốn. Những điều mà người trí thức ở Nam Cao ao ước thì họ đã có rồi, những điều mà những Điền, Hộ, Thứ… cố sức tự thuyết phục họ, là chuyện đương nhiên. Phía trước các nhân vật của Thạch Lam có cái đích khác: làm sao để hoàn thiện mình, từ đó, bằng cách đó, ảnh hưởng tới mọi người. Sở dĩ ở đấy phải dùng chữ tự hoàn thiện của Tolstoy vĩ đại, vì quả là với các nhân vật của Thạch Lam, vấn đề đó dã lờ mờ được đặt ra (các truyện ngắn Một cơn giận, Sợi tóc và tiểu thuyết Ngày mới). Cố nhiên sự liên tưởng nên dừng lại ở chỗ đó. Là con em của dân tộc này, các nhân vật trí thức ở Thạch Lam vẫn nằm gọn trong khuôn khổ đời sống tinh thần của người Việt Nam nói chung. Trong ông không có đất cho những suy nghĩ siêu hình. Thường ông chỉ mới thiết tha chống lại mọi sự giả dối và cố gắng tìm đến sự thật mà chưa bao giờ đặt vấn đề về niềm tin, chân lý, như trí thức Nga chẳng hạn. Nhưng đối với sự thật thì Thạch Lam có thái độ triệt để đến cùng. Con người tha thiết với điều thiện, cái đẹp đó cũng là con người biết căm giận với mọi biểu hiện sống xấu xa bỉ ổi (một lối căm giận đến khinh bỉ không buồn nói như trong truyện ngắn Trở về mà nhà văn Khái Hưng trong lời tựa cho Gió đầu mùa đã tỏ ý khâm phục). Và con người từng lặng lẽ tìm đến những giá trị chân chính trong truyền thống dân tộc đó lại là người dám nhận xét về người mình, nước mình một cách thẳng thắn. Không biết bao nhiêu lần, trong Hà Nội ba mươi sáu phố phường, nhân bàn về chuyện ăn uống, Thạch Lam nói rõ ra rằng người mình thường ham rẻ, nhẹ dạ, chỉ đủ sức săn tìm những thành công vặt và rất dễ bị lừa gạt. Rộng hơn câu chuyện ăn uống, nhiều phen ông còn đi tới những nhận xét khái quát hơn:
“Nhưng phong trào ở nước ta, bất cứ phong trào gì, đều có một tính chung: là nông nổi, chỉ hời hợt bề ngoài. Cái mà chúng ta thiếu nhất là sâu sắc. Bởi ta không chịu phân tích và suy xét kỹ, nên bất cứ vấn đề gì chúng ta cũng không biết được rõ ràng và chu đáo, biết một cách thấu suốt“ (tr.284).
“Chúng ta có cái đời sống bên trong rất nghèo nàn và rất bạc nhược. Những tính tình phong phú, dồi dào hay mãnh liệt, chúng ta ít có. Chẳng dám yêu cái gì tha thiết mà cũng chẳng dám ghét cái gì tha thiết, lòng yêu ghét của chúng ta nhạt nhẽo lắm. Chúng ta đổi lòng tín ngưỡng sâu xa ra một tín ngưỡng thiển cận và nông nổi, giữ cái vươn cao về đạo giáo của tâm hồn xuống mực thước săn sóc nhỏ bé về ấm no”. (tr. 297)
Ngày nay, chắc không mấy ai còn nghĩ đó là những câu nói hàm hồ. Ngày nay chắc nhiều người đều hiểu: đó là những  gợi ý để xã hội cùng tự phê phán, tự thức tỉnh - một điều mà dân tộc nào cũng phải làm, trước khi bước vào lịch sử hiện đại.
Phải có lòng yêu mến cái xứ sở này lắm, lại phải rất thành tâm tin tưởng ở cái sứ mệnh của trí thức của mình thì một nhà văn mới dũng cảm viết ra những câu đầy trách nhiệm như thế.
1990
THẠCH LAM: TÌM VÀO NỘI TÂM TÌM VÀO CẢM GIÁC
Văn xuôi Thạch Lam nhìn từ góc độ lý luận
NHỮNG TIỀN ĐỀ
Trong các công trình nghiên cứu về văn học trước 1945, như các giáo trình và sách văn học sử, lời nói đầu viết cho các tổng tập - người ta thường bắt gặp một lối xem xét phổ biến, đó là xem lịch sử văn học giai đoạn này - trước tiên là trên phạm vi văn học công khai - như cuộc đấu tranh của chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa lãng mạn, rồi kết cục là sự phát triển, sự thắng thế của chủ nghĩa hiện thực.
Theo chúng tôi hiểu, đấy là một quan niệm đã làm cho đời sống văn học trở thành khô cứng, nghèo nàn, và không đúng với sự thực.
- Trong thực tiễn sáng tác, lúc ấy những khái niệm như hiện thực, lãng mạn... gần như không hề có trong đầu óc các nhà văn. Văn học Việt Nam trước 1945, dù đã bước đầu phát triển và phê bình, đã hình thành nên những bộ sách như Nhà văn hiện đại, Thi nhân Việt Nam, song, chủ yếu vẫn là quá trình mò mẫm, tự phát.
