Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

Đêm An Kinh mây phủ

Đêm An Kinh mây phủ

Trăng xanh lạnh buốt. Rặng núi phía xa chìm trong sương trắng. Từ Thức đứng nghỉ chân dưới đoạn tường thành đổ nát, thốt nhiên nghe thấy tiếng gió rít lẫn với tiếng lá khô cuốn bay xào xạc. Ngọn đuốc đã cháy tàn trên tay đột ngột bừng sáng, soi bóng một người con gái áo xanh chập chờn ẩn hiện. Nàng lặng yên trong khoảnh khắc u buồn rồi vụt tan đi. Từ Thức đưa tay với theo nhưng ảo ảnh thoáng qua nhanh, phía đó chỉ còn lại mơ hồ dấu chân rất mỏng.
Một cánh chim lướt ngang trời, từng tiếng kêu giọt giọt xuống như than khóc.
Bấy giờ là năm Diên Ninh thứ sáu đời vua Lê Nhân Tông, Từ Thức đã quen dần với cuộc sống ở ngôi làng mới sau quãng thời gian lưu lạc. Một năm trên trời bằng trăm năm nơi hạ giới, cha mẹ anh em thân thích trở thành người thiên cổ, chàng dựng tạm một túp lều trên nền đất cũ bỏ hoang, gia tài chỉ có túi đàn mang theo thủa trước. Chàng treo đàn trên vách. Cây đàn lâu không gảy, dây tơ rệu rã.
Gà gáy canh ba, chàng mệt mỏi lần về nhà, chân trần, tóc xõa, áo quần đẫm sương đêm bốc lên một thứ mùi tanh tanh ngai ngái. Tay phải chàng cầm một cái oi trong đựng mấy con cá rô đồng. Tay trái là ngọn đuốc soi đường làm bằng thân nứa đập dập đã cháy lụi. Về sau trong sách vở, người ta thường chép lại đoạn đời này chàng lang thang khắp núi non để tìm đường quay lại động tiên với Giáng Hương. Từ Thức biết rõ điều đó chỉ là nhầm lẫn nhưng chàng mỉm cười độ lượng.
Chàng trút bầy cá rô vào cái chum đất kê đầu hè, lũ cá nhảy lên lao xao khi thoát khỏi chiếc oi chật hẹp, thi nhau giương vây trổ cờ bơi ngoi ngóp trong chum. Từ Thức cúi xuống nhìn lũ cá giữa một thoáng lặng im nghĩ ngợi. Chàng nghĩ về chúng rồi nghĩ về chàng, về niềm hạnh phúc ngây thơ và những giấc mơ còm cõi.
Kí ức đưa chàng về những năm tháng làm quan trong cái huyện đường cổ kính ở Tiên Du, cánh cửa gỗ lim nặng nề, trần nhà sà xuống thấp, tiếng chuột chạy loạt soạt trong đêm. Buổi sáng bắt đầu bằng tiếng trống mở công đường và buổi tối khép lại bằng tiếng mõ cầm canh đều đều như ru ngủ. Giữa chuỗi ngày buồn tẻ đó bỗng vụt sáng lên một buổi chiều xuân, cành mẫu đơn đỏ rực trước sân chùa và ánh mắt người con gái áo xanh với cái nhìn bối rối.
Cái nhìn đó về sau Từ Thức không bao giờ còn tìm thấy ở Giáng Hương. Nơi nàng ở hoa nở bốn mùa, mọi thứ ngưng đọng trong dòng thời gian vĩnh cửu.
Vì lẽ đó mà Từ Thức phải ra đi.
Chàng cô đơn. Mãi mãi cô đơn nơi cõi trần cũng như nơi tiên giới.
Đã hẹn với An Kinh nhưng người gác thành đi vắng, chỉ có sương mù lặng lẽ với cỏ cây.
