Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
và bộ sách Cây cỏ Việt Nam
Peter Shaw Ashton, Giáo sư Charles Bullard
Ngành Lâm Học, Đại Học Harvard
"Với những ghi chú bằng tiếng Anh, cùng với những nét
minh họa tinh vi của hơn 10.500 chủng loại, bộ sách Họa hình cây cỏ Việt Nam/
Illustrated Flora of Vietnam của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã cung cấp cho giới độc
giả tiếng Anh lần đầu tiên và cập nhật một tài liệu tham khảo thấu đáo mà chúng
tôi ít biết đến. Công trình này sẽ đứng như một tượng đài của sự quyết tâm, cống
hiến, và uyên bác với lòng can đảm của tác giả. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ hầu như
đơn độc hình thành một công trình sinh học thực vật có tầm vóc hàn lâm/
academic tại Đại học Sài Gòn giữa những năm tháng khó khăn. Trong hoàn cảnh cực
kỳ thử thách ấy, giáo sư Hộ đã sưu tập được những chất liệu cho bộ sách đặc sắc
này và cả những chuyến du khảo nhằm thu thập những mẫu vật để minh họa. Và nay
công trình được xuất bản, đó sẽ là nguồn khích lệ cho các nhà sinh học trẻ ở Việt
Nam và cả ở hải ngoại.
"Cây cỏ Việt Nam có thể lên tới 12,000 chủng loại. Bởi
vì xứ sở này nằm sát bờ Thái Bình Dương Á Châu nhiệt đới, đó là hành lang cho
những chuyển dịch theo chu kỳ Bắc Nam/ periodic north-south migration của thảm
thực vật vô cùng phong phú từ phía Nam Trung Hoa và phong phú hơn nữa là thảm
thực vật xích đạo Mã Lai/ equatorial flora of Malaysia. Trên các rặng núi vẫn
còn lưu lại những chủng loại tùng bách/ conifer và thực vật có hoa/
angiosperm taxa có tầm quan trọng vô song, trong khi các vùng bình nguyên mang
dấu ấn của quá khứ có liên hệ tới các vùng hải đảo Phi Luật Tân và Borneo
Indonesia. Đến nay sự phong phú này hầu như tiêu vong. Những nỗ lực của chính
phủ Việt Nam trong chiến lược trồng cây tái sinh và bảo tồn sẽ được hỗ trợ bởi
công trình của Giáo sư Phạm Hoàng Hộ như một hồ sơ theo dõi các thảm thực vật đến
nay còn tồn tại".
TIỂU SỬ:
GS Phạm Hoàng Hộ, trên giấy tờ ngày sinh là 3 tháng 8 năm
1931 tại An Bình, Cần Thơ. Nhưng theo cáo phó mới đây của gia đình GS Hộ sinh
năm Kỷ Tỵ 1929, mất ngày 29 tháng Giêng năm 2017 tại Montréal, Canada hưởng thọ
89 tuổi. Anh Phạm Hoàng Dũng, con trai GS Phạm Hoàng Hộ xác nhận là "Ba
tôi sinh năm Kỷ Tỵ 1929, nhưng theo lệ ngày xưa thì lâu sau đó mới khai sinh,
là năm 1931".
Văn bằng:
- 1953: Cử nhân khoa học, thủ khoa Thực vật học, Paris
- 1955: Cao học Vạn vật học, Paris
- 1956: Thạc sĩ/ Agrégé Vạn vật học
- 1962: Tiến sĩ Khoa học/ Vạn vật học, Paris
Chức vụ:
- 1957-1984: Trưởng phòng Thực vật Đại học Khoa học Sài Gòn
- 1965-1984: Giáo sư Thực vật học Đại học Khoa học Sài Gòn
- 1962-1966: Giám đốc Hải học viện Nha Trang
- 1963-1963: Khoa trưởng Đại học Sư phạm Sài Gòn
- 1963: Tổng trưởng Quốc gia Giáo dục
- 1966-1970: Viện trưởng sáng lập Viện Đại học Cần Thơ
- 1978-1984: Chủ bút tuần báo Khoa học Phổ thông Sài Gòn
- 1984-1989: Giáo sư Khảo cứu tại Viện bảo tàng Thiên nhiên
Quốc gia Paris
Hội viên Khoa học:
- 1956: Hội viên Hội Thực vật học Pháp
- 1963: Hội viên Hội Tảo học Quốc tế (International
Phycological Society)
- 1964: Hội viên Sáng lập Hội Sinh học Việt Nam
- 1965: Phó Chủ tịch Ủy ban Danh từ Việt Nam
- 1967: Hội viên Hội Viện trưởng Đại học Quốc tế (APU)
- 1969: Sáng lập viên Niên san Đại học Cần Thơ
- 1971: Hội viên Ủy ban Thẩm định hậu quả chất Da cam tại
Nam Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia, Hoa kỳ.
- 1973: Cố vấn Môi sinh Ủy ban Quốc Tế Sông Mekong
(MRC)
Ấn phẩm:
- 1960: Cây cỏ Miền Nam Việt Nam (Flore Illustrée
du Sud Vietnam)
Bộ Giáo dục Việt Nam: 1 vol., 803 pp., 275 pls.
- 1964: Sinh học Thực vật
Bộ Giáo dục Việt Nam: 1 vol., 861 pp., nhiều hình
- 1968: Hiển hoa bí tử
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 506 pp., 264 pls.
- 1969: Rong biển Việt Nam
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 558 pp., 493 figs.
- 1970: Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển I
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1115 pp., figs.
2787
- 1972: Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, in kỳ 2, quyển II
Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục Việt Nam: 1139 pp., figs.
5272
Cây cỏ Việt Nam: An illustrated Flora of VietNam
- 1991, Tập 1 Quyển I: Khuyết Thực Vật. Lõa Tử.
Hoa cánh rời đến Tiliaceae
- 1992, Tập 1 Quyển II Hoa cánh rời từ Eleagnaceae đến
Apiaceae
- 1993, Tập 1 Quyển III Từ Smilacaceae...Cyperaceae...
Poaceae... đến Orchidaceae
- 1991, Tập 2 Quyển I Hoa cánh rời từ Sterculiaceae đến
Fabaceae
- 1993, Tập 2 Quyển II Từ Daphniphyllaceae... Fagaceae…
Apocynaceae đến Scrofulariaceae
- 1993, Tập 2 Quyển III Từ Smilacaceae... Cyperaceae...
Poaceae ... đến Orchidaceae
- 1998: Cây cỏ có vị thuốc ở Việt Nam
Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh: 860 pp.,
Mô tả 2149 loài có vị thuốc gặp ở Việt Nam
Vẫn trong bản Tóm lược sự nghiệp Khoa học, GS Phạm Hoàng Hộ
tâm sự: "Có lẽ vì lúc còn rất nhỏ tôi đã sống ở nơi vườn tược, ruộng
đồng xanh um vùng châu thổ sông Cửu Long, nên từ nhỏ tôi đã thích cây cỏ. Tôi
không bao giờ quên được hình ảnh của bông Súng ở ruộng hay ao, lộng lẫy dưới
ánh mặt trời ban mai, hay hình ảnh của bông Nhãn lồng phơi mình dựa bờ ruộng.
Nên Thực vật học và Sinh học Nhiệt đới đã hấp dẫn tôi lúc đi du học. Và lúc học
ở Đại học Khoa học Paris, tôi đã bắt đầu tìm hiểu Cây cỏ Đông Dương. Tiếp xúc đầu
tiên một cách khoa học với Cây cỏ ấy, tôi thực hiện ở Viện Bảo tàng Thiên nhiên
Quốc gia Paris. Lúc mới học Vạn vật, tôi đã vào nhà kiếng của Viện này để tìm
coi có loại nào ở nước nhà hay không. Và một số loài đã được vẽ từ lúc ấy! Tôi
nhớ một số Lan đã được vẽ từ năm 1950, trong nhà kiếng ấy. Đó là những hình
"xưa" nhất của bộ Cây cỏ của tôi. Sau này khi làm luận án Cao học,
cũng ở Viện ấy, tôi mới có dịp vào Thảo Tập, và nhiều hình, nhất là của giống
Ficus, khó, vì chưa nhiều loài đã được vẽ vì ngại sự khó khăn ấy về sau khi về
bên nhà mà tài liệu thật là khó kiếm. Thật ra lúc ấy tham vọng của tôi vô cùng
khiêm tốn, là sau này được biết các loại Ficus Việt Nam mà thôi! Cũng đã quá
sung sướng rồi.
Sau khi thi đậu Thạc sĩ/ Agrégation hạng sáu, trên 300 thí
sinh, và chỉ có 30 đậu, năm 1956 tôi về nước.
[* Ghi chú của người viết: cần phân biệt với bằng Thạc sĩ hiện
nay ở Việt Nam tương đương với cao học/ master, trong khi Thạc sĩ/ Agrégé ở
Pháp là học vị về sư phạm, trải qua kỳ thi tuyển khó khăn, nếu thi đậu sẽ trở
thành giáo sư thực thụ/ professeur titulaire từ bậc trung học/ lycée tới các
trường cao đẳng/ enseignement supérieur thuộc các ngành Khoa học, Y dược, Luật
khoa]
Giáo sư Hộ viết tiếp: "Lúc ấy tham vọng của tôi chỉ là về
dạy học ở một trường Trung học, và lúc rảnh rang sẽ tìm hiểu cây cỏ của vùng Lục
tỉnh mà thôi, nhưng Viện Đại học Sài Gòn và Hải học viện Nha Trang
"kéo" tôi về giảng dạy và trông nom Hải học viện. Khi làm việc ở Nha
Trang tôi khảo cứu Rong biển, như là một phận sự. Và sau vài năm khảo cứu dưới
sự hướng dẫn của Giáo sư J. Felmann, tôi hoàn thành luận án Tiến sĩ mà tôi
trình ở Đại học Paris, năm 1961. Công trình này được đăng trong Niên san Khoa học
Đại học đường Sài Gòn, và trong quyển Rong biển Việt Nam, cũng như một
số ấn phẩm trong vài tạp chí khoa học.
Ở Sài Gòn, phận sự chính của tôi là giảng dạy Thực vật và
Sinh học Thực vật (thay thế Giáo sư Pháp Roger, một nhà chuyên môn về nấm gây bệnh
cây) cho sinh viên dự bị và chuyên khoa. Chính vì muốn giảng dạy tốt, thích
nghi vào điều kiện nhiệt đới Việt Nam, các môn ấy mà tôi lục lạo và sau đó cho
ra đời công trình mà sau này sẽ là công trình của đời tôi là Cây cỏ Việt
Nam. [Trích dẫn tư liệu gia đình GS. Phạm Hoàng Hộ: Văn bằng, Sự nghiệp
Khoa học của Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Thực vật học].
1959-1960, tôi/ người viết bài này mới chỉ là sinh viên lớp
dự bị Y khoa PCB/ Physique Chimie Biologie tại Đại học Khoa học Sài
Gòn và được học Thầy Hộ mới tốt nghiệp Thạc sĩ ở Pháp về, dạy môn Sinh học Thực
vật. Tuy chỉ được học Thầy một năm, nhưng Thầy đã để lại cho đám sinh viên và
riêng tôi một niềm cảm hứng với những dấu ấn rất khó phai mờ. Vào trường Y khoa
rồi, không còn được học Thầy Hộ nhưng tôi vẫn mang lòng ngưỡng mộ và cả theo
dõi những bước đi và sưu tập những bộ sách công trình nghiên cứu khoa học của
Thầy.Vào đầu thập niên 1990, giới khoa học trong nước và hải ngoại
rất đỗi vui mừng khi bộ sách Cây cỏ Việt Nam của GS. Phạm Hoàng Hộ được
lần lượt xuất bản. Theo GS Thái Công Tụng, hiện định cư tại Montréal thì các
sách của GS. Phạm Hoàng Hộ hiện có đầy đủ ở Bibliothèque Jardin botanique
Montréal, Canada, và dĩ nhiên là có trong nhiều thư viện lớn trên thế giới.