- Vả chăng, hiện thực hay lãng mạn chỉ là quy ước. Chưa chắc nó - phạm trù phương pháp - đã có vai trò quan trọng để trở thành nhân vật chính của lịch sử văn học như thể loại. Hiện nay, thỉnh thoảng chúng ta vẫn bộc lộ những mâu thuẫn trong việc xem xét một số hiện tượng (ví dụ: Có phải chủ nghĩa hiện thực ngày một phát triển hay nó đi vào bế tắc? Yếu tố hiện thực có ở Nhất Linh, Khái Hưng, thơ Xuân Diệu hay không? Tại sao cùng một số văn phẩm của Thạch Lam, có lúc xếp vào hiện thực, có lúc xếp vào lãng mạn). Thiết nghĩ, đó là do quan niệm về các phương pháp của chúng ta chưa vững vàng, chắc chắn.
Để thoát khỏi tình trạng đó, có lẽ nên dành ưu tiên cho việc khảo sát sự phát triển văn xuôi, thơ, kịch, và tìm cách phác họa ra sự tiến hóa của ngôn ngữ thể loại, cái mà ta tạm gọi là thi pháp thể loại.
Nói như vậy, không phải bỏ hẳn các khái niệm như hiện thực, lãng mạn.
Có điều, nếu vẫn còn sử dụng đến chúng, cần tìm ra cách hiểu thoáng hơn, cởi mở hơn với từng khái niệm đó.
Đây là một vấn đề lý luận khá phức tạp, chúng tôi chỉ xin nói một cách tóm tắt:
- Cách hiểu phổ biến hiện nay về chủ nghĩa hiện thực là nhà văn phải mô tả nhân vật trên cái nền bức tranh xã hội rộng rãi, phải đẩy nó lên trở thành điển hình, có ý nghĩa giai cấp, dân tộc v.v… Tóm lại, là chủ nghĩa hiện thực hiểu theo bề rộng, một thứ chủ nghĩa hiện thực có lẽ được sáng chế chỉ để minh họa cho những cách hiểu thô thiển về lịch sử.
- Còn như sẽ là tiện hơn, hợp lý hơn nhiều, nếu cho rằng vấn đề không phải là bức tranh xã hội. Một tác phẩm như Ông già và biển cả của Hemingway sẽ bị coi là không hiện thực nếu lấy quan niệm thô thiển trên làm hệ quy chiếu. Nhưng theo các nhà nghiên cứu văn học thế kỷ XX, có lẽ đó là một trong những tác phẩm nói rất đúng, lột tả được, nắm được cái thần của đời sống nước Mỹ thế kỷ này, và phải gọi nó là hiện thực!
Chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa cởi mở giờ đây không bắt buộc phải dựng  bức tranh xã hội, phải miêu tả điển hình. Nó có thể chỉ dừng lại ở một vài trạng thái tâm lý mà con người thể nghiệm. Điều quan trọng với nó, là dựng không khí, tạo ra được những ám ảnh đối với bạn đọc, mà trong việc này, thì cái cách đi sâu vào nội tâm là một con đường đầy triển vọng.
MỘT SỐ ĐÓNG GÓP
Từ bỏ cái khung hiện thực - lãng mạn vốn có, chỉ từ ngôn ngữ thể loại mà xét, có thể xác lập một vài đường dây phát triển của văn xuôi trước 1945. Ví dụ, nếu bắt đầu với Nguyễn Công Hoan, có thể thấy ở ông nhân vật thường gần như không có tâm lý. Nhân vật sinh động, nhưng là cái sinh động trong hành động, giữa tâm lý và hành động không có khoảng cách.
Với tư cách là những người xuất phát sau Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh và Khái Hưng có phần đi xa hơn. Cái gọi là đời sống tâm lý trong nhân vật của hai ông bắt đầu xuất hiện. Trong lời tựa Hồn buớm mơ tiên, Nhất Linh viết rằng, tác phẩm nhiều khi làm cho người ta cảm động vô ngần. “Cái cảm ấy là một cái cảm nhẹ nhàng phảng phất vui buồn tựa như là những ngày nắng nhạt điểm mưa thưa”.
Sau này, một người như Nam Cao sẽ đẩy việc miêu tả nội tâm lên một bước nữa.
Thạch Lam ở vào chỗ nào trong mạch phát triển này? ít nhất là Thạch Lam cũng có những cách tân khá rõ, so với một người như Khái Hưng. Không phải ngẫu nhiên mà trong lời giới thiệu viết cho Gió đầu mùa, Khái Hưng gần như ngả mũ chào, nghĩa là rất “chịu” Thạch Lam. Dưới đây, khi điểm qua một số truyện của Thạch Lam chúng tôi sẽ còn trở lại với một số ý cụ thể trong bài giới thiệu quan trọng ấy.
Đứa con đầu lòng, Gió đầu mùa là những truyện mà cốt truyện rất đơn sơ, không có cái lắt léo thường tình mang tính cách bố trí. Tự nó, tâm lý con người là một thứ khung cảnh, cần được bày ra. Để gọi nó người ta đôi khi dùng chữ tâm cảnh bao gồm cả những cảnh linh động, nhiều bình diện, lẫn những cảnh trống vắng “không là cái gì cả, sự trống rỗng một phút một giây của tâm hồn” (Khái Hưng).
Một dạng khác: Sợi tóc, Quyển sách bỏ quên, Tình xưa. Trong những truyện này, tâm lý cá nhân hiện ra như một thực thể mong manh, một sự cân bằng không có hình thù rõ, không vững vàng, lại biến chuyển mau chóng. Người ta đâu có bao giờ cũng làm chủ được mọi vui buồn yêu ghét đến trong lòng mình? Trong mắt người khác, ta thoắt thế này thoắt thế khác, không sao giải thích được. Nếu thành thực, phải nhận là trong lòng ta có những quãng u tối, mà phải can đảm lắm, mới có gan phanh phui. Khái Hưng đã không có gì là quá lời, khi bảo “Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự thành thực”.
Thế còn mối quan hệ của nhà văn với những trạng thái tâm lý  (của mình cũng như của người khác) được miêu tả trong tác phẩm? Thông thường thói quen của người sáng tác và người thưởng thức ở ta, là buộc nhà văn phải có thái độ rõ, và phải mang những yêu ghét ấy vào trong tác phẩm, để hướng dẫn, hỗ trợ người đọc trên phương diện đạo đức. Kết quả là trong nhiều trường hợp, người đọc cảm thấy bị dắt mũi, những mối phản cảm nảy sinh rất nhanh, và tác phẩm lại gây ra những tác dụng xấu. Một người như nhà văn Nga A. Tchékhov rất có kinh nghiệm về mặt này, ông bảo rằng “Sự lạnh lùng là không thể thiếu, chỉ có những kẻ lạnh lùng mới nhìn sự việc một cách tỏ tường…” Một nhà nghiên cứu khác đã viết rất hay về Tchékhov: “Trong sự khách quan kỳ diệu của ông, đứng trên tất cả mọi nỗi phiền muộn hay hân hoan, Tchékhov đã thấu triệt và nhìn hết mọi sự vật. Ông có thể hiền từ quảng đại mà không yêu, ông có thể mẫn cảm và thân ái mà không quyến luyến, ông có thể là người gia ơn mà không mong sự trả ơn”.
Thật là kỳ lạ, trong một thiên truyện như Trở về của Thạch Lam, nguyên lý khách quan ấy của Tchékhov chẳng những có mặt mà còn đóng vai trò chi phối khá triệt để. Nhân vật chính là một kẻ xấu. Thạch Lam, một người như Khái Hưng nói “tính tình mãnh liệt, quá khích nữa”, có thái độ với loại nhân vật ấy như thế nào, là chuyện dễ đoán. Nhưng đây là trong văn học: Nhà văn Thạch Lam chỉ kể lại mọi chuyện một cách thản nhiên, lạnh lùng. Nhưng che mắt được ai chứ không che mắt được một người như Khái Hưng. Theo Khái Hưng, “sự lạnh lùng ấy giấu một tính tình khinh bỉ, một cảm tưởng chua chát không biết đến chừng nào”.
Chúng tôi ngờ rằng trên con đường đi vào trình bày nội tâm con người, vấn đề này - mối quan hệ giữa nhà văn và những gì được nhà văn mô tả trong tác phẩm - sẽ có lúc được đặt ra, và những cây bút tương lai sẽ tìm thấy sự hỗ trợ ở Thạch Lam cả trên phương diện đạo đức lẫn phương diện nghề nghiệp.
Ý NGHĨA
Ai đó từng nói một hướng phát triển của tiểu thuyết thế kỷ XX là “viết chính tả cho ý nghĩ”. Đọc một cuốn tiểu thuyết được giải Goncourt 1984 ở Pháp và đã được dịch ra tiếng Việt như cuốn Người tình của Marguerite Duras, người ta thấy điều mà các ngòi bút hiện nay định mô phỏng, không phải là hiện thực, mà là suy nghĩ của con người.
Zatonski,  một nhà nghiên cứu văn học ở Liên Xô trước đây, trong một công trình nghiên cứu mang tên Nghệ thuật tiểu thuyết và thế  kỷ XX, đặc biệt đề cao một xu hướng phát triển trong tiểu thuyết, mà ông tạm đặt tên là tiểu thuyết hướng nội. Thạch Lam của chúng ta như cũng bắt vào cái mạch ấy. Hướng đi vào tâm lý ở Thạch Lam là một hướng rất hiện đại. Với ông, tâm lý trở thành cái bí mật lớn nhất cần tìm hiểu. Trong tâm lý có thể có cả lịch sử, xã hội. Những động thái tâm lý phức tạp là bằng chứng của sự tiến triển trong trình độ làm người.
Để có ý niệm về khả năng dính líu với hiện thực, thông báo về hiện thực - hoặc, nói theo cách nói kinh điển của chúng ta, khả năng phản ánh hiện thực - của truyện ngắn tâm lý, xin thử dừng lại ở một truyện ngắn thuộc loại hay nhất của Thạch Lam, truyện Hai đứa trẻ. Phải cố gán ghép người ta mới có thể nói tới một cái gì lờ mờ hiện lên như là bức tranh xã hội ở đây (bức tranh xã hội như chúng ta vẫn hiểu). Có phần chắc hơn, đấy cũng là truyện viết về một trạng thái tâm lý. Nhưng theo chúng tôi, truyện đã nói rất đúng một phương diện của đời sống xã hội Việt Nam trước 1945, thời mà Thạch Lam sống. Chất bằng lặng, tù đọng, mòn mỏi của hiện thực như đã tìm thấy một biểu hiện tuyệt vời. Nó toát lên từ không khí khung cảnh, từ toàn bộ thiên truyện. Mỗi khi muốn hình dung ra đời sống tinh thần của con người trước 1945 tôi rất nhớ đến Hai đứa trẻ. Và tôi tưởng, cũng không có gì gượng gạo lắm, nếu bảo rằng truyện là một truyện viết theo khuynh hướng hiện thực. Nếu mở rộng khái niệm chủ nghĩa hiện thực đến mức coi Ông già và biển cả của Hemingway mà trên kia đã nói, cũng là thuộc phạm vi chủ nghĩa hiện thực, thì dưới cái ô khá rộng ấy, Hai đứa trẻ cũng có chỗ của nó.
Có thể bảo Hai đứa trẻ chân thực ở chỗ nó bắt được một thứ rất khó nắm bắt là cái hồn của hiện thực. Nói như Juan Carlos Onetti, một nhà văn Mỹ la tinh hiện đại, hiện sống ở Madrid, Tây Ban Nha: “Có nhiều cách nói dối, nhưng cách tởm lợm nhất là nói sự thật toàn bộ sự thật, mà chỉ che giấu cái hồn của sự việc”. Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Nhưng nếu ở cuối thế kỷ XIX, Dostoievsky đã có thể bảo, đại ý “Chủ nghĩa hiện thực, đó không phải là Eugénie Grandet mà là Con đầm pích” (1) thì lúc này đây, chúng ta cũng có thể nói “Chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam trước 1945, đó không phải là Bước đường cùng mà là Hai đứa trẻ”.
Dẫu sao, việc sử dụng khái niệm chủ nghĩa hiện thực ở đây cũng là có phần mạo hiểm. Cả trên thế giới, cũng như ở nước ta hiện nay, không chữ nào được dùng nhiều như nó. Chỉ có điều khác, ở ta nó bị khuôn vào một cái khung quá chặt chẽ, và hình như cổ lỗ nữa? - còn ở nhiều nước khác, nhất là trong những tài liệu không bắt buộc phải thật nghiêm túc khoa học, nó lại được hiểu một cách quá linh động và do đó có phần tùy tiện.
(1) Hai kiệt tác, một của Balzac và một của Puskin.
Nói như người ta vẫn nói trong vật lý lượng tử, độ không xác định của khái niệm chủ nghĩa hiện thực ở đây quá lớn.
Thậm chí trong chủ nghĩa hiện thực, thấy bao gồm cả những tác phẩm in đậm dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn tượng.
Đại khái trong nhiều trường hợp, người ta dùng nó như một chỉ dẫn về chất lượng. Cứ cái gì hay có giá trị thì được bảo là “làm vinh dự cho chủ nghĩa hiện thực” với lại “mở rộng ranh giới của chủ nghĩa hiện thực.”
Sở dĩ chúng tôi, trong các phần trên, cố cãi lấy được Hai đứa trẻ cùng với văn xuôi Thạch Lam nói chung, thì cũng là vì lý do đó. Xin được coi đấy chỉ là một giả thiết làm việc, bên cạnh một giả thiết khác có lẽ là gần đúng với văn xuôi Thạch Lam hơn. ý chúng tôi muốn viện dẫn tới sự có mặt  của chủ nghĩa ấn tượng .
Nếu không ngại một lần nữa nhắc tới Khái Hưng, chúng ta có thể bắt đầu bằng cái ý ông đã nêu trong lời giới thiệu Gió đầu mùa: trong văn mình, Thạch Lam rất chú ý tới những cảm giác. Tuy Thạch Lam không nói rõ, song ngày nay đọc lại, có thể thấy việc ghi nhận cảm giác, kiểu đó gắn liền với một loạt ngụ ý khác: muốn vượt ra ngoài cái sáo mòn, thành kiến; mở rộng lòng ra để như là lần đầu được tiếp xúc với con người và sự việc; sùng bái cái tươi mới, cái tự nhiên, bao gồm cả những run rẩy bé nhỏ nhất trước hiện thực; từ chối những tình tiết, những cốt truyện gay cấn, coi rằng cái đó không quan trọng, mà chỉ có những ấn tượng chủ quan của mình là quan trọng, từ đó, làm toát lên một cảm giác buồn bã về đời sống, dù vẫn luôn luôn biết rằng chỉ có đời sống mong manh này là đẹp, là bền chắc… Đây là những dấu hiệu điển hình ở chủ nghĩa ấn tượng. Trong một bài báo viết về tranh của các họa sĩ ấn tượng Pháp, tôi thấy người ta còn viết đại ý: nhiều tác phẩm ấn tượng, không gì khác, là sự tưởng nhớ sâu xa những gốc rễ nông thôn mà thành thị còn rất gắn bó. Trong tranh của những C.Monet, A. Sisley, A. Renoir v.v… khung cảnh hiện ra thanh bình, con người biết sống hoà hợp với nhau, còn xã hội thì biết khéo léo bảo tồn những truyền thống tốt đẹp của xứ sở. Những điều ấy, lại cũng như là viết riêng ra để dành cho Thạch Lam! Việc nghiên cứu các pha, các chặng đường phát triển của văn xuôi, còn phải tiếp tục, việc sử dụng các thuật ngữ tiêu biểu cho nghệ thuật phương Tây cần phải hết sức dè dặt, song, dẫu sao, có thể đoán được, nếu có một quan niệm nghệ thuật mà Thạch Lam thấy gần nhất, thấy có thể chia sẻ được, thì chắc chắn đó không phải là những chủ nghĩa hiện thực chủ nghĩa lãng mạn theo cái nghĩa chúng ta thường hiểu, mà chỉ có thể là chủ nghĩa ấn tượng. Trong khi chờ đợi một sự thẩm định đầy đủ hơn, ngay ở đây, chúng ta có thể nói với nhau: Không có gì là đáng ngờ vực một người khi người đó được gọi là có chất ấn tượng cả. Mà đấy chỉ là một bước phát triển tốt đẹp. Trên nhiều phương diện, văn phẩm của Thạch Lam đánh dấu trình độ nhuần nhị mà văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ này đã đạt tới trên đường tự nhào nặn theo mẫu hình của một nền văn hóa hiện đại.
1992
THẠCH LAM:
TÌM VÀO NỘI TÂM TÌM VÀO CẢM GIÁC
Thạch Lam nhìn từ góc độ lý luận văn xuôi
Những tiền đề
Trong các công trình nghiên cứu về văn học trước 1945, như các giáo trình và sách văn học sử, lời nói đầu viết cho các tổng tập - người ta thường bắt gặp một lối xem xét phổ biến, đó là xem lịch sử văn học giai đoạn này - trước tiên là trên phạm vi văn học công khai - như cuộc đấu tranh của chủ nghĩa hiện thực với chủ nghĩa lãng mạn, rồi kết cục là sự phát triển, sự thắng thế của chủ nghĩa hiện thực.
Theo chúng tôi hiểu, đấy là một quan niệm đã làm cho đời sống văn học trở thành khô cứng, nghèo nàn, và không đúng với sự thực.
– Trong thực tiễn sáng tác, lúc ấy những khái niệm như hiện thực, lãng mạn .. gần như không hề có trong đầu óc các nhà văn. Văn học Việt Nam trước 1945, dù đã bước đầu phát triển và phê bình, đã hình thành nên những bộ sách như Nhà văn hiện đại, Thi nhân Việt Nam, song, chủ yếu vẫn là quá trình mò mẫm, tự phát.
Vả chăng, hiện thực hay lãng mạn chỉ là quy ước. Chưa chắc nó - phạm trù phương pháp - đã có vai trò quan trọng trở thành nhân vật chính của lịch sử văn học như thể loại. Hiện nay, thỉnh thoảng chúng ta vẫn bộc lộ những mâu thuẫn trong việc xem xét một số hiện tượng (ví dụ: Có phải chủ nghĩa hiện thực ngày một phát triển hay nó đi vào bế tắc? Yếu tố hiện thực có ở Nhất Linh, Khái Hưng, thơ Xuân Diệu hay không? Tại sao cùng một số văn phẩm của Thạch Lam, có lúc xếp vào hiện thực, có lúc xếp vào lãng mạn). Thiết nghĩ, đó là do quan niệm về các phương pháp của chúng ta chưa vững vàng, chắc chắn.
Để thoát khỏi tình trạng đó, có lẽ lên giành ưu tiên cho việc khảo sát sự phát triển văn xuôi, thơ, kịch, và tìm cách phác họa ra sự tiến hóa của ngôn ngữ thể loại, cái mà ta tạm gọi là thi pháp thể loại.
Nói như vậy, không phải bỏ hẳn các khái niệm như hiện thực, lãng mạn.
Có điều, nếu vẫn còn sử dụng đến chúng, cần tìm ra cách hiểu thoáng hơn, cởi mở hơn với từng khái niệm đó.
Đây là một vấn đề lý luận khá phức tạp, chúng tôi chỉ xin nói một cách tóm tắt:
– Cách hiểu phổ biến hiện nay về chủ nghĩa hiện thực là nhà văn phải mô tả nhân vật trên cái nền bức tranh xã hội rộng rãi, phải đẩy nó lên trở thành điển hình, có ý nghĩa giai cấp, dân tộc v.v… Tóm lại, là chủ nghĩa hiện thực hiểu theo bề rộng, một thứ chủ nghĩa hiện thực có lẽ được sáng chế chỉ để minh họa cho những cách hiểu thô thiển về lịch sử.
– Còn như sẽ là tiện hơn, hợp lý hơn nhiều, nếu cho rằng vấn đề không phải là bức tranh xã hội. Một tác phẩm như Ông già và biển cả của Hemingway sẽ bị coi là không hiện thực nếu lấy quan niệm thô thiển trên làm hệ quy chiếu. Nhưng theo các nhà nghiên cứu văn học thế kỷ XX, có lẽ đó là một trong những tác phẩm nói rất đúng, lột tả được, nắm được cái thần của đời sống nước Mỹ thế kỷ này, và phải gọi nó là hiện thực!