Chừng mười một giờ đêm thì họ gần tới An Kinh, ánh trăng xanh xao chảy xuống bên ngoài cửa kính thành vệt dài nhòe nhoẹt. Suốt quãng đường dằng dặc không thấy bóng chiếc xe nào chạy ngược chiều, chỉ có gió rít lên từng hồi thê lương rồi đột ngột im bặt khiến khung cảnh xung quanh càng thêm vắng rợn. Ngoặt qua khúc cua cuối cùng, họ chuẩn bị đổ đèo thì bỗng nhiên từ dưới vực sâu hun hút sương mù trắng xóa ngùn ngụt đùn lên, phút chốc tất cả núi non bị phủ kín trong sương đặc quánh, cách vài mét không thể trông thấy con đường trước mặt. Thùy thốt lên kinh ngạc:
- Sao bỗng nhiên sương nhiều thế?
Viễn cẩn trọng ghìm vô lăng, chiếc xe chầm chậm trôi trong sương không một tiếng động, hàng cây đen sẫm ven đường đã biến mất cùng vầng trăng mờ ảo. Đi thêm một chặng ngắn nữa, anh chợt nhận ra mình vừa ngang qua ngã ba, tấm bảng hiệu phát sáng dưới ánh đèn chỉ lối rẽ dẫn lên động Bích Đào. Viễn nhìn rặng núi cắt một vệt mờ lên nền trời đêm thăm thẳm, bỗng nhiên nhớ rằng mười hai năm trước trong một lần đi cùng đoàn khảo sát thực địa khám phá các hang động đá vôi, anh đã tình cờ chụp được khoảnh khắc Lam ướm thử chân mình vào dấu chân tiên của Giáng Hương và thoáng qua một nét cười mê hoặc. Bức ảnh cũ của Lam, nụ cười bí ẩn trên gương mặt người thiếu nữ tuổi hai mươi thủa xa xôi ấy, giờ đây có lẽ úa màu trong cuốn an-bum phủ bụi nằm lăn lóc ở một xó u ám lãng quên nào đó. Viễn nghe lòng ngập tràn chua xót.
- Em biết không, đoạn đường này anh thấy rất quen - Viễn quay sang khẽ nói, ngạc nhiên thấy âm sắc giọng mình như có gì đó khác đi.
Thùy rời mắt khỏi ứng dụng bản đồ nhấp nháy sáng xanh trên màn hình điện thoại, nhíu mày nhìn thẳng vào màn đêm tăm tối:
- Em cũng cảm thấy thế, hình như GPS bị lỗi rồi. An Kinh chỉ cách bảy mươi chín ki lô mét nhưng hình như nãy giờ chúng ta đi hàng tiếng đồng hồ rồi mà vẫn cứ luẩn quẩn mãi ở đây.
Có lẽ chúng ta đã nhầm lẫn ở một ngã ba nào đó. Viễn nghĩ. Chuyến đi này cũng giống như quãng đời dằng dặc mà ai cũng phải trải qua, nhiều lối rẽ đến nỗi lữ khách hoang mang không tìm ra đường tới đích. Tháng trước Thùy đã chuyển công tác về được quận trung tâm thành phố, căn hộ đặt mua từ ba năm trước cũng đã hoàn thiện để bàn giao, cha mẹ hai bên bắt đầu chọn ngày đẹp cho các thủ tục cưới hỏi sau bao nhiêu năm chờ đợi. Đối diện với cánh cửa hôn nhân, Viễn không biết làm cách nào để trái tim mình thôi khắc khoải. Ngày đêm anh quay quắt nhớ An Kinh, nơi anh gặp Thùy lần đầu tiên, cũng là nơi anh gặp Lam lần cuối cùng. Điều bí mật ấy anh chôn sâu trong lòng, Thùy chưa bao giờ được biết.
- Có thể đêm nay mình sẽ không đến được An Kinh, đã quá muộn rồi em ạ.
