Yếu tố tính dục trong
thơ nữ cách tân Việt Nam đương đại
Trong thơ nữ Việt Nam đương đại có rất nhiều vấn đề lý thú để nghiên cứu, nhưng trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi tập trung khảo
sát, phân tích, đánh giá vấn đề yếu tố tính dục trong bộ phận sáng tác trẻ
trung, mới mẻ này.
1. Vài nét về vấn đề tính dục trong thơ Việt Nam từ trung đại đến
hiện đại
Với truyền thống văn hóa Á Đông, với sự ảnh hưởng của Nho
giáo, vấn đề tính dục được coi là vấn đề nhạy cảm, tránh hoặc ít được đề cập,
miêu tả trực tiếp trong thơ Việt Nam từ trung đại đến hiện đại. Nếu được đề cập
thì các nhà thơ thường dùng uyển ngữ, nhã ngữ để phủ một “màn sương duy mĩ” lên
đối tượng và hoạt động tính giao bị coi là “thô tục” này: “Tiếc thay một đóa trà
mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về” (Truyện Kiều - Nguyễn Du); hay là: “Cái
đêm hôm ấy đêm gì/ Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng” (Cung oán ngâm
khúc - Nguyễn Gia Thiều).
Sang đến phong trào Thơ Mới Việt Nam 1932-1945, từ sự ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây, một số nhà thơ mới đã táo bạo hơn: “Hãy sát
đôi đầu, hãy kề đôi ngực/ Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài” (Xa cách -
Xuân Diệu).
Nhưng cũng chỉ có một mình Xuân Diệu dám cách tân đến thế,
còn ẩn ý tính dục trong thơ Hàn Mặc Tử cũng chỉ dám mượn thiên nhiên mà thổ lộ: “Ô
kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe” (Bẽn lẽn
- Hàn Mặc Tử).
Còn Bích Khê cũng mới chỉ dám miêu tả đến mức tả người trong
tranh để ngợi ca vẻ đẹp thân thể của con người trần thế: “Nàng ở mô? Xiêm
áo bỏ đâu đây/ Ðến triển lãm cả tấm thân kiều diễm./ Nàng là tuyết hay da nàng
tuyết điểm?/ Nàng là hương hay nhan sắc lên hương?/ Mắt ngời châu rung ánh sóng
nghê thường;/ Lệ tích lại sắp tuôn hàng đũa ngọc./ Ðêm u huyền ngủ mơ trên mái
tóc./ Vài chút trăng say đọng ở làn môi./ Hai vú nàng! hai vú nàng! chao ôi!/
Cho tôi nút một dòng sâm ngọt lộng./ Ôi lồ lộ một tòa hoa nghiêm động!/ Tôi run
run hãm lại cánh hồn si…” (Tranh lõa thể - Bích Khê).
Suốt 30 năm thơ Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng vốn chỉ phản ánh cái Đẹp,
cái Cao cả đã không dung nạp yếu tố tính dục, vì thế trai gái yêu nhau cũng chỉ
dám: “Dấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng
xóm” (Hương thầm – Phan Thị Thanh Nhàn).
Chính vì quãng thời gian “cấm kỵ” vấn đề tính dục quá dài, những
câu thơ sau của Dư Thị Hoàn mới gây xôn xao đến thế trong công chúng và trên
thi đàn: “Sau phút giây/ Êm đềm trên ghế đá/ Anh không cài lại khuy áo ngực
cho em”.
Nhưng từ 1986 đến nay, ảnh hưởng của văn hóa, văn học phương
Tây như những luồng gió mới ào ạt thổi vào thi đàn Việt Nam, gặp gỡ với nhu cầu
mãnh liệt cách tân thơ Việt của các nhà thơ, đặc biệt là với các nhà thơ nữ trẻ.
Sự gặp gỡ ấy tạo ra một “cơn bão” thổi bùng những tia lửa còn rụt rè cháy ở
giai đoạn giao thời 1975 – 1987, với một số nhà thơ nữ “nửa truyền thống, nửa
cách tân” như Ý Nhi, Đoàn Lam Luyến, Dư Thị Hoàn, Tuyết Nga, Bùi Kim Anh, Thảo
Phương, v.v..., để từ đây, những “tia lửa” kia trở thành một “biển lửa” với Vi
Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Phan Thị Vàng Anh, Trần Lê Sơn Ý,
Phương Lan, Thanh Xuân, Nguyệt Phạm, Khương Bùi Hà, Trương Quế Chi, v.v..
Ở thế hệ giao thời, vấn đề tính dục đã được đề cập đến, nhưng
còn rụt rè, chừng mực. Bài thơ “Tan vỡ” của Dư Thị Hoàn được ví như một tiếng
sét nổ giữa “khu vườn thơ” truyền thống, vốn quen giấu những cảm xúc, suy nghĩ
về tính dục thật sâu trong những làn “vải bọc” lễ giáo với “công - dung - ngôn
- hạnh”, sự e ấp, kín đáo đã thành truyền thống ngàn năm của phụ nữ Việt bắt đầu
bị “rạn vỡ”: “Mở ngăn kéo rồi anh bỏ ngỏ/ Bút viết xong không đậy nắp bao
giờ/ Ôi anh yêu, lơ đãng đến là/ Con nai rừng của em…/ Tất cả rồi dễ qua đi, qua
đi/ Chúng mình sẽ thành chồng vợ/ Nếu không có một lần/ Một lần như đêm nay/
Sau phút giây/ Êm đềm trên ghế đá/ Anh không cài lại khuy áo ngực cho em” (Tan
vỡ - Dư Thị Hoàn).
Với các nhà thơ nữ cách tân giai đoạn đầu, bên cạnh Ý Nhi, Dư
Thị Hoàn thì không thể không nhắc đến Thảo Phương với “Người đàn bà và tấm khăn
choàng”: “Đường đời chông chênh/ Người đàn bà/ choàng khăn/ che dung nhan
- đức hạnh/ che tì vết - lỗi lầm/ (…)/… Rồi một hôm/ Người đàn bà buông tấm
khăn choàng/ hừng hực cháy/ vô nghĩa!/ Để lịm dần trong một nụ hôn dài/ và hóa
thành chiếc-xương-sườn - Adam…/ Đường/ đời/ mênh/ mang…”.
Hình ảnh “tấm khăn choàng” trở thành biểu tượng cho sự vây bủa,
kìm hãm, trói buộc không chỉ tuổi xuân, nhan sắc mà còn cả những khát khao tính
dục thường tình của phụ nữ, vốn bị che dấu, khuất lấp đã ngàn năm, rồi từ đây với
khao khát “tự do - tự tin…” người con gái ấy đã “buông tấm khăn choàng” buộc phải
sử dụng suốt bao thế hệ, để “hừng hực cháy - để lịm dần trong một nụ hôn dài”.
Nhưng sau “nụ hôn dài” ấy là gì thì họ không dám kể tiếp, dù sự tự thú này đã
là vô cùng dũng cảm khi so với các “đàn chị” ở thế hệ trước: “Vòng tay
tròn hết tình trăng/ Xin anh hôn chỉ vết rằm tình em” (Lê Thị Mây); hay là: “Trong
âm vang em giống giọt sương đọng lại/ Dưới đôi môi anh bỏng cháy” (Phạm Thị Ngọc
Liên).
2. Yếu tố tính dục trong thơ nữ cách tân Việt Nam đương đại
Chỉ đến thơ nữ Việt Nam đương đại theo xu thế cách tân, yếu tố
tính dục mới xuất hiện dày đặc, táo bạo nhiều khi như thách thức mọi “khuôn
vàng thước ngọc” định sẵn ngàn đời cho phụ nữ. Vi Thùy Linh đã thẳng thắn bày tỏ
quan điểm về vấn đề tính dục trong đời sống và trong thơ chị: “Tình yêu cần sự
hòa hợp của cả thể xác và tâm hồn. Thơ tôi nói về tình dục như một khía cạnh
trong tình yêu”. Hầu hết các nhà thơ nữ thuộc xu thế cách tân đã qua sáng tác của
mình mà bày tỏ quan niệm về vấn đề tính dục trong thơ: thành thực với mình, với
mọi người cả ở những vấn đề vốn được coi là nhạy cảm như tình dục, qua việc
miêu tả trực tiếp thân thể phụ nữ, hoạt động ái ân, tư thế và thái độ chủ động
trong hoạt động giao hoan với người mình yêu, v.v...
