Thứ Hai, 21 tháng 12, 2020

Đời và thơ Xuân Quỳnh

Đời và thơ Xuân Quỳnh

I. Quê hương và gia đình
Nằm cách Hà Nội khoảng 14 km, La Khê là một thôn ngoại vi Hà Đông, không những cùng với dân mấy làng bên cạnh nổi tiếng về nghề dệt the, lụa vân, lụa gấm… mà cũng có không ít người lên làm ăn ở trên Hà Nội. Trong số này có ông giáo Nguyễn Quang Thường hay như dân vùng đấy vẫn gọi, là ông giáo Lục. Dáng cao lớn, tính tình lại hào hoa lịch thiệp, ông giáo Lục thuộc loại người có chữ được làng xóm biết tới, kể cả chữ ta (chữ Hán) lẫn chữ Tây. Bạn bè, những người hay đi lại với ông còn biết ông có cả một tủ sách nho nhỏ, và ngoài nghề dạy học - mà ông không mấy để ý - ông còn rất ham viết báo, tiểu thuyết, nghiên cứu và cả dịch sách nữa.
Nhưng, khổ một nỗi, nghề này là một nghề kén người, ai ham thích cũng được song không phải ai cũng toại nguyện. Sống với nó người ta luôn luôn phải cố, phải với, và tưởng cả đời hy sinh cho nó cũng không đủ! Ông Lục mải mê theo đuổi văn chương đến mức đôi khi xao nhãng cả việc gia đình. Thường ông bỏ đi biền biệt trên Hà Nội, để mặc cho người vợ xinh đẹp mà chính ông cũng đã lấy làm hãnh diện khi cưới, là bà Nguyễn Thị Trích - ông thường gọi trệch đi là bà Trinh - sống với bà mẹ chồng tốt bụng, song lại lắm điều, và hà tiện.
Kể ra, cũng có cái lý để ông Lục buồn chán mà bỏ đi: hai vợ chồng ông lấy nhau đâu đã chục năm, bà đã ba lần sinh nở, nhưng cả ba đều lần lượt qua đời, mỗi cậu sống không được quá sáu tháng. Bà Trinh đã khóc biết bao nhiêu nước mắt, mỗi lần tử thần cướp đi của bà đứa con mà bà đã đứt ruột đẻ ra.
Cho mãi tới lần ấy, mụn con đầu tiên, ông bà nuôi được là một người con gái.
Và khoảng tết âm lịch năm Thìn (1940), lại một người con gái nữa ra đời, và không khí gia đình mới đầm ấm lên được ít chút.
Người con gái trước, được đặt tên là Mai, ấy là do bà Trinh quá yêu nhân vật cô Mai hiếu hạnh trong Nửa chừng xuân nên xin phép chồng đặt tên con như vậy. Ông Lục bằng lòng, chỉ thêm vào đó chữ Đông.
Còn người con gái thứ hai, ra đời vào ngày bắt đầu của mùa xuân, nên ông Lục như ông nói giành “toàn quyền” đặt tên, và ông đã đặt là Xuân Quỳnh.
Bà Trinh nhìn thấy ở hai con lẽ sống, cũng như là nơi nương tựa của bà. Bà vui hẳn lên.
Ông Lục cũng cảm thấy không khí u ám bao phủ gia đình trước kia đã được xua tan, và ông ở nhà với vợ con nhiều hơn. Lúc cao hứng lên, ông rung đùi ngâm:
Nhà lan phong trướng rủ rèm
Thương con cậu mợ một niềm nâng niu
Công trình sá quản bao nhiêu
Đông Mai cậu quý, cậu yêu Xuân Quỳnh
Hai con cậu cũng xinh xinh
Đông Mai là chị, Xuân Quỳnh là em.
Nhưng một ngày nào đó, bắt đầu một sự kiện lớn trong gia đình ông Lục, nó sẽ trở thành một nhân tố tác động vào việc hình thành tính cách con cái trong tương lai - đó là một tai biến ập tới. Sau khi sinh người con gái thứ hai, bà Trinh liên tiếp bị ốm đau bệnh tật dày vò. Sau hết bà bị phát hiện là mắc một trong tứ chứng nan y, lúc ấy đang là niềm khủng khiếp trong tâm lý mỗi người dân thường: bệnh lao. Sợ bệnh tật lây ra con cái, bà Trinh vui lòng sống cách ly con, không cho cô con gái thứ hai bú nữa, mà nhờ một người trông hộ, và nuôi bộ.
Chẳng bao lâu sau, nghĩa là cuối năm ấy, bà Trinh qua đời. Đó là một ngày mưa dầm rả rích, dân làng lội bùn bì bõm đưa bà ra bãi tha ma ngoài cánh đồng làng. Mưa quá, đến mức cả hai cô con gái Đông Mai và Xuân Quỳnh đều không ai được theo ra tận bên mồ để giã từ mẹ.
Từ đây, sinh hoạt gia đình chuyển sang một bước ngoặt mới.
Mặc dù gần như chết nửa đời người, khi theo sau quan tài, đưa vợ ra đồng, nhưng ông Lục không có quyền buồn lâu. Riêng việc chưa có con trai nối dõi tông đường, đã có thể coi như lý do để buộc ông nhanh chóng tính chuyện đi bước nữa. Không ai khác, chính bà nội của hai trẻ lại đứng ra cưới cho con trai một người vợ khác ở cùng làng, ngay khi đám tang người con dâu cả của bà mới được sáu tháng.
Ít lâu sau, ông Lục đưa người vợ thứ này lên Hà Nội làm ăn, để hai chị em Mai Quỳnh ở lại sống với bà.
Đến đây, chúng ta bắt gặp hai yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tính cách nhà thơ Xuân Quỳnh:
1. Những ngày nuôi bộ
2. Năm năm đầu, sống ở nơi thôn dã với người bà nội.
Chúng ta sẽ lần lượt dừng lại ở từng yếu tố một:
Những người có dịp làm quen với Xuân Quỳnh, đều sớm có một nhận xét là Xuân Quỳnh rất tự nhiên trong mối quan hệ với mọi người chung quanh. Đến với ai Quỳnh cũng hồn nhiên khéo léo, lại chuyện trò ròn rã, khiến nhiều người khó tính cũng phải quý mến. Đặc biệt với những người mà Quỳnh có cảm tình riêng, thì thôi khỏi phải nói, một là lúc nào Quỳnh cũng muốn chuyện trò, đi họp đâu cũng muốn ngồi cạnh để còn nói chuyện, hai là sự chăm sóc của Quỳnh với người đó hết sức tỉ mỉ, muốn gì cũng chiều, chiều công khai, chiều ra mặt, cốt cho người ấy và mọi người chung quanh thấy được sự chiều chuộng của Quỳnh mới thôi. Trong tình yêu, Xuân Quỳnh có những nét của người phụ nữ nồng nhiệt mà nhà văn Trung quốc hiện đại Trương Hiền Lương đã viết trong tiểu thuyết Đàn ông một nửa là đàn bà.
“Cô là người đàn bà quyết biểu hiện cho bằng được tình yêu của mình để cho anh biết thật rõ ràng chính xác cô đã phải bỏ ra bao nhiêu, biết cho thật rõ ràng và chính xác sức nặng và mức độ tình yêu của cô”
Nét tính cách ấy không phải chỉ có mặt tốt. Đây đó, có thể nó làm cho người ta khó chịu, cả bạn bè khó chịu. Nhưng phải thế mới là Xuân Quỳnh, “thuở nhỏ tôi cũng di-gan lắm, toàn đi bú chực” - người viết cuốn sách này nhớ lời kể của Xuân Quỳnh trong một lần trò chuyện, và đã thường lấy đó làm một nhân tố, để giải thích cách sống, cách cư xử của Xuân Quỳnh. Đến khi được đọc cuốn hồi ký của Đông Mai Xuân Quỳnh nửa cuộc đời tôi, thì cái cảm tưởng hôm trước càng được khẳng định.
ở nông thôn ta ngày trước, sữa bò đâu đã phổ biến như bây giờ. Bởi vậy, nhiều đứa trẻ được nuôi bộ, nghĩa là chuyên môn đi bú chực. Xem nhà nào cũng có con nhỏ mới đẻ, thì người trông trẻ mang đứa trẻ mà mình nhận nuôi bộ tới. Nói năng cầu khẩn để người mẹ trẻ kia cho đứa nhỏ này bú là việc của người lớn. Nhưng về phần đứa trẻ, cũng phải nhận là nó lâm vào một hoàn cảnh khác thường. Nay sữa người này mai sữa người khác, mỗi người một hơi, mà không được lạ, không được dị ứng, ngược lại phải sống bằng cảm giác có sữa là bú, có người cho bú là mừng rồi! Một cách bản năng, đứa trẻ còn phải tìm cách lấy lòng người mẹ có sữa để người ta vui vẻ cho bú (mà theo cách lý giải của khoa tâm sinh lý phụ nữ, người cho bú có vui vẻ thì sữa mới ra nhiều!). Lại cũng có khi, giữa bọn trẻ với nhau cũng có sự ghen tị. Bé A. dù mới 1-2 tuổi nhưng nhiều khi thấy mẹ cho bé B. bú, là không bằng lòng, là kêu khóc, nhiều khi còn xông vào cào cấu. Nhưng bé B ở thế yếu, thân đi bú chực, còn có cách nào khác hơn là bám riết nguồn sữa trừ khi bị từ chối thì thôi, chứ còn có người cho bú là còn bú. Cái con người dễ chấp nhận kẻ khác, biết lấy lòng họ một cách tự nhiên… mà sau này, chúng tôi bắt gặp ở Xuân Quỳnh - cái đặc tính mà Xuân Quỳnh đã miêu tả trong hai chữ di-gan, nghĩa là vạ vật lang chạ, trong mức độ chưa bị coi là bừa bãi - có vẻ như bắt nguồn từ điều kiện sống đặc biệt của cái năm đầu tiên tồn tại trong đời như vậy (Trong số các nhà văn nhà thơ Việt Nam hiện đại, theo sự tìm hiểu còn hạn chế của tôi, cùng có một người mẹ mất sớm và thường phải đi “bú chực”, đó là Nguyễn Bính, còn sự liên hệ giữa tình cảm này với tính cách con người tác giả Lỡ bước sang ngang ra sao thì chúng tôi chưa được rõ)
Bây giờ tới chuyện cuộc sống của Xuân Quỳnh những năm sống bên người bà.
Trong cuốn hồi ký của mình, Đông Mai đã nhấn mạnh bà nội mình là một người tốt, nhưng quá hà tiện, nên trở thành cay nghiệt. Đại khái, có khi chỉ tiếc dăm xu tàu điện mà cụ dắt cháu đi bộ từ quê lên Hà Nội thăm bố (khoảng cách hơn chục cây số). Những bữa cơm gia đình mà ba bà cháu hàng ngày thổi nấu cho nhau ăn, chỉ quanh quẩn toàn những rau mọc hoang ở vườn dậu, hoặc rau tự trồng, cộng với cà tương, thảng hoặc có tí đậu phụ, chỉ giỗ tết mới có thịt. Chẳng thế mà bé Quỳnh béo khỏe mập mạp, hồi còn bú chực, giờ ngày càng gày yếu, “mắt như hai cái chén” (lời Xuân Quỳnh kể lại với người viết những dòng này). Tuy vậy, Xuân Quỳnh không bao giờ nhầm lẫn con người đích thực của bà nội mình. Với bản tính thương người và khả năng thích ứng sẵn có, Quỳnh hàng ngày quấn quýt bên bà, làm mọi việc để bà vui lòng. Nhất là Quỳnh để ý và chia sẻ từng vui buồn bé nhỏ của bà. Cứ thế, dần dần hình thành ở Quỳnh cách cảm, cách nghĩa hồn hậu của một người nông dân, và dù sau này cuộc đời bao thay đổi, thì cách cảm, cách nghĩ hồn hậu ấy vẫn còn nguyên ở Xuân Quỳnh. Không phải ngẫu nhiên một biên tập viên của Nhà xuất bản Kim Đồng là Lê Phương Liên, khi nhắc lại những trang truyện thiếu nhi hấp dẫn của Xuân Quỳnh, nói rõ ngay rằng đó là do Xuân Quỳnh có một giọng kể gần dân gian. “Nếu ai đã gặp chị một lần, thật khó lòng mà quên được giọng nói và cách nói của chị. Thật vui vẻ, thật đáo để nhưng vẫn đằm thắm rung động tinh tế của truyền thống dân tộc”. Với Lê Phương Liên, nghĩ tới nhà thơ là đầu óc trở lại cái câu nói đơn giản mà Xuân Quỳnh dùng để mở đầu cho một tham luận cho hội nghị văn hóa thiếu nhi 1980: “Thuở bé, tôi sống ở làng”
II. Từ nông thôn lên Hà Nội
Bởi làng La Khê chỉ cách thị xã Hà Đông độ hai cây số, cho nên sau khi học xong sơ học ở trường làng đến khi đi học tiểu học, Quỳnh lại học ngay ở thị xã Hà Đông. Và môi trường tiếp xúc chủ yếu của Xuân Quỳnh hồi thơ ấu vẫn là vùng ngoại ô ven thị xã.
Tuy nhiên, bên cạnh nền văn hóa tự nhiên của nông thôn thì đời sống thành thị - mà tiêu biểu là Hà Nội - cũng sớm bắt đầu len vào tuổi thơ của con người nhạy cảm ấy.
Thỉnh thoảng, theo bà và chị, Quỳnh lên Hà Nội thăm bố đang sống với người mẹ kế và mấy đứa em (*) Những cuộc đi hơn chục cây số không nhẹ nhàng gì với cô bé. Song ở tuổi ấy, từ xóm làng quê mùa tăm tối tới thành phố tràn đầy ánh điện, mỗi chuyến đi vẫn để lại những ấn tượng lớn lao trong đầu người thi sĩ tương lai.
Thuở ấy, chưa có xe đạp, sau quãng đi bộ ra Hà Đông là lên tàu điện. Có những lần, lên Hà Nội cả Đông Mai lẫn Xuân Quỳnh đều không có tiền. Hai chị em cứ phải lấy nón che đi, tránh chường mặt ra với ông bán vé. May mà mấy lần đều gặp những ông bán vé dễ tính, không phạt.
Nhưng giá như một hôm nào đó, chị Mai có rủ lên Hà Nội thăm bố, thì có mệt đến đâu, Xuân Quỳnh cũng sẵn sàng đi. Một lần, Xuân Quỳnh được mang lên bệnh viện Phủ Doãn chữa răng. Từ tầng hai ngôi nhà rợp bóng sấu bên đường Quán Sứ, Quỳnh có dịp nhìn kỹ những căn nhà Tây đồ sộ, không những là đẹp đẽ sang trọng so với ngôi nhà ngói cổ mấy bà cháu vẫn ở đằng quê, mà còn là sạch sẽ thoáng đãng hơn nhiều, so với căn buồng chật hẹp mà bố và mẹ kế đang ở. Và kỳ thú là những người đàn bà Hà Nội xinh đẹp, lịch sự đi lại trên vỉa hè! Càng nhìn lòng Quỳnh càng dội lên niềm ước ao là lớn lên, cũng xinh đẹp và lịch sự như họ.
Trong tình yêu Hà Nội của Xuân Quỳnh, còn có bóng dáng tình yêu Hà Nội của người cha, một trí thức nghèo sống lay lắt trong cái thời buổi đầy khốn khó.
Theo như Xuân Quỳnh và Đông Mai còn ghi nhớ, những lần ông bố dẫn các cô con gái đi chơi phố, không những các con sung sướng mà bố cũng thích thú. Luôn luôn, ông kêu lên, như vừa được gặp Hà Nội lần đầu. Khi máy ảnh bắt đầu phổ biến, ông tha đâu về được một chiếc loại tòng tọc, và rất thích chụp ảnh những căn nhà, những góc phố Hà Nội, dù đôi khi vợ con có eo xèo rằng tốn kém về tiền phim, tiền in tráng, thì nhăn nhó đấy rồi vẫn chứng nào tật ấy. Ông vẫn mê chụp ảnh như ngày xưa người ta mê tổ tôm, cô đầu.
Nhưng tình yêu Hà Nội của ông Lục, oái oăm thay, cũng là một tình yêu khốn khổ.
Trước và sau 1945, ông vẫn chơi vơi, nửa ở La Khê, nửa trên thành phố.
Về sau, khi làm bạn với bà vợ kế, ông có đưa cả gia đình lên Hà Nội ít năm. Nhưng chả bao lâu, qua 1950, ông lại một lần nữa làm cuộc thiên di, đưa cả nhà vào Sài Gòn.
Đối với con người đã viết hẳn một thiên khảo cứu về Hà Nội (cuốn… việc tạm xa với Hà Nội thật là điều đau xót khôn tả. Lên chia tay ông, Xuân Quỳnh mới 7-8 tuổi thấy ông cho xem những bức ảnh trong đó thoạt nhìn chỉ có màn đêm đen kịt và vài chấm sáng yếu ớt, thì không hiểu gì cả, ông Lục phải giảng: đó là hình ảnh ánh đèn trên hồ Thiền Quang những đêm đầu xuân. Quỳnh nhìn lại ảnh một lần nữa, lần này, cái nhìn nhòa trong nước mắt thương cha (mà chị Mai và Quỳnh hay gọi là cậu)
Cũng may, ít lâu sau khi ông Lục chuyển đi Sài Gòn chị Đông Mai lại lên trọ ở Hà Nội để theo học ở trường Trưng Vương, và Quỳnh cũng lại thỉnh thoảng lên thăm chị, đôi khi còn nghỉ lại ở đấy ít ngày. Nhà thơ Vân Long đến nay còn nhớ, là hồi đó, Đông Mai cũng có làm thơ, và Vân Long Đông Mai là cùng một nhóm thơ. Trong những lần đến nhà Đông Mai sinh hoạt nhóm, Vân Long đôi khi thấy một cô bé 12-13 nhảy dây ngoài sân, trông khá xinh đẹp, mọi người bảo là em Đông Mai đấy. Cố nhiên, Vân Long và các bạn không thể ngờ là cô bé chỉ mải nhảy dây đó, về sau lại có một tương lai văn chương xa rộng hơn bất cứ người  nào trong nhóm.
Cứ thế, Hà Nội thấm dần vào cuộc đời cô bé nông thôn hôm qua một cách từ tốn, êm đẹp.
Nét đặc biệt của Hà Nội xưa nay: đó không phải là một đô thị lớn lao, đồ sộ. Có thể nói Hà Nội không hoàn toàn là đô thị nữa, mà suốt từ thời phong kiến, qua những năm đầu của thế kỷ XX, dù qua bao thăng trầm thay đổi Hà Nội vẫn cái vẻ riêng của nó: một thành phố sống giữa một vùng quê và còn nặng chất “nhà quê”.
Có thể về sau, cái chất nông thôn ấy bị tố lên đẩy lên tô đậm lên quá mức cho phép khiến thành phố ngổn ngang bừa bộn, mà lại lai tạp, và nói chung là quê mùa cũ kỹ đi. Nhưng vào thời điểm Xuân Quỳnh mới lớn lên, Hà Nội vẫn chưa bị biến dạng, thành phố vẫn thuần nhất trong sự hài hòa có phần cổ điển riêng của nó.
Một điều cũng nên lưu ý, là vào những năm từ 1953 trở đi, khi Xuân Quỳnh có dịp nhận xét, quan sát về Hà Nội bằng con mắt của một thiếu nữ mới lớn - chứ không phải chỉ theo bố hoặc chị đi chơi phố như ngày trước - thì Hà Nội vào “thời điểm bản lề”: trước 10-54, Hà Nội là trung tâm của chính quyền tạm chiếm ở châu thổ Bắc bộ, sau 1954, Hà Nội được giải phóng. Những chiến sĩ từ kháng chiến trở về, trong đó, có nhiều con em của chính thành phố thân yêu, họ trở lại Hà Nội với tâm lý hào hứng và tình cảm trong sáng. Ngay cả trong mắt những anh em cán bộ vốn từ nông thôn lên, mới lần đầu đặt chân lên đường nhựa Hà Nội, thành phố này vẫn là một cái gì thiêng liêng cao cả. Cái thành phố mà  họ đổ xương máu mới giành lại được, như vẫn có một khoảng cách với họ. Họ không khỏi nhớ lại những ao ước nắc nỏm lúc nhỏ về một thứ kinh đô hoa lệ, mà chỉ những người có máu mặt trong làng trong xóm mới được đặt chân tới. Về làm dân thành phố rồi, có khi mang cả vợ con lên sống giữa Hà Nội mà họ vẫn không tin ở cái hạnh phúc mình được hưởng. Họ chỉ sợ trong cử chỉ hành động của mình có gì thô lậu không hợp với đất ngàn năm văn vật! Họ không lấy cách sống giản dị dễ dãi giữa rừng Việt Bắc đem áp đặt cho Hà Nội, mà ngược lại, với niềm rung động chân thành, họ muốn sống theo kiểu thành phố, và hiểu rằng phải nỗ lực học hỏi nhiều, rồi mình mới có được cái thanh lịch dịu dàng của người Hà Nội. Cái tâm lý biết điều và rất văn hóa của những người chủ mới của thành phố, khiến cho đời sống Hà Nội từ 1965 trở về trước phảng phất một không khí thanh bình hòa hợp, mà từ khi chống Mỹ trở đi, không thể nào có được.
May mắn của một người mới lớn lên và yêu Hà Nội một cách đắm đuối như Xuân Quỳnh lúc này là cách cảm cách nghĩ của nhà thơ tương lai cũng gần với cách cảm cách nghĩ của người đương thời.
III. Hành nghề diễn viên và bước đầu làm quen với thơ
Vào khoảng những năm từ 1960 trở về trước, nội thành Hà Nội còn khá chật hẹp, phía Tây Bắc chỉ tính từ đường Kim Mã trở lại, còn từ Cầu Giấy trở vào, đang là một vùng ngoại ô. ở đấy, đồng ruộng kề ngay sát bên đường nhựa hoặc lấp ló ngay sau những gian nhà tuy ở mặt đường, nhưng chỉ một tầng lúp xúp. Đất triển khai xây dựng còn rộng. Bởi vậy khi có lệnh đưa một số đơn vị nghệ thuật ra khỏi các khu trung tâm thành phố thì chung quanh Cầu Giấy, bên cạnh các trường đại học Sư phạm và trường Nguyễn Ai Quốc liên tiếp mọc lên mấy khu văn công lớn. Khu Mai Dịch gồm văn công quân đội (Đoàn ca múa, Đoàn kịch, sau thêm Trường nghệ thuật quân đội), Trường múa Việt Nam. Gần Cầu Giấy hơn, ngay trước khu vực ngã ba rẽ lên Chèm, là đại bản doanh của Đoàn văn công nhân dân T.W, và Dàn nhạc giao hưởng.
Khi mới trúng tuyển văn công, Xuân Quỳnh còn ở với đoàn chỗ 64 Quán Sứ. Nhưng thời gian ở đấy quá ngắn ngủi, nên mỗi khi nhớ tới quãng đời làm diễn viên múa trước mắt người diễn viên trẻ này, chỉ hiện lên rõ hình ảnh những ngôi nhà lá dựng tạm bợ khu văn công Cầu Giấy, ở đó, có sàn tập, phòng họp, phòng tập thể, khu gia đình của các anh chị lớp trước tất cả làm nên một cơ ngơi xinh xắn, ấm cúng. Đó là môi trường sống tập thể đầu tiên, nơi Xuân Quỳnh có dịp làm nghệ thuật, và tạo điều kiện cho nhà thơ tương lai một không gian tiếp xúc rộng rãi.
Có một người mà mỗi khi nhớ tới những năm ở Cầu Giấy, Xuân Quỳnh không thể quên đó là nhà thơ Thanh Tịnh.
Từ 1975 trở về trước, tạp chí Văn nghệ Quân đội là nơi làm việc của hàng loạt nhà văn nổi tiếng: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Vũ Cao, Xuân Sách… Đến chơi với tổ thơ tạp chí, Xuân Quỳnh (khi ấy đã là một nhà thơ được gửi gấm nhiều hy vọng) cũng đến chơi chung với mọi anh em khác. Song tôi nhận thấy Quỳnh đặc biệt tỏ ra trìu mến với Thanh Tịnh. Một lần nào đó, Xuân Quỳnh cắt nghĩa:
- Có gì đâu, hồi còn ở đoàn văn công, tôi thuộc loại nhỏ nhất, hay lui tới nhà chị Ngọc Dậu. Anh Thanh Tịnh đến chơi với Ngọc Dậu, thấy tôi ở đấy, tỏ ra rất thương tôi. Anh hay nói với chị Dậu: “Em nhỏ nó sensible lắm” (nhạy cảm lắm). Hồi ấy cụ cũng sống lơ phơ một mình “ăn cơm tập thể ngủ giường cá nhân”, nên thỉnh thoảng đèo tôi đi chơi, có khi dẫn vào quán ăn. Mình chỉ buồn cười, hai anh em bác cháu gọi hai đĩa cơm rang, mình ăn không hết, cụ bảo đưa cụ, và cứ thế cụ ngồi ăn bằng hết mới thôi.
Câu chuyện không chỉ cho thấy nỗi cô đơn của Thanh Tịnh mà còn cả nỗi bơ vơ của Xuân Quỳnh, bơ vơ ngay giữa môi trường nghệ thuật mà người ta quen nghĩ là rực rỡ ánh đèn và lộng lẫy son phấn.
Tuy nhiên, với bản năng thích ứng và yêu đời từ nhỏ, Xuân Quỳnh cũng sống hòa hợp tự nhiên với những bè bạn cùng trang lứa, và anh chị em trong đoàn. Cái năng động ưa nghịch ngợm trêu đùa mọi người của Quỳnh có dịp bộc lộ đầy đủ. Mãi những năm sau này, Quỳnh còn nhớ, là hồi ấy, mình hay nói láo, trêu ghẹo các bạn, đến mức tức quá, có lần họ bảo nhau khênh Quỳnh vứt ra vườn.
Khi chia tay với bà để đi văn công Quỳnh hiểu rằng rồi mình có lương, gửi về cho bà. Với tính tự trọng sẵn có, Quỳnh rất chịu học. Có lần, chị Mai đến thăm em ở khu văn công trong giờ, thấy em mồ hôi ướt đầm vai áo - Nhưng Quỳnh không nản, Quỳnh nói với chị rằng nghề này nó phải thế. Rồi pha trò:
- Thúy Quỳnh (*) múa đẹp, nó làm cô Tấm, em phải làm thị tì cho nó đấy.
Một thuận lợi lớn có tác động đối với sự nghiệp sáng tác của Quỳnh về sau là trong thời gian ở văn công, Quỳnh có dịp đi khá nhiều. Ngoài biểu diễn ở các nhà hát, hội trường chung quanh Hà Nội, còn theo đoàn về nông thôn. “Kể ra đời nghệ sĩ cũng giàu tình cảm thật, đi đến đâu, là để thương để nhớ đến đấy. Phong cảnh cũng đủ nhớ rồi, chứ đừng nói đến tình cảm nữa” - trong một lá thư viết khi đang đi thực tế ở nông thôn, Quỳnh kể cho chị Đông Mai như vậy.
Lại có những chuyến đi sưu tầm và khai thác vốn cổ, đi tuyển chọn diễn viên ở các vùng xa cũng là những chuyến đi kỳ thú.
Lũng Cú là một vùng cao thuộc huyện Đồng Văn Hà Giang, là cái mỏm cao nhất của chúng ta, nếu dựng tấm bản đồ Việt Nam thẳng đứng. Có lần đến với Lũng Cú, nhà văn lão thành Nguyễn Tuân hào hứng lắm, trở về ông có ngay thiên tùy bút Lũng Cú tột bắc (Chữ tột dùng thật đắc địa mà chỉ Nguyễn Tuân mới phát hiện được). Nhưng trước đó, khi ngồi bên chén rượu, nghĩ về duyên kỳ ngộ của mình với một mảnh đất độc đáo, Nguyễn Tuân quay hỏi người bạn cùng đi là Hoàng Trung Thông:
– Ông có biết trong đám văn nghệ sĩ, ai là người đầu tiên có mặt ở Lũng Cú chứ không phải tôi với ông không?
– Ai?
– Cô thi sĩ trẻ Xuân Quỳnh.
Hồi ấy tức là trong những năm chống Mỹ, ở Hội Nhà văn, những chuyến đi nước ngoài còn là chuyện hiếm hoi, mỗi khi trong giới có ai được đi - đi các nước xã hội chủ nghĩa thôi, chứ không phải đi “tư bản” - đã là cả một sự kiện để mọi người bàn bạc. Nhưng Xuân Quỳnh thì không, chả bao giờ chúng tôi thấy Xuân Quỳnh nhắc nhở gì đến những chuyện loại ấy. Hỏi ra mới biết trước đó người bạn của chúng tôi, hồi ở văn công đã đi khá nhiều, gần nhất là Trung Quốc, Mông Cổ, xa hơn nữa, mãi kinh thành Hensinki nước Phần Lan, thành Viên nước áo. Hóa cho nên không quá háo hức như những người khác.
Vân Long trước đây cũng là nhạc công ở Dàn nhạc giao hưởng còn giữ được những lá thư Xuân Quỳnh gửi từ Trung Quốc, trên đường đi Phần Lan. Còn đây là một đoạn trong thư Xuân Quỳnh gửi cho Đông Mai, kể lại những ngày ở Viên.
“Trước khi bước chân đến thành Viên thì em tưởng rằng mình sẽ sống một cách riêng biệt và chẳng có gì đáng nhớ. ấy thế mà chính cái ấn tượng tốt đẹp và sâu sắc nhất lại chính là ở Viên. Có bà mẹ đưa đứa con 15,16 tuổi đến tiễn đưa đoàn em mà khóc từ sáng đến chiều, cô con gái tặng em cái tượng hai con hươu và bà mẹ nói rằng: “Em nó tặng chị hai con hươu này chị đừng bao giờ quên nó mà tội nghiệp”. Chúng em thường có rất nhiều bạn và những người mẹ như thế đấy. Trong số thanh niên đó em có một người bạn tên là Berti Laner rất tốt. Anh ấy làm ở nhà máy cơ khí nhà ở cũng tương đối nghèo. Berti nói rằng hắn rất yêu em và không bao giờ quên được. Mẹ Berti bảo em rằng con có thể ở lại Viên với mẹ được không? Và em nói rằng nếu có dịp qua đây em sẽ vào thăm mẹ. Bà cụ khóc và nhắc lại mãi rằng “Con đừng quên rằng con đã nói nếu có dịp con sẽ trở lại nhé”… Hôm tiễn đưa, Berti khóc nhiều quá và cả bà mẹ nữa. Tất nhiên là em chị không yêu rồi, nhưng em thương Berti quá đi mất và sau này mãi mãi em vẫn nhớ những con người mà không bao giờ gặp lại.”
Ở gia đình bà Vũ Thị Khánh, mẹ chồng Xuân Quỳnh, hiện còn giữ được nhiều tấm ảnh lưu niệm khá đẹp, chụp trong những chuyến Xuân Quỳnh đi công tác xa với Đoàn ca múa nhân dân TW. Nhưng tôi nhớ là sinh thời, Xuân Quỳnh không thích trưng ra cho bọn tôi xem loại ảnh đó. Nói theo cách nói của Quỳnh, đấy là cái thời nhí nhố, xem làm gì. Bần cùng lắm, bị chúng tôi gặng hỏi mãi, Xuân Quỳnh mới thở dài:
– Kể nếu chịu học, thì trong những chuyến đi ấy, học được bao điều bổ ích. Nhưng lúc ấy, có biết quái gì, chỉ đi xem những cái vớ vẩn, không đâu vào đâu. Tiếc thế chứ!
Những năm ở văn công còn là một bước chuẩn bị khá tốt, để Xuân Quỳnh chuyển hẳn sang nghề sáng tác văn học.
Nguyên trong gia đình, cả cha và chị Xuân Quỳnh đều là những người rất yêu thơ, và thích sáng tác thơ: Sung sướng vì đẻ thêm cô con gái thứ hai là Xuân Quỳnh, ông Lục có thơ; từ Sài Gòn ra Hà Nội thăm gia đình, ông Lục có thơ; cũng như sau 1975 có lần ốm nặng, bảo con gái Đông Mai đánh điện cho Xuân Quỳnh từ Hà Nội vào thăm, ông lại đọc một đoạn thơ nhớ cái làng La Khê của mình. Còn Đông Mai, một trong những bài thơ của chị được cô em gái thuộc lòng đọc đi đọc lại không chán là bài thơ chị viết về quê ngoại La Tinh mà hai chị em cùng nhiều lần về thăm (bài thơ mang tên Chén nước chè tươi). Trong hoàn cảnh ấy, thói quen làm thơ cũng hình thành ở Xuân Quỳnh một cách tự nhiên. Đến khi vào văn công, thì Xuân Quỳnh làm thơ nhiều hơn. Thơ ghi lại tâm sự của một cô gái mồ côi, nay trưởng thành, trong vai một diễn viên văn công đầy tự hào. Thơ kể lại những chuyến đi xa. Và thơ về tình yêu mà sau đây, chúng ta sẽ trở lại. Những bài thơ này, thoạt đầu làm cho mình, song Xuân Quỳnh cũng thấy là giá kể mọi người cùng biết thì hay biết mấy. Thế là gửi bài cho các báo. Trong vòng mấy năm từ 1958 đến 1961, Xuân Quỳnh đã bước những bước chập chững trong nghề. Trong một lá thư gửi về cho chị Mai, Quỳnh khoe:
“Độ này em cũng làm được nhiều thơ và ca dao lắm, tổng cộng đến 15,16 bài… Các bài của em nói chung là được nhiều người thích, có bài em đã gửi  báo Việt Nam Độc lập, họ đã đăng nhưng chỉ gửi biếu một tờ báo mà không có tiền nhuận bút”.
Cùng với việc làm thơ, Xuân Quỳnh có dịp làm quen với một giới nghệ thuật khác: giới sáng tác văn chương.
Trong hồi ức của mình, Vân Long kể rằng, trước khi Xuân Quỳnh in bài thơ đầu tiên, Vân Long đã đưa Xuân Quỳnh đến dự buổi trao đổi nhận xét tập thơ Riêng chung của Xuân Diệu do Sở văn hóa Hà Nội tổ chức. (Riêng chung in ra 1960, theo tuổi thật thì Xuân Quỳnh lúc đó sang tuổi  20)
Sở văn hóa Hà Nội hồi đó là nơi tập hợp nhiều cây bút mới kể cả một số đang công tác ở các cơ quan TW đóng tại thủ đô. Trong những buổi họp như thế - thường do nhà thơ Huyền Tâm chủ trì -Xuân Quỳnh đã gặp và làm quen với hầu hết các cây bút lúc đó, cũng náo nức muốn vào nghề như mình, và một số về sau còn tiếp tục làm thơ như mình. Đó là Hoài Anh và Võ Văn Trực, Nguyễn Gia Nùng và Bùi Minh Quốc, Dương Đình Hy và Ngô Văn Phú, Trần Nhật Lam và Đại Thủy v.v…
Được nghe Quỳnh đọc thơ trong những buổi liên hoan của các đoàn nghệ thuật, và các cơ quan khác, nhiều người trong giới văn hóa lúc ấy bảo nhau không chừng dân ca múa sẽ mất đi một diễn viên trung bình để giới sáng tác văn chương có thêm một giọng thơ xuất sắc. Và người ta sẵn sàng giới thiệu Quỳnh tham dự những buổi họp mà trước kia, có nằm mơ Quỳnh không dám nghĩ tới. Chẳng hạn lần ấy, Nhà xuất bản Phụ nữ vốn rất ít khi in thơ, bàn việc ra một tập thơ riêng cho chị em trong giới. Vân Đài (khi đó còn sống), cùng với  Anh Thơ, tất nhiên là những nhân vật thuộc loại đầu vị rồi. Nhưng còn thêm ai nữa? Chỉ cần khoảng gần mười người mà đã phải tính, phải gạn. Và thế là người ta mời Xuân Quỳnh. Hồi đó, đầu năm 60, cả Phan Thị Thanh Nhàn lẫn Thúy Bắc, Nguyễn Thị Hồng Ngát lẫn Hoàng Thị ý Nhi đều chưa xuất hiện, nên tự nhiên Xuân Quỳnh là người trẻ nhất. Xuân Quỳnh kể với chị Mai: thấy Vân Đài già quá (bà V.Đ sinh 1903 –VTN chú  ) suýt nữa quen mồm gọi là cụ, song nghĩ đây là đi họp, thấy ai cũng gọi Vân Đài là chị, nên cũng gọi theo, mặc dù rất ngượng.
Cứ thế, mỗi ngày một chút, thời gian mấy năm cuối ở văn công (khoảng 1960-61) là thời gian ở Xuân Quỳnh chín dần một con người sáng tác. Chẳng bao lâu, Quỳnh sẽ được mời đi học lớp văn nghệ ở Quảng Bá. Đó là đầu 1962, Xuân Quỳnh đã ở văn công được 7 năm.
IV. lớp viết văn Quảng Bá
Giữa núi rừng Việt Bắc, ngay từ 1950, sau khi Hội văn nghệ Việt Nam và tạp chí Văn Nghệ ra đời, một trường văn nghệ nhân dân cũng được thành lập. Trường do nhà văn Nguyên Hồng phụ trách và thu hút về mình một số tài năng văn nghệ còn trẻ so với lúc ấy như: Bàn Tài Đoàn, Cẩm Lai, Nguyễn Kiên… Cách làm việc của trường là mời một số văn nghệ sĩ đến giảng, có tính cách truyền nghề, sau đó,  học viên sáng tác và góp ý kiến cho nhau. Có một chi tiết vui vui, mà về sau nhà văn Nguyễn Kiên còn nhớ, đó là cuối khóa, nhà trường hết gạo, “ông đốc” Hồng khóc hu hu mà đành lòng cho học viên về sớm, so với dự định. Tuy vậy, nhiều học viên về sau cũng đã nên người và còn nhớ mãi ngôi trường từng theo học.
Từ sau 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, nhiều trại viết đã được tổ chức như trại viết anh hùng, trại viết về sửa sai và cải cách ruộng đất. Nhưng mãi tới 1962, một lớp học tương đối quy mô hơn do Hội Nhà văn đứng ra tổ chức mới được hình thành.
Lớp học kéo dài trong hai năm 1962-63.
Học viên chủ yếu là các cây bút trưởng thành từ kháng chiến, như Bích Thuận, Cẩm Lai, Nguyệt Tú, Vũ Thị Thường, Đinh Quang Nhã, Nguyễn Quang Sáng, Xuân Vũ (sau này đi B và chiêu hồi), Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Trọng Oánh v.v…
So với Trường văn nghệ nhân dân hồi nào, nét thay đổi quan trọng nhất ở lớp Quảng Bá là tổ chức cho các học viên học khá kỹ về một số vấn đề văn học sử trong nước và nước ngoài. Dạy văn học cổ điển Việt Nam có Hoài Thanh. Dạy tư tưởng triết học và văn học phương Tây, là Đặng Thai Mai. Rồi Nguyễn Đình Thi giảng về tiểu thuyết, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân nói về văn xuôi, cũng như Xuân Diệu, Chế Lan Viên giảng về thơ. So với nhiều khóa học tương tự về sau, thì lớp Quảng Bá vẫn được coi là mẫu mực, thày giỏi, trò chăm, và điều chủ yếu là hoàn cảnh thuận lợi: miền Bắc lúc ấy còn đang trong không khí thanh bình, chưa có cái tình trạng - bảo là sôi nổi gấp gáp cũng được, mà bảo là xô bồ nhộn nhạo cũng được - của những năm chiến đấu chống chiến tranh phá hoại về sau.
So với các học viên phần lớn cứng tuổi trong lớp, thì Ngọc Tú và Xuân Quỳnh thuộc loại trẻ nhất.
Ngọc Tú từ một trường cấp 2 ở Hà Đông cũ tới học. Lúc ấy cô giáo bỏ nghề đang viết truyện ngắn và sẽ chuẩn bị ra trường bằng tập tiểu thuyết mỏng, khoảng 200 trang, mang tên Huệ.
Còn Xuân Quỳnh được học kỹ hơn về thơ.
Về sau này, trong một vài lần trò chuyện với lớp bạn bè tuy cùng tuổi, cùng lứa nhưng vào nghề có phần chậm hơn như bọn tôi, Xuân Quỳnh thường chỉ nói tới lớp một cách qua loa. Đại khái toàn chuyện nghịch ngợm… Có những lần Quỳnh ăn mặc kiểu đàn ông, lấy giấy bạc ở bao thuốc lá bịt răng, giả làm Tây, đi các phòng gõ cửa quấy phá ai ra mở thì chạy. Hoặc một vài học viên lớn tuổi hơn muốn tìm thấy ở Quỳnh một người bạn đời, nhưng Quỳnh lúc ấy đang yêu Lưu Tuấn, nên không mặn mà chút nào.
Nhưng dẫu sao những ngày đi học vẫn là một bước ngoặt trong đời Quỳnh.
Lớp học nằm trên một mảnh đất ven Hồ Tây, nhưng chính ra lại gần đê sông Hồng hơn. Chiều chiều cơm nước xong, Ngọc Tú và Xuân Quỳnh rủ nhau vượt qua con đường nhựa lên ngồi trên con đê, nhìn ra bãi sông. Có Ngọc Tú bên cạnh, nhưng nhìn khoảng không bao la trước mắt, nghĩ đến đoạn đường đời tiếp theo, Xuân Quỳnh vẫn cảm thấy hết sức cô đơn. Trước mắt với Quỳnh có mấy việc phải lựa chọn.
Một là chuyện tình cảm riêng tư.
Hai là chuyện chọn nghề: ở lại văn công hay chuyển hẳn sang viết văn làm thơ.
Duyên dáng xinh đẹp, lại công tác ở một đoàn ca múa, một môi trường của thanh của sắc, Xuân Quỳnh lúc ấy là đối tượng chú ý của nhiều người. Song, sau một vài thất vọng về người này người kia, Quỳnh sớm tính chuyện ổn định lâu dài với Tuấn, một nhạc công violon cùng công tác trong đoàn.
Dưới đây, khi dừng lại ở tập thơ Chồi biếc, chúng ta sẽ còn trở lại với chuyện tình yêu. ở đây, hãy nói kỹ về chuyện chọn nghề của Xuân Quỳnh.
Việc làm thơ ở Quỳnh hình thành tự nhiên, như là việc nhà: thấy cha hoặc chị Đông Mai làm thì cũng “vui tay” làm thử. Nhưng không chỉ có bắt chước mà đây cũng là nhu cầu tự nhiên của chính Quỳnh nữa. Ta cũng không nên quên rằng sau khi vào Sài Gòn, ông Nguyễn Quang Lục có để lại cho hai cô con gái mấy tủ sách. Theo Xuân Quỳnh kể trong một bản tự thuật, “chúng tôi đọc ngấu nghiến hết cả, có cái hiểu, có cái chẳng hiểu nhưng rất say mê”.
“Những truyện của Nam Cao, Nguyên Hồng mỗi khi đọc tới thấy sao mà giống tôi thế. Tôi có cảm tưởng là tôi cũng có thể viết được như vậy, một cách dễ dàng. Và tôi đã khao khát được viết.”
“Nhưng say mê hơn cả vẫn là thơ”
“Tôi đọc thơ của Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Huy Cận, Xuân Diệu rất say sưa. Đằng sau những bài thơ bao giờ tôi cũng cảm thấy bao điều kỳ diệu. Và tôi tin rằng các nhà thơ là những vị thánh. Cho mãi đến bây giờ, tôi vẫn thấy thơ là một nghệ thuật kỳ diệu nhưng khó mà đi tới, mặc dù vậy vẫn không bao giờ có thể bỏ được thơ! (ghi chép trong Lý lịch Hội viên Hội Nhà văn V.N.)
Một tình yêu như thế, kể cũng đã sâu nặng lắm. Một cái đích như thế, kể cũng có sức vẫy gọi lắm. Nhưng muốn đến với thơ Xuân Quỳnh phải từ bỏ, một nơi đang sống đầm ấm dễ chịu. Thế mới khó xử.
Cuối đợt học tập ở trường Quảng Bá, Xuân Quỳnh cũng như các học viên khác được cử đi các địa phương, để vừa thâm nhập thực tế vừa viết. Số Xuân Quỳnh vốn có duyên nợ với biển. Sau này, trong mấy năm 1969-1972, Xuân Quỳnh còn có dịp đi Cát Bà, và đi các vùng ven biển Thái Bình, Quảng Bình, Vĩnh Linh. Lần này, cùng với Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Quỳnh đi đảo Cô Tô. Trong số những lá thư Xuân Quỳnh gửi từ Cô Tô về, có lá thư gửi Vân Long đề ngày 5-9-63 mà  sau đây là một đoạn trích (người nhận thư chợt sơ ý để phần đầu bị xé, nhưng phần sau thì cũng đã nói được cái sự ngổn ngang trăm mối bên lòng Xuân Quỳnh lúc này)
“Ban đêm thì cuộc sống ở đây cách biệt hẳn với đất liền. Vì ban ngày người ta còn có thể nhìn thấy một cánh chim, những con thuyền như những đường liên lạc giữa đất liền và biển.
Hôm qua, tôi mơ thấy tôi vẫn sống ở trong đoàn như trước. Gần gũi bao nhiêu bạn bè ở Hà Nội, lúc giật mình tỉnh dậy thì chỉ có một mình bơ vơ. ở góc buồng đằng kia có ông bạn mắc bệnh thần kinh, thỉnh thoảng cứ hát líu ríu. Ông Trọng Oánh giường bên vẫn ngáy đều đều (ông ta vừa viết xong lá thư cho vợ) chỉ còn mỗi con mọt cứ cọt kẹt dưới giường đến là bực mình.
Ngoài trời, trăng vẫn sáng (chả hôm nay là 16 ta mà), biển vẫn thức, vẫn cái âm thanh ào ạt vỗ vào bãi cát. Buồn thật!
Vừa hôm nào tôi ở gần bao nhiêu người thân yêu của tôi, bây giờ tôi ở đây, cách bao nhiêu núi và nước! Tôi đã quyết định không đi ngoại quốc, tôi đã quyết định bỏ đoàn, xa anh Tuấn xa bạn bè và nghề nghiệp, cái nghề nghiệp tự tay mình xây dựng trong 8 năm trời. Ồ, nếu tôi ở lại tôi sẽ sống một cuộc sống êm ấm bao nhiêu, tôi sẽ được đi nước ngoài nhiều, mà đi nước ngoài chả là bồi bổ cho kiến thức là gì? Tôi lại được gần người yêu, và tất nhiên sau nay không ai bỏ rơi tôi.
ở đây cứ mỗi buổi chiều và ban đêm là tôi lại thấy buồn cả lên. Giá ước gì không có ban đêm và buổi chiều nhỉ.”
Xuân Quỳnh vốn là người hay ngủ mơ (có khi, như Xuân Quỳnh kể, trong giấc mơ làm được cả một bài thơ đầy đủ, chỉ có điều không hay nên không chép lại làm gì!)
Cái chuyện mơ thấy những ngày yên ấm ở đoàn Quỳnh nói trong thư, chẳng qua chỉ “tố cáo” sự quyến luyến của Xuân Quỳnh với hoàn cảnh cũ, và cái đau xót của sự biệt ly.
Một nhân vật trong kịch B. Brecht từng than thở:
– Những lúc quan trọng nhất nhìn đi nhìn lại chỉ thấy một mình.
Xuân Quỳnh ở đây giãy giụa trong một quyết định lớn lao, một phần cũng là vì quá đơn độc như vậy.
Một khía cạnh đau xót khác của quyết định này: nơi đi tới lại là mịt mờ không định. Trong một lá thư khác gửi Vân Long, Xuân Quỳnh tâm sự:
“Đó, trước mắt tôi là hạnh phúc là yên ấm. Thế mà tôi từ bỏ tất cả. Tất nhiên trên đời này, được cái nọ phải mất cái kia. Nhưng biết rằng mình có được cái mà mình định đổi không? Tôi không ngại gian khổ về vật chất, tôi chỉ buồn về tình cảm. Chắc anh biết: tôi, một con bé luôn thiếu tình cảm, mà bây giờ vẫn chẳng hơn gì. Tới bây giờ như kẻ đứng giữa ngã ba đường vắng mà trời thì tối, chẳng biết hỏi ai. Giá mà bây giờ có ai bảo hộ tôi một điều rằng: “đi con đường này là đúng”, thì dù có gục ngã giữa đường tôi vẫn cứ đi. Tôi chỉ sợ mình không biết phương hướng rồi sau này cũng chả ra trò trống gì, mà cứ lo nghĩ mãi thế này thì hết đời. Anh Long, tôi biết anh thông cảm với tôi, anh thương tôi như một người em, anh nói với tôi thêm về con đường tôi phải đi cho tôi bớt lo lắng”.
Đọc ít dòng thư này những ai có dịp quen biết Xuân Quỳnh hẳn nhận ra cái giọng riêng  cùng là ý chí mạnh mẽ của Xuân Quỳnh: Không sợ khổ, không sợ vất vả, chỉ sợ mình quyết định không đúng. Không cần ai làm hộ mình cả. Chỉ mong chờ một sự hướng dẫn chính xác. Nhất là khi ta nhớ rằng con người ấy còn trẻ, thì sự thiết tha ở đây càng hiện ra như một tiếng kêu xót xa, mà giá ai có mặt ở đấy, không thể dửng dưng (Vân Long thú nhận “Tôi không nhớ tôi đã trả lời Quỳnh ra sao, nhưng ai mà im lặng được trước lời kêu gọi khẩn thiết ấy!”)
Khi nhìn lại cuộc đời sáng tác của Xuân Quỳnh, người ta có thể chê trách nhiều điều: sự chuẩn bị của Quỳnh cho nghề khá sơ sài, sự hạn chế của học vấn khiến cho Quỳnh không sao tiến xa được. Nhưng một là Quỳnh rất hiểu những hạn chế của mình, cái phần kiến thức cần phải được bồi bổ mà chưa cách gì bồi bổ cho được; hai là, Quỳnh đã đắn đo rất nhiều, phải nói là đứt lòng đứt ruột đau đớn nhưng vẫn quyết định theo hướng cần quyết định. Riêng những việc đó đã chứng tỏ Quỳnh đến với nghề thật nghiêm chỉnh. Ai đó từng nói giản dị “Cuộc đời là những quyết định thường xuyên. Lúc nào cũng phải lựa chọn”. Một người khác  còn nói đến một cái gì đó, ghê sợ, hơn mỗi khi phải quyết định: “Sự lựa chọn của mỗi người với chính mình, cho chính mình làm nên cái mà người ta gọi là số phận.”
Không phải “ma đưa lối quỷ đưa đường - Lại tìm những lối đoạn trường mà đi”, mà lần ấy, Xuân Quỳnh đã quyết định đúng. Về sau, có lần Xuân Quỳnh kể với người viết cuốn sách này:
– Tôi cảm thấy tôi sống thế thôi, đời tôi có nhiều sai lầm, nhưng không sao khác được. Nếu tôi trở lại con đường cũ, tôi lại đi theo con đường ấy.
Những lúc phải quyết định nhất, tôi cũng đã có những quyết định dứt khoát. Tôi toàn phải quyết định một mình thôi, nhưng cũng đã quyết định đúng (Đến đây, Xuân Quỳnh lấy một người bạn khác ra để so sánh)  Như ông C. chẳng hạn, cái gì ông ấy cũng tính, mà lại hỏng!
Trong văn học Việt Nam đương đại, theo chỗ tôi biết, thiếu gì người đến với văn học bằng con đường dễ dãi: quá tin ở cái tài của mình; đang ở một nghề quá nhiều vất vả, giờ chuyển sang chỗ mát mặt hơn, người ta chẳng suy tính gì nhiều.
Song cái kết quả thu được trong nghề, lại phụ thuộc cái tầm hiểu biết và sự hình dung của người ta về nghề.
Người cầu dễ, cũng chỉ gặt hái được những thành tựu đơn sơ, như mơ ước của họ. May (dù khổ) cho Xuân Quỳnh là đến với nghề không dễ. Thành thử, những thành tựu về sau của Quỳnh chỉ là sự bù đắp của số phận cho sự hy sinh và những tỉnh táo của Quỳnh. Tạo hóa vẫn công bình lắm!
V. Lập Gia đình và nửa tập thơ đầu tiên
Năm 1963, như Đông Mai đã viết trong hồi ký Xuân Quỳnh một nửa cuộc đời tôi, quả là năm có những sự kiện quan trọng đáng nhớ trong cuộc đời Quỳnh: tập thơ đầu tay và đám cưới.
Điều đáng lưu ý ở đây là hai sự kiện này xảy ra gần như đồng thời và liên đới chặt chẽ với nhau.
Cẩm Lai là người đã được nhắc nhở nhiều trong kháng chiến chống Pháp, với bài thơ Tơ tằm được phổ nhạc và khắc sâu trong tâm khảm nhiều người.
Khi lớp học Quảng Bá khai mạc Cẩm Lai (cũng như Bích Thuận, Nguyệt Tú) được chọn về học, nhân đó, Cẩm Lai hoàn chỉnh thêm một số bài khác, làm nên tập Tơ tằm.
Để đánh dấu thời gian theo học của Xuân Quỳnh ở Quảng Bá, người ta in cho Quỳnh một số bài , làm nên tập Chồi biếc.
Nhìn theo con mắt ngày hôm nay, có thể thấy hơi trái khoáy: Giữa Tơ tằm và Chồi biếc gần như không có liên hệ gì, sao không tách ra, làm hai tập riêng? Song thực tình là lúc ấy, cả hai người, Cẩm Lai và Xuân Quỳnh đều chưa có đủ những bài tương đối khá, để ra tập riêng. Vả chăng, trong hoàn cảnh việc in thơ hoàn toàn theo chế độ bao cấp - việc in cho một người cả tập thơ hay nửa tập thơ, cũng đã là một sự định giá của giới chuyên môn về nhà thơ đó.
Xét về tuổi tác, Xuân Quỳnh là tác giả trẻ số một được in nửa tập sớm nhất (về sau Vũ Quần Phương in chung với Văn Thảo Nguyên, Lưu Quang Vũ in chung với Bằng Việt)
Tổng cộng 39 trang,  Chồi biếc gói gọn lại trong 18 bài  một phần là các bài Xuân Quỳnh đã ứng tác, trong các lần theo đoàn văn công đi biểu diễn ở nơi xa. Trước khi trích dẫn 4 câu:
Hạt muối mang theo vị đậm đà của biển
Mai, giữa Phần Lan em mang bóng dáng quê ta
Ôi những con đường từ bùn đen đứng dậy
Tung cánh bốn phương trời bay bổng lời ca.
Vân Long đã viết rằng “câu thơ Quỳnh lúc đó lốp xốp những khái niệm“, và nói rõ những bài thơ này“ phần lớn chỉ để dán bích báo của đoàn (văn công)”
Nhưng cũng có mấy bài hé ra một số chi tiết liên quan đến cuộc đời riêng của Xuân Quỳnh, trong đó có bài thơ tình thuộc loại hay của tác giả, và sẽ vĩnh viễn gắn với tên Xuân Quỳnh như bài Thuyền và biển.
Để hiểu loại sau này, không thể không trở lại với cuộc đời tình cảm riêng tư của tác giả.
Đến với văn công đầu năm 1955, Xuân Quỳnh sẽ ở với đoàn cho tới 1962. Đây là thời gian từ một thiếu nữ mới lớn tuổi 15, tuổi mực tím như cách nói bây giờ Quỳnh sẽ chuyển sang tuổi thanh nữ chín đầy, tuổi hai mươi hai. Lẽ tự nhiên là đây cũng là thời gian trưởng thành của Xuân Quỳnh về phương diện tình cảm.
Có lần, trong câu chuyện với người viết cuốn sách này, vào khoảng những năm 1969- 70, Xuân Quỳnh bảo:
– Thế này mới biết mình già này: Hồi đang ở văn công, tôi có yêu một ông, sau hai người phải chia tay. Tôi đau đớn quá, lúc nào cũng nghĩ đến mối tình vừa trải qua, đến mức đầu óc cứ ong ong ra, không nghĩ được chuyện gì khác. Mỗi đêm chỉ ngủ có hai tiếng. Bây giờ thì khó yêu ai được như thế nữa.
– Câu chuyện dừng lại ở đấy, và tôi cũng không có dịp hỏi thêm nữa song thường vẫn nhớ mỗi khi cần phải điểm lại những ngô nghê của mình cũng như của bè bạn thuở trẻ.
Quan sát  Xuân Quỳnh lúc đã trưởng thành, tôi nhận ra một sự thực là có mối liên hệ ràng rịt giữa thơ Quỳnh và đời Quỳnh. Gặp chuyện gì gây xúc động, nhà thơ ấy phải tìm cách ghi bằng được dấu ấn của nó trong lòng mình qua thơ, bằng thơ. Từ chỗ bình chú từng bài thơ của Quỳnh - dĩ nhiên là chỉ những bài quan trọng - người ta có thể lần ra  rồi dựng lại tiểu sử nhà thơ.
Nhưng trong trường hợp này - những năm Xuân Quỳnh mới đến với thơ - các bằng  chứng thi ca đó hoàn toàn vắng thiếu.
Mọi cánh cửa đều đã khép lại.
Vậy chúng ta hãy tạm bằng lòng với giả định là chuyện tình cảm những năm ở văn công của Xuân Quỳnh đều xoay quanh Tuấn, người chồng đầu tiên.
Như Đông Mai đã nhận xét, Tuấn là một thanh niên đẹp trai song tính tình hoàn toàn trái ngược với Quỳnh: Quỳnh vui nhộn bao nhiêu thì Tuấn lặng lẽ ít nói bấy nhiêu. Được cái Tuấn đối với Quỳnh bằng tất cả tấm tình chân thật. Quỳnh sớm thấy rõ những nhược điểm của Tuấn: “Anh ấy chỉ là những động tác cơ bản đẹp chứ chưa thành điệu múa, chỉ là một bát phở ngon không có gia vị, chỉ là một cốt truyện hay chưa viết thành văn…”.  Đằng sau lối diễn tả hình ảnh mù mờ và không chắc đã chính xác, những dòng thư trên chỉ khẳng định: Xuân Quỳnh cảm thấy ở Tuấn còn thiếu một cái gì mà mình mong muốn, còn chưa có những phẩm chất để Quỳnh mê mệt. Nhưng chết nỗi Quỳnh là một người tự tin, tự tin cả trong công việc, lẫn trong tình yêu. Yêu người khác mình, vì mong người đó bổ sung cho mình. Yêu người còn nghèo, còn đơn giản vì tin khả năng làm cho người đó trở nên giàu có, trở nên phong phú sinh động như mình mong mỏi. Thậm chí, có lúc yêu cả người mà Quỳnh cảm thấy chưa tốt, vì tin rằng mình sẽ có khả năng cảm hóa, làm cho người đó cao đẹp, sang trọng hơn.
Lòng tin đó, sẽ theo suốt Xuân Quỳnh trong những tình yêu về sau.
Lúc này đây, ở những bước đường đầu tiên trong đời, lòng tin ấy của Quỳnh càng mạnh. Bởi vậy, sau khi nói với chị, mà cũng tự nhủ, rằng anh ấy (Tuấn) “tốt, rất tốt”, Quỳnh quyết định trao thân gửi phận cho Tuấn. Theo cách diễn giải của Đông Mai, Quỳnh hy vọng rằng với tình yêu của mình “động tác đẹp sẽ thành điệu múa, bát phở ngon sẽ có gia vị, cốt truyện hay sẽ được viết thành văn”
Khi lòng Quỳnh đã quyết vậy, thì thơ Quỳnh cũng hướng cả về với Tuấn. Bài thơ Ghét không phải loại thơ hay ở Quỳnh. Được cái, nó có giọng kể hồn nhiên và khá nhiều những chi tiết liên quan đến đôi bạn trẻ. Nhân vật chính ở đây cùng một anh kéo đàn và một cô ở đội múa. Hai bên lúc đầu xung khắc, vì chưa hiểu nhau. Song dần dần, trong công việc họ nhận ra vẻ đẹp của nhau, và lại đến với nhau một cách hồn hậu. Nhà thơ kết luận:
Ai biết đâu chữ “ghét ”
Là nhịp cầu nối duyên
Đây cũng là thứ nghịch lý được nhiều bạn trẻ xác nhận.
Chung quanh bài thơ Chồi biếc có một chuyện vui vui. Khi báo in ra, Xuân Quỳnh đến phân trần với Ngô Văn Phú:
– Anh Phú ơi, bài của tôi in rồi đấy. Nhưng ghét quá, đầu đề họ lại in sai là Trồi biếc. Cải lương chế thì còn ra quái gì nữa!
– Thế Quỳnh viết Chồi tr hay ch?
– Tôi viết là Trồi biếc.
– Thế thì họ in sai là phải. Nếu viết đúng là Chồi, người ta không in sai được.
Xuân Quỳnh im lặng không nói gì. Câu chuyện về những sơ xuất như thế này rất phổ biến trong giới, có điều, nó cũng tố cáo rằng Quỳnh phạm những “phốt” rất căn bản.
Tuy nhiên, nội dung chính bài Chồi biếc thì có phần sâu sắc hơn bài Ghét nói trên. Ta gặp ở đây một mô-típ của thơ tình Xuân Quỳnh: đôi ta cũng chỉ là một trong muôn ngàn cuộc tình ở đời này. Rồi cũng có lúc, chúng ta không còn trên mặt đất nữa. Nhưng lúc ấy, lại có những đôi khác:
Và rồi mai sau
Trên đường này nhỉ
Những đôi tri kỷ
Sóng bước qua đây
Lá vàng vẫn bay
Chồi non lại biếc.
Mô-típ này, chúng ta sẽ còn gặp trong phần cuối bài thơ dài Những năm tháng không yên hoặc bài Không đề (cả hai in trong Tự hát 1984), bài Thơ tình cho bạn trẻ, in trong Hoa cỏ may, 1989. Đây là một đoạn trong Thơ tình cho bạn trẻ:
Vẫn con đường, vạt cỏ tuổi mười lăm
Mặt hồ rộng, gió đùa qua kẽ lá
Lời tình tự trăm lần trên ghế đá
Biết lời nào giả dối với lời yêu
Tôi đã qua biết mấy buổi chiều
Bao hồi hộp lo âu và hạnh phúc
Người mới đến những nơi tôi từng đến
Lại  con đường vạt cỏ tuổi mười lăm
Lại hàng cây nghe tiếng thì thầm
Lời thành thật, dối lừa trên ghế đá
“Nào hạnh phúc, nào là đổ vỡ”
Tôi thấy lòng lo sợ không đâu
Muốn giãi bày cùng ai đó đôi câu
Về tất cả những gì rồi sẽ trải
Mong rút ngắn dặm đường xa ngái
Để cho người tới đích bớt gian truân
Bao khổ đau sung sướng đời mình
Xin tặng bạn làm bước thang hạnh phúc
Nhưng tôi biết chẳng giúp gì ai được
Những vui buồn muôn thuở đi qua
Khoảng cách giữa hai bài thơ là 27 năm. Sự liên tục giữa hai bài thơ - một sự liên tục song lại có phát triển - cho thấy sự nhất quán của hồn thơ Xuân Quỳnh trước và sau.
Cũng có thể nhận ra sự nhất quán tương tự khi ta so sánh bài Con tàu in trong Chồi biếc với nhiều bài thơ sau của Xuân Quỳnh. Con tàu bắt nguồn từ cảm hứng về sự giao hòa giữa những người yêu ở những phương trời xa cách nhau. Và bài thơ kết ở hai khổ cuối
Tàu sẽ dừng ga cuối
Xin đừng vội ra đi
Cho phút giây gặp gỡ
Đỡ  lo giờ cách chia
Em khác chi con tàu
Nay đây rồi mai đó
Nên cả lúc gần anh
Mà lòng em vẫn nhớ
Mô-típ “lo sợ”, lo về sự chia ly ngay trong gặp gỡ, cũng như mô-típ cả lúc gần nhau “vẫn nhớ”, sẽ còn trở lại trong nhiều bài thơ khác của tác giả. Sau hết thành tựu đáng gọi là đỉnh cao của Chồi biếc, phải kể là Thuyền và biển. Được viết có lẽ là trong chuyến Xuân Quỳnh ra đảo Cô Tô, bài thơ này cũng là một bài thơ tình đặc sệt chất Xuân Quỳnh: tình không bao giờ thỏa mãn, tình rất sợ cách xa. Sau khúc dạo đầu hiền lành (Từ ngày nào chẳng biết - Thuyền nghe lời biển khơi - Cánh hải âu sóng biếc - Đưa thuyền đi muôn nơi) và một vài đưa đẩy khác, là đoạn định nghĩa về tình yêu.
Chỉ có thuyền mới hiểu
Biển mênh mang nhường nào
Chỉ có biển mới biết
Thuyền đi đâu về đâu
(Không phải ngẫu nhiên, trong bản nhạc phổ thơ Xuân Quỳnh, nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu đưa đoạn này vào ngay phần đầu)
Cao trào của bài thơ là ở tám câu cuối:
Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
Thơ tình Xuân Quỳnh là thơ tình của những kẻ không chấp nhận bất cứ sự xa cách này, ngược lại lúc nào cũng muốn kề cận “như chim liền cánh, như cây liền cành”. Vì vậy, chỉ mới không gặp nhau một ngày mà đã bạc đầu thương nhớ, lòng đau rạn vỡ, và nếu từ giã nhau, thì sóng gió nổi lên. Điều thú vị cần nhớ đây không phải lời người con trai, mà lời tuyên bố của người con gái. Để nói hết sự giận dữ ấy người con gái cảm thấy hình ảnh biển chỉ còn sóng gió chưa đủ, câu chuyện kể ra chưa đủ, mà phải nhấn thêm hai câu cuối cùng: Nếu phải cách xa anh - Em chỉ còn bão tố.
Không cường điệu một chút nào cả, bão tố là chuyện có thật trong đời Quỳnh, dù chỉ là bão tố trên những mảnh vườn hẹp.
VI. Sống hẳn với nghề cầm bút
Biết khổ là một chuyện, nhưng tránh được khổ lại là chuyện khác - sự lo xa nhiều khi không được việc gì cả!
Không hiểu trong những năm từ giã văn công chuyển sang làm văn, làm báo, Quỳnh có bao giờ nghĩ thế không, chứ sự thực đời Quỳnh chính là như vậy - Con người này không tránh được khổ.
Từ giã lớp học Quảng Bá, Xuân Quỳnh được chuyển về báo Văn Nghệ. Nhưng những năm ấy, chân biên tập viên của báo Văn Nghệ là một danh hiệu cao quý lắm, ngay loại Xuân Trình, Ngô Văn Phú đã có viết lách chút ít, và đã tốt nghiệp đại học Tổng hợp Hà Nội, khi được nhận về báo vẫn phải chịu cái chức danh phóng viên tập sự. Thành thử người ta bảo với Quỳnh là chỉ tạm xếp ở đấy, chờ bố trí công việc chính thức sau. Có thời gian (đâu đến gần một năm), vẫn biên chế ở báo, Quỳnh được cử xuống công tác ở Huyện đoàn Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội. ở đây, như Ngô Văn Phú kể, Quỳnh làm đủ thứ công việc tạp nhạp: xuống xã vận động nông dân đóng thuế nông nghiệp, hoặc mở hội giao lương (làm nghĩa vụ lương thực)… Đang  quen lao động nghệ thuật, giờ phải làm những việc chưa làm bao giờ, Quỳnh thường lúng túng như thợ vụng mất kim. Được cái chịu khó bù lại! Gặp Quỳnh lúc phải lo có được ít biểu ngữ khẩu hiệu, biểu ngữ trên tường, trên vải, trên nong nia, Ngô Văn Phú đùa:
– Dạo này chữ đã cứng và đẹp lắm rồi hả? (Xưa nay Quỳnh vẫn có tiếng là chữ quá xấu, anh em vẫn bảo là hệt như “rắc thuốc lào” trên giấy)
Quỳnh thú thực:
– Tôi kẻ có họa ma nó xem! Lại nịnh mấy cậu thanh niên trong làng thôi. Họ đã quen tay, với lại cũng nể mình nữa. Còn mình thì quét vôi và vác nong, vác nia.
Theo Quỳnh nhớ, sau đấy đang công tác ở huyện thì Quỳnh được gọi về giữ thư viện cho báo Văn nghệ. Lâu nay, việc này, do chị Loan (vợ chưa cưới của nhà văn Anh Đức) phụ trách. Nay chị Loan được điều vào chiến trường, nên Quỳnh được gọi về thay. Nhưng thay là thay tạm, chính lúc này, Quỳnh được “nói thầm” vào tai là tranh thủ đi mà xin việc ở các cơ quan chung quanh, chứ không thể tìm một chỗ chắc chắn ở tờ Văn Nghệ này đâu!
Đây là những ngày nhà thơ thường nhớ lại với nhiều uất ức.
Quỳnh đã đi gõ cửa nhiều nơi xin việc nhưng không đâu chịu nhận.
Chiếu cố giới tính, chỉ có báo Phụ nữ là có vẻ mặn mà hơn một chút. Báo yêu cầu Quỳnh xuống nông thôn một thời gian xem có viết được bài không đã. Thôi đã đến nước này, thì còn từ nan chuyện gì nữa! Quỳnh nhận đi 2 tháng xuống Tỉnh hội Phụ nữ Vĩnh Phú, và ở đấy viết được 7 bài gửi về. Đã tưởng phen này, đậu lại ở Phụ nữ, nhưng mừng hụt. Sau khi hỏi kỹ, biết Quỳnh đang có thai (con trai sau đặt tên là  Tuấn Anh), báo Phụ nữ lảng ngay.
Quỳnh lại quay về với chân nằm chờ ở Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
May sao lúc này, đã là giữa năm 1965. Để có điều kiện triển khai cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, một cách lâu dài, các cơ quan được lệnh mở rộng biên chế, tăng cường lực lượng, nhất là lực lượng trẻ. Cùng lúc, báo Văn Nghệ có thêm Tổng biên tập mới, là Hoàng Trung Thông (thay cho nhà thơ Bảo Định Giang đi công tác khác). Vốn sẵn cảm tình với Chồi biếc, Hoàng Trung Thông nhận tác giả của nó về làm ở tổ thơ của báo Văn Nghệ, một thứ biên chế chính thức, mà lâu nay, Quỳnh ao ước mãi!
Thế là chấm dứt một giai đoạn nhọc nhằn, cay đắng. Trong những tài liệu có tính chất hồi ức kỷ niệm, một đôi khi chúng ta vẫn bắt gặp các nhà văn nhà thơ thử dừng lại và tìm cách lý giải tại sao mình đến với văn học. Vì lòng yêu đời! Vì quá say mê với vẻ đẹp của non sông đất nước, của tình người! Vì muốn nói lên tất cả những xúc động sâu sắc thường đến trong cuộc sống hàng ngày! Những câu trả lời loại ấy rất nhiều, và thực ra không phải là vô lý cả. Song có lẽ ít ai có câu trả lời độc đáo như Xuân Quỳnh. Trong bản sơ yếu lý lịch, khai với Hội Nhà văn Việt Nam, đề ngày 29-8-1982 ở mục Nguyên nhân bắt đầu hoạt động văn học, Xuân Quỳnh ghi:
– Vì thích thú. Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa.
– Vì uất ức khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ, nên tôi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết.
Trong cái vẻ phổ biến nghĩa là ai cũng có thể nghĩ thế, câu trả lời thứ nhất của Quỳnh thật ra đã rất độc đáo. Viết văn là nghề của sự tự nguyện. Người ta có thể phân công người này đi làm thợ mộc, người kia dạy học, nhưng ít ai nghĩ tới chuyện phân một học sinh mới vào đời đi viết văn. Vậy trả lời “viết do thích thú,” thật không ai cãi được, nhưng trong nghề ai mà chẳng trả lời được. Có điều thích thú là thích thú thế nào? Những người quen biết Xuân Quỳnh đều biết, mặc dù xa lạ với thói kiêu căng vô lối, nhưng Quỳnh rất tự hào với nghề nghiệp của mình. “Như người khác không được yêu, mà mình được yêu. Như người khác chỉ biết im lặng mà mình biết nói, và nói lên được thành tiếng” (*) Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa, chẳng qua là một cách nói khác của cái tinh thần đã trở đi trở lại trong tâm trí Xuân Quỳnh, nó khiến cho Quỳnh lúc nào cũng thấy nghề là mới lúc nào cũng háo hức với nó, hết lòng với nó, nếu như không được làm nghề, tức là không được sống với nó thì coi như cả một sự thiệt thòi không gì đền bù cho được. Trong một đoạn hồi ức ngắn về Xuân Quỳnh, Lại Nguyên Ân đã có  cách lý giải riêng về điều này. Sau khi nhận xét  Xuân Quỳnh hay viết về bản thân, Lại Nguyên Ân bảo “gần như chị đã trở thành nhân vật văn học của chính thơ chị. Chị đam mê sống, đam mê yêu, đam mê trong thiên chức làm vợ, làm mẹ - những nhân vật kia nói lên giúp. Mọi sự vẫn thế thôi nhưng đã là sang một thế giới khác, dịu nhẹ hơn, có thể thêm màu vẻ cho cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Vẫn chỉ là mình và người yêu mình đấy thôi, nhưng đó đã như là mơ ước của mình về mình và cho mình. Phải chăng đấy là cái cuộc đời khác nữa, mà Xuân Quỳnh tìm thấy trong văn học, nơi thăng hoa và giải thoát độc đáo cho tấn kịch của chị? Nói một cách giản dị, chính là sống trọn vẹn tấn kịch của chính mình, ghi lại bằng thơ những động thái tâm hồn mình, chị trở thành nhà thơ được công chúng thừa nhận. Có thể là chị không lưu ý lắm đến cái được gọi là “hằng số nhân bản” mà các nhà khoa học thường nêu lên, nhưng hẳn là chị tin rằng không có chuyện gì của cuộc đời một con người mà lại quá ư dị biệt, xa lạ với cuộc đời những người khác” (*)
Đoạn văn của Lại Nguyên Ân đã lý giải khá rõ cái ý “được sống thêm một cuộc đời khác nữa” mà Xuân Quỳnh đã nói về việc làm thơ.
Nhưng còn cái ý thứ hai - viết vì uất ức, vì khi mới vào nghề, bị xô đẩy và bị khinh rẻ.
Trước tiên, phải nhận là ở đây Xuân Quỳnh dám nói lên một sự thực dù sự thực đó khá phũ phàng. Vào những năm chúng tôi bước vào tuổi thanh niên , uất ức là thứ tình cảm  chỉ để dành cho những kẻ thù, còn giữa những người cùng nghề, nó là thứ tình cảm  phải được coi là không nên có, và không lành mạnh nữa, chắc chắn là còn có hại cho sự sáng tạo. Nhưng hóa ra không phải vậy. Do quá uất ức vì bị thiến, mà Tư Mã Thiên nhất quyết phải viết bằng được bộ Sử ký để đời. Lại như nhà thơ Anh  Byron, vì tướng người thấp bé và bị thọt nữa, ông thường bị khinh rẻ, nên trong giọng thơ, ông cố tình làm cho mình trở nên cao cả, hùng tráng. Lịch sử văn học đông tây kim cổ từng biết nhiều chuyện như vậy và chắc chắn là trong cuộc sống đương đại, cũng nhiều cây bút đã đến với nghề bằng sự uất ức, hơn nữa, sự căm thù. Song ít ai dám nói tuột ra, như Xuân Quỳnh ở đây đã nói.
Thứ nữa, phải nhận giữa những người làm nghề này, không phải chỉ có những sự nâng đỡ nhau, trân trọng nhau như trên sách báo tài liệu vẫn viết, mà cũng đủ cả xô đẩy, chen lấn, bắt nạt, khinh rẻ, làm tình làm tội nhau, như ở các nghề khác.
Phàm đã sống cả đời với nghề văn chắc ai cũng công nhận rằng trong nghề này, số người được trải chiếu hoa liên tục, đi đến đâu, kẻ khác rẽ ra đến đó, số ấy rất ít.
Nhớ lại những ngày mới bước vào nghề, không ít thì nhiều, hầu như ai cũng có lúc tủi thân vì bị nghi ngờ như cô con gái nọ đã than trong ca dao:
Trách cha trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng lựa là vàng hay thau
Thật vàng chẳng phải thau đâu
Mà đem ra thử cho đau lòng vàng
Tại sao chuyện này lại hay xảy ra trong giới cầm bút, những người hành nghề sáng tạo, hơn nữa sự sáng tạo rất cao đẹp là sự sáng tạo trong đơn độc?
– Trước tiên, không loại trừ nhiều người đã xuất phát từ sự chân thành và thiện chí. Nhìn một bạn trẻ, định sống lâu dài với văn chương, các bậc lão làng thường dè dặt nghĩ: Nghề này vốn khó. Thiếu gì người mới viết hiện ra đầy hứa hẹn, về sau khô cằn nhạt nhẽo. Rất phổ biến là loại nhà văn tồn tại theo kiểu Trình Giao Kim trong Thuyết Đường, nghĩa là được ba búa đầu “thần sầu quỷ khóc”, nhưng đến búa thứ tư là hơi sức rã rời, và chỉ còn nước bỏ chạy.
Yêu nhau, thương nhau không phải là cứ động viên nhau viết đại đi, rồi làm khổ cả đời người ta!
Có trách nhiệm với nhau là phải bảo nhau rằng nghề này khó lắm, oan nghiệt lắm. Ở nghề nào kia, anh còn có thể dựa vào kinh nghiệm quen tay với lại lâu năm, ở đây thì không! Mươi bài thơ trước viết hay, đến bài thứ mười một vẫn cứ dở như thường. Tay trắng lại hoàn tay trắng!
Sự nghiêm khắc - và hơn thế nữa, sự nghi ngờ, ngần ngại - vốn có cái lý của nó.
Cũng nên nhớ rằng mặc dù làm một nghề độc đáo nhưng giới cầm bút cũng là những người đời như bất cứ ai. Báo chí xuất bản không phải là không gian vô hạn. Họ dành chỗ cho anh, nghĩa là tôi “mất đất”. Ai bị “tranh mất khách” mà chẳng đau lòng, nữa là cánh già, đã quen được chiều chuộng? Vậy nhường nhịn nhau, dang tay ra đón chào nhau là chuyện quá khó! Ai cũng một lượt thế thôi. Lúc tôi vào nghề bị các bậc đàn anh đối xử thế nào, giờ sẽ xin đối xử với anh như vậy. Có chịu được thì chịu, nếu không, xin mời đi nghề khác.
Sau hết không nên quên một chuyện thông thường là sự khen chê thích và không thích thường mang màu sắc cá nhân. Văn chương tự cổ vô bằng cứ. Những tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm vừa rất chuẩn xác lại vừa rất co dãn. Trước cùng một bài thơ, một cuốn truyện người này nắc nỏm tán tụng, người kia khinh rẻ không thèm ngó ngàng cũng là chuyện thường. Có biết đâu rằng lối “bách nhân bách khẩu” như vậy, vốn chả làm các bậc lão làng lay chuyển, lại để lại những vết thương lòng đau đớn cho người mới đặt chân vào lĩnh vực văn học.
Xuân Quỳnh không còn sống để kể cho hết những nổi niềm đau đớn khi mới vào nghề của mình. Nhưng có thể tin chắc rằng, sự xô đẩy, sự khinh rẻ Quỳnh nói ở đây, là hoàn toàn có thật. May mà nó đủ sức kích thích thêm sức sáng tạo của Quỳnh, chứ không làm nhà thơ bủn rủn chân tay rồi chùn bước đầu hàng (đôi khi đã thấy ở những người khác). Ăn  chịu với nghề, rồi ra cũng được nghề đền đáp xứng đáng - điều này thấy rõ trong các sáng tác tuần tự xuất hiện của Xuân Quỳnh. Và nó cũng bộc lộ rõ trong việc biên tập mà trên danh nghĩa, Quỳnh phải làm để nhận lương.
Có lẽ không nghề nào nhẹ nhõm như nghề biên tập thơ: ngay từ hồi chống Mỹ, mỗi tháng, một tờ báo như tờ Văn Nghệ nhận được hàng trăm bài lai cảo. Ngoài ra, phần quan trọng là sáng tác của người  trong giới, các tờ báo, nhà xuất bản quen thuộc anh em tự động gửi tới. Từ đó, mà chọn ra mươi, mười lăm bài đăng báo, hẳn không ai coi  là khó.
Song chính vì có cả  một khoảng không rộng lớn bày ra trước mặt, nghề này lại đòi hỏi người ta phải có một “con mắt xanh”, một sự sàng lọc tế nhị, và một tấm lòng liên tài (thương yêu quý mến các tài năng). Người biên tập giỏi đôi khi chỉ liếc qua bài thơ cũng có thể biết ngay là có đăng được hay không. Sự linh cảm quan trọng không kém sự chi chút, cẩn trọng.
Cũng may, sự linh cảm ấy ở Xuân Quỳnh có thừa, nên những người nhiều năm cùng làm biên tập viên ở báo Văn Nghệ với Xuân Quỳnh như Ngô Văn Phú, Nguyễn Phan Hách, Trần Hoài Dương, Võ Văn Trực… đều khẳng định con mắt tinh đời của Quỳnh và nhớ lại những ngày cộng tác cùng Quỳnh với nhiều tình cảm tốt đẹp.
Nguyễn Phan Hách kể lại một chuyện vui  vui.
– Năm ấy bọn tôi đang công tác ở Ty văn hóa thì được gọi lên TW. Lên để làm gì? Để sẵn sàng thay thế những bậc đàn anh nếu họ không làm được việc. Lúc chọn thơ, không ai bảo, cứ bài nào hăng hái chiến đấu thì chọn, tư tưởng là chính nghệ thuật đứng sau. Bởi vậy tôi thấy rất lạ khi thấy một biên tập viên khác là Xuân Quỳnh lại chỉ  thích chọn  những bài về tình cảm gia đình trai gái, với lại  phải  hay mới được. Bọn tôi rất hay cãi nhau về chuyện ấy. Sau nghĩ lại thấy hóa ra Quỳnh nó đã đi trước mình nhiều.
Làm biên tập vậy là được, nhưng để trở thành một nhà thơ, còn nhiều việc khác chờ đợi Quỳnh; học hành để nâng cao tay nghề; đi thực tế để sống hết lòng với đời sống. Và phải viết trước tiên là viết!
VII. Thơ viết về chiến tranh những năm  trước 1970
Trên tạp chí Văn nghệ quân đội tháng 8 năm 1965 người ta đọc được một đoạn thơ, trích đăng ở một bài điểm báo của Nhị Ca (nghĩa là phần đăng những câu những đoạn khá, nhưng chưa đủ thành bài hay, nên chưa đứng riêng được)
Những đâu phải thơ tôi thêm được chuyến đi
Của bà mẹ trên sông Nhật Lệ
Chưa phải thơ tôi làm bước chân em bé
Dũng cảm hơn trên các chiến trường
Có phải không chị nữ dân quân
Chưa có thơ tôi trong lời hô của chị
Anh chiến sĩ, hỡi anh chiến sĩ
Giữa tiếng súng rung trời chưa có tiếng thơ tôi
Khi cả nước lên đường chống Mỹ
Mà thơ tôi chưa thành vũ khi
Xin hãy trao tôi khẩu súng trường
Tôi muốn trở thành người chiến sĩ
Trước cái hồn nhiên ngây thơ của người viết, ngày nay đọc lại, chúng ta không khỏi mỉm cười: có phải chiến tranh chỉ có một việc cầm súng đâu, mà còn bao nhiêu việc khác?! Chẳng phải là chính trong chiến tranh chúng ta lại cần có thêm những bài thơ, những thiên truyện cảm động, có sức tác động tới mỗi người lính?
Song, đặt trong hoàn cảnh những ngày đầu chiến tranh, tâm lý nôn nóng nói trên là một cái gì rất phổ biến. Trong Dấu chân người lính Nguyễn Minh Châu có viết một câu đại ý: trong chiến tranh, cái có thể giúp ích nhiều nhất cho đất nước là năng lực quân sự. Nhiều người thanh niên sẵn sàng đổi mọi tài năng của mình lấy cái tài năng cần thiết ấy.
Tâm sự của những nhân vật như Khuê, như Lữ - Nguyễn Minh Châu nói ở đây cũng là tâm sự của các nhà thơ chống Mỹ, trong đó có Xuân Quỳnh.
Vâng Xuân Quỳnh chính là tác giả mấy câu thơ chỉ được điểm qua ở trên trong bài báo của Nhị Ca.
Trong các phần tiếp theo, chúng tôi sẽ có dịp nói tới sự gắn bó của Quỳnh với đời sống tinh thần những năm chống Mỹ, ở đây, hãy chỉ điểm lại những gì nhà thơ đã viết trong những ngày đầu của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, và đưa vào tập Hoa dọc chiến hào.
Trong tập thơ 28 bài này, số  bài gợi nhớ không khí chiến tranh chiếm phần chủ yếu, đến khoảng 20 bài. Giữ lửa, Hậu phương, Chiến hào, Viết đạn trên tường là những bài nói thẳng, nói trực tiếp. Có mang vào những nét tâm tư riêng của tác giả, là các bài Tiếng gà trưa, Mây, Bay cao, Gốc cây ngày bé… Ví dụ, nhìn mây Xuân Quỳnh nhớ lại những xúc động của mình, khi nhìn mây lúc nhỏ, sau gài thêm vào các chi tiết: nay thì mây giúp cho anh phi công đánh máy bay Mỹ. Hoặc “trên đường đi chiến dịch”, nghe tiếng gà trưa nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ, có liên quan đến tiếng gà. Thật ra, giá trị chính của mấy bài thơ này là những liên tưởng, những hình ảnh nó chứng tỏ một tâm hồn mau mắn, dễ xúc động, đã gắn bó với nhiều kỷ niệm đồng đất quê hương. Chợt nghe tiếng gà, đã nhớ đến bà, chỗ dựa tinh thần lúc nhỏ.
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng
– Gà đẻ mà này nhìn
Rồi sau này lang mặt
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng
Tiếp đó, các ước ao khi bán gà
Ôi cái quần chéo go
ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh chúc bâu
Đi qua nghe sột soạt
Đây nữa những liên tưởng khi nhìn những đám mây trên trời:
Thuở bé tôi yêu mây
Qua những hình kỳ lạ
Đám giống hệt lưỡi trai
Dáng ánh viên xanh đỏ
Rồi mây chuyển hình người
Giống mẹ tôi về chợ
Dầu đội nón tay vung
Tay kia thì cắp rổ…
Lối cấu tứ các bài thơ này của Xuân Quỳnh không lạ, nhiều nhà thơ những năm đầu chống Mỹ đã có những bài thơ tương tự. Sở dĩ các bài thơ đứng được, là do cái duyên riêng, cái ý vị riêng khi liên hệ kỷ niệm quê hương với cuộc chiến đấu.
Mang dấu ấn đậm đà của một tâm hồn phụ nữ, là các bài thơ liên quan đến con: Khi con ra đời, Đưa con đi sơ tán, bài nào cũng thấm thía nỗi xót xa khi thấy con còn bé mà đã long đong vất vả trong thời chiến.
Còn như muốn tìm một cách nghĩ thường trực trong Xuân Quỳnh nói chung, khi nhìn đời, thì phải kể loại bài như Vết đạn trên tường và Chuyện con đường sau những năm chống Mỹ. Được viết ngay từ khi chiến tranh mới nổi lên khúc dạo đầu (một đề 1967, và một, 1968) song cả hai bài trên chốt lại ở cái ý: chiến tranh sẽ chỉ là một khoảnh khắc qua đi rất nhanh. Rồi sẽ có nhiều chuyện khác theo xô đến trong cuộc đời mỗi người. Song hãy nhìn kỹ tận đáy lòng ta xem: những sự kiện này bao giờ quên được!
Mô-típ này còn trở lại trong nhiều bài thơ Xuân Quỳnh viết về sau:
Hoa dọc chiến hào (1969 ) là tập thơ thứ hai của Xuân Quỳnh (tuy mỏng manh song Chồi biếc cũng đã là một tập). Lúc này nghề thơ ở tác giả chưa thật chắc chắn, nhất là tâm hồn chưa được thử thách, nên nói chung, cả tập còn nhẹ. Song nếu ở Chồi biếc, bạn đọc đã biết những bài thuộc loại xuất sắc trong cả đời thơ Xuân Quỳnh, như Thuyền và biển, thì tương tự như vậy ở Hoa dọc chiến hào, phải nhắc đến hai bài Tháng năm và Sóng.
Là một tâm hồn sôi nổi, Xuân Quỳnh vốn rất nhạy cảm với những gì nồng nhiệt thái quá. Những ai đã trải qua những ngày hè nóng đến ghê sợ chung quanh Hà Nội mỗi lần tháng năm tới, hẳn dễ nhớ hai đoạn tả tháng năm nắng lửa của Xuân Quỳnh.
Đoạn thơ trên, nói tới sức phá hoại, sức tiêu diệt của mùa hè.
Giấc ngủ vừa chợp qua
Nắng đã về trước cả
Đêm ngắn: phút gần nhau
Ngày dài như nỗi nhớ
Nước sôi ngầu bọt thau
Luộc mình con cá nhỏ
Con cua chín vàng mai
ẩn vào trong cụm lúa
Cỏ dại không người che
Rã rời mang sắc úa
Tiếp theo, là đoạn nói về sự chống trả của cuộc đời, mà cũng là một cách để nói về khả năng chấp nhận thách thức để lớn dậy.
Nhưng hãy nghe hãy nghe
Trên những cành phượng đỏ
Trong những đầm sen nở
Hương tháng năm lan xa
Màu tháng năm rực rỡ
Tơ trời giăng ngoài sân
Cây bàng xòe trước ngõ
Đêm xanh vời trăng sao
Con ve vàng lột vỏ
Con chim tha rác về
Tháng năm - mùa sinh nở
Sau hai đoạn đặc tả có tính đối lập trên nhà thơ nói thẳng dụng ý của mình, Tình yêu như tháng năm - Mang gió nồng nắng lửa. Với người khác, có lẽ là xong. Nhưng với Xuân Quỳnh, vẫn chưa đủ. Còn phải nói gì liên hệ với cuộc đời chính mình nữa.
ở đây, có câu chuyện vui vui.
Ban đầu ở bản viết tay, khổ cuối của Tháng năm là như sau:
Tình yêu như tháng năm
Mang gió nồng nắng lửa
Lòng anh là đầm sen
Hay là nhành cỏ úa
Mang dáng dấp một câu hỏi song lời thơ cho thấy sự hoài nghi bẩm sinh ở Xuân Quỳnh, cái hoài nghi mà cũng là điều khao khát, thúc giục người yêu, hãy vượt lên hoàn cảnh, hãy đến với nhau bất chấp khó khăn trở ngại. Bây giờ nhìn lại, chả ai thấy có chuyện gì. Nhưng Hoa dại chiến hào được biên tập để đưa in vào những năm chiến tranh. Nói chung bấy giờ lòng tin cần hơn sự hoài nghi. Cứ cái gì vượt ra khỏi lối nói thông thường là các biên tập viên ngại! Bởi thế, trong một tùy bút, khi Nguyễn Tuân viết rằng trời vẫn xanh một màu xanh nghi ngại, có người tỏ ý không bằng lòng và cụ Nguyễn phải sửa thành trời vẫn xanh một màu xanh cảnh giác thì bài tùy bút mới được in. Cũng bởi thế trong tập Bếp lửa, hai câu thơ sau đây của Bằng Việt cũng bị đặt dấu hỏi:
Bao nhiêu cơn mơ kỳ lạ trên đời
Nay còn lại những cơn mơ hữu ích
Thế nào là cơn mơ hữu ích? Mung lung và dễ hiểu sai quá! Liền bị chữa thành: những cơn mở tươi đẹp. May thay, Bằng Việt kịp phát hiện ra, và yêu cầu cứ để chữ hữu ích như cũ.
Trong Hoa dọc chiến hào, bản in 1968, mấy câu cuối bài Tháng năm như sau:
Tình yêu như tháng năm
Mang gió nồng nắng lửa
Anh hãy là đầm sen
Anh hãy là phượng đỏ
Do tác giả trực tiếp chữa nên cũng không đến nỗi. Nhưng cái ý hoài nghi thì mất hẳn. Mãi đến khi in trong Sân ga chiều em đi, Xuân Quỳnh mới lấy lại được hai câu ban đầu đã viết.
Trong số các bài thơ tình của Xuân Quỳnh, Sóng thuộc loại nổi tiếng nhất và cũng phổ biến nhất. Tôi không chép lại ở đây, vì nhiều người đã biết, đã thuộc cả bài, chỉ xin lưu ý Sóng là loại thơ ở đó, con người Xuân Quỳnh hiện ra trọn vẹn, đầy đủ bậc nhất. Những khao khát khôn cùng thức dậy. Nhà thơ muốn tìm bằng được lời giải đáp cho điều muốn hiểu. Sông không hiểu nổi mình – Sóng tìm ra tận bể. Và đây thứ tình yêu mãnh liệt, không bao giờ thỏa mãn, lúc nào cũng muốn vươn tới cao hơn, mạnh hơn nữa: Ôi con sóng nhớ bờ - Ngày đêm không ngủ được - Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức. Sau hết, là cái ao ước gia nhập vào cuộc đời vĩnh viễn Làm sao được tan ra - Thành trăm con sóng nhỏ - Trong biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ. Khi nói về quá trình hình thành các bài thơ hay nhất của mình, Xuân Quỳnh kể với tôi: “Hôm nọ còn có người hỏi tôi có hay thuộc thơ mình không. Quả thật, có khi tôi quên chứ không phải cái gì cũng thuộc đâu. Nhưng những bài thơ mà tôi thích thì bao giờ tôi cũng nhớ, nhớ cái tâm trạng chi phối mình khi làm bài thơ ấy…” Trong trường hợp bài Sóng, Xuân Quỳnh kể: Lần ấy Quỳnh về Diêm Điền, Thái Bình. Đạp xe nhìn biển mãi rồi tứ thơ hình thành. Đạp ngay về trong cơn mưa. Hai mươi cây số đường đất, xe đạp lúc dắt, lúc đi xiêu vẹo, cả người  như mê man đi, có lúc ngã xấp mặt xuống đất, nhưng không phải mê man vì mưa gió mà vì bài thơ đang làm dở. Cái tâm lý sốt sắng ấy còn hành hạ Xuân Quỳnh tiếp mấy ngày về sau. Và đấy là điều thường thấy khi “bắt” được những bài thơ hay.
Qua Sóng, người ta có thể nhận ra một đặc tính chủ yếu, nó vừa là nguồn gốc sự hấp dẫn của thơ, vừa làm khổ nhà thơ không biết bao nhiêu mà kể: sự đam mê. Quỳnh thường tâm sự.
– Tính tôi đã mê cái gì thì mê lăn mê lộn, không lúc nào là không nghĩ tới.
Hoặc:
– Tôi sống thế nào mà tôi có cảm tưởng là không ai chịu được mình, không ai vừa với mình chính là mình cũng không chịu được mình nữa - Ví dụ như mình quý ai, mình thân ai, thì mình cũng quý lắm, thân lắm. Tôi chịu, không sao chấp nhận được sự lạnh nhạt sự nửa chừng.
Trong hồi ký Xuân Quỳnh nửa cuộc đời tôi, Đông Mai đã nói tới tình cảm thắm thiết của Quỳnh với bà nội, bà ngoại với cha, mẹ. Những lá thư Xuân Quỳnh gửi cho Đông Mai cũng làm cho người ta kinh ngạc, vì sự thương xót lẫn nhau và sự quấn quýt giữa hai chị em. Quỳnh luôn luôn cảm thấy có lỗi với chị, ân hận chưa giúp được chị nhiều. Muốn chia sẻ với chị từng miếng ngon miếng lành, cho tới những vui buồn nhỏ bé hàng ngày. Thương chị xa xôi vất vả lúc mới vào đời, lại thương chị gặp nhiều khó khăn trắc trở, khi các cháu đã lớn. Điều kỳ lạ là với một ít chữ bình thường trong những là thư ấy, Quỳnh diễn tả được mọi tình cảm của minh, trái tim hôi hổi của mình, với người chị thân mến.
Đến khi hướng vào yêu đương thì sự đam mê ấy ở Xuân Quỳnh  càng mãnh liệt, nó mang lại cho Xuân Quỳnh những phút sung sướng xuất thần, cũng như trở thành nguồn gốc của bao tai họa.
VIII. Gia đình riêng đầu tiên và những rạn nứt
Từ kháng chiến chống Pháp các cơ quan nhà nước và đoàn thể vốn đã quen đi đến đâu kéo theo một khu gia đình đến đấy. ở Nhã Nam (Yên Thế), Chu Hưng (Phú Thọ), Quần Tín (Thanh Hóa), Hội văn nghệ Việt Nam từng đã dựng tạo nên những xóm nhỏ, ở đó, gia đình họa sĩ này sống cạnh vợ chồng nhạc sĩ kia, cách đấy không xa là cơ ngơi của một nhà văn mới có dịp quen biết. Hồi ấy, đất đai còn dễ, ai muốn ở bao nhiêu thì ở, nhà cửa thì tranh tre nứa lá đơn sơ, nên chuyện những khu nhà tập thể hình thành là chuyện tự nhiên, không khiến ai phải băn khoăn lo tính.
Sau 1954, trở về Hà Nội, nhiều khu gia đình như vậy tiếp tục được duy trì. Như căn nhà 96 phố Huế có gia đình Văn Ký, Lưu Quang Thuận, có căn phòng riêng của Phan Thanh Nam; còn ở 66 Nguyễn Thái Học, có gia đình Đỗ Nhuận, gia đình Vũ Tú Nam, và hộ độc thân Dương Bích Liên…
Nhà 96 phố Huế vốn là một khách sạn cũ ở Hà Nội, khách sạn Lục Quốc.
Bởi vậy, các phòng trải ra trên 4 tầng gác, cái rộng cái hẹp khác nhau (trước đây, tùy theo tiền túi của khách hàng, còn nay phân cho các gia đình ở thì tùy theo số người trong gia đình và địa vị của người chủ hộ)
Đám cưới Lưu Tuấn - Xuân Quỳnh, như Đông Mai nhớ, do cả Đoàn văn công nhân dân Trung ương và Hội Nhà văn Việt Nam đứng ra chủ trì. Sau đó, thì đôi vợ chồng trẻ rời hẳn chỗ ở về 96 phố Huế.
Nghe ra có vẻ “an cư lạc nghiệp” lắm. Tuy nhiên, tới đầu 1968, khi bản thân người viết những dòng này đến chơi nhà Quỳnh lần đầu, thì cái gọi chỗ ở riêng của Quỳnh vẫn chỉ là một gian nhỏ cách biệt với gian của hộ bên cạnh bởi một tấm cót ép (kiểu hai ba gia đình chung một gian rộng). Còn nhớ hôm ấy trời nóng, ngồi một lúc, khách khứa đã ràn rụa mồ hôi. Khi chúng tôi hỏi thăm Quỳnh, thế những ngày quá nóng nực, mẹ con vợ chồng sống làm sao (hồi ấy một chiếc quạt điện còn đang là niềm mơ ước), thì Quỳnh cười bảo đã có gác thượng, tối tối nhiều gia đình kéo nhau lên đấy mắc màn ngủ. Trừ những đêm mưa không kể, còn nói chung vẫn khá thoải mái và dễ chịu.
Mãi cuối năm ấy, Quỳnh mới được chia cả thảy đâu 14m2 nhưng ở hai tầng riêng gác ba 6m2 và gác tư 8m2. Lúc này, Quỳnh đón mẹ chồng về ở chung, cụ thường ở đó với đứa cháu nội. Khoảng 1969, Quỳnh đã nhân đó, có bài thơ có cái tên khá dài dòng: Gác cao những âm thanh đường phố và hai bà cháu.
Bố công tác xa, ngày ngày mẹ đi làm
Con quanh quẩn cùng bà trên gác bốn
Gian gác cao trèo lên chừng trăm bậc
Gần mặt trời xa hầm tránh máy bay
Trong hồi ức của Đông Mai, sau đoạn kể chuyện hai chị em người ở Hà Nội, người ở quê, sum họp dưới mái nhà của bà nội, đến đoạn hai chị em bơ vơ giữa thành phố lớn. Đông Mai viết:
“Nhưng rồi sau đó ít lâu, bà tôi mất. Như con chim quen có tổ lại được bà nuôi nấng từ tấm bé, nay chúng tôi bỗng thấy bơ vơ. Quỳnh ở khu Văn công Cầu Giấy, tôi thì ở nội trú trong trường Trưng Vương, cách nhau khoảng 10km. Hai chị em chỉ còn biết nương tựa vào nhau.
Những ngày nghỉ, lúc thì tôi đến chỗ Quỳnh, lúc thì Quỳnh đến chỗ tôi. Trong lúc mọi gia đình sum họp, thì chị em tôi ăn cơm tập thể, nằm ôm nhau trên chiếc giường cá nhân hoặc lang thang ngoài hè phố, trò chuyện nhỏ to. Và sau những câu chuyện vui lại là những chuyện buồn, những kỷ niệm về người thân, về một thời có nhà có cửa.
… Những buổi tối mùa đông, giá rét, hai chị em tôi, nhìn qua cửa sổ của những căn nhà bên đường thấy gia đình người ta, cha mẹ, anh chị em, bà cháu quây quần bên mâm cơm bốc khói mà thèm một mái ấm gia đình biết bao nhiêu. Những cảnh tưởng như bình thường đối với mọi người ấy, đối với chúng tôi thì lại là niềm khát khao mơ ước, là chuyện xa vời như trong cổ tích vậy.
Chúng tôi sợ nhất những ngày Tết đến. Người ta vui vẻ chuẩn bị đón mừng năm mới, còn chúng tôi chẳng có người thân, chẳng có một mái nhà sum họp đâu nghĩ đến chuyện đón xuân về. Để quên đi những nỗi buồn, tôi và Quỳnh thường đi dạo quanh bờ hồ Hoàn Kiếm hòa vào dòng người tấp nập đón giao thừa. Nhưng khi tiếng pháo giao thừa đã hết, trở về khu tập thể, mọi người chìm trong giấc ngủ thì chúng tôi trùm chăn khóc. Nhớ đến mẹ, đến cha, đến bà, đến những đêm ba mươi Tết xưa.”
Thơ Xuân Quỳnh cũng có lúc đã ghi lại nỗi xót xa ấy:
Tôi không có một căn phòng
Lang thang suốt những năm ròng tuổi thơ
Ta hiểu vì sao, trong những căn phòng 6 mét, 8 mét kia - Quỳnh vẫn cảm thấy một thế giới của riêng mình, và để tất cả tâm sức chăm lo cho nó.
Theo lối suy luận thông thường, hẳn ai cũng nghĩ một người con gái xinh đẹp, lại từng 7-8 năm sớm ở văn công, Xuân Quỳnh là một thứ tiểu thư nghĩa là sinh ra cho người khác chăm sóc và luôn  đòi hỏi được  chiều chuộng .
Khi mới quen Quỳnh, tôi cũng nghĩ thế. Nhưng tôi đã lầm.
Không những thích gần gũi trông nom những người thân - xưa ở nhà là cha mẹ, sau là chồng con - mà Quỳnh còn rất biết làm những công việc ấy, với người mà Quỳnh yêu quý. Nói chung, người thi sĩ này biết làm đủ việc của một người vợ người mẹ thông thường.
– Là một người phụ nữ, tôi có hiểu biết khá toàn diện (tôi khâu vá khá lắm, tôi không muốn khâu vá đấy thôi). Tôi cảm thấy tôi có thể làm chủ những trang trại lớn, mà làm nhẹ thênh đi, chứ không nặng nhọc đâu.
– Tôi rất lạ là ông C. là người đàn ông mà chuyên môn phải cho con ăn sữa đêm, chuyên môn đi chợ. Tôi không thế đâu, ông Tuấn ông ấy mua mỗi thứ mất một buổi sáng, tôi cũng từng ấy thì giờ phải mua được vài thứ.
Những loại chuyện như thế này, Quỳnh thường nói với chúng tôi, khi mới quen biết, và chúng tôi được chứng kiến khá rõ khả năng làm chủ gia đình của Quỳnh. Thơ Quỳnh cũng đã chất đầy những chi tiết đời thường, mà một người phụ nữ trẻ, thường bị ám ảnh, trong cái vòng luẩn quẩn là lo cho chồng con ngày mấy bữa cơm lành canh ngọt. Đây lại cũng có thể coi là những trang nhật ký thời chiến.
Thành phố lắm bụi than
Lắm súng đạn trong những ngày chiến đấu
Cái thì thiếu và đâu đâu cũng thiếu
Điện tắt ban ngày, điện tắt ban đêm
Nhiều người mua nhưng ít cửa hàng
Những vải gạo thực phẩm đèn bán phiếu
Thì giờ ít, xếp hàng lâu phát cáu
Nhất là ở cửa hàng bánh mì mùa đông
Những năm ấy
Trên dãy phố Hàng Đào chật chội
Yêu cả cái bực mình khi xe xướng phải nhau
Lòng yêu Thủ đô
Cuối phố kia ngôi nhà bom giặc phá
Tiếng bom gầm vỡ kính cửa phòng tôi
Trước cửa hàng mua thịt rau tươi
Tôi cũng tiếp dài thêm “hàng ngũ” ấy
Chợt nhìn lên khoảng trời quen tôi thấy
Mây ngổn ngang như công việc hàng ngày
Những đoạn thơ trên Xuân Quỳnh viết những năm đầu chống Mỹ, khi chưa đầy 30 và còn sống với người chồng đầu tiên. Nếp sống lo làm lo ăn trông nom gia đình, còn được Quỳnh duy trì mãi về sau, và có lần, được Quỳnh đúc kết, làm nên sự khác nhau giữa phái yếu và phái mạnh
Chúng tôi chỉ là những người đàn bà bình thường không tên tuổi
Quen với việc nhỏ nhoi bếp núc hàng ngày
Cuộc sống ngặt nghèo phải tính sao đây
Gạo, bánh, củi, dầu chia thế nào cho đủ
Đầu óc tính toán nghĩ về chợ búa
Những quả cà, mớ tép, rau dưa
Đối với Nít và Kăng, những siêu nhân nay và xưa
Xin thú thực: chúng tôi thờ ơ hạng nhất
Chúng tôi còn phải xếp hàng mua thịt
Sắm cho con đôi dép tới trường
Chúng tôi quan tâm đến xà phòng đến thuốc đánh răng
Lo đan áo cho chồng con khỏi rét
Thơ vui về phái yếu, 1986
Cũng cần nói thêm là mặc dù từ lâu đã trở thành người Hà Nội nhưng Quỳnh vẫn giữ được nhiều thói quen tốt của một thiếu nữ trưởng thành ở nông thôn mà nét tiêu biểu là… thích tự tay làm lấy mọi thứ; thức gì mình làm ra thì ăn mới thấy ngon. Ngày Tết, gia đình các bạn thân có thể nhờ Quỳnh đến gói bánh chưng giúp. Hoặc có lần hứng lên, Quỳnh “dọa” là lúc nào đó, sẽ làm một mẻ tương, biếu mỗi gia đình một chai. Chúng tôi tin những tác phẩm ấy của Quỳnh chẳng khác chi tin thơ Quỳnh vậy.
Tuy nhiên, dần dần người ta cũng nhận thấy, tất cả những khả năng trên của Quỳnh, đòi hỏi phải có điều kiện mới trở thành hiện thực. Chỗ khác của Quỳnh với phần lớn những người đàn bà gọi là đảm đang ở xã hội ta là do nghề nghiệp làm thơ, đúng hơn do bản chất thi sĩ của Quỳnh quy định. Những người khác đảm đang trong những gia đình mà họ coi như ấm êm. Họ không có nhiều yêu cầu về chồng con. Hoặc trong mức độ nào đó mà nói, họ thả dông thả dài, chồng con thế nào mặc, cứ thói quen của mình mà họ sống. Xuân Quỳnh không thế. Xuân Quỳnh chỉ lo lắng hy sinh trong điều kiện lòng lúc nào cũng hồ hởi tình yêu với người đang chung sống với mình. Mà tình yêu lại chỉ nảy sinh và bền vững trong chừng mực người đàn ông lúc nào cũng sôi nổi hấp dẫn, cũng có gì xứng đáng với sự chịu đựng, sự hy sinh của Quỳnh người đàn ông ấy vừa phải hết sức gần gũi Quỳnh, vừa có gì đó vượt cao lên hơn Quỳnh.
Có phải dễ dàng gì, cái việc một người đàn bà tìm ra được một người như thế?
Tuấn, người chồng đầu tiên của của Quỳnh, là một thanh niên không những đẹp trai, mà lại tốt bụng, biết chăm lo hạnh phúc gia đình. Giá kể làm bạn với một phụ nữ khác phù hợp tính tình, Tuấn có thể trở thành người chồng mẫu mực mà một số phụ nữ ao ước.
Khốn thay, những phẩm chất mà Quỳnh ao ước ở người đàn ông thì Tuấn lại thiếu, và  không bao giờ tính là mình nên có.
Vì thế khi sắp lấy Tuấn trong những lá thư gửi cho Đông Mai, Quỳnh mới có vẻ phân vân lưỡng lự, và chỉ quyết định lấy Tuấn sau khi tin rằng rồi ra mình sẽ cảm hóa được Tuấn, làm thay đổi được Tuấn. Lòng tin ở mình là động lực chính chi phối hành động của Quỳnh trong đám cưới.
Đến khi chung sống được một thời gian, thấy Tuấn vẫn chỉ là Tuấn (trong khi bản thân Quỳnh thì lại tiếp nhận bao nhiêu thay đổi), sự buồn chán sẽ sớm đến với Quỳnh, và tất cả những năng lực đàn bà nói trên, Quỳnh không bao giờ phát huy hết.
Trong hoàn cảnh ấy đứa con trai đầu lòng trở thành một thứ một thứ cứu cánh một niềm an ủi . Xem con như một thứ vệ tinh bất di bất dịch - khi đi họp, đến nhà bạn chơi, đến cơ quan làm việc, Quỳnh đều luôn luôn mang Tuấn Anh theo, mặc dù chỉ là đèo con trên chiếc ghế mây cũ kỹ buộc sau xe đạp.
Hồi ấy, ở cơ quan Quỳnh có chị T. mải đi nghỉ mát, bỏ cả buổi chia tay với đứa con trai đi học xa. Quỳnh bảo: Tôi không thể thế. Tôi không thể chịu được những người đàn bà ích kỷ, không thương con.
Nhưng với Tuấn thì khoảng cách tình cảm giữa hai vợ chồng ngày càng trở nên rõ rệt. Và những công việc gia đình, đối với Quỳnh, không còn là niềm vui, mà chỉ là những việc làm theo nghĩa vụ, làm cho xong chuyện.
Đối với bà mẹ chồng - lúc ấy cụ cũng đang ở đấy với Tuấn - Quỳnh trông nom săn sóc may quần may áo cho cụ khá chu tất. Song là hai thế hệ phụ nữ khác biệt, làm sao hai mẹ con thông cảm được với nhau!
Thế là ý nghĩ về sự chia tay cứ đến ,và làm tổ luôn trong tâm trí, không từ bỏ nổi.
IX. Tự nhiên tự phát
Còn nhớ vào những năm sáu chín, bảy mươi gì đó, tôi đã được nghe nhà thơ T.Th, cũng trạc tuổi Xuân Quỳnh nhận xét thẳng thừng:
– Cô Quỳnh tài thì tài thật nhưng nếu có một lớp nghiên cứu và trao đổi nghiêm túc về lý luận thơ ca thì muốn dự với danh nghĩa bàng thính cũng không đủ tư cách.
Tôi không biết cãi lại làm sao.
Nói về mặt văn hóa thì sự bắt đầu của Quỳnh quả có thấp thật. Trong Sơ lược lý lịch để ở Hội Nhà văn (khai 29-8-82) Quỳnh ghi trình độ văn hóa lớp 10 (hết cấp 3) có lẽ cũng là một sự áng chừng.
Một trong những bài thơ Quỳnh đắc ý cuối đời là bài Tự hát trong đó có hai câu:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết làm sống những hồng cầu đã chết
ý thì rất hay. Nhưng trong sinh học, không có chuyện làm sống lại những hồng cầu đã chết. Chỉ có những hồng cầu hết hạn sử dụng , vỡ ra tại gan và những hồng cầu mới sinh ra, thế thôi.
Để toán học và lý, hóa, sinh một bên, - hãy nói tới kiến thức hàng ngày. Bài Bao giờ ngâu nở hoa là một thứ thơ cảm đề nhân đọc mấy câu thơ Nắp đàn khóa sợi dây vẫn hát - Bao giờ ngâu nở hoa của Lưu Quang Vũ mà viết ra Quỳnh đã mượn ngâu để nói về tình cảm của mình.
Những bông hoa nho nhỏ
Chỉ có chút hương đầu
ẩn vào trong kẽ lá
Như mối tình lặng câm
Mùi hương không hẹn trước
Tình yêu đến bất ngờ
Em đâu biết bao giờ
Mùa hoa ngâu ấy nở
Khi Tự hát, tập thơ in bài thơ trên được phát hành là cuối 1984, nhà văn Nguyễn Tuân còn sống. Lần ấy, tôi và Xuân Quỳnh đang đứng nói chuyện ở sân thì được Nguyễn Tuân gọi lại.
–  Các cô các cậu có biết người ta không gọi là ngâu nở mà gọi là gì không?
Trong lúc Quỳnh còn ngớ ra, chưa biết trả lời bề nào, tôi vụt nhớ lại cái chữ lúc nhỏ vẫn nghe mọi người trong gia đình nói về ngâu liền nhanh nhảu kêu lên:
– Ngâu chín! Thưa bác có phải bảo ngâu chín mới đúng!
– Đúng. Sói và ngâu, người ta không nói nở như các loài hoa khác.
Nhắc lại những chuyện này để thấy việc học tập là vô cùng, còn Quỳnh, cũng như nhiều cây bút có tài khác thuộc thế hệ chúng tôi, thực sự là không có sự bình tâm để mà học, cứ sống lướt đi và còn rất nhiều chuyện đáng lẽ cần biết mà vẫn chưa biết.
Có thể là lúc nào đó, với một vài nhà thơ nào đó, thừa kiến thức mà thiếu năng khiếu nghệ thuật, Quỳnh đã có những lời bốp chát, khiến mọi người thành kiến.
Song, nói chung ,Quỳnh rất hiểu cái chỗ hổng chỗ thiếu của mình, và rất lo học. Với tư cách một người có quen biết Xuân Quỳnh từ 1967 tới khi Quỳnh qua đời, tôi dám cả quyết như vậy.
Nhưng trước hết, hãy nói về chuyện năng khiếu.
Thời xưa, tương truyền có những nhà thơ xuất khẩu thành chương, những người buộc phải làm thơ trong một hoàn cảnh căng thẳng gấp rút nào đó, và danh bất hư truyền, bao giờ cũng làm xong trước sự ngớ ra kinh ngạc của những người làm thơ.
Gạt đi lối bắt vần ép chữ gò gẫm kiểu mấy chàng hay chữ làm thơ con cóc, thì đúng là có những người sinh ra để làm thơ, và các bài thơ câu thơ hiện ra một cách xuất thần, nghĩa là thật dễ dàng, như có ai ốp đồng vào tay vậy kiểu như thơ Hồ Xuân Hương:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Thơ Tú Xương:
Sông kia rày đã nên đồng
Nhất là câu kiều tuyệt vời, một trong những câu hay nhất được viết bởi ngòi bút Nguyễn Du:
Mai sau dù có bao giờ
Nhà thơ lao tâm khổ tứ thế nào không biết, nhưng khi đến với độc giả, tác phẩm phải mang được cái vẻ đẹp thuộc loại cao quý nhất trong văn học vẻ đẹp tự nhiên. Nhà sáng tác phải biết làm chủ cảm hứng của mình, phải biết thai nghén chuẩn bị, lại phải mau mắn thông minh khi sinh nở. Những người thành công cho biết càng kéo dài thời gian viết, tác phẩm cũng dễ nhạt.
Năng khiếu nói ở đây, bao gồm tất cả những sự hiểu biết một cách bản năng thế nào là thơ, cũng những xúc động người thường có thể bỏ qua, thậm chí, coi là vô ích, cho là có hại, song chúng lại là lẽ sống của người làm thơ. Dưới đây là một đoạn định nghĩa về cảm xúc thơ, được Xuân Quỳnh trình bày dưới hình thức những biểu hiện mà mất đi, trước mắt chúng ta không còn là nhà thơ nữa:
Trận mưa xuân dẫu làm áo ướt
Nhưng lòng em còn cảm xúc chi đâu
Mùa đông về quên nỗi nhớ nhau
Không xôn xao khi nắng hè đến sớm
Chuyện hôm nay sẽ trở thành kỷ niệm
Màu phượng chẳng nồng nàn trên lối ta đi
Gió thổi nơi này không lạnh tới nơi kia
Lời nói tâm tình trở nên nhạt nhẽo
Nghe tiếng con tàu em không thể hiểu
Tấm lòng anh trong mỗi chuyến đi xa
Em không còn thấy nhớ những sân ga
Những nơi đã đi, những nơi chưa hề đến
Khát vọng anh dẫu hòa trong sóng biển
Sóng xô bờ chẳng rộn đến tâm tư
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa
Chất thơ ở đây, đồng nghĩa với cái khả năng mau mắn trong liên tưởng và tự nhiên  tinh tế trong việc nắm bắt bằng hết mọi biểu hiện cuộc sống; chất thơ ấy, đối lập với cái gọi là nhịp đời êm đềm, song thật ra là ù lì hàng ngày “không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc”
Một khi đã nhận chân cái gọi là chất thơ như thế, - trước tiên là biết gọi ra những sốt sắng nóng lạnh ấy của mình, trình bày nó ra trước bạn đọc như là cái gì tươi nguyên, duy nhất - Xuân Quỳnh thực đã chứng tỏ cái gọi là năng khiếu, mà ai cũng biết là không thể thiếu cho nghề nghiệp.
Giữa những người đang sống và đang viết không dễ gì để nói chính xác ai sẽ còn lại với văn học sáng tác của ai là có giá trị lâu dài. Song nếu như cần nêu lên một người hình như rất gần với thơ, sinh ra để làm thơ, thì nhiều người gặp nhau ở cái ý: Xuân Quỳnh.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh có lần bảo riêng với tôi:
– Thơ Xuân Quỳnh tự nhiên, như đã gọi là phụ nữ, thì phải sinh con đẻ cái vậy.
Sau khi đọc xong bài Sóng, đăng trên báo Văn Nghệ đầu 1968, nhà thơ Vũ Cao cũng có tâm sự, đúng kiểu đồng nghiệp vẫn nhìn nhau:
– Bài này Quỳnh nó viết bợm thật. Nghĩa là đọc xong, tự nhiên mình cũng có ý nghĩa là phải viết, viết một cái gì cho ra trò một chút, cho nó phải nể.
Một mặt, phải nhận là trong khi ở nhiều người khác, loại năng khiếu này thui chột rất nhanh, thì ở Xuân Quỳnh, thứ của trời cho ấy gần như còn mãi cho đến cuối đời. Nó gắn với bản tính bẩm sinh ở Quỳnh. Nó mang lại cho Quỳnh biết bao vui sướng đau khổ, như chúng ta sẽ thấy.
Mặt khác, phàm đã làm thơ, người ta đều biết là với bất cứ ai, năng khiếu cũng là không đủ, và Xuân Quỳnh cũng không phải là một ngoại lệ.
Trong một thời gian dài mấy năm đầu 1970-71, vấn đề bồi bổ kiến thức với lớp nhà văn trẻ đã có dịp bột phát và được nhiều người nói tới. Xuân Diệu, hồi ấy, từng nói thẳng với chúng tôi :
- Khen tuổi trẻ nhiều khi cũng như khen thời gian. Thời gian qua đi, lứa sau hơn lứa trước là chuyện tất nhiên. Nhưng tuổi trẻ nhiều khi không biết quý thì giờ. Từ 20 đến 35, người ta bay bằng đôi cánh của thiên nhiên, đôi cánh trời cho. Nhưng nếu không chịu học thêm, lúc 35, đôi cánh tự nhiên yếu đi, không đủ nữa, thì sống làm sao nổi?
Trong đời sống, Xuân Quỳnh không phải là người hay gần gũi và chuyện trò với Xuân Diệu: có lẽ những gì tương đồng thì không hút nhau mà đẩy nhau chăng?
Nhưng loại ý kiến như trên của Xuân Diệu, thì Xuân Quỳnh rất thấm thía.
Phần trên, chúng ta đã cùng đọc qua đoạn thư Xuân Quỳnh gửi Vân Long, nói nỗi phân vân của mình, khi rời khỏi văn công mà một trong những lý do Quỳnh nêu lên khá chính đáng: ở văn công được đi đây đi đó, và đấy là một dịp để học hỏi thêm. Sự bồi bổ kiến thức Quỳnh đã đặt ra với mình từ ngày ấy.
Khi trở về Hội Nhà văn, Quỳnh càng hối hả lo việc học, trước  tiên là học thêm tiếng Pháp để làm việc.
Nhớ lại những kỷ niệm về Xuân Quỳnh (sau vụ tai nạn 8/1988) nhiều bạn cùng tuổi không thể quên những buổi cùng học môn ngoại ngữ này với Xuân Quỳnh ở báo Văn Nghệ.
Một trong những người cùng học nữa với Xuân Quỳnh, là Võ Văn Trực. Bề ngoài, hai người trông khác hẳn nhau, Trực củ mỉ cù mì, nông dân thiết thực, Quỳnh tài hoa duyên dáng lại nhanh nhảu, tươi bưởi. Song sự chăm chỉ thì hai người gần như không có gì khác nhau. Với Trực, Quỳnh có thể không sợ dốt để học nói, học viết.
Người cùng học tiếng Pháp với Xuân Quỳnh lâu hơn cả là nhà văn Vũ Thị Thường. Quỳnh vốn quen chị Thường từ lớp học Quảng Bá. Sau này, Quỳnh thường qua lại gia đình Chế Lan Viên - Vũ Thị Thường, như qua lại nhà ông anh bà chị. Điều may mắn cho Xuân Quỳnh là Chế Lan Viên  dạy ngoại ngữ cho vợ theo một kiểu riêng, dạy bằng cách tự mình dịch các bài thơ tiếng Pháp ra tiếng Việt, dịch một cách cặn kẽ, từng câu từng chữ, - và bảo người học đối chiếu hai bản mà học. Cách dạy này giúp cho người học có thói quen xử lý văn bản ngay khi học chữ mới.
Không rõ Vũ Thị Thường tiếp nhận lối học này thế nào, chứ với Xuân Quỳnh, đây là cách học lý tưởng, bởi cùng một lúc, đạt tới hai cái đích, vừa về ngôn ngữ, vừa về thơ. Tôi nhớ, khi mới làm quen Xuân Quỳnh, đã thấy Quỳnh có một cuốn sổ khá dày, loại sổ bọc ni lông lúc ấy mới bắt đầu phổ biến. Đi đâu, Quỳnh cũng mang quyển sổ đó trong túi, rồi giở ra ôn lại. Khi mới quen Xuân Quỳnh tôi hỏi mượn, Quỳnh nhất định từ chối. Mãi về sau, khi đã thân hơn một chút, (1969) mới được  mượn về chép. Đáng chú ý là trong cuốn sách Quỳnh đặt vào đó những gì thân thiết với trái tim mình, một lá thư Lưu Tuấn xin lỗi Quỳnh trong dịp hai người giận nhau và tấm ảnh nửa người của một bạn trai, mà lúc đó, Quỳnh quý mến hơn hẳn các bạn khác. Sau đó là thơ, những trang thơ chép dày đặc.
Cố nhiên với một người hoạt động văn hóa - ở đây là một người làm thơ - việc học ngoại ngữ không phải là tất cả. Quan trọng hơn, còn là cái mặt bằng kiến thức của anh đến đâu, khả năng của anh trong việc vừa mở ra, tiếp nhận sự phong phú của cuộc đời, vừa nâng cao lên hiểu được ý nghĩa sâu xa của nó, cái triết lý thấm sâu trong nó. Bàn về cái phần kiến thức cơ bản ấy ở Xuân Quỳnh, tôi ngần ngại, nhưng cuối cùng vẫn phải thành thật mà nói rằng, trong cuộc đời mình, nó là thứ Quỳnh không bao giờ có nổi. Có thể là vì, thật ra, nói là lo học, nhưng Quỳnh còn phải sống, phải làm việc vui chơi trò chuyện với mọi người lấy đâu ra sự bình tâm, như cậu học trò ngồi trên ghế nhà trường. Lại nữa công bằng mà nói, cuộc chiến tranh sôi động cuốn người ta đi, đây là thời gian tiêu xài sử dụng các loại kiến thức chiến tranh, kiến thức để đánh trả kẻ địch, đâu phải “thời lượm đá”, thời xây dựng nền đắp móng cơ bản. Bởi vậy, việc học của Quỳnh lại càng khó khăn thêm một bậc. Trong đám văn nghệ sĩ nhà nghề, chỉ có một việc được coi là quan trọng nhất và gần như duy nhất là đi thực tế. Nói một chuyện nhỏ rất thiết thực: nếu anh là một người làm thơ chẳng hạn, mà anh lại lăn lộn đến một điểm nóng nào đó, của cuộc chiến đấu, rồi anh trở về đưa ra một bài viết ít nhiều có liên quan đến điểm nóng ấy, thì dù bài của anh có hơi yếu một chút, người ta cũng sẵn sàng giới thiệu trên mặt báo. Còn một bài thơ đi vào tìm tòi nghệ thuật thì khó hơn nhiều! Một người tinh khôn như Quỳnh cố nhiên biết thừa điều đó. Nhưng có lần Quỳnh vẫn nói nhỏ với tôi:
– Đi thì tôi có thể làm được bài nọ, bài kia. Song ở nhà, tôi học được. Cái ấy đối với tôi, lúc này còn cần hơn đi nữa kia.
Tôi còn nhớ nét mặt của Xuân Quỳnh trong một đôi lần trò chuyện về văn chương. Khi nào nghe tôi kể vừa mới đọc thêm quyển này quyển kia là y như Quỳnh có vẻ buồn hẳn, buồn một cách chân thành. Và bởi lẽ ngày mỗi cảm thấy có bao điều đáng học mà mình chưa học được nên càng về sau, lối biểu hiện tình cảm ấy ở Quỳnh càng rõ rệt hơn.
Là người làm lý luận phê bình, tôi đã bao lần khổ sở vì bị một số người sáng tác rỉa róc, coi những điều nói ra viết ra của mình là vô bổ, là không đáng giá chi cả. Sự sùng bái thực tế và khinh rẻ sách vở ở những người này là điều có thật, chỉ có điều có khi nó biểu hiện ra trâng tráo thô bạo, có khi kín kẽ, không dễ phát hiện. Trong một số ít người sáng tác xa lạ với lối bỉ bác sách vở ấy, luôn luôn có Xuân Quỳnh. Quỳnh coi các bài phê bình của tôi, trong những trường hợp khá nhất, cũng là văn học, và sau khi biết rõ rằng tôi không có khả năng làm thơ viết truyện, càng thiết tha khuyên tôi nên tập trung tìm hiểu và sống hết lòng với lý luận phê bình, như Quỳnh đã hết lòng sống với thơ.
Trong số những bài thơ, mặc dù không hay lắm (vì có phần diễn giải dàn trải), nhưng riêng tôi cho là nói được cái chất chủ yếu làm nên con người và thơ Xuân Quỳnh, có bài Hoa dại núi Hoàng Liên. Sau khi tả rất nhiều loại hoa mà loại nào cũng được thêm một định ngữ: hoa nếp mỏng manh, hoa diếp vàng cô độc, hoa nghệ dại ngẩn ngơ, hoa sim tím một nỗi buồn hoang dã, Quỳnh đưa ra những suy nghĩ:
Anh đừng hỏi tên hoa làm chi nữa
Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi
Không phải hoa được ở cùng người
Được chăm sóc trong mảnh vườn sạch cỏ
Được khoe đến muôn màu sắc lạ
Và được đời chiêm ngưỡng mùi hương
Không phải hoa được cắm trên bàn
Trong ngày hội của những niềm vui mới
Những hòa này lại nở cho triền núi
Lại nở cho vẻ đẹp của rừng chung
Nên ít ai để ý sắc từng bông
Chỉ thấy núi muôn màu rực rỡ
Đôi khi giẫm lên hoa mà chẳng nhớ
Những hoa này chỉ hoa dại mà thôi.
Bài thơ được viết trong sổ tay đã lâu, trong chuyến đi của Quỳnh lên Lào Cai khoảng tháng tám tháng chín 1969 hay 1970 gì đó, nhưng hình như tác giả cho là không hay nên chỉ đọc cho một số bạn mà không cho đăng báo. Về phần mình, tôi cảm thấy mặc dù lời lẽ có phần kể lể  thiếu hàm súc song  đây là bài thơ Quỳnh nói về bản thân một cách oan nghiệt, có thể là không có ý thức, nhưng Quỳnh đã nhìn hoa rồi vận vào mình. Một hai lần trong câu chuyện vui đùa, tôi từng đọc trệch Hoa dại núi Hoàng Liên thành Hoa dại góc chợ Hôm (nhà 96 phố Huế trông sang chợ Hôm), bởi lẽ tôi cảm thấy con người Xuân Quỳnh, cách tồn tại của Quỳnh trong đời là cách tồn tại của loài hoa dại này trước hết, và bao trùm nhất là trong đời sống, trong phong cách sống của con người, trong quan hệ với gia đình anh em bè bạn. Nhưng sự hoang dại này - hoang dại với nghĩa tốt đẹp lẫn cả nghĩa xót xa vì thiệt thòi hạn chế - cũng là phong cách làm nghệ thuật của nhà thơ, phong cách tồn tại của một thanh niên trẻ tuổi kiểu như Xuân Quỳnh. Có dịp làm quen với Quỳnh trong hai chục năm sống cuối đời, tôi nhận ra một sự thực. Một mặt, mặc dù thông minh, nhạy cảm và rất chăm chỉ nữa song Quỳnh không thuộc típ người sinh ra để học, và khó lòng nói rằng đây là một con người của học thức, kiểu các nhà thông thái đọc thiên kinh vạn quyển như chúng ta vẫn gặp. Quỳnh không có cái chất ấy. Mặt khác, có điều lạ là nhiều khi đọc xong một quyển sách mà vất vả lắm tôi mới hiểu được, phải vận dụng khá nhiều loại kiến thức tôi mới đi tới được gần với kết luận của người viết sách, song khi tôi trình bày sơ giản các kết luận mà tôi tạm gọi là khá phức tạp và sâu sắc kia, thì Xuân Quỳnh lại hiểu ngay, lại chia sẻ rất nhanh và lại vận dụng ngay vào cách nhìn đời. Cái ý tưởng xem Quỳnh như một thứ cây dại, hoang dã, khỏe mạnh… đến với tôi, rồi không sao từ bỏ được, lý do một phần là vì như thế, tuy tôi cũng chia sẻ với đạo diễn Nguyễn Đình Nghi (một người bạn với gia đình Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh những năm tám mươi) một nhận xét:
– Chính những người đọc nhiều lại thích nói chuyện với Xuân Quỳnh có lẽ vì luôn luôn tìm được ở cô ấy những ý tưởng, những suy nghĩ mà mình không có.
X. Một người nồng nhiệt
Có một câu hỏi rồi còn phải tiếp tục suy nghĩ mới trả lời được, nhưng hồi mới quen người bạn này tôi đã đặt ra cho mình: Xuân Quỳnh là người như thế nào?
Và đây là một khía cạnh không thể bỏ qua: Sự thích ứng, nói cụ thể hơn, khả năng sống trong những điều kiện không bình thường, những điều kiện không thuận lợi, đó là nét nổi lên trong con người đầy sức sống này, mà ở trên, khi nói về những ngày Xuân Quỳnh mới lọt lòng, chúng tôi đã nhắc tới.
Trong cảnh mẹ mất sớm, chuyên đi bú chực, cô bé vẫn  lớn lên.  Hồi ký của Đông Mai còn ghi là có thời gian, đêm nào Quỳnh xa mẹ cũng khóc, 12 giờ đêm tỉnh dậy giãy giụa khóc cho đến 1-2 giờ sáng, rồi mới ngủ thiếp đi, tật khóc đêm này kéo dài đến 4-5 tuổi.
Trong một liên tưởng ngẫu nhiên, có thể nghĩ đấy là ví  dụ đầu tiên cho thấy tình cảm sôi nổi ở Quỳnh, một tham vọng lớn lao (tham vọng về mặt tinh thần), nó sẽ làm cho đời Quỳnh phong phú, giàu có, nhưng cũng đau khổ vô hạn.
Đam mê của Quỳnh rồi sẽ biểu hiện trong những mặt nào?
- Muốn có mặt ở khắp nơi, một cái gì như sự ngự trị của mình trong cuộc đời.
- Muốn giữa mọi người vai trò của mình phải nổi bật, hơn hẳn. Là phụ nữ chẳng những mình phải xinh đẹp hơn, mà còn phải tài hoa hấp dẫn hơn, và có thể là đảm đang hơn, nhân hậu hơn nữa.
- Một cách tổng quát, mình đi đâu phải để lại dấu ấn ở đấy, phải không để cho người ta quên lãng.
Khi viết về George Sand, nhà văn Pháp A. Maurois lưu ý rằng ở con người này có một cảm giác tự do đáng ngạc nhiên, nó là nguồn gốc của sự tự tin to lớn của con người ấy vào bản thân mình.
Theo Maurois, G. Sand  cũng là con người của dục vọng ghê gớm, và điều đáng sợ là những dục vọng ấy đều được nàng coi là thiêng liêng, đức hạnh của nàng, theo nàng hiểu, là phải thực hiện cho hết những dục vọng ấy. G. Sand là loại minh chứng tuyệt vời cho nhận xét của một nhà đạo đức cổ: Phụ nữ coi tất cả những gì họ quyết định là không có lỗi.
Trong chừng mực nào đó, những nét tính cách trên đây cũng có thể dùng để biểu hiện con người Xuân Quỳnh.
Mấy ý sau đây, nhiều lần tôi được nghe Xuân Quỳnh nhắc đi nhắc lại, mỗi lần thay đổi chút ít, nhưng đại khái nội dung là một:
- Tôi cảm thấy là tôi thái quá, nhưng thực ra phải thế thôi. Phải cực đoan, phải sống cho hết mình. Cũng như nhiều người đã đi qua đoạn đường ấy, mà không ai biết là có họ đi qua cả, mình phải phấn đấu để mình đi qua chỗ nào, là mình vừa không quên mà vừa để lại dấu vết, để không ai có thể quên được mình.
- Tôi đề ra phương châm sống; phải biết tận dụng tất cả những thứ sẵn có, phải sống hết vốn liếng có thể có. Thứ hai là phải sống cho thật và bắt mọi người sống cho thật…
Sức mạnh của Quỳnh, có lẽ là ở chỗ bao giờ cũng cho rằng mình chưa gắng gỏi hết sức, chứ gắng là được. Với Quỳnh không có tình thế nào là tuyệt vọng. Một người bạn vừa kêu rằng mọi thứ làm mình chán quá, Quỳnh liền bảo:
- Có lẽ ông tỉnh táo quá, cho nên ông chán. Tôi thì cũng tỉnh mà cũng mê, nhiều lúc tôi chán, song nhiều lúc lại nghĩ, đời mỗi người sống chỉ độ ba năm cũng đã đủ lắm rồi. Mà hạnh phúc không tự nó tới, mình phải đi tìm, may ra mới có hạnh phúc.
Quỳnh chế giễu đám đàn ông chúng tôi là  quá tính toán.
- Đàn ông các ông tính xem có làm được cái nhà gạch hay không rồi mới dám phá bỏ cái nhà gỗ. Còn đàn bà chúng tôi, chúng tôi thấy chán là chúng tôi cứ phá cái đã, được cái gì tính sau, không có thì một mái tranh cũng xong.
(Ở chỗ này, ý của Xuân Quỳnh gặp gỡ một nhận xét của ngôi sao bóng đá Michel Platini về phụ nữ. Theo Platini, chính đàn bà lại can đảm hơn và kiên trì hơn đàn ông)
Ý thức rằng mình là phụ nữ, không hề làm nhụt ý chí của Xuân Quỳnh, như đôi khi người ta thấy ở một vài chị em khác. Ngược lại đó lại là nguồn gốc của cách ứng xử cao ngạo:
– Phụ nữ không biết sợ là gì. Người viết cũng không sợ nốt. Tôi vừa là phụ nữ, lại vừa là người viết, tôi còn sợ gì nữa?!
Thật ra, đấy chỉ là những lúc điên lên, Quỳnh nói như vậy. Sự gắng gỏi kiên cường là ở bên ngoài. Sự yếu đuối là ở bên trong. Những nôn nao bồn chồn không thỏa mãn thường xuyên ngự trị trong tâm hồn Quỳnh, đến mức nhà thơ thường sốt sắng không yên, lúc nào cũng có cảm giác “như đứng đống lửa như ngồi đống rơm”
Khao khát làm được việc nọ việc kia, đi đây đi đó là một phần, nhưng một khao khát thường xuyên của Quỳnh là tìm được người thông cảm, và nơi nương tựa - và đây luôn là một khía cạnh đàn bà đệ nhất. Một lần nào đó, Quỳnh tâm sự: “Nghĩ rằng không nói thật được với người khác, tôi rất buồn”. Khái quát hơn, Quỳnh bảo:
– Có lúc tôi thấy mình như cái cây, không tìm đâu ra đất trồng của mình.
Những lúc ấy, con người sôi nổi con người ương ngạnh biến đi đâu cả, chỉ còn một con người rất yếu đuối.
– Tôi cảm thấy trong đời mình chẳng có gì là của mình cả, không nhà cửa, không đồ đạc, cái gì cũng có thể mất.
Khoa tâm lý học đã sớm chứng minh hầu như con người nào cũng là một khối mâu thuẫn, giữa cuộc đời này loại người thuần nhất ngày càng tuyệt chủng. Tuy nhiên, con người Xuân Quỳnh trong những ghi chép của tôi không chỉ mâu thuẫn mà còn quá ư hỗn độn. Tôi đã hoang mang, e rằng mình lầm lạc, hoặc cay nghiệt, mãi đến khi đọc được đoạn văn sau đây của Troyat mới  tự tin trở lại.
H. Troyat, nhà văn Pháp gốc Nga, đã viết nhân khi bình luận về nhân vật Grusenca trong Anh em Karamazov của Dostoievski:
“Người đàn bà ấy là sự điên cuồng làm bằng xương thịt. Người đàn bà khô héo trong sự chờ đợi, đau khổ trong sự thực hiện những ước muốn của họ. Lúc thì họ ác độc để có cái thú tỏ ra dịu dàng tiếp sau đó, lúc thì họ dịu dàng để có cái thú được tỏ ra ác độc liền một khi. Họ có những e lệ tà tâm và những khoái lạc ngây thơ. Họ nói láo với đàn ông, với Chúa với chính họ. Hò đùa với cuộc đời. Họ đứng trước cuộc sống như đứng trước một tấm gương. Họ làm duyên làm dáng. Và họ thay đổi vẻ mặt, điệu bộ, để tự tạo cho mình cảm giác là mình đang sống. Đối với người đàn ông, sự trường tồn là bằng chứng của thực thể họ. Và chính do sự đổi thay mà người đàn bà xác nhận  sự hiện hữu của chính mình. Người đàn ông muốn là một. Người đàn bà muốn là nhiều. Người đàn ông chỉ tự cảm thấy mạnh trong sự ý thức đầy đủ về các đức tính và lỗi lầm của họ. Người đàn bà chỉ cảm thấy mạnh trong vô thức hoàn toàn về bản thân họ. Người đàn ông chính là cái thế giới được tổ chức. Người đàn bà chính là cái vũ trụ dị dạng. Đối với người đàn bà, tất cả đều có thể. Không có gì chắc chắn với người đàn bà cả”. (*)
H. Troyat đã động chạm tới một đề tài, mà người đời hầu như ai cũng có lúc nhắc tới, các nhà văn nhà thơ lại càng hay nhắc tới mà có khi đến cuối đời cũng không tự giải đáp được. Đó là những câu hỏi đơn giản: thế nào là đàn ông và đàn bà? Có cái nam tính và nữ tính mà chúng ta vẫn cảm thấy không? Nó bộc lộ ra ở những điểm nào?
Cùng vào nghề với Xuân Quỳnh những năm ấy, có Nguyễn Thị  Ngọc Tú, Dương Thị Xuân Quý, mãi tới khoảng 1968 -1969 mới thêm Thanh Nhàn, Mỹ Hạnh, Phương Thúy… Đám đàn ông chúng tôi đông hơn hẳn. Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Xuân Thâm, Đỗ Chu, Nguyễn Khắc Phục v.v... Theo thói quen các bạn nữ thường hay cụm lại chơi với nhau. Xuân Quỳnh thì không, Quỳnh giao du khá rộng và chúng tôi thường cũng đến lại chơi với Xuân Quỳnh. Có lẽ vì thế mà đôi lúc đã có người đùa bảo Quỳnh là “cậu Quỳnh”. Song có hề chi, chính là giữa đám bạn trai, Quỳnh lại càng nổi lên với nữ tính sẵn có.
Khoảng 1970, có một lần tôi đến công tác ở đơn vị thanh niên xung phong nọ: ở đó, nữ là chủ yếu, nam giới quá ít, đến mức người ta phải ví von “ở đây nam giới là mì chính, còn nữ là rau tàu bay”. Và đây là một tình hình tâm lý có thật: nhiều tiểu đội trung đội, toàn chị em nữ. Họ sẵn sàng nhận làm những việc khó khăn vất vả nhất, với một điều kiện cho một hai anh em nam giới vào đấy.  Để làm gì ư, đơn giản lắm, chẳng hạn như khi máy bay địch tập kích thì có người chạy trước, chị em trông mà chạy theo. Trong chiến tranh nam giới còn bao việc khác ,nam giới phải ra mặt trận, nên ở các đơn vị tuyến sau như các binh trạm, đôi khi quá thiếu, họ chấp nhận phải sống với nhau là chính. Song vẫn phải có nam giới. Nó như nơi nương tựa tinh thần của chị em - đầu đuôi là như thế.
Không biết câu chuyện trên đây có phổ biến ở thanh niên xung phong hay chỉ là chuyện riêng ở đơn vị tôi đến công tác, song khi nghe tôi kể lại, Xuân Quỳnh có vẻ hoàn toàn tán thành. Hay tỏ ra cứng cỏi bốp chát trước mặt mọi người, song Quỳnh không giấu được sự yếu đuối, cái khao khát một nơi nương tự thường thấy ở gần như mọi phụ nữ. Và khi tôi hỏi bâng quơ: đàn ông khác đàn bà thế nào, Quỳnh bảo rằng chính là cái  câu dân gian vẫn truyền tụng.
Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.
đã nói rất đúng về phụ nữ.
Thật ra, không chỉ có nông nổi. Điên cuồng (hiểu theo nghĩa thái quá) và nhiều tham vọng, thấy cái gì mình cũng có lý và quá chú trọng những biểu hiện trước mặt người khác hơn là thực chất của mình, rồi muốn cái gì thì muốn bằng được, rồi lại sẵn sàng ném di cái khao khát hôm qua, để đuổi bắt những thích thú khác… tất cả những gì H. Troyat nói ở trên gần như trùng khít với loại phụ nữ như Quỳnh, trước hết là Quỳnh.
Biển chỉ quen theo quy luật của mình
Biển vẫn ấm những ngày trở rét
Biển vẫn mát những ngày nắng khét
Dẫu vui buồn biển vẫn mênh mông
Vẫn là nơi gặp gỡ triệu dòng sông
Đọc mấy câu ấy trong bài Biển, Vũ Quần Phương mách riêng với tôi: “Đấy là một cách Quỳnh nói về chính mình đấy. Nhưng phải cái tội là kiêu quá“.
Mặc dù biết rằng không phải lúc nào Xuân Quỳnh cũng có ý thức được đầy đủ về những câu thơ đã viết, song cũng phải nhận người bạn kia đã nói đúng.
Đây đó, trong lời nói, cũng như trong các bài thơ, ít nhiều chúng tôi vẫn bắt gặp ở Quỳnh cái thái độ dằn dỗi: khi không đạt được mục đích của mình, thì sẵn sàng phá tung tất cả, và để lại dấu ấn của mình với bất cứ giá nào. Đại khái như cái giả dụ về một tình thế mà có lần Quỳnh nói với tôi: ”Tôi tưởng tượng nếu vì một lý do gì đó, tôi phải đứng trước mọi người, để cãi nhau với họ, thì tôi sẽ  nói tuột hết mọi thứ, sẽ lôi hết chuyện gia đình họ mà tôi biết ra kể để  đập vào mặt họ, cho họ chừa”
Cũng may những phút phẫn quá hóa liều ấy ở Quỳnh hầu như chưa xảy ra, hoặc chưa đến mức quá quắt. Trước khi làm khổ mọi người, Quỳnh đã làm khổ mình và thường vẫn đớn đau rên xiết, vì không sao chia sẻ nổi với ai hết!
Trong cơn say sưa bộc bạch một nữ văn sĩ ở Sài Gòn cũ là Trùng Dương Nguyễn Thị Thái (người Sơn Tây, cũng sinh 1943 như bọn tôi ) từng tự nhận:
“Nếu còn tin tưởng ở thượng đế, tôi sẽ cám ơn Người đã ban cho tôi một cuộc sống gồm có những dịp lầm lỡ, cộng thêm một chút hơi nhiều lý trí, cộng thêm với một chút hơi nhiều lòng tham vọng và ý chí ngạo mạn”
Chỉ trừ lý trí, còn tất cả những phẩm chất mà người nữ sĩ kia đã nêu, Quỳnh đều có. Giữa đám bạn bè cùng nghề, Quỳnh thường tự nhủ “Đối với người sáng tác, không gì sợ bằng sự nghèo nàn. Nghèo trong cảm xúc thì không thể tha thứ được” Lại thêm một lý do để Quỳnh phiêu lưu phiêu bạt trong tình cảm! Và bởi lẽ xúc cảm là cụ thể, nên ở Xuân Quỳnh, chúng thường xuyên thay đổi trạng thái. Một người như Bằng Việt đã diễn tả rất chính xác lối cảm xúc đó, của tác giả Gió lào cát trắng. Bài thơ Người cùng đi một đường chỉ có cái phụ đề “Gửi một người bạn cùng lứa tuổi”, nhưng ai độc cũng có thể đoán ngay là đề tặng Xuân Quỳnh.
Lại con đường đỏ rực dưới cây xanh
Đi như lao như lửa cháy trong mình.
Nhịp thơ bạn bỗng bồi hồi mạch đập
Những sườn dốc, rồi những cung vòng gấp
Băng trong đời như bạn đã từng quen
Vẫn đó, gió Lào cát trắng trong thơ
Những thượng nguồn sông, buồn vui bất chợt
Như lòng bạn, lũ trào dâng đột ngột
Cuốn mình đi, đắp những bãi bờ xa
Theo tôi, Bằng Việt đã gọi ra được cái chất hiện đại ở Xuân Quỳnh - cảm giác tốc độ. Hàng ngày, Quỳnh hay nói: “Sống bây giờ phải vội, chắc chắn là mình chả bao giờ có dịp trở lại nơi mình đã đi qua. Đọc sách thì cũng phải đọc cẩn thận, chẳng có thì giờ đâu mà đọc lại cuốn sách mình thích”
Quỳnh khuyên mỗi người thỉnh thoảng nên nhìn lại mình, tránh đi vào những con đường mòn.
– Phải thay đổi đi, có khi năm nay nghĩ thì mấy năm sau mới thay đổi được. Để đến khi người ta chán mình nốt thì có thay đổi cũng không kịp.
Về nguyên tắc, ai mà chẳng biết cuộc đời luôn luôn là một sự vận động. Nhưng có phải lúc nào nó cũng trôi chảy như ta muốn. Còn bao điều kiện níu kéo nó lại. Người xưa nói, một sự nhìn đời lịch lãm là phải chấp nhận cả sự cái thuận lẫn cái không thuận, rồi nhẫn nại chịu đựng. Khốn thay ở một người như Xuân Quỳnh đó là cái thiếu thấy rõ nhất. Bạn tôi là một người rất ngại những sự chờ đợi. Cùng với tuổi tác, Quỳnh có trưởng thành lên nhiều điều, song riêng sự biết dừng lại, bó tay chấp nhận mọi việc thì không. Ngoài những phút vui mừng, những nụ cười cởi mở, hình ảnh tôi thường nhớ lại ở Xuân Quỳnh là nét mặt bồn chồn khi chờ gặp một người này, khi mong được tham gia một chuyến đi kia, hoặc cái hôi hổi sung sướng và thái độ trân trọng, quý hóa khi được gặp người bạn thân cũng như khi được cầm trên tay cuốn sách mà từ lâu đã nghe tiếng. Sự thiếu nhẫn nại toát ra ở cả cái run rẩy của cử chỉ lẫn giọng nói. Vẻ sốt sắng hiện lên trên nét mặt. Tham lam quá đi, mà sự tham lam ở đây lại lộ liễu quá đi, người ta có thể nhận thấy như thế, và chính Xuân Quỳnh cũng nhận thấy như thế. Song bởi lẽ, sự ham muốn trong lòng đã lên đến cực độ, không kiềm chế nổi, lại hiểu rằng, vì thơ, vì sáng tác, vì những ước vọng chân chính sự ham muốn của mình là không vụ lợi, là đáng tha thứ, nên Xuân Quỳnh vẫn sống như thế. Một lối xúc cảm luôn luôn có biên độ dao động rất rộng. Quen với Xuân Quỳnh dần dần, bọn tôi cũng hiểu thấu cả phía này phía kia như vậy. Năm 1985 từ Hà Nội, tôi có việc vào thành phố Hà Nội, nhân thể, theo lời Quỳnh, tôi đến thăm chị Đông Mai là người tôi đã từng gặp ở Hà Nội. Vừa gặp, chị đã hỏi:
– Thế nào cậu, dạo này ở ngoài đó, Quỳnh nó sống thế nào? Vui hay buồn.
Ngẫm nghĩ một lúc, tôi thưa:
– Em gái chị là một người đặc biệt, nên vui cũng vui hơn người khác mà buồn cũng buồn hơn người khác làm sao trả lời cho rành rọt bây giờ.
Trở về Hà Nội, tôi thuật lại cho Xuân Quỳnh nghe, Quỳnh chỉ cười, không phản đối. Chắc trong thâm tâm Quỳnh nghĩ “Đúng là giời đày mình, nhưng có thế mình mới viết được”.
XI. Giữa lòng thế hệ
Sự hình thành nên những người viết văn là một dòng chảy liên tục, tuy nhiên, nhìn vào giới viết văn ở Hà Nội những năm 1975 về trước người ta thấy rõ ba thế hệ:
– Lứa tiền chiến, bao gồm từ Nguyễn Công Hoan, Vũ Ngọc Phan, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư ,Nguyễn Tuân… tới Nguyên Hồng, Tô Hoài, Tế Hanh, Chế Lan Viên.
– Lứa nhà văn trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp, ở đó có Nguyễn Khải, Phan Tứ, Hữu Mai, Hồ Phương, Nguyên Ngọc…
– Tiếp đó, là lứa nhà văn trưởng thành từ chống Mỹ. Nhưng lứa này cũng không xuất hiện ngay một lúc.
Tính cho chi ly, thì ngay từ cuối những năm 1950, đầu những năm 60, đã thấy có những cây bút mới xuất hiện như Bùi Minh Quốc, Trần Nhật Lam, Thái Giang, Nguyễn Bùi Vợi, Dương Đình Hy, Ngô Văn Phú…
Theo chỗ tôi nhớ, ấn tượng mà họ để lại không được nổi lắm. Họ chưa đi thành một thế hệ riêng. Có vẻ như họ vẫn lẫn với những người đi trước.
Phải qua cái mốc 5-8-1964, lịch sử giở sang một trang mới rồi người ta mới nhận ra là một thế hệ trẻ trong văn học đã hình thành. Trong số này, có những người sớm vào các mặt trận miền Nam, và lớn lên ở chiến trường, như Ca Lê Hiến, Diệp Minh Tuyền, có những thanh niên nông thôn, trưởng thành trong bộ đội, như Đỗ Chu, Lê Lựu, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy…, và có lớp học sinh sinh viên làm thơ, viết văn, công tác ở các cơ quan nhà nước, nhất là các cơ quan báo chí xuất bản chung quanh Hà Nội, như Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hoài Anh, Nguyễn Khắc Phục, Bùi Bình Thi, Phan Thị Thanh Nhàn và nhiều người khác nữa. Mấy cây bút bắt đầu viết từ trước 1964 trên kia đã kể, cũng quay về nhập vào lớp này, để tạo nên một đội cận vệ trẻ khá hùng hậu.
Đây là những nét riêng của lớp người vừa lớn lên này, so với các lớp cha anh;
– Trước mặt họ là chiến thắng Điện Biên Phủ, là nửa nước giành được độc lập. Hào quang chiến thắng còn đang lấp lánh. Họ có những năm tháng học hành tàm tạm. Và ở các lớp học nhà tranh vách nứa ấy, tinh thần chủ đạo là lòng biết ơn, là cảm giác trách nhiệm, mỗi người phải lo làm tốt công việc mà lớp người đi trước đã mở đầu.
Thơ Bùi Minh Quốc:
— Chúng tôi sinh sau các anh mấy  ngàn trận đánh
Nay lớn lên đất nước thắm tươi rồi
Nắng gió hòa bình tắm táp tuổi hai mươi
Say sưa hưởng một mùa tươi mát trái
Nghe hôm nay chiến công anh kể lại
Tưởng mình nghe trần thoại giữa chiêm bao
Và lòng trai sôi sục khát khao
Muốn trở lại những năm nào đánh giặc
Ô anh nhỉ ý nghĩ sao mà ngây thơ thật
Vì con người không thẻ vượt thời gian
Lên miền tây
– Đây cũng là những năm ở miền bắc, đời sống tinh thần khá trong lành, đơn giản. Sự tiếp xúc đối với  thế giới  bên ngoài, bị hạn chế tới mức tối thiểu (chỉ có Liên Xô và Trung Quốc mà cũng luôn luôn phải dè chừng và sự thật là chỉ biết một cách phiến diện), tuy nhiên, với lớp thanh niên mới lớn, cũng không có gì là bức bách lắm! Người ta thích nói đến tin yêu hy vọng hơn đắng cay, thất vọng: nói đến hành động hơn tính toán suy nghĩ: nói tới bước đi tất yêu hơn những nghi ngại chọn đường.
Tâm lý xã hội thư thái ổn định, tất cả tập trung cho một công việc phía trước là giải phóng nốt nửa đất nước.
Không kể cánh tiền chiến, ngay so với lớp nhà văn chốn Pháp thì lớp người trưởng thành từ chống Mỹ này cũng đã có cái khác. Tuổi thiếu niên như kéo dài muộn hơn. ở họ thiếu cái cuồng nhiệt của lớp người 15 tuổi mà làm nên lịch sử và bắt  tay vào việc khai phá mở đường làm nên nền nếp của xã hội mới. Là thế hệ thứ hai, họ lo làm theo những người đi trước, hơn là tính chuyện bắt đầu. Những công việc trước mắt cuốn đi, khiến họ không lòng nào băn khoăn day dứt vì những vấn đề mà mọi thế hệ thanh niên mới lớn thường phải đối mặt.
Nhìn vào một người như Xuân Quỳnh, những khía cạnh trên cũng hiện ra khá đầy đủ. Kể lại hoàn cảnh gia đình mình mấy năm 1953-54, Đông Mai không quên nhắc tới không khí sôi nổi ở cái làng quê ven thị xã Hà Đông, khi du kích hoạt động, rồi bộ đội kéo về làng, và ngôi nhà của người bà nội được chọn là nơi ở của Ban chỉ huy đại đội. Các anh bộ đội trẻ vừa kể lại chuyện đánh đồn diệt dịch, vừa son lá son nhảy múa, và dạy thiếu nhi trong làng nhảy múa. Những giây phút nép bên cánh cửa nhìn theo các anh, nghe chuyện các anh, những năm sau còn được Xuân Quỳnh nhắc lại với nhiều trìu mến tự hào trong các bài thơ như: Kỷ niệm của người lính cũ, Ngọn lửa tuổi thơ, những lớp người cùng bài hát ra đi. Có khi nhân nói đến mấy bài dân ca, mấy lời hát thôi, kỷ niệm xưa cũng dồn về, tưởng không phải chỉ do nghe lại, mà như chính mình đã trải qua.
Tiếng yêu mẹ nói cùng cha
Là khi châm lửa đốt nhà tản cư
Sông Hồng nước cả sóng xô
Bao năm chung sống với cờ - Tiếng yêu
Khi cha kéo pháo qua đèo
Giọng hò của mẹ trong veo giữ rừng
Trập trùng những đội dân công
Ngọn măng mai với tấm lòng chiến khu.
Dù là nói theo cái cách riêng của mình, song phải nhận nhiều bài thơ của Xuân Quỳnh cũng nói những điều mà hầu hết các nhà thơ lớp chống Mỹ thường nói: giặc đến nhà phải đánh - chúng ta mang cả tình cảm quê hương vào trận- trong lửa đạn ta càng yêu non sông đất nước, yêu mảnh đất ta đang sống hơn bao giờ hết.
Thời gian này, Bằng Việt với phong cách một trí thức giàu suy nghĩ, rất nổi tiếng với kiểu khẳng định: chúng ta mang cả lịch sử vào cuộc chiến đấu. Đây là những ngày “tột cùng gian truân”, nhưng cũng “tột cùng hạnh phúc”.
- Sông Hồng nước lên em đưa anh qua
Tháng tám cầu nhô hai nhịp gãy
Sông Hồng nước lui khi anh trở lại
Ta nắm tay nhau trên nhịp đã liền
Hai bên bờ Long Biên
Nghìn lá sắc trổ cờ trên ngọn mía
Hạnh phúc lớn tự hào đơn giản thế
Ngày xưa anh chưa nghĩ ra
Đi về thường xuyên giữa chiến trường lửa đạn và hậu phương lớn là Hà Nội, Phạm Tiến Duật phát hiện ra những niềm vui kỳ lạ của một hàng quân, một chuyến xe qua trọng điểm và nói về quyết tâm chiến đấu, theo cái kiểu  lý sự riêng của mình.
Không có kính ai bảo là không có kính
Bom dập bom rung kính vỡ đi rồi
Ung ung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Thời gian mấy năm 1967-1968, thơ Lưu Quang Vũ có lúc trong trẻo như ca dao, và giọng thơ là giọng ân nghĩa, tình cảm:
Ta đi cứu nước, yêu thương lắm
Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình
Tuy không có những bài thật hay nhưng thơ trữ tình công dân của Xuân Quỳnh cũng có cái giọng rất chân thành: Sự có ích của thơ ca được Xuân Quỳnh  tự nguyện chấp nhận . Cuối 1963, đi đảo Cô Tô, đã có bài Những cây dứa dại, ca tụng loài cây bề ngoài xấu xí “thân nó tròn, vỏ xù xì màu đất bạc - xoắn xuýt vào nhau như những khúc trăn to - lá xòe dài - cạnh sắc như lưỡi cưa”, chuyên môn làm rớm máu rách da người đi lại. Lý do là vì loài dứa dại ấy biết giữ cát, chắn gió, che chở cho cửa nhà trên đảo. Năm 1970, trong bài viết trên đường 20 nhà thơ tâm sự:
Chính ở đây mới biết sâu lòng căm ghét
Chính ở đây mới hiểu hết nghĩa yêu thương
Dù thơ em viết chửa hay hơn
Em đang tập làm thơ cho có ích
Như viên đá trải đường, như nhát cuốc
Như tấm lòng em nhớ về anh
Dòng thơ em theo bánh xe lăn
Theo tuổi trẻ trăm lần giáp trận
Cùng một mạch suy nghĩ với những người bạn như Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ ở trên, Xuân Quỳnh trở đi trở lại với cái ý đời mình đã thuộc về cái đời sống khắc nghiệt của gió lào cát trắng thì dù ở đây gian khổ đến đâu, vẫn gắn bó với đời sống ấy.
Dẫu đôi khi tôi chửa bằng lòng
Với cái cát làm bàn chân bỏng rát
Với cái gió làm chín lừ da mặt
Mảnh đất cằn khoai sắn ít sinh sôi
Tôi sẵn lòng đem hiến cả đời tôi
Cho cát trắng và gió lào quạt lửa
Tinh thần hy sinh, lòng biết ơn, ý thức chiến sĩ đã vào Xuân Quỳnh khá tự nguyện.
Có một môtíp trở đi trở lại trong nhiều bài thơ của thế hệ chống Mỹ và được Xuân Quỳnh làm thành một bài thơ riêng, đó là Cỏ dại. Là sự sống ở cái dạng thức đơn sơ nhất của nó, cỏ dại là một cái gì không đòi hỏi nhiều, không cần ai chăm sóc song lại bền bỉ dai dẳng kỳ lạ, không gì giết hại được, và nó đã trở thành tượng trưng, cho lòng tin, cho hy vọng, cho cái công thức nhiều người không nói thành lời nhưng luôn luôn cảm thấy, ấy là cốt sao là sống còn sống thế nào cũng được, và chúng ta chỉ mạnh ở chỗ chúng ta không chết. Có hiểu những gian khổ đến cùng cực trong chiến tranh, mới hiểu lối suy nghĩ này của nhiều người và hiểu tại sao, người ta thích nói tới nó, bằng lòng với nó.
Một hình ảnh tương tự khác là cát, cũng có ý nghĩa gần gần như hình ảnh cỏ dại vừa nhắc
Bài thơ dài tả cát kết thúc bằng mấy câu:
Cát đã qua nghìn lửa cháy
Cát đã qua nghìn đạn bom
Để tìm về với bà con
Và cát bây giờ vẫn trắng
Về sau này, Xuân Quỳnh sẽ ngoái nhìn lại sự trưởng thành, và sự ngây dại của lớp trẻ như mình, những năm chiến tranh, qua bài Có một thời như thế.
Có một thời vừa mới bước ra
Mùa xuân đã gọi mời trước của
Có một thời ngay cả nỗi đau
Cũng mạnh mẽ ồn ào không giấu nổi
Mơ ước viển vông, niềm vui thơ dại
Tuổi xuân mình tưởng mãi vẫn tuổi xanh
Và tình yêu không ai khác ngoài anh
Người trai mới vài lần thoáng gặp
Luôn hy vọng để rồi luôn thất vọng
Tôi đã cười đã khóc những không đâu
Một vừng trăng niên thiếu ở trên đầu
Một vạt đất cỏ xanh rờn trước mặt
Trong sáng, ngây thơ, cổ điển, là cái phong cách sống, phong cách nghĩ một thời của lớp trẻ những ngày ấy.
Và dĩ nhiên, nó cũng là phong cách sống chủ yếu của Xuân Quỳnh.
XII Những chuyến đi
thuở viết Chồi biếc: đời văn công
ý nghĩa: thấy mình trong  mọi người
cái áo bộ đội
những ngày em đi thường là trời rét
những gian khổ trên đường lá thư gửi Đông Mai
cau nói đi thật xa để trốn
Loại đi như X Quý
Trở về. Câu của Văn Thảo nguyên
Không thể bàn về chuyện đời thì bàn về tình yêu
Bài ca hy vọng
XIII. Người của tình yêu
Là một phụ nữ, song Xuân Quỳnh lại có thói quen chủ động trong tình yêu. Một người quen tôi, anh Hà Trì có đi lại với gia đình Lưu Tuấn từ đầu những năm 60 cho biết hồi ấy, trên 20 tuổi, song Quỳnh cũng đã khá chủ động trong đám cưới đầu tiên. Sau khi cân nhắc tính toán, Quỳnh nghiêng về một niềm tin rằng với sức mạnh của tình yêu, mình có thể cảm hóa và làm thay đổi Tuấn. Mặt khác, lúc này, Quỳnh bắt đầu chuyển công tác, nên lại không muốn mang tiếng rằng do sự chuyển đổi này, mà có đổi thay trong tình cảm. Tự tay Quỳnh bắt tay lo liệu cho việc tổ chức đám cưới (Về sau, thấy Bằng Việt lo mua sắm cho đám cưới của mình với người vợ đầu là chị Vượng, Quỳnh xót xa nhớ lại: hồi trước, chỉ có tôi lo chứ chả ai lo cưới tôi cả!)
Song, như Đông Mai đã kể, tình cảm Xuân Quỳnh - Lưu Tuấn sứt mẻ, ngay từ khi có đứa con đầu tiên và ngày càng không có gì hàn gắn nổi. Là những người bạn ở xa, chúng tôi không rõ đầu đuôi, nhưng Lưu Quang Vũ ở cùng nhà, Vũ kể rằng hai người đã có những lúc to tiếng, cả hàng xóm làng giềng đều nghe tiếng. Vốn đã không quen trò chuyện với khách của vợ, những lúc ấy, Lưu Tuấn cũng nhìn chúng tôi một cách xa lạ và về phần mình, chúng tôi càng bảo nhau phải lo rút lui cho sớm. Nhân nói bất hạnh nảy sinh trong gia đình mình, có lần Xuân Quỳnh mai mỉa:
– Thấy đôi nào mới yêu nhau, không việc gì phải khuyên nhủ cả. Cứ cho nó về ở với nhau, thế là chán nhau ngay.
Nhưng thật ra, ai cũng nhìn thấy mọi chuyện không phải như thế. Sở dĩ có sự ngăn cách vì mặc dù đều là hai người tốt, nhưng Quỳnh và Tuấn quá khác nhau. Tuấn là người đàn ông chăm chỉ, hiền lành. Khi yêu không nói gì nhiều, nhưng sẵn sàng để một hai buổi trưa vót những đôi đũa thật đẹp, tặng người mình yêu, và sau này về sống với nhau rồi, săn sóc vợ trong từng chuyện nhỏ nhặt, hoặc để cả ngày làm đồ chơi cho con. Ngược lại, Quỳnh là một tâm hồn sôi nổi, thích trò chuyện, nhận xét, tha thiết tìm thấy ở người đàn ông một người đồng hành trong mọi phiêu lưu của cuộc đời. Sự chỉn chu chín chắn của Tuấn, Quỳnh vừa cần, vừa không cần, vì nếu thích, Quỳnh cũng có thể trở nên một người đảm đang lo liệu đầy đủ cho chồng con, chứ không phải loại phụ nữ chỉ biết sai chồng làm việc vặt, và thua kém đàn ông cả trong nấu nướng lẫn khâu vá. Quỳnh với Tuấn cả hai vừa thiếu cho nhau, vừa thừa cho nhau, là như thế đó.
Giá ở hoàn cảnh hôm nay, câu chuyện gia đình Tuấn - Quỳnh sẽ được giải quyết chóng vánh.
Nhưng vào đầu những năm 60, tiếp đó là những năm chống Mỹ mọi chuyện tình cảm thường được giải quyết theo cái mạch cổ điển, của nó. Gia đình nào chẳng có chuyện xô xát!
Cái chính là xem cả hai có tốt không, có chuyện tình tang lung tung không. Chứ còn chưa hiểu nhau thì sẽ được giúp đỡ để hiểu nhau. Hồi  ấy mọi người hình như đều nghĩ thế . Đang thời chiến, cả xã hội đề cao sự chịu đựng, lòng chung thủy. Những chuyện ly hôn bị coi là một cái gì rất xấu, dù lý do ra sao thì cũng không thể chấp nhận được. Rất nhiều loại “ủy ban hòa giải” đã được lập nên ở các phường phố cũng như các cơ quan, cốt giúp cho các nhân viên, và các công dân của mình, sống yên lành trong cái gia đình đã được an bài. Một thiện chí như thế, quả có giúp cho bao gia đình lúc ấy khỏi vỡ tung ra, song ngược lại cũng cho nhiều gia đình bùng nhùng trong một thế ổn định tạm bợ. Ngoại tình cũng được, thỉnh thoảng ăn vụng một tí cũng được, miễn là bề ngoài an lành, mọi người cùng thỏa thuận. Người ta chán chường nhau vô hạn, nhưng vẫn phải lặng lẽ sống bên nhau, như những cái bóng.
Sau những lúc sôi nổi bàn chuyện văn chương, đám bạn bè chúng tôi, những Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Nguyễn Xuân Thâm, Phan Thị Thanh Nhàn cũng đôi khi bàn sang chuyện gia đình. Thời gian đầu Quỳnh thường lảng tránh và chỉ nói những câu xa xôi. Nhưng chắc chắn lúc ấy, trong Quỳnh đã có một cái gì đổ sụp. Quỳnh đâm ra hay hoài nghi, nghĩ ngợi. Như Phan Thị Thanh Nhàn đã kể, trong một lá thư từ Vĩnh Linh gửi về, Quỳnh viết: “Ngày chưa có chồng, cứ thoáng nghĩ đến ai tao lại chợt lo: nếu như mình yêu họ, thì liền sau một năm mình có còn thấy họ đáng yêu không? Và ý nghĩ ấy làm tiêu tan cả mọi dự định”.
Không gì khác, sự hoài nghi nói ở đây là nguồn gốc của sự hoài nghi viết trong bài Tháng năm :“Lòng anh là đầm sen - Hay là nhành cỏ úa” mà trên kia đã nói. Thiếu đi tình yêu say đắm những năm ấy, Quỳnh sống trong gia đình mà sống như người ở nhờ “Tôi cảm thấy trong đời mình chẳng có gì là của mình cả, không nhà cửa, không đồ đạc, cái gì cũng sẵn sàng mất” - Quỳnh tâm sự. Vốn sống sôi nổi, song lúc này, người đàn bà ấy trở nên đờ đẫn ngồi đâu cũng bồn chồn trong bụng cứ như lửa đốt, tết trong nhà có mấy cái bánh chưng cũng không biết. Quỳnh những năm ấy, hầu như là người của đường xá, hết đến cơ quan lại sang các bác bạn, rồi đi xem, đi họp, đi học tiếng Pháp, Quỳnh làm tất cả mọi việc một cách cuống cuồng, nhưng cũng là một cách chậm chạp, cốt cho hết ngày và cũng khỏi phải đối mặt với chuyện riêng tư hạnh phúc. Có lần với sự non nớt ít kinh nghiệm của một người con trai chưa có vợ, tôi nói điều gì đó, vẻ như lý tưởng hóa cuộc sống của một gia đình trẻ, thì  thường nghe Quỳnh nói lại những câu khá chua chát. Hình như chị  không tin rằng còn có hạnh phúc.
Về chuyện chia tay với Tuấn , có một nguyên tắc mà Quỳnh  sớm đặt ra  để tuân theo: đó là không giải quyết một việc lớn như thế này qua những bốc đồng chốc lát. Nhưng lúc cãi cọ nhau, không mang chuyện ly dị ra dọa là cắn răng chịu, chờ lúc vui vẻ mới bàn. Nung nấu rất lâu trước khi quyết định, Quỳnh bảo:
– Tôi chỉ luôn luôn nghĩ là làm thế nào cho phải. Ông Tuấn ông ấy tốt quá, cái tốt ấy lại là một cách ràng buộc tôi. Nhưng tôi tự nghĩ: như thế nào là mình tốt với anh ấy? Mình giải phóng cho anh ấy là tốt hơn, hay mình cứ giả tốt như thế này là phải hơn.
Về phần mình, tôi nghĩ nếu mà ông ấy giải phóng cho tôi thì tôi còn kính trọng còn...
Thế còn những chuyện bù đắp của Xuân Quỳnh, giữa hai cuộc hôn nhân?
Tôi nghĩ rằng, ở cái tuổi chưa đầy ba mươi, con người là nhiều khi như vỏ bào sấy khô, chỉ hơi chạm mạnh một tí, hoặc có một tia lửa, là bùng cháy ngay được. Trong quyển sách này, tôi không đặt cho mình nhiệm vụ kể hết những mối tình của Xuân Quỳnh, đơn giản là vì có nhiều điều tôi không biết, và nếu trong một vài trường hợp, có biết chút ít, thì các đương sự đều đang còn sống, nói ra không khỏi có phần bất tiện. Khi viết về người bạn đời cuối cùng của Xuân Quỳnh, tôi đã nghĩ đến một đề tài không bao giờ thực hiện nỗi: Những người đàn bà trong đời Lưu Quang Vũ. Về Xuân Quỳnh cũng vậy. Giá có dịp kể lại chi tiết những người đàn ông đã yêu Quỳnh và được Quỳnh yêu lại, phân loại họ tìm ra chỗ giống nhau và khác nhau giữa họ thì cúng là một cách tối ưu để hiểu Xuân Quỳnh. Nhưng ở ta chưa có thói quen làm cái việc gọi là đi vào đời tư này.
Tuy vậy, có thể thấy qua một số nét chung.
Trước tiên ấy là cái điều tôi đã lưu ý ngay từ khi nhìn lại những năm thơ ấu của Quỳnh: Là người tình cảm nhưng lại không tìm được chỗ dựa tình cảm lúc nhỏ, Quỳnh lúc nào cũng khao khát tình yêu, nhiều khi khao khát quá mức, sinh ra mất sáng suốt. Con người ấy đôi lúc, và ở một phía nào đó phải nói là có phần dễ dãi, nó bắt nguồn từ một sự nhạy cảm thường trực về tình trạng cô độc của mình, và muốn làm nơi nương tựa, Quỳnh không thể sống thiếu bàn tay khác cho Quỳnh vịn, dắt Quỳnh đi.
Đường tít tắp không gian như kể
Anh chờ em cho em vịn bàn tay
Trong tay anh tay của em đây
Biết lặng lẽ vun trồng gìn giữ
Tình cảm của Quỳnh, nhiều khi như hoa dại, Quỳnh từng miêu tả người ta “giẫm lên hoa mà chẳng thấy nhớ“ mà trên kia tôi đã trích. Mấy câu thơ sau đây được viết trong bài thơ Gửi lại thành phố nắng:
Ngày mai tôi xa rồi
Lòng tôi còn ở lại
Một chút tình yêu tôi
Như vệt đen le lói
Lẫn trong triệu ánh đèn
Lẫn trong màu áo cưới
Lẫn trong những ngã tư
Tiếng còi xe giục gọi
Tình tôi như hạt bụi
Vương dưới chân người qua
Tình tôi như màu hoa
Trong mảnh vườn đã tới
Như tiếng vang hòn sỏi
Giữa biển đời mênh mông
Dẫu có cũng bằng không
Chỉ riêng mình tôi biết
Tình yêu nói ở đây là tình cảm của Xuân Quỳnh với Sài Gòn, nơi ông cụ thân sinh Quỳnh từng sống. Nhưng cũng là đúng với tình yêu trai gái. Và cái vẻ tội tội của nó thì bao giờ vũng vậy vẫn là cái nét riêng chỉ Xuân Quỳnh mới có. Bao giờ Quỳnh cũng mắc cái tội là cho rất nhiều, để rồi nhận lại không được như mong muốn. Tình yêu Quỳnh tản mạn khắp nơi, đi đến đâu Quỳnh cũng tìm thấy người để dựa cậy vào  bản thân thì để nhớ để thương cho người ta. Rồi tất cả guồng đời trôi chảy. Nhưng việc khác lại cuốn tới mọi người lại mải miết với những việc trước mắt. Và bản thân Quỳnh thì bồn chồn vì năm tháng qua đi, mà mình vẫn chưa đậu lại ở nơi nào cả.
Có một quy luật mà người xưa đã khái  quát “Người ta không thể vừa yêu vừa trở nên thông minh” “Hạnh phúc dễ làm cho con người ngu đần đi, so với sự bất hạnh”. - Tiếc thay các quy luật oái oăm và đau xót đó lại cũng đúng với Xuân Quỳnh. Mặc dù, hàng ngày thông minh, sắc sảo, nhưng trong tình yêu Quỳnh cũng hay rơi vào tình trạng mê muội. Có những người, bề ngoài ai cũng thấy là không có gì hợp với Quỳnh, và lúc sáng suốt, Quỳnh nhận ra đủ mọi chỗ dở của những người đó, - người này thì rụt rè, nhút nhát, ích kỷ, không dám đi đến cùng trong chuyện gì; người kia thì tham vặt, láu lỉnh, vụ lợi, - song lúc bập vào yêu, Quỳnh lại hết sức lý tưởng hóa họ, lòng dạ lúc nào cũng nôn nao khi nghĩ tới họ và là người thông minh những lý lẽ của Quỳnh như. Để rồi, có khi trở nên nạn nhân sự lừa lọc tự phát ở họ. Trong tình yêu Quỳnh hiện ra trước mặt người đàn ông đối tác, với nhiều phần vì nể, người ngoài nhìn ra như là có phần quỵ lụy. Mặc Quỳnh phải tỏ ra hết lòng tận tuỵ với người mình yêu, và dành tất cả cuộc đời cho người đó, không tính toán, không chần chừ lưỡng lự thì mới yên lòng. Đến khi cuộc đời không được như nhà thi sĩ mong muốn, Quỳnh đau xót tưởng chết đi được. Bản năng tự vệ lớn lao kéo Quỳnh trở lại, nhưng từ đó, Quỳnh thù ghét người đã ruồng bỏ mình đến mức không đội trời chung, đi đến đâu chửi đó.
XIV. Những bước khủng hoảng và sự chấp nhận tự nhiên
Khi nhớ lại đời sống văn nghệ những năm chiến tranh, tôi nghĩ ngay đến những tờ báo, Báo Văn Nghệ ở 17 Trần Quốc Toản, tạp chí Văn Nghệ quân đội ở 4 Lý Nam đế. Hầu như những vui buồn của lớp trẻ làm thơ cũng dồn tụ lại ở đấy. Đến với tờ báo, chúng tôi gặp các bậc đàn anh lớp trước, các anh các chị người nào cũng chỉ chăm chăm lo liệu có thêm những trang viết phục vụ cho cuộc chiến đấu chống Mỹ. Đến với báo chúng tôi gặp bạn bè ở xa về. Thỉnh thoảng trong câu chuyện, cũng có len vào những vấn đề xã hội chính trị lớn lao. Nhưng nói chung, chúng tôi cảm thấy sự đời đơn giản hơn, nó cụ thể hơn ở một ít công việc trước mắt, mà cụ thể là những bài thơ, truyện ngắn đăng báo. Sau khi tỏ ý thán phục một cái gì như là cái non tơ tuổi trẻ, một người như Nguyễn Minh Châu sẽ sớm nhận ra một đặc điểm không được hay lắm ở lớp trẻ. Đi đâu chúng tôi cứ kéo đi một đàn một lũ, cười nói ầm ĩ. Rồi lúc nào đó, phải có những cá nhân đơn độc tự mình suy nghĩ mọi điều. Nhưng lúc ấy, hình như những cá nhân như thế, còn mải chơi, mải trò chuyện chưa tự mình sống riêng ra được.
Cũng Nguyễn Minh Châu, một lần lại bảo “Cánh trẻ bây giờ mới có những tay làm cho người ta mến và thấy bợm, vì sự bắt chước giỏi nhưng chưa phải đấy là sự phát hiện ra cái gì mới”.
Nguyễn Khải thì chê là trong hội nghị những người viết văn trẻ tổ chức 6-1971: “không có cây bút trẻ nào nói được ít câu nghiêm chỉnh“. Ông bảo thẳng vào mặt tôi
- Đi họp các ông không nói gì, cứ ngồi im thin thít, rồi ra ngoài lại nói, lại chửi bằng cái giọng khinh bạc, thế là tạo điều kiện cho người ta nghĩ rằng các ông còn trẻ con... Nên nhớ rằng không ai kéo dài tuổi trẻ mãi được. Phải nói, phải có lý lẽ của mình, rồi lại phải làm nữa”.
Có lẽ không chỉ Nguyễn Minh Châu hay Nguyễn Khải đã có ý nghĩ như trên mà nhiều người có kinh nghiệm khác đã cảm thấy như vậy. Và khách quan mà nói, phải nhận là các bậc đàn anh ấy nói đúng - là những nhà văn nhạy cảm và có bản lĩnh, các ông muốn trước mắt mình có một lớp trẻ sâu sắc hơn trong suy nghĩ, đàng hoàng mới mẻ hơn trong cách sống. Nhưng quan niệm chủ đạo trong xã hội lúc ấy đâu dễ  cho phép có một lớp trẻ táo bạo, chói sáng như các ông  mong ước!
Thật ra, thì dù đụt đến mấy, kém cỏi đến mấy, lớp trẻ những năm ấy không khỏi có lúc lờ mờ mang máng cảm thấy rằng lẽ ra mình phải làm một cái gì vượt lên hẳn so với lớp người đi trước. Phải tạo nên một bước rẽ ngoặt. Phải có một phong cách hoàn toàn khác, - chính một người như Xuân Quỳnh, trong sự thuần nhất của mình, cũng cảm thấy phải cục cựa, thay đổi. Một lần nào đó, Quỳnh từ chuyện văn chương, khái quát sang chuyện đời sống.
– Tôi đọc Brecht thấy có những bài vớ vẩn, cả thơ Hikmet cũng vậy. Bây giờ người ta sống người ta thờ phụng người cũ nhiều quá. Hoặc là toàn hy vọng ở tương lai - ông Chế Lan Viên lúc nào cũng hy vọng ở tương lai - còn hiện tại ta sống thế nào, thì chẳng ai chịu lo và chịu trách nhiệm cho chúng ta cả.
Vào những năm từ đầu 1970 trở đi, giọng thơ trẻ Lưu Quang Vũ, do những biến động trong đời sống riêng, đột ngột trở nên vẩn vơ, cay đắng, u buồn, trở nên một chút gì như là hư vô, không còn biết tin những gì chung quanh mình nữa (*). Những vần thơ khinh bạc của Vũ  có đến với Quỳnh (lúc ấy họ chưa lấy nhau) và hai người có trao đổi  về nhiều điều quan trọng. Giá kể Quỳnh có than phiền rằng ở Quỳnh lòng tin bị mất nhiều quá, thì Vũ còn đi xa hơn: “Tôi chưa bao giờ có niềm tin để mất. Lúc nào tôi cũng cảm thấy như bị khinh rẻ, bị chà đạp”.
Quỳnh không biết nói gì hơn, chỉ than thở với  tôi: “Vũ là kẻ khinh bạc, chửi mọi thứ rồi lại làm theo những thứ ấy. Nhưng dẫu sao, Vũ còn có cái triết lý sống riêng của Vũ. Còn tôi, tôi đau khổ vì chưa tìm ra triết lý riêng của mình”.
Tôi không dám nói là mình đã hiểu hết đời sống tinh thần của các bạn trẻ cùng tuổi những năm chống Mỹ, song có cảm tưởng là ở một người như Xuân Quỳnh lúc đi xa nhất, lúc tỏ ra hư nhất, trong quan niệm về đời sống, cũng chỉ có thế. Chưa tìm ra triết lý riêng của mình - điều Xuân Quỳnh tự nhận một cách bâng quơ, thật ra là điều đúng với toàn bộ cuộc đời Quỳnh và cũng đúng với nhiều người chúng tôi. Mười năm chiến tranh, Hà Nội không ra thời chiến, không ra thời bình, ở đó, chúng tôi có một cuộc sống vẩn vơ, chơi bời, đá một tí công chức, một tí nghệ sĩ, lại luôn luôn làm thơ viết văn động viên lớp người cùng tuổi với mình ra trận. Luôn luôn chúng tôi nói tới hai chữ chiến sĩ song thực ra cách hiểu về chiến sĩ cũng cực kỳ đơn giản đại khái cứ có thơ văn in ra có sứ động viên là được. Một cách sống cách nghĩ đơn sơ nhưng bền chắc và khó lòng thay đổi, vì đâu có tiếp xúc với thế giới bên ngoài để mà thay đổi. Mãi tới 1975, khi vào Sài Gòn giải phóng chúng tôi mới ngớ ra vì bao điều không biết không hiểu của mình. Song ai đã sống những ngày ấy hẳn sẽ tha thứ cho chúng tôi, ít ra là ở một điều: chúng tôi không ảo tưởng. Những lúc tỉnh táo nhìn lại mọi chuyện, chúng tôi hiểu rằng mình không làm được gì nhiều, và mọi chuyện sẽ qua đi, các thế hệ sau sẽ sống khác chúng tôi. Lạ một điều là trong số những người ngay từ lúc ấy có được sự tỉnh táo trong việc đánh giá thế hệ mình đã có Xuân Quỳnh. Chị đã đã ghi lại ngụ ý này của lớp người cùng lứa trong bài Chúng tôi in ở tập Gió lào cát trắng. Lớp thanh niên được miêu tả ở đây “sinh ra trong nhiều năm khác nhau, nhưng cùng một thời kháng chiến” Mọi yêu ghét của họ đều liên quan đến sự sống còn của đất nước. Họ không có lấy một giờ học yên tĩnh “Đang giờ toán bỗng nghe bom dội - Trong bài văn có chữ máy bay rơi “Cho đến cả hình hài cách ăn mặc của họ cũng theo nhịp thời chiến. Và đây điều đau xót nhất “Trên thế giới này chúng tôi chưa thuộc hết các danh nhân - Bởi chúng tôi hiếm thời gian để học” Khi thuật lại những chuyện này, Xuân Quỳnh vẫn giữ cho bài thơ của mình cái giọng bình thản, không ra vẻ tranh khôn, không oán trách ai, không tiếc xót cho mình và bè bạn. Trong cái vẻ mộc mạc của nó, bài thơ chốt lại bằng mấy câu cũng thẳng đuỗn, nhưng quả là có sự chân thành hiếm thấy:
Chúng tôi tin thế hệ tiếp lớn lên
Đất nước này sẽ nhiều đổi khác
… Tuổi trẻ sẽ có nhiều sách đọc
Sách về tình yêu về sự khám phá sao mai
Cuốn sách nói về tuổi trẻ chúng tôi
Nằm khiêm tốn giữa muôn nghìn cuốn khác
Chắc không ai phản đối khi nói rằng sự biết điều nói ở đây đã chiêu tuyết cho tất cả! Và trước tiên cho Xuân Quỳnh mà chúng ta đang nói!
XV. Người bạn đời
Sinh năm 1948, và đúng năm 1964 thì tốt nghiệp cấp ba (lớp 10 hệ  phổ thông chỉ có mười năm), Lưu Quang Vũ thuộc loại trẻ trung nhất trong đám các nhà thơ được mệnh danh là thế hệ chống Mỹ.
Nhưng lớn lên trong một gia đình văn nghệ sĩ, Vũ có điều kiện để hiểu văn chương từ bên trong, hiểu một cách gan ruột sâu sắc. Và so với tuổi của mình, Vũ trưởng thành sớm. Chẳng những là các bài thơ đầu tiên của Vũ thời in trên báo gần như đồng thời với những Bằng Việt, Vũ Quần Phương trong thơ hoặc Đỗ Chu, Nguyễn Khắc Phục mà trong câu chuyện hàng ngày, Vũ cũng tỏ ra hiểu biết không kém gì những người hơn mình năm bảy tuổi - thậm chí, nhiều chỗ bằng kinh nghiệm riêng của mình, nhận thức cách nhìn đời, cách đánh giá con người của Lưu Quang Vũ còn có những khía cạnh sắc sảo hơn. Không bao giờ, trong một đám bạn bè cùng ngồi với nhau, bọn tôi nghĩ Vũ có khía cạnh gì non nớt, ngược lại, cả bọn đều mừng là có một người bạn trẻ thông minh như vậy.
Thoạt nhìn, có thể thấy Vũ hơi bột. Khuôn mặt bầu bĩnh, má còn lông tơ, môi đỏ Không gì khác, đúng là hình ảnh của một chàng trai mới lớn.
Vũ lại cố ý tô đậm vẻ non tơ của mình bằng một dáng dấp rụt rè pha chút bẽn lẽn nữa. Trước đám đông, Vũ thường ít nói, có nói thì cúi đầu và liếm môi vẻ rất vụng dại.
Về sau, trong những khi nói chuyện riêng, chúng tôi mới biết rằng, thật ra, Vũ nhìn tất cả một cách thấu đáo. Kinh nghiệm sống trong gia đình dạy Vũ đầy đủ về thực chất của giới văn nghệ sĩ, đôi khi, Vũ có những lời lẽ khinh bạc mà bọn tôi phát sợ. Nhưng đó là câu chuyện về sau.
Vào khoảng mấy năm 65-66, Vũ đang giống những bài thơ của mình trong tập Hương cây, nghĩa là dịu dàng, tinh tế. Người ta thường nói Vũ thuộc dòng thơ kỷ niệm. Những câu thơ hay nhất của Vũ lúc ấy là để nói về trời xanh mây trắng, đất nước chân tình đáng yêu, và mỗi chúng ta chịu ơn đất nước này rất nhiều, chúng ta phải làm tất cả để gìn giữ sự trong lành của cuộc sống.
Mặc dù, đang ở trong quân ngũ, nhưng trong khoảng mấy năm ấy, Vũ thường cũng có mặt ở Hà Nội. Và khi người con trai đó để bộ quân phục ở nhà, đèo người yêu đi làm, rồi ngồi ở quán cà phê đợi người yêu trở về, thì trong cái dáng vẻ tự nhiên, từng trải của mình, Vũ hiện ra như một chàng trai Hà Nội tiêu biểu (bố Vũ, ông Lưu Quang Thuận, quê Đà Nẵng ra Hà Nội đã lâu, còn mẹ Vũ người Hà Nội gốc, nhà trên Ngõ Gạch)
Khoảng đầu 1970, đám cưới Vũ và người nữ diễn viên xinh đẹp Tố Uyên, tổ chức ngay ở căn phòng trên gác hai căn nhà 96 phố Huế. Mặc dù thời chiến, song gia đình đã lo cho đám cưới thật hào hoa lịch sự. Bạn bè văn nghệ đến khá đông. Người ta bấy giờ đi dự ngày vui không quá lo lắng về ăn mặc, về quà tặng như đám cưới những năm sau này. Bè bạn chỉ như say đi, trong một không khí hạnh phúc thực sự .
ở cùng trong căn nhà 96 phố Huế, Xuân Quỳnh có dịp được thấy trước mắt mình thế nào là cái nồng nàn của hạnh phúc tuổi trẻ, mà Quỳnh thường ao ước.
Song mấy năm liền đó, Quỳnh cũng lại thấy ngay trước mắt mình, cái gọi là cuộc đời thường tấn công cái gia đình nhỏ kia và lấy đi tất cả cái tươi đẹp mà Quỳnh đã chứng kiến.
Cưới nhau được ít lâu, gia đình Vũ - Uyên tan vỡ. Nghề thi sĩ của Vũ và nghề diễn viên của Uyên đều là nghề rất đẹp. Nhưng ở nước ta, đó là nghề chưa kiếm  ra tiền. Mà những gia đình trẻ như gia đình Vũ, thì rất cần tiền. Lại nữa, cả hai con người rất nghệ sĩ đó không phải là người của đời thường. Chắt bóp nhặt nhạnh “chín xu đổi lấy một hào” để lo cho gia đình tươm tất, không phải là việc của họ. Rồi ít lâu sau, khi Vũ bị đưa ra khỏi bộ đội trở về trong cảnh gần như thất nghiệp, giữa lúc Tố Uyên sinh đứa con đầu tiên, thì bao nhiêu bấn bíu mới có dịp hiện cả về, để trói chặt đôi vợ chồng nghệ sĩ trong cuộc đời thường. Những ngày tháng gieo neo ấy, thật sự có thể coi là âm bản của cái cuộc sống hạnh phúc hôm qua - thực ra là chỉ cách có ba bốn năm gì đó.
Trong thời gian này, Quỳnh cũng đang sống trong cảnh gia đình rạn vỡ, và không cách nào hàn gắn trở lại. Quỳnh và chồng ở gác ba còn Vũ và Uyên cũng được thu xếp trong một phòng nhỏ gác hai, tất cả đi chung cùng một cầu thang.
Mặc dù tuổi tác cách nhau có phần xa (trước mặt mọi người, lúc đầu, Quỳnh vẫn được Vũ gọi bằng cô) song căn cứ vào những dang dở trong hạnh phúc riêng tư, thì so với các bạn bè khác, Quỳnh và Vũ là người có những kinh nghiệm không kém gì nhau.
Tài thơ của người này, luôn luôn là điều ngưỡng mộ của người kia. Nhiều người còn nhớ, trong bài thơ Nếu ngày mai em không làm thơ nữa của Quỳnh, có những câu gần như tuyệt bút
Và trời xanh - xin trả cho vô tận
Trời không xanh trong đáy mắt em xanh
Và trong em không thể còn anh
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa
Tôi nhớ có lần  Quỳnh  kể rằng, khi nghe mấy câu thơ ấy, Vũ cứ run cả lên.
Về phần mình, Vũ cũng rất thi sĩ trong rất nhiều câu thơ xuất thần:
Không làm thơ anh xin làm lá cỏ
Chỉ xanh thôi cũng mát mắt em  nhìn
Khi đã hiểu nhau đến tận phần tinh tế gan ruột là những câu thơ chắt lọc từ cả cuộc đời như thế này, thì thì cái hàng rào ngăn cách tuổi tác còn có nghĩa lý gì. Các thi sĩ thực thụ là những thi sĩ rất già trong sự hiểu đời và lại mãi mãi trẻ trung trong sự cảm nhận trực tiếp đời sống. Điều đó cả Vũ và Quỳnh đều hiểu hơn ai hết.
Bản thân tôi còn nhớ là trước những chuyện diễn ra hàng ngày trong đời sống của Vũ mấy năm ấy, Quỳnh luôn luôn tiếp nhận với cái độ căng vốn có của tình cảm mình. Khi thì phục, khi thì thấy lạ, thấy không sao chấp nhận được nhưng bao giờ cũng nôn nao cảm động và muốn lên tiếng.
Một lần nào đó Tính cách con người và người ta nhận xét về nhau khá chính xác.
Con đây, một lần khác, Quỳnh nói rất sôi nổi.
- Vũ vừa mới viết 5.000 câu thơ về đất nước. Có nhiều câu cảm động nhưng có nhiều chỗ cũng bốc quá. Vũ đã nói nhiều chuyện mà Vũ không hiểu.
Vũ có nhiều quan niệm mà tôi thấy là sai, nhưng tôi không đủ lý lẽ để bẻ lại. Ví dụ như Vũ bảo làm thơ là luôn luôn thức tỉnh, làm cho người ta luôn luôn không thỏa mãn thế thôi. Hôm nay làm cho người ta không thỏa mãn với hôm nay. Nhưng khi cái hôm nay đã thỏa mãn, thì người thi sĩ lại gây cho người ta bất mãn, lại thức tỉnh người ta, và mọi điều cứ thế tiệp tục không thôi.
Nhưng tôi kinh nhất ở Vũ một điều: Vũ không bao giờ cảm thấy ân hận, cảm thấy có lỗi trong chuyện gì cả. Còn ở tôi, cái cảm giác ấy lại là thường trực.
Được chứng kiến một phần nào đó tình yêu của Quỳnh với một vài người bạn khác, dĩ nhiên là dần dần, tôi cũng thầm đoán là giữa Vũ và Quỳnh từ ngày ấy càng sớm có chuyện. Nghe Quỳnh nhận xét về Vũ, tôi càng củng cố cái ý nghĩ riêng: “Có những phương diện, chỉ hai con người ấy mới hiểu nhau, chịu được nhau, nhưng lại có những phương diện, hai con người ấy hoàn toàn xa lạ với nhau, khốn khổ thế chứ!”
Tuy nhiên, dù đã đoán trước tất cả, mọi sự việc xảy ra sau đó, đối với một người nhút nhát và không quen va chạm như tôi, đấy vẫn là một cú sốc quá mạnh.
Nguyên hồi đó, Quỳnh đang bị một người bạn trai ruồng rẫy. Hai bên, theo Quỳnh hiểu, sẽ cùng từ bỏ gia đình, một bên bỏ vợ, bên kia bỏ chồng, để về đoàn tụ với nhau. Hóa ra, Quỳnh nhầm! Người đàn ông mà Quỳnh hết lòng yêu và đã vì người đó  mà viết nên những bài thơ tình hay nhất trong Gió lào cát trắng không nghĩ giống Quỳnh. Vốn chi ly kỹ lưỡng trong toan tính việc đời, lần này anh càng tỏ  ra thận trọng hơn bao giờ hết. Trong khi đi lại với Quỳnh thì anh vẫn để hết tâm trí lo việc gia đình, như phong cách thường có ở một người đàn ông mẫu mực. Đến khi cần phải quyết định thì anh trở về với con người của gia đình... Đây không phải chỉ là quan niệm riêng của Người bạn trai kia của Quỳnh mà còn là quan niệm phổ biến thời nay. Người ta coi tình yêu là một thứ hoa lá “vợ con là cơm nhà còn bồ bịch là phở“. Sáng ra  ăn phở cũng vui song trưa chiều phải có cơm mới chắc dạ. Không ai lấy phở thay cơm thì cũng không ai vì người mà mình yêu mến nỡ lòng phá tan gia đình sẵn có, nhất là khi người ta đã sang cái tuổi ba mươi chín chắn hơn hẳn so với thuở mười lăm mười bảy.
Trong khi đó thì XQ nghĩ khác. Cũng như đa số người đời, Quỳnh cho là mình bị phụ bạc. Bất cứ ai ở vào địa vị người bị phụ bạc như thế, cũng rất đau đớn, nữa là lại một người nhạy cảm tinh tế, coi tình yêu là lẽ sống của cuộc đời, và kiêu căng cao ngạo, tự tin ở sức cảm hóa của mình như Quỳnh. Trong khi người bạn trai kia nhẹ nhàng từ tốn giải thích với mọi người (là Quỳnh hiểu nhầm, rằng mình chả hứa hẹn gì cả rằng người ta không thể phá tung hai gia đình yên ấm, để bắt tay xây dựng một gia đình mới từ đầu, và không chắc đã đi đến đâu) - thì Quỳnh dãy giụa như đỉa phải vôi thảng thốt bồn chồn, cay đắng, giận đời giận mình. Lúc ấy Quỳnh đã ly dị, nghĩa là đã cắt cầu. Quỳnh vốn không quen ăn dè hà tiện .Không nửa vời. Không giành cho mình một chỗ phòng xa để quay trở lại như một số người khôn ngoan khác. Do cái tính thích công khai và sòng phẳng Quỳnh hiểu ra như một con bạc khát nước và đã đến hồi cháy túi.
Những ngày chỉ sống một mình tuy ngắn ngủi nhưng thật không sao quên nổi: với bất cứ ai nó cũng là chuyện nặng nề thì với Quỳnh phải nói là chuyện khủng khiếp. Có những người phụ nữ dám sống một mình Quỳnh như không còn là mình tới mức
Trong điều kiện ấy, Quỳnh đã tìm thấy ở Vũ một chỗ nương tự cuối cùng. Trong cơn lêu têu lang bạt của mình, Vũ cũng ngấm ngầm khuyến khích, rồi dang tay ra đón nhận tình yêu của Quỳnh.
Lúc đó là khoảng đầu 1973 - đời sống tình cảm của thanh niên Hà Nội còn nhiều gò bó, dư luận so với ngày nay, phải gọi là khá nghiệt ngã. Ngay trong giới văn nghệ sĩ, câu chuyện Quỳnh Vũ cũng là một cái gì ngoài khuôn khổ. Tôi nhớ lúc ấy, gia đình Lưu Quang Vũ cực lực phản đối. Nhìn thấy ở con trai mình những khó khăn trước mắt chỉ là tạm thời và tất cả sẽ được làm lại, bà Khánh mẹ Vũ không sao có thể chấp nhận chuyện kỳ cục này. Mà Đông Mai, người thân duy nhất của Quỳnh bấy lâu, người theo dõi từng bước đi của Quỳnh và vui buồn với mọi vui buồn của Quỳnh, cũng cho họa có điên rồ, chứ không thể làm vậy.” Cuối cùng do Quỳnh Vũ tha thiết làm theo ý riêng, đám cưới vẫn được tổ chức, nhưng nhạt nhẽo, lèo tèo có vài người dự (bản thân tôi cũng không dám dự, và vì việc này, nhiều năm sau Quỳnh còn cho tôi là hèn)
Lẻ tẻ, còn có người đoán rằng rồi ra ba bảy hai mươi mốt ngày, đôi trai gái gai sắc, nhưng lệch tuổi và người nào cũng có một quá khứ quá ư phiền phức này, sẽ bỏ nhau sớm.
Về phía Vũ, tôi không thật rõ, nhưng về phía Quỳnh chính đấy lại là một thứ thách thức, tiếp thêm cho Quỳnh tinh thần và nghị lực. Là người suốt đời săn đuổi hạnh phúc, nay Quỳnh muốn chứng minh cho mọi người thấy rằng các kết quả đến với mình hôm nay cũng rực rỡ và tốt đẹp, như một mong ước. Với bản tính tốt đẹp sẵn có, Quỳnh sung sướng biểu lộ hết năng lực làm vợ mà từ lâu Quỳnh xếp xó không dùng tới. ít ra, thì từ nay, Vũ được săn sóc kỹ lưỡng hơn bao giờ hết. Đi đâu lâu có người mong ngóng. Buổi tối muốn thức khuya thêm một chút, có người nấu cho bát mì nóng để ăn. Hồi ấy, cái gia đình nhỏ ấy còn rất nghèo, và những sự chăm chút như thế gần như là cách tốt nhất để người ta biểu lộ tình cảm với nhau.
Biết rằng mọi người nhìn mình xa lạ, ngờ vực, Quỳnh tiếp tục thách thức mọi người chiều chiều, có việc đi đâu Quỳnh khoác vai Vũ đi bộ trên vỉa hè. Và lòng Quỳnh trở nên sung sướng thanh thản hơn, nên biết rằng đâu đó, có ai đang nhìn mình, với cặp mắt căm ghét.
Viết về G. Sand, A Maurois từng viết một câu, chí lý: Thắng lợi thực sự đến với người đàn ông khi người đàn bà công nhận anh ta là số phận của mình.

XVI. Lỳ lợm bám trụ
Trong những năm mới về ở với nhau, thật ra, Quỳnh với Vũ sống khá chật vật.
Đã  lập gia đình và được bố mẹ cho  ở riêng với Tố Uyên từ mấy năm trước, song Lưu Quang Vũ không phải là người đàn ông biết chỉn chu lo liệu: đại khái đến bữa vợ bảo đi ăn cơm thì ăn, chứ không rõ gạo nước ở nhà thế nào lại càng không mấy khi bàn chuyện lo toan sắm sửa với vợ. Đến khi chia tay Uyên, thì gửi con cho bố mẹ nuôi, còn bản thân, lúc ăn với bố mẹ, lúc ăn ở nhà các bạn.
Dù thế nào đi chăng nữa, thì khi chia tay với Lưu Tuấn, Quỳnh cũng cảm thấy lương tâm cắn rứt, y như mình có lỗi. Và cách chuộc lại lỗi, như những người đứng đắn tự trọng thường cư xử trong trường hợp này, là ra đi tay không. Quỳnh đã làm thế, có thể bảo Quỳnh đã để lại tất cả cho Tuấn. (Vả chăng có đứa con trai mà Quỳnh thương mến cũng đã để lại rồi, Quỳnh con có gì thiết tha để mang theo nữa).
Đôi bạn về sống với nhau, trong chừng mực nào đó, có thể bảo là với đôi bàn tay trắng. Một điều khốn khổ kéo dài nữa là, do những phiền phức gây ra cho mình và cho chung quanh năm ấy, Vũ gần như bật khỏi quỹ đạo của cuộc sống. Đến khi gia tài tối thiểu của mỗi người Hà Nội bình thường, là tem phiếu, một thời gian dài Vũ cũng không có. Trước khi lấy Quỳnh, Vũ sống gần như lang chạ, chán ở với bạn này thì đến bạn khác, rồi kéo nhau xuống tận Hải Phòng chơi rồi rủ nhau đi làm thuê một đám nào đó, kết quả chả việc gì thành.
Vốn từ bé có học qua nghề vẽ, có lúc Vũ nhận về vẽ mấy tấm pa-nô khẩu hiệu để lấy tiền, nhưng được ít hôm lại chán, lại chơi.
(Trước khi lấy Quỳnh, có thời gian gia đình xin cho Vũ chữa mo-rát ở nhà xuất bản Giải Phóng, nhưng về sau, mấy biên tập viên ở đấy còn nhớ rằng, đâu Vũ có chịu làm, toàn chị em mến tài Vũ yêu thơ Vũ lại chia nhau làm giúp, rồi lại bỏ cuộc sớm)
Bao nhiêu gánh nặng gia đình cố nhiên, lúc này dồn cả lên vai Quỳnh. Không tán thành Vũ lấy Quỳnh, bố mẹ Vũ chỉ giúp đỡ cái gia đình bé bé con con kia một cách dè dặt (vả chăng, bố mẹ Vũ cũng đông con, sự lo toan của các cụ cho các em Vũ lúc này cũng đã đủ là một gánh nặng). Còn chị Đông Mai, người thường cưu mang Quỳnh trong những cơn hoạn nạn lúc này cũng cắn răng mà làm ngơ, rất thương em đấy nhưng bởi em đã không nghe lời mình thì còn thương sao được. Quỳnh đành đơn độc, bươn trải, lúc bực bội “mình làm mình chịu, không cần ai thương hết”, lúc tỉnh táo hơn thì nghĩ “Nước chảy đá mòn, rồi tất cả sẽ thay đổi, mọi người sẽ phải nghĩ lại về mình, mọi người cuối cùng sẽ thấy mình đúng”.
Cuộc sống của Quỳnh trở nên tất bật hơn bao giờ hết. Nhất là lúc này cháu Minh Vũ, (con của Vũ và Tố Uyên), cũng đến ở cùng với Vũ-Quỳnh, rồi Tuấn Anh tuy ở với bố trên gác tư, cũng chạy đi chạy về thường xuyên! Phải lo cho từng ấy miệng ăn đã đủ vất vả, lại còn lo cho chúng đi học đi chơi. Vì vậy, trong mắt những người quen, hình ảnh Quỳnh lúc này, có lúc đi gần tới sự thê thảm. Có khi tối phải đi vay gạo, để mặc cả nhà có bữa trưa. Thường xuyên tiêu trước lương, tiêu tiền tạm ứng của anh em trong cơ quan. Lấy chỗ này đắp vào chỗ kia, xoay xở đủ bề mà vẫn không sao kín nhẽ. ấy là không kể tính Quỳnh vốn hay quên, thỉnh thoảng lại đánh mất mấy cái tem đậu, hoặc đánh rơi tiền. Không biết là mất không sao, lúc phát hiện ra mình đánh mất, Quỳnh thường đau đớn đến phát khóc.
Cuộc sống trơ tráo để tồn tại
Tất cả chúng tôi đều sống như thế
Chẳng  qua chúng tôi chưa hư chỉ vì chưa khổ
Đạo đức vẫn là tất cả
XVII. Lập nghiệp cho chồng
Nhưng đau đớn hơn cả, vẫn là mãi chưa tìm được cho Vũ, chưa đưa được Vũ trở lại với quỹ đạo của sự sáng tác văn học.
Cho đến lúc lấy Quỳnh, Vũ vẫn chịu một cái án không chính thức (song tất cả báo chí đều biết, và thực hiện nghiêm chỉnh) đó là không được xuất hiện. Nhưng lúc vui đùa với một người bạn là Nguyễn Lâm, Vũ có thể làm những bài thơ vô thưởng vô phạt và ký là Vũ Hàng Lâm, Vũ Khao Lâm để gửi đi đăng báo nọ báo kia, người ta không biết nên vẫn cứ đăng. Nhưng nếu nhận ra giọng Vũ, biết đích xác là của Vũ, là người ta thôi ngay. Đến như sáng tác ký tên chính thức Lưu Quang Vũ thì lại càng tuyệt đối bị cấm cửa.
Sẵn nguồn tài nguyên vô tận, là tài thơ của Vũ, mà lại trong cảnh túng bấn. Quỳnh tức lắm. Chẳng lẽ chịu chết khát bên dòng nước? Ban đầu dùng lối xé tên đổi nhãn: Tức là vẫn thơ Vũ đấy, nhưng ký là Xuân Quỳnh rồi cho in báo. Về mặt kinh tế, lối vượt rào này cũng có tác dụng ít nhiều. Song, được một thời gian hý hửng, rồi cả hai vợ chồng cũng chán. Phần thì đã ký tên Quỳnh, ắt phải na ná cái giọng của Quỳnh, (điều đó Vũ làm được nhưng chả thích thú gì!) Nhưng cái chính là phong cách của Vũ, giọng điệu của Vũ, sự nghiệp của Vũ, làm sao mà Quỳnh chịu để mãi tên tuổi người mình yêu quý chìm trong bóng tối. Nhà thơ Nguyễn Phan Hách, hồi ấy cùng công tác ở tổ thơ báo Văn Nghệ với Xuân Quỳnh vẫn nhớ như in: vào khoảng đầu 1975, thì cái chuyện xuất hiện của Vũ và Quỳnh đã trở thành nước sôi lửa bỏng lắm rồi. Tự tay Quỳnh đưa mấy bài thơ Lưu Quang Vũ cho Hách, buộc Hách phải đẩy lên cấp trên để nắn gân các cấp có thẩm quyền ở báo. Dĩ nhiên là không được. Nhưng một lần không được thì hai, hai lần không được thì ba, Quỳnh cứ nhẫn nại để làm. Đúng lúc ấy, đời sống đất nước có những biến chuyển lớn lao. Huế, Đà Nẵng lần lượt được giải phóng. Quê Vũ ở Đà Nẵng, Vũ có thể về Đà Nẵng giải phóng, thì còn gì bằng. Sau bao lần ngập ngừng, lần ấy thư ký toà soạn báo Văn Nghệ năm ấy là Vũ Tú Nam ký cho in một bài thơ của Vũ. Thế là đột phá khẩu đã mở, các báo dùng bài thời sự, sẵn sàng đăng thơ Lưu Quang Vũ bởi đã có một lá bài chắc chắn: chính bào Văn Nghệ của Hội Nhà văn phá rào, chứ nào phải những tờ không chuyên về văn nghệ. Kịp đến khi giải phóng Sài Gòn, Vũ thường xuyên ở Hà Nội gửi thơ vào những tờ báo mới phát hành trong ấy. Phụ trách các báo phần nhiều là những nhà báo từ R. trở về, biết Vũ là một tài năng trẻ mới phát hiện trong những năm chiến tranh, chứ biết đâu cái vòng kim cô trên đầu Vũ. Theo Hách còn nhớ, khoảng giữa năm 1975, báo Sài Gòn giải phóng có tuần ngày nào cũng đăng thơ Vũ. Thơ có thể chưa hay, nhưng cái án cũ, coi như được cởi.
Tiến tới một bước nữa, là chuyện xin cho vũ làm việc ở một cơ quan nhà nước. Bấy giờ Xuân Trình, một biên tập viên văn xuôi cũ của báo Văn Nghệ đã chuyển sang Hội Sân khấu, và đang lo dựng rạp cho tờ Sân khấu, tạp chí hàng tháng của Hội. Biết chỗ Sân Khấu cần người, Xuân Quỳnh tha thiết đến nhờ Xuân Trình, cũng như trước đó gia đình bố mẹ Vũ đã đến nói với nhà thơ Lưu Trọng Lư, để mỗi người một tay một chân giúp Vũ. Cũng may lúc ấy, ấn tượng về sự hư hỏng của Vũ đã phai nhạt, một số đồng chí trên Ban văn hóa văn nghệ hiểu rằng ngựa hay có tật, muốn giúp đỡ Vũ phải có thời gian lâu dài, nên mặc dù biết rất rõ quá khứ của Vũ, cũng đồng ý để Hội Sân khấu chạy mọi thủ tục đưa Lưu Quang Vũ về làm việc ở tạp chí Sân khấu. Ơ trên chúng tôi đã nói lúc Quỳnh được chuyển vào biên chế ở báo văn nghệ là do một dịp may: bắt đầu thời chiến công tác văn nghệ được thêm người. Nay Vũ cũng có cái may tương tự; trước kia cả hà Nội chỉ có một tờ báo chung cho cả giới văn nghệ nghĩa là tuốt tuồn tuột sân khấu điện ảnh hội họa. Nay mỗi hội nghệ thuật đó được phép ra một tờ báo riêng. Dưới hình thức tạp chí ra hàng tháng tờ Sân khấu của Hội nghệ sĩ sân khấu là một trong những tờ ra đời sớm nhất. Sân khấu do một nhà văn đồng thời là nhà viết kịch Xuân Trình làm thư ký tòa soạn Anh là chiến hữu cũ của Xuân Quỳnh ở báo Văn Nghệ.
Người vui sướng nhất trong chuyện này, hình như không phải là Vũ mà chính là Xuân Quỳnh.
Buổi đầu, công việc giúp chồng lập nghiệp của Quỳnh như thế đúng được gọi là thông dòng bén giọt.
Giở lại những số Sân khấu đầu tiên, người ta thấy ở mục danh tính của tạp chí bên cạnh tên tuổi Tổng biên tập và thư ký tòa soạn, có ghi rõ tên tuổi người trình bày báo: Lưu Nguyễn. Lưu đây là Lưu Quang Vũ, còn Nguyễn đây là Nguyễn ánh. Một nhà viết kịch ở Quân chủng phòng không Không quân cũ từng quen biết Vũ và nay về cùng làm việc với Vũ. Bên cạnh việc trình bày, Vũ thường xuyên xuất hiện tren tạp chí ở mục Phê bình. Đi theo các hội diễn, Vũ có bài đánh giá nhận xét từng vở một. Cũng rất xuất sắc là những bài chân dung văn học. Vũ đã viết về những diễn viên kịch quan trọng nhất lúc ấy như Mạnh Linh, Hà Văn Trọng và nhiều người khác (về sau những bài này được tập hợp lại ,cùng với những bài viết của tôi về các diễn viên kịch nói quân đội để làm nên tập sách Diễn viên và sân khấu NXB Văn hóa 1980).
Qua năm 1980, có một sự kiện xảy ra, coi như một bước ngoặt trong đời Vũ. Nhân dịp mới khai trương nhà hát Tuổi trẻ của Bộ Văn hóa, cần một vở kịch về Lý Tự Trọng. Nhưng kịch bản mọi người có trong tay - của một nhà cách mạng lão thành, bạn của Lý Tự Trọng - lại còn quá nhiều chỗ yếu. Vốn quen biết Vũ qua công việc ở tạp chí Sân khấu, đạo diễn Phạm Thị Thành mạnh dạn đặt Vũ làm lại kịch bản, sao cho nhà hát có thể sử dụng được. Điều oái oăm của công việc này là ở chỗ, phải làm được, giữ được ý chính của tác giả, mà lại có một kịch bản tiện dụng và nhất là phải làm thật nhanh kịp với yêu cầu thời gian vốn đã rất gấp. Đến đây, người ta mới thấy Phạm Thị Thành có con mắt tinh đời. Đúng hẹn, Lưu Quang Vũ trao cho nhà hát một kịch bản đúng như đạo diễn mong ước.
Từ đó, là những bước đi dài rộng của Lưu Quang Vũ trên sân khấu mà mọi người đã biết.
Ngay từ khi Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ chịu nạn trên đường 5, trong các bài viết của mình, gia đình Lưu Quang Vũ đã luôn luôn đặt Vũ bên cạnh Quỳnh, Quỳnh bên cạnh Vũ. Bà Khánh, mẹ Vũ hiểu rằng mình đã có một người dâu thảo; người vợ cuối cùng của con trai mình đã là người trông nom gia đình, lo liệu mọi chuyện nhờ thế Vũ mới có thể yên tâm sáng tác. Nhưng trong sự nghiệp sân khấu của Vũ, vai trò của Quỳnh không chỉ hạn chế ở chỗ ấy. Có lẽ trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại, không có người vợ nào đóng vui trò to lớn với người chồng như Quỳnh đối với Vũ.
Tuổi trẻ nồng nhiệt, vốn là tuổi trẻ dễ buông trôi: trước và sau khi gặp Quỳnh, không khỏi có lúc Vũ cảm thấy đời mình không được ai hiểu, và tài năng của mình cứ chôn vùi mãi trong bóng tối. Không ai khác, chính Quỳnh là người thổi ngọn lửa nồng nhiệt trở lại trong lòng Vũ, nhen nhúm ở Vũ cái ao ước có ngày viết nên những tác phẩm khiến cho cả vạn cả triệu người khâm phục. Sau khi giúp Vũ tự phát hiện trở lại trong hoạt động sân khấu, Xuân Quỳnh lui là người đồng hành với Vũ trên mọi chặng đường sáng tạo. Là người gợi ra ý đồ, để  Vũ thực hiện. Là người đối thoại, để trong quá trình sáng tạo, Vũ nghiền ngẫm suy nghĩ tìm ra phương án tối ưu cho tác phẩm của mình. Là người trợ lý, giúp cho Vũ hoàn toàn vẫn vui lặt vặt mà Vũ không có thì giờ làm, hoặc làm dang dở. Những người cùng cơ quan với Xuân Quỳnh những năm 1985-88, hẳn còn nhớ, nhiều bữa, đến cơ quan, cái phân xưởng mà Xuân Quỳnh phụ trách trong guồng máy sáng tạo của Lưu Quang Vũ mới mở tốc lực hoạt động. Khi là kịch bản mới nháp, cần thêm một số đoạn đối thoại. Khi là kịch bản đầy đủ, mới đánh máy, cần soát lại và thêm bớt lần cuối cùng, khi là một bài thơ, cần đưa vào miệng một nhân vật trong kịch. Như bài Hoa cúc xanh in trong Hoa cỏ may
Hoa cúc xanh có hay là không có
Trong đầm lầy tuổi nhỏ của anh xưa
Một dòng sông lặng chảy về xa
Thung lũng vắng sương bay đầy cửa sổ
Hoa cúc xanh có hay là không có
Một ngôi trường bé nhỏ cuối ngàn xa
Mơ ước của người hay mơ ước của hoa
Mà tươi mát mà dịu dàng đến thế...
Hoa cúc xanh có hay là không có
Tháng năm nào ấp ủ tuổi ngây thơ
Có hay không thung lũng của ngày xưa
Anh đã ở và em thường tới đó
Châu chấu xanh chuồn chồn kim thắm đỏ
Những ngả đường phơ phất gió heo may
Cả một vùng vương quốc tuổi thơ ngây
Bao mơ ước mượt mà như lá cỏ
Anh đã nghĩ chắc là hoa đã có
Mọc xanh đầy thung lũng của ta xưa
Khác với văn chương, ra đời trong các căn phòng đóng kín, một mình người viết đối diện với trang giấy, tác giả sân khấu huy động một đám dông nhân lực lại hình thành ngay trước mắt mọi người. Trong quá trình làm, không khỏi có ý kiến tranh cãi để thêm bớt chỗ này, sửa chữa chỗ kia. Tác giả và đạo diễn vừa phải lắng nghe các cộng tác viên, vừa phải bảo vệ cho bằng được ý đồ của  mình. Trong việc này, Vũ thường được tiếng là tinh tế, nhạy cảm, biết tiếp nhận đóng góp của người khác, nhưng do đó cũng hay cả nể, buông xuôi. Ngược lại, chính Xuân Quỳnh lại thường tỏ ra kiên trì hơn với các ý định có từ trước đó. Mặc dù danh chính ngôn thuận không là gì cả, nhưng trong nhiều trường hợp, Quỳnh biết thuyết phục những người cộng tác với Vũ một cách khéo léo. Và cũng đã có trường hợp Quỳnh “sắn váy quay cồng lên” đấu tranh với những cách hiểu sai lầm về các vở kịch của Vũ. Hạnh phúc của Quỳnh, như Quỳnh xác định, chính là trong sự nghiệp của Vũ.
XVIII. Tự hát
Cái tôi của chúng tôi: Phong phú và nhạt nhẽo
Vậy mà cũng có người phản đối
Sự bằng lòng không khỏi có chút thảm hại
Sự nghèo nàn
XIX Bất hạnh
Thói quen quên mình vì người yêu, tất cả cho người yêu, vốn không phải là đặc quyền của riêng ai mà hầu như đặc trưng cho mọi người phụ nữ. Một diễn viên từng đã là người rất đẹp và có những mối tình thơ mộng - khi tuổi đã bắt đầu đứng bóng, đã nói hộ nhiều người phụ nữ khác khi thú nhận:
“Trước đây, tôi đã cho quá nhiều trong các mối quan hệ, chưa bao giờ tôi nhận thức ra được rằng tôi đã phung phí bản thân mình đến mức nào, cho đến khi tôi thấy mình hoàn toàn suy sụp và trống rỗng. Mà phụ nữ - bất kể người đàn ông của họ là tốt hay xấu, vẫn có cái bản năng tự nhiên là chăm sóc người khác. Trước kia tôi thường đắm đuối vào người mình yêu và quên đi cả bản thân mình”.
ở phương Tây còn thế, huống chi là ở phương Đông. Truyền thống văn hóa Việt Nam còn ghi lại bao mối tình ở đó, người phụ nữ hết lòng hơn, tận tụy hơn, chịu hy sinh hơn, do đó, xét cho cùng, là đứng cao hơn đàn ông. Súy Vân chung tình hơn Trần Phương, Thúy Kiêu tâm hồn phong phú hơn, sâu sắc hơn Kim Trọng, và Tố Tâm thì thật đã sống tất cả cho tình yêu, đã mang cái chết để “báo đền ba sinh” trong khi Đạm Thủy yên lành trở về với cuộc đời thường.
Trong quan hệ với những người mình yêu, Xuân Quỳnh cũng đi theo “vết mòn” của những người đi trước nghĩa là cũng yêu một cách chân thành, một cách tự nguyện và hơn nữa, một cách bươn bải, xăm xăm băng lối vườn khuya một mình, như lần đầu biết yêu, và trên thế giới này, tình yêu là chuyện chỉ riêng mình có. Tôi không có may mắn được biết thời con gái của Xuân Quỳnh. Nhưng chỉ bằng vào những quan sát có được khi Quỳnh bước vào những mối tình nghệ sĩ, đã tự thấy, không bao giờ kinh ngạc trước cái hôi hổi của người bạn gái ấy. Quỳnh luôn luôn phải yêu một ai đấy phải có một người đàn ông để mà kính phục và dựa cậy, theo đuổi và chăm sóc. Còn nhớ, khi thấy Xuân Quỳnh.
Sau thất bại này lại vội vã hối hả bắt tay vào một cuộc truy đuổi khác, một người phụ nữ thuộc loại đúng mực, chị Vượng vợ B., vốn rất quý Xuân Quỳnh, cũng phải đặt câu hỏi: “Thế không sống một mình được lấy một năm hay sao?” Còn đây là những lời bỗ bã của Dương Thu Hương “Càng thấy Quỳnh đẹp, Quỳnh có tài, tôi lại càng không thể chịu được thói quỵ lụy đàn ông của nó. Chết thì thôi, chứ việc gì phải chạy lui chạy tới, săn săn đón đón những thằng khốn nạn ấy.” Mặc! Quỳnh sẽ không phải là Xuân Quỳnh.
Nếu không tỏ ra là mình tồn tại. Mà cách tồn tại duy nhất của những người đàn bà, theo Quỳnh là trọng tình yêu.
Khi chính thức trở thành vợ Vũ, lẽ dĩ nhiên, những cơn lũ tình cảm trong lòng Quỳnh, những say sưa, sôi nổi tìm được lý do để bộc lộ đầy đủ nhất. Và trong Quỳnh luôn luôn chỉ còn một băn khoăn là thực ra lòng mình với Vũ còn nồng nàn đắm đuối hơn cái bề ngoài mọi người vẫn thấy.
Nhất là vào những năm từ 1980 trở đi, khi đã phát động được cỗ máy bấy lâu năm ỳ là sức sáng tạo của Vũ thì Quỳnh càng thấy rằng mình có chăm sóc trông nom Vũ bao nhiêu cũng là không đủ.
Một người em dâu của Quỳnh, cô Thịnh kể với tôi về thái độ của Quỳnh trong quan hệ với chồng:
– Em ở tầng hai, ngay dưới buồng Quỳnh, hồi anh Vũ lo làm vở tối tối không bao giờ em quên được những bước chân Quỳnh đi lại bồn chồn trong phòng để chờ Vũ từ nhà hát trở về. Hai chị em đang ngồi mà vừa nghe thấy hình như Vũ đã tới dưới chân cầu thang là Quỳnh đã không thể ghìm được “Em đây, em đây”, rồi chạy vội ra đón chồng.
Còn những hôm anh Vũ không đi đâu, mà ở nhà sửa vở, thì lại thấy Xuân Quỳnh luôn luôn túc trực ngay bên cạnh, xem Vũ cần cái gì thì giúp ngay cái đó. Không viết, nhưng Quỳnh cũng căng thẳng như chính mình đang viết vậy. Vào những ngày ấy, không việc gì Quỳnh cũng thức suốt cùng Vũ. “mình ngủ trước thì cũng được, nhưng khi cậu ấy cần, ai là người pha cà phê cho cậu ấy uống, nấu mì cho cậu ấy ăn” Quỳnh cắt nghĩa.
Dưới mắt Quỳnh, người chồng đầy tài năng của Quỳnh như một đứa trẻ bé bỏng - đôi khi có cả  hư đốn nghịch ngợm nữa - và Quỳnh không thể rời mắt.
Đối với bất cứ ai, thứ tình yêu sát gần và mãi mãi không đủ kiểu này đã là một cái gì nặng nề - người ta có thể khao khát, kính phục, nhưng không thể sống mãi trong đó. Riêng đối với một tài năng lớn, và một người quen tự do như Vũ, nó lại càng trở nên một gánh nặng. Trong một vở kịch, Vũ đã gửi vào miệng một nhân vật cái điều Vũ vẫn thường nghĩ:
– Em đòi hỏi quá cao. Sống với em thật khó. Lúc nào cũng như phải đi ngoài nắng không một bóng dâm, ai mà chịu được.
Vốn biết rõ con người phiêu bạt của Vũ, lại hiểu cái khu vực mà Vũ làm việc là sân khấu, là son phấn, là ánh đèn diễm lệ, một người từng trải như nhà văn Nguyễn Khải có lần đã nói với cô Thịnh em dâu của Quỳnh:
– Về bảo Quỳnh nó lỏng dây cương thôi, thì mới giữ được chồng. Lạt mềm buộc chặt. Chứ cứ lúc nào cũng lồng lên thế, không để cho người khác một kẽ hở, thì lại có ngày mất hết. Già néo đứt dây lại khổ.
Nhưng Quỳnh sẽ không còn là mình nếu chấp nhận những lời khuyên kiểu ấy.
Sống bằng tình yêu, Quỳnh như tan như chết trong tình yêu, chứ có đâu lại cam chịu thất bại!
Với bản tính hiếu thắng sẵn có Quỳnh “giương vây bổ lưới” tìm cách bảo vệ bằng được hạnh phúc. Trong những câu nửa đùa nửa thật Quỳnh nói về đàn ông:
“Tội gì cũng tha, trừ tôi phản bội vợ”.
Và khi biết rằng mình bị ra rìa, bị qua mặt, Quỳnh cũng dằn dỗi như mọi người đàn bà khác, cũng đập vỡ cả những rổ bát đĩa, hoặc băm vằm tấm vải đẹp ra làm trăm ngàn mảnh cho hả giận. Cố kết đến cùng, gạn đến cùng, còn nước còn tát đó là một đức tính vốn có của Quỳnh. Giữ được tình yêu với Quỳnh là một lẽ sống. Trong cuộc đấu tranh tuyệt vọng với số phận. Quỳnh sẵn sàng chấp nhận được ăn cả, ngã về không, chứ không chịu được tình trạng thỏa hiệp nửa vời. Cố làm mọi thứ cho xứng đáng vai một người vợ hiền. Ngoài cái gia đình nhỏ của riêng mình, do vẫn sống bên cạnh đại gia đình của nhà chồng, Quỳnh để tâm lo liệu và làm vừa lòng cả bố chồng, mẹ chồng, các em các cháu, trong nhà. Có dịp cùng với đại gia đình của Vũ đi nghỉ mát thấy Quỳnh thật sự quên mọi nhu cầu của mình để lo cho mọi người, có bạn đã nói đùa Quỳnh là một thứ quản gia trông rất đảm đang nhưng hơi tội nghiệp.
Có một điều lạ, là nếu trước kia, trong quan hệ với Tuấn, chán ra sao, mệt mỏi ra sao, Quỳnh luôn luôn kể với bè bạn thì trong quan hệ với Vũ bọn chúng tôi hoàn toàn không còn là chỗ để Quỳnh tâm sự. Nghĩa là cạy răng Quỳnh cũng không nói. Bất chấp những lời đồn đại, rò rỉ ra ngoài, Quỳnh một mực bảo với bọn tôi rằng không có chuyện gì đáng phàn nàn. Trong bài Đêm cuối năm in trong tập Lời ru trên mặt đất Quỳnh từng reo lên với niệm hạnh phúc:
Thế là ba cái tết
Hai chúng mình có nhau
Dù chưa phải là lâu
Nhưng cũng không
Qua bao ngày lửa đạn
Đất về với mùa xuân
Như em về với anh
Qua những ngày sóng gió
Đến những bài như in trong Tự hát, cảm giác ấy lại được trình bày rõ ràng hơn, mạnh lạc hơn. Những mấy năm đầu, nói thế còn có lý, và còn nghe đựợc. Qua mấy năm từ 1984 1985 trở đi, lẽ nào mọi chuyện suôn sẻ như cũ. Song hình như Quỳnh đã có lời nguyên, là không chia xẻ vui buồn với bất cú ai. Ngược trở lại Quỳnh luôn luôn chứng tỏ rằng mình hạnh phúc, mình được chồng thương yêu thế này, Vũ tuy bận bịu thế mà vẫn chu đáo với Quỳnh thế kia v.v...
Trên đời này, ai mà chẳng sợ già, nhất là những người như Xuân Diệu, Xuân Quỳnh? Tác giả Thơ thơ ngay từ những năm 70, đã làm công việc nhuộm tóc (hồi đó, thuốc nhuộm đâu có sẵn, phải có người quen hay đi nước ngoài mới mua nổi). Còn Xuân Quỳnh, thôi thì cũng phải làm mọi cách để chứng tỏ mình còn trẻ chứ! Thật là một điều oái oăm khi thấy con người tinh tế như thế, nhạy cảm như thế, đã qua tuổi 40, mà còn làm dáng như bọn trẻ 18-20. Nhưng nhìn những cái lố lăng của Quỳnh những người quen chỉ thấy tội nghiệp.
Một người bạn cũ của chúng tôi mới đây kể lại: Khoảng 1987, anh có dự một hội nghị ở đó, Quỳnh là loại được mời lên đọc tham luận đầu tiên. Nói vo Quỳnh vốn đã giỏi, song lần ấy, diễn giải còn viết ra giấy cẩn thận. Song không hiểu sao Quỳnh cứ lấn bấn, đọc không xuôi gì cả. Mãi sau bạn bè mới phát hiện ra: Quỳnh mắt kém rồi, mà lại sợ mang tiếng là già không dám đeo kính, nên mới lúng túng, chính chữ mình cũng không đọc nổi.
Nhưng làm ra trẻ đã khó, làm ra vẻ hạnh phúc lại còn khó hơn một bực. Người trong cuộc càng cố gắng, thì người ngoài càng thấy ái ngại, để rồi đằng sau xì xào, đàm tiếu. Tôi nhớ có lần mọi người đang vui thì Quỳnh như chợt nhớ ra một việc gì đó, xin về. Bùi Bình Thi nói theo:
– Thôi cho mẹ ấy về để mẹ ấy còn đóng vai người đàn bà hạnh phúc.
Tuy nhiên, ấy là nói cho sướng mồm thôi. Chứ đã là bạn đồng nghiệp từng ấy năm ai người không xót xa cho con người đang bị tình yêu hành hạ, mà không sao san xẻ nổi. Và trong những lần gặp lại Quỳnh tiếp theo, chúng tôi lại vui vẻ nghe Quỳnh kể chuyện: Gia đình đầm ấm. Vũ mới mua tặng Quỳnh cái khăn, quý lắm, đâu một cô nhận quà từ Paris gửi về để lại. Những lúc nhìn Vũ “kéo cày trả nợ” các đoàn, lòng Quỳnh thương cảm không để đâu hết. Vẫn phải mua sâm cho cậu ấy mgận đấy, không thì cậu ấy lấy đâu ra sức. Hai vợ chồng đã tính rồi: Vũ làm một hai năm nữa để mua lấy cái nhà. Rồi thì là bỏ, bỏ hẳn. Lòng Vũ vẫn để ở thơ, tài Vũ là tài thơ, chứ đâu phải kịch. Để kiếm mấy đồng nuôi con, thật lắm lúc ứa nước mắt. Quỳnh cứ kể như thế, và chúng tôi lại hùa theo, lại an ủi, nhất là lại ra vẻ ghen tuông thèm khát cái hạnh phúc đang có của Quỳnh. Còn Quỳnh thì ứa nước mắt thật, những giọt nước mắt chân thành thương chồng thương con, mà có lẽ cũng là thương cho mình nữa, một người vốn rất chân thành và không sợ cái gì, mà có lúc phải đóng vai, một người tưởng đang sống rất đầm ấm, mà thực ra rất cô độc. Trong khi dáng dấp, cử chỉ nét mặt của Quỳnh đã nói tất cả, thì Quỳnh lại không thể dùng lời nói nói với ai về tình cành khốn quẫn của chính mình, sự bi đát là ở chỗ ấy.
XX. Hoa cỏ may
Hai chủ đề cùng tồn tại
Bắt đầu những thoáng hư vô
Chúng tôi là thế ,cái gì chúng tôi cũng có
chỉ không cái gì đi đến nơi đến chốn
XXI. Cái chết và sự giải thoát
Số phận  những người đẹp Chị Khánh Vân Bài ca hy vọng
Trường hợp Trường hận ca cái chết tất yếu phải tới
Đoạn kết
Những năm tháng không yên là tên một bài thơ dài của Xuân Quỳnh viết trong khoảng 1972-1973. Đây là thời gian sự nghiệp chống Mỹ có những sự kiện mang tính cách bước ngoặt: chiến dịch Quảng Trị mùa hè và việc Mỹ ném B.52 xuống Hà Nội. Hoàn cảnh  thay đổi. Người ta không chỉ nhìn vào một trận đánh một cuộc hành quân mà muốn nhìn thẳng vào toàn bộ cuộc chiến tranh. Và Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhà thơ như cảm nhận được tất cả tính chất khắc nghiệt của đời sống quanh mình.
Có một bài thơ của Xuân Quỳnh tuy không phải loại thật hay và ít được mọi người để ý, nhưng lại đánh dấu một sự trưởng thành trong ý thức thơ ca của Xuân Quỳnh, đó là bài Có một thời như thế in trong Hoa cỏ may. Nếu phần lớn thơ Quỳnh nói về mình thì ở đây thơ muốn nói về thời đại, về cái môi trường mà ở đó con người tác giả đã lớn lên.
thời đại được phác họa thông qua những yếu tố tinh thần. Đó là thời của những khao khát lớn lao nhưng lại mang nhiều yếu tố ảo tưởng (Có một thời vừa mới bước ra - Mùa xuân đã gọi mời trước cửa) Con người nhìn chung quanh thấy cái gì cũng đẹp và chỉ biết hào hứng tin theo những điều hết sức lãng mạn (Vườn hoa nào cũng ở phía mình đi). Con người  như có gì nông nổi mặc dù đó là một.
Để có một cái nhìn khái quát về một cuộc  đời như đời Xuân Quỳnh, tôi nghĩ không có cách nào khác là trở lại chùm thơ phác họa thời đại của tác giả. Thời nào thì hoàn cảnh cũng in sâu bóng dáng của nó vào mỗi con người cụ thể. Với lớp người như chúng tôi (sinh khoảng những năm bốn mươi và lớn lên trong những năm chiến tranh), hoàn cảnh càng là một sức ép ghê gớm
Thuở bé tôi sống ở một cái làng
Xuân Quỳnh từng kể như vậy trong một bài tham luận và người ta có thể ghi nhận điều đó ngay qua những chi tiết được đưa vào các bài thơ. Từ hình ảnh bà mẹ về chợ Đầu đội nón tay vung, tay kia thì cắp rổ đến hình ảnh giữa đường cày con sáo đứng bâng khuâng; từ nỗi nhớ của người con gái Biết gửi ai cho mẹ bát canh cần đến những thoáng nghiêng tai lắng nghe gió xạc xào qua những ngọn chè tươi; từ trò chơi bắt chú gà sa nước gạo chôn gốc cây khế.
Nhưng có lẽ chất nông thôn của nhà thơ này được bộc lộ rõ nhất trong cách xúc động cách biểu hiện tình cảm của tác giả mà toàn bộ các tập thơ đã nói lên đầy đủ. Ở Xuân Quỳnh mọi phẩm chất của người phụ nữ từ bao đời nay đã làm nên sự hấp dẫn của cuộc sống sau lũy tre xanh: quan sát cuộc sống của chị người ta nhớ tới cái thông minh của những người con gái vừa làm lụng trên đồng vừa đùa bỡn với khách qua đường mà Khái Hưng đã phác họa trong Hồn bướm mơ tiên; cái thắm thiết tình nghĩa của những nhân vật nữ trong các truyện nôm Phạm Công Cúc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa; cái sự mau mắn xúc động của nhân vật Hoa Tiên khi nhủ hoàn đóng cửa đẩy trăng trả trời; có cái khao khát nồng nàn và cả cái đắng đót của Thị Màu Em gọi thày tiểu chẳng thưa em buồn; có cái đau xót của Súy Vân: Tôi chắp tay tôi lạy bạn đừng cười - Lòng tôi không giăng gió nhưng gặp người gió giăng; có cái sự liều lĩnh an ủi chồng  không ai ăn thịt mình được và cả cái phút quật khởi đánh nhau với cả người nhà lý trưởng của  người đàn bà đôn hậu là chị Dậu mà Ngô Tất Tố đã tả trong Tắt đèn… Người bạn chung của chúng tôi là  Nguyễn Quân đã rất tỉ mỉ khi ngồi đếm thử những những mô típ cổ điển trong thơ Quỳnh ở tập Hoa cỏ may bao gồm cây, rừng, gió, trăng, mưa, nước, sấm, bài hát, bài ca, vòm lá, trời biếc, con đò, cọ, lửa, quả, vườn, núi, đường, hồ, lau, hoa ngâu, vải thiều, tường vi, phượng sen, hồng cúc v.v..., tất cả xuất hiện trong 37 trang của tập thơ  tới 378 lần, tức 10 lần trong một trang, gần 20 lần trong một bài. Điều này chẳng những nói lên thơ Xuân Quỳnh thuộc mạch thơ cổ điển mà trước tiên còn nói lên rằng con người này cũng thuộc về cái lớp người cũ làm nên cái diện mạo cố hữu của cộng đồng. Thế kỷ XX đưa họ ra khỏi nông thôn, và với cuộc chiến tranh giải phóng nhiều người trong họ đã có những cuộc phiêu lưu trên khắp mọi miền đất nước. Song những biến động của thời thế không thể nào làm thay đổi nếp sống nếp nghĩ vốn có. Mỗi cá nhân tuy đã có dược nhìn rộng rãi và cái năng động hơn so với thời các cụ răng đen búi tó ngày xưa, song hình như cốt cách con người cách sống cách xúc động của họ thực ra vẫn có tính cách nông dân. Thậm chí ngay ở những thanh niên thì cũng yêu cầu phương diện tự do cá nhân thực ra vẫn có tính cách cổ điển.
Tôi thử nêu ra một so sánh:
Vệ Tuệ là một  hiện tượng từng gây xôn xao trong văn học Trung quốc  những năm chín mươi thế kỷ hai mươi. Cây bút này bộc lộ rất rõ cách sống cách nghĩ của lớp thanh niên ở nhiều nước hiện nay, khi xã hội mà  họ đang quay cuồng trong những khát vọng làm giàu. Trước sức công phá mãnh liệt của các yêu cầu kinh tế , nhiều điều cấm kỵ từng thống trị hàng ngàn đời nay bị dỡ bỏ. Tuổi trẻ hiện nay không có những băn khoăn rắc rối về lý tưởng, cũng không quá lo lắng tới việc kiếm sống. Họ như được thả vào một khoảng không tự do quá rộng. Các tiện nghi quá đầy đủ. Các phương tiện thông tin hiện đại lúc nào cũng sẵn sàng chiều đãi con người. Những dục vọng mang tính cách bản năng không bị kìm nén. Mỗi người trong họ chỉ còn một ám ảnh duy nhất là khám phá bản thân. Và sự thực là với họ con người hiện đại bắt đầu một cuộc cách mạng lớn lao trong lối sống lối nghĩ. Trong một cuốn sách như Cục cưng Thượng Hải, Vệ Tuệ lớn tiếng tuyên bố:
Về mặt con người so với những nhân vật phụ nữ điển hình trong lịch sử từ tiểu thư Lâm Đại Ngọc tới những chiến sĩ du kích Lưu Hồ Lan về sau, thấy lớp phụ nữ mới nay đã khác hẳn. Và so với những nhà văn trước thì tâm thế loại nhà văn nay cũng khác
Hiện tượng Vệ Tuệ nói trên không chỉ có ở Trung quốc mà còn thấy ở những nền văn học  khác kể cả văn học Nga lẫn văn học Việt Nam. Tiểu thuyết Cơ hội của chúa của Nguyễn Việt Hà hoặc những tập thơ như Khát của Vi Thùy Linh cho thấy lớp thanh niên Việt Nam cuối thế kỷ XX cũng đã có nhiều chỗ khác.
Dưới ánh sáng của những thay đổi trong hoàn cảnh, hãy thử nhìn lại lớp thanh niên lớn lên trong những năm chống Mỹ. Phải thành thực nhận là cuộc đời.
Những đặc điểm này cũng bộc lộ đầy đủ trong cuộc đời các nhà văn như Đỗ Chu, Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Hoàng Hưng, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Phan Thị Thanh Nhàn
Hoài Anh
Nhiều người viết có thói quen tin và cố viết để bạn đọc cùng tin với mình rằng nhân vật mà mình đưa vào sách phải là nhân vật phi thường. Bản thân tôi trong cuốn sách này muốn đề nghị một cách nghĩ khác, thế hệ tôi, các nhà văn mà tôi quen ít ai thuộc loại tầm cỡ ghê gớm (như người đời vẫn nghĩ về họ và chính họ đôi khi cũng muốn nghĩ như vậy), song ở những người bình thường này cũng có bao nhiêu chuyện đáng nói, mà Xuân Quỳnh ở đây là một ví dụ.
Đời Xuân Quỳnh có điều gì đáng nhớ? Tôi không muốn nói nhiều về mặt lập nghiệp dù biết rằng đó là một cuộc đời thành đạt. Cũng khó lòng nói rằng đó là một cuộc đời hạnh phúc hay bất hạnh vì thực ra cũng như những người cùng lứa tuổi khác, những gian nan mà các nhà văn nhà thơ hồi chống Mỹ gặp phải là trên phương diện công dân và Xuân Quỳnh cũng vậy. Đối với một phụ nữ làm thơ thì những chuyến đi của Quỳnh những năm ấy cũng đã là gian khổ lắm. Nó cũng chẳng khác là bao so với  Phạm Tiến Duật, Lê Lựu có mặt ở các chiến trường Nhưng cũng như các đồng nghiệp ấy, Quỳnh không có những gian nan trên con đường tìm tòi nghệ thuật. Nghĩa là chỉ đi theo những con đường đã được vạch ra sẵn".

Chú thích:

* Theo X.Q. kể với tác giả, thì đó là phố Tô Hiến Thành.
* Thúy Quỳnh, sau này là Nghệ sĩ nhân dân.
* Xem thêm bài viết về X.Q. Cuộc đời để lại trong thơ trong tập Cây bút, đời người của VTN.
* Thơ Xuân Quỳnh, NXB Tác phẩm mới, 1989, tr.73.
* Ghi theo tạp chí Văn Sài Gòn, 1972, số đặc biệt về Dostoievski.
* Xem thêm Bày ong trong đêm sâu.
 29/11/2009
Vương Trí Nhàn
Theo https://dangbi.wordpress.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...