Đúng lúc đó bên kia đường, khuất sau mấy cây cổ thụ lòa xòa bỗng xuất hiện một khách sạn nhỏ với tấm biển sáng đèn lấp lóa. Họ nhanh chóng quyết định sẽ rẽ vào nghỉ đêm ở đó thay vì thị trấn An Kinh như lịch trình vạch ra từ trước. Viễn rà phanh nhè nhẹ khi tiến vào khoảng sân vắng ngắt, nghe cát sỏi bắn lên rào rạo dưới gầm xe.
Sảnh chính khách sạn để ngỏ cửa nên sương tràn vào lạnh buốt, những bức họa trang trí treo trên tường bị hơi nước phủ mờ khiến cho mọi đường nét có vẻ chập chờn, người lễ tân sắc mặt trắng nhợt lẳng lặng đưa chìa khóa phòng cho họ mà chẳng hề hỏi một câu. Qua lối cầu thang ốp gỗ kêu kẽo kẹt dẫn lên tầng ba, họ mở cửa bước vào một căn phòng phảng phất mùi ẩm mốc. Thùy bối rối nhìn xung quanh, bất chợt phát hiện thấy một đám rêu xanh lốm đốm phía chân tường.
- Mình đổi chỗ đi anh, em cứ cảm thấy như thế nào ấy.
- Chịu khó ngủ một lát rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi - Viễn mỉm cười dịu dàng đưa tay vuốt tóc Thùy. Nhưng rồi dường như cảm thấy ngay cả giọng nói của mình cũng đã nhuốm vị bất an, anh buông thõng cánh tay xuống, xoay người ra phía màn sương mù mịt ngoài cửa sổ.
Từ Thức đốt một đống lửa lớn trước cửa lều. Lửa cháy giần giật soi bóng chàng đổ dài thành khối đen thẫm lên bức tường đắp bằng đất nện ở phía sau. Đêm nay là đêm nào mà sao trời nhiều mây, khí lạnh vần vũ khắp đất trời như cả mấy trăm năm tụ lại. May chàng trở về nhà sớm nếu không chắc hẳn đã lạc đường khi đuốc tắt, cõi trần mờ mịt làm sao tìm thấy lối đi.
Kể ra lạc đường cũng đâu có gì đáng sợ. Chàng chầm chậm thả một bông mẫu đơn khô vào lửa rồi đăm đắm nhìn ngọn khói bốc lên. Cả đời chàng chưa bao giờ sợ hãi. Chàng chỉ day dứt vì thất vọng. Một trăm năm trước, chàng đã thất vọng biết bao khi dấn thân vào chốn quan trường. Một trăm năm sau, chàng thất vọng đọc lại những bài thơ của mình khắc nhan nhãn khắp núi này non nọ khi cởi áo từ quan. Trên chặng đường lang bạt giữa cõi trần gian, điều duy nhất an ủi chàng là khoảnh khắc gặp gỡ Giáng Hương buổi chiều mùa xuân ấy, hoa mẫu đơn đỏ rực trước cổng chùa, ánh mắt người thiếu nữ ngập ngừng bối rối. Thế nhưng chàng không lường trước rằng đó chính là giờ phút cuộc đời mình bước sang một bi kịch khác.
Giáng Hương trở về trời, đem lòng tương tư chàng trai nơi hạ giới đã cởi áo gấm cứu mình khỏi bị giam giữ bởi trót vin gãy một cành hoa. Tình yêu vô vọng giày vò nàng đến héo mòn. Ngụy phu nhân xót thương con gái, quyết định dẫn lối cho Từ Thức lên cõi tiên để đôi trẻ được nên duyên. Cửa Thần Phù mở ra đúng lúc Từ Thức đang trên đường ngao du sơn thủy. Cuộc hội ngộ trên gác Dao Quang, bữa tiệc với quần tiên rồi đêm động phòng hoa chúc, Từ Thức ở lại bên nàng thấm thoắt được một năm nồng nàn hương lửa.
Nhưng rồi dần dần chàng nhận thấy, đây vốn không phải là chỗ của mình.
Ngày Từ Thức ngỏ ý muốn rời khỏi động Bích Đào, Giáng Hương lặng đi vì một linh cảm đầy đau xót. Ngụy phu nhân nở nụ cười lạnh lẽo:
- Tiên giới đâu phải là nơi để kẻ phàm trần muốn đến thì đến, muốn đi thì đi.
- Phu nhân không cho tại hạ trở về chốn cũ được sao?
Ngụy phu nhân thở dài:
- Cái gọi là chốn cũ chẳng qua chỉ là một giấc mộng trong cõi nhân gian. Kiếp người ngắn ngủi giữa vạn vật xoay vần, thứ mà ngươi đã đánh mất vĩnh viễn sẽ không bao giờ tìm lại được.
Nói xong liền phất áo quay đi. Từ Thức đến gác Dao Quang, thấy Giáng Hương đang ngồi gảy đàn. Tiếng đàn nhỏ xuống giọt giọt buồn bã như mưa rơi trong đêm. Từ Thức quả quyết nói:
- Nàng hãy đi cùng ta. Cuộc sống chốn nhân gian dù ngắn ngủi nhưng vẫn đủ ấm lạnh một kiếp người, ta và nàng đã nên duyên với nhau ở đó.
Hai vợ chồng rời khỏi động tiên. Ngụy phu nhân giận dữ dùng thuật phong thành làm sương trắng đùn lên vần vũ che mờ bốn cõi. Từ Thức nắm tay Giáng Hương dấn bước về phía trước trong cảnh trời đất tăm tối hỗn mang. Đến ngày thứ bảy thì Giáng Hương rùng mình nhận thấy bàn tay phu quân đang nắm chặt tay mình dần dần chuyển sang giá lạnh. Nàng nhớ ra chàng vốn là kẻ phàm trần, muốn đi hết chặng đường này phải mất một nghìn năm. Hai người vĩnh viễn không thể nào cùng nhau đến đích.
Nàng ngậm ngùi bái vọng mẹ cha rồi rút hết tiên khí hóa thành luồng sương lam mỏng, luồng sương bốc lên cuốn lấy Từ Thức vượt qua vạn dặm đường trở về làng cũ nơi một trăm năm đã trôi qua. Từ Thức vừa chạm vào cõi trần thì tiên khí trong người Giáng Hương đã cạn, thân thể nàng trở nên nhẹ bẫng rồi từ từ tan vào hư ảo khói mây.
Khi tỉnh lại, Từ Thức chỉ thấy bên cạnh mình mơ hồ một dấu chân rất mỏng, chàng lặng lẽ dựng lều ở ngay chốn đó.
Đêm đã xuống rất sâu mà Viễn vẫn không thể nào ngủ được. Anh xoay người sang phía Thùy, lặng ngắm gương mặt cô bắt sáng dưới ánh đèn dìu dịu, mái tóc đen mềm mại xõa xuống gối, làn môi hơi hé mở. Lần đầu tiên gặp nhau Thùy hãy còn là sinh viên năm cuối mà bây giờ cô đã bước qua tuổi ba mươi. Lẽ ra họ đã về chung sống dưới một mái ấm từ rất lâu nếu như anh có thể vượt qua những giấc mơ dai dẳng về An Kinh, tiếng gọi cuối cùng của Lam và cơn mưa chiều định mệnh ấy.
Viễn khẽ thở dài. Anh lặng lẽ bước ra ngoài ban công, lắng nghe sương nặng hạt đổ qua vòm cây rền rĩ. Xung quanh im lìm vắng rợn, dưới ánh trăng mờ, khoảng sân bên dưới hiện lên có vẻ hoang vu đổ nát. Thế rồi anh bỗng nhìn thấy hình như có ai đó vừa đốt một đống lửa ở phía góc sân, lửa cháy to đến mức từ chỗ này có thể thấy những tàn tro bay lên thấp thoáng ngay sát chiếc xe của anh đang đậu. Viễn nhớ lúc vào anh không tìm thấy gara nên phải để xe trước sảnh, bây giờ chẳng hiểu sao nó lại dịch chuyển ra nằm ngay cạnh đó.
Thùy vẫn còn say ngủ sau một chặng đường dài mỏi mệt, Viễn quyết định đóng cửa phòng lại rồi lần qua lối cầu thang gỗ sáng lờ mờ để đi xuống dưới sân. Cửa sảnh chính vẫn để ngỏ cho sương tràn vào cuồn cuộn, đèn sáng nhưng lễ tân vắng mặt, chiếc xe của anh nằm nguyên vị trí cũ và đống lửa vẫn cháy sáng rực rỡ nhưng thực ra ở một chỗ khá xa. Viễn tò mò bước về phía ấy.
Anh nhìn thấy một người đàn ông trầm tư trước lều, bóng đổ thành một vệt dài đen thẫm lên bức tường đất nện phía sau.
- Xin lỗi, tôi có thể ngồi đây một lát được không?
Người đó ngẩng đầu lên, Viễn hơi ngạc nhiên vì bắt gặp một cái nhìn rất lạ thoáng qua trên đôi mắt xa xăm bí ẩn. Anh ta gật đầu rồi tiếp tục ném từng mảnh vỏ khô vào đống lửa.
- Đêm nay sương nhiều quá.
- Không phải sương đâu - Người đàn ông bình thản nói - Đây là sơn vân, một loại mây sinh ra từ khí núi, mấy chục năm mới có một lần.
Viễn bỗng nhớ một hôm xa xôi nào đó Lam từng kể cho anh nghe về cuốn sách cô đang đọc, trong đó người ta viết rằng cứ một trăm năm ở vùng núi sẽ có vài đêm xuất hiện sơn vân, nhìn giống như sương mù nhưng thực ra là hơi lạnh thoát ra từ khe núi. Trong đêm sơn vân tất cả các cõi đều mở cửa, người phàm trần, tiên giới và âm hồn có thể gặp nhau giữa chốn nhân gian. Hình như đó là buổi tối họ cắm trại nơi một ngọn đồi không tên trên cung đường Tà Năng - Phan Dũng, Lam đọc sách dưới ánh đèn pin còn anh mải mê xem những bức ảnh mình vừa chụp được. Trong tĩnh lặng của rừng đêm sâu thẳm, Lam bất chợt quay sang anh khẽ nói, em đợi sơn vân để tìm lại một người.
Đêm sơn vân này anh có thể gặp lại Lam chăng? Lần cuối cùng họ bên nhau là mùa xuân ở An Kinh, anh và Lam tham gia một nhóm lữ hành khám phá cung đường hoang sơ phía sau rặng núi Cấm. Sáng sớm ngày thứ hai trong chặng hành trình, bình minh vừa ló rạng, đoàn leo núi vượt qua một trảng đất trống mọc thưa thớt vài bụi mẫu đơn. Ba người đầu tiên bắt đầu tiến lên con dốc thì Viễn phát hiện ra bên phải có một hẻm vực sương bay ngùn ngụt nên thận trọng rẽ sang với ý định chụp vài tấm ảnh. Đúng lúc đó một vầng sáng lóe lên ở phía sau, Lam cất tiếng kêu thảng thốt. Tiếng gọi lạ lùng đến nỗi Viễn quay lại ngay lập tức nhưng trảng đất mà Lam vừa đứng đột nhiên vắng ngắt, bụi mẫu đơn rung lên. Ba lô leo núi nằm nguyên đó nhưng Lam đã biến mất như thể bốc hơi trong không khí.
Ngay sau đó trời đổ mưa dữ dội. Mưa cuốn trôi mọi dấu vết khiến cho cuộc tìm kiếm của đội cứu hộ trở nên khó khăn. Suốt một tháng ròng rã họ cày xới từng góc nhỏ quanh núi Cấm nhưng không phát hiện ra bất cứ vết tích nào của Lam. Cuối cùng hồ sơ buộc phải khép lại bằng kết luận Lam mất tích do lạc rừng. Năm tháng trôi qua, nỗi đau dần nguôi ngoai, cha mẹ Lam đã từ bỏ việc kiếm tìm trong vô vọng để lập bàn thờ con gái. Chỉ riêng Viễn luôn bị day dứt bởi ý nghĩ biết đâu Lam vẫn đang còn lang thang ở một ngả rừng nào đó. Sẽ ra sao khi cô đột nhiên trở về và thấy mọi người đang tiếp tục sống một cuộc đời mới mà lãng quên cô? Đôi khi đang say đắm bên Thùy, nỗi ám ảnh ấy bỗng nhiên trỗi dậy khiến hai bàn tay anh cứng đờ còn thân thể trở nên lạnh buốt. Những lúc đó Thùy chỉ biết ôm anh vào lòng, dịu dàng nói rằng cô sẽ đợi.
Thùy giật mình tỉnh khỏi giấc mơ chập chờn bởi tiếng động của một cành cây va vào cửa sổ. Hình như bên ngoài có một luồng gió nào đó vừa rít lên. Phải mất một lúc Thùy mới nhớ ra mình đang ở đâu, cô vội quờ tay sang bên cạnh nhưng không thấy Viễn, xung quanh chỉ có một khoảng lặng im thăm thẳm.
Vẫn luôn có một khoảng trống vô hình với Viễn mà Thùy biết mình không có cách nào để vượt qua, tình yêu của họ đã nhuốm màu bất hạnh ngay từ lần đầu tiên tình cờ gặp gỡ. Hôm ấy An Kinh mưa rất to, cô nhìn qua cửa sổ căn phòng áp mái của homestay xuống dưới sân, thấy một người đàn ông đứng lặng dưới mưa, tưởng như bao nhiêu nước rơi xuống từ trời cũng không thể cuốn hết nỗi đau buồn đè nặng lên bóng người cô độc. Thùy biết đó là người đàn ông thuê phòng ở lầu dưới, bà chủ homestay kể rằng mùa xuân nào anh ta cũng đến đây bởi rặng núi phía sau An Kinh chính là nơi bạn gái anh ta đã mất tích trong chuyến thám hiểm. Lúc đó không hiểu điều gì thôi thúc Thùy bước xuống. Cô cầm tay người đàn ông xa lạ và nói: Quay vào đi anh, sao phải khổ thế này. Người đàn ông vẫn đứng im. Thùy liền thả cây dù xuống mặc cho mưa tuôn vào mặt xối xả. Bạn trai cô hẹn gặp ở An Kinh nhưng rồi không đến, bốn năm tha thiết dưới mái trường đại học vừa kết thúc bằng một tin nhắn chia tay. An Kinh ngày đó có hai người cô đơn bỏ mặc mình ướt sũng dưới mưa.
Không có cách nào ngủ lại được, Thùy bật đèn lên, căn phòng khách sạn với bức tường sơn tróc lở hiện ra dưới ánh sáng mờ ảo. Điện thoại của Viễn đang sạc pin. Đồng hồ chỉ gần năm giờ sáng. Thùy rửa mặt cho tỉnh táo rồi khoác áo bước ra khỏi phòng. Hành lang hun hút vắng, cầu thang vắng, khu lễ tân cũng vắng. Ngoài sân sương còn dày, cô lại gần chỗ đậu xe với hy vọng sẽ nhìn thấy Viễn đang ở đó.
Chiếc ô tô của họ nằm im lìm giữa một khoảng đất mọc đầy cỏ dại, bên cạnh là mấy ghế đá gãy chân, vài tấm lưới mắt cáo quăng vương vãi. Thùy loanh quanh tìm kiếm một lúc nhưng không hề thấy một bóng người nào, cô vừa bước lên sảnh thì bỗng giật nảy mình bởi tiếng ai gọi phía sau:
- Này cô kia, cô làm gì ở đây vậy?
Thùy quay lại và thấy một người đàn ông mặc bộ đồ bảo hộ lao động đã cũ, xa xa phía sau lố nhố vài người nữa.
- Xin lỗi, tôi tìm một người bạn.
- Có gì ở đây mà tìm - Người đàn ông tỏ vẻ giễu cợt - Làm ơn đi chỗ khác đi, đây là công trường chứ không phải chỗ để các người này nọ.
Thùy không giấu được nỗi ngạc nhiên:
- Anh nói công trường là sao ạ?
- Là nơi để làm việc chứ còn sao nữa. Khách sạn này bị bỏ hoang lâu rồi, bắt đầu từ hôm nay công ty cho đập bỏ để giải phóng mặt bằng nên chúng tôi được cử đến trước tháo dỡ đồ đạc - Quay sang đám công nhân, anh ta chặc lưỡi bảo - Nghỉ ngơi hút điếu thuốc đã anh em. Mẹ kiếp cái lão Vạn trời còn chưa sáng đã giục người ta dậy, miệng leo lẻo bảo làm sớm kẻo sương nhiều trưa nắng to. Có thấy quái gì đâu mà đòi làm.
Tốp công nhân lục tục ngồi bệt xuống vươn vai ngáp ngủ. Thùy vội vã lao lên tầng, giẫm qua đám gạch vỡ và lá khô lào xạo. Đến trước căn phòng mình nghỉ tối qua mới sửng sốt nhận ra hóa ra nó không có cửa, bên trong thậm chí cũng chẳng có rèm, trên chiếc giường sắt trơ khung không có chăn ga gối, hai chiếc túi của họ vẫn còn chỏng chơ ở đấy. Thùy luống cuống thu dọn xong đồ đạc mang xuống xe thì sương dần tan bớt đi, thoáng nghe tiếng gà eo óc gáy tàn đêm mà Viễn vẫn chưa thấy quay trở lại.
Cô thảng thốt gọi tên anh trong vô vọng.
Trời chuyển dần từ đêm về sáng, người đàn ông thả bông hoa khô cuối cùng vào đống lửa, một làn khói sáng xanh bốc lên kèm theo mùi hương kì lạ. Viễn thốt lên:
- Hoa mẫu đơn.
Người đàn ông trầm ngâm:
- Ngày trước nàng nói thích mẫu đơn, ta đã dành bao nhiêu năm ròng rã để trồng hoa mà chờ hết những đêm sơn vân như thế này vẫn chưa một lần gặp lại.
- Có thể cô ấy đang lưu lạc ở một nơi nào đấy. Những người có duyên sớm muộn rồi cũng sẽ tìm đến được với nhau.
Nhìn về phía màn sương loãng dần dưới ánh rạng đông, người đàn ông bảo Viễn:
- Gặp nhau là duyên, chia xa là phận. Nhân gian như cõi mộng, nhiều khi phải biết buông bỏ cho nhẹ lòng.
Viễn như sực tỉnh, anh chợt nhớ ra mình đã để Thùy lại một mình trong khách sạn quá lâu, nếu giờ này thức dậy không thấy anh chắc cô vô cùng lo lắng. Anh chào người đàn ông rồi nhanh chóng bước đi. Chỉ mới được hơn chục bước chân, Viễn thấy mình dường như bị lạc bởi luồng sương loãng vây quanh, anh nhìn về túp lều của người đàn ông lạ để định hướng nhưng phía đó giờ cũng chỉ một màu trắng xóa. Không còn vết tích nào của đống lửa đã cháy suốt đêm qua.
Viễn lang thang vô định trong sương, hai chân mỏi rã rời, hơi lạnh phả vào mặt buốt giá. Rạng đông bừng lên một góc trời, những tia sáng xuyên thấu không gian khiến bức màn hơi nước bắt đầu dịch chuyển phản xạ muôn màu lấp lánh. Dưới bình minh vần vũ khói sương, Viễn sửng sốt thấy mình đang đứng ngay ở trảng đất trống mười năm về trước dưới chân núi Cấm, từng chi tiết trong câu chuyện cũ hiện lên rõ ràng ngay trước mắt như một đoạn phim chầm chậm. Đoàn leo núi đi ngang qua mấy bụi mẫu đơn thưa thớt vừa trổ hoa. Ba người đầu tiên bắt đầu tiến lên con dốc. Viễn lúc đó quay sang nói gì với Lam rồi mang máy ảnh rẽ về phía hẻm vực sương bốc lên ngùn ngụt. Đúng lúc ấy một vầng sáng đột ngột xuất hiện, thấp thoáng hình ảnh người đàn ông bên túp lều cũ lướt qua. Lam kêu lên thảng thốt đuổi theo rồi thả mình cuốn vào trong vầng sáng. Đến lúc này Viễn mới nghe rõ tiếng gọi của Lam mà mười năm trước anh chưa kịp nghe thấy, người con gái ấy gọi tên Từ Thức.
Từ Thức. Người đàn ông đêm đêm hóa từng bông mẫu đơn khô trên ngọn lửa.
Ngày xưa Lam nói cả đời này cô chỉ thích mẫu đơn.
Viễn choáng váng ngã xuống một đường hầm hun hút. Anh đang buông mình trôi đến cuối hầm rồi tiến về vùng sáng thấp thoáng ở bên kia thì bỗng nghe thấy vang vọng trong sương tiếng Thùy khắc khoải gọi mình. Tiếng gọi tha thiết đó giữ anh ở lại.
Đội cứu hộ tìm thấy Viễn dưới một hẻm núi cách khá xa nơi khách sạn bỏ hoang mà Thùy trình báo họ lạc vào trên đường đến An Kinh. Viễn hoàn toàn bất tỉnh, chấn thương ở đầu, mất máu, mất nhiệt, suy hô hấp nghiêm trọng nhưng vẫn còn dấu hiệu sinh tồn. Không ai giải thích được vì sao anh lại rơi vào một tình huống lạ lùng như vậy.
Viễn tỉnh dậy trong bệnh viện, người đầu tiên anh trông thấy là Thùy, đôi mắt trũng sâu mỏi mệt nhưng cái nhìn vẫn luôn lấp lánh yêu thương như thế.
- Anh làm em sợ quá - Thùy gần như bật khóc - Có rất nhiều chuyện kinh khủng xảy ra và em cứ tưởng mình đã để mất anh.
Viễn khẽ khàng nắm lấy tay Thùy trong bàn tay anh ấm áp:
- Anh xin lỗi, anh hứa từ nay sẽ không bao giờ để em phải buồn lo nữa. Mọi chuyện đã qua rồi. Có lẽ chúng ta tình cờ mắc kẹt trong đêm sơn vân nên đi lạc vào một chiều không gian khác. Thật may mắn vì cuối cùng anh vẫn trở về được bên em.
Trăng xanh lạnh buốt. Rặng núi phía xa chìm trong sương trắng. Bên ngoài căn lều của Từ Thức, đống lửa đã cháy tàn đột ngột bừng sáng, soi bóng một người con gái áo xanh chập chờn ẩn hiện. Nàng lặng yên trong khoảnh khắc u buồn rồi vụt tan đi. Từ Thức đưa tay với theo nhưng ảo ảnh thoáng qua nhanh, phía đó chỉ còn lại mơ hồ dấu chân rất mỏng.
Nhân gian như cõi mộng. Chờ đến đêm sơn vân nào mới có thể gặp lại được nhau...
25/9/2020
Trần Thị Tú Ngọc
Theo http://vannghequandoi.com.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...