Những biểu hiện lạ lẫm từng bị coi là “nổi loạn” này bộc lộ
khát vọng bình đẳng giới, khẳng định giá trị độc lập, chủ động, không tòng thuộc
nam giới của phụ nữ hôm nay. Nó cho thấy sự thay đổi lớn lao về quan niệm thẩm
mĩ, về các chuẩn mực đạo đức trong “thang” giá trị, tồn tại lâu đời trong đời sống
xã hội Việt Nam đương đại. Tuy nhiên, sự thay đổi ấy là đúng hay sai, có điểm
nào khả thi, điểm nào cần phê phán thì phải căn cứ vào những tác phẩm cụ thể của
từng nhà thơ trong bộ phận sáng tác này.
* Trực tiếp miêu tả những bức họa khỏa thân đang khát
khao tính dục
Các nhà thơ nữ theo xu thế cách tân đã gây shock với độc giả,
với các nhà thơ sáng tác theo thi pháp truyền thống khi phơi bày vẻ đẹp thân thể
đang đợi chờ, đam mê với tính dục trong thơ. Đây là hiện tượng chưa từng có trong
thơ nữ Việt Nam trước đây. Ngay cả thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng chỉ dám sử
dụng hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng để phản ánh điều đó, như: quả mít, ốc nhồi,
cái quạt, bánh trôi nước…
Giờ đây, các thi sĩ nữ trẻ gọi đích danh các bộ phận trên cơ
thể nữ bằng đúng tên gọi của nó. Thủ pháp hoán dụ được sử dụng để từ một bộ phận
nhạy cảm này biểu đạt toàn bộ thân thể nữ giới mang hai đặc điểm: đẹp; đang run
rẩy vì khát khao tính dục. Vi Thùy Linh quan niệm ngực là nơi gửi đi tín hiệu
hòa hợp cùng tình dục: “Cảm thấy tiếng gọi lan trên hai bầu vú” (Thiếu phụ và
con đường). Còn với Phan Huyền Thư, ngực lại là nơi đón nhận sự kích thích ham
muốn từ một nụ hôn: “Nụ hôn gióng căng ngực miền trắc ẩn” (Do dự). Không chỉ có
thế, những eo, đùi, lưng, chân, môi,… cũng được miêu tả trực tiếp trong tư thế
đợi chờ giao hoan đến khát cháy: “Chầm chậm, mở một chiếc nút áo/ Soi vào
gương chầm chậm, mở hai chiếc nút áo (…)/ …Mở mãi, muốn mở mãi/ Mở bầu trời đêm
trong lồng ngực/ Nhưng áo chỉ năm nút/ Nhưng đêm là vô tận/ Mở mãi, muốn mở
mãi/ Mà bầu ngực vẫn trắng, không đêm/ Mở mãi, muốn mở mãi/ Bầu ngực này căng
đêm/ Soi vào gương/ Bất lực và khóc/ Trong vô vàn những giọt nước mắt/ Một giọt
đêm ứa ra từ bầu ngực trắng.” (Mở nút đêm - Ly Hoàng Ly).
Hình ảnh “bầu trời đêm” tượng trưng cho khát khao ẩn ức tính
dục giấu kín trong lồng ngực, còn thi ảnh “mở bầu trời đêm” lại tượng trưng cho
khát vọng được đắm mình trong đam mê nhục cảm nhưng bất lực trong cô đơn, để rồi
phải “bất lực và khóc” của nữ nhà thơ ấy.
Vi Thùy Linh lại tự họa thân thể nude của mình trong khát
khao ân ái: “Cơ căng tia mặt trời/ Ngước mắt nhận nguồn sinh khí/ Nhịp nhàng muốt
sóng/ Soi thần thái từng mi li hình vóc…/… Này đứng lên/ Vươn tay đan tay/ Như
một cây vĩ cầm/ Đêm Nude/ Vili violin trắng…”(Vi Thùy Linh).
Có một nhà văn từng viết: “Cơ thể phụ nữ là một cây đàn tuyệt
diệu đang chờ đôi bàn tay của người yêu chạm vào để ngân vang những âm thanh mê
đắm nhất”. Vi Thùy Linh đã thơ hóa nhận định kia, vẽ bằng ngôn từ bức họa về vẻ
đẹp của thân thể người phụ nữ trong tình yêu và trong khát khao tính dục.
Phan Huyền Thư còn táo bạo hơn khi miêu tả thân thể người con
gái sau cuộc ái ân còn run rẩy những khát thèm: “Em thèm miết ngón tay/
Không vị mặn của anh/ Mắt/ Môi/ Lưỡi/ Răng/ Nha phiến/ Anh ở đâu sót lại trong
vết xước/ Em cào ngực rách ra những vì sao” (Điệp khúc mùa đông - Phan Huyền
Thư).
* Trực tiếp miêu tả những động tác giao hoan cuồng nhiệt
của người con gái đang yêu
Trong thơ nữ Việt Nam truyền thống, từ thời trung đại đến hiện
đại, chưa từng xuất hiện cảnh giao hoan và tư thế, động tác cuồng nhiệt của
nhân vật trữ tình là phụ nữ. Chính vì vậy, khi những “bức họa” gây shock này xuất
hiện đã dẫn tới những tranh luận trái chiều trong giới phê bình văn học và
trong công chúng văn học.
Đây là lần đầu tiên xuất hiện trong thơ nữ Việt Nam cảnh ân
ái được miêu tả từ điểm nhìn của phái nữ: “Anh/ Ngửa bàn tay/ Sấp bàn tay/ Trốn
tìm rồi chạy đuổi/ (…)/… Mắt trong mắt nồng nàn như lửa/ Thách thức cả bóng đêm
lẫn mặt trời (…)/… Xin anh giữ chặt vai em/ Cùng xoay những vòng chóng mặt/ Thảo
nguyên rỉ máu từ những hố sâu rều rĩ đòi trở lại hoang mạc,/ Quằn quại nỗi đau
tìm về khởi thủy/ Một vòng xoay/ Hai vòng xoay…” (Thụy Du Khương Hà)
Những hình ảnh “mắt”, “vai” là hình ảnh hoán dụ biểu tượng
cho thân thể người phụ nữ trong hoạt động tính giao mê cuồng đã được “thơ hóa”.
Phương Lan trong “Những mảnh ghép của ngày” còn “vẽ” cảnh tượng
giao hoan bằng những nét vẽ dữ dội hơn: “Có thể một giấc mơ mất tích
trong cái ngáp của một giấc mơ khác /(…)/ Em đáp lại âm âm tiếng gọi bằng từng
cơn run rẩy bật cong mình/ Em bơi trong khoảng nghẹn đặc tầng sương mù bốc hơi
từ ảo ảnh về ngày…”.
Nhưng có lẽ nhà thơ viết nhiều, viết táo bạo nhất về đề tài
này là Vi Thùy Linh - nhà thơ tự ngắm rồi tự yêu thân thể mình trong giao hoan
bất tận, với trùng điệp những thi ảnh đắm đuối và bạo liệt nhất gắn với yếu tố
tình dục: “Ngón tay đón mạch máu ở gáy/ Anh, mồ hôi dọc lưng anh/ Eo nàng,
đồng hồ cát tuôn chậm/ Hôm nay/ Ngày - đêm 32 giờ/ Thân thể nàng là vĩ cầm đang
đợi/ (…)/ … Cây cầu tay quàng cổ anh/ Mắt rừng rực bão bùng nguyên thủy/ Cuồng
lưu tìm đáy thẳm giữ dịu dàng tụ lại…” (Vũ trụ trong tay - Vi Thùy Linh);
hay là: “Giang cây cầu cánh tay/ Đến nhau bằng môi nóng” (Thay - Vi
Thùy Linh).
Nhưng cũng chính nữ thi sĩ gây tranh luận, thậm chí phải nhận
sự chỉ trích nhiều nhất này, đôi khi quên mất đặc trưng quan trọng nhất của thơ
là tính thẩm mĩ, gắn với cái đẹp, mang lại mỹ cảm cho người đọc, nên sa vào dung
tục: “Khỏa thân trong chăn/ Thèm chồng (…)” (Chân dung - Vi Thùy
Linh); “Trăng đêm tháng Mười như cái sừng bò đâm vào em êm dịu” (Tín
hiệu - Vi Thùy Linh).