Trọn bộ Cây cỏ Việt Nam gồm hai tập, mỗi tập ba quyển,
tổng cộng khoảng 3.600 trang, chưa kể Phần Từ vựng tên Việt Nam và Từ vựng tên
Khoa học các Giống (Chi) bao gồm thêm cả công trình của những năm tháng giáo sư
rời quê hương Việt Nam sang Pháp, vẫn tiếp tục cặm cụi làm việc.
Riêng tôi/ người viết đã sớm có được trọn bộ sáu quyển Cây
cỏ Việt Nam xuất bản ở hải ngoại do bác sĩ Phạm Văn Hoàng nguyên Giám đốc
Trung tâm Phục hồi Cần Thơ, một đàn anh trong Y khoa gửi tặng, anh Phạm Văn
Hoàng chính là bào đệ của GS Phạm Hoàng Hộ.
Tưởng cũng nên ghi lại ở đây, là trước 1975, Giáo sư Phạm
Hoàng Hộ đã từng là Cố vấn Môi sinh Ủy ban Sông Mekong/ Mekong River
Committee và khoảng năm 1974 hai Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và Thái Công Tụng
đã có một nghiên cứu chung về Môi sinh Đồng Bằng Sông Cửu Long: The Mekong
Delta, Its Environment, Its Problems (do Bộ Canh Nông VNCH xuất bản, Sài
Gòn 1974); khi tìm kiếm tới tài liệu có tính cách lịch sử ấy, tôi được anh GS
Thái Công Tụng bùi ngùi cho biết: là đã mất hết sau cơn binh lửa...
Để tìm hiểu thêm tại sao, các tác phẩm khoa học của Giáo Sư
Phạm Hoàng Hộ lại được ưu tiên xuất bản bằng tiếng Việt cho dù ngôn ngữ chính
thông thạo của GS. Hộ trong suốt quá trình đào tạo và giảng dạy là tiếng Pháp.
Trong lời mở đầu quyển Rong Biển Việt Nam xuất bản
năm 1969, GS. Phạm Hoàng Hộ viết: "Lúc đầu, quyển sách này được thảo bằng
ngoại ngữ, khi làm việc ở Hải học viện Nha Trang và ở Museum, và tôi có hoài
bão được xuất bản trong ngoại ngữ ấy để công bố công trình khảo cứu của mình ra
bốn phương, như lời hứa ngầm lúc trình luận án.
Song nay tôi đã đổi ý và cho xuất bản bằng tiếng Việt Nam. Đó
là để chứng minh rằng ngôn ngữ nào, miễn được chăm sóc, đều có thể diễn tả kiến
thức ở mọi trình độ. Tôi biết rằng có nhiều người cho rằng không ấn hành trong
một ngôn ngữ quốc tế là phí công, giới khảo cứu làm sao biết đến. Nhưng tôi thấy
chẳng cần đến việc ấy. Được mấy mươi triệu người Việt Nam biết và dùng, có giá
trị hơn là được vài ngàn học giả chuyên môn thưởng thức. Tôi đã bỏ cái tự hào
sai là tranh đua cùng người ngoài để tự tạo lấy thanh danh, "làm thơm lây
dân Việt". Tôi tin rằng cái tự hào ấy không thực tế, vì một người Việt Nam
hay, không bằng nhiều người Việt Nam khá: cầm đuốc soi thành phố người có vẻ
không thức thời trong khi nước nhà còn u ám. Cái tự hào trên thật ra chỉ để che
đậy sự trốn trách nhiệm, sự bỏ phận sự trước con cháu chúng ta một cách không
tha thứ được.
Tạo ra cho chúng ta một nền văn chương khoa học là một công
trình rất bao la. Vì thấy nó quá to tát nên nhiều học giả chấp nhận giải pháp dễ
nhất: học ngay trong văn chương khoa học ngoại ngữ vô cùng phong phú, dồi dào.
Cái học như vậy sẽ cho ta những người giỏi, nhưng ta không quên rằng nền văn
minh bây giờ là văn minh của đại chúng chứ không phải của vài người được nữa.
Ta đừng để cho sự phong phú của văn hóa nước ngoài đè bẹp ta. Người Nhật, cách
đây một thế kỷ, há đã không hoảng sợ trước sự hùng mạnh của khoa học nước ngoài
sao? Mà nay họ đã tự tạo được một một nền văn chương khoa học riêng biệt đã đến
lúc gần hay hơn cả những nước ấy!
Hơn lúc nào hết, câu của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn vẳng bên
tai: "Nước Việt Nam ta sau này hay hay dở là ở chữ quốc ngữ". Trong
thế giới tương lai, sự lệ thuộc về văn hóa, nhất là về văn hóa khoa học sẽ là sự
lệ thuộc chánh". (Lời Mở Đầu của quyển Rong Biển Việt Nam; Trung
tâm Học liệu, Bộ Giáo Dục xuất bản 1969).CHẶNG ĐƯỜNG ĐAU KHỔ
Hình ảnh một Giáo sư Phạm Hoàng Hộ những năm sau 1975, là một
tấm gương và cũng là một trải nghiệm đau đớn cho cả một thế hệ trí thức Miền
Nam mà Giáo sư Phạm Hoàng Hộ là một biểu tượng.
Theo Giáo sư Phạm Hoàng Hộ thì bộ sách Cây cỏ Việt Nam đã
được thực hiện qua bốn giai đoạn:
- Nghiên cứu giai đoạn một: hợp tác với GS Nguyễn
Văn Dương về phần dược tính, Cây cỏ Miền Nam Việt Nam, do Bộ Quốc gia Giáo
dục ấn hành năm 1960 mô tả 1.650 loài thông thường của Miền Nam, "Đó là
giai đoạn còn mò mẫm, học hỏi một thực vật chúng chưa quen thuộc đối với một
sinh viên vừa tốt nghiệp từ vùng xa lạ mới về”.
- Nghiên cứu giai đoạn hai: kỳ tái bản lần hai 1970 bộ Cây
cỏ Miền Nam Việt Nam, số loài lên được 5.328 (Hình 2). "Đó là giai đoạn mà
tôi xem như vàng son của một nhà thực vật học Việt Nam chúng ta. So với bây giờ,
lúc ấy tôi yên ổn làm việc, có nhiều phương tiện cá nhân cũng như của non nước
và nhất là được sự khuyến khích của mọi giới, bạn bè cũng như chính quyền.
- Nghiên cứu giai đoạn ba: tiếp tục công việc
nghiên cứu sau 1975, đưa thêm được vào bộ sách Cây cỏ Miền Nam Việt Nam 2,500
loài và bộ được nới rộng cho toàn cõi Việt Nam.
Sau biến cố 1975, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cũng như người bạn đồng
hành trí tuệ của ông là Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã cùng chọn ở lại để xây dựng
đất nước sau chiến tranh và thống nhất, nhưng với cái giá rất đắt mà sau này được
GS Hộ ghi lại là: "Thời kỳ sống trong ảo vọng là sẽ thấy đất nước đi
lên. Giai đoạn đi xe đạp, ăn gạo hẩm, tưởng hoa sẽ nở trên đường Quê
hương".
Tuy Giáo sư Phạm Hoàng Hộ vẫn còn chức danh là Hiệu phó [phó
Khoa trưởng] Đại học Khoa học, nhưng chính quyền mới chỉ sử dụng trí thức cũ
như ông chủ yếu là “làm kiểng", không có vai trò tương xứng trong giáo dục.
Vì không là đảng viên, nên khi có vấn đề gì thì Đảng bộ họp riêng và quyết định,
có việc ông không bao giờ được biết. Năm 1977 sau trải nghiệm những ngày học
chính trị, một lớp học kéo dài mười tám tháng về “Chủ nghĩa xã hội khoa học”
dành riêng cho các trí thức Miền Nam tổ chức tại TP Hồ Chí Minh; từ rất sớm,
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã phản đối cách đào tạo đưa thời gian học chính trị quá
nhiều vào chương trình. Ông cảnh báo: “Nếu chính trị can dự quá mạnh, các nhà
khoa học sẽ mất căn bản”. (Huy Đức, Bên thắng cuộc)
Rồi phải chứng kiến một thiểu số trí thức cũ xu thời, mau
chóng hợp tác toàn diện với chế độ mới, bất chấp sự liêm khiết, sẵn sàng cống
hiến những công trình mệnh danh khoa học theo phong trào để mừng các ngày lễ hội
3-2 hay 19-5 như các bài báo chứng minh "ăn mấy ký khoai mì bổ bằng một ký
thịt bò" hoặc là "ăn bo bo nhiều dinh dưỡng hơn cả gạo"... những
công trình "giả khoa học/ pseudo-science" ấy đã mau chóng trở thành
giai thoại đầy mỉa mai được lan truyền trong các trại tù Cải tạo, nơi mà đám tù
nhân Miền Nam đang bị thiếu ăn suy dinh dưỡng với thực phẩm cung cấp chủ yếu là
gạo hẩm "đại mễ" của Trung Quốc cùng với với bo bo và khoai mì/
ngoài Bắc gọi là sắn.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cũng như số trí thức cũ khảng khái của
Miền Nam còn ở lại, thấy không thể tiếp tục sống trong một xã hội giả dối và
suy đồi đến như thế, việc ông đi tới quyết định phải chấm dứt những năm "ảo
vọng" và lãng phí ấy, là điều không thể tránh. Và rồi dịp ấy đã tới, năm
1984 khi được chính phủ Pháp mời sang làm giáo sư thỉnh giảng, Giáo sư Phạm
Hoàng Hộ đã quyết định chọn cuộc sống lưu vong và ở lại Pháp.
- Nghiên cứu giai đoạn bốn: một giai đoạn mà giáo
sư Phạm Hoàng Hộ gọi là "vừa hiếm có vừa đau khổ nhất". Giáo sư
Hộ viết tiếp: "Đau khổ vì rời quê hương mà không hy vọng trở lại. Đau
khổ vì xa gia đình thân yêu, vĩnh biệt mẹ hiền đã trọn đời hy sinh cho các con.
Đau khổ vì thấy đất nước thân yêu đang ở trong một nỗi khổ khôn lường, một sự
nghèo khôn tả, một sự tuyệt vọng thương tâm."
Nhưng rồi với hùng tâm, ông cũng vượt lên trên sự khổ đau
khôn lường ấy. Giáo sư Hộ đã kiên nhẫn đằm mình trong Viện Bảo tàng Thiên nhiên
Quốc gia Paris, cật lực làm việc ròng rã suốt sáu năm. Viện Bảo tàng Thiên
nhiên Quốc gia ở Paris/ Muséum National d'Histoire Naturelle (MNHN)
thuộc hệ thống Đại học Sorbonne, bên tả ngạn sông Seine, được thành lập từ thế
kỷ XVIII thời kỳ Cách Mạng Pháp.
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ cho rằng: "Hiếm có một nhà Thực
vật học, nhất là người Việt Nam, đã lục lạo cây cỏ ở nước nhà, lại được ở lại
nghiên cứu tại Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp, chứa một thảo tập phong
phú vào bậc nhất thế giới, với 8 tới 10 triệu mẫu vật cây cỏ. Ít nhất cho Việt
Nam, nó là kho tàng duy nhất, vì chứa hơn 10 ngàn loài thu được ở nước ta.
Trong sáu năm làm việc ở Viện ấy, không một ngày nào mà khi chiều ra về, dù trời
đông âm u lạnh lẽo, hay chiều hè vắng vẻ nóng khô, mà tôi không thốt ra câu
"Thật là một ngày tuyệt" vì đã biết thêm cho Việt Nam ít nhất là một
loài hiếm, lạ hay mới!". Trong giai đoạn chót này, ông bổ túc thêm
cho bộ Cây cỏ được trên 3000 loài. Số loài mô tả khoảng 10.500.Tại Pháp khi gặp lại người học trò cũ, nay đã là thành viên
trong ban giảng huấn Đại học Khoa học Sài Gòn, cũng đang làm việc tại Viện Bảo
tàng Thiên nhiên Quốc gia Pháp nghiên cứu về Cá/ Laboratoire d'Ichthyology,
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã tâm sự:
“Tôi ráng làm càng nhiều càng tốt. Bộ sưu tập của Pháp rất dồi
dào, đúng phương pháp khoa học. Do được sưu tập từ mấy mươi năm trước, các mẫu
vật đã cũ, mình không làm gấp e sẽ hư hỏng thì uổng quá... Nhiều người
Trung Quốc từ đại lục và cả từ Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập
thực vật Đông Dương của Pháp. Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài
nguyên nước mình, mình phải biết. Mình không biết mà người ta biết thì người ta
xài hết của dân mình. Lãnh vực nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn
trên ngồi trước còn mình cắm đầu dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi
thuộc Pháp!” [4]
Sau khi hoàn tất bộ sách Cây cỏ Việt Nam, Giáo sư
Phạm Hoàng Hộ đã bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với Viện Bảo tàng Thiên nhiên Quốc
gia Paris và các bạn đồng sự Pháp, ông đã rất chân thành tâm sự: "Thực
hiện những điều mà lúc nhỏ dù điên rồ tới đâu tôi cũng không dám mơ ước: nô lệ
của một thuộc địa, học ở một trường thường, ở một tỉnh nhỏ, bao giờ dám nghĩ đến
tạo một quyển sách dù nhỏ bé, mê cây cỏ xung quanh nhưng bao giờ nghĩ đến biết
cây cỏ cả nước!".
Người "trí thức đau khổ" Phạm Hoàng Hộ đã vươn lên
và hoàn tất được "giấc mơ điên rồ" tưởng như không thể được ấy và trở
thành cây "đại thụ" trong Khoa học Thực vật của Việt Nam và cả thế giới.
CHÚT GIAI THOẠI VĂN HỌC
Trong cuốn Bông hồng tạ ơn, khi viết về bộ sách của Giáo
sư Phạm Hoàng Hộ, nhà văn Nguyễn Đình Toàn nhớ lại: "Các năm trước 1975, bộ
sách của giáo sư Phạm Hoàng Hộ còn mang tên là Cây cỏ Miền Nam. Cuộc chia
cắt đất nước đã giới hạn tầm mức của cuốn sách. Thế nhưng công trình của giáo
sư Phạm Hoàng Hộ không phải chỉ được coi là quý đối với các nhà chuyên môn về
thực vật học, mà theo nhà văn Võ Phiến có kể lại trong bộ sách Văn học Miền
Nam soạn thảo tại hải ngoại sau 75, thì đã có nhiều nhà văn, [trong số đó
có Nguyễn Đình Toàn] đã tìm đọc cuốn Cây cỏ Miền Nam để biết thêm về
một vài loại cây cỏ quanh mình, để khi cần, có thể đưa vào tác phẩm". Giai
thoại văn học này có lẽ, chính Giáo sư Phạm Hoàng Hộ không hề biết tới.
SÁNG LẬP VIỆN ĐẠI HỌC CẦN THƠ
Khoảng thập niên 1960, do sự vận động của các nhân sĩ trí thức
Cần Thơ, với hai tên tuổi hàng đầu là Giáo sư Phạm Hoàng Hộ và bác sĩ Lê Văn
Thuấn, Viện Đại học Cần Thơ được phép thành lập vào ngày 31.03.1966 và cũng là
Đại học đầu tiên của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL). Giáo sư Phạm Hoàng Hộ
là Viện trưởng đầu tiên của Đại học Cần Thơ từ 1966 tới 1970.
Với uy tín lớn về thành tích khoa học và cả về nhân cách,
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã quy tụ được rất nhiều "chất xám" tinh hoa của
Miền Nam thời bấy giờ; chỉ riêng trong lãnh vực Nông Nghiệp có thể kể tới sự hợp
tác của những tên tuổi như GS Tôn Thất Trình, GS Thái Công Tụng, TS Nguyễn Viết
Trương, TS Trần Đăng Hồng với công lao bước đầu đưa giống Lúa Thần Nông/ HYV/
High Yield Variety vào ĐBSCL.
Rồi phải kể tới một đội ngũ giảng huấn đầy khả năng khiến Đại
học Cần Thơ mau chóng trở thành một trung tâm giáo dục và khoa học có tầm cỡ,
đáp ứng nhu cầu trí tuệ của của một vùng châu thổ rộng lớn rất giàu nguồn tài
nguyên thiên nhiên nhưng chưa được khai thác. Để có thể thấy được thành quả bước
đầu của Viện Đại học Cần Thơ, đó là các lớp sinh viên đầu tiên trưởng thành và
tốt nghiệp bốn năm sau đó.
Giáo sư Đỗ Bá Khê trong "think tank" của Giáo sư Phạm
Hoàng Hộ, cũng đến từ Đại học Khoa học Sài Gòn, cách đây 47 năm, trong bài diễn
văn “xuất trường” của Viện Đại học Cần Thơ, đã có một tầm nhìn rất xa về vai
trò của Viện Đại Học này đối với tương lai vùng Đồng bằng Châu thổ:
“Ngày nay (19/12/1970) trong Thời Đại Khoa Học Kỹ Thuật, các
tỉnh ĐBSCL đang trông chờ nơi ánh sáng soi đường của Viện Đại học Cần Thơ và ước
mơ một chân trời mới, tô điểm bằng những cành lúa vàng nặng trĩu, những mảnh vườn
hoa quả oằn cây, dân cư thơ thới, một cộng đồng trù phú trong một xã hội công bằng.”
NGƯỜI BẠN ĐỒNG HÀNH GS NGUYỄN DUY XUÂN
Đến năm 1970, bước đầu xây dựng được một Đại học Cần Thơ vững
vàng, để có thể trở về Sài Gòn tiếp tục các công trình nghiên cứu khoa học và
giảng dạy, Giáo sư Phạm Hoàng Hộ chính thức mời Giáo sư Nguyễn Duy Xuân về thay
ông, làm Viện trưởng thứ hai của Viện Đại học Cần Thơ.
Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925
hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ bốn tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học
Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học
Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn,
xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống
campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây. Ông là người tiên phong thực
hiện giáo dục đại học theo tín chỉ/ credits (thay vì chứng chỉ, certificat như
trước đây); giống như mô hình hệ thống Đại học Hoa Kỳ. Ông còn gửi cả một đội
ngũ giảng viên trẻ đi du học, điển hình như anh Trần Phước Đường đi Mỹ tốt nghiệp
tiến sĩ tại Đại học Michigan, sau đó họ trở về trường phục vụ ngành Sinh học,
Giáo sư Trần Phước Đường sau này trở thành Viện trưởng Đại học Cần Thơ từ 1989
tới 1997.
Năm 1972, ông cũng đích thân mời nhà nông học trẻ Võ Tòng
Xuân khi ấy đang công tác ở Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế Los Banos
Philippines về trường giảng dạy. Sau này anh Võ Tòng Xuân kể lại, khi nhận được
thư của GS Nguyễn Duy Xuân: “Anh Nguyễn Duy Xuân nói ĐBSCL là cái vựa của lúa gạo
nên rất cần những nhà khoa học về nông nghiệp. Chiến tranh rồi có ngày hòa
bình, đất nước sẽ cần những người như tôi. Đó là một trong những lý do tôi về
công tác ở Đại học Cần Thơ.” TS Võ Tòng Xuân sau này trở thành một Giáo sư Nông
học danh tiếng, "Doctor Rice" tên tuổi anh Võ Tòng Xuân gắn
liền với sự phát triển của cây Lúa Thần Nông và sau đó anh là Viện trưởng Đại học
An Giang là Đại học lớn thứ hai của ĐBSCL sau Viện Đại học Cần Thơ.
Chỉ trong vòng 9 năm (1966-1975) với công lao xây dựng của
hai Viện trưởng tiền nhiệm: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại học
Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và
nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm
và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền
Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng ĐBSCL.
TỪ ẢO VỌNG TỚI THẢM KỊCH
Chỉ mấy ngày trước biến cố 30 tháng 4, 1975, cũng như GS Phạm
Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân như một trí thức dấn thân, quyết định ở lại và giữa
cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn can đảm nhận chức Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục
cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa đầy một tuần lễ thì chính
quyền Miền Nam sụp đổ, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.
GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau đó bị đưa
ra Bắc, giam trong trại tù Hà Nam Ninh, hầu như không có ngày về. Vẫn theo anh
Võ Tòng Xuân, năm 1983, trong một lần ra Hà Nội dự họp, anh Võ Tòng Xuân đã vô
trại Ba Sao để thăm lại vị Viện trưởng của mình khi còn ở Viện Đại học Cần Thơ.
Gặp lại đồng nghiệp, GS Nguyễn Duy Xuân rất mừng, và dù đang trong nghịch cảnh
tù đày, ông vẫn đau đáu quan tâm hỏi han tới hiện trạng của Đại học Cần Thơ,
nơi mà ông và GS Phạm Hoàng Hộ đã dầy công xây dựng.
Tôi, người viết bài này không thể không tự hỏi nếu không có
11 năm giam hãm đầy đọa độc ác và vô ích của những người Cộng sản thắng cuộc, nếu
GS Nguyễn Duy Xuân, một Tiến sĩ Kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước như ông vẫn
tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975, không biết
Viện Đại học Cần Thơ sẽ tiến xa tới đâu.
Năm 1983 là lần gặp gỡ đầu tiên của hai Giáo sư cùng tên Xuân
sau 1975 ở trại Ba Sao và cũng là cuối cùng GS Võ Tòng Xuân được gặp lại GS
Nguyễn Duy Xuân. Tiếp tục bị đầy ải thêm ba năm nữa tổng cộng 11 năm, GS Nguyễn
Duy Xuân đã chết trong tù cải tạo Hà Nam Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong
đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa
tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.
Phải mãi đến tháng 4 năm 2015, gần 30 năm sau, di cốt của GS
Nguyễn Duy Xuân, mới được người con gái là bà Nguyễn Thị Nguyệt Nga từ Pháp về
bốc mộ đưa từ nghĩa địa trại tù Ba Sao Hà Nam Ninh về Chùa Thiên Hưng, quận
Bình Thạnh Sài Gòn để lưu giữ tại đây. [5] Trong buổi lễ cầu siêu, ngoài các thành
viên của gia đình cố Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân, còn có một số cựu giảng huấn
và các cựu sinh viên tốt nghiệp Đại học Cần Thơ trước 1975 như GS Võ Tòng Xuân,
TS Nguyễn Tăng Tôn (cựu sinh viên), TS Nguyễn Văn Mận (cựu sinh viên), KS Minh
(cựu sinh viên) Ông Hòa (nhân viên hành chánh), đến tham dự buổi lễ.VIỆN ĐẠI HỌC CẦN THƠ SAU 1975
Thay thế Giáo sư Viện trưởng Nguyễn Duy Xuân là ông Phạm Sơn
Khai, gốc Miền Nam tập kết là đảng viên Cộng sản, với học vị "Chuyên
ngành Lịch sử Đảng", ông Khai được đề cử giữ chức Viện trưởng và lãnh đạo
Đại học Cần Thơ trong suốt 13 năm từ 1976 tới 1989.
Kể từ sau 1975, chính quyền mới với chủ trương một nền giáo dục
"hồng hơn chuyên" nên học trình của Đại học Cần Thơ, cũng như toàn hệ
thống các Đại học Miền Nam đã có thêm môn học chính trị cưỡng bách "Chủ
nghĩa Mác Lê và Tư tưởng Hồ Chí Minh". Một môn học mà "thầy không muốn
dạy, trò không muốn học" nhưng vẫn cứ được duy trì cho đến ngày hôm nay.
Ngót nửa thế kỷ, 42 năm sau ngày thống nhất đất nước, trên toàn cõi Việt Nam vẫn
chưa có được một nền "tự trị đại học". Quá sớm để nói tới dân chủ hóa đất nước, khi mà các Đại học như những "Think Tank" vẫn còn bị chi phối
lãnh đạo bởi những Chi bộ Đảng Cộng sản.Qua một eMail, anh Võ Tòng Xuân kể lại: "Tôi nhớ mãi GS
Hộ trong chuyến đi đó, ông rất kỹ về vấn đề ăn uống, đem theo đồ ăn và bình ton
đựng nước uống riêng". [Hình 8]
GS PHẠM HOÀNG HỘ SINH NHẬT 80
Tháng 7 năm 2009, một số môn sinh đã tổ chức tại Montréal một
lễ mừng sinh nhật 80 tuổi của GS Phạm Hoàng Hộ, cùng với một bức tượng được đem
tới tặng Thầy với phát biểu đầy xúc động của một môn sinh: "Bức tượng
không phải chỉ là hình ảnh của một giáo sư Thực vật đáng kính mà còn là biểu tượng
của người trí thức Miền Nam, đã hiến trọn đời mình cho khoa học, hết sức khiêm
tốn so với tài năng của mình và nhất là hết lòng yêu quê hương đất nước".Cũng rất ý nghĩa, trong buổi họp sinh nhật ấy, bác sĩ Tăng
Quang Kiệt đã đọc lời chúc của Giáo sư Phùng Trung Ngân, định cư tại
California, người sáng lập ra Bộ môn Sinh Môi Học/ Ecology Department cũng là
Khoa trưởng Đại học Khoa học Sài Gòn từ 1973-1975, là bạn đồng môn và cùng tuổi
với GS Phạm Hoàng Hộ:
"Anh Hộ thân mến, Tôi thành thật cám ơn Anh Chị và gia
đình đã cho phép tôi gởi bài phát biểu trong buổi lễ long trọng này. Với 80 tuổi
đời, Anh đã đóng góp một công trình đồ sộ về Cây cỏ Việt Nam đồng thời với việc
hướng dẫn sinh viên yêu Thực vật và Thiên nhiên Việt Nam. Là người cộng tác gần
gũi với Anh trong công tác giáo dục sinh vật cho lớp trẻ Việt Nam tôi đã thấy sự tận
tụy với nghề nghiệp của Anh và lòng hăng say nghiên cứu của Anh. Kết quả là
công trình nghiên cứu vĩ đại về Cây Cỏ Nam Việt Nam và nhứt là công trình bổ
sung đầy đủ Cây cỏ toàn bộ Việt Nam với các mẫu cây quý báu đang bị bỏ quên trong Viện
Thảo Tập ở Paris. Trước năm 1975 Anh và tôi thường dẫn sinh viên đi thực tập ở
Lâm Đồng - Đà Lạt, cho các em leo lên đỉnh Lâm Viên, một trong những ngọn núi cao
khoảng 2000m ở miền Nam, chúng ta thường ước mong khi hòa bình trở lại sẽ cùng
nhau ra miền Bắc khảo sát Cây cỏ Đỉnh Fan Xi Pan cao hơn 3000m ở Hoàng Liên
Sơn. Rất tiếc đến ngày hôm nay ước mong của chúng ta chắc không bao giờ thực hiện
được. Tuy nhiên Anh đã tự mình tiếp xúc với đỉnh Fan Xi Pan qua các mẫu cây còn
lưu trữ tại Viện thảo Tập Paris và cũng từ đó hình thành bộ công trình Cây
Cỏ Việt Nam cho Khoa học. Tôi rất may mắn là cộng tác viên thân cận của
Anh trong nhiều năm nên đã học được tính chu đáo trong nghiên cứu, sự tận tụy
trong giảng dạy và lòng say mê nghiên cứu Thiên nhiên Việt Nam." [3]
DI CHÚC GIỮ XANH ĐẤT MẸ
Trong Quyển cuối cùng của bộ sách Cây cỏ Việt Nam (quyển
III, tập 2) xuất bản tại Montréal 1993, chỉ với hai trang Thay Lời Tựa, GS
Phạm Hoàng Hộ đã để lại một Thông điệp; cũng có thể coi như một Di Chúc cho Việt
Nam.
"Thực vật chúng Việt Nam có lẽ gồm vào 12.000 loài. Đó
là chỉ kể các cây có mạch, nghĩa là không kể các Rong, Rêu, Nấm.
Đó là một trong những thực vật chúng phong phú nhất thế giới.
Sự phong phú ấy là một diễm phúc cho dân tộc Việt Nam. Vì như tôi đã viết từ
1968, Hiển hoa là ân nhân vô giá của loài người. Hiển hoa cho ta nguồn thức ăn
căn bản hàng ngày; Hiển hoa cung cấp cho ta, nhất là người Việt Nam, nơi sinh sống
an khang. Biết bao cuộc tình duyên êm đẹp khởi đầu bằng một miếng Trầu, một miếng
Cau. Bao nhiêu chúng ta đã không chào đời bằng một mảnh Tre để cắt rún, rời
nhau? Lúc đầy nguồn sống lúc nhàn rỗi, chính Hiển hoa cung cấp cho loài Người
thức uống ngon lành để say sưa cùng vũ trụ. Lúc ốm đau, cũng chính Cây cỏ giúp
cho ta dược thảo hiệu linh.
Các điều ấy rất đúng hơn với chúng ta, người Việt Nam mà ở rất
nhiều nơi còn sống với một nền văn minh dựa trên thực vật.
Nhưng ân nhân của chúng ta ấy đang bị hiểm họa biến mất, vì rừng
nước ta đã lùi dưới mức độ an toàn, đất màu mỡ bị xoi mòn mất ở một diện tích lớn,
và cảnh sa mạc đang bành trướng mau lẹ. Đã đến lúc theo nhạc của một bài ca, ta
có thể hát: "Thần dân nghe chăng? Sơn hà nguy biến. Rừng dày nào còn, Xoi
mòn đang tiến... Đâu còn muôn cây làm êm ấm núi sông". [Ghi chú của
người viết: bài ca Hội nghị Diên Hồng, nhạc của Lưu Hữu Phước, lời: Huỳnh Văn
Tiểng - Mai Văn Bộ - Lưu Hữu Phước].
Kho tàng thực vật ấy chúng ta có phận sự bảo tồn. Sự bảo tồn
và phục hồi thiên nhiên ở nước ta rất là cấp bách. Nó có thể thực hiện, vì mỗi
người của chúng ta, dù lớn dù nhỏ đều có thể góp phần vào sự bảo tồn ấy. Bằng
những cử chỉ nhỏ nhặt hàng ngày, sự đóng góp của chúng ta quan trọng không kém.
Không quăng bậy một tia lửa, một tàn thuốc, là ta góp phần
tránh nạn cháy rừng. Không đốn bậy một cây, là ta bảo vệ Thiên nhiên của ta. Trồng
cây là phận sự của chính quyền hay của các Công ty gầy rừng. Nhưng quanh nhà
chúng ta, chúng ta có thể tìm trồng một cây lạ, đặc biệt, hiếm của vùng hay chỉ
có ở Việt Nam. Dân ta yêu cây hoa kiểng, nhưng các nhà nhàn rỗi có thể trồng
cây lạ, đặc biệt, cũng là một thú không kém hay đẹp. Các thị xã nên có một công
viên hay vườn bách thảo, không lớn thì nhỏ để khoe các cây hay của vùng, không
bắt buộc là cây hữu ích hay đẹp. Cây Dó đâu có gì lạ? Nhưng nó là niềm tự hào
cho dân tộc vì từ Hồng Bàng, dân ta đã biết lấy trầm từ nó. Cả ngàn loài cây
khác chỉ có ở Việt Nam mà thôi! Các cây này có thể trồng như cây che bóng mát dựa
lộ. Các làng, các quận, các tỉnh nên tạo phong trào trồng nhiều loài lý thú như
vậy. Ta không cần đợi các lâm viện, khu dự trữ để bảo vệ tài nguyên quý báu cho
thế hệ sau, mà ta cũng có thể chính mình góp phần vào sự bảo vệ ấy. Trồng các
cây lạ, đặc biệt ấy còn là một yếu tố quyến [chữ GS Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa
quyến rũ] du khách quan trọng: Lan Thủy tiên hường Dendrobium amabile của ta,
chỉ có ở một Vườn Bách thảo ngoại quốc trồng được và họ tự hào đến đỗi đã ghi
trong "Sách ghi quán quân thế giới 1988."
Hàng năm ta có thể tuyên dương nhà nào đã trồng cây hay, lạ.
Tất nhiên là công với nước nhà mới trông không bằng những ai đã đem Rhizobium
vào để tăng năng xuất đậu nành, đã trồng được cây Dó tạo trầm, đã du nhập lúa
Thần nông hay Nho. Nhưng nếu cả ngàn người, cả triệu người đóng góp cho non nước
những "nhỏ nhen" [chữ GS Phạm Hoàng Hộ theo cái nghĩa nhỏ nhặt], cả
triệu cái nhỏ-nhen chắc chắn trở nên một khối đồ sộ.
Đóng góp lớn, tôi vẫn cho là việc khó. Tôi quý các đóng góp
nhỏ, hằng ngày mà ai cũng làm được. Nó hay hơn. Kẻ sĩ, theo tôi không phải chỉ
là những kẻ đã làm được những chuyện lớn. Đóng góp những chuyện nhỏ hàng ngày
cũng là hành động của một kẻ sĩ, kẻ sĩ vô danh. Kẻ sĩ vô danh cao quý không
kém. Với những đóng góp nhỏ ấy, chắc chắn bạn không làm buồn lòng cho Tổ Quốc
và không thẹn với Non Sông. [Lược dẫn Thay Lời Tựa, bộ sách Cây
cỏ Việt Nam; quyển III, tập 2].
Qua "Di Chúc" ấy của GS Phạm Hoàng Hộ, từ nay môn
Sinh học Thực Vật không còn là lý thuyết mà đã đi vào đời sống; Giữ Xanh Đất
Mẹ phải là kim chỉ Nam cho mọi trình độ giáo dục từ Tiểu học tới Đại học,
cả trong công dân giáo dục, là giá trị phổ quát và xuyên suốt cho mọi thể chế
chính trị và cả trên tầm vóc toàn cầu là Giữ Xanh Trái Đất này/ Keep
this Planet Green.
THAY CHO MỘT KẾT TỪ
Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã xem bộ sách Cây cỏ Việt Nam là
công trình của đời tôi và Giáo sư đã đề tặng toàn sự nghiệp ấy cho:
“Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975
đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên Viện trưởng Đại học Cần
Thơ, mất ngày 10/11/1986 tại trại Cải Tạo Hà Nam Ninh.
Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào”.
Xin gửi tới hương linh Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một nhà khoa học
lớn, một nhân cách lớn, một kẻ sĩ khí phách biểu tượng của trí thức đã đi hết
chặng đường đau khổ với trọn đời cống hiến trong một giai đoạn vô cùng đen tối
của đất nước. Bài viết ngắn vội này trong nỗi xúc động, như một nén nhang của một
môn sinh tưởng nhớ Thầy với câu thơ của thi hào Nguyễn Du: Thác là thể
phách còn là tinh anh. Và cũng với ước mong một ngày nào đó "hoa
sẽ nở trên đường quê hương", sẽ có một tượng đài của Thầy trên đỉnh Fan Xi
Pan cao hơn 3000m ở Hoàng Liên Sơn để các thế hệ môn sinh tiếp tục được Thầy hướng
dẫn tới đó khảo sát Cây Cỏ và hoàn tất Giấc Mơ Việt Nam của Thầy.
Tham khảo:
1/ GS. Phạm Hoàng Hộ và GS. Nguyễn Duy Xuân đối với việc
hình thành và phát triển Viện Đại học Cần Thơ (1966-1975); Phạm Đức Thuận; Tập
san Xưa và Nay số 439 tháng 11 Năm 2013. http://www.cantholib.org.vn/
2/ Vị Tổng trưởng quyết không rời Quê hương. Trung Hiếu; Báo
Thanh Niên 28.04.2015; http://thanhnien.vn/
3/ Anh Chị Thủy - Thu Vân thăm Thầy Phạm Hoàng Hộ http://truongxuabancu.fpb.yuku.com/
4/ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, một người thầy của tôi. Lê Học Lãnh
Vân; Một Thế Giới. Việt Nam 2.2.2017 http://motthegioi.vn/.
5/2/2017Ngô Thế VinhNguồn: bìa lưng bộ sách Cây cỏ Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét