Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2021

Sử thi Odyssée 1

Sử thi Odyssée 1 

Sử thi Odyssée - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
Dẫn nhập
Homère là là thủy tổ của nền văn học Tây Phương. Iliade và Odyssée lả hai kiệt tác của nền văn học nhân loại, ra đời cách chúng ta gần ba ngàn năm, nó vẫn làm say mê mọi người trong suốt gần 30 thế kỷ. Ba nghìn năm qua các Thần thánh, vua chúa, anh hùng, giai nhân, thành quách, lâu đài đều sụp đổ, tan biến chỉ còn thơ Homère viên ngọc quý giá, bất tử với thời gian.
Theo Sử gia Hy Lạp Hérodote, thế kỷ thứ V trước Tây Lịch, Homère sống trước ông 400 năm, nghĩa là Homère sống vào thế kỷ thứ IX trước Tây lịch. Ông sinh tại Milet một bến cảng miền Tiểu Á nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Theo truyền thuyết ông mù mắt, ông kế lại cho môn đệ ghi chép hai trường ca vĩ đại. Tiếng địa phương vùng Eolien, Homère chỉ có nghĩa là ông già mù. Thời Cổ Đại, người ta thường gán một nguồn gốc thiêng liêng cho những thiên tài, anh hùng, giai nhân sinh ra ngoài hôn nhân. Mẹ có lẽ một cô gái trót yêu một chàng du tử thi sĩ, nàng say mê tiếng hát cung đàn nên trao thân một đêm, sau đó chàng ra đi, cuộc đời du tử thi sĩ nay đây mai đó kể chuyện, ngâm thơ đệm đàn lyre nuôi thân. Homère sinh ra không có cha bên bờ sông Mèles được đặt tên là Mélésigénès. Thời cổ đại có đến 12 tiểu sử khác nhau, mười hai địa danh giành nơi Homère sinh ra dọc theo bờ biển Tiểu Á, Anatolienne và các đảo lân cận: Kymè, Smyrne, Colophon và Chios có tiểu sử còn cho ông sinh ra ở Athènes, Ai Cập hay Rome. Điều này chứng tỏ ông đi khá nhiều và được nhiều nơi biết ̣đến. Thời đại ông sinh ra có tiểu sử cho rằng ông dự kiến cuộc chiến thành Troie, có tiểu sử lại cho ông sống thời đại vua Lydie Gygès năm thế kỷ sau.
Mẹ Homère được một thầy dạy học kiêm du tử tên là Phémios gá nghĩa, Homère được ông nuôi nấng, dạy học, dạy đàn, hát, kể chuyện. Các tiểu sử cho mẹ ông nhiều tên khác nhau: Critheis, Hyrnèthès hay Hynéthès. Cha ông tên: Maion, Créton hay Alèmon. Trong Odyssée, Homère đã cho người du tử ở Ithaque tên Phémios của mình. Theo truyền thuyết Homère đi hát dạo nay đây mai đó, từ vùng Tiểu Á đến Rome, Etrurie và Espagne, địa bàn sinh sống các thuộc địa, các thương cảng dân Hy Lạp ngày xưa.
Sử thi nằm trong truyền thống Hy Lạp ngày xưa khi một nhân vật quan trọng chết, gia đình mời một du tử lại kể chuyện đời người quá cố, người thi sĩ du tử có tài năng kể lại câu chuyện thành thơ, theo vần điệu ngâm ngay suốt ba ngày ba đêm tang lễ. Thế kỷ rồi nhiều giáo sư đại học đi nghiên cứu thực địa vùng Yougoslavie còn tìm thấy những thi sĩ du tử ngâm nga những truyện thơ dài hàng chục ngàn câu. Có thuyết cho rằng hai sử thi được khai sinh bằng truyền khẩu đến thế kỷ thứ 5 trước TL mới được viết lại, các văn bản xưa nhất chúng ta có hiện nay có gốc từ thời đại vua Hadien thế kỷ thứ I, thời đại này thư viện nhà vua được sao chép có hệ thống và tàng trử tại Athènes bằng giấy da.
Có tiểu sử Cổ Đại còn ghi chép ông thi làm thơ với Hésiode, một du tử danh tiếng khác nhân đám tang ông hoàng Chalsis Amphidamas và con trai Amphidamas trao giải cho Hésiode vì thích hát ca tụng hòa bình hơn chiến tranh. Mélisigénès trở thành Homère, ông già mù, người thi sĩ thiên tài phải mù như tiên tri Tirésis trong Iliade, hay Démodocos người du ca Phéaciens trong Odyssée, điều đó giải thích trong khái niệm mọi người: người thi sĩ du ca mù thấy được những điều kỳ diệu mà người có mắt không cảm xúc trong âm thanh, trong thi ca. Tuy nhiên không phải tiểu sử nào cũng cho Homère mù mắt, thời đại La Mã về sau thường vẽ ông cầm đọc các cuộn giấy bằng thủy trúc (papyrus) chép thơ Odyssé và Iliade. Homère mất tại đảo Ios trong quần đảo Cyclades. Sau và trước Homère còn có nhiều truyện thơ khác ngày nay chỉ còn được biết tên qua các sử gia, triết gia thời Cổ Đại nhưng không còn tác phẩm. Thư viện Alexandrie Ai Cập trước khi bị tiêu hủy chứa 700 000 văn bản chép tay, có rất nhiều truyện thơ đã cháy trong binh lửa. Trong Odyssée, Homère tả người du tử Phémios hát lên nỗi lòng mong nhớ người đi đánh trận thành Troie chưa về. Démodocos còn được Ulysse trường thuật các trận đánh thành Troie và ông hát lại thành thơ.
Từ thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, hai tác phẩm Homère đóng vai trò trung tâm trong nền giáo dục. Các trẻ con nhà quyền quý thường có ba vị thầy: một vị dạy văn phạm và thơ Homère, một vị dạy âm nhạc và đàn lyre và một vị dạy thể dục, thể thao. Nicératos con trai nhà chiến lược thành Athènes tên Nicias đã tự cho mình thuộc hết hai truyện thơ và sẵn sàng đọc cho mọi người nghe bất cứ đoạn nào.(Xénophanes, Banquet IV, 6,7.) Vai trò trung tâm hai truyện thơ Homère trong nền văn hoá Cổ Đại Hy Lạp đã dấy lên một vài chỉ trích. Triết gia Xénophane de Colophon diễu cợt các Thần trong thơ Homère. Triết gia Platon cho rầng Homère vô đạo đức và bất kính với các thần, tiếc rằng các ảo ảnh làm mê hoặc, ràng buộc các thi sĩ làm cho mọi người thán phục họ, xa lìa việc tìm kiếm chân lý. Trong sách Nền Cộng Hòa, Platon đề nghị: choàng vòng hoa cho các thi sĩ và đuổi họ ra khỏi thành phố. Tuy nhiên các triết gia khác thuộc trường phái Pythagoriciens, Stoiciens, Néoplatoniciens lại có thái độ khác, họ phát triển các giải thích để tìm kiếm các ẩn dụ hiền triết của thi hào Homère, hay tìm kiếm thành lập một trường phái triết học dựa trên thơ Homère. Homère được triết gia Zoide d’Amphipolis ca tụng và Aristote lại phản bác lời này. Thi hào La tinh, Horace cho rằng Homère ngủ gục một đôi khi trong truyện thơ. Các triết gia lớn thành Alexandrie thế kỷ thứ III, II trước TL ca tụng người du tử viết Iliade và Odyssée là một thi sĩ ngoại hạng, có cái khôn ngoan và đạo đức đáng kính như thần thánh. Mặc dù bị hai triết gia lớn Platon, Aristote chỉ trích, thơ Homère vẫn được mọi người yêu mến và truyền tụng.
Có thuyết nói ông sống vào thế kỷ thứ VIII hay thứ VI trước Công nguyên, Homère tái tạo những đoạn thơ truyền khẩu có trước ông kể lại chuyện Iliade: Chiến tranh thành Troie và Odysséc chuyện Ulysse, người anh hùng mưu trí đánh thành Troie trở về trải qua nhiều cuộc phiêu du kỳ dị. Khi Ulysse ra đi đến chiến trường thành Troie, mười năm chiến trận thành Troie lại thêm mười nâm lưu lạc phiêu lưu, bảy năm bị nàng tiên nữ Calypso bắt làm người tình tù. Khi đi Télémaque còn bồng bế, Pénélope trung kiên chờ chồng, có trăm người đến cầu hôn, cho rằng Ulysse đã chết khuyên nàng lấy chồng, Pénélope hứa hẹn nàng phải dệt xong tấm khăn liệm cho cha chồng, nhưng ban ngày nàng dệt ban đêm lại tháo ra tấm khăn chẳng bao giờ xong, bọn cầu hôn làm áp lực hơn trăm người đến ăn ở nơi cung đình, bắt gia nhân cung phụng bò heo rượu thịt hằng ngày. Télémaque lớn lên đi tìm cha, đi gặp vua Ménelas, vua Nestor hỏi thăm tin tức cha, trở về bị bọn cầu hôn phục kích nhưng nhờ thần nữ Athéné nên thoát hiểm nguy. Về đến trại người nô bộc nuôi heo Eumé thì Ulysse cũng về tới. Ulysse cải trang thành người ăn mày cùng nô bộc cai quản trại heo về thành, đến giữa buổi tiệc xin ăn, Pénélope mở cuộc thi bắn tên. Người ăn mày cũng xin thi và bắn bọn cầu hôn, cuộc chiến giữa bọn cầu hôn và Ulysse cùng con và người thân tín. Ulysse tiêu diệt đám người cầu hôn. Ulysse cho mời Pénélope xuống nhưng nàng không nhìn chồng, người vú già rửa chân nhìn ra vết sẹo nơi chân chủ. Ulysse tắm rửa sạch sẽ nàng cũng không nhìn, nàng thử thách cho đến khi Ulysse biết chuyện chiếc giường chàng đóng bằng bằng thân cây ô liu gốc rễ còn sống không thể xê dịch đâu được, nàng mới nức nở oà lên khóc nhận ra chồng... Hai người sum vầy hạnh phúc. Thân nhân bọn cầu hôn tìm đến trả thù, bị chiến bại, thần nữ Athéné giảng hòa, vương quốc Ithaque trở lại yên lành.
Thơ Odyssée và Iliade ngày xưa, được các du tử (aèdes), người thi sĩ kể chuyện chuyên nghiệp, đi từ vùng này sang vùng khác ngâm thơ, đệm đàn lyre, họ kể mỗi chương vài trăm câu, mùa biển động họ kể liên tục Iliade trong bốn ngày bốn đêm và Odyssé trong ba ngày ba đêm. Thơ Homère trở thành niềm vui chung say mê mọi người. Họ ngồi bắt chí cho nhau nghe đọc thơ. Nhân dân Hy Lạp ngày xưa nhiều người thuộc vanh vách từng câu, từng chương như dân nước ta thuộc truyện Kiều. Thời Cổ Đại Hy Lạp, thơ Homère trở thành trung tâm của nền giáo dục, những nhân vật Ulysse, Pénelope, Télémaque trở thành người mẫu lý tưởng xã hội. Thời hoàng kim La Mã thơ Homère vẫn tiệ́p tục truyền bá rộng rãi. Vua Hadrien thế kỷ thứ I, đã cho sao chép và chia mỗi Sử thi thành 24 chương. Thời Trung Cổ, từ thế kỷ thứ IV Thiên Chúa Giáo từ Trung Đông truyền qua Tây Phương, sau một thời gian dài bị La Mã cấm đoán đã chinh phục được các vị vua Tây Phương, quyển Thánh Kinh trở thành quyển sách duy nhất được phổ biến, các sách vở thời Hy Lạp bị cất dấu nhưng thơ Homère và sách vở Hy Lạp vẫn tiếp tục truyền tụng tại các nước Á Rập. Trong hơn 1600 bản sách cổ viết trên giấy da tìm thấy tại Ai Cập ngày nay phân nửa là sách thơ Homère. Các đế quốc Á Rập hùng mạnh chiếm các thánh địa Thiên Chúa Giáo, Hy Lạp trong bốn thế kỷ, Tây Ban Nha trong 8 thế kỷ. Ý thức sự yếu kém thời Trung Cổ, Tây Phương đã tìm lại sao chép phổ biến sách vở Hy Lạp tạo nên thời Phục Hưng, khôi phục lại thời Cổ Đại huy hoàng. Các Trường Đại Học lập ra để giảng dạy Thần Học lần lượt tách rời ra khỏi Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, trở thành các Đại Học đa dạng với đủ các ngành nghề từ Toán Học, Y Học, Sử Học, Luật Học, Vân Học, Vật lý, Hóa Học... ngành nào cũng có một ông tổ người Hy Lạp. Tây phương sử dụng lại các con số Á Rập thay cho số La Mã có nguồn gốc từ Ấn Độ và nghề làm giấy do Á Rập bắt cóc được một người Trung Quốc học nghề. Từ Phục Hưng Tây Phương đã tạo nên một thời đại Ánh Sáng với muôn vàn phát minh sáng chế, đến đến việc phát minh máy hơi nước và cuộc cách mạng kỹ nghệ. Tây phương trở nên hùng mạnh, đẩy lùi đạo Hồi ra khỏi Tây Ban Nha, Hy Lạp, các cuộc thám hiểm đi khắp các châu lục địa, tìm ra Châu Mỹ, chiếm thuộc địa và khai thác các nguồn tài nguyên các nơi. Nền văn minh Tây phương trở thành mẫu mực sự tiến bộ, dân chủ, giàu có và thịnh vượng. Đồng thời với việc sáng chế máy in, thơ Homère được dịch ra hầu hết các thứ tiếng. Nhật Bản đã dịch thơ Homère từ năm 1943.
Thế kỷ thứ XIX, xuất hiện ngành Khảo Cổ Học, năm 1871-1890, một doanh nhân người Đức tên H. Schlieman say mê thơ Homère, đã tìm kiếm và khai quật các di tích, ông đã khám phá ra thành Troie tại khu vực Hissarrlik ở Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng địa phương gọi là Cổ Thành. Năm 1932-1938 các nhà khảo cổ Hoa Kỳ tìm thấy trong các lớp thành, có một lớp bị hỏa hoạn lớn khoảng nửa thế kỷ thứ XIII trước TL là năm bị đốt phá bởi mưu ngựa gỗ của Ulysse. Kho tàng thành Troie cũng được Schiemen khám phá với nhiều hiện vật nữ trang, ngọc ngà, gươm kiếm, cung tên, giáp sắt và vật dụng nhà cửa cực kỳ phong phú. Các hiện vật được chưng bày tại viện bảo tàng Berlin cho đến năm 1945 thì bị mất tích. Năm 1996 lại tìm thấy tại nước Nga. Tại Hy Lạp, Schieman còn khai quật năm 1876 cổ thành Mycènes các ngôi mộ cổ hoàng gia chứa một kho tàng nữ trang, vật dụng vàng bạc quý giá. Mycènes là đô thành của vua Agamemnon, Mycènes giàu vàng như Homère đã kể.
Tôi đã đi thăm các viện bảo tàng Hy Lạp từ Athènes, Mycène, Crète... nhìn thấy tận mắt các vật dụng, nữ trang như Homère mô tả. Tại đảo Crète sau khi độc lập thoát khỏ ách thống trị Thổ Nhĩ Kỳ, tại Cnossos nhà khảo cổ Anh, Arthur Evans đã tìm ra nền văn minh Minoenne, tên vua Minos, một nền văn minh trước cả Mycéenne đã có chữ viết và tìm ra khá nhiều văn bản thẻ đất nung gọi là Linéaire A, hiện nay vẫn chưa ai khám phá ra cách đọc. Tại Pylos lâu đài vua Nestor, tìm được một căn phòng hàng ngàn miếng sành chữ nhật gọi là Linéaire B. Năm 1952 Michel Ventris người Anh nhờ các phương pháp hiện đại đã đọc được các mãnh sành này và tìm thấy các vật dụng trong Odyssée miêu tả.
Các nhà văn Âu Châu học làm thơ viết văn với thơ Homère và chịu nhiều ảnh hưởng sâu đậm thơ văn thời Cổ Đại Hy Lạp. Thơ Homère nằm trong chương trình văn học bậc phổ thông và đại học các nước Âu Châu. Từ năm 1970 khi đi du học sang Âu Châu, Pháp, tiếp xúc với bạn bè và nền văn minh Tây Phương, tôi thấy mình có một lổ hổng kiến thức rất lớn, điều đó đã thúc đẩy tôi tìm đọc thơ Homère, tôi đã say mê và dịch ra thơ lục bát gần ba chục ngàn câu thơ của thi hào Homère với mơ ước người Việt Nam từ trong nước đến bốn phương trời ở hải ngoại có thể đọc và hiểu được một kiệt tác của nền văn học Hy Lạp bằng ngôn ngữ thi ca nước mình. Tôi đã in và xuất bản tại Paris năm 2005 và 2011. Việc in sách trên giấy ngày nay có nhiều trở ngại trong việc phổ biến, nên tôi chia Sử thi Odyssée gồm 12.110 câu thơ lục bát làm làm 25 bài, phần dẫn nhập và 24 Thi ca khúc để tiện phổ biến trên internet, người yêu thơ có thể tự do trích đăng trên site, hay facebook của mình để truyền đạt tấm lòng yêu thi ca.
Odyssée hay Ulysse là tên chuyển ra tiếng La Tinh, trong đoạn vú già rửa chân cho Ulysse có nói đến Odysseus tên Hy Lạp do ông ngoại là Autolycos đặt cho có nghĩa là người thách đố với thế gian, để kỷ niệm chiến công đánh thắng bọn cướp biển.
Sử thi Odyssée từ thế kỷ thứ I triều Hadrien chia ra làm gồm có ba phần:
1. Cuộc du hành đi tìm tin tức cha của Télémaque
2. Ulysse kể chuyện phiêu lưu cho vua Alcinoos.
3. Ulysse trở về Ithaque gặp con và trả thù bọn cầu hôn và tái hợp cùng Pénélope.
Cách chia này Horace cho rằng buồn ngủ, vì chuyện Ulysse mà đến chương thứ 5 mới thấy Ulysse xuất hiện, Thiên Đình họp hai lần giống nhau. Trong thơ Homère có nói truyện thơ ông có thể bắt đầu bất cứ chương nào mình muốn. Do đó tôi thay đổi đem phần 2 kể chuyện Ulysse phiêu lưu lên làm phần đầu, cuộc họp Thiên Đình rút lại chỉ còn một lần ra mệnh lệnh Hermès xuống trần gặp Calypso truyền lệnh thả Ulysse, và Athéné xuống Ithaque gặp Télémaque giúp đi tìm cha. Thi ca khúc thứ nhất tôi tái tạo cho phù hợp mạch lạc câu chuyện. Tôi thay câu: chuyện Odyssée có thể bắt đầu bất cứ thi ca khúc nào bằng câu chuyện bắt đầu bằng thi ca khúc Ulysse được tiên nữ Calypso cứu trên biển và giam giữ thành người tình tù.
Hai quyển Odyssée và Iliade là quà tặng Duy Nga cho tôi ngày quen biết nhau năm 1976, tôi đã có ý diễn ca thành thơ lục bát nhưng vì bận rộn chuyện "cơm áo không đùa với khách thơ" nên đành xếp lại. Dịch các Sử Thi lớn trong kho tàng văn học nhân loại là một công việc liên tục trì chí hàng chục năm trời, trăm người khởi đầu dịch chỉ có hai ba người đi đến đích. Mùa xuân năm 2001 kỷ niệm 25 năm ngày cưới nhau, tôi đưa Duy Nga đi Malte hành hương theo dắu chân Ulysse. Thăm đảo Gozo có hang động Calypso, cửa đá Azur, bãi biển Rambla cát đỏ, tương truyền nơi Ulysse chiều chiều ra đó ngóng về quê hương... Trước khung cảnh trời đất mơ màng đó tôi đã cảm xúc và tái tạo và hoàn tất hai thiên trường ca bất từ của Homère bằng thơ lục bát, năm 2003 tôi lại đưa gia đình đi thăm Athènes và các đảo Hy Lạp. Thăm đảo núi lửa Santorin nơi Homère nhân cách hóa thành những người khổng lồ cuồng nộ ném tung những tảng đá làm đắm thuyền đoàn quân của Ulysse. Và từ đó 5 lần tôi đã đi thăm Hy Lạp, dịch một tác phẩm văn chương, việc thăm viếng quê hương không gian người viết là điều cần thiết, nhiều nhà văn dịch trước khi đi thăm, về sau khi đi thăm không gian người viết thường dịch lại, vì thấy mình như chuyện ngụ ngôn con cá tả cảnh đất liền theo lời kể một con rùa.
Dịch Sử thi Odyssée tôi dựa chính vào bản song ngữ Hy Lạp̣ - Pháp, bản dịch của V Bérard Collection đes Universités de France. Paris Les Belles Lettres 1999. và bản dịch M Dufour et J Raison. Eds Garnier Frères 1961 cùng tham khảo 5 bản dịch khác và các sách của bà Jaqueline de Romilly Hàn Lâm Viện Sĩ Pháp chuyên gia về Hy Lạp Cổ Đại.
Từ những năm 1981, nhà thơ Huy Cận thường sang Paris mỗi năm ba bốn lần, dự Thượng Hội Đồng Pháp Ngữ ông được Tổng Thống Pháp François Mittérand mời làm Đại Diện Pháp Ngữ vùng Đông Nam Á, và ông cũng có chân trong Hội Đồng Tổ Chức Unesco, Liên Hiệp Quốc. Tại Pháp, ông xem tôi và anh Đặng Tiến như bạn thơ tri âm tri kỷ, ông có dịp tâm sự hỏi ý kiến mọi chuyện từ chuyện đất nước đến chuyện gia đình, tôi có dịp đưa ông đi chơi nhiều nơi, mỗi khi xong công việc, ông điện thoại cho tôi để cùng đi thăm một nhà văn Pháp, đi tìm sách, đi mua quà cho gia đình, và nhiều khi đi rong chơi trong thành phố Paris, thăm các viện bảo tàng. Tháng 10 năm 1981, ông đưa ông Xuân Diệu sang Paris, ông giao ông Xuân Diệu cho tôi đưa đi chơi và nói chuyện thơ các nơi. Ông Xuân Diệu đã ký thác toàn bộ di cảo hơn 400 bài thơ chưa in, tâm sự cho tôi để soạn Tự Điển Tình Yêu bằng thơ tình Xuân Diệu. Ông Huy Cận còn viết tựa cho tập thơ tình của tôi, trong đời ông chỉ viết tựa cho hai người là Xuân Diệu và Nhất Uyên. Ông thường đến nhà tôi và ông có dịp đọc bản thảo một số thi ca khúc truyện thơ Odyssée của tôi và ông viết tặng tôi bài thơ kỷ niệm đêm tâm sự về thơ Homère.
ĐÊM THƠ
Đêm ngủ xa nhà có bạn thơ,
Có giàn sách đẹp mới chen xưa.
Đi đâu cũng gặp hồn nhân loại,
Còn có lòng tin có đợi chờ.
Ta muốn bên đèn đọc mãi thôi,
Đọc ngâm thơ bạn ngắm thơ đời.
Trang thơ bát ngát hồn thêm sáng,
Ai thức ngàn năm tứ vẫn tươi.
Còn được bao năm sống cõi này,
Lòng ta ta hỡi mãi mê say,
Sao hôm vừa lặn sao mai mọc,
Kim cổ tờ thơm thức giữa tay.
THI CA KHÚC 1:
TÌ̀NH YÊU TIÊN NỮ CALYPSO VÀ NỖI LÒNG ULYSSE
TÓM LƯỢC:
Khẩn cầu Thần nữ Ly Tao (Muses) truyền thi hứng. Chuyện kể từ lúc Uy Lĩnh (Ulysse) bị đấm thuyền trôi dạt vào đảo tiên nữ Kiều Ly Cơ (Calypso) nàng đang sống cô đơn ước mơ được một tấm chồng, Kiều Ly Cơ yêu Uy Lĩnh chìu chuộng người tình tù trong bảy năm, hứa cho chàng tuổi thanh xuân bất tử, nhưng Uy Lĩnh chiều chiều ra bờ biển ngồi khóc nhớ vợ con. Ngày chàng ra chiến trận thành Troie con chàng còn bồng bế. Người vợ Pénélope vẫn chung thủy chờ chồng, có trăm người đến cầu hôn, bảo rằng Uy Lĩnh đã chết, khuyên nàng chọn lựa một người trong đám cầu hôn làm chồng, nàng ra điều kiện nàng phải dệt cho xong tấm khăn vải liệm cho cha chồng, nhưng ban ngày nàng dệt, ban đêm lại tháo ra tấm khăn dệt hoài chẳng xong, bọn cầu hôn làm áp lực đến ăn ở nơi cung đình nàng. Trong cuộc họp chốn Thiên đình Olympe, Thần nữ Quán Trí Tuệ (Athéné) Khẩn cầu Thần Vương Zeus xin cho Uy Lĩnh(Ulysse) bị Tiên nữ Kiều Ly Cơ (Calypso) giữ làm người tình tù được trở về. Thần Vương truyền lệnh cho Sứ thần Hạc Mai (Hermès) mang lệnh Thiên Đình truyền Tiên nữ Kiều Ly Cơ phải thả Uy Lĩnh. Kiều Ly Cơ vâng lệnh bảo Uy Lĩnh đốn gỗ đóng bè, nàng giúp đỡ cánh buồm, lương thực và thổi gió tiễn chàng đi. Bốn ngày Uy Lĩnh đóng bè xong, ngày thứ năm ra đi, ngày 18 đến đảo người Phan Xuyên (Phéaciens), Thần Hải Long Vương (Posséidon) trở về thấy dâng bão làm đắm thuyền nhờ có Thần nữ Y Nơ (Ino) cứu thoát cho mảnh khăn tiên lội vào bờ. Thần nữ Quán Trí làm dứt cơn bão. Uy Lĩnh bơi đến đảo, ẩn mình trong một cụm rừng bên bờ suối, chàng mệt nhoài say ngủ.
Khẩn cầu Thần nữ Ly Tao (1)
Khởi truyền thi hứng dạt dào hồn ta.
Mười năm chiến cuộc thành Troa. (Troie)
Anh hùng trăm trận vào ra chiến trường,
Ngày về phiêu bạt biển ngàn,
Bao nhiêu chìm nổi gian nan xứ người.
Bao nhiêu giông tố nổi trôi,
Mới về quê cũ đất trời yêu thương.
Khẩn cầu thi hứng nhập hồn,
Chuyện từ Uy Lĩnh đắm thuyền phong ba,
Tình tù tiên Kiều Ly Cơ (Calypso)
Say tình nàng khẽ vỗ về: Thương ôi, (10)
Yêu em Uy Lĩnh chàng ơi!
Thiên đường bất tử đời đời thanh xuân,
Yêu em cuộc sống thiên thần,
Về chi cát bụi hồng trần tàn mau.
Sóng tình bùng cháy hang sâu,
Lòng Uy Lĩnh chẳng đổi sầu làm vui.
Chiều chiều trước biển ngậm ngùi,
Mắt mờ lệ nhỏ thương người vợ xa,
Mịt mù khói sóng xóa nhòa,
Bùi ngùi trông cánh chim qua biển trời. (20)
Vương quốc An Thạch xa xôi, (Ithaque)
Còn ai tưởng nhớ đến người hùng xưa,
Hai mươi năm trải nắng mưa,
Còn ai tiếc nhớ vị vua can trường.
Cung thành một lũ cầu hôn,
Tranh giành ngôi tước, bạc vàng, quyền uy.
Đau thương nàng Nhã từ đây, (Pénélope, Nhã Lan)
Ép duyên nàng phải chọn ngày cầu hôn.
Riêng nàng vẫn nhớ vẫn thương,
Mong Uy Lĩnh trở lại hoàng cung xưa. (30)
Lựa lời, nàng đặt chuyện thưa:
Rằng Uy Lĩnh mất, ai chờ ai mong,
Chẳng qua còn một chút lòng,
Tấm chăn liệm đắp cha chồng chửa xong,
Lão Vương thần chết chờ trông,
Phận làm dâu chút tri ân cho người.
Bọn cầu hôn cũng chìu lời,
Nghĩ rằng vải liệm dệt rồi nay mai.
Mặc nàng khung cửi đưa thoi,
Nào hay nàng mãi dệt hoài chẳng xong. (40)
Ngày chăm chỉ dệt hết lòng,
Đêm đêm đuốc hồng, nàng tháo sợi ra,
Đợi ngày Uy Lĩnh về nhà,
Đợi Thế Viễn Mạc trên đà lớn khôn: (Télémaque)*
Con ơi giúp mẹ hỡi con!
Thay cha trừ bạo, rửa hờn non sông.
Nhưng nào bọn chúng còn đông,
Không người giúp sức bại vong tủi hờn,
Sức con chưa đủ lớn khôn,
Biết làm sao biết đi tìm được cha. (50)
Tấm khăn dệt mãi lệ nhòa,
Tấm lòng nàng động cao xa Thiên Đình.
Tấm khăn nàng Nhã hoài công,
Bọn cầu hôn kiếm cội nguồn khảo tra.
Con hầu sợ hãi khai ra.
Hoàng hậu ngày dệt, đêm đà tháo ngay,
Thế nên chăn dệt ngày ngày,
Ba năm mòn mỏi chăn này chữa xong.
Bọn cầu hôn rỏ nguyên nhân,
Ép ngày chọn lựa chẳng còn lần khân. (60)
Thiên Đình ngày vắng Hải Long, (Poséidon)*
Quần thần tụ hội cung đình Thiên Sơn, (Olympe)
Thần Vương (Zeus) vua cõi Thiên Thần,
Triệu bàn phán quyết chuyện trần đau thương.
Quán Trí con gái Thần Vương,
Tinh Anh Mắt Cú luận bàn thấp cao*:
Thương thay Uy Lĩnh khổ đau,
Hai mươi năm đó biết bao tình nhà,
Đắm thuyền trôi dạt đảo xa,
Kiều Ly Cơ giữ tình đà bấy lâu. (70)
Bao năm mơ ước khẩn cầu,
Con Thẩn Ất Lạc chẳng sao đổi lòng, (Atlas)*
Tội thay Uy Lĩnh nhớ thương,
Lời yêu mật ngọt chẳng buồn đổi thay,
Chiều chiều vời vợi khói mây,
Quê hương xa thẳm mờ say biển trời,
Hồn quê muốn thoát than ôi,
Trái tim vẫn đập, tình người cùm gông.
Thần Vương cha có thấu chăng?
Thương người tài trí anh hùng thủy chung. (80)
Vuốt râu Thần Dớt mới rằng:
Con ơi lời tự đáy lòng sắt son,
Quên sao Uy Lĩnh hỡi con,
Thông minh tài trí thiên thần sánh vai.
Lòng thành cung kính đất trời,
Cõi thần thương cảm, cõi người tôn vinh.
Hại thay Thần Hải Long Vương.
Thần Rung Chuyển Đất thù còn chữa tha,
Trả thù Uy Lĩnh năm xưa.
Đâm Ly Phong Nhãn mù loà độc tinh. (Polyphème) (90)
Đứa con Thần đã sinh cùng,
Thoa Sa tiên nữ con thần Phù Nghi, (Thoôsa, Phorcys).
Trả thù thần đã lưu đày,
Đắm thuyền giông bão, chẳng ngày hồi hương,
Hôm nay Thần họp Thiên Đình,
Đồng tâm Uy Lĩnh lên đường về ngay,
Hải Long Vương bỏ hận này,
Một thần không thể ý thay trăm thần.
Ngước đôi mắt sáng tinh anh,
Quán Trí Tuệ mới thưa tình nhỏ to: (100)
Cha ơi, Thần Tử Cồ Nô,* (Cronos)
Điện trời sấm sét cơ hồ ai hơn,
Vì điều công lý cõi thiên,
Cho vời Mai Hạc Truyền Tin Sứ Thần. (Hermès)
Trao Kiều Ly lệnh thiên đình,
Thả cho Uy Lĩnh đóng thuyền đoàn viên.
Còn chuyện An Thạch phần con,
Giúp con Uy Lĩnh đối cùng cầu hôn,
Giúp Thế Viễn Mạc can trường,
Truyền cho tụ họp Hội Đồng An Kinh. (Achéens)* (110)
Luận bàn dứt việc cầu hôn,
Cừu bò cắt cổ ngày đêm tiệc tùng.
Quay nhìn Mai Hạc thân thương,
Dớt ban lệnh tiễn dặn công việc trần:
Ra đi Mai Hạc sứ thần,
Hãy truyền lệnh của thiên đình hôm nay.
Rằng Tiên Nữ Tóc Vàng Mây,
Giúp cho Uy Lĩnh đóng ngay thuyền bè.
Một mình buồm lái sớm khuya,
Chịu nhiều thử thách trở về quê hương. (120)
Hai mươi ngày biển lênh đênh,
Không thần giúp sức vững bền vượt nguy.
Mới về đến đất Sơn Chi, (Schérie)*
Dân Phan Xuyên chốn thần hay giáng trần. (Phéaciens)
Vua dân tiếp đón như thần,
Quà trao phẩm vật, lụa vàng hiến dâng.
Ban cho thuyền lái thong dong,
Về quê An Thạch yên lành đoàn viên.
Sứ Thần vâng lệnh Thần Vương,
Mang hài vàng vượt bay triền gió mây. (130)
Đũa thần huyền diệu cầm tay,
Thần thông ảo hóa vượt bay biển trời.
Dương trần thoáng đã đến nơi,
Đảo xa sóng nước, xanh trời biển xanh.*
Bãi dài cát đỏ rừng thông.
Lung linh thạch động lửa hồng chiêm bao,
Nàng tiên cài tóc hoa đào,
Tiếng ca thánh thót xôn xao tơ trời.
Nàng ngồi dệt lụa hôm mai,
Thoi vàng dệt tiếng oanh lời líu lo. (140)
Một rừng hương ngát xanh mơ,
Một vườn nho chín bên bờ suối xanh.
Bốn bề thác đổ lượn quanh.
Một vườn hoa trái tím cành phù dung.
Sứ thần trước động dừng chân,
Kiều Ly Cơ đã ân cần hỏi han,
Thần tiên sánh bước nhạc vàng,
Mời nhau an tọa thạch bàn ngũ vân.
Tiên nương lên tiếng hỏi rằng:
Cớ chi Sứ giả Thiên đình xuống đây? (150)
Thời trân thức uống dọn bày,
Cùng nhau vào tiệc ngà say chén quỳnh.
Tiệc tàn sứ mới truyền rằng:
Ta đây vâng lệnh Thiên đình Thần Vương,
Rằng Thần Dớt rất xót thương,
Phận chàng Uy Lĩnh tai ương đọa đày.
Tình tù giam giữ nơi đây,
Vẫn còn buồn tủi ngày ngày nhớ quê.
Mười năm chiến trận chưa về,
Thuyền binh tan tác, bốn bề bão giông. (160)
Lạc vào đây kiếp lưu vong,
Nhớ con, nhớ vợ, nặng lòng quê hương.
Nghe đây Thần Dớt phán truyền:
Cho Uy Lĩnh được đóng thuyền về quê.
Mệnh chàng gia cảnh không lìa,
Số chàng còn phải trở về nước xưa.
U sầu Kiều Ly Cơ thưa:
Ganh tài ghét mệnh chẳng chừa thần tiên,
Phận tiên muốn kết trần duyên,
Tấm chồng khao khát ngày đêm trông chờ. (170)
Bỗng chàng Uy Lĩnh bơ vơ,
Sóng vùi, biển dập, vật vờ biển khơi.
Cứu chàng chăm sóc tay tôi,
Ngày đêm tận tụy phục hồi sức trai,
Yêu chàng tôi đã hứa lời,
Cho chàng bất tử, đời đời thanh xuân.
Dám đâu cải lệnh Thiên đình,
Xua chàng ra biển nỡ tình được sao?
Tôi không thuyền lớn buồm cao,
Không người chèo lái giúp nào được chăng? (180)
Phận tiên tôi có chút tình,
Giúp chàng chỉ một tấm lòng yêu thương.
Sứ thần chẳng nể nguồn cơn:
Thả ngay Uy Lĩnh chẳng còn cớ chi.
Khỏi cơn sấm sét bất kỳ,
Không nghe lời Dớt những khi lôi đình.
Một lời chưa kịp phân minh,
Sấm đâu chớp sáng rền vang biển trời.
Sứ thần truyền bấy nhiêu lời,
Sắt danh căn dặn gót dời dặm khơi. (190)
Tiên nương cúi mặt vâng lời,
Đi tìm Uy Lĩnh đang ngồi thở than.
Bên bờ cát đỏ mơ màng,
Mắt nhòa lệ nhớ hai hàng xót đau.
Đêm đêm tình động trướng đào,
Gượng vui tình mới lòng xao xác lòng.
Ban ngày ghềnh đá ngóng trông,
Mắt mờ biển thẳm dòng dòng lệ sa.
Bên chàng tiên nữ xót xa:
Chàng ơi! Thôi chớ chi mà thở than, (200)
Em xin trả lại cho chàng,
Cánh chim phiêu bạt, tung ngàn dậm xa.
Chàng ơi đốn cội thông già,
Đóng thuyền kết ván, vượt qua bể ngàn.
Em cho bánh nước, rượu vang,
Áo choàng, khăn ấm cho chàng ra đi,
Em xin thổi gió mang mây,
Cánh buồm thương nhớ, từ nay chia lìa.
Em cầu Thần Dớt giúp cho,
Biển khơi lặng sóng, thuyền về nước xưa. (210)
Dứt lời Uy Lĩnh phân bua:
Nàng ơi! Cho phép ta về thật chăng?
Biển khơi sóng cả mênh mông,
Chiếc thuyền phải vượt đá ngầm sóng cao,
Bão giông, gió thét mưa gào,
Không thần giúp sức tôi nào dám đi,
Chút tình, chút nghĩa còn đây,
Xin tiên nữ nhớ lời này giúp cho,
Biển không sóng cả giông to,
Dìm ta chết giữa mịt mờ biển khơi. (220)
Chàng ơi! thiếp hứa giúp lời,
Thiên Đình chứng giám xét soi lời nguyền.
Trái tim này đã yêu chàng,
Cứu chàng trên biển mơ màng yêu đương,
Giờ đây đôi ngã đôi đường,
Chàng về quê cũ, sầu vương biển trời,
Thương chàng thương lắm chàng ơi,
Trái tim sắt đá hại người thương sao?
Kiều Ly dời gót động đào,
Mời nhau cất chén quỳnh dao tiệc bày. (230)
Nước cam lồ rót vơi đầy,
Đào tiên, hải sản ngà say tiệc trần.
Tàng tàng chén rượu hợp hoan.
Cầm tay nàng mới thở than đôi lời:
Hỡi chàng! Uy Lĩnh chàng ơi!
Nỗi danh tài trí, hơn người khôn ngoan,
Con vua Lã Đạt lão vương (Laerte),
Cháu con Thần Dớt giống dòng quang minh,
Thật lòng chàng muốn đi chăng?
Giả từ, về chốn quê hương xa vời. (240)
Tình ta chỉ thế mà thôi,
Xin còn mãi mãi lòng người nhớ thương,
Rồi đây đôi ngã đôi phương,
Cầu xin chàng được trên đường bình an.
Cũng nên nghĩ lại hành trình,
Còn bao gian khổ bão bùng hiểm nguy,
Rủi ro cầm chắc trong tay,
Mong manh thay việc mắn may trở về,
Chàng nên nghĩ lại mọi bề,
Đừng đi. đừng nghĩ đến quê xa vời. (250)
Vợ chàng còn có y lời,
Hay sang thuyền khác, cuộc đời đổi thay.
Hãy cùng em ở chốn này,
Tuổi xuân bất tử, tình đây vững bền,
Em không thua kém vợ chàng,
Thân hình kiều diễm, dung nhan tiên thần,
Dù cho vẻ đẹp người trần,
Làm sao sánh được với cùng người tiên.
Uy Lĩnh lòng vẫn khăng khăng:
Kiều Ly tiên nữ dung nhan tuyệt vời, (260)
Xin nàng chớ giận lời tôi,
Vợ tôi không thể sánh đôi cùng nàng,
Vợ tôi phụ nữ trần gian,
Còn nàng trẻ đẹp tiên nương muôn đời.
Tim tôi chỉ một tình thôi,
Là về quê cũ bên người tôi yêu.
Dù cho tai họa trăm điều,
Dù cho gian khổ dạt phiêu thế nào,
Dù cho biển dữ sóng cao,
Thân tôi đã trải biết bao hiểm nghèo, (270)
Chiến trường không chết gươm lao,
Dạn dày sương gió còn nào sợ chi.
Kiều Ly Cơ chẳng nói gì,
Rượu nồng ngây ngất bờ mi lệ buồn.
Bên nàng lần cuối rồi tan,
Bóng dương lần khuất trên ngàn biển xa,
Đuốc hồng chăn gối lệ nhòa,
Lửa tình ngây ngất, bóng hoa chập chùng.
Giọt trần thạch nhủ long lanh,
Giấc hồ sương đọng vây quanh động đào. (280)
Tiếng gà gáy sáng đến mau,
Vầng dương dậy nắng hồng chào biển khơi,
Khoát khăn quàng, áo choàng ngoài,
Uy Lĩnh dậy sớm bên trời thông xanh,
Nàng tiên áo trắng dịu dàng,
Thắt đai vàng ngọc, tóc choàng khăn tơ.
Hành trang: cưa, gổ, búa, rìu,
Đưa chàng đến chốn rừng cao thông già.
Dặn dò nàng trở lại nhà,
Lương khô cho cuộc đi xa sẵn sàng. (290)
Uy Lĩnh đốn gỗ dựng sàn,
Đóng sườn, cưa ván, kết sàn, dây neo,
Cột buồm dựng thẳng vút cao,
Bao ngày vất vả, lá̃i lèo đã xong.
Đẩy thuyền ra bến nước xanh,
Con thuyền sẵn cuộc khởi hành viễn du.
Áo quần, chăn dạ một kho,
Rượu ngon, nước uống, lương khô đầy thuyền.
Tiễn chàng về chốn quê hương,
Sầu lên sóng nước, tình vương mây ngàn. (300)
Tóc nàng lộng gió mênh mang,
Thổi buồm trôi nhẹ tiễn chàng ra khơi.
Riêng Uy Lĩnh một lòng vui,
Gạt lòng lưu luyến, trông trời, ngắm sao.
Một thuyền, một lái sóng đào.
Mắt không khép ngủ, trông mau về nhà.
Nửa tuần trăng thoáng trôi qua,
Đảo quen đã thấy, non nhòa khói sương.
Ngờ đâu chưa hết đau thương,
Chơi xa Thần Hải Long Vương trở về. (310)
Từ trên thiên đỉnh long khê,
Thấy chàng đã đến gần quê an lành.
Thần đà nổi trận tam bành,
Dâng cao biển dữ, ầm ầm bão giông.
Gió gào, sóng thét đùng đùng,
Rã rời tay mỏi, ngực lòng xót đau:
Than ôi kiếp sống bọt bèo,
Thân ta chìm nổi, vì sao thế này?
Than ôi, Thần Chết là đây,
Dìm trong biển dữ, đọa đầy tang thương. (320)
Tiếc xương chẳng gửi chiến trường,
Tang không nghi lễ Quân vương hào hùng,
Bây giờ chết giữa bão giông,
Cô đơn trần trụi nghìn trùng ai thương.
Một cơn sóng dữ vào thuyền,
Cột chèo rơi gãy, lái buồm nát tan.
Trong cơn biển dữ sóng tràn,
Uy Lĩnh vẫn bám ván thuyền nổi trôi,
Nào hay chưa dứt duyên đời,
Y Nơ Thần Nữ thương người phong ba. (Ino) (330)
Biến thành chim hải âu qua,
Đậu bên nàng chợt hóa là tiên nương.
Bên chàng cứu nạn bão giông:
Khốn thay, Thần Biển Hải Long hại chàng.
Dâng bao bão tố sóng ngàn,
Nhưng sao giết được anh hùng nghĩa nhân.
Uy Lĩnh chàng hãy nghe rằng:
Sợ chi sóng gió hãi hùng biển xanh,
Bỏ áo quần để bơi nhanh,
Phan Xuyên (Phéaciens) hải đảo đã gần đến nơi, (340)
Này khăn tiên hãy choàng vai,
Chở che lồng ngực, thân bơi chẳng chìm.
Khi chân chạm đến đất bằng,
Hãy quăng trả biển tấm khăn tiên này.
Dứt lời nàng biến đi ngay,
Sóng ngàn, hương biển chân mây chốn nào.
Chàng còn nghi ngại biết bao,
Bỗng cơn sóng cả ào ào tới nhanh.
Vật vờ lìa mảnh ván thuyền,
Cởi nhanh quần áo, che choàng khăn tơ. (350)
Phóng mình bơi sải hướng bờ,
Hải Long đắc ý làm ngơ cười rằng :
Cho mi trôi nổi truân chuyên,
Cười chăng, hay đã ăn năn sự tình.
Dứt lời sóng ngựa phi nhanh,
Về Âu Khê (Egée) chốn thủy cung mặc tình.
Quán Trí thần chốn Thiên Đình.
Dứt ngay giông bão, thổi làn gió thanh.
Đưa Uy Lĩnh lội bơi nhanh,
Hai ngày đêm thoát biển xanh sóng vần. (360)
Lại vào ghềnh đá bạt ngàn,
Nhanh tay chàng lại bám ghềnh sóng xô.
Tìm nơi êm sóng vào bờ.
Tìm nơi trú ẩn bên hồ suối xanh.
Cây cao khuất núi gió lành,
Quỳ chân cảm tạ thần linh giúp người:
Tạ Thần Nữ xót thân tôi,
Cứu qua bão tố thoát đời gian truân.
Dòng sông sóng gợn thì thầm..
Bờ xanh nước ngọt bao quanh thân chàng. (370)
Ngất ngây ngọt lịm môi tràn,
Thở làn gió mát dịu dàng đất xuân.
Cởi khăn tiên trả biển xanh,
Y Nơ nhặt lấy vẩy làn sóng xa.
Rời chân hôn bãi bình sa.
Rưng rưng dòng lệ mắt nhòa rừng phong.
Ô liu đen nhánh trên cành,
Nhấp nhô bóng nắng qua mành lá xanh.
Nhặt rêu cỏ lót nệm nằm,
Đắp chăn lá biếc hương trầm rừng thông. (380)
Đồi xa lam khói mong manh,
Bếp chiều lửa ấm bên đồng lúa xuân.
Mờ đôi mắt bóng thì thầm,
Quán Trí Tuệ khép mi xanh giấc nồng.
Mộng về cánh bướm chuyền chăn,
Thoáng mơ về giữa quê lành chân mây. (386
Thi ca Khúc 2: Cuộc kỳ ngộ Uy Lĩnh và Công chúa Nam Chi Ca. (câu 387 đến 864)
CHÚ THÍCH:
48. Tên Télémaque có nghĩa là: Trận chiến nhìn từ xa tôi dịch thành tênThế Viễn Mạc.
61. Poséidon Hải Long Vương Thần cai quản Biển Cả, có danh hiệu Thần Rung Chuyển Đất, em Thần Zeus vì Ulysse đâm mù Polyphène (Độc Ly Phong, Độc Nhãn) là con Poséidon  và tiên nữ Thoôsa, khổng lồ  độc nhãn mạnh nhất trong các Cyclopes, nên thù hận Ulysse. Nên không muốn cho Ulysse trở về quê hương.
63. Zeus con Thần Cronos và Gaia. Thần Thời Gian và Đất Mẹ. Hy Lạp thường dùng chữ Con Thần Cronos để chỉ Zeus tôi dùng Thần Tử để thay chữ Con Thần.
65. Athéné Quán Trí Tuệ, Thần Zeus bổ trán sinh ra là Thần Trí Tuệ khôn ngoan và chiến thắng có danh hiệu là Thần Mắt Cú Tinh Anh, dấu vết sự chuyển biến du nhập Thần Cú Vọ Ai Cập sang Hy Lạp.
72. Atlas là Thần Nâng Đ̣ia Cầu. cha Calypso. Ta thường thấy trong điêu khắc Atlas nâng quả Địa Cầu.
110. Achéens : người Hy Lạp.
123 Schérie đảo dân Phéaciens (Phan Xuyên)
134. Tương truyền đảo Goyo nước Malte Châu Âu, nơi đây có thạch động Calypso, tôi có viếng thăm nơi này năm 2001 và xúc động trước cảnh sắc Thi Ca Khúc I, tôi không theo sát bản dịch mà tả cảm xúc cảnh trí theo thi hứng. Goyo đúng là cõi thiên đường trên trần thế, nhà nhà để cửa mở không cần khoá, xe mở cửa để chìa khoá trên xe không có trộm cắp, người đối xử với nhau nồng nàn chân tình, tôi từng đi khắp hơn 30 nước trên địa cầu chưa thấy nơi nào hạnh phúc như nơi này.
THI CA KHÚC 2: Cuộc kỳ ngộ Uy Lĩnh và Công chúa Nam Chi Ca. (câu 387 đến 864)
TÓM LƯỢC:
Trong khi Uy Lĩnh mệt nhoài say ngủ. Thần nữ Quán Trí Tuệ đến trong giấc mơ công chúa Nam Chi Ca (Nausicaa), bảo nàng xin mẹ cha đi giặt y trang ngày mai, xin cha xe lừa theo đoàn thị nữ. Y trang giặt xong các cô gái tắm và chơi cầu bên bãi cỏ bờ suối. Quả cầu rơi gần Uy Lĩnh làm chàng thức giấc. Uy Lĩnh trần truồng bẻ cành lá dại che thân, cầu xin Nam Chi Ca cho quần áo và thức ăn. Nàng được Thần nữ báo mộng trước nên không sợ hãi, tiếp đón ân cần, truyền đem dầu hương, quần áo cho chàng tắm rữa và ăn uống, sau đó Uy Lĩnh theo đoàn thị nữ về thành. Công chúa Nam Chi Ca sợ dị nghị đánh xe về trước. Qua đền Quán Trí Tuệ. Uy Lĩnh dừng lại cầu Thần nữ.
Chàng còn thiêm thiếp ngủ say, (387)
Quán Trí Tuệ đã vượt bay về thành.
Vua An Chính giữa giấc nồng, (Alcinoos)
Chiêm bao Thần nữ lệnh truyền Thiên cung. (Olympe) (390)
Đón Uy Lĩnh lễ quân vương,
Cấp thuyền buồm lớn đưa chàng về quê.
Đến công chúa Nam Chi Ca,
Nàng còn thiêm thiếp giấc hoa mơ màng.
Hai bên thị nữ hầu nàng,
Quạt nồng phe phẩy, giấc vàng say sưa,
Thầm thì gọi Nam Chi Ca :
Em ơi, kỳ ngộ tiệc hoa sắp rồi,
Tiên dung trinh nữ sao trời,
Gấm vàng, lụa bạch người người say mê. (400)
Ngày mai hồng nắng sơn khê,
Hãy đi giặt lụa bên khe mây ngàn,
Xin cha xe ngựa lộng vàng,
Đến nơi kỳ ngộ đón trang anh hùng.
Loan phòng còn thoảng mùi hương,
Quán Trí Tuệ đã lên đường vân tiên.
Vầng dương vừa ló non ngàn,
Nam Chi Ca đã điểm trang bao giờ.
Đến phòng cha mẹ trình thưa:
Con xin giặt lụa bên bờ suối lam. (410)
Xin cha xe ngựa tùy tùng,
Cùng đoàn thị nữ áo quần hành trang.
Ngựa xe sắp sẵn một đoàn,
Thời trân, rau quả, rượu ngon một vò.
Dầu hương, nước tắm tẩm hoa.
Một đoàn xe ngựa vượt qua kinh thành.
Qua dòng suối chảy trong xanh,
Giặt phơi bờ cỏ, gió lồng nắng mai.
Ngựa lừa gặm cỏ bên trời,
Một đoàn thiếu nữ đùa vui suối ngàn. (420)
Chim chuyền cành biếc hót vang,
Mùa xuân nắng đọng mơ màng giọt sương.
Tiệc tàn bên bãi nắng vàng,
Cầu vui một trận, đùa vang núi rừng.
Quán Trí Tuệ đến bên chàng,
Lay Uy Lĩnh dậy về cùng trinh nương.
Trái cầu rơi cạnh bờ mương.
Tiếng vui đánh thức mơ màng chiều phai.
Giật mình sau giấc mộng dài,
Chàng thầm tự hỏi: Rằng ai chốn này? (430)
chẳng là tiên nữ đâu đây?
Hay thần tiên lạc chốn này cùng ta.
Vén chăn lá biếc bước ra,
Bẻ cành ngâu dại bên bờ che thân.
Hoảng hồn thị nữ nhanh chân.
Còn Nam Chi đứng một mình hỏi han.
Trong mơ dường đã thấy chàng,
Giờ đây gặp lại chẳng màng thị phi.
Mơ màng chàng thốt lời thi:
Phải nàng tiên nữ duyên gì hay chăng? (440)
Nàng Đạt Thế Mỹ giáng trần (Artémis)́*
Hay người dương thế trời ban phúc đầy,
Mẹ cha vinh dự lắm thay,
Sinh trang tuyệt sắc còn gì vui hơn.
Phúc thay ai cưới được nàng,
Dâng bao sính lễ ngọc vàng nghi gia.
Tôi chưa từng thấy bao giờ,
Một lần Đề Lộc điện thờ An Long * (Delos. Apollon)
Lòng ta xúc động tượng thần,
Giờ đây xúc động trước nàng: mỹ nhân. (450)
Bên nàng chiêm ngưỡng tỏ lòng,
Xin nàng cứu giúp tấm thân cơ hàn.
Đầu tiên kỳ ngộ gặp nàng,
Ô Chi rời đảo đắm thuyền nơi đây. (Ogygie)*
Bơ vơ góc bể chân mây,
Xin nàng cho biết nơi này là đâu?
Xin nàng thương kẻ cơ cầu,
Ban cho quần áo để hầu che thân.
Xin cho chút bánh lót lòng,
Qua cơn hoạn nạn tạ ân xót tình. (460)
Cầu xin thần phúc cho nàng,
Trọn nguyền ước nguyện mơ lành mai sau.
Thần tiên phép lạ nhiệm mầu,
Cho nàng hạnh phúc duyên trao vững bền.
Nam Chi Ca đáp lời chàng:
Phúc thay kẻ lạ đắm thuyền đến đây,
Quán Trí Tuệ báo mộng này,
Hân hoan tôi được hôm nay đón người.
Những điều nguyện ước xa xôi,
Lời Thần nữ bảo gặp người thiện duyên. (470)
Nơi đây là đất Phan Xuyên*
Vị vua An Chính trị miền đất đây,
Vương quốc hùng mạnh phúc dày,
Bốn phương thần phục, cõi này bình yên.
Nàng truyền thị nữ đến bên:
Đây người lương thiện, chớ phiền sợ chi,
Nước ta không hận thù gì,
Ai đem chinh chiến đến đây bao giờ,
Nước ta biển cả, thuyền to,
Thái bình muôn thuở chẳng lo tranh hùng. (480)
Người này thuyền đắm bão giông,
Đến đây phiêu bạt, đường cùng một thân,
Ta nên tiếp đãi ân cần,
Thức ăn, nước uống, áo quần giúp cho.
Đưa người ghềnh khuất bãi bờ,
Cho người tắm rữa, tặng đồ y trang.
Kẻ hầu nghe lệnh nàng truyền,
Đưa Uy Lĩnh đến khuất triền sông xanh,
Y trang đặt sẵn trên gành,
Xạ hương một lọ, tấm khăn, áo quần. (490)
Uy Lĩnh thẹn bảo các nàng:
Tạ lòng tử tế chẳng màng giúp ta,
Giờ đây nàng hãy lánh xa,
Mặc ta tắm rữa, tẩm hoa một mình,
Trần truồng ta thẹn tấm thân,
Làm sao tắm được bởi bàn tay hoa.
Các nàng thị nữ lui ra,
Một mình Uy Lĩnh xát chà, lội bơi.
Bao tuần muối mặn trắng vai,
Giờ đây nước ngọt sông dài ấm sao. (500)
Mặc trang phục, tẩm hương đào,
Quán Trí Tuệ hiện giúp vào sắc dung.
Tóc quăn thịt bắp u tròn,
Bóng chàng như dáng thiên thần uy nghiêm.
Chàng ngồi trên đá trầm ngâm,
Nam Chi Ca thoáng mừng thầm ước ao :
Người hay Thần ở chốn nào,
Thiên đình người đã lạc vào dương gian.
Mới đây phờ phạc phong trần,
Giờ đây đẹp tựa thiên thần bồng lai. (510)
Ước gì người ở đây hoài,
Cùng ta duyên kiếp kết lời sắt son.
Nàng truyền thị nữ mang lên,
Thức ngon, rượu ngọt, trái ngon cho chàng.
Bao ngày đói lả, bão giông
Giờ đây chàng mới no lòng thức ngon.
Nam Chi Ca đã sẵn sàng,
Áo quần phơi xếp gọn gàng về cung.
Xe lừa chất sẵn lên đường,
Mời chàng Uy Lĩnh về cùng trình cha: (520)
Mời chàng theo gót xe lừa,
Qua đồng lúa mạch, ấy là kinh đô.
Đi qua hai cổng thành to,
Thuyền buồm san sát, bến bờ cảng trong,
Một bên đền Thần Hải Long,
Trước sân là một vòng cung quảng trường,
Phan Xuyên cung nỏ chẳng màng,
Chuyên nghề buôn bán, đóng thuyền vượt khơi.
Hải hồ phiêu bạt biển trời,
Vui cùng biển cả rong chơi sóng đào. (530)
Ta đi, người hãy đến sau,
Tránh lời dị nghị ra vào chẳng hay.
Cười rằng kẻ lạ nào đây.
Gái chưa chồng đã rước trai đâu về.
Bao người quyền quí không ưa,
Nay người duyên lạ, duyên thừa nào đây?
Hay nàng cầu nguyện đêm ngày,
Nên thần tiên đã gửi ngay một người,
Đ̣ể nàng cung phụng cuộc đời,
Để nàng tìm cái của trời đón đưa. (540)
Ấy bao bia miệng thêu thùa,
Đặt lời, đặt chuyện, kẻ đùa người chê,
Này người theo gót lừa xe,
Qua rừng Thần nữ đường về nên thơ,
Qua suối nhỏ, qua đồng nho,
Cung cha ta ở bên bờ vườn hoa.
Đền đài cung điện nguy nga,
Qua cầu hỏi đứa trẻ thơ cũng rành.
Qua sân rộng đến cung đình,
Hãy vào bái kiến trước cùng mẹ ta. (550)
Bà bên lò sưởi thêu thùa.
Một đoàn thị nữ hát đùa giao duyên,
Ngai vàng cha ngự một bên,
Chén quỳnh mỹ tửu, như tiên thiên đình.
Cúi đầu trình tấu sự tình,
Mẹ cha ta biết ngọn ngành nguồn cơn.
Quất lừa nàng vội đi liền.
Bụi hồng tung gió dọc triền suối xanh.
Nắng chiều vàng trải mong manh,
Bóng người thấp thoáng trắng vườn hoa lê. (560)
Qua đền Thần Nữ rừng mơ,
Dâng cành hoa trắng lòng thơ thẩn cầu,
Trước đền Uy Lĩnh cúi đầu:
Xin Thần Nữ giúp phép mầu thiện duyên,
Cho lòng hiếu khách Phan Xuyên,
Thương tình hoạn nạn vua liền giúp cho. (566)
Thi Ca khúc 3: Uy Lĩnh đến cung điện vua An Chính Vương
(Câu 567 đến 864)
Chú thích:
441. Artémis hay Diane là Thần nữ Săn Bắn
448 Delos đảo Hy Lạp còn di tích thành phố thời Cổ Đại có điện thờ Apollon.
454 Ogygie đảo tiên nữ Calypso.
471. Phéniciens các nhà nghiên cứu xác định là (d)̉ảo Corfou ngày nay, Giáo sư V. Bérard đã đến tận nơi theo dấu chân Ulysse tìm đúng những di tích bờ suối đền thờ đúng như Homère mô tả.
THI CA KHÚC 3: Uy Lĩnh đến cung điện An Chính Vương
TÓM LƯỢC: Sau khi công chúa Nam Chi Ca trở về lâu đài. Uy Lĩnh đến thành phố. Thần Nữ Quán Trí Tuệ hoá thành em bé cầm lẵng hoa hướng dẫn và bọc chàng trong lớp sương mù. Chàng chiêm ngưỡng thành phố, cung điện và vườn thượng uyển. Chàng gặp tại lâu đài: Vua, hoàng hậu các hoàng tử các lãnh chúa và quần thần. Vua An Chính Vương như lời thần báo mộng, chào mừng và hứa đưa chàng về quê hương. Buổi hội triều đình giải tán. Hoàng hậu hỏi nguyên nhân do trang phục chàng mặc. Uy Lĩnh kể lại những gian nan và lúc gặp công chúa.
Trong khi Uy Lĩnh nguyện cầu, (567)
Xe lừa nàng đã về lâu đài rồi.
Chiếc xe ngừng trước cổng ngoài,
Các anh em đã đón nơi sân đình. (570)
Uy nghi đẹp tựa thiên thần,
Người mang trang phục, người cương xe lừa.
Tươi cười nàng bước thướt tha,
Vào lầu trang sẵn đuốc hoa, lửa hồng,
Bên lò sưởi cháy bập bùng,
Vú già chăm sóc buổi ăn cuối chiều.
Trên đường Uy Lĩnh lần theo,
Phố phường vàng nắng dập dìu ngựa xe.
Quán Trí Tuệ đã phủ che,
Làn sương vô ảnh, chàng về ai hay. (580)
E người sẽ hỏi ai đây?
E người hỏi đến chốn này vì đâu?
Bên thành vừa bước đến cầu,
Quán Trí Tuệ đã nhiệm mầu hiện ra,
Hóa em bé cầm lẵng hoa,
Uy Lĩnh dừng bước hỏi qua đường vào:
Em ơi! ta hỏi thăm nào,
Cung vua An Chính nơi nao chốn này.
Ta là khách lạ đến đây,
Trải bao lao khổ những ngày gian nan. (590)
Quê hương đảo biếc sóng ngàn,
Không quen ai chẳng biết đường đến đây.
Mắt cười, em bé chỉ ngay:
Lâu đài vua ở hướng này nhà tôi,
Theo tôi đi thẳng, lặng lời,
Chẳng nhìn ai cũng chớ thời hỏi han.
Dân đây người lạ chẳng quen,
Tính kiêu kỳ với con thuyền vượt khơi.
Em bé nói nói cười cười,
Uy Lĩnh theo gót bước hài đi nhanh. (600)
Chẳng ai thấy, chẳng ai nhìn,
Hai người vô ảnh, vô hình sương mơ.
Uy Lĩnh nhìn ngắm bến bờ,
Hai hàng thuyền đậu đợi chờ đi xa.
Công viên muôn sắc cỏ hoa,
Tượng anh hùng bóng chiều qua nắng vàng.
Lâu đài lộng lẫy màu sơn.
Dừng chân em bé bên hàng cột to.
Mắt tinh anh khẽ dặn dò:
Bác này cung điện nhà vua đây rồi! (610)
Bác vào đi chỗ vua ngồi,
Vua đang yến tiệc ở nơi sảnh đường,
Cùng các lãnh chúa địa phương,
Nhưng tìm trước mắt là hoàng hậu ngay.
An Thái nhân đức thương người. (Arété)
Xin bà giúp đỡ, bà thôi chẳng màng,
Vốn dòng Thần Hải Long vương.
Vua Nam Chi Thắng sinh thành hai trai, (Nausithoos)
Thái Sơn anh cả nối ngôi, (Rhéxénor)
Chẳng may mất bởi nỏ trời An Long, (Thần Apollon)* (620)
Chẳng con trai để nối dòng,
An Thái là gái nên không trị vì.
Em An Chính Vương lên ngôi,
Cưới người cháu gái sánh đôi thiết triều.
Hoàng hậu được vua nuông chiều,
Lời bà phán đoán vua đều làm theo.
Cung đình dân dã mến yêu,
Vẹn toàn tài sắc, trăm điều khoan dung.
Lời bà từ tốn khôn ngoan,
Một lời bà nói tiêu tan giận hờn. (630)
Ngài như tiên nữ ngọc vàng,
Trong triều ngoài ngõ, tiếng lành tiếng thương.
Nếu lời bác được cảm thông,
Về quê hương chắc ước mong vẹn toàn.
Nói rồi Thần nữ bước sang,
Bên bờ biển vắng, sóng cồn tung bay,
Giả từ đảo quốc Sơn Chi,
Nhã Kinh thẳng hướng đường mây du hành. (Athènes)* 
Uy Lĩnh dừng trước cửa đồng,
Trăm điều suy nghĩ trong lòng nói sao? (640)
Lâu đài tráng lệ biết bao.
Nắng chiều lấp lánh đỉnh cao chóp vàng.
Tường cao vách chạm thiên thần.
Hai hàng cột thẳng, tượng đồng thanh thanh.
Hai con chó đá thếp vàng.
Trước thềm tráng lệ, mấy tầng cửa cung.
Bước vào trong đại sảnh đường,
Hai hàng ghế bạc nhung hồng gối êm.
Quay quần lãnh chúa Phan Xuyên.
Triều đình yến tiệc hàn huyên luận bàn. (650)
Quanh tường hai dãy tượng vàng,
Thiếu niên cầm đuốc sáng choang sảnh đường.
Năm mươi thị nữ lầu trang,
Kẻ thì nghiền bột, kẻ chuyên thêu thùa.
Kẻ thì bếp núc quét nhà,
Kẻ thì dệt vải khung tơ quay đều.
Phan Xuyên trai sống hải hồ,
Gái thì canh cửi vải tơ đêm ngày.
Quán Trí ban thưởng lắm tài,
Khéo tay dệt lụa vẽ vời gấm thêu. (660)
Ngoài sân bóng mát cây cao.
Ngàn hoa đua nở đón chào khách du.
Đây vườn thượng uyển nhà vua.
Cành hoa trắng mộng, gió đùa hương bay.
Cành đào hồng thắm môi say,
Lập lòe lửa lựu trái đầy lá xanh.
Đây vườn táo trĩu lăn tăn.
Đây vườn bạc lá nặng cành ô liu.
Một vườn rộn tiếng chim kêu,
Bốn mùa hoa nở, sớm chiều tỉa chăm. (670)
Gió Tây mát, lại gió Nam,
Táo hồng chín mộng, lê cành lả lơi.
Vườn xa nho chín nơi nơi,
Phần thì ép rượu, phần phơi nắng hồng.
Người mang gùi hái trên đồng,
Nặng nề chân bước trĩu, hàng nho thơm.
Xa xa phía cuối khu vườn,
Luống dài rau cải, chập chờn bướm ong.
Suối trong róc rách đôi dòng,
Tưới vườn rau cải, tưới đồng cây xanh. (680)
Người người đến suối nước trong,
Mang vò đội nước về thành đồi cao.
Của trời huyền nhiệm biết bao,
Đôi dòng suối nhỏ chảy vào đồng xanh.
Trải qua biển cả sóng vần.
Bên vườn hoa trái dừng chân ngắm nhìn.
Rồi qua cổng lớn cung đình.
Triều đình sau lễ tế thần dâng hương.
Uy Lĩnh bước vào sảnh đường,
Đến bên hoàng hậu, ngai vàng nhà vua. (690)
Cúi đầu chàng ngỏ lời thưa,
Màn sương vô ảnh cũng vừa chợt tan.
Cả triều kinh ngạc lặng nhìn,
Dáng anh hùng đã gợi lòng niềm tin.
Uy Lĩnh cất tiếng : Cầu xin,
Vua và hoàng hậu phúc lành phước duyên.
Tôi từ thuyền đắm bão giông,
Xin vua, hoàng hậu thương tình giúp cho.
Đến đây trần trụi bơ vơ,
Cầu xin phương tiện, thuyền nhờ về quê. (700)
Tôi từ gian khổ trăm bề,
Cầu xin cứu giúp để về quê hương.
Lòng tôi mang nặng công ơn,
Cầu Thần Vương Dớt phúc lành hoàng gia.
Nói rồi chàng lại bước qua,
Bên tro lò sưởi đợi vua phán truyền.
Anh Thụy Công lão anh hùng, (Échénéos)
Sau hồi kinh ngạc, tâu cùng vua trên.
Là bậc trưởng lão Phan Xuyên,
Khôn ngoan ăn nói triều thần kính yêu: (710)
Vua An Chính, chẳng nên đâu,
Để người khách lạ ngồi lâu dưới thềm,
Bên lò sưởi cạnh tro tàn,
Người ngồi chờ đợi vua ban đôi lời.
Xin Vua mời đứng dậy thôi,
Ngồi vào ghế bạc, và mời tiếp tân.
Cùng triều đình nhập tiệc trần,
Xử theo phong tục của Thần Vương ta.
Kính trọng người khách phương xa,
Chẳng lo sấm sét, cùng là anh em. (720)
Nhà Vua vội bước đến bên,
Cầm tay Uy Lĩnh mời lên ghế ngồi.
Hoàng tử Lao Đạt vội mời, (Laodamas)
Ghế nhung đinh bạc cho người khách xa.
Thị tỳ mang vò nước hoa,
Rửa tay nước ấm rót ra thau đồng.
Bên bàn bao thức thời trân.
Vua mời Uy Lĩnh vào chung tiệc bàn.
Cuối tiệc Vua bảo gia nhân:
Phong Tô Lộc hãy mang chum rượu này, (Pontonoos) (730)
Rót hầu quan khách hôm nay,
Mừng người khách lạ đến đây tiệc mời.
Như Thần Vương đã truyền lời,
Kính thờ Thần Dớt, giúp người sa chân.
Phong Tô pha rượu mật ong,
Đi mời quan khách một vòng rượu thơm.
Vua An Chính nâng ly lên:
Lắng nghe Lãnh đạo Phan Xuyên Hội đồng.
Hôm nay bữa tiệc đã xong,
Luận bàn đã dứt, tạm cùng chia tay. (740)
Sáng mai ta hẹn đến đây,
Rồi cùng quan khách đến ngay quảng trường,
Lễ Thần, tế vật hy sinh,
Sẽ mời khách lạ tâm tình hàn huyên.
Vì đâu lòng khách muộn phiền,
Trải bao gian khổ xa miền cố hương.
Vì đâu sóng cả đắm thuyền,
Bão giông phiêu bạt trên đường nổi trôi,
Hôm nay chào đón giúp người,
Ngài mai phiêu bạt, Thần Trời giúp ta. (750)
Người này khách tự phương xa,
Ý Thần gửi đến thử ta tấm lòng.
Nước ta xứ sở an lành,
Là nơi Thần hiện xuống trần thường xuyên.
Uy Lĩnh bày tỏ nỗi niềm:
Tôi không ý khác với lòng cầu xin,
Tôi đây chẳng phải thiên thần,
Tôi bao gian khổ hồng trần đến đây,
Bao nhiêu gian khổ đời này,
Nỗi lòng tôi sẽ phơi bày thế gian. (760)
Sau khi quan khách đã tan,
An Thái hoàng hậu hỏi han cho tường.
Thoáng nhìn y phục của chàng,
Nhận ra nhung gấm bà từng may thêu.
Hỏi rằng : Người đến từ đâu?
Xứ nào phiêu bạt mà cầu thuyền đi.
Ai cho trang phục nhung y?
Xin đừng giấu diếm đến đây lạc đường!
Uy Lĩnh tỏ rõ sự tình:
Thật là khó nói hết lòng thương đau. (770)
Tôi xin chỉ kể bấy nhiêu,
Đôi lời vắn tắt những điều ngài mong.
Từ đảo Ô Chi biển xanh,
Nơi Kiều tiên nữ tóc vàng Ly Cơ,
Con Ất Lạc, Thần Địa Đồ,
Thần tiên khó gặp, chẳng cho gặp người.
Tính kiêu sa chẳng cùng ai,
Tâm tình bầu bạn, một trời cô đơn.
Tôi trên biển cả đắm thuyền,
Tùy tùng mất cả, thân còn nổi trôi. (780)
Lênh đênh mười mấy ngày trời,
Các Thần dẫn hướng đến nơi đảo này.
Nàng tiên nữ tóc vàng mây,
Cứu tôi với nỗi lòng đầy cô đơn,
Ngày qua tình lại sắt son,
Hứa lời bất tử, thanh xuân đời đời,
Tháng ngày thuyết phục tim tôi,
Bảy năm giam giữ, những lời yêu đương.
Riêng tôi đôi mắt mỏi mòn,
Nhớ quê hương, nước mắt tràn áo khăn. (790)
Đến năm thứ tám bước sang,
Bỗng nàng nhận lệnh Sứ truyền Thần Vương.
Nàng đà theo ý lệnh Thần.
Cho tôi đóng một chiếc thuyền ra đi.
Áo quần, lương thực trao tay.
Thổi cơn gió nhẹ buồm bay vượt ngàn.
Mười bảy ngày biển lênh đênh,
Ngày mười tám thấy núi xanh quê Ngài.
Lòng tôi ngỡ đã an vui,
Ngờ đâu sóng cả dập vùi biển xanh. (800)
Trở về Thần Biển Hải Long,
Dâng bao bão tố tan tành thuyền tôi.
Thần Y Nơ giúp tiếp hơi,
Giúp khăn tiên mới đến nơi xứ Ngài.
Tránh xa ghềnh đá sóng dồi,
Tìm nơi trú ẩn bên đồi suối Lam.
Tìm nơi bụi rậm ẩn nằm.
Đắp chăn lá biếc mê man ngủ vùi.
Một đêm và một ngày trời,
Đến chiều tỉnh giấc non đoài bóng nghiêng. (810)
Trái cầu rơi xuống gần bên,
Một đoàn thiếu nữ rộn ràng đùa vui.
Gặp nàng Công chúa, con Ngài,
Ngỡ là Thần nữ ngỏ lời cầu xin.
Được nàng rượu bánh ban ân,
Dầu hương tắm rửa, áo quần thơm tho.
Qua bao nhiêu nỗi âu lo,
Đây là sự thật trình cho tỏ tường.
Vua An Chính tiếp lời chàng:
Con ta bổn phận tiếp tân chu toàn, (820)
Thì ra nó chẳng khéo khôn,
Lẽ ra nó phải đích thân đưa vào,
Cùng đoàn thị nữ mời chào,
Tâu trình sự việc thế nào cùng ta.
Vì dầu sao nó cũng là,
Người đầu tiên gặp người ra khẩn cầu.
Uy Lĩnh vội chữa lỗi mau :
Lỗi này chẳng phải lỗi nào công nương,
Vì cô mời mọc theo đoàn,
Nhưng tôi nghi ngại đi riêng một mình, (830)
Nhà vua An Chính tỏ tình:
Chẳng gì để ngại tấm lòng của ta.
Nếu duyên kỳ ngộ chẳng là,
Nếu lòng đôi kẻ thật thà yêu nhau.
Nếu duyên Thần Dớt đã trao,
An Long, Quán Trí kết đào xe duyên.
Nam Chi Ca cũng thuận lòng,
Thì ta làm lễ tơ hồng con ta.
Người sẽ là rể trong nhà.
Ở đây ta sẽ tặng quà gia trang. (840)
Nếu người muốn về cố hương,
Chẳng ai có thể ngăn đường người đi,
Khởi hành ta định nay mai,
Năm mươi thủy thủ dẻo dai sẵn sàng,
Xuống thuyền ngủ một giấc lành,
Con thuyền sẽ vượt sóng xanh biển ngàn.
Đến nơi đến chốn bình an,
Thuyền ta thủy thủ biển ngàn chuyên tay.
Uy Lĩnh nghe nói vui thay:
Cảm ơn ân phúc Vua nay hứa lời. (850)
Cầu xin Thần Dớt đỉnh trời,
Xin Ngài chứng giám sáng soi tấm lòng.
Lòng tôi khao khát chờ mong,
Ngày mai đây sẽ về cùng cố hương.
Trong khi trao đổi đôi bên.
Hoàng hậu đã bảo gia nhân sẵn sàng.
Dọn phòng nệm gối khách phòng,
Chăn êm, nước ấm đặt bên cạnh giường.
Rồi mời Uy Lĩnh bước lên,
Chúc lành giấc ngũ êm đềm an vui. (860)
Cám ơn. Uy Lĩnh đáp lời,
Gieo mình bên gối ngủ vùi say sưa,
Ngày mai triều nghị cung vua.
Ngày mai mở hôi sớm trưa đón mời. (864)
Thi Ca khúc 4:
Vua An Chính tiếp tân Uy Lĩnh
(Câu 865 đến 1382)
CHÚ THÍCH:
468. Athènes. Nhã Kinh, Nhã Điển kinh đô Hy Lạp, mang tên Thần nữ Athéné, có đền Thần nữ Athéné. Sự khôn ngoan và khéo tay bẩm sinh do Athéné dạy dỗ.
620. Apollon; Người Hy Lạp xưa cho rằng người đàn ông bị bệnh tim mạch chết bất ngờ là do Thần Apollon bắn tên, phụ nữ là do Artémis bắn.
THI CA KHÚC 4: Vua An Chính Vương tiếp tân Uy Lĩnh
TÓM LƯỢC: Hôm sau Uy Lĩnh tham dự Hội Đồng, sau đó xem các trò vui, nghe người du tử hát ca khúc kể chuyện cuộc chiến thành Troa, Uy Lĩnh không cầm được nước mắt. Vua An Chính nhìn thấy ngạc nhiên, sau đó vua mời mọi người sang thao trường dự các cuộc thi đấu thể thao. Sau cuộc thi Âu Di Anh (Euryal) kiêu khích Uy Lĩnh ra tranh tài, Uy Lĩnh ném dĩa vượt xa mọi kỷ lục. Vua An Chính nguôi giận và mời du tử Đỗ Quyên (Décamonos) hát kể chuyện mối tình vụng trộm Thần Chiến Tranh An Thiết (Arès) và Thần Vệ Nữ (Aphrodite), các ngôi sao vũ công múa theo lời kể. Uy Lĩnh thán phục. Nhà vua mời các lãnh chúa tặng quà cho khách. Âu Di Anh tặng thanh gươm báu để tạ lỗi. Buổi tối thết tiệc trong cung điện, công chúa Nam Chi Ca đến chào từ biệt Uy Lĩnh. Sau bữa tiệc Đỗ Quyên du tử hát bài Ngựa gỗ thành Troa. Uy Lĩnh cảm động khóc, nhà vua hỏi sự tình.
Hừng đông vừa rạng chân trời, (865)
Khắp nơi nô nức tiếng người Phan Xuyên.
Bước theo chân tiếng loa truyền,
Áo quần tề tựu quản trường A gôra*
Quán Trí Tuệ đến từng nhà,
Trong mơ giục giã người ra Hội Đồng. (870)
Áo quần lộng lẫy bạc vàng,
Ngồi quanh thềm bậc nghiêm trang đợi người.
Vua An Chính Vương cất lời:
Hỡi người quý tộc, ta mời hội chung.
Nguyên do giấc mộng thần nhân,
Bảo rằng khách quý đến thăm xứ mình.
Ta chưa biết rõ họ tên,
Khách kia mới đến sau cơn đắm thuyền.
Khách dân từ xứ rạng đông,
Hay là dân xứ hoàng hôn nơi nào. (880)
Thiết tha muốn chúng ta mau,
Giúp cho phương tiện thuyền tàu về quê.
Chúng ta truyền thống bao giờ,
Tận tình giúp kẻ sa cơ lỡ đường.
Chúng ta không để muộn phiền,
Cho ai chờ đợi đau thương mỏi mòn.
Nào mau chuẩn bị con thuyền,
Ta vừa cho đóng mới xong vững vàng.
Năm mươi chèo lái một đoàn,
Sẽ đưa người đến quê hương đợi chờ. (890)
Tiệc vui hội ngộ bất ngờ,
Họp bàn rồi sẽ đến giờ hội chơi,
Hôm nay phòng hội lâu đài,
Đỗ Quyên du tử hát vài chuyện vui.
Nghiêm trang nghi lễ rước mời,
Tiệc mừng tân khách như lời thần nhân.
Thịt ngon, rượu ngọt vừa xong,
Người du tử nắn dây xoang phím đàn.
Lời ca thổn thức tiếng lòng,
Lời ca kể chuyện anh hùng thành Troa. (900)
An Sinh dũng tướng bất hòa, (Achille)
Uy Lĩnh chiến thắng nhờ là mưu sâu.
Mọi người chăm chú từng câu,
Chẳng ai nghe tiếng u sầu buồn thương.
Dấu tay trong lớp áo choàng,
Uy Lĩnh rơm rớm, mắt vương lệ tràn.
Vua An Chính bỗng ngỡ ngàng,
Vì đâu khách đã bàng hoàng tiếc thương?
Nhà Vua ngồi kế một bên,
Lặng nghe thổn thức sau khăn áo choàng. (910)
An Chính Vương ra lệnh ngừng,
Cuộc thi thể dục bước sang thao trường:
Lắng nghe hỡi người Phan Xuyên,
Sau khi tiệc rượu đã tàn tiếng ca.
Bây giờ ta hãy bước qua,
Thao trường dự cuộc tranh đua sức tài.
Ném dĩa, đấu vật chen vai,
Nhảy sào, quyền thuật, nhảy dài, chạy đua.
Mọi người cùng bước chân qua,
Người ghi tên đấu, người ra tranh hùng. (920)
Các tay cao thủ nổi danh,
Lao Đạt, Hạ Lý, Chí Cao, (Laodamas, Halios, Clytonéos)
Hiên ngang hùng dũng thanh tao như thần.
Cuộc đua chạy bộ khởi hành,
Thao trường phát lệnh, nhanh chân đua tài.
Bụi mù tung bước chân dài,
Chí Cao chạy bộ dẻo dai ai bằng.
Ô liu, Vua đội một vòng,
Vật quà trao tặng vinh danh người hùng. (930)
Bước sang đấu vật tay không,
Âu Di Anh thắng vẻ vang anh hào. (Euryale)
An Phi Long thắng nhảy cao, (Amphialos)
Âu Lân ném dĩa ai nào xa hơn. (Elastreus)
Lao Đạt Mai mấy trận liền,
Thắng cuộc quyền thuật nhanh hơn mọi người.
Say men chiến thắng tươi cười,
Lao Đạt Mai mới nói lời đong đưa:
Hỡi người khách lạ phương xa,
Vai u thịt bắp có là kém ai? (940)
Vì đâu chẳng dự tranh tài,
Mua vui cùng với mọi người đua tranh.
Âu Di Anh vội tán đồng:
Lao Đạt Mai có ý rằng rất hay,
Bây giờ phải tỏ ý này,
Để mời khách lạ trổ tài đua tranh.
Hoàng tử đến trước Hội Đồng,
Ngỏ lời Uy Lĩnh được cùng tranh đua:
Bây giờ đến lượt khách ta,
Biết thể thao hãy cùng ra tranh tài.
Vinh danh thay những cuộc chơi, (950)
Sức người nổ lực cuộc vui mới tròn.
Hãy quên đi những ưu phiền,
Cuộc đi đã sẵn con thuyền ra khơi.
Lái chèo đã tuyển xong rồi,
Bạn thuyền chờ đợi ngày mai khởi hành.
Uy Lĩnh vội đáp lời rằng:
Vì đâu hoàng tử mời cùng tranh đua?
Lòng tôi lo lắng sớm trưa,
Chẳng còn nghĩ đến hơn thua cuộc đời. (960)
Trải qua bao sóng gió rồi,
Sức còn mỏi mệt với trời bão giông.
Hôm nay đứng trước Hội Đồng.
Được xin quý vị niệm tình thứ cho.
Âu Di Anh thách pha trò:
Phải chăng khách lạ chẳng hay ho gì!
Chẳng anh hùng các cuộc thi,
Chẳng gì xứng đáng lễ nghi đón mời.
Khách dân buôn lậu mà thôi,
Ranh mãnh kiếm lời trong đám lưu manh. (970)
Buôn hàng kẻ cắp loanh quanh,
Chẳng là lực sĩ điền kinh kỳ tài.
Uy Lĩnh nhìn thẳng chau mày:
Bạn ơi chớ nói lời đầy mỉa mai!
Tôi điên chăng? hãy nhìn tôi.
Các Thần trao tặng mỗi người tài riêng.
Người tráng kiện tựa thần tiên,
Mọi người chiêm ngưỡng ngắm nhìn khát khao,
Bạn đây thân thể đẹp sao,
Những lời rỗng tuếch, lời nào vô duyên. (980)
Bạn đã lăng nhục đớn hèn,
Một lời biết mấy nỗi niềm đớn đau.
Tôi đà từng trải biết bao.
Chiến trường tranh đấu ra vào hiểm nguy.
Lời bạn thật ác độc thay,
Bạn đà thách thức lòng này chẳng yên.
Nói rồi chàng cởi áo choàng.
Vào thao trường chọn dĩa tròn nặng to,
Trọng tài thông báo thước đo,
Uy Lĩnh như chiếc lò xo xoay mình. (990)
Đôi tay mạnh mẽ vút nhanh,
Dĩa bay vi vút rít vòng không trung.
Mọi người trố mắt ra nhìn,
Vượt xa kỷ lục thao trường Phan Xuyên.
Quán Trí dưới dạng giám biên,
Thông báo kết quả đo lên mọi người:
Khách lạ thật bậc kỳ tài,
Người mù cũng thấy huấn chi, phi thường.
Vượt xa kỷ lục hàng năm,
Chưa ai đạt đến làn ranh này rồi. (1100)
Uy Lĩnh rạng rỡ vui cười:
Các bạn chưa chắc tôi thời ném thêm,
Dĩa sau còn sẽ xa hơn,
Bây giờ ta hãy chuyển sang các trò,
Quyền thuật, đấu vật, chạy đua,
Ai muốn tranh sức hơn thua xin vào.
Trừ Lao Đạt Mai miễn cho,
Hoàng tử là chủ chăm lo đãi đằng.
Tôi là tân khách đến thăm,
Chẳng ai tranh với bạn thân bao giờ. (1010)
Với các bạn khác chẳng nề,
Tinh thần thượng võ tranh đua kỳ tài.
Bạn nào thách đấu môn chi,
Sẵn sàng xin được tiếp nghi giao tình.
Mỗi người tài một bộ môn,
Riêng tôi tài nghệ bắn cung sở trường.
Âu Tô không chết trên giường, (Erytos)*
Thần An Long bắn vì tranh cùng người. (1020)
Ném sào tôi chẳng kém ai,
Nhưng về chạy bộ nhường tài các anh.
Vì khi thuyền đắm bão giông,
Sức tôi mỏi mệt lội cùng sóng to.
Vua An Chính nói pha trò:
Nhờ bạn nóng giận mới cho biết tài,
Chúng tôi kính phục lắm rồi,
Mọi người đã biết thực tài khách xa.
Giờ đây xin bạn bỏ qua,
Những lời xấc xược nói xa nói gần. (1030)
Hôm nay hội ngộ vui chung,
Hãy vui cho trọn tình thân mặn nồng.
Mai đây trở lại quê hương,
Rồi người sẽ hiểu tấm lòng cố nhân.
Rồi đây trong một bữa ăn,
Bên con, bên vợ tiếp tân anh hào,
Bạn rồi sẽ nhớ năm nao,
Bên bàn này được biết bao ơn lành,
Ấy là Thần Vương ban ân,
Lưu truyền con cháu tiếp tân thật lòng. (1040)
Đời cha cho tới đời con,
Trọng người khách lạ sa chân khốn cùng.
Chúng tôi chẳng giỏi côn quyền,
Nhưng tài chạy bộ điền kinh lắm người,
Thủy thủ đi bốn phương trời,
Giỏi nghề buồm gió, ra khơi lái thuyền.
Chúng tôi yến tiệc quanh năm.
Đàn ca múa hát, áo quần thời trang,
Nước nóng tắm và giường êm,
Chúng tôi hạnh phúc sống trên đất lành. (1050)
Nào nhanh lên các vũ công,
Các ngôi sao sáng khắp miền Phan Xi. (Phéacie)
Hãy cùng nhau nhảy múa đi,
Vui hôm nay nữa nhớ gì bạn ơi!
Mai về quê cũ xa xôi,
Bạn ơi hãy kể cuộc vui êm đềm.
Đỗ Quyên du tử đàn ngâm,
Ông đang còn đó đâu chăng trong nhà.
Lời Vua An Chính truyền ra,
Như lời thần thánh chốc đà có ngay. (1060)
Quản gia mang chiếc đàn dây,
Chín người đứng dậy ra tay quản trò,
Tiết mục tập luyện sẵn lo,
Sân khấu ca múa thay cho khán đài.
Đỗ Quyên du tử được mời,
Ôm đàn du tử ngồi nơi trung đình.
Vòng quanh trai gái thanh xuân,
Vỗ tay múa hát, dậm chân nhịp nhàng.
Uy Lĩnh say ngắm vũ đoàn,
Áo quần lộng lẫy như tiên xuống trần. (1070)
Theo lời, vũ điệu dịu dàng,
Âm vang trầm lắng cung đàn cất lên.
Người du tử ngâm êm đềm,
Mối tình vụng trộm của Thần Chiến Tranh,
Gặp Thần Vệ Nữ xiêu lòng,
Nữ Thần Sắc Đẹp cõi tình thế gian.
Cuộc tình sấm sét bàng hoàng,
Hai Thần hội ngộ lầu trang của nàng.
Hỏa Thái Sơn Thần thọt chân, (Héphaistos)
Vắng nhà để vợ giai nhân lạnh lùng. (1080)
Tiếng lòng gặp gỡ tri âm.
Từ đùa vui đến gối chân nồng nàn.
Thái Dương Thần thấy rõ ràng, (Hélios)
Mặt trời soi sáng chiếu giường trốn đâu?
Thần đà mách trước học sau,
Trái tim Hoả Thái như dao đâm vào.
Nén hờn ghen nỗi thương đau,
Về lò rèn chế máy rào bẩy dê,
Trên trần như nhện giăng tơ,
Dưới giường máy bẩy chực vồ bó tay. (1090)
Máy móc tinh xảo diệu kỳ,
Thánh thần chẳng thấy huấn chi si tình.
Rồi đi Lâm Mộng, phao tin, (Lemnos)
Thượng Thành xây dựng cuối năm mới về. (Acropole)
An Thiết hy vọng tràn trề, (Arès)
Nhanh chân tìm phút giao hòa xác thân.
Trước lầu gặp lại tình nhân,
Vuốt ve mời mọc, nói năng dịu dàng:
Vào loan phòng đó hỡi chàng,
Tình yêu rượu ngọt, mơ màng sướng vui. (1100)
Lão già chân thọt đi rồi,
Không còn có mặt cõi trời Thiên Sơn.
Đi Lâm Mộng, dân Sinh Tiên, (Lemnos, Sintiens)
Nói lời man rợ, nơi miền hoang vu.
Nữ Thần Sắc Đẹp Tình Yêu,
Hồng đôi má thắm yêu kiều dời chân,
Vào loan phòng thoát y trang,
Làn da ngà ngọc bàng hoàng giấc xuân.
Tình nhân lại gặp tình nhân,
Đôi môi quấn quít, đôi thân giao tình. (1110)
Nào hay bẩy sập trên giường,
Không còn nhúc nhích, lưới giăng vẫy vùng.
Thái Dương Thần sẵn núp rình,
Báo Thần Hoả Thái: Tính tình tính tang.
Vào phòng lửa giận ngút ngàn,
Hét lời báo động các Thần đến xem:
Hỡi Dớt, đấng Phụ Vương,
Và các Thần Thánh phúc ban cõi đời,
Đến đây chứng kiến tận nơi,
Cái "Thằng khốn nạn",* quỷ trời cuồng dâm. (1120)
Vì tôi tàn tật thọt chân,
Mà Ngọc Vệ Nữ xem kinh, xem thường.
Con gái Thần Dớt ngoại tình,
Mê "Thằng An Thiết" chiến tranh phá đời,
Bởi vì "Thằng" ấy đẹp trai,
Đôi chân thẳng thóm, tôi thời thọt chân.
Lỗi này bởi tại song thân,
Vì đâu mà để tôi sinh cõi đời.
Vào đây chứng kiến mà coi,
Hai Thằng nằm tại giường tôi làm tình. (1130)
Nào ngờ bị sập bẫy giăng,
Quả tang bắt gặp, chối quanh được nào?
Tôi chờ Thần Dớt trên cao,
Đến đây tôi lại xin trao con Ngài.
Đề Ngài phân xử đôi lời,
Con Ngài nhan sắc tuyệt vời thần tiên,
Thế mà đức hạnh đảo điên,
Có chồng mà lại gian dâm với "thằng"…
Các Thần tụ họp chung quanh,
Thậm thò thập thụt trước khung cửa đồng. (1140)
Nào là Thần Biển Hải Long,
Thần Rung Mặt Đất, gió giông bão bùng,
Nào Thần Mai Hạc truyền tin,
Nào Thần Sức Mạnh An Long cõi trời.
Các Thần Nữ thẹn chín người,
Chẳng ai dám tới tận nơi loan phòng.
Các Thần Nam trước cửa phòng,
Nói cười khúc khích, cảnh tình trớ trêu.
Chẳng ai có ý gì nhiều,
Nhìn quanh, nhìn quẩn ai kêu giúp giùm. (1150)
Không nên vì chuyện xấu chung,
Thế gian còn lấy chuyện Thần làm gương.
Hoả Thái Sơn thần thọt chân,
Mà tài sáng chế, thánh thần phải thua.
Âu là số phận cũng vừa,
Ngoại tình phải trả, dối lừa phải mang.
Thần An Long quay mặt sang,
Nhỏ to Mai Hạc Thông Tin Sứ Thần:
Này này, Thần có thích chăng?
Rớt trong cái bẫy gối chăn cùng nàng. (1160)
Lưới dăng xiết chặt hai đàng,
Đôi thân quấn quít, chẳng than thở gì?
Đạt Di Phong nheo mắt cười: (Argiphonte)*
Tôi nào được cái tuyệt vời sướng vui.
Siết thân trong cái lưới rồi,
Kệ thây ai tiếng nói cười chung quanh,
Nằm cùng Sắc Đẹp Nữ Thần,
Ấy là châu ngọc ở trong cõi đời.
Các Thần trẻ nói cười cười,
Thần Hải Long đứng một lời van xin: (1170)
Hỡi Thần Hỏa Thái tài năng,
Thả Thần An Thiết, tôi làm chứng cho,
Tôi đứng bảo đảm giấy tờ,
Muốn gì, hắn trả chẳng lo đáp đền.
Các Thần chứng kiến sự tình,
Những lời tôi hứa, hắn đành chẳng sai.
Xua tay Hỏa Thái trả lời:
Thần Rung Chuyển Đất đòi hơi quá nhiều.
Hung thần bảo đảm cùng nhau,
Những lời thất thiệt thể nào ai tin. (1180)
An Thiết thoát cái lưới dăng,
Phủi tay rảnh nợ ai ngăn được nào.
Hải Long Thần giọng ngọt ngào:
Thần Hỏa Thái hãy vì nhau cõi Thần,
Nếu An Thiết chối nợ nần,
Hứa lời tôi sẽ thay giùm trả cho.
Thần Rèn hê hả, nê no:
Thôi thì được món lời to phen này,
Tin lời Thần thả ra đây.
Nói rồi bấm nút thả ngay hai Thần. (1190)
An Thiết xấu hổ phi thân,
Đi về Thạch Các ẩn mình nơi đây. (Thrace)
Vệ Nữ mặc áo liếc cười,
Bay về đảo Chuyết vui đời yêu đương. (Chypre)
Ở Hải Phố có ngôi đền, (Paphos)
Thờ Thần Vệ Nữ khói hương đêm ngày.
Nàng tắm biển tím chân mây,
Tẩm hương hoa ngát, ngất ngây thánh thẩn.
Áo quần nàng bốn mùa xuân,
Thướt tha tơ lụa, long lanh cõi trần. (1200)
Tiếp theo điệu hát cung đàn,
Vua An Chính lại mời chàng cùng xem.
Hạ Lý, Lao Đạt múa banh,
Điệu múa đặc sắc, ai tranh được tài.
Quăng quả bóng tím lên trời,
Hai chàng nhào lộn chẳng rơi xuống sàn.
Khán giả tay vỗ nhịp nhàng,
Đôi thân uyển chuyển, tung hoành dẻo dai.
Tay chân lượn tựa con thoi,
Bắp thịt cuồn cuộn buông lơi nhẹ nhàng. (1210)
Vũ điệu vừa dứt nhịp đàn.
Mọi người đứng dậy, vang rền vỗ tay.
Uy Lĩnh thú vị mê say,
Ngỏ lời tán tụng mục này cùng vua:
Mấy lời trang trọng xin thưa.
Vinh quang Vua đã ban cho được nhìn,
Tuyệt vời thay các vũ công,
Tài tình đã lắm, trông càng thích sao.
An Chính quay nói đồng bào:
Lắng nghe, lãnh chúa, thân hào Phan Xuyên, (1220)
Tân khách sành điệu ngợi khen,
Thật là một bậc tri âm giao tình.
Mười hai lãnh chúa các thành,
Tôi, mười ba hãy chung cùng tặng cho.
Mỗi vị áo choàng thêu hoa,
Một áo dài gấm. một pho vàng ròng.
Mang đến cùng lễ tặng chung.
Giờ đây ta hãy sang phòng tiệc vui.
Âu Di Anh vội tiếp lời:
Muôn tâu Hoàng Thượng riêng tôi lỗi này. (1230)
Đền bù lời nói chẳng hay,
Xin tặng gươm này, tạ lỗi khách tân.
Cán ngà chạm bạc, gươm đồng,
Võ bạc chạm ngọc đẹp xinh vô cùng.
Thanh gươm quý báu lưu truyền,
Dẫu ngàn vàng chẳng đâu tìm thế gian.
Dứt lời chàng lại quay sang,
Cầu xin Uy Lĩnh vì chàng thứ tha:
Kính xin tân khách bậc cha,
Những lời xúc phạm, tôi đà thốt ra. (1240)
Cầu mong cho gió bay xa,
Cầu Thần phù hộ người cha chóng về.
Cùng vợ hiền với nước quê,
Từ lâu người đã trăm bề khổ đau.
Uy Lĩnh cảm tạ vái chào:
Cũng xin chúc bạn với bao tấm lòng.
Cầu Thần phù hộ ban ân,
Chúc bạn sung túc, an lành, giàu sang.
Bạn đã chẳng tiếc thanh gươm.
Tặng tôi tạ lỗi, tạ ơn bạn hiền. (1250)
Nói rồi đón nhận tri ân,
Choàng qua vai rộng và mang bên mình.
Mặt trời vàng bóng nghiêng nghiêng,
Rỡ ràng tân khách, vinh quang chân tình.
Quan khách mang đến tặng phần,
Đặt bên Hoàng hậu mâm đồng lễ nghi.
Các hoàng tử sắp xếp ngồi,
Nhà vua quay nói đôi lời quản gia:
Hãy truyền mang chiếc rương hoa,
Chiếc rương đẹp nhất xếp quà tặng đây. (1260)
Truyền thị nữ chuẩn bị ngay,
Nước nóng đun ấm trong hai chậu đồng.
Cho tân khách được vui lòng,
Thơm tho sảng khoái lại cùng tiệc vui.
Phần ta, ta sẽ tặng người,
Chiếc chung vàng để ngày ngày nhớ ta.
Hôm nay đại sảnh tiệc hoa.
Cùng cầu Thần Dớt, Hạ Cơ Thiên đình. (Zeus, Héra)
Hoàng hậu ra lệnh gia nhân.
Trong phòng tắm, đốt nồi đồng ba chân. (1270)
Nước đun, nước tắm sẵn sàng.
Nước hoa, khăn tắm gấm vàng y trang.
Vào phòng chuẩn bị chiếc rương,
Xếp vào tặng phẩm, áo choàng, áo thêu.
Đậy rương cẩn thận dặn dò:
Đây dây lụa hãy buộc nơ thắt vào.
Xuống thuyền, một giấc chiêm bao,
Chiếc rương buộc chặt ai nào lấy chi.
Uy Lĩnh đậy nắp cột dây,
Quấn quanh tám hướng, thắt tay kết vòng. (1280)
Phù Tiên từng chỉ vẽ chàng, (Circé)
Vòng nơ kỳ diệu khó lòng mở chi.
Rồi vào phòng tắm riêng tây,
Dầu hương, nước ấm, thị tỳ sẵn cho,
Như bao năm Kiều Ly Cơ.
Nàng Tiên Vàng Tóc chăm lo cho chàng.
Tắm dầu hương ngát nồng nàn,
Lau mình, áo lụa, áo choàng lưng đai.
Thong dong chàng bước ra ngoài,
Lẫn cùng quan khách, lai rai rượu nồng. (1290)
Nam Chi Ca đẹp dáng tiên,
Từ lầu cao xuống dịu hiền đến bên,
Nàng nhìn chiêm ngưỡng dung nhan.
Mắt cười trong mắt, chứa chan đôi lời:
Kính chào khách tự viễn khơi,
Ngày mai người sẽ về nơi quê nhà.
Chàng còn nghĩ tới tình ta,
Giúp người bên suối Lam kia buổi đầu.
Uy Lĩnh cảm tạ ơn sâu,
Ngỏ cùng nàng một vài câu chân tình: (1300)
Hỡi Nam Chi Ca công nương!
Ái nữ cao thượng, Đại Vương anh hùng,
Mai Thần Vương Dớt Thiên Đình,
Hạ Cơ Thiên Mẫu ơn lành ban ta.
Được bình yên trở về nhà.
Ngày đêm cầu nguyện lòng ta ơn nàng,
Nàng như Thần nữ gia ân,
Trọn đời nhớ buổi thanh xuân bên rừng.
Rồi chàng cùng bước đến gần,
Ghế ngồi đinh bạc sắp cùng nhà Vua. (1310)
Trên bàn sắp sẵn tiệc hoa,
Chén mời tân khách chung pha rượu nồng.
Cận thần lại dẫn đường sang,
Người du tử với cây đàn lãng du,
Đỗ Quyên Tử nghệ sĩ mù,
Nhân dân yêu mến lời ru tiếng đàn.
Cung đình ngồi giữa bên bàn,
Uy Lĩnh cắt miếng thịt vàng chín thơm,
Rồi trao cho kẻ hầu gần:
Trao Đỗ Quyên Tử, đây phần của ta, (1320)
Tặng người du tử ngâm ca,
Rằng ta trân trọng phục là biết bao.
Thần Thi Ca dạy tiếng thơ,
Nữ thần yêu mến tiếng tơ của lòng.
Kẻ hầu mang dĩa thịt sang,
Người du tử nhận vô vàn cảm ơn,
Mắt mù vui sướng ngập tràn,
Khách mời trao chén rượu nồng ngát hương.
Uy Lĩnh trịnh trọng nói sang:
Cõi đời tôi phục trước tiên là người. (1330)
Rằng Nàng Thơ đã dạy lời,
Hay An Long gợi tuyệt vời tiếng thơ.
Tâm tình gửi một trời mơ,
Tiếng lòng xúc cảm bao giờ mê man.
Người nghe từ một chứng nhân,
Đem lời thơ dệt điệu vần thật hay,
Bây giờ hãy hát đề này,
Ngâm chuyện ngựa gỗ đóng xây hạ thành.
Âu Thuật tay khéo xảo tinh, (Epéios)
Quán Trí giúp sức, chứa trong chục người. (1340)
Mưu mô Uy Lĩnh vẽ vời,
Can trường nằm phục, đêm thời thoát ra.
Lửa cao thành mở tung là,
Đoàn quân bốn phía xông pha hạ thành.
Tài tình kết điệu lựa vần,
Kể từ diễn biến thăng trầm phiêu lưu,
Tài năng người thật lớn lao,
Vì Thần Thơ đã nhiệm trao cho người.
Đổ Quyên du tử theo lời,
Cung đàn kể chuyện buông lơi theo vần,
Từ Đạt Liên bỗng rút quân, (Argiens, Hy Lạp)
Đốt lều, đốt trại, xuống thuyền bỏ đi.
Để con ngựa gỗ nằm ì,
Người Troa dân chẳng hiểu chi chuyện này.
Bắt người trốn lại mới hay.
Tạ Thần phá phách nên xây tượng thờ.
Troa dân hùa kéo ngựa vô,
Vào thành hương khói, ai ngờ mưu sâu.
Người du tử kể trước sau,
Cung đàn, vần điệu, xuyến xao lòng người. (1360)
Uy Lĩnh trầm tưởng từng lời,
Nhớ bao gian khổ, nhớ người xót xa.
Hai hàng nước mắt nhỏ sa,
Lân trên đôi má, thiết tha mong chờ.
Chuyện lòng vừa dứt tiếng tơ,
Nhà Vua An Chính sững sờ khoát tay.
Tiếng đàn im bặt cung mây,
Hỏi chàng Uy Lĩnh: Sự này tại sao?
Rằng người quê quán nơi đâu?
Phương nào cố quốc mà cầu thuyền đưa? (1370)
Kể cho ta biết chuyện xưa,
Vì đâu lưu lạc hải hồ bấy nay?
Vì đâu mà đến nơi này?
Một thân trơ trọi thuyền đi lối nào?
Quê người thần thánh ra sao?
Kể cho ta biết nơi nào đi qua?
Vì đâu người khóc lệ sa?
Chuyện thành Troa đó can qua chi người?
Vì đâu trận chiến xa vời,
Người không cầm được khôn vơi nỗi sầu? (1380)
Vì đâu và bởi vì đâu,
Cho ta biết với nỗi sầu ly hương? (1382)
Thi Ca khúc 5: Cuộc phiêu lưu của Uy Lĩnh: Đánh thành Si Côn, đến Lô Tô Pha, đến xứ người khổng lồ độc nhãn.
CHÚ THÍCH:
Đảo Schérie, Sơn Chi, truyền thuyết cho là đảo Corcyre nay là Corfou. Ulysse đặt chân lên bờ phía Tây. Hải cảng và thành phố nằm bờ phía Đông. Gặp nàng Nausicaas, sau đó phải băng qua rửng, qua đồng ngang đảo mới đến kinh đô. Phía Tây ngày nay vẫn còn cửa một dòng suối có hồ rộng, có thác nước chảy, thường dùng nơi gặt quần áo, bên cạnh bãi cát rộng và bãi cỏ nơi phơi quần áo và chơi cầu.
Ithaque: Thủ đô vương quốc Ulysse gồm 4 đảo Doulichion, Samé, Zante và Ithaque. Ulysse còn có một phần đất liền để chăn nuôi bò.
Achéens, Homère còn gọi là Argiens, Daniens tên dân Hy Lạp thời Homère tóc nâu, đàn ông thường để râu hàm, râu quai nón và để tóc dài. Có nền văn minh tiến khá xa so với các dân tộc đương thời biết chăn nuôi có quy củ, biết dùng ngựa và kỷ thuật biến chế kim loại đồng, sắt, vàng bạc.
Dân tộc Hy Lạp kế thừa thần thoại Ai Cập. Thần Cú Mèo sang Thần nữ Athéné chỉ còn đôi mắt Cú Mèo. Thần Bò Cái sang Thần nữ Héra chỉ còn đôi mắt bò cái.
Troade là một xứ nằm giữa Hellespont, Phrygie và đảo Lesbos. Kinh đô Troade là Troie, nằm tả ngạn sông Mendérès Scamandre, chu vi khoảng 12 km, có thành Bunar Baschi vòng thành 2km dựng trên mõm đá cao 154m. Schieman người Đức năm 1871-1890 lại cho rằng thành Troie nằm trong khu vực Hissarlik, tiếng địa phương gọi là Cổ Thành.
Calypso là một nymphe, tiên nữ khác với Thần nữ ở Olympe. Tiên nữ cai quản một hòn đảo, một biển nhỏ, một khu rừng, một con suối. Có thuyết cho rằng đảo Ogygie là đảo Gozo của Calypso nằm ở Malte, nơi đây có động tiên nữ Calypso, theo V. Bérard nằm ở đảo Madère gần bờ biển Maroc.
868. Agora: các thị thành làng mạc Hy Lạp đều có một quảng trường lộ thiên hình vòng cung với các bậc đá làm chổ ngồi, ở giữa là nơi đứng tranh luận, hội họp.
1179.Héphaistos hay Vulcain con Thần Zeus và Héra, vì bênh mẹ hay ghen tuông, bị Zeus ném khỏi Olympe, rơi xuống núi lửa Etna lập lò rèn ở đấy, Héphaistos khéo tay theo lệnh Zeus điêu khắc Pandore người đàn bà đầu tiên trên mặt đất, Héphaistos là chồng Aphrodite thần Vệ Nữ.
1120. Tôi dùng chữ mới Cõi Thần gọi "thằng" là "thầng", thần đáng khinh bỉ.
1163. Argiphonte một danh hiệu khác của Thần Hermes Sứ thần Truyền Tin.
1144. Apollon Thần Ánh Sáng, Mỹ Thuật và Nghệ Thuật còn có tân Phocbus thường cầm cung tên và cây đàn lyre. Thần soi sáng mật đẩt dạy cung nỏ, thi ca và âm nhạc.
THI CA KHÚC 5: Cuộc phiêu lưu của Uy Lĩnh 
Đánh thành Sĩ Côn, đến Lô Tô Pha 
Đến xứ người khổng lồ độc nhãn
TÓM LƯỢC: Uy Lĩnh xưng danh và kể lại những gian nan từ sau khi rời thành Troa. Trước tiên quân Uy Lĩnh cập bờ biển Thạch Các, tấn công thành Ích Ma Rốt, qua ngày hôm sau bị dân Si Côn phản công dữ dội phải rút lui. Đoàn thuyền binh bị ngược gió băng qua mũi Ma Lê, sau chín ngày lênh đênh cập vào bến xứ Lô Tô Pha. Uy Lĩnh sai ba người đi thám thính, nhưng họ được dân địa phương cho ăn trái mật nên u mê quên mất về thuyền. Uy Lĩnh tìm lại được mang về thuyền chữa trị. Đoàn thuyền lại ra đi cập vào một hòn đảo đối diện với đảo Cyclope. Uy Lĩnh cùng 12 thủy thủ thám thính. Họ khám phá ra đảo giống người khổng lồ một mắt, nhưng đã muộn họ bị khổng lồ Độc Ly Phong giam trong hang và ăn thịt 6 người trong hai ngày. Uy Lĩnh dùng kế phục rượu và đâm cọc nhọn nung đỏ làm mù con mắt Độc Ly Phong. Ngày hôm sau Uy Lĩnh cùng 6 bạn núp dưới bụng đàn súc vật thoát ra và lùa đàn súc vật về thuyền. Thuyền lại ra xa hơn Uy Lĩnh lại xưng danh trêu chọc. Khổng lồ lại ném đá đẩy thuyền sang bờ đảo bên. Khổng lồ biết tên, cầu cha là Thần Hải Long trừng trị. Đêm đó họ đốt lửa ăn mừng và thương tiếc sáu bạn đã mất. Sáng hôm sau thuyền lại ra đi.
Lựa lời Uy Lĩnh mới rằng: (1383)
An Chính Đại Đế vinh danh loài người.
Riêng Ngài muốn biết đời tôi,
Vì đâu lưu lạc phương trời đến đây.
Mười năm phiêu bạt đọa đày,
Nói lảm sao hết những ngày gian truân.
Con Vua Lã Đạt nối dòng.
Chính tôi Uy Lĩnh chiến công rạng ngời. (1390)
Cõi trần cho đến cõi người,
Thành Troa chiến trận thần người đều hay.
Quê tôi An Thạch gần đây,
Thành xây đảo biếc, sóng mây bốn bề.
Mười năm tàn trận chưa về,
Kiều Ly Cơ giữ gần kề hang sâu.
Bảy năm cung phụng khẩn cầu,
Tình tù bất tử, nhiệm mầu thanh xuân.
Phù Tiên lưu giữ lầu trang, (Circé)
Bồng Lê tiên nữ muốn cùng sánh vai. (Aiaié) (1400)
Nhưng tim tôi chẳng yêu ai,
Vợ con yêu dấu, nhớ hoài mẹ cha.
Lòng quê thương nhớ bao la,
Đêm thương ngày nhớ dẫu xa muôn trùng.
Quê hương hoài vọng mơ màng,
Tha hương đau xót ngày trông đêm chờ.
Riêng Ngài muốn biết chuyện xưa,
Từ khi chiến trận thành Troa đã tàn:
Gió mùa Đông Bắc thổi sang,
Đưa đoàn thuyền chiến đến miền Si Côn, (Cicone) (1410)
Thành Ích Ma Rốt trống dồn,
Cướp lương, dàn trận công đồn vinh quang.
Chiến công tơ lụa ngọc vàng,
Bò cừu, mỹ nữ đầy thuyền viễn chinh.
Tôi khuyên quân tướng rút nhanh,
Lũ say chiến trận mặc tình chẳng nghe.
Say sưa rượu thịt ê chề,
Đắm say tửu sắc, bỏ bê ngự phòng.
Việc binh biếng nhác khinh thường,
Quân Si Côn đã hợp đồng tiến công. (1420)
Âm thầm một sáng hừng đông,
Hùng binh tựa lá hoa rừng bao vây.
Than ôi thảm bại trận này,
Dớt cho bài học một ngày đớn đau.
Hại người, người hại lao đao,
Oán thù vay trả, máu đào tuôn rơi.
Si Côn dàn trận ngoài khơi,
Thuyền đồng, súng lớn rền trời pháo sang.
Binh thuyền kháng cự hai đàng,
Đến trưa trận chiến dần tàn rút quân. (1430)
Thuyền ra biển cả thoát thân,
Mỗi thuyền mất sáu tinh binh chiến trường.
Căng buồm vượt thoát nguy nan,
Xa rời vùng đất lửa tàn tro bay.
Binh thuyền còn lại trong tay,
Ai còn ai mất lòng say tơi bời.
Dớt còn trừng phạt chưa thôi,
Dồn mây đuổi gió, một trời bão giông.
Biển đen, trời ngập mây vần,
Mặt trời tối nghịt, mấy tầng mây đen. (1440)
Gió giông sóng dữ triền miên,
Lá buồm bốn mảnh rách tươm tơi bời.
Hạ buồm theo nước chèo bơi,
Hai ngày đêm vượt biển khơi hãi hùng.
Bạn thuyền mệt mỏi vô cùng,
Vầng dương chào ánh rạng đông rực trời.
Bão tan sóng lặng bể khơi,
Vá buồm dựng cột, thuyền trôi nắng vàng.
Chín ngày mây nước thênh thang,
Đến vùng biển cá bạt ngàn nhảy bơi, (1450)
Thuyền theo dòng hải lưu trôi,
Lô Tô Pha phủ trắng trời cát xa. (Lotophages)
Đoàn thuyền cập bãi bình sa,
Gửi ba trinh sát xem là nơi đâu?
Hỏi xem nguồn nước nơi nào?
Hỏi mua lương thực đổi trao bạc vàng.
Dân Lô Tô tiếp ân cần,
Mời ba khách quý trái ngon chà là,
Món ăn duy nhất vườn nhà,
Lúa mì chẳng biết, thịt thà cũng không! (1460)
Trái ngon thơm như mật ong,
Lạ thay ăn trái bỗng lòng say sưa.
Quên anh em, quên đường về,
Quên con thuyền đậu đang chờ đang trông,
Uy Lĩnh chờ mãi nóng lòng,
Huy động binh đội xung phong kiếm tìm.
Gặp họ khờ dại đầu thôn,
Ngất ngây chẳng biết, thần hồn chốn nao!
U mê chẳng biết ai nào,
Chỉ còn cách trói giam vào khoan thôi. (1470)
Say say tỉnh tỉnh rã rời,
Mấy ngày chữa trị, vội dời thuyền đi.
Mịt mù biển thẳm chân mây,
Một hôm đang mới no say cơm chiều.
Đảo xa nghe tiếng dê kêu,
Tiếng người loáng thoáng, khói chiều dần lên.
Cặp thuyền vào đảo kề bên,
Chờ sang đảo lớn hỏi han sự tình.
Nơi đây có phải dân lành,
Lương khô, súc vật bạc vàng đổi trao. (1480)
Bình minh xòe ngón tay đào,
Uy Lĩnh tập họp tiến vào đảo dê.
Hỡi anh em hãy lắng nghe:
Nơi đây xứ lạ, chẳng hề biết chi?
Có tiếng dê, có tiếng người,
Văn minh, man rợ ta thời biết sao?
Thánh thần tôn kính thế nào?
Hay sống biệt lập như bao thú rừng?
Đoàn thuyền lưu lại đảo con,
Một con thuyền nhỏ đi sang thăm tìm. (1490)
Về sau mới biết sự tình,
Đất dân Độc Nhãn một vùng lạ thay. (Cyclopes)*
Người cao to lớn dị kỳ,
Không thần, không luật, không hay cấy trồng.
Cây hoang, trái dại đầy đồng,
Nho rừng xanh tốt, nước nguồn suối trong.
Mỗi bầy sống một góc rừng,
Ai lo thân nấy, chẳng màng chuyện ai.
Cỏ xanh bụi rậm rừng dài,
Dê đàn nhô nhúc, chẳng người đuổi săn. (1500)
Sống bằng thịt sữa nuôi chăn,
Đá to thạch động vây quanh làm chuồng.
Người Độc Nhãn chẳng đóng thuyền,
Bán buôn chẳng biết, chẳng màng giao du.
Mỗi người thui thủi rừng sâu,
Gặp nhau chẳng nói, chẳng cầu việc chi.
Khổng lồ hình dáng dị kỳ,
Lông dài rậm rạp khác gì dã nhân.
Trán cao một mắt trừng trừng,
Trông càng kinh khiếp, dân tình lạ thay. (1510)
Hừng đông hồng đỏ ban mai,
Uy Lĩnh cùng với mười hai tùy tùng.
Tiến sâu thám hiểm khu rừng,
Đến xem xứ sở lạ lùng ra sao?
Núi cao thạch động bước vào,
Chủ động đi vắng nơi nao chăn bầy.
Vào hang bỗng lạ lùng thay,
Vò nung bên vách, vắt đầy sữa tươi.
Liếp lao một dãy phơi dài,
Hai hàng bánh sữa, nồng mùi men thơm. (1520)
Góc hang chuồng thú hai bên,
Lớn ra thú lớn, bé vờn rơm khô.
Anh em ngỏ ý muốn vô,
Cướp đàn súc vật, lương khô mang về.
Uy Lĩnh lòng quyết chẳng nghe,
Hay chi cướp vặt bầy dê cừu này.
Rằng ta đường chính thẳng ngay,
Muốn cùng chủ động hang này hỏi thăm.
Nơi đây xứ sở lạ lùng,
Hỏi han cho biết sự tình ra sao? (1530)
Tấm lòng ưu ái cho nhau,
Chẳng cần động chủ cũng trao tặng mình.
Nào đây đốt lửa ngồi quanh,
Cầu Thần Vương đợi chủ nhân trở về.
Lửa vừa tàn ngọn đỏ hoe,
Chủ động đâu đã lê thê bước vào.
Ầm ầm bó củi đổ ào,
Đá lăn củi gỗ, đẩy vào góc hang.
Đoàn người đã trốn vội vàng,
Khổng lồ hung dữ, dềnh dàng đỏ ao. (1540)
Long lanh một mắt trán cao,
Lùa đàn súc vật, ào ào thét vang.
Vác ngay tảng đá chắn ngang,
Đá to mấy chục người hòng chuyển lay.,
Bò dê vắt sữa liền tay,
Phần làm bánh sữa, phần bày uống tươi,
Bỏ thêm củi, lửa sáng soi,
Bừng bừng giận thấy bóng người cuối hang.
Ồn ào sang sảng hét vang:
Bớ lũ hai mắt vào hang lúc nào? (1550)
Chúng mi chẳng biết ta sao?
Thừa cơ vắng mặt, bước vào động ta .
Từ đâu mà đến đảo xa,
Độc Ly Phong có biết là chốn đây? (Polyphème)
Là dân buôn bán cầu may?
Hay dân cướp biển đêm ngày lang thang?
Gieo bao thảm họa kinh hoàng,
Giết người, cướp của hợp đoàn đến đây?
Thừa cơ ta vắng nơi này,
Chúng mi ẩn náo, chực ngày cướp hôi? (1560)
Mọi người kinh hãi líu lời,
Khổng lồ quái dị nói cười sấm vang,
Uy Lĩnh dõng dạc chẳng sờn,
Trả lời động chủ chẳng màng răn đe:
Hỡi vị chủ bầy cừu dê,
Chúng tôi lạc bước, thuyền về chốn đây,
Người An Kinh phận chẳng may, (Achéens)
Thành Troa từ giã sau ngày chiến chinh,
Sóng trôi bão tố điêu linh,
Nổi trôi phiêu lạc, đường cùng đến đây. (1570)
Giờ đây nơi xứ sở ngài,
Cầu xin giúp đỡ, cứu người gian truân.
Hãy vì phong tục văn minh,
Giúp người bất hạnh ân cần hỏi han.
Như lời Thần Dớt truyền răn,
Ban cho tặng vật như tình anh em.
Còn như bạc đãi ác tâm,
Dớt ra sấm sét lôi đình chẳng tha.
Dớt là Thần khách phương xa,
Giữ lòng hiếu khách, nhà nhà anh em. (1580)
Khổng lồ giọng lạnh như tiền:
Hỡi tên lạ mặt, không điên cũng khùng,
Vất vơ lạc bước hang hùm.
Còn bày vẽ chuyện thần linh dọa người.
Độc Ly Phong chẳng sợ ai,
Sức này hơn hẳn gấp mười thần kia.
Chớ hòng dọa dẫm ta nghe!
Ta sẽ ăn thịt hết bè lũ bây.
Con thuyền mi buộc đâu đây?
Để ta bắt hết cả bầy về xơi. (1590)
Uy Lĩnh nhanh nhẩu trả lời:
Than ôi! bất hạnh chúng tôi phận này,
Bão dâng sóng ngập trời mây,
Hải Long Vương giận biển này chuyển rung.
Thuyền con sóng dữ ầm ầm,
Chênh vênh sóng quật đá ngầm nát tan.
Con thuyền trăm mảnh chẳng còn,
Anh em thoát nạn mỏi mòn tàn hơi.
Khổng lồ nghe chẳng trả lời,
Xông vào chụp lấy hai người vung lên. (1600)
Sọ tan, óc vọt bắn tung,
Chặt ra từng mảnh nấu cùng nồi to,
Rồi nhai ngấu nghiến xương giò,
Uống thêm một lúc mấy vò sữa dê,
Rồi lăn kềnh ngủ hả hê,
Giữa bầy súc vật, thảm thê kiếp người.
Uy Lĩnh chẳng nói nên lời,
Trào tuôn nước mắt thương người bạn thân.
Căm thù muốn tuốt gươm trần,
Đâm sâu một nhát vào tâm khổng lồ, (1610)
Nhưng rồi nghĩ tảng đá to,
Không ai lay chuyển, chết khô hang này.
Hừng đông vừa đỏ chân mây,
Nắng hồng soi sáng đêm dài âu lo.
Khổng lồ dậy đốt lửa to,
Lùa dê vắt sữa đầy vò, đầy chum.
Rồi xông xồng xộc chỗ nằm,
Giết hai người nữa nấu ăn lót lòng.
Rồi lùa súc vật khỏi hang,
Lấp ngay tảng đám nhốt đoàn người trong. (1620)
Tiếng dê đầu núi xa dần,
Đoàn người tìm cách thoát thân chốn này.
Lẽ nào bó gối ở đây,
Khổng lồ thịt hết kẻ này người kia.
Khẩn cầu Thần Nữ xót xa.
Ban cho mưu kế thoát qua cảnh này.
Trong hang có sẵn thân cây,
Khổng lồ mới đẵn, xếp đây để dùng,
Gỗ to như một cột buồm,
Cho thuyền lớn mấy chục thân bạn chèo. (1630)
Uy Lĩnh ra lệnh làm theo,
Vót đầu gỗ nhọn, róc vèo vỏ cây.
Bếp tro hong dễ khô thay,
Dấu cây dưới lớp phân dày nền hang.
Chàng bàn cùng các đồng hành,
Sẽ cùng Uy Lĩnh việc làm gian nguy.
Thừa cơ độc nhãn ngủ say,
Đâm mù con mắt bằng cây lửa dùi.
Nắng chiều dần nhạt tàn phai,
Đồi hoang nghiêng đổ bóng dài lê thê. (1640)
Độc Ly Phong bước trở về,
Lùa dê cừu béo be he núi rừng.
Chận hang với tảng đá xong,
Hắn ngồi vắt sữa đầy chum đầy vò,
Bắt hai thủy thủ béo to.
Giết ngay làm thịt ăn no chân giò.
Liếm môi xoa bụng tròn vo,
Uy Lĩnh dâng bát rượu nho vội mời:
Hỡi ngài Độc Ly Phong ơi!
Giống dòng Độc Nhãn sức thời vô song. (1650)
Bữa thịt người xơi đã xong,
Mời ngài nếm thử rượu ngon loài người.
Để ngài thương xót chúng tôi,
Tha chúng tôi được về nơi quê nhà.
Tính ngài hung bạo ác ma,
Loài người kinh sợ ai mà đến đây.
Mời ngài xơi chén rượu này,
Vốn là rượu quý của thầy Mã Long, (Maron)
Âu Vân Tử thờ An Long, (Évanthès)
Cháu Đi Nô Sốt, vốn Thần Rượu Nho. (Dyonysos) (1660)
Vốn là sau trận thành Troa,
Thành Ich Ma Rốt toàn gia cầm tù.
Uy Lĩnh vốn trọng người tu,
Thả thầy tế tự, phụng thờ An Long.
Là Thần Ánh Sáng vạn năng.
Tên vàng, cung bạc lo chăm phụng thờ.
Đáp tình đáp nghĩa tha cho,
Mã Long trao tặng chục vò rượu tăm,
Rượu này quý hiếm vô cùng,
Pha mười cốc nước rượu còn nồng thơm. (1670)
Uống vào ngọt lịm nồng nàn,
Vân du tiên cảnh, mơ màng chiêm bao.
Ấy là tuyệt tửu bồ đào.
Thắt lưng Uy Lĩnh một vò đeo bên.
Giờ đây mời Độc Ly Phong,
Uống xong một bát còn thèm xin thêm.
Chìa tay quệt miệng đã thèm:
Chà chà mới biết rượu ngon nhất đời.
Cho ta một bát nữa thôi,
Tên người gì nhỉ, ta lời cám ơn. (1680)
Đặc ân quý trọng người hơn,
Cho ta biết món rượu ngon loài người.
Uy Lĩnh rót thêm bát mời.
Độc Ly Phong nốc một hơi cạn liền.
Ba lần thấm rượu say men.
Óc đầu lúy túy, lèm nhèm chơi vơi.
Uy Lĩnh cất tiếng trả lời:
Ngài đà muốn biết tôi thời xưng danh,
Nhớ lời hứa một đặc ân,
Ngài đà nói tới, chớ đành quên ngay, (1690)
Tên tôi là: Chẳng Có Ai,
Mẹ cha bằng hữu ngày ngày gọi tên.
Độc Nhãn tàn nhẫn lạnh lùng:
Này này Chẳng Có Ai khùng nghe đây,
Ta sẽ ăn thịt của mày,
Cuối cùng khi chẳng có người để ăn.
Đó là vinh dự đặc ân,
Mến người đã tặng rượu thần ngon thơm, (1700)
Nói rồi lảo đảo vật nằm,
Mắt đờ, mặt đỏ ầm ầm ngáy vang.
Ngóc đầu nôn tháo ruột gan,
Rượu thịt lênh láng vải tràn nền hang.
Độc Ly Phong đã say mèm,
Nhẹ người ra ngủ, lăn kềnh say sưa.
Uy Lĩnh lập tức thừa cơ,
Đẩy chiếc cọc nhọn vào lò lửa nung.
Nhịp nhàng vung cọc gỗ lên,
Nhịp ba lao thẳng mắt tên khổng lồ.
Lửa hồng cọc nhọn xoáy to
Xèo xèo máu chảy như lò sắt nung. (1710)
Độc Ly Phong hét điên khùng,
Điếc tai, sởn gáy, kinh hồn tiếng vang.
Năm người trốn chạy góc hang.
Đớn đau hắn rút cọc phang vào nền.
Lềnh kềnh đứng dậy thét lên:
Cứu tao, Độc Nhãn các hang cận kề.
Nghe cứu bầy khổng lồ về,
Lô nhô đứng trước lắng nghe sự tình,
Một tên cất tiếng hỏi thăm:
Độc Ly Phong hỡi, điên khùng chi đây? (1720)
Đêm hôm khuya khoắt gọi bầy,
Thức chúng tao dậy cấp nguy việc gì?
Có ai dùng mưu trí chi,
Cho chúng tao biết, lừa mi thế nào?
Nói chúng tao biết ra sao,
Nó làm gì đánh mi đau thế nào?
Chúng nó sức mạnh lớn cao,
Đánh mi cướp của, bọn nào ở đâu?
Độc Ly Phong rên đớn đau:
Bạn ơi, chẳng có kẻ nào đánh hôi. (1730)
Chẳng Có Ai mưu hại tôi,
Chứ không sức mạnh nào thời làm chi.
Độc Ly Phong đáp ầm ì,
Cả bọn ngu ngốc xầm xì lao xao,
Một tên dõng dạc nói vào:
Chẳng Có Ai mạnh dày vò cướp tranh.
Chẳng Có Ai mưu hại anh,
Chắc là mê hoảng thần kinh chớ gì?
Ấy do Thần Dớt lắm khi,
Mê hoảng, bệnh tật Dớt thì gây nên.
Chẳng ai trách được bệnh điên,
Thôi ta về ngủ mai liền đi chăn. (1740)
Anh hãy cầu nguyện phụ thân,
Hải Long phù hộ bệnh tâm khỏi liền.
Cả bầy lục tục về hang,
Năm người mừng đã thoát màn nguy nan.
Nhờ trò bịa đặt đổi tên,
Mưu cao lường gạt được đàn ngốc ngu.
Độc Ly Phong rên đớn đau,
Sờ mò nhấc đá, lối vào cửa hang.
Hai tay ngồi chận chắn ngang,
Rình lũ hai mắt thoát thân lối vào. (1750)
Uy Lĩnh suy tính trước sau,
Ba con cừu kết với nhau một bầy,
Mỗi người buộc với sợi dây,
Dưới bụng cừu giữa lông dày nằm co.
Uy Lĩnh bám con cừu to,
Lông dày rậm rạp tròn vo bụng sườn.
Công việc lặng lẽ khẩn trương,
Hừng đông vừa đến, bóng đêm tan dần.
Chim chóc ríu rít non ngàn,
Khổng lồ lùa thả cừu đàn đi ăn. (1760)
Hắn ngồi ngay giữa cửa hang,
Nắn lưng ve vuốt từng con dê cừu.
Nhưng nào hắn có biết đâu,
Kẻ thù đâm mắt nằm sau bụng cừu.
Con cừu Uy Lĩnh ra sau,
Khổng lồ nắn nót và ao ước rằng:
Ngày thường mi ở đầu đàn,
Cớ chi nay lại cuối hàng theo sau?
Ngày thường nhanh gót đồi cao,
Bon bon thấy cỏ, ào ào suối trong. (1770)
Đầu đàn nhanh bước về chuồng,
Nay ta mù mắt mi buồn luyến lưu.
Chẳng Có Ai trốn nơi đâu?
Phải chi mi biết mách tao thế là,
Tên gian manh đó biết ta,
Xé tan trăm mảnh mới đà hả hê.
Hồi lâu ve vuốt tỉ tê,
Hắn đà thả hết cừu dê vào đồng.
Chờ cho xa cách cánh rừng
Uy Lĩnh đứng dậy tháo từng người ra. (1780)
Nhanh chân đến bãi bình sa,
Lùa dê cừu béo, lối xa về thuyền.
Bạn bè mừng rỡ ôm hôn,
Kẻ còn người mất, lệ buồn đầy vơi.
Nhổ neo chèo lái ra khơi,
Đưa thuyền nhanh chóng tới nơi an toàn.
Thuyền vừa rời khỏi bãi cồn,
Uy Lĩnh quay mặt sau thuyền thét vang:
Độc Ly Phong tên dã man,
Tên man rợ vểnh tai lên nghe lời, (1790)
Mi phạm tội ác tày trời,
Ăn thịt khách đến thăm ngươi chân tình,
Bọn ta chẳng phải tầm thường,
Ngốc ngu hèn hạ cúi luồn trước ngươi.
Mi bị trừng phạt đáng đời,
Chính ý Thần Dớt, đỉnh trời Thiên Sơn.
Tiếng vang sang sảng vọng lên,
Độc Ly Phong đứng đầu ghềnh núi nghe,
Tức điên giận dữ gầm ghè:
Chúng đã trốn thoát ra ghe lối nào? (1800)
Chẳng Có Ai đâm mù tao,
Sống còn ta quyết ra sao với mày.
Bẻ núi tảng như bẻ cây,
Ném nhanh về phía thuyền say sóng vờn.
Khối đá vượt qua con thuyền,
Dội cơn sóng đẩy lại mang vào bờ,
Thúc chèo sào đẩy sóng xô,
Con thuyền lại vượt nhấp nhô sóng dồi.
Xa bờ quảng trước gấp đôi,
Uy Lĩnh sau lái vọng lời trêu gan: (1810)
Tên Độc Ly Phong dã man,
Nếu ai thăm hỏi, mi nên nói rằng,
Kẻ gây bất hạnh nhãn tiền,
Đâm mù con mắt mi nên trả lời:
Ấy là Uy Lĩnh ta thôi,
Anh hùng triệt hạ thành Troa hùng cường.
Con trai Lã Đạt Lão Vương,
Vua đảo An Thạch quê hương anh hùng.
Cho ta danh tiếng lẫy lừng,
Uy Lĩnh mưu trí không sờn gian nguy. (1820)
Oán thù mi đã trả vây,
Từ nay đến chết thân mày tối tăm.
Dù cho Thần Biển Hải Long,
Biển xanh quyền thế cũng không cứu mày.
Bạn ta chết chằng tội gì.
Tiếc rằng chẳng giết được mi trả thù.
Độc Ly Phong tức điên đầu,
Máu sôi nguyền rủa khẩn cầu lâm râm:
Hỡi Hải Long đấng phụ thân,
Xin cha trừng phạt chuyển dâng sóng thần. (1830)
Trừng trị Uy Lĩnh hại con,
Cho hắn chìm nổi tai ương đọa đầy.
Cầu rồi bủa tảng đá ngay,
Ném xa về phía tiếng bay vọng về,
Đá to rớt sau phía bờ,
Đẩy con thuyền đến đảo chờ bỏ neo,
Anh em hớn hở mừng reo,
Thoát cơn nguy biến mang theo dê cừu,
Kẻ còn, người mất thương đau,
Tàn đêm tế lễ khẩn cầu thần linh. (1840)
Tế thần rồi lại chia phần,
Bập bùng ánh lửa âm thầm sóng vang.
Thi ca khúc 6 (Câu 1843-2320)
Đến đảo Thần gió Eole
Đến xứ người khổng lồ Lestrygons
Cuộc kỳ ngộ với tiên nữ Circé. 
CHÚ THÍCH:
1492. Cyclopes dân Độc Nhãn, Mắt Tròn.
1410. Ismaros ở bờ biển Thrace, dân gọi là Ciconnes, phía ̣ông Bắc Thasos.
1451. Lotophages ở bờ biển Libye gần Syrte, không xa đảo Méninx.
1492. Cyclope có nghĩa là mắt tròn. Có thể hiểu chương này Homère nhân cách hoá các miệng núi lửa hình tròn phun đá và thạch phún. Theo truyền thuyết có những quái vật sống trong vùng núi lửa vịnh Naples từ Bqies đến Véseve. Nhiều đảo trong vịnh mang tên là đảo dê và có nhiều dê rừng. Có đảo còn giữ tên Capri, Nisida nghĩa là đảo dê.
Paris 2005-2019
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
Chuyển ngữ thơ lục bát
Theo http://chimvie3.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...