Phan Huyền Thư kín đáo hơn nhưng vẫn biết cách gợi tả về khát
khao ái ân của người phụ nữ, thậm chí là hoài niệm và mong mỏi về hạnh phúc
thân xác đã qua: “Tay em/ Lúc quấn quýt thành giường/ Lúc mỏi mòn ngậm miệng/
Anh biết không/ Em vẫn chìa tay/ Thế kỷ sau/ Biết đâu có một ngày…”(Van nài -
Phan Huyền Thư).
Nguyễn Thị Thúy Hạnh sử dụng thủ pháp chuyển đổi cảm giác kết
hợp với tượng trưng để gợi tả thân thể người phụ nữ trong hoạt động tính
giao: “Chân em dài ba tiếng đồng hồ/ Ngực anh thở bốn mùa bất ổn” (Tạm
biệt thành phố - Nguyễn Thị Thúy Hạnh).
Bên cạnh những bài thơ, câu thơ hay viết về yếu tố tính dục của
thơ nữ Việt Nam đương đại theo xu thế cách tân, chúng tôi thấy vẫn còn xuất hiện
những thử nghiệm đổi mới không thành công, nhiều khi sa vào thô tục, phản cảm.
Những bài thơ, đoạn thơ miêu tả hoạt động tình dục một cách
phản cảm không nhiều, nhưng đã gây ra sự phê phán quyết liệt từ các nhà phê
bình văn học và độc giả. Sự phê phán ấy lại có lý do và không sai. Khi thơ nữ
Việt Nam đương đại trực tiếp miêu tả hoạt động tính giao qua các hình ảnh
tượng trưng, ẩn dụ đã gây shock, vì đây là lần đầu tiên hiện tượng này xuất hiện
trong thơ nữ Việt Nam. Trong khi các nhà thơ nam giới khi miêu tả hiện tượng
tương tự thì được “ưu ái”, ít bị phê phán hơn?
Một số nhà thơ nữ trẻ lại gây shock gấp đôi khi miêu tả trần
trụi những hoạt động vốn được giấu kín và với phụ nữ chỉ nói đến thôi đã là điều
đáng xấu hổ: “Suốt một buổi chiều/ Yêu dọc từ dưới lên - và xuống/ Từng lằn
chi - khớp - tường phân ly thịt da/ Nhập một/ Ấm áp - Rịn - ướt /(…)/ … Nghiêng
- xoay - cong - mềm mại/ Cọ - trườn - lướt/ Sau - trước/ (…)/… Ngoài và
trong - không một bỏ trống/ Gò và trũng - suốt một buổi chiều…” (Động tác
yêu – Trân Sa). Lê Thị Thẩm Vân trong “Căn phòng 2.2 - âm thanh sóng” lại miêu
tả cụ thể hơn tình trạng của sinh thực khí nam trước và sau cuộc ái ân. Trong
bài “Đoạn kết”, Luynh Bacardi còn cố tỏ ra bí hiểm khi miêu tả hoạt động tính
giao này.
Nếu ở những tác phẩm thành công khi viết về yếu tố tính dục,
các nhà thơ nữ cách tân đã “thơ hóa” yếu tố này, thì ở các ví dụ kể trên, các
tác giả ấy đã “vật hóa” con người, gây cảm giác khó chịu, thậm chí kinh tởm nơi
người đọc. Nhưng từ giác độ phê bình văn học, chúng tôi nghĩ có lẽ nên thể tất
và cảm thông cho những “thử nghiệm” thất bại của tác giả còn rất trẻ này. Họ hiểu
chưa đúng về khái niệm “cách tân”, về chủ nghĩa Hậu Hiện đại, không phải cứ nói
khác, nói ngược, nói về những điều mọi người giấu kín là mới mẻ, hiện đại và
thành công.
Rất nhiều thế kỉ đã qua, thơ Nữ Việt Nam đã bị “trói buộc”
trong “vòng dây” luân lý, đạo đức cổ hủ, bất bình đẳng ảnh hưởng từ tư tưởng
Nho giáo. Bởi vậy, khi được “cởi trói”, sự cực đoan, quá đà ở những buổi ban đầu
“tìm đường” đổi mới thơ của các cây bút trẻ là điều không tránh khỏi và cần được
cảm thông.