Chủ nghĩa hiện thực theo nghĩa cởi mở giờ đây không bắt buộc phải dựng  bức tranh xã hội, phải miêu tả điển hình. Nó có thể chỉ dừng lại ở một vài trạng thái tâm lý mà con người thể nghiệm. Điều quan trọng với nó, là dựng không khí, tạo ra được những ám ảnh đối với bạn đọc, mà trong việc này, thì cái cách đi sâu vào nội tâm là một con đường đầy triển vọng.
Một số đóng góp
Từ bỏ cái khung hiện thực - lãng mạn vốn có, chỉ từ ngôn ngữ thể loại mà xét, có thể xác lập một vài đường dây phát triển của văn xuôi trước 1945. Ví dụ, nếu bắt đầu với Nguyễn Công Hoan, có thể thấy ở ông nhân vật thường gần như không có tâm lý. Nhân vật sinh động, nhưng là cái sinh động trong hành động, giữa tâm lý và hành động không có khoảng cách.
Với tư cách là những người xuất phát sau Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh và Khái Hưng có phần đi xa hơn. Cái gọi là đời sống tâm lý trong nhân vật của hai ông bắt đầu xuất hiện. Trong lời tựa Hồn bướm mơ tiên, Nhất Linh viết rằng, tác phẩm nhiều khi làm cho người ta cảm động vô ngần. “Cái cảm ấy là một cái cảm nhẹ nhàng phảng phất vui buồn tự như là những ngày nắng nhạt điểm mưa thưa”.
Sau này một người như Nam Cao sẽ đẩy việc miêu tả nội tâm lên một bước nữa.
Thạch Lam ở vào chỗ nào trong mạch phát triển này? ít nhất là Thạch Lam cũng có những cách tân khá rõ, so với một người như Khái Hưng. Không phải ngẫu nhiên mà trong lời giới thiệu viết cho Gió đầu mùa, Khái Hưng gần như ngả mũ chào, nghĩa là rất “chịu” Thạch Lam. Dưới đây, khi điểm qua một số truyện của Thạch Lam chúng tôi sẽ còn trở lại với một số ý cụ thể trong bài giới thiệu quan trọng ấy.
Đứa con đầu lòng, Gió đầu mùa là những truyện mà cốt truyện rất đơn sơ, không có cái lắt léo thường tình mang tính cách bố trí. Tự nó, tâm lý con người là một thứ khung cảnh, cần được bày ra. Để gọi nó người ta đôi khi dùng chữ Tâm Cảnh bao gồm cả những cảnh linh động, nhiều bình diện, lẫn những cảnh trống vắng “không là cái gì cả, sự trống rỗng một phút một giây của tâm hồn” (Khái Hưng)
Một dạng khác: Sợi tóc, Quyển sách bỏ quên, Tình xưa. Trong những truyện này, tâm lý cá nhân hiện ra như một thực thể mong manh, một sự cân bằng không có hình thù rõ, không vững vàng, lại biến chuyển mau chóng. Người ta đâu có bao giờ cũng làm chủ được mọi vui buồn yêu ghét đến trong lòng mình? Trong mắt người khác, ta thoắt thế này thoắt thế khác, không sao giải thích được. Nếu thành thực, phải nhận là trong lòng ta có những quãng u tối, mà phải can đảm lắm, mới có gan phanh phui. Khái Hưng đã không có gì là quá lời, khi bảo “Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự thành thực”.
Thế còn mối quan hệ của nhà văn với những trạng thái tâm lý (của mình cũng của người khác) được miêu tả trong tác phẩm? Thông thường thói quen của người sáng tác và người thưởng thức ở ta, là buộc nhà văn phải có thái độ rõ, và phải mang những yêu ghét ấy vào trong tác phẩm, để hướng dẫn, hỗ trợ người đọc trên phương diện đạo đức. Kết quả là trong nhiều trường hợp, người đọc cảm thấy bị dắt mũi, những mối phản cảm nảy sinh rất nhanh, và tác phẩm lại gây ra những tác dụng xấu. Một người như nhà văn Nga A. Tchékhov rất có kinh nghiệm về mặt này, ông bảo rằng “Sự lạnh lùng là không thể thiếu, chỉ có những kẻ lạnh lùng mới nhìn sự việc một cách tỏ tường…” Một nhà nghiên cứu khác đã viết rất hay về Tchékhov: “Trong sự khách quan kỳ diệu của ông, đứng trên tất cả mọi nỗi phiền muộn hay hân hoan, Tchékhov đã thấu triệt và nhìn hết mọi sự vật. Ông có thể hiền từ quảng đại mà không yêu, ông có thể mẫn cảm và thân ái mà không quyến luyến, ông có thể là người gia ơn mà không mong sự trả ơn”.
Thật là kỳ lạ, trong một thiên truyện như Trở về của Thạch Lam, nguyên lý khách quan ấy của Tchékhov chẳng những có mặt mà còn đóng vai trò chi phối khá triệt để. Nhân vật chính là một kẻ xấu. Thạch Lam, một người như Khái Hưng nói “tính tình mãnh liệt, quá khích nữa”, có thái độ với loại nhân vật ấy như thế nào, là chuyện dễ đoán. Nhưng đây là trong văn học: Nhà văn Thạch Lam chỉ kể lại mọi chuyện một cách thản nhiên, lạnh lùng. Nhưng che mắt được ai chứ không che mắt được một người như Khái Hưng. Theo Khái Hưng, “sự lạnh lùng ấy giấu một tính tình khinh bỉ, một cảm tưởng chua chát không biết đến chừng nào”.
Chúng tôi ngờ rằng trên con đường đi vào trình bày nội tâm con người, vấn đề này - mối quan hệ giữa nhà văn và những gì được nhà văn mô tả trong tác phẩm - sẽ có lúc được đặt ra, và những cây bút tương lai sẽ tìm thấy sự hỗ trợ ở Thạch Lam cả trên phương diện đạo đức lẫn phương diện nghề nghiệp.
Ý nghĩa
Ai đó từng nói một hướng phát triển của tiểu thuyết thế kỷ XX là “viết chính tả cho ý nghĩ”... Đọc một cuốn tiểu thuyết được giải Goncourt 1984 ở Pháp và đã được dịch ra tiếng Việt như cuốn Người tình của Marguerite Duras, người ta thấy điều mà các ngòi bút hiện nay định mô phỏng, không phải là hiện thực, mà là suy nghĩ của con người.
Zatonski, một nhà nghiên cứu Liên Xô trước đây, trong một công trình nghiên cứu mang tên Nghệ thuật tiểu thuyết và thế kỷ XX, đặc biệt đề cao một xu hướng phát triển trong tiểu thuyết, mà ông tạm đặt tên là tiểu thuyết hướng nội. Thạch Lam của chúng ta như cũng bắt vào cái mạch ấy. Hướng đi vào tâm lý ở Thạch Lam là một hướng rất hiện đại. Với ông, tâm lý trở thành cái bí mật lớn nhất cần tìm hiểu. Trong tâm lý có thể cả lịch sử, xã hội. Những động thái tâm lý phức tạp là bằng chứng của sự tiến triển trong trình độ làm người.
Để có ý niệm về khả năng dính líu với hiện thực, thông báo về hiện thực - hoặc, nói theo cách nói kinh điển của chúng ta, khả năng phản ánh hiện thực - của truyện ngắn tâm lý, xin thử dừng lại ở một truyện ngắn thuộc loại hay nhất của Thạch Lam, truyện Hai đứa trẻ. Phải cố gán ghép người ta mới có thể nói tới một cái gì lờ mờ hiện lên như là bức tranh xã hội ở đây (bức tranh xã hội như chúng ta vẫn hiểu). Có phần chắc hơn, đấy cũng là truyện viết về một trạng thái tâm lý. Nhưng theo chúng tôi, truyện đã nói rất đúng một phương diện của đời sống xã hội Việt Nam trước 1945, thời mà Thạch Lam sống. Chất bằng lặng, tù đọng, mòn mỏi của hiện thực như đã tìm thấy một biểu hiện tuyệt vời. Nó toát lên từ không khí khung cảnh, từ toàn bộ thiên truyện. Mỗi khi muốn hình dung ra đời sống tinh thần của con người trước 1945 tôi rất nhớ đến Hai đứa trẻ. Và tôi tưởng, cũng không có gì gượng gạo lắm, nếu bảo rằng truyện là một truyện viết theo khuynh hướng hiện thực. Nếu mở rộng khái niệm chủ nghĩa hiện thực đến mức coi Ông già và biển cả của Hemingway mà trên kia đã nói, cũng là thuộc phạm vi Chủ nghĩa hiện thực, thì dưới cái ô khá rộng ấy, Hai đứa trẻ cũng có chỗ của nó.
Có thể bảo Hai đứa trẻ chân thực ở chỗ nó bắt được một thứ rất khó nắm bắt là cái hồn của hiện thực. Nói như Juan Carlos Onette, một nhà văn Mỹ la tinh hiện đại, hiện sống ở Madrit, Tây Ban Nha: “Có nhiều cách nói dối, nhưng cách tởm lợm nhất là nói sự thật toàn bộ sự thật, mà chỉ che giấu cái hồn của sự việc”. Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Nhưng nếu ở cuối thế kỷ XIX, Dostoievsky đã có thể bảo, đại ý “Chủ nghĩa hiện thực, đó không phải là Eugénie Grandet mà là Con đầm pích” (1) thì lúc này đây, chúng ta cũng có thể nói “Chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam trước 1945, đó không phải là Bước đường cùng mà là Hai đứa trẻ”.
Dẫu sao, việc sử dụng khái niệm chủ nghĩa hiện thực ở đây cũng là có phần mạo hiểm. Cả trên thế giới, cũng như ở nước ta hiện nay, không chữ nào được dùng nhiều như nó. Chỉ có điều khác, ở ta nó bị khuôn vào một cái khung quá chặt chẽ, và hình như có lỗ nữa? - còn ở nhiều nước khác, nhất là trong những tài liệu không bắt buộc phải thật nghiêm túc khoa học, nó lại được hiểu một cách quá linh động và do đó có phần tùy tiện.
Nói như người ta vẫn nói trong vật lý lượng tử độ không xác định của khái niệm chủ nghĩa hiện thực ở đây quá lớn.
Thậm chí trong chủ nghĩa hiện thực, thấy bao gồm cả những tác phẩm in đậm dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn tượng.
Đại khái trong nhiều trường hợp người ta dùng nó nhưng chỉ nhận về chất lượng. Cứ cái gì hay có giá trị thì được bảo là “làm vinh dự cho chủ nghĩa hiện thực” với lại “mở ra ranh giới của chủ nghĩa hiện thực.”
Sở dĩ chúng tôi, trong các phần trên, cố cãi lấy được Hai đứa trẻ cùng với văn xuôi Thạch Lam nói chung, thì cũng là vì lý do đó. Xin được coi đấy chỉ là một giả thiết là việc, bên cạnh một giả thiết khác có lẽ là gần đúng với văn xuôi Thạch Lam hơn. ý chúng tôi muốn viện dẫn tới sự hồi của chủ nghĩa ấn tượng.
Nếu không ngại một lần nữa nhắc tới Khái Hưng, chúng ta có thể bắt đầu bằng cái ý ông đã nêu trong lời giới thiệu Gió đầu mùa: trong văn mình, Thạch Lam rất chú ý tới những cảm giác. Tuy Thạch Lam không nói rõ, song ngày nay đọc lại, có thể thấy việc ghi nhận cảm giác, kiểu đó gắn liền với một loạt ngụ ý khác: muốn vượt ra ngoài cái sáo mòn, thành kiến; mở rộng lòng ra để như là lần đầu được tiếp xúc với con người và sự việc; sùng bái cái tươi mới, cái tự nhiên, bao gồm cả những run rẩy bé nhỏ nhất trước hiện thực; từ chối những tình tiết, những cốt truyện gay cấn, coi rằng cái đó không quan trọng, mà chỉ có những ấn tượng chủ quan của mình là quan trọng, từ đó, làm toát lên một cảm giác buồn bã về đời sống, dù vẫn luôn luôn biết rằng chỉ có đời sống mong manh này là đẹp, là bền chắc… Đây là những dấu hiệu điển hình ở chủ nghĩa ấn tượng. Trong một bài báo viết về tranh của các họa sĩ ấn tượng Pháp, tôi thấy người ta còn viết đại ý: nhiều tác phẩm ấn tượng, không gì khác, là sự tưởng nhớ sâu xa những gốc rễ nông thôn mà thành thị còn rất gắn bó. Trong tranh của những C.Monet, A. Sisley. A. Renoir v.v… khung cảnh hiện ra thanh bình, con người biết sống hòa hợp với nhau, còn xã hội thì biết khéo léo bảo tồn những truyền thống tốt đẹp của xứ sở. Những điều ấy, lại cũng như là viết riêng ra để cho Thạch Lam! Việc nghiên cứu - (1) Hai kiệt tác, một của Balzac và một của Puskin các pha, các chặng đường phát triển của văn xuôi, còn phải tiếp tục, việc sử dụng các thuật ngữ tiêu biêu cho nghệ thuật phương Tây cần phải hết sức dè dặt, song, dẫu sao, có thể đoán được, nếu có một quan niệm nghệ thuật mà Thạch Lam thấy gần nhất, thấy có thể chia sẻ được, thì chắc chắn đó không phải là những chủ nghĩa hiện thực chủ nghĩa lãng mạn theo cái nghĩa chúng ta thường hiểu, mà chỉ có thể là chủ nghĩa ấn tượng. Trong khi chờ đợi một sự thẩm định đầy đủ hơn, ngay ở đây, chúng ta có thể nói với nhau: Không có gì là đáng ngờ vực một người khi người đó được gọi là có chất ấn tượng cả. Mà đấy chỉ là một bước phát triển tốt đẹp. Trên nhiều phương diện, văn phẩm của Thạch Lam đánh dấu trình độ nhuần nhị mà văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ này đã đạt tới trên đường tự nhào nặn theo mẫu hình của một nền văn hóa hiện đại.
1992
Đã in Tạp chí văn học 1992, số 6
Chú thích:
[1] Để tôn trọng tác giả và giữ nguyên màu sắc lịch sử của tác phẩm, chúng tôi giữ nguyên những chữ như An Nam (mà không thay bằng Việt Nam). Song các lỗi chính tả thì đã chữa, để phù hợp với chính tả tiếng Việt hiện hành.
[2] Văn bản trích từ tuần báo Chủ nhật, số ra 16/11/1940 (Chủ Nhật là cơ quan của Tự lực Văn đoàn ra đời sau khi Ngày Nay bị đóng cửa nhưng cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn).
[3] Lời thơ Thế Lữ.
(1) Ngoài các bài báo ngắn, các bản dịch, Thạch Lam còn có phóng sự nhiều kỳ Một tháng ở nhà thương, tất cả đều in ở Ngày nay.
(1) Cốt truyện Người đầm, theo Nguyễn Tuân, do họa sĩ Nguyễn Gia Trí kể. Còn Dưới bóng hoàng lan được viết theo lời kể của Thế Lữ. Chính Thế Lữ tiết lộ điều này trong bài viết khi Thạch Lam vừa mất và in trên Thanh Nghị.
(1) Nhớ lại vụ ồn ào chung quanh Đi Liên Xô về. Lúc đó, A. Gide rất đơn độc. Nhưng ông cứ viết theo điều ông tin tưởng. Phải nửa thế kỷ sau, bạn đọc nhiều nước mới hiểu là những nhận xét của Gide có tính cách tiên tri.
29/11/2009
Vương Trí Nhàn
Theo https://dangbi.wordpress.com/


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...