Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2021

Sử thi Odyssée 2

Sử thi Odyssée 2

THI CA KHÚC 6: 
Đến đảo thần gió Ê-Ôn 
Đến xứ người khổng lồ Lét Tri Gông 
Và cuộc kỳ ngộ với tiên nữ Phù Lê
TÓM LƯỢC: Đến đảo Thần Gió Ê- Ôn (Eole), Uy Lĩnh và tùy tùng được tiếp đón trọng thể trong một tháng ròng. Thần Gió chỉ đường về và giao cho một cái túi da bò bí mật, cấm mở ra cho đến khi về đến nơi. Các thủy thủ tưởng Thần Gió cho Uy Lĩnh châu báu vàng ngọc làm của riêng, nên khi về gần tới nơi, thấy đảo An Thạch (Ithaque) trước mắt. thừa cơ Uy Lĩnh ngủ, họ mở túi ra, Các ngọn gió hung dữ bị Thần Gió nhốt bay ra đẩy đoàn thuyền trở lại đảo Ê-Ôn. Uy Lĩnh và đoàn người quỳ xin tha tội, nhưng Thần Gió giận dữ đuổi đi.
Đoàn thuyền lại ra đi, cập bến đảo giống người khổng lồ Lét Tri Gông (Lestrygons), cả đoàn thuyền bị ném đá tảng. Bị đánh đấm và bị bắt ăn thịt. Chỉ có thuyền Uy Lĩnh đậu ghềnh xa chạy thoát.
Thuyền Uy Lĩnh lại đến đảo Bồng Lê (Aiaié) do Phù Lê, một thần nữ phù thủy con Thần Mật Trời cai quản. Nhóm hai mươi người do Âu Chi Lộ Cốt (Eurylochos) chỉ huy đi thám hiểm bị Phù Lê cho ăn uống và hoá phép thành lợn, chỉ có Âu Chi Lộ Cốt chạy thoát về báo cho Uy Lĩnh hay. Uy Lĩnh ra đi cứu bạn nhờ Thần Hạc Mai hiện ra giúp đỡ, nhờ có cây cỏ tiên trừ thuốc mê. Uy Lĩnh thắng được phép nàng Phù Tiên và được nàng đem lòng yêu thương giải phép cho mọi người trở lại nguyên hình và tiếp đãi ân cần. Sau một năm, đoàn người từ giả, nhưng Phù Lê báo trước số mệnh Uy Lĩnh cần phải xuống cõi Thần Dạ Đài (Hadès), cầu xin nhà tiên tri mù Tinh Thế (Tirésias) chỉ dẫn. Phù Lê giúp đỡ Uy Lĩnh quà vật tế sinh. Buổi sáng trước khi đi, Anh Phê Nô (Elphénor) người cận vệ, tỉnh rượu té từ sân thượng xuống chết.
Hừng đông thuyền lại lên đường, (1843)
Gió đưa đến đảo thần tiên mơ màng.
Ê-Ôn Thần Gió cõi trần,
Con Hy Bô Thế thần tiên kính sùng.(Hippotès)
Đảo Ê-Ôn thật lạ lùng,*
Nổi trên biển cả tường đồng vây quanh.
Vươn lên vách dựng trời xanh,
Lầu trang thấp thoáng trên ghềnh đá trơn. (1850)
Ê-Ôn sinh mười hai con,
Sáu trai, sáu gái tuổi tròn cập kê.
Kết hôn nhau trị gió mưa,
Cổ bàn chiêu đãi, tiệc trưa, tiệc chiều.
Rồi say ngọn gió hiu hiu,
Chăn nhung an giấc, tiếng tiêu tuyệt vời.
Đoàn thuyền cập đảo đến nơi,
Ê-Ôn niềm nở, tiếp mời thiết thân.
Tiệc bày đãi suốt tháng ròng,
Ê- Ôn thăm hỏi sự tình An Kinh. (1860)
Uy Lĩnh bày tỏ nỗi niềm,
Từ sau chiến trận căng buồm về quê.
Đến ngày xin phép trở về,
Lương khô nước uống, cừu dê đầy thuyền.
Món quà quý báu vô cùng,
Túi da bò nhốt gió hung, gió càn.
Ê- Ôn mang xuống khoang thuyền,
Buộc túi cáp bạc sáng choang xích xiềng.
Sợ ngọn gió cựa quậy lên,
Gió hung dữ thổi trên đường hiểm nguy. (1870)
Dặn dò rồi mới từ ly,
Thổi Nam phong tiễn ra đi đoàn thuyền.
Lướt nhanh như tựa bay lên,
Chín ngày đêm thấy biển cồn quê hương.
Anh em xúc động khôn lường,
Nhẹ nhàng làn khói chiều vương cánh đồng.
Cừu dê điểm trắng đồi xanh,
Quê hương thân thiết, nỗi lòng cách xa.
Ngờ đâu tai biến xãy ra.
Ngủ vùi Uy Lĩnh say sưa hành trình. (1880)
Anh em thủy thủ bàn rằng:
Túi da bò đó ở trong đựng gì?
Bạc vàng châu báu chứ chi?
Uy Lĩnh dấu diếm, không chia mọi người.
Bàn rồi họ lại làm thôi,
Cắt dây xích bạc, cắt rời túi da.
Gió hung dữ quậy thoát ra,
Biển yên tỉnh nổi phong ba sóng vần.
Mây đen gió rít lạnh lùng,
Đẩy đoàn thuyền lại đảo Thần Ê-Ôn. (1890)
Uy Lĩnh thủy thủ bước lên,
Ê-Ôn con vợ ngạc nhiên đầu thềm:
Vì sao trở lại đây liền?
Hung thần nào đã cản đường ra đi?
Nghẹn ngào Uy Lĩnh sầu bi:
Đồng hành tôi đã hoài nghi túi này,
Thừa cơ tôi mệt ngủ say,
Mở túi da, ngỡ dấu đây bạc vàng!
Nào ngờ gió dữ nổi lên,
Đẩy đoàn thuyền lại ngược lên đảo Thần. (1900)
Lòng tôi tiếc nuối ăn năn,
Cúi đầu tạ tội, thương tình thứ tha.
Ê-Ôn nổi giận hét la:
Bắt gió hung dữ, công ta ích gì?
Ta không chứa chấp chúng bay,
Trái điều căn dặn thả bầy gió hung.
Thần Số Mệnh ghét phận dành,
Ta không chứa chấp. rời nhanh nơi này.
Đoàn người ân hận ra đi,
Nỗi tình đau xót lòng vì ăn năn. (1910)
Sáu ngày đi giữa mênh mông,
Đoàn thuyền cập bến một hòn đảo to.
Lét Tri Gông xứ khổng lồ, (Lestrygon)
Tê Lê Pin cảng La Mô lạ lùng. (Télépyle, Lamos)
Ba bề núi biếc mênh mông,
Lối thuyền nước một dòng thông hẹp vào.
Đoàn thuyền vào cảng thả neo,
Thuyền Uy Lĩnh đậu cheo veo ngoài ghềnh.
Trèo lên đỉnh đá chon von,
Uy Lĩnh quan sát mênh mông chân trời. (1920)
Lạ lùng chẳng phải đảo người,
Chẳng đàn súc vật, xa vời rừng lao.
Cử ba thủy thủ đi vào,
Xét xem cho biết dân nào ở đây.
Men theo lối cỏ đường cây,
Lối vào cổng một thành xây lạ lùng.
Phố phường nhà gỗ đá chồng,
Một nàng bên suối cao trông dị thường.
Suối trong hứng nước vào chum,
Bình tâm thủy thủ hỏi thăm đón chào: (1930)
Hỡi nàng Nữ chúa thanh cao,
Xin nàng tha lỗi, gặp nhau bất ngờ.
Chúng tôi lưu lạc bến bờ,
Xứ Vua nào Dớt ban nhờ trị dân.
Nẻo nào là nẻo về cung?
Cầu Vua giúp khách đường cùng phương xa.
Khổng lồ thỏ thẻ: Ô chà!
Các người khách lạ đâu mà đến thăm.
Đây là xứ Lét Tri Gông,
Vua An Phá Thế đô thành núi xây. (Antiphatès) (1940)
Ta là Công chúa xứ này,
Ra chơi suối Gấu, nước đây ngọt ngào.
Các người muốn gặp Vua sao,
Đường này cung điện mái cao giữa thành.
Ba người cảm tạ lời nàng,
Đi theo lời thẳng dọc đường phi lao.
Trước cung, mụ khổng lồ cao,
Vợ An Phá Thế, người sao lạ lùng.
Như núi sừng sững to kềnh,
Ba người lẩy bẩy, tay run bàng hoàng. (1950)
Mụ ta chẳng hỏi chẳng han,
Quát gia nhân chạy quảng trường tìm Vua:
Hỡi người khách lạ phương xa,
Rất sung sướng được chúng ta đón mời.
Các vị món ăn tuyệt vời,
Lét Tri Gông ăn thịt, thịt người thơm ngon.
Chìa tay chụp một người bên,
Hai chân dốc ngược, miệng còn thét la.
Rút gươm cắt tiết tựa gà,
Hai người còn lại hớt ha băng mình. (1960)
Vút nhanh như tựa chim ưng,
Đến đoàn thuyền đậu để cùng báo nguy.
Lão Vua ra lệnh tức thì,
Lét Tri Gông bốn phía đuổi truy đoàn người.
Đinh ba, gươm dáo sáng ngời,
Theo đường tắt chạy đến nơi đoàn thuyền.
Chúng bủa đá ném liên miên,
Đá như bò mộng kinh thiên mưa rào.
Tan tành thuyền vỡ lật nhào,
Gẩy tay bẹp ruột, lao xao đầy bờ. (1970)
Lũ khổng lồ cầm đinh ba,
Xỏ người như cá, xiên qua mang về.
Linh đình bữa tiệc hả hê,
Bữa đi săn thịt, no nê đã đời.
Chỉ thuyền Uy Lĩnh thoát thôi,
Đậu xa, vội rút gươm thời chém dây.
Dục thuyền chèo thoát ra ngay,
Thoát tầm ném đá, thoát tay khổng lồ.
Cánh buồm vượt biển xa bờ,
Sương mù giăng khuất biển mờ may sao! (1980)
Riêng lòng Uy Lĩnh đớn đau,
Chục thuyền tan vỡ biết bao bạn bè,
Mười năm chiến trận trở về,
Trên đường đoàn tụ, não nề tang thương.
Rồi đi biển lặng bình yên,
Buồm trôi thuận gió đau thương tan dần.
Một hôm đảo lạ dừng chân,
Thần linh dẫn dắt đậu trong bến lành.
Hai ngày đêm ngủ dưỡng quân,
Sức đà hồi phục, nỗi lòng nguôi ngoai. (1990)
Rạng đông hồng nắng bên trời,
Uy Lĩnh cung kiếm chân rời thuyền đi,
Trèo lên đỉnh núi xanh rì,
Một làn khói biếc lượn bay bên đồng.
Lầu trang ai ở cạnh rừng?
Muốn đi, chàng lại ngập ngừng nghĩ suy.
Trải bao hoạn nạn hiểm nguy,
Ta nên bàn bạc việc này với nhau.
Đưa thuyền ra biển đậu neo,
Ăn no rồi mới cập chèo thuyền con. (2000)
Gửi vào trinh sát một đoàn,
Dò xem lương thực, kiếm tìm nước trong.
Uy Lĩnh toan bước dời chân,
Đầu truông bỗng thấy bóng sừng nai hoa.
Rút cung tên thắt lưng ra,
Tên đồng một phát xuyên qua ngang sườn.
Hồn nai bay bổng rừng ngàn,
Cắt dây rừng buộc đôi chân mang về.
Con nai to lớn nặng nề,
Uy Lĩnh cổ vũ, vỗ về anh em. (2010)
Chúng ta chưa xuống Diêm Vương,
Một ngày còn sống ta còn no say.
Nói rồi dao thớt liền tay,
Màn đêm dần xuống tiệc bày rượu thơm.
Nghỉ thuyền trên biển qua đêm,
Bập bềnh sóng vỗ, ngày lên nắng hồng,
Hợp anh em cùng luận bàn:
Anh em ta đã qua ngàn gian truân,
Nhưng ta không thể mặc tình,
Đậu neo mảnh đất mà không biết gì? (2020)
Biết nơi đâu, biết hướng đi?
Bốn bề biển cả nước trời mênh mông.
Làm sao tiếp tục hành trình?
Nếu không lương thực, nước trong đường về.
Tôi đà trèo núi xuống khe,
Đảo đây không lớn, bốn bề núi non.
Lầu trang ai ở đồng bên?
Xa trông còn thấy một làn khói xanh.
Anh em còn ngại dấn thân,
Nỗi kinh hoàng đó, phân vân làm gì? (2030)
Song Uy Lĩnh đã quyết đi,
Anh em đồng đội tạm thời chia hai.
Đội do Uy Lĩnh chỉ huy
Âu Chi Lộ Cốt đi vì trúng thăm. (Eurylochos)
Vượt qua non tới cánh đồng,
Hai mươi thủy thủ lên đường lo âu.
Người ở lại, chờ mong cầu,
Tin đoàn trinh sát tiến sâu đồng bằng.
Nào hay nguy hiểm gian truân,
Lầu trang xinh đẹp, đến gần gian nan, (2040)
Phù Lê tiên chủ lầu trang, (Circé)*
Tuyệt trần xinh đẹp, tóc vàng cài hoa.
Nói tiếng người, tính ác ma,
Biết nhiều phép thuật, tinh hoa tuyệt vời.
Con Thái Dương, Thần Mặt Trời, (Héios)
Thần giao gái quý trông coi đảo này.
Đảo Bồng Lê, lầu dựng xây, (Aiaié)
Trắng, xanh cẩm thạch nhẵn mài như gương.
Sói rừng, sư tử đầu thềm,
Uy nghi móng vuốt, ngày đêm giữ gìn. (2050)
Thật ra là lũ người trần,
Bị tiên phép thuật biến thành thú hoang.
Gặp người đến thật lạ lùng,
Thú hoang lại đến chào mừng vẫy đuôi.
Tưng bừng nô nức mọi người,
Lòng vơi kinh dị, bớt lời lo âu.
Trò vui nhìn thú đón chào,
Sư tử như chó ngoan nào mơn man.
Dừng chân trước cửa hành lang,
Lắng nghe tiếng hát cung đàn thanh tao. (2060)
Phù Lê ngồi dệt lụa đào,
Nắng chiều lóng lánh lao xao tơ hồng.
Phổ Ly Tuấn cất tiếng vang, (Politès)
Vốn chàng dũng sĩ can trường nhiệt tâm:
Công nương nàng dệt lụa tằm,
Tiếng ca thánh thót là tiên hay người.
Chúng tôi muốn gặp nàng ơi!
Chúng tôi là những con người thiện tâm.
Căn phòng chợt mở huy hoàng,
Dịu dàng tha thướt một nàng bước ra, (2070)
Chào mừng khách quý phương xa,
Gọi gia nhân mở tiệc hoa đón mời.
Mọi người mê hoặc vào thôi,
Âu Chi Lộ Cốt trốn ngồi chờ xem. (Eurylochos)
Nghi ngờ quỷ kế, chước tiên,
Có gì kỳ quái lầu trang lạ lùng.
Mọi người vào tiệc tẩy trần
Sữa thơm, bánh ngọt, rượu hồng, mật ong.
Lẫn vào thuốc phiện say hương,
Uống vào quên hết, thần tiên mơ màng. (2080)
Phù Lê vung chiếc đũa lên,
Hai mươi chàng hóa hai hàng lợn to.
Miệng đà ủn ỉn ồ ồ,
Trí còn tỉnh táo, chạy vô trong chuồng.
Đói ăn en ét rộn lên,
Phù Lê cho cám, lợn liền tranh ăn.
Trải rơm lót ổ lợn nằm,
Than ôi vì đã tham ăn thế nào,
Hóa thành lợn nhục hình sao,
Âu Chi Lộ Cốt vượt rào thoát thân. (2090)
Trở về thuyền thuật chuyện rằng,
Không ngăn dòng lệ nỗi lòng đau thương.
Uy Lĩnh nghe chuyện vội vàng,
Gươm đồng, giáp phục, cung tên vào mình.
Bảo Âu Lộ Cốt đưa đường,
Hãi hùng hắn đã quỳ bên khẩn cầu :
Đừng bảo tôi nữa, đi đâu,
"Trẻ thơ Thần Dớt" * làm sao trị nàng?
Phép nàng phù thủy cao cường,
Anh đi chỉ chết, mà không đường về! (2100)
Chẳng thể cứu được bạn bè,
Hãy mau rời đảo tránh bề hiểm nguy.
Tránh ngày về chốn âm ty.
Uy Lĩnh cương quyết khoát tay bảo rằng:
Âu Chi Lộ Cốt vào nằm,
Nghỉ ngơi ăn uống cùng chung bạn bè,
Phần tôi quyết gặp Phù Lê,
Thắng nàng phù thủy, mang về anh em.
Uy Lĩnh rời khỏi con thuyền,
Trèo qua đồi núi rồi lên cánh đồng. (2110)
Gặp Thần Hạc Mai sứ thần.
Hóa thân dưới dạng một chàng thanh niên,
Hỏi thăm, dò dặn việc làm,
Giải cứu bè bạn trong chuồng lợn kia:
Ý người muốn cứu họ về,
Nếu không biết phép thì mê mẫn người.
Hoá ra thành lợn kia thôi!
Ta cho cỏ thuốc để ngươi giữ mình.
Tránh được thuốc phiện mật ong,
Ta cho ngươi biết mưu nàng Phù Lê. (2120)
Bánh rượu pha với thuốc mê,
Cỏ tiên ngậm trước, chẳng hề hấn chi.
Nếu nàng cầm đũa tức thì,
Rút gươm người hãy kề ngay yết hầu.
Dọa thôi nàng sẽ cúi đầu,
Van xin nài nỉ, khẩn cầu kết duyên.
Giường son, chăn gối hãy khoan,
Xin nàng hãy thả anh em bạn bè,
Lập bàn cầu khẩn kết thề,
Bỏ lòng độc ác, trở về thiện tâm. (2130)
Để nàng từ bỏ hại nhân,
Tinh anh kiệt quệ mà mong hại người.
Cỏ tiên tên gọi Mê Ly,
Cánh hoa như sữa, rể thì ánh đen.
Người trần chẳng hái dược tiên,
Chỉ thần thánh mới hái ban cho người.
Hạc Mai căn dặn từng lời,
Hài vàng bay bổng cõi trời thần tiên.
Rồi rời rừng thẳm bước lên,
Uy Lĩnh ngừng lại trước thềm gương soi. (2140)
Phù Lê mở cửa mời ngồi,
Ghế nhung, đinh bạc lả lơi đón chào.
Tay nâng cốc rượu bồ đào,
Rồi vờ rót thuốc mê vào nhẹ tay.
Uy Lĩnh nâng cốc uống ngay,
Cỏ tiên đã ngậm, rượu này chẳng sao
Phù Lê cầm đũa phép mầu :
Xin mời chàng hãy bước vào chuồng heo.
Mời chàng xơi cám với bèo,
Mời chàng nằm xuống ngủ theo bạn bầy. (2150)
Uy Lĩnh vội rút gươm ngay,
Gươm đồng kề cổ, đôi tay lạnh lùng.
Rên lên một tiếng kinh hoàng,
Phù Lê quỳ xuống van lơn khẩn cầu:
Chàng là ai? dòng dõi nào?
Thị thành nào? Sứ sở nào đến đây?
Chuyện chưa từng có xưa nay,
Chưa ai từng uống rượu này tỉnh không!
Hay chàng Uy Lĩnh anh hùng?
Đêm qua Mai Hạc Sứ Thần báo tin. (2160)
Rằng chàng sẽ ghé ta thăm,
Anh hùng ngựa gỗ lẫy lừng thành Troa.
Hân hoan mừng đón đợi chờ,
Tha em, chàng hãy cất vô gươm này.
Tình yêu em thắm nồng say,
Chúng ta sẽ sống những ngày ái ân.
Giường son hoan lạc động phòng,
Tràn trề hạnh phúc tấm lòng phu thê.
Uy Lĩnh khôn khéo vỗ về:
Hỡi nàng thần nữ Phù Lê tóc vàng! (2170)
Làm sao tôi thể tin nàng.
Để đền đáp lại, nồng nàn tình tôi,
Khi nàng biến các con người,
Hóa ra bầy lợn loi choi trong chuồng.
Hay là thâm độc ý nàng,
Tình yêu, sắc đẹp mơ màng rủ rê,
Để ta chí khí mỏi mê,
Tinh anh kiệt quệ, lựa bề hại ta?
Không! Không khi nào ta.
Xem nàng là bạn, chưa qua thề nguyền. (2180)
Khấn thề thần cõi Thiên Sơn,
Bỏ thuật phù thủy, không còn hại nhân.
Phù Tiên trịnh trọng thề nguyền,
Rồi truyền thị nữ, bốn bên biện bày :
Tuyền Nương trãi lụa suối mây,
Lâm Nương bày chén lưu ly mâm vàng,
Giang Nương rót rượu mật ong,
Hải Nương pha nước trong bồn tẩm hương,
Mời chàng tắm rửa tẩy trần,
Tẩm dầu hương, đốt gỗ trầm ngát hương. (2190)
Áo nhung thêu cánh đại bàng,
Rồi mời chàng đến sảnh đường tiệc hoa.
Phù Tiên lộng lẫy kiêu sa,
Ghế nhung đinh bạc bày ra, khách ngồi.
Thị tỳ rượu thịt dọn mời,
Phù Lê năng cốc ngỏ lời tri âm.
Uy Lĩnh buồn mãi trong lòng,
Miếng ngon ngào nghẹn, còn tình nào vui.
Uy Lĩnh chẳng thốt nên lời,
Nhớ thương bè bạn nuốt trôi được nào? (2200)
Phù Tiên chẳng hiểu vì sao:
Chàng ơi nâng chén rượu đào cùng em!
Hay chàng ngờ vực ưu phiền,
Lòng thành em đã thề nguyền sắt son.
Uy Lĩnh lòng nén tủi hờn:
Nàng ơi, ta chẳng ăn ngon được nào?
Bạn bè kiếp lợn ra sao?
Mong nàng hóa phép mầu trao kiếp người.
Phù Tiên nghe nói vâng lời,
Đũa tiên rời sảnh, đến nơi dậu chuồng. (2210)
Hai bầy lợn thú hai bên,
Thuốc tiên xoa xát trở nên kiếp người,
Mừng mừng bè bạn sướng vui,
Tung hô Uy Lĩnh, thoát đời súc sinh,
Lại thêm trẻ đẹp thanh xuân,
Một phen nguy khốn, gian truân qua rồi.
Đến bên Uy Lĩnh tạ lời,
Phù Lê mời hết mọi người tiệc ngon:
Mời chàng hãy trở về thuyền,
Kéo thuyền đậu bãi, cất lương động gần. (2220)
Rồi mời cùng đến lầu trang,
Tiệc vui dạ hội, hãy quên phong trần.
Uy Lĩnh vội vã về thuyền,
Mọi người ngơ ngác, ngỡ chàng thoát thân.
Nghẹn ngào nước mắt chảy tuôn,
Như đàn bê nhỏ vây quanh mẹ hiền.
Đau thương nguy biến triền miên,
Chờ mong Uy Lĩnh mang tin trở về:
Ra sao Uy Lĩnh bạn bè?
Ngày tàn kiếp lợn có về được chăng? (2230)
Vui cười Uy Lĩnh nói rằng:
Trước tiên hãy kéo thuyền lên bãi bờ,
Cất lương khô động đá kia,
Rồi theo tôi dự tiệc nhà Phù Lê.
Tiệc mừng đông đủ bạn bè.
Mọi người hoan hỉ, lắng nghe lạ lùng.
Âu Lộ Cốt vẫn hãi hùng:
Đi đâu, tôi chẳng điên khùng tham ăn
Đến nhà phù thủy phép thần,
Phù Tiên xinh đẹp tuyệt trần rủ rê. (2240)
Rồi mời rượu mật, bùa mê,
Sói đàn, sư tử chẳng về được đâu?
Tham ăn hóa lợn chuồng sau,
Tiệc mời, mưu kế phép mầu ấy thôi!
Uy Lĩnh dọa rút gươm dài,
Răng đe hắn phải vâng lời chỉ huy.
Mọi người can gián cản tay:
Thôi thì để hắn ở đây giữ thuyền.
Mọi người vừa đẩy thuyền lên,
Âu Chi Lộ Cốt đổi liền ý ngay: (2250)
Một mình chẳng dám ở đây,
Thôi thi hóa lợn cả bầy cho vui.
Mọi người vượt núi đến nơi,
Bạn bè đông đủ, tiệc vui rộn ràng.
Suối trong tắm rửa tẩm hương,
Thời trang, nhung phục sảnh đường sánh vai.
Phù Tiên vui vẻ đón mời,
Cả đoàn vui sống ngày dài thóa thuê.
Khi ca múa khi rượu chè,
Khi vui săn bắn, khi về đồi cây. (2260)
Tháng ngày nước chảy mây bay,
Một năm thấm thoát, tháng ngày vui chơi,
Rồi lòng quê nhớ khôn nguôi,
Thầm thì nhắc đến những người thân thương.
Đã đến lúc phải lên đường,
Tiệc vui Uy Lĩnh một lòng ra đi,
Phù Lê đau đớn từ ly,
Nhưng không từ khước chia tay bạn tình.
Phù Tiên bày tỏ nỗi lòng:
Mệnh chàng còn đến một lần cõi âm. (2270)
Thần Dạ Đài chốn Diêm Vương,
Hỏi thăm Tinh Thế, nhà tiên tri mù. (Tirésias)
Gặp hồn bạn khuất thiên thu,
Cầu lời chỉ dẫn, thật hư tỏ tường.
Uy Lĩnh vật vã thở than:
Ôi thôi ta sẽ xa nàng từ đây!
Cõi âm u tối sương dày,
Đâu còn ánh sáng, sống ngày trần gian.
Nàng ơi, giúp ta được chăng?
Hướng nào về cõi âm cùng thuyền đen? (2280)
Phù Tiên bàn bạc chỉ đường,
Cấp cho rượu sữa, vật sinh tế thần.
Hãy thay buồm trắng kéo lên,
Gió Bắc Khuê hãy thẳng dong cánh buồm. (Borée)
Sông Đại Dương đến tận cùng, (Océan)*
Bạch Lê Phong đó khu rừng giáp sông. (Perséphone)*
Lối vào Xích Bích tiền đường sóng xô, (Styx)*
Vực sâu đá dựng nhấp nhô,
Hai dòng sông lớn chảy vô vực này. (2290)
Hãy vào gần đến chốn đây,
Dâng trên đền đá vật bày tế sinh,
Tế vong hồn kẻ xa gần,
Sữa bò pha mật, rượu hồng, bột năng.
Rồi trên bàn tế đá xanh,
Cắt cổ cừu trắng, dê đen tế thần.
Cầu các thần chốn cõi âm,
Tiên tri Tinh Thế chỉ đường đi mau,
Gặp hồn mẹ khuất thiên thu,
Ra đi rồi chẳng bao lâu trở về. (2300)
Bình minh vừa rạng đồng quê,
Phục trang lộng lẫy, Phù Lê dịu dàng,
Tấm khăn tha thướt tơ vàng,
Cổ đeo hồng ngọc, vai choàng gấm nhung.
Đến cùng các bạn sảnh đường
Hỏi thăm sức khỏe an lành giấc ngon.
Từ trên sân thượng chặp chờn,
An Phê Nô bước xâm xâm mơ màng, (Elpénor)
Mới ba mươi tuổi thanh niên,
Theo hầu Uy Lĩnh chiến trường xông pha. (2310)
Rượu còn mê quáng mắt lòa,
Xuống cầu thang ngỡ bước qua song đào.
Từ lầu cao bỗng té nhào,
Bể đầu gãy cổ hồn vào mê hôn.
Cánh buồm trắng đã sẵn sàng,
Phù Lê ra bến, hành trang lên thuyền,
Gia nhân mang vật tế sinh,
Tiễn đưa Uy Lĩnh lên đường ra đi,
Ngàn lau vẫy lá thầm thì,
Đưa người vào cõi chân mây cuối trời. (2320)
Thi ca khúc 7: Chiêu hồn người chết (câu 2321 đến 2962)
CHÚ THÍCH:
1847. Eole: là đảo Stromboli ngày nay, đảo thường có núi lửa, ngày xưa người Hy Lạp cho rằng đảo này là nơi phát xuất bão tố và gió, Chung quanh đảo khi núi lửa phun ra có nham thạch chảy chung quanh, người ta cho rằng đảo nổi.
1913. Theo Gs V Bérard xứ Lestrygon; ở cửa biển Bonifacio trên bờ biển Sarde. Thuyền Ulysse đậu ở mũi Orso, bên trong là suối Gấu. Homère nhân cách hoá một trận động đất núi lửa xãy ra làm đắm đoàn thuyền, trừ Ulysse chạy thoát.
2041. Đảo Aiaié được mô tả giống như vùng ở phía Nam Marais Pontin ngày nay. Circé là một Thần Nữ con Thần Mặt Trời.
2099. Trẻ thơ thần Zeus: Uy Lĩnh dòng dõi vua, con Thần Zeus, nhưng so với nàng Phù Lê chỉ là trẻ thơ, không đủ phép đấu với nàng được đâu.
2285. Thời Cổ Đại Hy Lạp cho rằng Océan, Đại Dương là một con sông lớn bao quanh mặt đất vuông.
2286. Perséphone tên vợ Thần Hadès trị vì cõi âm.
2287. Styx tên dòng sông chảy cõi Âm phủ. Achille khi sinh ra được mẹ nắm chân tôi nhúng nước sông này trở nên mình đồng da sắt nhưng còn sót gót chân trở thành điếm tử vong khi Paris bắn trúng gót chân.
THI CA KHÚC 7: Chiêu hồn người chết
TÓM LƯỢC: Nghe lời tiên nữ Phù Lê, Uy Lĩnh và các bạn vượt Đại Dương đến xứ Sim Mê Liên, nơi cửa vào cõi Âm của Thần Dạ Đài. Uy Lĩnh dâng lễ vật, cắt cổ hai con vật hy sinh cừu trắng, dê đen lấy máu tế các vong hồn. Trước tiên hồn Anh Phê Nô hiện đến xin lễ an táng. Sau đó hồn tiên tri Tinh Thế báo trước các biến cố sắp đến. Tiếp đến Uy Lĩnh gặp hồn mẹ cho biết tin quê An Thạch. Gặp hồn các giai nhân Tyro, Antiope, Alomène, Epicaste, Chloris, Léda, Ariane...
Vua An Chính Vương và triều đình muốn nghe tiếp, Uy Lĩnh kể chuyện gặp hồn các anh hùng đã mất: An Gia Đại Vương (Agememnon) An Sinh (Achille) An Bắc (Ajax)... Tả cảnh địa ngục với Minos, Tityos, Tantale, Sisyphe, Héraclès.. Sau đó Uy Lĩnh lên thuyền trở về.
Buồm căng ngọn gió ra khơi, (2321)
Người đi để lại một trời mộng mơ.
Phù Lê tay vẫy trên bờ,
Đưa chàng đến cõi hư vô hãi hùng.
Lênh đênh thổi ngọn gió bồng,
Con thuyền lướt sóng biển hồng hoàng hôn.
Thuyền đi đến biển tận cùng,
Đại Dương trôi chảy bao quanh đất liền.
Đến đây xứ Sim Mê Liên, (Cimmériens)*
Ngày đêm bao phủ bóng sương mịt mù. (2330)
Mặt trời khuất bóng thiên thu,
Nơi đây tử khí âm u nặng nề.
Đoàn người đổ bộ lên bờ,
Đến cửa Âm Phủ, Phù Lê dặn dò.
Mang theo vật tế cừu, dê,
Bước vào đền đá Cung Mê tế hồn.
Rút gươm đào hố trước sân,
Hố đầu đổ sữa, mật ong thơm vàng.
Hố giữa chàng rót rượu vang,
Hố sau rót nước pha cùng bột năng. (2340)
Đốt lên ngọn lửa bập bùng,
Uy Lĩnh đứng trước lâm râm khẩn cầu.
Vong hồn người chết bỗng đâu,
Bốn phương về đến bên cầu sông Mê.
Nhờ hai bạn giữ cừu dê,
Uy Lĩnh rút ngọn lưỡi lê bên mình.
Tế hồn thọc huyết vật sinh,
Hứng trong bồn đá, một dòng máu đen.
Vong hồn người chết về bên,
Trẻ, già, trai, gái bên đền nhấp nhô. (2350)
Đây hồn trinh nữ bơ vơ,
Đây hồn tử sĩ mịt mờ gió Đông.
Vầng trăng dõi bóng ngựa hồng,
Kiếm cung đẫm máu chiến trường về đây.
Dục hai bạn lột da dày,
Thui trên ngọn lửa bếp quay tế thần.
Thần Dạ Đài, Bạch Lê Phong, (Hadès, Perséphone)
Thả từng hồn một trước đền hưởng sinh.
Uống máu nóng kể sự tình,
Anh Phê Nô bỗng bên đình bước ra. (Elphénor) (2360)
Chàng trai mới chết hôm qua,
Xác chưa hỏa táng bên nhà còn đây.
Huyệt chưa đào, mộ chưa xây,
Việc đà khẩn cấp, bước ngay xuống thuyền.
Uy Lĩnh đẫm lệ bàng hoàng,
Tim chàng se thắt hỏi han ân cần:
Anh Phê Nô đi chân không,
Mà sao đến sớm hơn thuyền của ta.
Sương mù trắng nước bao la,
Trăng sao chẳng thấy, sao qua biển trời? (2370)
Chàng trai cất tiếng đáp lời:
Hỡi vua Uy Lĩnh sáng ngời chiến công,
Cháu con Thần Dớt giống dòng,
Con vua Lã Đạt anh hùng quang minh.
Hôm kia tiệc rượu linh đình,
Uống nhiều quên hết, sự tình say sưa.
Ngủ trên sân thượng Phù Lê,
Sáng ngày quên cả lối về xuống thang.
Té từ mái nóc sảnh đường,
Hồn lìa khỏi xác, còn thương cõi về. (2380)
Ngày mai về đảo Bồng Lê,
Cúi xin chủ tướng bộn bề chớ quên,
Lễ nghi tiễn biệt cất chôn,
Xây cho bia mộ bên thềm biển Lam.
Chôn theo kỷ vật giáo gươm,
Đơn sơ phẩm vật nhớ thương một người.
Lặng nghe Uy Lĩnh tiếp lời:
Những điều người dặn ta thời chẳng sai,
Đủ điều nghi lễ biệt ly.
Mĩm cười hồn thoát biến đi tàn dần. (2390)
Bên đền bỗng chợt hiện lên
An Chi Lệ bóng mẹ hiền về đây, (Anticlée)
Uy Lĩnh nức nở cầm tay,
Trái tim se thắt như ngày ra đi,
Mười năm khoát áo chinh y,
Mẹ đà khuất bóng, nói gì nhớ thương.
Bồi hồi toan kể quê hương,
Thương thương nhớ nhớ đoạn trường chia ly.
Tiên sinh Tinh Thế, tiên tri,
Hốt vàng hiện đến cầm tay tiếp lời: (2400)
Uy Lĩnh ngàn chiến công đi !
Con vua Lã Đạt nối đời vẻ vang.
Cháu con Thần Dớt giống dòng,
Thành Troa mưu trí lẫy lừng ngàn năm.
Vui chi người xuống cõi âm,
Tạm xa ánh sáng dương trần vì đâu?
Vì ta người muốn khẩn cầu,
Biết tương lai, biết ra sao phận mình.
Tránh xa bồn máu cúng hồn,
Cất đi kia ngọn gươm trần nhọn kia. (2410)
Để ta uống máu no nê,
Rồi ta sẽ kể tỉ tê việc trần,
Điều tiên tri người chờ mong,
Đó là duyên cớ người cần đến ta.
Cất gươm Uy Lĩnh tránh xa,
Tiên tri uống máu rồi thưa đôi lời:
Uy Lĩnh trí dũng tuyệt vời,
Nẻo về quê cũ nay người muốn đi,
Chẳng đường thông suốt êm chi,
Còn nhiều cay đắng, nói gì gian nan. (2420)
Còn nhiều nguy hiểm vô vàn,
Có thần ngăn cản bước đường hương quan.
Cũng vì nỗi hận Hải Long,
Giận con mù mắt, nỗi hờn thiên thu.
Nổi cơn giông bão trả thù,
Đắm thuyền, động đất giam tù đảo hoang.
Có Thần ghét, có Thần thương,
Thần thương che chỡ bước đường gian nan.
Dù cho tai biến khôn lường,
Tắc cùng rồi sẽ có đường ra thông. (2430)
Đến Tri Đăng đảo Bò Thần, (Trident)
Nhớ vòng quanh đảo, đá ngầm sóng to.
Còn như bó buộc phải vô,
Thái Dương Thần đảo thịt bò chớ ăn.
Nếu ai ăn thịt bò thần,
Thuyền đen sẽ đắm, tử vong biển ngàn.
Số người còn bị giam cầm,
Đào hoa vương một mối tình thiên thu.
Thanh xuân bất từ tình tù,
Thần Thiên Đình giải lưới mầu yêu đương. (2440)
Đưa đường về chốn quê hương,
Vợ người chung thủy sớm hôm chờ chồng.
Con người khôn lớn kiên cường,
Người về đối mặt một phường kiêu quân,
Tranh nhau toan tính cầu hôn,
Ngai vàng, danh tước, gia trang chia phần.
Nhưng người sẽ thắng dẹp xong,
Ngôi vàng giữ vững lưu truyền trị dân.
Khi về nhớ tế Hải Long,
Dê cừu phẩm vật giải cơn oán thù. (2450)
Nói rồi hồn phách từ từ,
Biến đi về cõi âm u nghìn trùng.
Chàng còn lặng lẽ trầm ngâm,
Mẹ chàng đã đến bên bồn máu đen.
Uống xong máu nóng hỏi han:
Vì đâu con ở trần gian đến tìm,
Âm dương xa cách vô vàn,
Đại Dương xanh thẳm muôn ngàn sóng xô.
Sương mù giăng kín hải hồ,
Không thuyền vững chắc, chẳng vô được nào. (2460)
Từ khi chiến trận thành Troa,
Gian nan trên ngọn sóng đào tha hương.
Chưa nhìn An Thạch thân thương,
Chưa về con dại, vợ hiền đợi mong.
Mẹ ơi! Đau xót vô cùng,
Tháng ngày phiêu bạt quê hương mong chờ,
Bao năm xa cách biển bờ,
Bao năm chiến trận lòng chờ chẳng nguôi.
Dạ Đài, con đến mẹ ơi,
Tiên sinh Tinh Thế cầu lời tiên tri. (2470)
Thành Troa từ buổi ra đi,
Biển khơi vượt sóng từ ly lên đường.
Theo An Gia Vương đến chiến trường,
Mười năm xương trắng máu hồng tiến công.
Nào hay mẹ đã từ trần,
Trầm kha hay bệnh dịch thần mẹ đi?
Vì đâu mẹ đã lìa đời,
Hay Đạt Thế Mỹ bên trời bắn cung. (Artémis)*
Mũi tên Thần nữ dứt tình,
Mẹ về Địa phủ mênh mông xa vời. (2480)
Quê hương từ ấy mẹ đi,
Con thơ còn có đùa chơi bên nhà,
Vợ con chung thủy hay là...
Tái hôn vì tháng ngày qua đợi chờ?
Cha con sức khỏe ra sao?
Tuổi cao sức yếu, đớn đau tuổi già?
Chàng còn thương nhớ vô bờ,
Mẹ đà vội đáp, lời mơ dịu dàng:
Con ơi, nàng vẫn kiên trung,
Trái tim trinh tiết sớm hôm đợi chờ. (2490)
Thở than thương nhớ canh khuya,
Nhỏ dòng nước mắt, sớm trưa tuổi buồn.
Nuôi Thế Viễn Mạc lớn khôn,
Đợi con tài trí giữ tròn giang san.
Tháng ngày dạy dỗ hoàng nam,
Kẻ mời người rước, tôn vinh giống dòng.
Cha con hưu dưỡng bên đồng,
Ít khi về với thị thành phồn hoa.
An tâm vui với tuổi già,
Sức tàn, gối đẹp giường hoa chẳng màng. (2500)
Giữa nhà lò sưởi người nằm,
Kẻ hầu chăm sóc một lòng sớm hôm.
Áo thô giản dị sức mòn,
Hạ tàn thu tới, bên thềm lá rơi.
Lá vàng che phủ lối người,
Lòng già như lá tơi bời chờ con.
Chờ con trở lại đoàn viên,
Là người nhắm mắt chẳng phiền muộn chi.
Tưởng rằng cha sớm ra đi,
Ngờ đâu mẹ đã từ ly xa người. (2510)
Ra đi từ giả cõi đời,
Cung tên Thần nữ con ơi chẳng hề.*
Chẳng đau đớn, chẳng hôn mê,
Mà vì nỗi nhớ vô bờ thương con.
Con ơi lòng mẹ héo mòn,
Lụn tàn như bấc, dịu dàng mật thơm.
Chàng choàng vai mẹ muốn ôm,
Ba lần bóng mẹ bay luồng qua tay.
Như sương khói, như mây bay,
Trái tim se thắt, từ ly lệ nhòa. (2520)
Nỗi lòng đau đớn thiết tha:
Mẹ ơi ! Sao mẹ nỡ lìa tình con?
Lòng con khao khát được hôn,
Mẹ hiền như thuở mẹ còn ngày xưa.
Khẩn cầu Diêm Chúa cho ta,
Được ôm hôn mẹ cho vừa nhớ thương.
Khẩn cầu thần Bạch Lê Phong,
Cho hồn mẹ được khỏi buồn đớn đau.
Dịu dàng hồn mẹ ngọt ngào:
Con ta mưu lược trí cao hơn người. (2530)
Bạch Lê Phong chẳng hề sai,
Luật cho người chết chẳng ai thoát nào!
Hồn lìa khỏi xác bay cao,
Chẳng gân, chẳng cốt giữ nào thịt xương.
Khi thần lực đã lụn tàn,
Linh hồn bay bổng nhẹ nhàng vào mê.
Con ơi, mau hãy trở về,
Trần gian ánh sáng, lòng quê đợi chờ.
Con nghe lời mẹ dặn dò,
Mẹ xin từ biệt, thôi giờ mẹ đi! (2540)
Nói rồi hồn tựa lưu ly,
Mờ mờ nhân ảnh, vụt bay nhẹ nhàng.
Tiếp theo hồn phách các nàng,
Bạch Lê Phong gửi đến đền hưởng sinh.
Hồn mệnh phụ, hồn công nương,
Quây quần tranh uống bên bồn máu đen.
Rút gươm ngăn bước tranh giành,
Uy Lĩnh đứng hỏi từng nàng họ tên.
Hồn Thy Lộ đến trước tiên, (Tyro)
Vốn dòng quý phái vợ hiền Kề Thê. (Créthée) (2550)
Là nương tử Sa Môn Nê(Salmonée)*
Ê-Ôn sính lễ cưới về cho con,
Một hôm dạo bước bên sông,
E Ni Bê nước êm dòng sông xanh, (Enipée)
Một dòng sông đẹp thế gian,
Mơ màng sóng nước, trăng tàn thuyền trôi.
Bổng Thần hiện tự đỉnh trời,
Cướp nàng dậy đất, sóng sôi cuộn dòng.
Dâng mây che đỉnh Thiên Sơn,
Che cơn dục vọng mắt nhìn thần tiên. (2560)
Cỡi dây trinh nữ cho nàng,
Lửa tình bùng cháy, mơ màng giấc xuân,
Sau khi say giấc Vu sơn.
Cầm tay mơn trớn duyên tròn phượng loan:
Sướng vui này cuộc hợp hoan,
Sẽ sinh nàng những đứa con thiên tài.
Nuôi con dưỡng dục tháng ngày,
Bằng bầu sữa mẹ, bằng lời yêu thương.
Ta đây Thần Hải Long Vương,
Thần gây động đất bão giông cõi trần. (2570)
Đây là bí mật ngàn năm,
Dấu đi, nàng đã ăn nằm với ta.
Nhớ rằng con Thần sinh ra.
Nói rồi sóng ngựa đi qua biển trời.
Hoài thai chín tháng sinh đôi,
Con Pê Ly Án, con thời Nê Lê. (Pélias.Nélée)*
Lớn lên tài trí mọi bề,
Tận trung giúp Dớt, đi về công lao.
Uy quyền thế lực biết bao
Anh, Y Ôn Cốt đất giàu cừu dê,(Iolcos) (2580)
Phy Lô, em dựng thành quê, (Pylos)
Nàng còn sinh với Kề Thê ba chàng.
Anh Song, Phê Thiết, My Thông, (Éson, Pérès, Amythaon)
Giỏi nghề chiến trận đấu trường chiến xa.
Đến nàng An Thy ba hoa,(Antiope)
Nương tử A Sô Bốt vốn nhà trâm anh. (Asopos)
Đẹp xinh mê cả thánh thần,
Ngủ trong tay Dớt, sinh thành hai trai.
Âm Phong, Dê Thốt trai tài, (Amphion, Zéthos)
Thành xây bảy cổng, lâu đài, lầu canh. (2590)
Thành Thép nổi tiếng lừng danh, (Thèbes)
Công trình rộng lớn, ngàn năm hùng cường.
Rồi đến nàng Anh Ni Liên,(Alcmène)
Âm Phi Ông cưới sinh con anh hùng. (Amphion)
Thần Dớt giả dạng làm chồng,
Sinh Hùng Anh Kiệt tiếng danh vang lừng. (Héraclès)
Trái tim sư tử lưu truyền,
Nàng Mê Gia Vệ theo bên về cùng. (Mégaré)
Nương tử con vua Kỳ Ông, (Créon)
Vợ Hùng Anh Kiệt chiến công can trường. (2600)
Đến Anh Phi Cát đẹp xinh, (Epicaste)
Sinh con Hổ Điệp tiếng danh để đời. (Oedipe)*
Giết cha lấy mẹ cướp ngôi,
Làm vua thành Thép là người loạn luân.
Tiếng ô nhục đến cõi thần,
Luật trời trừng trị mang thân khốn cùng.
Mẹ treo cổ nơi đỉnh trần,
Hồn về Diêm phủ giam tầng ngục sâu.
Con về Địa ngục vạc dầu,
Trói trong xích sắt, quay đều bánh xe. (2610)
Đến Điểm Bích, vợ Nê Lê, (Chloris, Nélée)
Ngày xưa sắc đẹp say mê cõi trần.
Là gái út Âm Phi Ông.
Ố́c Cô Mai trị một vùng bồng lai. (Orchomène)
Phy Lô hoàng hậu hoài thai, (Pylos)
Sinh con dũng tướng anh tài lừng danh.
Ninh Vương, Công Tuấn, Chính Miên, (Nestor, Chromios, Périclymène)
Ban Cơ công chúa như tiên giáng trần. (Péro)
Vương tôn công tử đua tranh,
Cầu hôn công chúa, đem quân tranh tài. (2620)
Vua Nê Lê gả cho ai?
Thành Y Phi Lĩnh, Phi Lai mang về. (Iphiclès, Pylacé)
Cuộc tranh gian khổ ê chề,
Thánh thần bên địch, bốn bề cản ngăn,
Cuối cùng cũng hạ được thành,
Ý Thần Vương Dớt giúp công chọn người.
Đến Lê Đa, sinh hai trai, (Léda)
Vợ Tinh Đa, một giống nòi hùng anh... (Tyndare)
Cát Tô khuất phục ngựa rừng, (Castor)*
Phổ Lịch võ sĩ ai cùng dám tranh. (Pollux) (2630)
Công khai phá, đất mầu xanh,
Giúp công Thần Dớt trở thành thần tiên.
Chết thành sao sáng đêm đen,
Hiện ra để báo bão đang tan dần.
Uy Lĩnh còn gặp Mỵ An, (Ariane)
Con Vua Mi Nốt, yêu chàng Tề Khuê. (Minos, Thésée)
Cuộn dây chỉ lối Cung Mê *
Thắng xong quái vật cùng về Nhã Kinh. (Athènes)
Chàng còn được gặp Ly Minh, (Clymène)
Gặp Âu Chi Phượng đảo điên bán chồng. (Eriphyle) (2640)
Bán chồng bằng giá nghìn vàng,
Tội đà trừng trị dưới ngàn ngục sâu.
Tàn đêm hồn thoát đi mau,
Bao hồn mệnh phụ thể nào kể xong.
Trở về thuyền đậu bên sông,
Lửa tàn, đền vắng mênh mông con thuyền.
Chuyện lòng những nỗi gian truân,
Mà Uy Lĩnh gặp trên đường về quê,
Mọi người chăm chú lắng nghe,
Ly kỳ xúc động say mê lòng người. (2650)
Chuyện vừa kể một ngày dài,
Chàng còn muốn nghỉ ngày mai lên đường.
An Thái Hoàng hậu tỏ lòng:
Hỡi vua Uy Lĩnh anh hùng thế gian,
Trải bao nguy hiểm gian nan,
Thông minh tài trí sử vàng khắc ghi.
Mời ngài ở lại thêm ngày,
Kể cho hết nốt gian nguy trên đường.
Đợi mong cả một triều đình.
Nức lòng chờ đợi kể xong chuyện người. (2660)
Thật là vinh dự chúng tôi,
Được nghe chuyện kể một đời gian truân.
Anh Thụy Công lão anh hùng, (Echénéos)
Đứng lên cảm tạ run run tiếp lời:
Anh hùng Uy Lĩnh bạn ơi!
Hoàng hậu nói thế, ngài thời kể thêm.
Chúng tôi khao khát còn thèm,
Lời ngài kể chuyện ấm âm ngọt ngào.
Ý Vua An Chính ra sao,
Xin ngài phán quyết truyền trao một lời. (2670)
Vua An Chính Vương tiếp lời:
Ý Hoàng hậu thế, ngài thời nghe theo,
Chúng tôi khao khát bấy nhiêu,
Kể cho hết chuyện phiêu lưu hải hùng.
Bạn chèo đã chọn sẵn sàng,
Ngày mai ngài cứ xuống thuyền ngủ say,
Thuyền về An Thạch một ngày,
Đường đi quen thuộc từ đây khó gì.
Vội vàng Uy Lĩnh tiếp lời:
Nhà vua dạy thế, tôi thời xin vâng. (2680)
Vua An Chính Vương hùng cường,
Vinh quang cao cả sáng danh loài người.
Tạ lòng ngài tiếp đãi tôi,
Muốn lưu tôi lại xứ ngài một năm,
Tiệc mời, quà tặng ân cần,
Tôi lòng náo nức, chờ trong quê nhà.
Hai mươi năm trải nắng mưa,
Vợ trông, con đợi, triều chưa vững vàng.
Nhà vua tiếp lấy lời chàng:
Hỡi ngài Uy Lĩnh anh hùng lừng danh. (2690)
Là người trung chính liệt oanh,
Khắc ghi muôn thuở, tấm lòng anh minh.
Sợ gì lũ kiến bầy ong,
Triều nghi rồi sẽ thong dong vững bền.
Lời ngài thông thái lạ lùng,
Càng nghe, càng khát khao lòng muốn nghe.
Đêm nay chẳng ai muốn về,
Tàn đêm thức trắng tỉ tê chuyện Ngài.
Bình minh hồng nắng ban mai,
Tiễn ngài ra bến, ngày dài ngủ ngon. (2700)
Uy Lĩnh bày tỏ cảm ơn:
Tâu vua An Chính Đại Vương anh hùng,
Có thời gian kể dài dòng,
Có thời gian để ngủ tròn giấc mê,
Nay ngài còn muốn lắng nghe,
Tôi xin tiếp nối chuyến vừa kể xong.
Uy Lĩnh cất giọng trầm hùng,
Kể thêm những chuyện lạ lùng thế gian:
Khi đoàn mệnh phụ đã tan,
Bạch Lê Phong xuống lệnh truyền về âm. (2710)
Gặp hồn An Gia Đại Vương,
Anh hùng lừng lẫy trầm ngâm mắt buồn.
Theo sau dũng tướng trung thành,
Phục binh Âu Thích giao tranh chết cùng. (Égistre)
Nhận ra tôi chẳng ngại ngùng,
Sau khi ngài uống xong dòng máu đen.
Mắt mờ ngài đẫm lệ buồn,
Kêu lên một tiếng đau thương vui mừng.
Khát khao cùng muốn ôm hôn,
Than ôi tay nắm, chỉ còn khói sương. (2720)
Lòng tôi đau xót khôn lường,
Hỏi thăm lòng luống đau thương bồi hồi.
Vinh quang An Trích ngài ơi,
An Gia thống lĩnh anh tài liệt oanh.
Đã không chết giữa trận tiền,
Vì đâu mà chết trên đường quang vinh?
Phải chăng thần Hải Long Vương,
Bão dâng đánh đắm chiến thuyền ngài chăng?
Hay là trong trận tiến công,
Cướp lương thua trận trên đường về quê? (2730)
Giao tranh thất kế sa cơ,
Đường tên, mũi đạn ai ngờ hay chăng?
An Gia Vương trả lời rằng:
Hỡi vua Uy Lĩnh lẫy lừng chiến công,
Lã Đạt tôn tử nối dòng,
Vương trượng thần Dớt xứng danh anh hùng.
Chẳng là trời thổi bão bùng,
Làm ra gió dữ sóng dâng đắm thuyền.
Chẳng thua cơ tại trận tiền,
Dân nào hung bạo, đường tên bất ngờ. (2740)
Mà do Âu Thích mưu mô,
Gian dâm cùng vợ ta chờ hại ta.
Đón ta thảm đỏ tiệc hoa,
Mời ta tắm mặc áo tơ bịt bùng.
Tay ta lúng túng bên trong,
Thừa cơ bửa lưỡi rìu cong giết bò.
Sảnh phòng mai phục bất ngờ,
Giết người trung tín, thua cơ tin lòng.
Tướng, quân thua chẳng đề phòng,
Máu tuôn đại sảnh, đỏ cùng thảm hoa. (2750)
Ta còn nghe tiếng rên la,
Nàng Cát Tâm đó cùng ta kề hầu. (Cassandre)*
Ngực hoa ướt đẫm máu đào,
Tay nâng nàng dậy cùng nhau chết cùng.
Ly Tâm Khánh dâm phụ tráo trân, (Clytemnestre)
Như con chó dử, căm hờn tránh xa,
Người không tim ấy, vợ ta,
Gian dâm rồi trải thảm hoa, trống cờ.
Bày mưu tính kế thừa cơ,
Bụng đầy rắn độc, ai ngờ ai hay! (2760)
Ta tin lời nói ngọt ngay,
Tin tình chung thủy đợi ngày đoàn viên.
Than ôi ! không chết trận tiền,
Mà vì độc kế, vợ mình gian dâm.
Chết vì rìu bửa, dao đâm.
Mắt trần về đến cõi âm trừng trừng trừng.
Mắt nhờ Diêm chúa khép giùm.
Chết còn uất ức, nỗi tình nào nguôi.
Thương thay cho lũ con tôi,
Thương cha quyến luyến bao lời yêu thương. (2770)
Gia nhân yêu kính trung thành,
Ngày về ngỡ buổi gia đình đoàn viên.
Gian nan không chết chiến tranh,
Ai ngờ chết bởi người mình yêu thương.
Nhớp nhơ thay một tấm gương,
Đàn bà ác độc, uất hờn không phai.
Uy Lĩnh đau xót tiếp lời:
Thần Vương trói buộc, chao ôi lời nguyền.
An Trê dòng dõi lưu truyền, (Atrée)
Lời nguyền thù hận, đảo điên đàn bà. (2780)
Hạ Lan cuộc chiến thành Troa, (Hélène)
Gieo bao tang tóc, nhà nhà đau thương.
Còn ngài chẳng chết trận tiền,
Vì Ly Tâm Khánh vợ hiền gian dâm.
Giết chồng cùng kẻ thù chồng,
Kế sâu mai phục quang vinh ngày về.
Tiếp lời bằng giọng não nề:
Rằng Uy Lĩnh chớ đũa vơ chung cùng,
Người gian ác, kẻ tiết trinh,
Người thì dâm đãng, người lòng yêu thương. (2790)
Nếu người chẳng chết chiến trường,
Vợ người trung tín, thủy chung đợi người.
Nàng Nhã Lan thật tuyệt vời, (Pénélope)
Nương tử Anh Ca Rốt trí tài công dung, (Icarios)
Nàng là mẫu mực trung trinh,
Người đi nàng hãy tuổi xuân vừa tròn.
Chồng ra chiến trận, nuôi con,
Dạy con khôn lớn sớm hôm tập tành.
Giờ đây ngồi giữa triều đình,
Nói năng chửng chạc, thông minh ai bằng. (2800)
Người đà có phúc nào hơn,
Cha nào con nấy, vợ hiền sánh đôi.
Ngày về đoàn tụ đẹp tươi,
Kính cha, thương mẹ mừng vui một nhà.
Xót thương thay một phận ta,
Vừa về triều chính, con nhà chưa chơi,
Nàng đà ám hại ta rồi,
Con ta bỏ trốn, sống đời phiêu lưu,
Nơi Ốc Cô Mai, nơi Cát Thu, (Orchomène, La Sablonneuse)
Hay Nhã Kinh đó bây giờ ra sao, (Athènes) (2810)
Anh Tuấn trí tuệ tài cao, (Oreste)
Con ơi, con rửa máu đào cho cha.
Người về xin nhớ giúp ta,
Giúp cho Anh Tuấn thù nhà trả xong.
Ngậm ngùi Uy Lĩnh lời rằng:
Anh hùng An Trích xin đừng hỏi tôi,
Anh Tuấn lưu lạc trên đời,
Tôi đâu dám hứa những lời gió bay.
Tình bạn nghĩa cả cao dày,
Những lời trung chính. phận này chẳng quên. (2820)
Hồn ngài bay bổng vút lên,
Xót thương bạn cũ mắt tràn lệ sa.
Bên đền hồn khác bước qua,
An Sinh bay đến, nhận ra hỏi chào. (Achille)
Hỏi rằng: Uy Lĩnh thế nào?
Xuống Dạ Đài bởi vì sao cớ gì?
Đường nào vào chốn âm ty.
Hồn ma cửa quỷ, làm gì đây chăng?
Uy Lĩnh vội trả lời rằng:
An Sinh dũng tướng can trường An Kinh, (2830)
Tôi nay đi vào cõi âm.
Nhờ hồn Tinh Thế đoán giùm xem sao?
Đường về An Thạch thế nào?
Mà chưa về được, biết bao nhọc nhằn!
An Sinh ơi có biết rằng,
Chẳng ai cũng được tiếng danh như ngài!
Sống người kính phục tướng trời,
Chết thời cai quản đời đời cõi âm.
An Sinh cười nhạt đáp rằng:
Đã vào cõi chết, tiếng danh ích gì! (2840)
Thà như nông nô ngu si,
Tay không lang bạt, chân đi giang hồ,
Hơn vào âm phủ quyền to,
Làm cai quản ngục, ma lo quỷ hờn.
Ta còn lo phận đứa con,
Trở về chinh chiến bước đường quang vinh.
Cha ta người có biết tin,
Tuổi già bại liệt ăn nằm một nơi.
Ngày ta sống dưới mặt trời,
Giáo gươm hăm hở xông nơi trận tiền. (2850)
Xứ Troa, dàn trận giáp binh,
Giết bao kẻ địch, công đồn Đạt Liên,
Tay ta vô địch trần gian,
Đi vào cõi chết có mang được gì?
Lòng ta mơ ước đôi khi,
Được về dìu bước chân đi cha già.
Với con hôm sớm vui đùa,
Chẳng màng danh lợi thiết tha tiếng đời.
Uy Lĩnh thương cảm đáp lời:
Cha người ta đã lâu rồi vắng tin. (2860)
Con trai người Nã Tố Long, (Néoptolème)
Tôi xin kể hết chuyện từng chiến chinh.
Những ngày giáp trận đao binh,
Thuyền tôi đưa đến An Kinh trận tiền.
Quanh thành Troa họp Hội Đồng,
Ngỏ lời hùng tráng luận bàn trước tiên.
Một lời trung chính can trường,
Nói, làm chững chạc chẳng sờn sức trai.
Ninh Tô kính trọng thương tài, (Nestor)
Và riêng tôi cũng phục lời thanh niên. (2870)
Xông pha chiến đấu trận tiền,
Thương đồng anh dũng kinh hoàng địch quân.
Có hôm tàn cuộc thu quân,
Tôi lo giữ cửa trấn trong lũy đồn,
Hắn còn năn nỉ tuốt gươm,
Đuổi tàn quân chạy, mới băng ngựa về.
Đến ngày thắng trận thành Troa,
Hàng đầu công trạng thưởng cho anh hùng.
Mười năm bao kẻ hy sinh,
Mù loà An Thiết sa trường gươm dao. (Arès) (2880)
Thế mà hắn chẳng ra sao,
Mình đồng chẳng vết thương nào mảy may.
An Sinh vui vẻ hồn bay,
Mừng con anh dũng đến ngày quang vinh.
Các linh hồn khác đến gần,
Lòng còn nặng nỗi dương trần nhớ mong,
Riêng An Bắc, tôn tử Thế La Môn. (Ajax Télamon)
Đứng xa nghi ngại bên lòng còn mang.
Từ khi phân xử Hội Đồng,
Cho tôi gươm giáp kiên đồng An Sinh. (2890)
Uy Lĩnh bày tỏ nỗi niềm:
Đến đây An Bắc chớ mang nỗi hờn,
Hãy quên đi chuyện giáp gươm,*
Làm chi mang mãi nỗi buồn thiên thu.
Các thần gây nỗi hận sầu,
Mất người, mất một lũy hào hùng anh.
An Kinh thương tiếc vô cùng,
Thương người chẳng khác anh hùng An Sinh.
Lỗi nơi Thần Dớt mặc tình,
Đường thương kẻ địch trúng nhằm vào ngươi. (2900)
Nỗi hờn nên giải mà thôi,
Cùng ta, hoàng tử một lời thân thương,
Giận hờn trút bỏ sầu vương,
Con tim rộng mở con đường thiết thân.
An Bắc chẳng nói chẳng rằng,
Bay đi hồn nhập cõi âm mịt mùng.
Uy Lĩnh vào cõi mênh mang
Còn trông Mi Nốt hốt vàng cầm tay. (Minos)
Các hoàng tử đứng quanh ngai,
Kiện đòi phán xử việc đời trần gian. (2910)
Bên trong cánh cửa thênh thang,
Cõi Diêm Vương các hồn oan đứng ngồi. (Hadès)
Ô Rion đứng cạnh ngôi, (Orion)*
Gươm đồng sát khí sáng ngời cầm tay.
Sống săn đuổi thú mê say,
Sa cơ chết giữa núi mây mịt mùng.
Còn trông Ty Tuất ngất ngư, (Tityos)
Chín con trăn lớn siết nhừ tấm thân.
Bên sườn hai cánh đại bàng,
Mổ gan rút ruột trông càng gớm ghê. (2920)
Tội hung dữ với Lệ Cơ, (Léto)
Ái phi của Dớt, Thần cho cực hình.
Tăng Tân còn thấy tội danh, (Tantal)
Tội đồ gánh chịu đứng trong nước hồ,
Hai chân, trói chặt dây to,
Nước tràn tới cổ, cứ lo khát hoài.
Mỗi lần toan uống nước thời,
Nước đà rút mất, chân lòi bùn đen.
Chung quanh cây trái chín thơm,
Lê vàng, táo đỏ, nho xanh, lựu hồng. (2930)
Tay vươn muộn hái, đói lòng,
Gió đà bay mất, chẳng còn trong tay.
Còn Chi Bích đỉnh đồi mây, (Sisyphe)
Lăn hoài tảng đá, mồ hôi chảy dài,
Đá lăn lên giữa đỉnh đồi,
Đá đà tụt xuống, lại hoài công lăn.
Còn Hùng Anh Kiệt anh hùng, (Héraclès)
Đứng hầu kề có các thần uy linh.
Mừng vui nâng chén tiệc trần,
Hạ Ban thần nữ thết chàng say sưa. (Hébé) (2940)
Ái nữ Dớt và Hạ Cơ, (Athénée, Héré)
Chung quanh hồn phách cung mơ nghìn trùng.
Lưng chàng cung, kiếm, ống tên,
Thắt đai vàng chạm hai bên thú rừng.
Sư tử, gấu sói, beo vằn..
Ngọc vàng chạm trổ, xảo tinh vô cùng.
Thấy tôi Hùng Kiệt nói rằng:
Hỡi chàng Uy Lĩnh giống dòng Thần Vương.
Lã Đạt tôn tử anh hùng,
Đất trời vang dội lẫy lừng chiến công. (2950)
Thương người nhiều nỗi gian truân,
Ta đã cầu với các thần giúp cho.
Quán Trí, Hạc Mai cùng lo,
Xuống trần cứu giúp nạn to trên đường.
Nói rồi sóng ngựa dục cương,
Về cung Diêm Chúa, suối huyền cõi âm.
Uy Lĩnh còn đứng trầm ngâm,
Chó ngao xua đuổi, Bạch Lê Phong chiêu hồn.
Vội vàng về chiếc thuyền buồm,
Uy Lĩnh ra lệnh anh em lái chèo, (2960)
Qua ghềnh sông nước thuyền theo,
Đại Dương sông chảy thuyền vào dương gian.* (2962)
Thi Ca Khúc 8: Tiếng hát nhân ngư. Qua eo biển hai quái vật Scylla và Charybde. Ăn thịt bò thần Hélios (câu 2963 đến 3332)
CHÚ THÍCH:
2329. Cimmériens giống dân huyền thoại ở vùng núi lửa Vésuve.
2478. 2512. Người Hy Lạp xưa cho rằng phụ nữ chết vì bệnh tim mạnh là do Thần nữ Artémis bắn tên.
2550. Créthée sáng lập triều đại Iolchos là coin trai của Eole như Salmonius, là cha của Tyro.
2591. Créon vua thành Thèbes.
2551. Nương tử Sa Minh Nê: Con gái Salmonée.
2576. Nélée lập triều đại ở Pylos, cha vua Nestor.
2602. Kịch Vua Oedipe của Sophocle: Con Epicaste, Oedipe lấy mẹ giết cha để cướp ngôi.
2628. Castor và Pollux, anh em song sinh Dioscures con của Thần Zeus, sau thành hai ngôi sao hiện ra để báo cơn bão đã tan.
2637. Cung Mê ở đảo Crète còn di tích tôi có thăm nơi này, di tích khảo cổ lâu đài hàng trăm phòng dễ lạc lối.
2752. Cassandre con gái vua Priam thành Troie có tài tiên tri, thành ngữ "lời tiên tri Cassandr" là lời tiên tri đúng nhưng không ai nghe.
2893. Sau khi Achille mất vì mũi tên Paris bắn trúng gót chân. Ulysse và Ajax tranh nhau di vật giáp gươm của Achille.
2913. Orion: người săn gấu, khi sao Orion hiện ra phía đông, chùm sao Đại Hùng Tinh hiện ra ở chân trời.
2962. Thời Homère cho rằng qua khỏi Colonnes d̉ Héracl̀ès, eo biển Tây Ban Nha, Maroc ngày nay vào sông Đại Dương chảy chung quanh mặt đất là vào Địa Ngục. Champs Élysée vùng thiên đường nằm giữa hai con sông Lưỡng Hà vùng Irak ngày nay.
THI CA KHÚC 8: Tiếng hát nhân ngư - Qua eo biển hai quái vật Si La và Sa Riếp - Ăn thịt bò thần Thái Dương
TÓM LƯỢC: Trở về đảo Bồng Lê, Uy Lĩnh làm lễ an táng Anh Phê Nô trọng thể và Phù Lê dặn dò cho biết những nguy hiểm phải đối phó trên đường về. Con thuyền ra đi, qua đảo các nàng nhân ngư, để tránh khỏi tiếng hát quyến rũ, theo lời dặn, Uy Lĩnh chia sáp ong bịt tai các thủy thủ và bảo trói mình vào cột buồm để chàng nghe tiếng hát,
Đi đến eo biển hai con quái vật, quên lời dặn Phù Lê cầu thân mẫu con quái thần, thuyền Uy Lĩnh tránh được con Sa Riếp (Charybde) nhưng bị con Si La (Scylla) bắt cóc sáu thủy thủ ăn thịt.
Đến đảo Thần Thái Dương (Hélios) nuôi bò, những trận gió ngược nổi lên, thuyền tránh gió trong cảng cả tháng, lương thực cạn dần. Một hôm Uy Lĩnh vào núi cầu thần và say ngủ. Các thủy thủ nhe lời Âu Chi Lộ Cốt (Eurylochos) giết bò làm thịt ăn. Khi Uy Lĩnh về thì đã muộn, Thần Thái Dương kiện Thiên Đình. Thần Dớt nổi giận gây giông bão, sấm sét đánh gãy cột buồm và tan nát con thuyền, chỉ còn Uy Lĩnh sống sót bám vào mảnh thuyền, trôi lại eo biển hai quái vật. Uy Lĩnh bám cành vả trên vách đá, chờ nước lên lại bám vào mảnh ván trôi chín ngày, gió dạt về phía Nam đến đảo tiên nữ Kiều Ly Cơ được nàng cứu vớt.
Thuyền xa sóng cả Đại Dương, (2963)
Về Bồng Lê bóng con thuyền lướt nhanh. (Aiaié)
Mặt trời đỏ rực hoàng hôn,
Thuyền vào bãi cát, đêm tàn rừng cây.
Ngủ qua đêm đợi sáng ngày
Cho người mang đến thi hài Phê Nô. (Elphénor)
Chất xong giàn lửa củi khô,
Trước ghềnh đá rộng bay tro lửa hồng. (2970)
Lễ nghi thiêu xác bạn xong,
Nhớ người thân tín dòng dòng lệ sa.
Tro tàn đắp với cỏ hoa,
Giáo gươm một nấm, mộ bia đôi hàng.
Đầu mồ một mái chèo lan,
Gọi là tưởng nhớ bạn hiền thân thương.
Kéo nhau về chốn lầu trang,
Phù Lê bày tiệc hân hoan đón mừng:
Về là được chết hai lần,
Mấy ai từng đến cõi âm tái hồi. (2980)
Đời người chỉ một lần thôi,
Chết đi vĩnh biệt cuộc đời trần gian.
Bạn ơi ! nâng cốc rượu vang,
Hôm nay vui thú, mai còn ra đi.
Rồi tôi sẽ nói những gì,
Trên đường về đó, hiểm nguy còn nhiều.
Một ngày vui thú bao nhiêu,
Rượu ngon, thịt béo, bóng chiều ngà say.
Vầng dương vừa tắt chân ngày,
Bóng đêm dần tới chân mây sương mù. (2990)
Bạn bè say ngủ bên nhau,
Hiên ngoài, nội sảnh đều đều ngáy vang.
Cầm tay Uy Lĩnh mơ màng,
Phù Lê về chốn lầu vàng hiên tây.
Tàn đêm tâm sự vơi đầy,
Bên nhau lần cuối rồi mai giã từ.
Sau cơn tình mộng non Vu,
Phù Lê lời nhẹ như ru dặn chàng:
Ngày mai thuyền lại lên đường,
Đi ngang hoang đảo các nàng nhân ngư. (3000)
Đầu người, đuôi cá, cánh chim,
Tiếng ca thánh thót, êm đềm thanh tao.
Đẹp xinh lời lại ngọt ngào,
Tiếng ca quyến rũ, xôn xao lòng người.
Sống trên đồng cỏ xanh tươi,
Ngổn ngang xương trắng, xác người rữa tan.
Đó là thủy thủ mê man,
Đi theo tiếng hát, dừng thuyền say mê.
Qua đây chớ ghé thuyền về,
Sáp ong tai bịt, chớ nghe lời nàng. (3010)
Còn chàng muốn biết Ngư Nhân, (Sirènes)
Trói chân tay lại cột buồm lắng nghe,
Dặn thêm cho các bạn bè,
Hễ khi vùng vẫy, thì hè trói thêm.
Dặn dò bè bạn nhớ rằng,
Chớ tuân vâng lệnh khi gần nhân ngư.
Lại qua vùng đá hoang vu,
Đột eo biển nhỏ đá như chất chồng.
Hai con quái vật hai bên,
Si La tiếng sủa chó con lạ lùng. (Scylla)* (3020)
Thế mà hung dữ vô cùng,
Mười hai chân đứng kinh hoàng hang sâu,
Thân hình sáu cổ, sáu đầu,
Ba hàng răng nhọn, đỏ ao lưỡi dài.
Thập thò hang núi ra ngoài,
Bắt đàn hải cẩu ăn nhai ngày ngày.
Chẳng ai chống quái thần này
Giáo gươm chẳng thủng, da dày chẳng xuyên.
Một bên Sa Riếp hút lên,
Ngày ba lần hút, xoáy liền vực sâu. (3030)
Qua đây chẳng cưỡng được đâu,
Thừa cơ nước lặng, qua mau con thuyền.
Sáu đầu Si La chực bên,
Coi chừng quái vật ngay triền hang sâu.
Uy Lĩnh vội vã hỏi mau:
Chúng tôi có thể tránh nào được chăng?
Đánh Si La cứu được không?
Khi quái vật cúi đầu quanh con thuyền.
Phù Lê khẽ đáp lời buồn:
Đau thương thay, chớ can trường đánh chi. (3040)
Đẩy lùi thần chẳng ích gì!
Quái thần không chết, giết đi cách nào?
Chỉ còn cách tránh thật mau,
Giáo đâm không thủng, đánh sao quái thần?
Chỉ cầu Kha Thái mẫu thân, (Cratais)
Mẹ Si La đó mới mong an lành.
Đến Thi Na Chi đảo bò thần, (Thrinacie)
Thần Thái Dương khiến cho chăn trên đồng,
Năm mươi con góp thành đàn,
Bảy đàn bò mộng rống vang vang lừng. (3050)
Cừu dê béo tốt mượt lông,
Bò đàn bất tử chẳng sinh mỗi ngày.
Phan Thương, Lâm Bích nơi đây, (Phaethouse. Lampétie)
Con Thái Dương ở đảo này chăm nom.
Đến đây chớ giết bò ăn,
Bò thần không phạm, mới mong trở về.
Còn như phạm lỗi nặng nề,
Búa rìu sấm Dớt, chớ hề thoát thân.
Tôi tiên tri với chàng rằng,
Chỉ chàng sống sót, một mình tang thương. (3060)
Rạng đông hồng ửng nắng lên,
Phù Lê từ giả lòng buồn từ ly,
Con thuyền lướt sóng ra đi,
Sóng ngàn biển thẩm chân mây gợi buồn.
Dục lòng về với quê hương,
Cuộc tình bèo dạt, mây tan biển trời.
Đảo Nhân Ngư thoáng mù khơi,
Uy Lĩnh họp bạn dặn lời Phù Lê,
Sáp ong chia bịt tai nghe,
Phân cho thủy thủ răn đe dặn dò. (3070)
Cột buồm buộc chặt dây to,
Uy Lĩnh căn dặn trói gô mình vào,
Khi nghe vùng vẫy thét gào,
Chớ nghe vâng lệnh, hãy vào trói thêm.
Thấy Nhân Ngư đảo xa trông,
Con thuyền cố tránh đi vòng xa xa.
Cũng không thoát mắt tinh ma,
Các nàng bơi đến, tiếng ca não nùng.
Tiếng thanh thoát, tiếng mênh mông,
Nhân Ngư ca ngợi anh hùng đi qua. (3080)
Hát bài: Ngựa gỗ thành Troa,
Véo von lời hát thiết tha gợi tình:
Chàng ơi, chàng hãy dừng thuyền,
Để nghe tiếng hát êm đềm trong mơ.
Chứa chan, xao xuyến lời thơ,
Tình yêu ngào ngọt, mong chờ giao hoan.
Chẳng ai nghe tiếng hát vang,
Vì tai bịt sáp, chẳng màng tiếng ca.
Uy Lĩnh nghe tiếng thiết tha,
Mê man vùng vẫy, thét la kêu gào. (3090)
Như lời chàng dặn y sao,
Thủy thủ xông đến, quấn mau mấy vòng,
Dây thừng buộc chặt chung quanh,
Mọi người cúi rạp, băng băng lái chèo.
Con thuyền lướt sóng đi mau,
Không còn nghe tiếng hát nào xa xăm.
Chàng ra hiệu, rút sáp ong,
Cởi dây neo trói tay chân rồi cười:
Đã nghe tiếng hát tuyệt vời,
Bình yên sống sót, qua nơi yên lành. (3100)
Rồi qua vùng biển đá ngầm,
Ngổn ngang núi đá, sóng dâng bạc đầu.
Con thuyền vòng tránh, lách mau,
Qua eo biển hẹp núi cao ngất trời.
Hai con quái vật hai nơi,
Sy La trú ẩn, bắt người để ăn,
Lối thông thăm thẳm mấy tầng,
Ngày đêm xuất hiện, rập rình hang sâu. (3110)
Một con Sa Riếp ghê sao!
Hút nước thành vực, đáy cào cát xanh.
Rồi phun ra sóng mấy tầng,
Biển khơi chuyển động, nước dâng ngút ngàn.
Biển dâng bọt sóng trào tung,
Như nồi nước giữa than hồng sục sôi.
Nước phun cao lại tuôn rơi,
Như mưa rào trút biển trời mong manh.
Anh em thủy thủ tái xanh,
Hoảng hồn, hoảng vía thất thanh kinh hoàng. (3120)
Quên lời căn dặn tiên nương,
Khẩn cầu thân mẫu của con quái thần.
Uy Lĩnh mặc áo giáp đồng,
Tay cầm giáo nhọn đứng ngăn trước thuyền,
Chỉ huy cổ võ anh em,
Lánh đông vực xoáy, thoát triền sóng cao.
Mãi lo Sa Riếp hiểm nghèo,
Sy La lông lá, lêu đêu đầu dài,
Tóm sáu thủy thủ ăn nhai,
Tiếng kêu bất hạnh, chơi vơi kinh hoàng. (3130)
Uy Lĩnh thấy cảnh đau lòng,
Không sao cứu bạn, cũng không làm gì!
Chống chèo vượt hãi hùng đi,
Lòng đau chua xót, tháng ngày lênh đênh.
Thoát vùng núi đá tai ương,
Con thuyền đi đến đảo Thần Hy Bê Rông. (Hypérion)
Thái Dương Mặt Trời Thần,
Thần dùng hoang đảo để chăn nuôi bò.
Đàn bò trán rộng béo to,
Dê cừu đông đúc nhấp nhô đầy đồng. (3140)
Từ xa tiếng rống mênh mông,
Uy Lĩnh lại nhớ tiên nương dặn dò,
Tiên tri Tinh Thế đoán cho,
Chàng khuyên rằng chớ ghé vô đảo thần.
Anh em mỏi mệt vô cùng,
Sức đà kiệt quệ chẳng lòng nào đi.
Âu Chi Lộ Cốt chai lỳ:
Uy Lĩnh tàn nhẫn, xá gì anh em,
Mình đồng da sắt có hơn,
Anh em mỏi mệt, sức mòn tàn hơi. (3150)
Chỉ mong bờ bến nghỉ ngơi,
Rồi mai khỏe sẽ ra khơi trở về.
Còn đi giữa biển sương mờ,
Lạc đường giữa biển biết bờ bến đâu.
Đêm khuya sẽ nổi gió mau,
Sóng cao, gió dữ đánh vào thuyền ta.
Còn đi là chết thôi mà,
Chẳng hơi sức nữa để qua biển này.
Chi bằng tạm ghé vào đây,
Cầu thần che chỡ, đêm nay tạm dừng. (3160)
Nghỉ đêm sữa soạn bữa ăn,
Trên thuyền đợi sáng rồi dong thuyền về.
Anh em thủy thủ lắng nghe,
Nhao nhao đồng ý chẳng hề sợ chi.
Uy Lĩnh biết trước nghĩ suy,
Các thần thử thách điều gì nơi đây.
Trang nghiêm nói trước thẳng ngay:
Âu Chi Lộ biến sự này tại tôi,
Một mình chống với mọi người,
Thôi thì hãy hứa nhớ lời tiên tri. (3170)
Đất Thần Thái Dương đến đây,
Chớ nên đụng chạm mảy may cừu bò.
Không nên vì đói điên rồ,
Giết bò cừu của thần cho trú nhờ.
Hãy bằng lòng với lương khô,
Phù Lê tiên nữ đã cho đầy thuyền.
Nói rồi chàng bắt anh em,
Thề nguyền rồi mới cho lên bến bờ.
Thuyền vào bến cảng xanh mơ,
Gần nguồn suối ngọt nên thơ hữu tình. (3180)
Uống ăn no buổi tối xong,
Bên nhau đốt ngọn lửa hồng tiếc thương.
Sụt sùi nhớ sáu anh em,
Sy La vồ mất trên đường đi qua.
Khóc than thương tiếc xót xa,
Đêm tàn thổn thức, mi sa giấc nồng.
Tàn đêm tinh tú biến nhanh,
Mây mù giăng ngập khắp vùng biển khơi.
Bão giông lại nổi tơi bời,
Màn đêm dày đặc đất trời tối đen. (3190)
Bình minh mờ mịt sáng lên,
Vẫn còn giông tố triền miên biển ngàn.
Sóng to chẳng thể lên đường,
Thôi đành nén lại vài hôm đợi chờ.
Quẩn quanh thăm các bãi bờ,
Mới hay thuyền đậu bến mơ động vàng.
Tiên nương hợp xướng ca vang,
Tiếng ca thánh thót vang lừng đồng xanh.
Uy Lĩnh căn dặn đôi lần:
Trong thuyền rượu đỏ, lương ăn còn nhiều. (3200)
Dù là có đói bao nhiêu,
Cũng không đụng tới bò cừu nơi đây.
Nếu không tai họa chết ngay,
Thần Thái Dương biết mảy may sự tình.
Anh em biết họa rành rành,
Nào ngờ giông bão mưa dầm ngày đêm.
Gió mùa Nam Tố nổi lên, (Notos)
Giam thuyền neo đậu đã hơn tháng trời.
Cạn dần rượu thịt lương tươi,
Anh em săn bắt chim trời, cá ao. (3210)
Dày vò cơn đói khát khao,
Nhìn ra đồng cỏ nao nao thèm thuồng.
Uy Lĩnh quyết chí tìm đường,
Đi vào trong đảo cầu thần hiển linh.
Giúp cho lương thực đói lòng,
Trời êm gió lặng để mong thuyền về.
Đến đền gió lặng tư bề,
Uy Lĩnh cầu khẩn, rồi mê giấc nồng.
Thiếp đi trong mộng thần nhân,
Trở về thì việc đã thành tang thương. (3220)
Âu Chi Lộ xúi anh em:
Sống làm người đã khổ trên cõi trần,
Ai ai đều chết một lần,
Nhưng mà chết đói, vô cùng đớn đau,
Nay ta cùng tế thần nào,
Mổ bò tế các ngôi cao Thiên Đình,
Cầu xin ban phúc ban ân,
Được về An Thạch an lành quê hương,
Ơn Thần Ánh Sáng Thái Dương.
Chúng ta sẽ dựng ngôi đền thật to. (3230)
Khắc dâng tượng đẹp tôn thờ,
Nếu Thần ích kỷ, chẳng cho tế thần,
Trả thù đánh đắm con thuyền,
Thôi thì chết phứt, cho quên nợ đời.
Còn hơn chết đói tàn hơi,
Đảo hoang lây lất, bò thời chẳng ăn.
Anh em cơn đói xiêu lòng,
Bắt bò thọc huyết, tế thần rồi ăn.
Xẻ bò thui nướng thơm lừng,
Hả hê gan ruột, thịt vần lửa than. (3240)
Uy Lĩnh thức dậy về thuyền,
Nghe mùi mở khói bay lên ngạt ngào :
Ôi thôi! tội lỗi biết bao,
Thần Vương thương xót lòng nào thẳng ngay.
Vì Thần cho giấc ngủ say,
Không ngăn được tội lỗi này anh em.
Giết bò xúc phạm Thiên Đình,
Xin Thần Vương hãy tội tình xót thương..
Lâm Bích tiên nữ tâu lên,*
Thần Thái Dương đã nổi cơn lôi đình. (3250)
Đến ngay hội nghị các thần,
Thiên Sơn đang họp luận bàn trần gian.
Thái Dương Thần tiếng ầm vang,
Thiên triều đang họp miên man vội ngừng:
Hỡi Thần Dớt đấng Phụ Vương,
Chư vị Bất Tử Thần Linh tỏ tường.
Thủy thủ Uy Lĩnh xem thường,
Coi khinh thần thánh cho nên giết bò.
Tội này chẳng thể tha cho,
Nếu không hình phạt nhỏ to trị trừng. (3260)
Nếu không pháp luật công minh,
Thiên Sơn còn cái kỷ cương ra gì?
Tôi sẽ bỏ dương gian đi,
Thà xuống địa phủ sáng soi âm hồn.
Trần gian luật lệ đảo điên,
Tôi không làm việc được trên cõi trần.
Nghe lời Thần Dớt cản ngăn :
Thái Dương Thần hỡi phúc ân cõi đời,
Hãy bình tâm ánh sáng soi,
Phục vụ thần thánh cõi trời Thiên Sơn. (3270)
Phục vụ người chốn trần gian,
Đang cần ánh sáng, đất sinh lúa mì.
Còn lũ phạm thượng khinh khi,
Ta cho sấm sét tức thì đánh tan.
Ra muôn mảnh vụn con thuyền,
Thần Thái Dương hãy bình tâm đợi chờ.
Sáu ngày từ buổi giết bò,
Thái Dương sáu buổi đánh xe vàng vòng.
Từ lâu đài ở phương Đông,
Xe vàng chọi lọi sang vùng cực Tây. (3280)
Sáu ngày thủy thủ chẳng hay,
Chẳng còn cơn đói ngất ngây dày vò.
Chẳng còn sáng suốt nhận cho,
Những điều tiên báo: da bò biết đi,
Xiên thịt than khóc như ri,
Khi thì vật vã, khi thì rống lên.
Những ghim thịt sống kêu than,
Những điều quái dị chẳng làm ai hay.
Đến ngày thứ bảy ra tay,
Dớt cho sóng lặng sau ngày gió mưa. (3290)
Biển khơi trầm lắng hiền hòa,
Trời cao bát ngát mây xa trắng màu.
Mọi người mừng rỡ kéo nhau,
Đẩy thuyền ra bến, cùng nhau dựng buồm.
Ra khơi thuyền lướt băng băng,
Hỡi ơi! trời sáng trong lành chẳng lâu.
Dớt cho dồn đám mây mù,
Phủ màu đen tối âm u đất trời.
Biển dâng bão dữ sóng dồi,
Điên cuồng thuyền lại nổi trôi vật vờ. (3300)
Cột buồm gảy đổ sóng xô,
Vỡ sọ thủy thủ đứng chờ kéo dây.
Kinh thiên tiếng nổ sét bay,
Chói lòa Thần Dớt giáng ngay vào thuyền.
Con thuyền lăn lóc quay lên,
Khói mù khét lẹt rồi tan rả rời.
Anh em thủy thủ loi ngoi,
Cuốn đi sóng cả, mỗi người một nơi.
Chết trong giông bão chơi vơi,
Dớt không còn muốn thấy nơi cõi trần. (3310)
Uy Lĩnh bơi trên sóng ngàn,
May thay bám được ván buồm nổi trôi.
Ghép buồm vào ván rồi ngồi.
Chiếc bè chàng lại nổi trôi đêm dài.
Vầng dương bừng sáng chân trời,
Uy Lĩnh lại thấy mình ngồi trôi qua.
Eo biển Sa Riếp, Sy La,
Thật là khủng kiếp ác ma kinh hoàng.
Sy La đâu đó chập chờn,
Sa Riếp hút nước xoáy tròn vực sâu. (3320)
Uy Lĩnh thoáng thấy trên đầu,
Một cành vả lớn nhấp nhô vách tường.
Uy Lĩnh bám chặt leo lên,
Mình treo lủng lẳng trên cành như dơi.
Đôi tay bám chặt đợi thời,
Sa Riếp nhả nước, bè trôi lại gần.
Uy Lĩnh thả tay buông mình,
Lên bè trôi nổi, mặc tình gió đưa.
Chín ngày trên biển bao la,
Ô Chi tiên đảo sóng đưa dạt vào. (3330)
Kiều Ly vớt tự sóng đào,(Calypso)
Đưa vào chăm sóc, với bao tâm tình. (3320)
Thi ca khúc 9: Uy Lĩnh rời đảo Phan Xuyên, đến quê hương An Thạch. Từ câu 3333 đến 3452.
CHÚ THÍCH:
3020. Tây phương có thành ngữ hết Scylla đến Charybde nghĩa là hết tai nạn khốn nguy này đến tai nạn khác.
3249. Các nhà văn Alexandrins phê bình rằng Thần Hélios nhìn thấy, nghe thấy không cần con gái Lampétie tâu lên. Ý nghĩa tên Lampétie là tên một mảnh vụn ngôi sao gần mặt trời. Homère nhân cách hóa mảnh vụn ngôi sao này.
THI CA KHÚC 9: Uy Lĩnh rời đảo Phan Xuyên - Đến quê hương An Thạch
TÓM LƯỢC: Mọi người trong triều đình vua An Chính Vương say mê chuyện ly kỳ của Uy Lĩnh. Vua mời mọi người dự buổi chiêu đãi Uy Lĩnh lần cuối. Hôm sau đưa Uy Lĩnh xuống thuyền và chàng mê man ngủ say, Thuyền về đến An Thạch (Ithaque). Thủy thủ không dám đánh thức chàng dậy nên khiêng cả giường và chàng lên bờ cùng tặng phẩm ở cảng Phù Nghi (Phorcys). Thuyền trở về Phan Si (Phéacie) chưa đến bến thì Thần Hải Long Vương biết được trả thù, biến chiếc tàu và thủy thủ thành đá. Vua An Chính kinh hoàng vội dâng lễ tế thần. Uy Lĩnh thức dậy không nhìn ra quê hương vì Thần Nữ Quán Trí Tuệ bao quanh chàng một đám sương mù.. Thần nữ lại hiện ra xóa tan bóng sương. Uy Lĩnh nhận ra quê hương và cúi hôn mảnh đất. Quán Trí Tuệ khuyên chàng nên đến trước tiên trang trại người quản lợn Âu Mê (Eumée) còn rất trung thành với chàng. Sau đó Quán Trí Tuệ đi gặp Thế Viễn Mạc. (Télemaque)
Chuyện xong tiệc rượu đã tàn, (3333)
Sảnh đường lắng tiếng mơ màng phiêu lưu.
Phục người túc trí đa mưu,
Gian nan nguy khốn, hiểm nghèo mấy ai?
Ly kỳ hấp dẫn lạ tai,
Ngày dài đêm trắng qua rồi chẳng hay.
Giờ tiễn biệt buổi chia tay,
Xuống thuyền từ giả, chia ly bồi hồi. (3340)
Nhà vua mến khách đẹp lời,
Khắc sâu kỷ niệm tim người thân thương.
Giả từ thuyền rẽ sóng xanh,
Như xe tứ mã phi nhanh đất bắng.
Như tung cánh rộng chim hồng,
Con thuyền nhẹ lướt mênh mông biển trời.
Xuống thuyền Uy Lĩnh thảnh thơi,
Lăn kềnh ra ngủ mệt nhoài trắng đêm.
Giường son, chăn ấm, nệm êm,
Nhà vua hậu đãi sẵn đem cho chàng. (3350)
Say sưa giấc ngủ ngon lành.
Chẳng còn hoảng hốt, giật mình hôn mê,
Ngày mai quê cũ trở về,
Một ngày đoàn tụ đợi chờ bao năm.
Quên đi đau khổ nhọc nhắn,
Sao mai thấp thoáng rạng đông mong chờ.
Quê hương An Thạch bến bờ,
Nước êm, sóng gợn trời mơ bãi vàng.
Không ai dám đánh thức chàng,
Khiêng cùng nệm ấm nhẹ nhàng bãi êm. (3360)
Bao quà quý giá khuân lên,
Bên chàng say ngủ êm đềm rồi đi.
Buồm trôi nhẹ bóng từ ly,
Về Phan Si bóng mây bay biển ngàn.
Nói về Thần Hải Long Vương
Thâm thù Uy Lĩnh thong dong trở về.
Thế nên căm hận thuyền kia,
Giúp cho Uy Lĩnh đến bờ bình an,
Thiên Đình cùng Dớt phàn nàn,
Rồi về mặt đất nổi khùng ra uy. (3370)
Thuyền về vừa đến Mỹ Ly, (Mialy)
Hải Long Vương đã sẵn tay đợi chờ,
Con thuyền chưa cặp bến bờ,
Hoá thành đá núi, cửa vô bến thành.
Vua An Chính Vương kinh hoàng,
Vội dâng sinh vật tế Thần Hải Long:
Cúi xin Thần chốn Thiên Đình,
Nguôi cơn thịnh nộ dẹp phần thị uy.
Uy Lĩnh sau giấc ngủ dài,
Tỉnh ra chẳng thấy thuyền trôi bềnh bồng: (3380)
Nơi nào, nắm bãi đất bắng?
Giật mình ngơ ngác nhìn quanh quê nhà.
Phải đây là đất ông cha?
Phải đây bờ biển mặn mà thân thương?
Quán Trí Tuệ phủ màn sương,
Khiến chàng ngơ ngác, biết đường nào đâu:
Ta đang lạc xứ sở nào?
Cảnh tiên, địa ngục biết bao lần rồi?
Bây giờ sương khói chơi vơi,
Ta còn lạc đến đất trời nào đây? (3390)
Chung quanh quà tặng chất đầy,
Dấu đâu khỏi lạc vào tay tham tàn?
Hay là thủy thủ lạc đường,
Đưa ta hoang đảo lạ lùng đâu đâu?
Hay là họ chẳng giỏi nào,
Biển đêm mờ mịt trăng sao chẳng tường?
Chàng còn lo lắng bâng khuâng,
Bình minh trời đã sáng dần hẳn lên.
Quán Trí Thần nữ đứng bên,
Nương tử Thần Dớt chàng liền nhận ngay. (3400)
Mỉm cười Thần nữ phất tay,
Bóng đêm dần sáng, tan ngay sương mù.
Quê hương rực rỡ dấu yêu,
Bàng hoàng Uy Lĩnh nghẹn ngào nhìn ra.
Hai mươi năm đó cách xa,
Bao năm nhung nhớ quê nhà yêu thương.
Uy Lĩnh xúc động khôn lường,
Cúi hôn mảnh đất quê hương ngọt ngào.
Giơ tay cầu khẩn trời cao,
Tỏ lòng cảm tạ biết bao ơn Thần. (3410)
Thoát cơn tai họa gian truân,
Nay về được tới trong lòng quê hương.
Quán Trí Thần nữ phán truyền:
Hãy đem quà tặng dấu hang động gần.
Phép mầu quà chuyển tay nhanh,
Dấu xong lấp lại hang bắng đá to.
Lấp xong Thần nữ dặn dò,
Sẵn sàng chu đáo chăm lo cùng chàng:
Hỡi chàng Uy Lĩnh anh hùng,
Lã Đạt tôn tử giống dòng Thần Vương. (3420)
Giờ đây về với quê hương,
Bao năm chờ đợi, người thương khẩn cầu,
Đầu tiên nghĩ kế mưu sâu,
Để mà trừng trị bọn cầu hôn kia,
Bao năm mòn mỏi nắng mưa,
Vợ hiền trông ngóng sớm trưa tủi buồn,
Ngày ngày nước mắt trào tuôn,
Trước bao sính lễ, nàng càng xót xa.
Trái tim thương nhớ người xưa,
Một lòng chung thủy, nắng mưa đợi chờ. (3430)
Một mình đối phó biết bao,
Những lời tán tỉnh, khuyên mau lấy chồng.
Riêng nàng suy tính trong lòng,
Lần lừa hứa hẹn, đợi trông người về.
Ngày dệt, đêm tháo sợi tơ,
Tấm khăn đợi chờ, dệt mãi chẳng xong.
Uy Lĩnh trí tuệ khôn ngoan,
Mưu sâu bền chí, hùng anh khôn lường.
Bây giờ về đến quê hương,
Phải nên đổi dạng, tìm đường dò la. (3440)
Rồi Thế Viễn Mạc gặp cha.
Định bàn mưu kế, cùng mà đấu tranh.
Bọn cầu hôn chúng khá đông,
Tham tàn, độc ác, mưu gian hại người.
Đũa thần vung tiếp theo lời,
Uy Lĩnh bỗng hoá ra người ăn xin,
Áo quần tiều tụy tấm thân,
Tay cầm chiếc gậy, dây thừng nịt lưng.
Túi thô vá víu xin ăn,
Thế rồi từ giả túi khăn lên đường, (3450)
Nữ thần bay đến La Môn, (Lacédémone)
Báo Thế Viễn Mạc về tìm người thương.
CHÚ THÍCH:
Ulysse được thuyền Phéaciens cập bến Phorcy ở giữa đảo Ithaque. Ulysse dấu kho tàng vào động Tiên Nữ cạnh suối Aréthuse, từ đó đi về phía Nam đến La Roche du Corbeau (Ghềnh Quạ) nơi Eumée giữ trại chăn lợn, Ithaque ở phía Bắc chăn dê vùng núi non, có thành phố Pélikale, động Trépieds, núi Nérito. Phiá Nam có rừng thưa, đồng bắng, trồng rau nuôi lợn. Di tích lâu đài Ulysse nắm ở giữa, một eo đất hẹp trên vịnh Dexia, đối diện bến Phorcy. Đảo Ithaque nắm trên bờ biển Céphalonie, Hy Lạp, ngoài khơi đảo còn có hòn Samé.
THI CA KHÚC 10: Thần nữ Quán Trí Tuệ đến An Thạch tìm Thế Viên Mạc
TÓM LƯỢC: Nói về Thế Viễn Mạc (Télemaque) con trai Uy Lĩnh, sau buổi họp ớ Thiên Đình (Olympe). Thần nữ mang hài vàng bay xuống An Thạch (Ithaque), giả dạng xưng tên Mân Thế (Mentès) người Tà Phiên (Taphiens). Thế Viễn Mạc tiếp đón nồng hậu và kể chuyện gia đình. Quán Trí Tuệ ban phép cho chàng trai trẻ thêm lòng can đảm và khuyên chàng đi Phy Lô (Pylos) tìm gặp vua Ninh Tô (Nestor) và đi Xích Bạc (Sparte) tìm vua Mai Ninh Lạc (Ménélas) để hỏi thăm tin tức cha, rồi Thần nữ từ giả bay đi. Thế Viễn Mạc trở lại bàn tiệc, Nhã Lan (Pénélope) xuống lầu trách người du tử sao hát bài ca buồn, Thế Viễn Mạc bênh vực khuyên mẹ lên lầu. Nhã Lan ngạc nhiên lời nói chững chạc của con và đi lên. Bọn cầu hôn nham nhỡ đòi đi theo. Thế Viễn Mạc cầm kiếm ngăn lại và đuổi bọn cầu hôn đi, bọn cầu hôn đấu khẩu với Thế Viễn Mạc rồi bỏ đi.
Ngay sau buổi họp Thiên Đình, (3453)
Quán Trí Tuệ đã giáng trần liền ngay,
Từ Thiên Sơn đỉnh vút mây,
Thong dong cánh phượng tung bay đảo vàng,
Quê hương Uy Lĩnh anh hùng,
Đảo vàng An Thạch mơ màng sóng xanh,
Trước cung tráng lệ dừng chân,
Bọn cầu hôn tụ trước sân chơi cờ.* (3460)
Gia nhân rót rượu từ vò,
Tiệc bày bánh trái, dê bò chín thơm.
Thế Viễn Mạc thoáng thấy Thần,
Trong lòng linh tính muốn gần khách chơi.
Vội vàng chào hỏi tươi cười,
Và mời vào tiệc bên ngôi góc đài,
Bọn cầu hôn dãy bàn dài,
Hai hàng thị nữ bày mời thức ăn,
Bánh thơm, thịt béo rượu nồng,
Du nhân ca hát góp phần thêm vui. (3470)
Say sưa tiếng hát câu cười,
Thế Viễn Mạc khẽ hỏi người phương xa.
Thầm thì kể chuyện trong nhà,
Nhỏ to than thở, chuyện gia đình mình.
Tôi là Mân Thế khách xưng,
Con vua An Lộ trị vùng Tà Phiên, (Anchialos, Taphiens)*
Thương thuyền vượt biển buôn đồng,
Thuyền vừa cập bến bên vùng vịnh kia.
Đã quen Uy Lĩnh từ xưa,
Trước là mua bán, sau là thân thương. (3480)
Hỏi thăm Lã Đạt lão vương,
Nghe đâu ngài đã về thôn dưỡng già.
Bên đồng nho với vườn hoa,
Sống đời thanh đạm như là nông dân.
Hôm nay tôi lại đến thăm,
Vì nghe Uy Lĩnh về gần tới nơi,
Bấy lâu thần cản bước người,
Cho nên phiêu bạt bên trời biển xa.
Khi hoang đảo, khi phong ba,
Lòng chàng vẫn nặng tình nhà quê hương. (3490)
Hôm qua thần mộng bảo rằng,
Tìm con Uy Lĩnh báo tin thế này.
Uy Lĩnh sắp sửa về đây,
Hãy mau chuẩn bị một ngày đoàn viên.
Thần cho ta biết tỏ tường,
Rằng Uy Lĩnh có người con trưởng thành.
Giống cha khuôn mặt, tính tình,
Mắt xanh cương nghị, sáng trong như người.
Hai mươi năm đã qua rồi,
Từ khi chàng giả từ tôi lên đường. (3500)
Tiếp lời Viễn Mạc vui mừng:
Hân hoan được tiếp bạn vàng của cha.
Dấu chi nỗi khổ chuyện nhà,
Tôi con Uy Lĩnh, cha ra chiến trường,
Mẹ tôi một dạ trung trinh,
Nuôi con khôn lớn thành danh như người.
Tháng ngày mẹ vẫn dạy tôi,
Làm con Uy Lĩnh học thời siêng năng.
Thi, đàn, thể dục tập tành,
Mẹ trông mẹ đợi con thành như cha. (3510)
Vì đâu bác hỏi thế mà?
Tôi con Uy Lĩnh mẹ cha rành rành.
Mỉm cười đôi mắt tinh anh,
Quán Trí Thần nữ cùng chàng tâm giao:
Nhiệm mầu Thần Dớt truyền trao,
Giống dòng Uy Lĩnh nối nhau anh tài.
Hỏi cháu thành thật trả lời,
Cớ duyên bữa tiệc đông người vì đâu?
Họ là ai quá ồn ào?
Phải đâu là khách tâm giao chung tình. (3520)
Cớ chi chè chén linh đình,
Sỗ sàng ăn nói, coi khinh chủ nhà?
Thế Viễn Mạc nhún vai thưa:
Làm gì tân khách, của thừa ấy chăng?
Từ khi vắng mặt phụ thân,
Bọn sâu mọt ấy lố lăng học đòi.
Kẻ đòi quyền bính tiếm ngôi,
Tranh nhau muốn cưới mẹ tôi giành quyền.
Nhố nhăn một lũ đảo điên,
Bất tài mà muốn chuyện tiên chuyện thần. (3530)
Chúng ép mẹ trả lời nhanh,
Lựa trong bọn chúng làm chồng làm vua.
Mẹ con nhẫn nhục chẳng vừa,
Cớ rằng dệt tấm vải chờ liệm ông.*
Ngày dệt đêm tháo tấm khăn,
Ba năm chờ đợi con thành lớn khôn.
Nào hay kẻ mách sự tình,
Nên chúng thúc ép mẹ rằng chọn ngay!
Ngày ngày bọn chúng đến đây,
Bắt bò cừu thịt, rượu say ngà ngà. (3540)
Nói năng hổn tạp ba hoa,
Bầy công tử bột, chẳng ra giống gì!
Quán Trí Thần nữ tiếp lời :
Tiếc thay Uy Lĩnh cuộc đời phong ba,
Có người phép tắc sớm trưa,
Quyền uy khuôn phép vào thưa tâu trình.
Có đâu ăn nói nhố nhăng!
Ngày về Uy Lĩnh, ngày tàn bọn ni.
Phần con triệu tập ngày mai,
Hội Đồng bô lão tóc dài An Kinh. (3550)
Luận bàn luật lệ nước non,
Luận bàn những chuyện thiệt hơn quê nhà.
Nói ra cho rõ ý ta,
Ngừng ngay những chuyện gian tà lố lăng.
Đòi chấm dứt việc cầu hôn,
Dứt ngay phung phí sớm hôm tiệc tùng.
Rồi con xin một thuyền buồm,
Hai mươi thủy thủ tinh thông lái chèo.
Đi thăm xứ sở kết giao,
Xưa cùng Uy Lĩnh đổi trao ngọn cờ. (3560)
Đến Phy Lô vua Ninh Tô,*
Từ sau cuộc chiến thành Troa đã về,
Sau đến Xích Bạc gần kề,
Nơi Mai Ninh Lạc hội thề cất binh.
Hỏi tin cha mọi sự tình,
Sau là Hoàng tử nhân danh ngôi truyền,
Mộ quân hòa hiếu kết liên,
Để khi nguy biến ta liền có nhau.
Mỉm cười Mân Thế: Ví dầu,
Cha con có mất nơi đâu cũng là. (3570)
Cầm quyền con nối ngôi cha,
Thì con bổn phận tang ma mộ phần.
Lễ nghi báo thiệp xa gần,
Lễ tang rồi mới gả chồng mẹ con.
Mưu cao vây cánh sẵn sàng,
Thanh trừng những bọn kiêu quân dữ dằn,
Rồi lên nối nghiệp phụ thân,
Tuổi con khôn lớn, không còn trẻ thơ.
Con ơi dân tộc đang chờ,
Chờ con khôn lớn đến giờ ra uy. (3580)
Lời ăn tiếng nói nghĩ suy,
Kết liên cùng với người ngay kẻ hiền.
Thế Viễn Mạc mới tỏ tường :
Rằng lời bác dặn như tình cha con,
Con nào chẳng dám quên ơn,
Quyết làm theo những khuyên lơn dặn lời.
Mời bác ở lại đây chơi,
Tiệc vui, tắm rửa, nghỉ ngơi vài ngày.
Thật là hân hạnh con đây,
Được bác khuyên bảo, việc nay rõ ràng. (3590)
Chân thành một tấm lòng con,
Những lời của bác, sắt son nhớ đời.
Quán Trí Thần nữ mỉm cười :
Ta đà có việc, nay thời phải đi.
Hẹn rằng dịp khác lắm khi,
Sẽ mời đến xứ bác chơi tâm tình.
Nay con đối xử thật lòng,
Rồi đây con sẽ vẹn thành chí cao.
Nói rồi Thần nữ vụt mau,
Như chim bay vút lối nào ai hay. (3600)
Thế Viễn Mạc bỗng diệu kỳ,
Trái tim dũng cảm từ khi gặp người.
Trở nên cương nghị tươi vui,
Nhớ cha tha thiết, mong mai cha về,
Giật mình mới tỉnh hôn mê,
Biết rằng Thần nữ gần kề khuyên răn.
Thế Viễn Mạc trở lại bàn,
Bước chân dũng cảm đầy lòng tự tin.
Trên bàn rượu tiệc tàn dần,
Người người im lặng, tiếng đàn du ca. (3610)
Giọng trầm kể chuyện thành Troa,
Lời rằng thảm hại thuyền An Kinh về.
Tiếng đàn u uất đêm khuya,
Tiếng đàn vang vọng não nề lầu cao.
Nhã Lan ngồi tựa song đào,
U buồn lặng lẽ bước vào sân trong.
Hai nàng thị nữ hầu bên,
Khăn tơ đen xỏa, dáng buồn thương đau.
Trước bàn tiệc, chẳng hỏi chào,
Trách người du tử vì sao hát lời: (3620)
Phù Minh, người biết bao bài, (Phémios)
Thơ thần phép lạ, thơ người hùng anh,
Thơ nàng chung thủy kiên trinh,
Buồn chi mà hát chuyện mình chưa hay.
Người chưa về được quê này,
Chưa tin tức đã bịa ngay chuyện buồn.
Cho người lòng dạ héo hon,
Cho người nhung nhớ hao mòn tiếc thương.
Tim ta sống với anh hùng,
Chiến công vang dội trời gần, đất xa. (3630)
Thế Viễn Mạc đứng dậy thưa:
Mẹ ơi! Chớ cản tiếng ca thật lòng,
Du tử hát nỗi chờ mong,
Tâm tình vọng cổ, lời mong đợi chờ.
Lỗi này chẳng phải người thơ,
Mà nơi Thần Dớt nên giờ nơi đâu?
Mười năm xương tráng máu đào,
Chiến công thắng trận mà sao chưa về?
Hoài lang vọng cổ mong chờ,*
Mà lời ca mới, tiếng thơ của lòng. (3640)
Mẹ ơi vì mãi chờ mong,
Không còn nghe tiếng tâm tình khổ đau.
Một mình Uy Lĩnh thôi sao?
Còn bao người nữa, biết bao bạn bè?
Mẹ ơi, khung cửi tơ xe,
Phận người phụ nữ là nghề dệt thêu,
Coi nhà chăm sóc trước sau,
Sai hầu, sai tớ, vườn rau, thú đồng,
Nói năng là chuyện đàn ông.
Con là gia chủ của gia trang này. (3650)
Ngạc nhiên: con lạ lùng thay,
Nói lời chửng chạc dạn dày lớn khôn.
Quay đi, nàng lại bước lên,
Trên lầu nắm nghỉ, mắt buồn lệ sa:
Uy Lĩnh chàng ở đâu xa.
Tháng ngày em đợi, sắc hoa mỏi mòn.
Yêu chàng một dạ sắt son,
Tin chàng sẽ thoát nguy nan trở về.
Trong mơ Thần nữ gần kề,
Khép đôi mắt biếc vào mê gặp người. (3660)
Dưới sân to nhỏ tiếng lời,
Một bầy nham nhở, tranh đòi bước lên.
Tranh nhau đòi ngủ với nàng:
Nàng mau chọn gấp bạn vàng đêm nay.
Thế Viễn Mạc cản lối ngay,
Tay cầm chuôi kiếm, lời đầy sắt đanh:
Hỡi người quý phái cầu hôn,
Nói lời xàm xỡ chẳng còn ra chi,
Chọn người đạo hạnh đức tài,
Danh gia ai chọn lựa người lưu manh. (3670)
Hôm nay yến tiệc đã xong,
Chẳng còn gì để tranh giành ba hoa.
Đã nghe du tử đàn ca,
Lời thơ truyền cảm giao hòa thần ban.
Ngày mai trời rạng sáng lên,
Chúng ta sẽ họp bàn bên quản trường.
Hôm nay tôi quyết định rằng:
Các người rời khỏi lầu trang bây giờ,
Mỗi ngày một bữa tiệc to,
Thay nhau thết đãi, ngày lo một người. (3680)
Có đâu ăn mãi nhà tôi,
Bò, cừu, dê, lợn cũng rồi hết đi.
Một ngày trăm kẻ đến đây,
Vô duyên, vô cớ chẳng ai mọc mời.
Tiếng tôi vang dội đến trời,
Thần Vương Dớt thấu đến người thẳng ngay.
Một ngày Thần sẽ ra tay,
Các người sẽ chết nơi này chẳng sai.
Búa Thần sấm sét y lời,
Báo thù, trả oán luật trời đấy thôi. (3690)
Mọi người cắn lưỡi, ríu môi,
Vì Thế Viễn Mạc nói lời sắt đanh.
An Ti Nốt trả lời rằng: (Antinoos)
Thế Viễn Mạc, phải có Thần dạy ngươi,
Bỗng đâu đanh thép nên lời,
Đuổi người, to tiếng dạy đời đêm nay.
Ngày nào Thần Dớt chưa hay,
Chưa ban Vương trượng, lễ bày sắc phong,
Làm Vua An Thạch nối dòng,
Dù người dòng dõi cũng cần lễ nghi. (3700)
Thế Viễn Mạc đáp tức thì:
Hỡi An Ti Nốt ta lời thẳng ngay,
Dù người có nỗi giận chi,
Lời ta trung trực thật hay tỏ tường.
Ngày mai Thần Dớt ban phong,
Ta rất sung sướng sẵn sàng lên ngôi,
Đặt người ở địa vị tôi,
Có can chịu được những lời lố lăng?
Các người quyền quí ai bắng,
Cớ chi thô bỉ, chẳng danh dự gì? (3710)
Nhà Vua Uy Lĩnh ra đi,
Đoàn quân thắng trận cớ chi chưa về?
Dẫu người lưu lạc bến bờ,
Phải tìm tung tích, mong chờ hỏi thăm.
Dầu Vua có mất đi chăng,
Trung thành tang lễ, Hội Đồng phong vương.
Việc nước hội họp luận bàn,
Đâu phải giành giật như phiên chợ chiều.
Trung chính, biết phận, biết điều,
Phép nhà, luật nước bấy nhiêu bia lời? (3720)
Ngôi Vua chưa phong cho tôi,
Tôi là gia chủ của ngôi lầu này,
Dưới tay điều khiển tớ thầy,
Đãi đắng yến tiệc do tay tôi mời.
Âu Ry Mạc đứng tiếp lời: (Eurymaque)
Thế Viễn Mạc hỡi tương lai người còn,
Nắm trên đầu gối các Thần,
Các Thần quyết định chính danh phận người,
Làm Vua An Thạch lên ngôi,
Trị vì vùng đảo biển trời sóng xanh. (3730)
Gia tài Uy Lĩnh rành rành,
Người là gia chủ, ai giành ai tranh.
Chẳng ai cướp bóc bạo hành,
Phép nhà, lệ nước thanh trừng kẻ gian.
Riêng ta muốn hỏi người rằng:
Là ai khách lạ đến thăm ban chiều?
Từ đâu, quê quán nơi đâu?
Có cho tin tức ra sao cha người?
Hay là tìm đến nợ đòi,
Cớ sao chợt đến, đi coi bất thường? (3740)
Xem rằng chẳng phải kẻ gian,
Cớ sao mà chẳng luận bàn xưng danh?
Thế Viễn Mạc trả lời rằng:
Âu Ry Mạc hỡi, chẳng tin tức gì,
Ngày về quê của cha tôi,
Tôi không tin nữa những lời quẩn quanh,
Mẹ tôi cầu bói lên đồng,
Tiên tri ăn nói quàn xiên ra gì!
Riêng người gặp buổi chiều nay,
Người buôn bán cũ, bạn này của cha. (3750)
Tà Phô đảo phía Bắc kia,
Tên là Mân Thế con Vua giống dòng.
Vua An Chi Lộ, Tà Phiên,
Đến đây giao hảo bán buôn lâu rồi.
Thế Viễn Mạc nói dấu người,
Nhưng lòng thầm nghĩ theo lời Thần khuyên.
Tiệc tàn, lời nói lạnh lùng,
Lòng đà hổ thẹn chẳng buồn nghe ca.
Bọn cầu hôn lảng dần ra,
Ai về nhà nấy, tiệc đà dần tang. (3760)
Thế Viễn Mạc bước lên thềm
O Ri Khuê vú già đem đuốc hầu. (Euryclée)
Vú trung thành ở đã lâu,
Từng chăm Uy Lĩnh thương yêu mọi người,
Vú già hầu hạ lâu đời,
Lão Vương chuộc với hai mươi con bò.
Đuốc hồng soi sáng lầu cao,
Áo quần sẵn nếp, chăn đào, gối bông.
Rồi quay ra đóng cửa phòng,
Suốt đêm Viễn Mạc trong lòng lo toan. (3770)
Chăn da cừu đắp lên mình,
Nghĩ suy về cuộc viễn trình ngày mai. (3772)
Paris 2005-2019
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
Chuyển ngữ thơ lục bát
Theo http://chimvie3.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...