Ở phương diện nghệ thuật thơ, việc miêu tả yếu tố tình dục bằng
những thủ pháp nghệ thuật khác nhau góp phần đổi mới thi pháp thơ, đưa thơ nữ
Việt Nam đương đại từ hệ hình truyền thống sang hệ hình hiện đại và hậu hiện đại,
với khát khao “giải thiêng”, phá vỡ những “khuôn vàng thước ngọc” của thơ ca Việt
Nam một thời, ở đó tính quy phạm về các phạm trù thẩm mĩ như cái đẹp, cái xấu,
cái bi, cái hài, v.v... nhiều khi đã trở thành công thức gò bó và cứng nhắc,
không dung nạp nổi những cá tính sáng tạo độc đáo, không ôm chứa nổi hiện thực
đời sống đang biến đổi từng ngày trong xu thế “toàn cầu hóa”. Như vậy, xét ở
bình diện lí thuyết, những cách tân của thơ nữ Việt Nam đương đại nói chung (tư
duy nghệ thuật và cái tôi trữ tình, hệ thống biểu tượng nghệ thuật, ngôn ngữ và
giọng điệu nghệ thuật, v.v...) và cách tân khi phản ánh yếu tố tính dục nói riêng
là đáng trân trọng. Nhưng xét ở bình diện thực tiễn sáng tác (của một hiện tượng
văn học đang vận động và chưa hoàn kết), chúng tôi thấy cần bình tĩnh, thận trọng
hơn trong đánh giá thành tựu và hạn chế của nó. Bên cạnh một số tác phẩm thành
công còn khá nhiều tác phẩm thất bại khi phản ánh yếu tố tính dục của phái nữ.
Không thể cứ thế phê phán những tác phẩm đề cập đến vấn đề nhạy cảm này vì “không có
gì thuộc về con người mà xa lạ với tôi” (C. Mác). Điều quan trọng
hơn cần phải hướng đến của cả giới phê bình văn học và độc giả, là: Thơ nữ Việt
Nam đương đại phản ánh yếu tố tính dục như thế nào? Có đem lại mĩ cảm, bồi đắp
nhân cách cao đẹp cho người đọc hay không? Miêu tả vấn đề gì, đối tượng nào
trong thơ giờ không quan trọng nữa, điều quan trọng nhất là tác phẩm ấy sau khi
miêu tả đối tượng và vấn đề này, sẽ vun đắp, thanh lọc, hướng người đọc tới
Chân, Thiện, Mỹ hay ngược lại?
Xu thế cách tân trong thơ nữ Việt Nam đương đại đang là một
dòng sông mạnh mẽ trong hành trình của nó, không nên vội vàng ca ngợi một chiều
hay phủ định sạch trơn với bộ phận sáng tác chưa hoàn kết này, chúng tôi chờ đợi
và hi vọng vào những thành công của các nhà thơ nữ trẻ theo xu thế cách tân ở
những chặng đường sắp tới.
Tài liệu tham khảo:
Lynh Bacardi, Khương Hà, Phương Lan, Nguyệt Phạm, Thanh
Xuân, Dự báo phi thời tiết, NXB Hội Nhà văn, 2006.
Nguyễn Thị Thúy Hạnh, Di chữ, NXB Hội Nhà văn, 2017.
Dư Thị Hoàn, Lối nhỏ, Hội VHNT Hải Phòng xuất bản, 1988.
Vi Thùy Linh, Khát, NXB Phụ nữ, 1999.
Vi Thùy Linh, Đồng tử, NXB Văn nghệ, 2005.
Vi Thùy Linh, Linh, NXB Phụ nữ, 2007.
Ly Hoàng Ly, Lô lô, NXB Hội Nhà văn, 2005.
Phan Huyền Thư, Nằm nghiêng, NXB Hội Nhà văn, 2002.
Phan Huyền Thư, Rỗng ngực, NXB Hội Nhà văn, 2005.
8/10/2020
Nguyễn Đức Hạnh - Dương Hoài Thương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét