Phê bình văn học thế hệ 1932 - Phần 2
NHỮNG VỤ ÁN VĂN HỌC THẾ HỆ
1932
Trên đây, tôi tạm phát vẽ sinh hoạt
phê bình dưới hình thức phe phái, trong khoảng từ 1932 đến 1939 hay 1940. Có lẽ
chưa có thời nào sinh hoạt văn học có vẻ hào hứng, động đạt cho bằng trong
khoảng thời gian này.
Để tóm tắt, chúng ta có thể ghi nhận sinh
hoạt phê bình văn học, hồi đầu thế hệ 1932 như là những vụ án văn học.
1- Vụ án báo chí
Chưa bao giờ báo
chí Việt Nam bút chiến với nhau dữ dội như ta thấy ở chương ba ở trên đây. Các
cuộc bút chiến này, trọng tâm có lẽ là sự cạnh tranh nghề nghiệp, tranh dành
độc giả, nhưng cũng gián tiếp đặt ra được nhiều vấn đề, làm sáng tỏ nhiều lập
trường văn nghệ, sửa chữa được nhiều lộn xộn trong nghề viết văn. Các báo chia
thành hẳn bốn khối như tôi đã trình bầy ở trên: khối A của các nhà mệnh danh
là Cựu học với các tờ báo ra đời từ 1932 hay trước năm 1932 mà còn hoạt động
cho tới năm 1934; khối B của nhóm Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hóa và Ngày Nay;
khối C của các báo ra đời từ 1934 trở đi, đối lập, phản kháng lại Tự Lực Văn
Đoàn; khối D của nhóm mác-xít với các ông Hải Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng…
2- Vụ Án Cũ và Mới
Mặc dầu được Đông
Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí cố gắng đứng ra giàn hòa trong một thời gian
khá lâu, phe mới cũ cũng bất đắc dĩ phải cụng nhau. Cuộc đụng độ bắt đầu khai
mào vào khoảng từ 1931 trở đi. Phan Khôi, từ khoảng 1931 trở đi, đã lái Phụ Nữ
tân văn, đi vào con đường canh tân. Nhiều cây bút, mà đặc biệt là cây bút Phan
Khôi, bắt đầu tấn công nền cựu học, tấn công Nho giáo, kết án chế độ đại gia
đình, công kích kịch liệt chế độ Tam Cương. An Nam tạp chí của Tản Đà nhảy vào
chiến trường. Hai nhà nho, nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu và nhà nho Phan Khôi, giao
tranh ác liệt trong một thời gian khá lâu. Sau này, năm 1932, xem ra Đông Thanh
tạp chí và Văn Học tạp chí, như có vẻ đứng về phe Tản Đà, để phản đối những kết
án của Phan Khôi đối với nền đạo đức Đông phương, nếu không bằng các bài bút
chiến trực tiếp thì cũng bằng các bài trình bày cái hay cái đẹp của đạo đức
Đông phương.
Nhưng từ khi Phong
Hóa ra đời, thì một mặt trận đã giàn ra, đẩy mạnh chiến dịch mà Phan Khôi chỉ
mới khai mào. Cuộc tranh luận mới cũ được Phong Hóa đặt lên làm tôn chỉ cho cơ
quan ngôn luận, và là mệnh lệnh mà mọi nhà văn thuộc văn phái Tự Lực phải tuân
theo. Chẳng những người ta dùng nghị luận để kết án đạo đức cũ mà còn dùng
tranh khôi hài, thơ trào phúng, kịch hí lộng, tiểu thuyết tranh đấu để đánh
thẳng vào nền cựu học, với ý chí quyết liệt là hạ bệ được nền cựu học.
3- Vụ Án Phan Khôi -
Trần Trọng Kim
Phan Khôi phê bình Nho giáo
Đầu năm 1930, Trần Trọng Kim cho xuất bản cuốn I của
Bộ Nho Giáo của ông, trình bày khá cặn kẽ về thân thế, sự nghiệp và học thuyết
Khổng Tử cùng trường phái nho giáo.
Phan Khôi đã đọc Nho giáo của Trần Trọng
Kim rất kỹ lưỡng và trên Phụ Nữ tân văn số 54, ngày 29-5-1930, sau khi ca ngợi
công lao của Trần Trọng Kim, đã công kích ông này lầm lẫn Khổng Học với Tống
Nho.
Sau bài đả kích trên, không còn đợi Trần
Trọng Kim trả lời, Phan Khôi viết một thôi một hồi về nho giáo, khi xa khi gần,
vẫn có vẻ công kích tác giả Trần Trọng Kim như ta thấy trong những bài như: Cuốn sách nho giáo gợi ý cho chúng tôi, nó bảo rằng: người Việt Nam phải
viết chữ quốc ngữ cho đúng (P.N.T.V. số 56, 12-6-1930), Người mở đường cho
luân lý học Á Đông, Khổng Tử và cái thuyết "chánh sách" của Ngài (P.N.T.V. số 57,
19-6-1930). Thuyết chánh danh đính chính lại cái tên xưng hô của người Việt Nam
(P.N.T.V. số 58, 28-6-1930 và số 59, 3-7-1930).
Trần Trọng Kim trả lời Phan Khôi
Trần Trọng Kim đã theo rõi công việc làm của Phan Khôi
và để tâm suy nghĩ về những lời lẽ công kích của ông. Chính vì vậy mà Trần
Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi nơi bài "Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo" (P.N.T.V.
số 60, 10-7-1930). Trong bài này, Trần Trọng Kim có chịu là Phan Khôi có lý ở
nhiều điểm, nhưng không trả lời đúng vào cái điểm mà Phan Khôi đã công kích
ông.
Phan Khôi viết bài cảnh cáo các nhà học phiệt
Có lẽ vì vậy mà trên Phụ Nữ tân văn số 62, 24-7-1930,
trong bài "Cảnh cáo các nhà học phiệt", cho
dù mục đích là để tấn công Phạm Quỳnh, Phan Khôi cũng vẫn trách khéo cả Trần
Trọng Kim như là cố ý lẩn tránh vấn đề.
Phan Khôi mời Trần Trọng Kim đến chơi nhà Mr Logique
Và sau đấy, trên Phụ Nữ tân văn số 63, 31-7-1930, nơi
bài "Mời Trần Trọng Kim tiên sanh đến nhà Mr Logique
chơi, tại đó, chúng ta sẽ nói truyện". Phan Khôi vạch rõ những
điểm mà Trần Trọng Kim đã né tránh không chịu trực tiếp trả lời, đồng thời Phan
Khôi cũng chê trách Khổng Tử và Mạnh Tử là thiếu óc luận lý.
Trần Trọng Kim mời Phan Khôi trở về nhà học ta mà nói truyện
Lần này, thì Trần Trọng Kim không còn giữ yên lặng
nữa. Trên ba số báo, Trần Trọng Kim đã lên tiếng trả lời Phan Khôi: bài "Mời Phan Khôi tiên sinh trở về nhà học của ta mà nói truyện" (đăng
lên liên tiếp hai số báo, số 71, 25-9-1930, và số 72, 2-10-1930) với bài "Khổng giáo với khoa học", số 74, 16-10-1930).
Trần Trọng Kim đã tỏ ra phục thiện, chịu lỗi là đã sơ ý mà trở thành bông lông
không trả lời đúng vào các điểm mà Phan Khôi công kích ông. Nhưng rồi Trần
Trọng Kim cũng minh xác với Phan Khôi nhiều điểm, nhất là điểm Phan Khôi trách
triết gia đông phương thiếu óc suy luận khoa học.
Vấn đề Phan Khôi nêu ra năm 1930, và đến
năm 1932, khi cho tái bản Nho giáo, Trần Trọng Kim đã cho sửa chữa, thì Ngô Tất
Tố lại khơi lại để công kích Trần Trọng Kim năm 1940.
Cuộc tranh luận này cho ta thấy hai nhà
học giả họ Phan và họ Trần đã có thái độ trí thức rất đáng phục. Chính thái độ
trí thức ấy đã giúp làm sáng tỏ nhiều vấn đề triết học bấy lâu bị thiên hạ hiểu
rất mu mơ.
4- Vụ Án Tản Ðà - Phan Khôi
Phan Khôi công kích "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên"
Nhân đọc cuốn tiểu thuyết "Cay đắng mùi đời" của nhà văn Hồ Biểu Chánh, Phan Khôi đã viết một bài đại luận về cái
cười thường khi rất bỉ ổi, tàn nhẫn của người Việt Nam mình. Bài đó ông đề nó
là "Cái cười của con rồng cháu tiên" (P.N.T.V. số 84, 28-5-1931).
Phan Khôi đã vạch ra cái khéo léo, tài tình của ngòi bút tả chân Hồ Biểu Chánh
trong việc vẽ ra cái cười man rợ, khả ố, đê tiện của cái nòi giống tự xưng là
"Con rồng cháu tiên".
"Bộ "Cay đắng mùi đời"
hẳn đã có nhiều người nói đến và thấy trong đó tả những gì, khi tôi đọc chắc
tôi cũng thấy như người ta. Một bộ tiểu thuyết vẽ ra nhân tình thế thái. Nhất
là sự khốn nạn của kẻ nghèo, thật là có ý vị thâm trầm lắm. Vậy mà những điều
đó tôi để ra ngoài hết, khi tôi đọc nó tôi chỉ có một cái cảm tưởng về cái cười
trong truyện mà thôi. Hẳn tác giả "Cay đắng mùi đời" là ông Hồ Biểu
Chánh cũng phải nực cười mà cho tôi là tọc mạch". (P.N.T.V. số 84,
28-5-1931). Trong rất nhiều thí dụ về trường hợp lố bịch của cái cười Việt Nam
mình, Phan Khôi đã đưa ra một so sánh:
"Có một phần đông người Pháp ở đây
ta hằng ngày thấy họ cũng có thể chiêm nghiệm được một dân tộc Pháp. Ví dụ như
gặp khi trời mưa, đường trơn, có người nào đó bất kỳ đi vô ý mà trợt té, bấy giờ
có năm ba người Pháp đứng đó họ có cười hay không? Tôi, và nhiều người như tôi
nữa dám chắc rằng họ chẳng những không cười mà còn chạy lại để đỡ người bị té
ấy lên nữa. Còn như Con Rồng cháu Tiên ta, ai không biết chớ tôi, tôi cầm chắc
rằng trước khi chạy lại đỡ, họ phải cười một chặp cho no nê đã".
(P.N.T.V. số 84, 28-5-1931).
Phan Khôi công kích Tống Nho
Sau khi, với giọng bông đùa, Phan Khôi đã dám đưa ra
mà công kích cái cười khả ố, bần tiện của cả một cái nòi giống tự xưng là Con
rồng Cháu tiên, thì, đến ngày 13-8-1931, trên Phụ Nữ tân văn số 95, ông lại cay
nghiệt chửi tùm lum cái phong tục man rợ mà người ta xưng tụng là thủ tiết
trong xã hội Trung Hoa và Việt Nam.
Theo Phan Khôi, cái luật bắt người đàn bà
góa chồng, ở vậy, thủ tiết thờ chồng là một luật rất man rợ, thoái hóa, người
Trung Hoa đã bỏ nó từ lâu rồi mà người Việt Nam mình cứ giữ nó khư khư để đàn
áp người đàn bà. Dù Phan Khôi muốn đổ cái lỗi ấy cho Tống nho, chứ thực tình
Khổng nho chẳng có dạy "cái điều xằng bậy" ấy… Mà ngay đến Tống nho
hồi đầu bên Trung Hoa cũng chẳng ai coi cái luật thủ tiết là quan trọng. Phan
Khôi kể:
"Các nho gia nhà Tống trước Trình Hy
đối với phụ nữ có ý rất khoan thứ, nghĩa là không bắt buộc họ phải thủ tiết,
chịu thiệt thòi cả đời như Phạm Trọng Yêm (sanh năm 989) có lập ra cái nghĩa
trung trang, trong tờ khoán ước có trích ra một phần ruộng để giúp đàn bà cải giá,
còn đàn ông tái thú lại không giúp. Ông có con trai là Phạm Thuận Hựu chết non
để lại một người vợ góa, sau đó, học trò ông là Vương Đào góa vợ, ông bèn đem
người dâu của mình mà gả cho, vả lại mẹ ông Phạm Trọng Yêm trước kia cũng cải
giá cho một người họ Chu. Ông theo mẹ về ở với cha ghẻ, đổi họ tên là Chu
Thuyết đến sau đỗ đạt rồi ông mới lại theo họ Phạm. Phạm Trọng Yêm là một bậc
danh hiền buổi Tống sơ, một nhân vật lớn trong lịch sử mà cũng không hề cho sự
cải giá là phi lệ, không hề bắt đàn bà góa thủ tiết; cho đến mẹ ông cải giá,
ông cũng chẳng hề lấy làm sỉ nhục gì." (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391).
Chính vì vậy, mà Phan Khôi xem ra có thù
với Tống Nho, nên hễ có dịp là ông đả kích bọn họ. Lần này chẳng hiểu là lần
thứ mấy. Chẳng thế mà ngay ở đoạn đầu số báo này (P.N.T.V. số 95, 13-8-1391)
ông phải nhắc đến việc ông đã từng hô hào chống Tống Nho ở số 89 Phụ Nữ tân văn:
"Trong bài "Lại nói về tam
cang với ngũ luân" ở Phụ Nữ tân văn số 89, tôi có nói rằng: "Trong
cái vòng luân lý đạo đức tôi muốn lấy Khổng Mạnh làm thầy, mà đồng thời tôi
cũng muốn phế truất Hán Nho và Tống Nho". Tôi nói thế không phải nói bậy
đâu. Hán nho như cái thuyết tam cang của họ mà tôi đã bác đi trong mấy bài
trước đó, đáng phế truất là đường nào. Tống Nho lại còn nhiều điều không hiệp
với Khổng Mạnh mà làm hại cho ta hơn nữa tức như cái luật cấm cải giá là bất
công, vô đạo, cướp mất quyền lợi của đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hóa,
ta nên phế trừ đi là phải."
Thế rồi, trong phần kết của bài Tống nho
này, ông hô hào chị em phụ nữ hãy nên "phế trừ" cái tục "trái
tính trời" ấy đi:
"Tôi lấy làm lạ, cái kêu bằng cái
"tiết đó" không phải tánh trời sanh thì sao lại đem nó để càn lên
trên cái do tính trời sanh? Tôi thì cứ giữ mực quê quê thiệt thiệt, căn cứ ở
câu: "Thực sắc thiên tánh" của Mạnh Tử mà nói rằng: Hể đàn ông
chết vợ thì lấy vợ khác, đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác. Còn như cặp vợ
chồng nào có cái ái tình đặc biệt, một người chết đi một người đành ở vậy, cái
thì tùy ý họ, xã hội không ép buộc gì. Đến như nói cái thứ hai của tánh trời,
gặp lúc đáng bỏ phải bỏ, thì, đã cấm đàn bà cải giá xin cũng cấm đàn ông tái
thú luôn.
"Trong phụ nữ ta có nhiều
người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ,
vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có
người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời; nhưng có người khôn ba năm dại
một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá. Lại thường thấy bà góa nào có
máu mặt thì bọn điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong
đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà
ra; vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hóa thì có chớ có bổ ích gì đâu? Bởi vậy
ta nên phế trừ cái luật ấy đi; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và
đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa" (P.N.T.V. số
95,13-8-1931).
Tản Đà khai chiến với Phan Khôi
Hai bài của Phan Khôi viết ra, một bài vào tháng 5,
một bài vào tháng 8 năm 1931, sẽ phải tiếp nhận những nhát búa nặng nề của Tản Đà
bắt đầu từ tháng giêng năm 1932. Thực vậy, trên An Nam tạp chí, bắt đầu từ số
26, 23-1-1932, Tản Đà bắt đầu khai chiến dữ dội.
Nơi đây, ta không còn thấy Tản Đà nhà thơ
lãng mạn, đôn hậu, mơ màng nữa, mà ta thấy ông khi thì là một quan tòa, khi thì
là một đao phủ nữa. Chính vì vậy, mà ta thấy ngay ở phần mở bài thứ nhất trong
loạt bài được chọn bằng một tiêu đề rất đặc biệt "Một cái tai nạn lưu
hành ở Nam Kỳ: Phan Khôi", Tản Đà mở đầu cuộc chiến của ông như thế này:
"Cứ những lời của ông Khôi viết ở
trong tờ Tân Văn có nhiều những tính chất tầm bậy. (như bài "Cái cười của
Con Rồng Cháu Tiên); mà hại cho phụ nữ về phần nhiều (như lời bài kích Tống
Nho về câu "ngạ tử sự thậm tiểu, thất tiết sự thậm đại"). Sự hại
đó, không phải là ông Khôi có định chí làm hại; chỉ là ông quá dụng sức về nhẽ
"ăn cây nào rào cây ấy" viết bài cho Tân Văn phụ nữ thời chiều theo
tâm chí của phần nhiều phụ nữ đó mà thôi. Phần nhiều phụ nữ tân thời nay muốn
tự do, muốn giải phóng, ông Khôi phun giải phóng, phun tự do. Đối với các độc
giả có được lòng thời tờ Tân Văn mới phát đạt; tờ Tân Văn có phát dạt thời giá
mua bán bài mới cao. Tờ Tân Văn được lòng độc giả vì ai, thời giá bài người ấy
tất phải đắt. Huống chi chủ nhân là Mme Nguyễn Đức Nhuận tức cũng lại là một vị
độc giả phụ nữ tân thời. Ngoài chiều ý người mua báo, trong chiều ý người mua
bài, ông Phan Khôi mới hết sức viết những lời tầm bậy. Lời tầm bậy đã in lên
báo, thời chiều ai mà tức thị hại ai. Đó là do tâm tình mà những lời viết báo
của ông Khôi thành ra làm hại cho phụ nữ lưu vậy" (An Nam tạp chí số 26,
23-1-1932).
Theo Tản Đà, việc bài trừ, "giết bỏ" Phan Khôi, chẳng phải là điều thích làm thì làm mà là một bổn phận của
"anh em sĩ phu trong phái tân học":
"Thuộc về phần riêng của từng người,
thời nghĩ như ông tú Khôi cùng tôi, có thể cũng kể là hạng sĩ phu về bên Hán
học trong nước ta ở cái thời kỳ hiện tại; nếu ông Khôi mà có làm điều không
phải với công chúng, tôi cùng các người khác trong Hán học đều không được tự
bảo mình là vô can. Cho nên muốn bài trừ những lỗi tầm bậy của ông Khôi, tức
là tôi không có tự vì một phần riêng, mà vì cả các anh em sĩ phu trong phái Hán
học.
Nay xin hãy có lời báo cáo để Phụ Nữ tân
văn và các bạn phụ nữ trong Nam cùng biết trước, công việc bài trừ còn nhiều,
cần phải tra xét tường bạch, và cũng không phải việc cấp bách; xin ai nấy ung
dung chờ coi". (An Nam tạp chí số 26, 23-1-1932).
Sau khi đã hứa như vậy ở số 26, ra ngày
23-1-1932, Tản Đà đã giữ lời hứa. Ông viết một thôi ba bản cáo trạng rất gay
gắt để buộc tội Phan Khôi trước tòa án công luận: bản cáo trạng thứ nhất đăng
trên An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932, buộc tội Phan Khôi đã xúc phạm đến cả tổ
tiên trong bài "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên", hai bản cáo trạng
sau, cũng đăng trên tạp chí trên, ở các số 34, ngày 26-4-1932 và số 37, ngày
16-4-1932) (1).
Ông tự lập lấy tòa án: "Nay tôi
xin, trước mặt quốc dân, đỡ lời công chúng, quyền làm sự thẩm án thuộc về tòa sơ cấp, mong ai nấy cùng nghe" (An Nam tạp chí số 29, 20-2-1932).
Tản Đà dựa vào lai lịch bốn chữ "Con
Rồng Cháu Tiên" là bốn chữ cực cao, cực quí chỉ cả tổ tiên của một dân
tộc và chỉ cả quốc dân có một lịch sử oai hùng để mà kết án. Phan Khôi nhục mạ
chẳng riêng gì người ta đời nay, mà còn nhục mạ cả nòi giống tổ tiên ta xưa kia
nữa. Ông tuyên án Phan Khôi đáng xử trảm; nhưng để Phan Khôi được quyền minh
oan, nên Tản Đà tạm cho ông được hưởng bản án "trảm giam hậu".
Nhưng đấy chỉ mới là một tội. Phan Khôi
còn nhiều tội khác mà Tản Đà tiếp tục đưa ra tòa, đặc biệt là cái tội làm đồi
trụy phong hóa, Tản Đà mở đầu bản xử án thứ hai:
"Trong Phụ Nữ tân văn số 95, ra ngày
13 Aout 1931, ông Phan Khôi có viết bài "Tống Nho với phụ nữ" viết
đại ý ở dưới đề mục rằng:
"Cái luật cấm cải giá là bất công,
vô đạo, cướp mất quyền lợi đàn bà mà không bổ ích gì cho phong hóa nên phế trừ
đi là phải".
"Xin cứ những lời tầm bậy trong bài
ấy, chỉ trích và thuyết minh ra, để phụ nữ trong Nam và chư vị độc giả cùng
nghe, rồi sẽ kết tội án Phan Khôi ở cuối" (An Nam tạp chí số 34,
26-4-1932).
Tản Đà cho rằng việc thủ tiết của người
đàn bà là một phong tục cao cả có từ đời Khổng Tử chứ đâu phải chỉ mới có từ
đời Tống:
"Cứ vậy ngẫm ra, tự thấy rằng một
đạo trinh tiết của đàn bà Á đông, thực do thượng cổ truyền lại, gốc ở một chữ
trong kinh Dịch nẩy mầm ra, đời đời nối tiếp vun bồi, gây thành cái phong hóa tuyệt thanh quí trong nhân loại. Nay Phan Khôi dám cho những sự đó là đàn bà
chịu sự thiệt thòi, mà lại qui cái ảnh hưởng trực tiếp là chịu của Tống nho.
Thực là loạn ngôn hoặc chúng vậy" (An Nam tạp chí số 34, 26-4-1932).
Tản Đà kết án Phan Khôi là đồi trụy phong
hóa và ví Phan Khôi với bọn hạ lưu đã dám nói ra những lời sàm sỡ, Tản Đà viết:
"Gian thay! ông Phan Khôi, ác thay! ông Phan Khôi, tiểu nhân thay! ông Phan Khôi.
"Cứ mấy lời luận lý của ông Khôi,
nếu không hết sức bài trừ, mà để cho ông được hành những cái gian, cái ác, cái
tiểu nhân, thời nay ông đã viết ra bài này, thời mai ông chắc viết ra bài khác,
ngấm ngầm truyền bá vào trong tâm lý một số người trong xã hội, xui khiến cho
gái bỏ trinh tiết, giai bỏ trung hiếu; phàm những cái tốt đẹp trong đạo làm
người, như nhân, từ, tín, hậu, lễ, nghĩa, liêm, sỉ đều bị những lời luận lý vô
đạo ấy làm cho đến mất hết giá trị. Nếu lo cho quá, thời một phần nhân đạo
chẳng sẽ do đó mà dần dần lấn lún đến trở ra cầm thú cẩu chệ sao? Nguy thật
thay!
"Cùng hai câu thực ý của ông Khôi.
"Ông Khôi nói:
"Hễ đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác; đàn bà chết chồng thì lấy chồng khác".
"Xưa nay, đàn ông chết vợ mà họ lấy
vợ khác, đàn bà chết chồng mà lấy chồng khác, vẫn là sự thường trong thế tục;
có cần chi đến những nhà học vấn phải ra công luận lý mà khuyên bảo cho chúng
ru?
"Đàn ông hóa vợ mà ở yên không lấy
vợ khác nữa, hạng người ấy gọi là nghĩa phu, từ xưa đến nay thật ít thấy trong
sử sách. Đàn bà hóa chồng mà ở yên không đi lấy chồng khác nữa (người còn trẻ
tuổi) hạng người ấy gọi là tiết phụ, so với nghĩa phu thực có số nhiều hơn.
Song tóm tự nghìn xưa, nếu có thể cộng được toàn số đàn bà hóa chồng còn trẻ
tuổi mà tính xem, chưa dễ nghìn ai mong có một. Vậy thời những người tiết phụ
kia sinh ở nhân gian thế, dẫu chưa hẳn như phụng hoàng, kỳ lân trong phi cầm
cẩu thú, thời cũng là hòn ngọc ở núi đá hạt châu nơi bể chai. Đời đời vua chúa
ơn ban "Tiết hạnh khả phong". Cũng vì là vật quí của đời, đời nên
biết quí vậy.
"Tục thuần hậu mỗi ngày càng kém
xưa, giá trinh tiết mỗi ngày càng hiếm có; vật quý của đời lại đến lúc đời
không biết quý, phong dao lý ngữ, nhiều câu nghe thấy đã thương tâm:
"Lẳng lơ chết cũng ra ma
Chính chuyên chết cũng khiêng ra đầy đồng"
- "Ông chết thì thiệt thân ông,
"Bà tôi sắp sửa lấy chồng nay mai"
- "Bà chết thì thiệt thân bà,
"Ông tôi sắp sửa lấy ba nàng hầu"
"Ba câu ca dao đó, ngẫm như một câu dẫn ở trước
nhất, thực là do phong hóa suy đồi tự ở mồm những kẻ hạ lưu xướng ra. Hai câu
dẫn thứ hai thứ ba ở sau, hoặc giả còn là có ai đó, vì cái bụng thương cho đời,
mới thoát ra những lời chua xót. Tôi tuy chưa dám định nghĩa; song tóm lại chỉ
đều là những câu ca dao mà không phải là lời luận lý. Lập thành thế, luận thành
lý, thời mới thấy như hai câu của ông Khôi là thứ tư.
- "Đàn ông chết vợ thì lấy vợ khác.
"Đàn bà chết chồng thì lấy
chồng khác"
"Hai chữ "thì" đó, ngẫm
ra cho kỹ không có tình nghĩa, chút tơ vương; chính cũng như trong xóm Bình
Khang thường có câu "Cuốn chiếu nhân tình sạch" vậy! Hai câu đó
trước lúc chưa đem đăng báo, ông Khôi hoặc có cùng ngồi đàm luận với hai vị chủ
nhân và chủ nhiệm tờ báo Phụ Nữ tân văn mà đem ra cùng đọc, thì không biết cái
cảm tưởng của những người nghe kia như sao?
"Nghĩ cho phong hóa đến lúc đã suy
đồi, chẳng ai có sức nào giữ được. Song thuộc hành vi riêng của cá nhân, ai có
muốn sao cứ tự, thực cũng chưa mấy ai nhẫn tâm dụng lực mong tồi hoại cho cái
nền hủ cựu đó chóng đổ đi làm chi. Có chăng, thời là ông Tú Phan Khôi vậy". (An Nam tạp
chí số 37, 16-4-1932).
Sau khi đã buộc tội Phan Khôi như trên,
Tản Đà long trọng tuyên bản án Phan Khôi như các bạn đọc sau đây:
"Hợp hai bài "Bài trừ"
An Nam tạp chí số 34 và 37 đây, thời Phan Khôi viết bài "Tống Nho với Phụ
nữ" đăng trong Phụ Nữ tân văn số 95 ra ngày 13 Aout 1931 tức là kẻ có tội
với danh giáo:
– Vu hãm tiên hiền.
– Loạn ngôn hoặc chúng.
– Bại hoại phong hóa.
"Nay, chiếu theo hình luật Á Đông từ
đời vua Thuấn mới đặt, có minh văn trong kinh thư rằng: "Phốc tác giáo
hình". Nghĩa là: "Cái roi, dùng làm hình phạt thuộc về sự giáo
huấn". Cứ Phan Khôi phạm về tội danh giáo, vậy nên dùng roi để chừng.
"Chiếu theo các trường dạy nho ta
kia xưa, phàm học trò học dốt, đọc không thuộc, hoặc có tội vô lễ thời bắt phải
nằm sấp xuống đất, đánh ba roi. Cứ Phan Khôi can phạm ba điều như đã yết trên
đây so với những tội học dốt, đọc không thuộc và vô lễ thực lớn hơn gấp trăm.
Vậy nên đánh đòn ba trăm roi.
"Chiếu theo pháp lý Á đông, làm tội
người đem ra ở chợ, để cùng có công chúng dự biết. Cứ Phan Khôi phạm về tội
danh giáo nên đánh đòn ở trước sân Văn miếu, để trên có các vị Tiên Thánh, Tiên
Hiền cùng giám lãm, dưới có các sĩ phu trong phái Hán học cũng được dự biết.
"Cứ các nhẽ đã sơ thẩm như trên, xin
nghĩ kết Phan Khôi phải chịu ba trăm roi đòn, chia đánh ở ba nơi:
- Đánh ở trước sân Văn Miếu Thăng Long là
nơi gốc văn vật của sự học nho của nước ta từ triều nhà Lý.
– Đánh ở Huế, là nơi thủ phủ xứ Trung kỳ.
– Ở Quảng Nam, là nơi chốn của tội nhân
sinh trưởng học tập.
"Ngoài cái tội án Phan Khôi đã nghĩ
kết, chiếu theo thường luật có bắt tội oa chủ; vậy những tiền phí giải Phan
Khôi từ Nam ra Bắc, cho lại về đến Huế, về đến Quảng Nam do Ban Trị Sự
của Phụ Nữ tân văn phải trích tiền quỹ của báo ấy cung nạp.
"Giở lên các điều án nghị theo như
lệ nghị kết về bài Phan Khôi viết: "Cái cười của Con Rồng Cháu Tiên"; riêng bản án này, trên có Tòa Thượng Thẩm riêng xét về danh giáo là
toàn thể sĩ phu phái Hán học trong nước sẽ cùng phúc thẩm, dưới có tội nhân và
oa chủ, ai có muốn thân oan, cứ được hết lời thân oan". (An Nam tạp chí
số 37, 16-4-1932)
Nguyễn Tiến Lãng đả kích Phan Khôi
Chính trong lúc Tản Đà hăng hái buộc tội như vậy, hình
như Phan Khôi vẫn yên lặng không lên tiếng mà chỉ có bạn bè của Phan Khôi lên
tiếng một cách gián tiếp. Ấy là theo sự ghi nhận của Nguyễn Tiến Lãng trong bài
"Nguyễn Tiến Lãng và Phan Khôi" (An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932).
Thực vậy, Nguyễn Tiến Lãng lên tiếng công
kích Phan Khôi trong hai bài đăng trong báo Trung Bắc, viết bằng tiếng Pháp, đề
là Autour d’une Polémique.
Vì bị Nguyễn Tiến Lãng công kích, Phan
Khôi lên tiếng trong bài "Cái học vào lỗ tai ra lỗ miệng" đăng trên
Đông Tây số 160, ngày 6-4-32, trong đó Phan Khôi chê Nguyễn Tiến Lãng là dốt,
dùng sai tiếng Pháp, không hiểu nghĩa chữ Polémique là gì cả.
Nguyễn Tiến Lãng viết bài kể tội Phan Khôi
gửi cho báo Đông Tây, nhưng vì báo Đông Tây không đăng, cho nên Nguyễn Tiến
Lãng gửi đăng trên An Nam tạp chí số 38, 23-4-1932, trả lời ít điểm mà Nguyễn
Tiến Lãng cho rằng Phan Khôi đã xuyên tạc ông. Đây lời Nguyễn Tiến Lãng:
"Nay tôi giả nhời cho Khôi rõ:
"1)- Phan Khôi hỏi: "Ông
Lãng có thử đọc qua những bài ấy của tôi không?… Theo nhời ông Lãng, đủ biết
rằng trong khi viết bài ấy, ông Lãng không có dưới mắt ông tập báo kia có bài
của tôi, nhưng trước kia, thì ông có đọc cả, nên bây giờ mới nhớ mà nhắc lại
cho".
"Phải, tôi chép nguyên văn đó "nhời văn" ông Phan Khôi hỏi tôi. Nhời văn của Phan Khôi là người chê văn
quốc ngữ của tôi "còn chưa xuôi". Nhưng thôi… Nói làm chi. Tôi chỉ
đáp câu hỏi kia; vậy tôi đáp.
"Chính phải thế Phan Khôi nghe! Mà
tôi không có Phụ Nữ tân văn để giữ luôn ở trong nhà, và không gối văn Phan Khôi
ở dưới giường để xem đi xem lại luôn luôn, sự ấy Phan Khôi lấy làm lạ du? Xã
hội thì hiểu rồi, hiểu cho tôi rằng tôi còn có việc khác và văn khác để xem chớ
sao?"
"2)- Các câu hỏi của Phan Khôi có ý
bắt buộc tôi phải đọc lại văn (!) của Phan Khôi rồi viết thêm cho báo Đông Tây
mấy cột báo, mà về văn (!) ấy, tôi không đáp; bởi vì ông Tản Đà đã có cái
chương trình bài trừ cái nạn văn (!) và tư tưởng (!) Phan Khôi, mà chương trình
ấy đã đang thực hành trong An Nam tạp chí rồi. Việc đời còn nhiều, các bực sĩ
phu trong xã hội nên chia nhau mỗi người làm một việc. Huống chi "bài trừ
Phan Khôi" tôi cần gì phải làm nữa, vì đã có ông Tản Đà.
"3)- Câu kết của Phan Khôi: "Ai không biết đến đầu đến đuôi hết, thấy bài Nguyễn Tiến Lãng nói như vậy rồi
tin đi, ắt phải cho Phan Khôi là người bậy bạ. Hoặc giả ông Nguyễn Tiến Lãng
dụng tâm như thế chăng? Ông Nguyễn Tiến Lãng nên hối ngộ liền. Đừng còn nhỏ
tuổi mà lập tâm bất chánh như vậy về sau sẽ hỏng!"
"Nguyễn Tiến Lãng tôi đáp:
"Phan Khôi bậy bạ hay không bậy bạ, xã hội đã thừa rõ, cho nên Lãng này
không cần phải nói thêm; nếu chỉ vì một nhời nói của Lãng mà xã hội từ trước
vẫn nhầm vì Khôi, đến nay mới biết Khôi là người thế nào, thì Khôi dù uất bởi
ngòi bút này mà đã phải lớn tiếng nhưng Nguyễn Tiến Lãng cũng rất vui
lòng vì đã làm được một việc ích. Ông Phan Khôi nên hối ngộ liền! Tuy đã già
đời, nhung cũng còn thì giờ cải tà quy chánh, một đời chưa đến nỗi hỏng tất cả!
"Đối với tôi nói thế là đủ; sau này
mặc cho Khôi lớn tiếng xin để xã hội nghe cáo trạng của thi sĩ Tản Đà mà cùng
cười với tôi". (An Nam tạp chí số 38).
Như các bạn thấy ở đây, giọng điệu của
Nguyễn Tiến Lãng đối với Phan Khôi quả thực gay gắt, phũ phàng.
Vân Bằng đả kích Phan Khôi
Sau Nguyễn Tiến Lãng, đến lượt Vân Bằng lên tiếng chửi
Phan Khôi (An Nam tạp chí số 39, 30-4-1932) trong bài "Tôi thất vọng về
Phan Khôi".
Trước hết Vân Bằng tố cáo Phan Khôi như là
người hiếu chiến, gây gỗ với mọi người, lập dị muốn làm khác người ta:
"Thật vậy, Ông Phan đã có phen khai
cuộc "bút chiến" - cái này mới thật là "bút chiến" chứ
- cùng ông Trần Trọng Kim về sách Nho giáo. "Đình chiến" được ít
lâu ông lại khởi "thế công", khai một cuộc "bút chiến"
khác - cái này cũng thật là cuộc "bút chiến" nữa chứ - cùng ông Lê
Dư về vấn đề quốc học.
"Ông đã có phen hô hào cảnh cáo
những nhà "học phiệt" (xin mở tự vị Khang Hy) làm cho quốc dân đã
được hưởng cái thú đọc bài trả lời "mát mẻ" của ông Phạm Quỳnh.
"Ông đã có phen đem cái tài hùng
biện ra trước Tòa án dư luận làm trạng sư cãi "thí" để "thân
oan" cho "bà vua Võ Hậu, đã chọn cung nhân bằng đàn ông, để mua vui
trong lúc vạn cơ chi hạ" (theo lời ông).
"Ông đã có phen thuyết lý về cái môn
"Lô dích" (logique) là môn ông rất sở trường, và ông cũng đã đem
cái thuyết "xưng hô" ra dạy đời nữa.
"Vừa đây, ông lại ra công "sáng chế" ra một lối thơ "tân thời, tự do đặc biệt" không cần
niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người "Hoài cổ" phải ngậm
ngùi thương tiếc "Tám vế" Luật Đường!!! Có lẽ vì sự phát minh
lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng?
"Đó, cái công trình vĩ đại của ông
Phan Khôi đối với quốc văn là như thế. Cho nên văn tài ông được nhiều người bái
phục, như lời Ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng: "bạn
Phan Khôi" của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi là "Léon Daudet" của Việt Nam. Sau khi đã vô tình đề cao tán dương Phan Khôi
như vậy, Vân Bằng trách Phan Khôi là thô lỗ, bỏ cả phong thái nhà nho để dùng
những ngôn ngữ tục tằn khi trả lời ông Nguyễn Tiến Lãng:
"Vậy mà trái đất xoay mình đâu chừng
hai mươi vòng, nghĩa là kể từ ngày tôi đọc bài của ông Phan Khôi đăng trên báo
Đông Tây số 160 (6-4-32) đến nay chừng ba tuần lễ, thì bỗng đã làm cho tôi thất
vọng! Tôi hay vậy, dạo trước đừng coi báo Đông Tây là hơn mà cũng đừng mừng chi về tài ông Phan Khôi
là hơn!
"Xin độc giả chịu khó giở tờ Đông
Tây số 160 ra ngày 6-4-32 mà đọc lại bài của ông Phan Khôi nơi cột năm ở trang
nhất thì liền thấy sự thất vọng của tôi là có căn cứ. Sự thất vọng của tôi về
ông Phan Khôi là do ở cái cái cách "xưng hô" bất lịch sự của ông
đối với ông Nguyễn Tiến Lãng, cái cách xưng hô đó dã tỏ ra rằng ông Phan Khôi
không nhớ cái lễ độ của độc giả và quên mất cái thuyết "vô bất kính" của làng nho!
"Vậy, tôi cứ theo như cái "sự
ngay thật người luận biện phải giữ" mà kể cái cách xưng hô của ông Phan
trên tờ Đông Tây số 160 như sau này: bắt đầu ông viết "ông Nguyễn Tiến
Lãng", sau đến "Lãng ta" sau đến "Va"! sau đến
"Tiến Lãng" sau lại "Ông Nguyễn Tiến Lãng", Nguyễn Tiến
Lãng, và Lãng trống trơn vân vân…
"Không những riêng cách xưng hô bất
lịch đó, ông lại còn mở cuốn "tự vị riêng" mà dùng những tiếng
"Xỏ lá, ba que" (xin lỗi độc giả tôi cũng không hiểu nghĩa rõ) trên
bài luận thuyết "tràng giang đại hải" của ông (Đông Tây số 160 cột
5 trang 1) như vậy thật là thiếu cái vẻ lễ độ với công chúng nữa".
Để ra ngoài những lời nặng tiếng nhẹ mà
người ta tặng cho nhau trong lúc tranh luận nóng nảy, ta nhận thấy cuộc bút
chiến này cũng đã đặt ra những vấn đề xã hội rất đáng chú ý. Cuộc tranh luận
này còn cho ta thấy Phan Khôi mới lắm. Chẳng những Tản Đà không chịu được cái
mới của ông mà cả đến Nguyễn Tiến Lãng một tiến sĩ Pháp cũng chẳng ưa cái mới
mẻ của Phan Khôi.
Nhân vụ rắc rối đối với Tản Đà này, ta
nhận thấy Phan Khôi là người có tư tưởng rất mới. Ông muốn xã hội Việt Nam phải
đổi mới. Mà theo ông muốn tiến tới phải đánh đổ mọi thứ mặc cảm tự tôn, ỷ lại
vào những là bốn ngàn năm văn hiến, những là Con Rồng Cháu Tiên. Ngoài ra ông
còn đi trước cả các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn trong chiến dịch hạ bệ Nho
giáo, chống chế độ đại gia đình, chống tục cản trở đàn bà góa cải giá.
5- Vụ Án Quốc Học
Lê Dư đặt vấn đề Quốc Học
Quốc học là gì? Thực chất của nó ra sao? Đó là một
vấn đề được đặt ra vào khoảng đầu năm 1930. Nhưng hình như hồi đầu người ta
không có đặt vấn đề nội dung cho từ ngữ này. Cái người đầu tiên đã dùng tiếng
này nhiều có lẽ là Sở Cuồng Lê Dư: ông lập ra một tủ sách lấy tên là "Quốc học tùng san". Tất cả các sách do ông biên soạn đều đề là "Sở
Cuồng Văn Khố Quốc học tùng san". Rất tiếc là lúc viết về vấn đề này tôi không
có trong tay tất cả các tài liệu liên quan đến vụ này mà không biết tìm đâu cho
ra. Các thư viện mà tôi biết đều không có.
Năm 1930, Lê Dư cho xuất bản tập nghiên
cứu đầu tiên của ông trong bộ Quốc học tùng san, đề là "Bạch Vân Am thi
văn tập" với lời ghi chú "giật sử và văn thơ sấm ký của cụ Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm".
Rất tiếc là hiện giờ tôi không có tập này
trong tay. Nhưng tôi nghe rằng trong Bạch Vân Am thi văn tập, Lê Dư đã đề cao
Nguyễn Bỉnh Khiêm như là người có công nhất trong việc xây dựng nền quốc học.
Trịnh Đình Rư bác lý thuyết về Quốc Học của Lê Dư
Trịnh Đình Rư phê bình Bạch Vân Am thi văn tập của Lê
Dư. Bài phê bình này, tiếc rằng tôi cũng chưa được đọc, chỉ biết, theo Phan
Khôi, trong bài "Luận về quốc học" (P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) thì
Trịnh Đình Rư không đồng ý với Lê Dư, không công nhận nước ta đã có cái gì gọi
là quốc học trong bài Luận về quốc học, Phan Khôi có trích lại hai đoạn văn Lê
Dư đã trích của Trịnh Đình Rư: "Nước ta từ xưa đến nay chưa từng thấy có
cụ nào dựng ra được một học thuyết gì to tát riêng, xét đến lịch sử những nhà
học giả Đông Tây mà nghĩ lại đến quốc học nhà, ta tưởng tự lấy làm thẹn"
(trích theo Luận về quốc học, P.N.T.V. số 94, 6-8-1931) và của Phạm Quỳnh:
"Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta có gì; không dám nói
bạc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương truyền lý học thâm thúy
có cụ Chu An và cụ Trạng Trình nhưng các cụ phát minh được những điều gì, trứ
thuật được những sách gì có ích?"
Cứ theo Phan Khôi thì vì Trịnh Đình Rư và
Phạm Quỳnh đã có ý kiến như vậy về quốc học cho nên Lê Dư đã viết bài "Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng" trong đó ông Lê Dư lên án đích danh
Trịnh Đình Rư và ám chỉ ông Phạm Quỳnh bằng việc trích văn của ông này như Phan
Khôi tố cáo mà không gọi tên đích danh Phạm Quỳnh. Trong bài đó Lê Dư kết án
Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh rất gắt gao mà ông gọi là vô ơn và nhục mạ tổ tiên.
Phan Khôi có trích mấy dòng sau đây của Lê Dư: "Ôi! các ông chưa xét
cho kỹ, mà dám to gan dạn miệng bội bạc tiền nhân như vậy! Sao các ông vụ nhục
nền văn hóa nước nhà như vậy?" (Trích theo Phan Khôi trong bài Luận về
quốc học).
Phạm Quỳnh bày tỏ lập trường ủng hộ Trịnh Đình Rư
Nếu bài phê bình của Trịnh Đình Rư chúng ta không được
đọc toàn vẹn vì chưa biết nó được đăng ở báo nào, chứ bài của Phạm Quỳnh thì
chúng ta có thể đọc được đầy đủ. Thực ra Phạm Quỳnh không có ý bàn về quốc học
mà chỉ bàn đá đến vấn đề mà thôi. Phan Khôi kết án Phạm Quỳnh là học phiệt,
nghĩa là kiêu ngạo, khinh người, không chịu trả lời khi có người công kích. Phạm
Quỳnh trả lời Phan Khôi qua bài "Trả lời bài Cảnh cáo các nhà học phiệt
của Phan Khôi tiên sanh" (P.N.T.V. số 67, 28-8-1930). Trong bài này, sau
khi đã minh xác và thân oan cho thái độ của mình, Phạm Quỳnh, trong phần kết
luận, có bày tỏ nỗi lòng của ông đối với nền học vấn của ta từ xưa đến nay.
Phạm Quỳnh phàn nàn rằng tất cả cái học của ta từ xưa đến nay đều là cái học
thuê viết mướn chưa có gì đáng giá cả. Thế rồi ông hô hào người trong nước cố
gắng gây lấy một nền quốc học mai ngày bằng việc thành lập hội "chấn hưng
quốc học": "Nói đến học thuật chơn chánh thì cổ lai nước ta đã có
gì? Không dám bội bạc tiền nhân, nhưng thật không có người nào vậy. Tương
truyền lý học thâm thúy có cụ Chu văn An, cụ Trạng Trình. Nhưng các cụ phát
minh được những điều gì, trứ thuật được những sách gì có giá trị? Nào
đâu là những phái Vương học, phái Thiền tôn như ở Nhật bản, cũng học chữ Tàu mà
khám phá được nhiều điều người Tàu không nghĩ tới? Nước mình tịnh không có gì
cả. Đó chẳng qua là bởi cái tinh thần học vấn của mình nó bạc nhược quá. Lại
bởi cái mô phỏng của người mình nữa, xưa kia phỏng chép người Tàu, ngày nay bắt
chước người Tây…
"Ấy cái hiểm tượng của học giới ta ở
đó, ở cái tánh nô lệ của người mình đó, chớ không phải là lỗi tại người này hay
người nọ…
"Phải nên cùng nhau hiệp lực, cố gây
dựng cho nước nhà một nền "quốc học" đích đáng, không Tây mà không
Nho, có cái tính cách đặc biệt, tiêu biểu được cho cái tinh thần cố hữu của nòi
giống. Cái ý tưởng đó ngày nay Phan tiên sanh mới đề xướng, mà về phần tôi chủ
trương đã lâu lắm rồi.
"Vậy ngày nay chúng ta có nên cổ
động lập một hội "Chấn hưng quốc học", họp tập những người có chí
học vấn trong Nam ngoài Bắc, mỗi năm hội nghị một lần để bàn các kế hoạch nên
thi hành cho nước nhà có một nền quốc học xứng đáng không?
"Thiết tưởng thế còn hơn là cãi vã
nhau vô ích. Phan tiên sanh nghĩ sao? (Phụ Nữ tân văn, số 67, 23-8-1930).
Phan Khôi công kích Phạm Quỳnh
Vì Phạm Quỳnh đã hỏi "Phan tiên sanh nghĩ sao?", nên Phan Khôi đã trả lời Phạm Quỳnh trên Phụ Nữ tân văn, số 70,
18-9-1930, qua bài "Về các ý kiến lập hội chấn hưng quốc học của ông Phạm
Quỳnh".
Trong bài này, sau khi thương xác với Phạm
Quỳnh nhiều vấn đề, Phan Khôi tỏ ý không tán thành việc thành lập cái hội gọi
là hội "Chấn hưng quốc học". Theo Phan Khôi chúng ta dã có quốc học
bao giờ đâu mà nói đến mất hay đến suy vi khiến phải chấn hưng. Phan Khôi viết:
"Cái ý kiến của tiên sanh muốn lập
một hội kêu bằng "Chấn hưng quốc học" đó, theo tôi, tôi tưởng ta
chưa làm được, mà cái hội ấy hình như cũng không cần có nữa. Nhơn rốt bài của
tiên sanh, có lời hạ vấn đến tôi, tôi phải trực trần ý kiến, xin chớ ai thấy mà
trách tôi: Làm không làm, lo phá đám!
"Trước hết xin gạn hỏi cái tên hội
mà tiên sanh phỏng định ra đó. Phàm cái gì từ trước đã có sẵn rồi mà sau suy
bại đi, mình muốn làm cho nó hồi phục lại cái quang cảnh cũ, vậy mới nói là
chấn hưng được. Cái này nền "quốc học" của nước ta tiên sanh đã
nhận rằng từ xưa chưa có, mà tôi cũng từng nhận như vậy, thì sao gọi được là
"chấn hưng"?
Ấy ngay từ hồi này, như các bạn thấy,
chẳng phải chỉ có Trịnh Đình Rư hay Phạm Quỳnh chối ta không có quốc học mà cả
Phan Khôi nữa. Phan Khôi còn chối mạnh hơn cả hai ông Rư và ông Quỳnh. Vậy mà
trong bài "Câu chuyện đọc thơ của ông Trạng" Lê Dư chỉ đả kích có
Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà không nói gì đến Phan Khôi. Chính sự yên lặng đó
của Lê Dư đã được Phan Khôi nhắc tới trong bài Luận về quốc học của ông khi ông
viết:
"Còn tôi ai khảo mà xưng "Lạy
ông tôi ở bụi này", cái không những là dại mà là dởm. Nhưng vì nếu tôi có
thú khai tôi ra đây thì cái ý nghĩa bài này mới càng đích xác hơn vậy.
"Cái giọng phủ nhận như ông Trịnh
Đình Rư và ông Phạm Quỳnh đó, thưa thiệt, tôi cũng có thốt ra nhiều lần rồi…
Một lần sau mới đây, lời càng thống thiết hơn,
là trong bài "Hán học ở bên Tây" đăng ở báo Đông Tây cách vài tháng
trước. Trong bài ấy đến nỗi tôi muốn nói rằng nước ta từ xưa đến nay không có
cái gì đáng gọi là cái học nữa kia. Những cái luận điệu của tôi đó tưởng ít nữa
ông Lê Dư cũng có thấy qua, song ông chừa tôi ra, là vì ông cùng tôi có tình
anh em riêng, với tôi, ông càng không muốn rắc rối hơn với ông Phạm nữa.
Ông Lê có lòng tốt đối với tôi như vậy tôi
nỡ nào đi phụ cái lòng ấy của ông? Song tôi nghĩ, cái chân lý giữa cõi học nó
bắt phải để riêng cái tình anh em trong một nhà. Bởi vậy, trong việc này, tôi
phải để mình về bên hai ông Phạm và Trịnh kia, viết bài này cùng ông Lê thương
xác lại vấn đề ấy". (Phụ Nữ tân văn số 94, 6-8-1931).
Cuộc chiến bùng ra gay gắt từ đấy. Nhưng
trước khi đi vào việc trình bầy tiếp cuộc tranh luận này, chúng ta cần tìm xem
quan điểm Lê Dư từ đấy trở về trước đối với vấn đề quốc học như thế nào.
Tôi không được đọc Bạch Vân Am thi văn tập
là tập I trong bộ Quốc học tùng san của Lê Dư in năm 1930, nhưng tôi được đọc
Vị Xuyên thi văn tập là tập II của bộ Quốc học tùng san, in năm 1931. Nơi đầu
tập sách này có hai bài giới thiệu ngắn một của nhà xuất bản Nam Ký thư quán là
nhà xuất bản đứng ra in tất cả sách vở của Lê Dư, một của Sở Cuồng Văn Khố.
Theo chỗ tôi phỏng đoán thì hai bài giới thiệu này cũng đã in ở đầu sách "Bạch Vân Am thi văn tập" rồi nay lại được giới thiệu lại ở Vị Xuyên thi
văn tập. Bài giới thiệu của Nam Ký thư quán mang tựa đề là "Lời bá cáo của
nhà xuất bản bộ Quốc học tùng thư". Vậy lời bá cáo này mở đầu bằng những
đòn sau đây:
"Quốc hồn ở đâu? ở tại tư tưởng, tư
tưởng phát ra làm văn chương, văn chương của các nhà học giả nước ta, từ xưa
đến nay chính là quốc hồn ở đấy nên quốc học cũng ở đấy.
"Ông Sở Cuồng là một nhà đốc chí
hiếu học, cố sức vun bồi nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước
ta, ngót mười năm nay ở trường Bác Cổ, lưu lý sưu tập những tài liệu thuộc về
quốc văn, quốc sử biên tập thành bộ "Quốc học tùng san" kể hơn một
trăm tập nào là lịch sử, nào là văn chương, tài liệu như núi như non, từ tảo
như hoa như gấm, đủ chứng minh kho văn học của ta phong phú như vậy, các bậc
tiền bối ta, có công với nền quốc học như vậy" (Lời bá cáo của nhà xuất
bản bộ Quốc học tùng san, trong Vị Xuyên thi văn tập 1931). Đến chính Sở Cuồng
cũng có mấy lời giới thiệu Quốc học tùng san của ông, cũng in ở đầu cuốn Vị
Xuyên thi văn tập như thế này: "Bản Văn Khố muốn lấy sức mọn vun bồi cái
cơ sở nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của nước ta, ra công sưu tập
văn chương và lịch sử của các nhà học giả xưa biên thành bộ "Quốc học
tùng san" này, phương pháp theo lối khảo cổ, cốt thu thập được nhiều tài
liệu cho tiện về sau này, các nhà văn học muốn khảo cứu về vấn đề gì đều sẵn đủ
cả, cho nên cái nội dung có khác với các quyển giáo khoa và các quyển thi văn
tinh tuyển khác, xin độc giả lượng xét cho". Bài giới thiệu này ký là
"Sở Cuồng Văn Khố".
Cứ những bài giới thiệu trên đây thì ta
thấy quan điểm của Lê Dư chưa được minh bạch rạch ròi cho lắm. Nếu quan điểm đó
không chỉ cho quốc học là văn học thì ít ra quốc học hầu như là văn học. Thứ
nhất ta thấy những sách trong bộ quốc học của Lê Dư gồm toàn sách văn chương:
nơi bìa tập sách Vị Xuyên thi văn tập, tác giả liệt kê "Sách bộ Quốc học" của ông chỉ gồm toàn sách văn chương như: Văn đàn bảo giám, Bạch Vân An
thi văn tập, Bằng quân thi văn tập, Ôn Như Hầu thi văn tập, Vị Xuyên thi văn
tập, Việt văn dẫn giảng… Thứ hai là ta thấy Lê Dư hứa sẽ viết một bộ Việt Nam
văn học sử với dụng ý minh chứng nền quốc học Việt Nam rất phong phú. Thứ ba ta
thấy lời giới thiệu của Nam Ký thư quán cũng hiểu quốc học là văn học như trong
câu: Quốc hồn ở đâu? Ở tại tư tưởng, tư tưởng phát ra làm văn chương, văn
chương của các nhà học giả nước ta từ xưa đến nay chính là quốc hồn ở đấy, nên
quốc học cũng ở đấy". Thứ bốn ta thấy chính Lê Dư trong "Mấy lời
giới thiệu" cũng nói đến việc xây cơ sở nền quốc học bằng việc sưu tầm
văn chương:
"Bản văn khố muốn lấy sức mọn vun
bồi cái cơ sở nền quốc học, phát huy áng văn chương riêng của các nhà học giả
xưa, biến thành bộ quốc học tùng san này".
Phan Khôi đã chẳng hiểu quốc học như Lê
Dư, vì thế ông mới viết bài luận về quốc học.
Phan Khôi luận về Quốc Học
Trước hết Phan Khôi nói đến việc dùng danh từ quốc học
trong văn giới Việt Nam cũng như văn giới Trung Hoa mới là từ mấy năm trở lại
đây mà thôi.
Phan Khôi định nghĩa chữ Quốc học rất rành
rẽ. Ông viết:
"Quốc học là một danh từ mà cũ và
mới có nghĩa khác nhau. Hồi trước ta nói "quốc học" tức là cái
trường học cho cả nước; như trường Quốc học ở Huế là lấy nghĩa ấy: Còn chữ
"Quốc học" ngày nay thường dùng là chỉ về cái học riêng của một
nước, có vẻ đặc biệt, có chỗ khác với nước ngoài. Vậy khi nói "quốc học" cũng gần giống như "quốc phục" là y phục riêng của một nước.
Nói "Quốc kỳ" là hiệu kỳ riêng của một nước.
"Chữ quốc học trong bài này chuyên
nói về nghĩa mới là nghĩa sau đó (Luận về Quốc học).
Như vậy, theo Phan Khôi, Quốc học là nền
học thuật, tức nền tư tưởng, nền triết học riêng của một nước đã thực sự ảnh
hưởng, chi phối đời sống của dân tộc nước ấy khiến cho dân tộc ấy thành khác
biệt những dân tộc trên thế giới.
Dựa theo giới thuyết như trên về quốc học,
Phan Khôi đồng tình với Trịnh Đình Rư và Phạm Quỳnh mà quả quyết nước ta chưa
có quốc học. Phan Khôi cho rằng đây là một vấn đề học vấn, vấn đề chân lý ; có
thì nói có, không thì nói không, chứ đừng vì tình cảm, vì tự ái dân tộc không
đúng chỗ mà phải nhận là có cái ta chưa có:
"Ông Lê nói có, ông lại hứa rồi đây
ông sẽ đem chứng cớ ra. Song, truyện ấy để lát nữa sẽ nói, đây tôi xin tỏ ra
cái cớ tại sao mà chúng tôi phải hô hào lên cho người ta biết rằng nước ta
không có quốc học.
Sự học tức là sự trí thức, nó chuyên
khuynh hướng về lý trí mà không nên xen vào một chút tình cảm. Đức Khổng cũng
dạy rằng cái học của người đời xưa là vị kỷ và bắt đầu từ thành ý nghĩa là
không dối mình. Khi nói về cái học của một người đã vậy thì khi nói về cái học
của một nước cũng vậy. Nếu nước ta quả không có quốc học thì dầu nó là một sự
nhục cho mình đi nữa cũng phải chịu, không nên vì tình cảm mà nói có, cho thành
ra dối mình. Dối mình là một cái hại lớn lắm, cho người cũng như cho nước. Bởi
vì, nếu không mà nói có, ai nấy tin rằng có, sẽ sanh ra lòng tự phụ, mà tự phụ
một cách hư ngụy, rồi không lo tu tấn nữa, nhơn đó cõi học trong nước lại càng
tối tăm thêm. Do lẽ ấy trước khi muốn người nước mình bắt đầu từ ngày nay lập
nên một nền học thuật chúng tôi phải khai thiệt ra cho ai nấy biết cái tình
hình trong cõi học nước ta từ trước ra thế nào; thấy không có thì chúng tôi
phải nói không có, đó là chỗ trung hậu thành khẩn của chúng tôi, cũng như một
nhà kia ông cha nghèo, thì phải khai thiệt là nghèo, không có một cục đất nào
thì phải khai thiệt là không có một cục đất; hầu cho con cháu mà lo làm ăn
vậy.
"Đó, nếu ai đã tin bụng tôi, hoặc
chúng tôi, thì sẽ không trách sự phủ nhận ấy là bội bạc, là vụ nhục nữa; bây
giờ đây, cái vấn đề chỉ còn là sự "có" với "không" mà
thôi. Như ai nói "có" thì phải đem chứng cớ ra". (Luận về
quốc học).
Sau khi minh định quan niệm và thái độ
thẳng thắn như vậy, Phan Khôi duyệt qua một ít các nhà học giả xưa mà Lê Dư
thường nâng lên như là các ông tổ của nền quốc học Việt Nam thì chỉ thấy họ là
những nhà văn học chứ không ai kiến tạo được một hệ thống tư tưởng riêng biệt
cho xứ sở này.
Phạm Quỳnh luận về Quốc Học
Đồng ý và tiếp theo Phan Khôi, Phạm Quỳnh viết một bài
đại luận "Bàn về quốc học", đăng liên tiếp trên hai số báo Phụ Nữ
tân văn số 104 (15-10-1931) và số 105 (22-10-1931).
Nơi bài số 104 (15-10-1931) Phạm Quỳnh thử
ngược dòng lịch sử duyệt qua một vòng xem có thể tìm đâu ra được vết tích quốc
học không thì Phạm Quỳnh đã phải thất vọng hoàn toàn.
Theo Phạm Quỳnh, anh hùng ta có, liệt nữ
ta có, danh sĩ, cao tăng ta cũng có, nhưng trong "cõi học nước ta, cổ kim
chưa có người nào có tài sáng khởi, phát minh ra những tư tưởng mới, thiết lập
ra những học thuyết mới, đủ có cái vẻ độc lập một "nhà" đối với các
"nhà" khác như bách gia chư tử bên Tàu ngày xưa" (Bàn về quốc
học, P.N.T.V. số 104). Cái học của ta, Phạm Quỳnh thấy toàn thị là cái học mướn
mà học mướn ấy cũng chưa học cho đến nơi đến chốn… Tổ tiên ta chỉ chú trọng đến
cử nghiệp cho nên rút cục sau hàng ngàn năm các cụ học hành mà con cháu ngày
nay nhìn về các cụ chẳng tìm thấy gì gọi được là học thuật tư tưởng đứng đắn
cả. Về việc định nghĩa quốc học là gì, ý tưởng Phạm Quỳnh giống ý tưởng Phan
Khôi, duy có điều Phạm Quỳnh nói sau nên có chiều khúc chiếc gẫy gọn hơn. Ông
nói: "Quốc học là gồm những phong trào về tư tưởng học thuật trong một
nước, có đặc sắc khác với nước khác, và có kết tinh thành ra những sự nghiệp có
trước tác lưu truyền trong nước ấy và ảnh hưởng đến các học giả trong nước ấy" (Bàn về quốc học, P.N.T.V. số 104).
Cứ theo định nghĩa ấy Phạm Quỳnh đã đồng ý
với Phan Khôi mà bảo rằng nước ta chưa có quốc học. Rồi từ đó ông đi tìm nguyên
nhân đã xui khiến nên tình trạng buồn tủi kia. Phạm Quỳnh cắt nghĩa sự thiếu
vắng kia bằng ba lý do vừa địa lý, vừa lịch sử, vừa chính trị. Về địa lý, nước
ta quá bé nhỏ cho nên hầu như bị Trung Hoa nuốt chửng nên bị mất hẳn độc lập về
tinh thần.
Về lịch sử, nước ta càng bị nước Tàu đè
nén hơn nữa. Ngoài 10 thế kỷ nô lệ, Việt Nam trong suốt thời độc lập vẫn phải
đối phó gay go cơ cực với Tàu. Ấy là chưa nói đến việc ta coi các học thuyết
truyền từ Tàu sang đều là tôn giáo cả cho nên không khi nào dám bàn cãi.
Thuộc về chính trị, thì nước ta xưa kia bị
cái nạn quân chủ chuyên chế. Nhà vua đã đặt ra một lối học rất gò bó để làm
tiêu chuẩn tuyển chọn người tài thành ra bao nhiêu sáng kiến tư nhân bị tiêu
diệt dần đi.
Sau khi đã nhìn về dĩ vãng mà nhận định
vấn đề như vậy, Phạm Quỳnh đã hướng về tương lai mà đặt vấn đề: làm sao để xây
dựng được một nền quốc học? Nếu đã tố cáo cái học nô lệ theo Tàu xưa kia thế
nào, thì Phạm Quỳnh lại chống cái học hòa đồng theo Tây như vậy. Cả phần thứ
hai của bài bàn về quốc học, tức bài số 105 (P.N.T.V. số 105, 22-10-1931), Phạm
Quỳnh dành cho việc phân tích nghiên cứu vấn đề để tìm một lối thoát cho tương
lai đang lúc Tây phương chi phối chúng ta nặng nề chẳng kém gì Tàu đồng hóa các
cụ ta xưa kia. Phạm Quỳnh muốn đề ra một triết lý văn hóa, nó sẽ là linh hồn,
là cơ sở cho nền quốc học tương lai. Triết lý đó là triết lý dung hòa. Ông viết: "Muốn cho gây được thành một cái quốc học riêng của mình, thì phải dùng
phương pháp phê bình khảo cứu của khoa học mà phân tích những học thuyết cùng
nghĩa lý cũ của Á đông ta rồi đem ra nghiền ngẫm, suy nghĩ, đối chiếu với những
điều chân lý cùng những sự phát minh của khoa học thái tây. Kết quả của sự phân
tích cùng tổng hợp đó, tức là tài liệu để gây ra quốc học sau này vậy"
(P.N.T.V. số 105).
Lê Dư trả lời cả Phạm Quỳnh lẫn Phan Khôi
Sau loạt bài của Phan Khôi đến của Phạm Quỳnh, đến
lượt Lê Dư lên tiếng. Không như những lần khác, lần này quan điểm của Lê Dư
được trình bầy khá minh bạch. Người ta có thể không đồng ý với ông nhưng biết
rõ ông muốn gì chứ không như trước đây. Có lẽ những lời công kích ông trước
đây, đã khiến cho Lê Dư suy nghĩ và cô đúc lại để đặt ra một lý thuyết cho chữ
quốc học mà trước kia có lẽ ông chưa có ý kiến rõ rệt.
Lê Dư cũng tự nhận thấy rằng sự không rõ
rệt đó đã xui khiến nên những cuộc tranh luận mà ông cho là vô ích cho nên ông
viết bài "Vấn đề quốc học" ghi rõ định nghĩa và nội dung quốc học
(P.N.T.V. số 107, Nov 1931).
Lê Dư đã định nghĩa quốc học: "Quốc
học là học vấn, kỹ thuật của một nước: học vấn kỹ thuật ấy là cái cố hữu của
mình hay là cái mình học của người nhưng đã thay đổi nhiều lắm, nay trở thành
cái cố hữu của mình mà người ta không ai có" (P.N.T.V. số 107).
Sau khi định nghĩa, Lê Dư mô tả nội dung
của quốc học: "Quốc học là đối với các học vấn ngoại lai như: Hán học,
Phật học, mà nói có chỗ đặc biệt mà từ xưa đến nay đã có học phái, có ảnh hưởng
đến nhân quần xã hội ta; người ngoại quốc bàn đến cái học ấy, phải cho là cái
học đặc biệt của người nước Nam, không giống nước nào hết" (Bàn về quốc
học).
Rồi Lê Dư kể lể các yếu tố làm nên qua
niệm quốc học theo ông hiểu:
"Đã là quốc học thì nội dung phải
bao hàm cả quốc văn, quốc sử, quốc túy ở trong.
"Quốc văn - lấy nhất ban quốc văn
học làm chủ như các học thuyết, lý thuyết những sách vở của tiền nhân đã trứ
thuật để lại và những quốc ca, quốc ngữ (chữ nôm và chữ quốc ngữ) đặc biệt của
ta.
"Quốc sử - lấy nhất ban chính trị sử
làm chủ như cách tổ chức, cách hành động về chánh trị và những pháp luật, chế
độ, phong tục, tập quán, kỹ thuật đặc biệt của ta.
"Quốc túy - lấy nhất thiết trường sở
mỹ điểm thuộc về vật chất, về tinh thần của dân tộc tính cố hữu mà do cái tình
hình địa lý và nguyên nhân lịch sử đã dưỡng thành trong mấy mươi thế kỷ nay.
"Ba cái ấy, tôi đã nhận thấy là quốc
học của ta và là chủ nghĩa của tôi chủ trương đó (P.N.T.V. số 107).
Sau đó Lê Dư bảo đó chẳng phải ý kiến lập
dị riêng của ông mà là chủ trương của cả cái dân tộc cực văn minh là dân tộc
Nhật Bản. Và chỉ ai dốt nát không biết như vậy mới dám phủ nhận nền quốc học
phong phú của ta. Ta đọc thấy những dòng đại khái như sau đây của Lê Dư ám chỉ
về những người bảo ta chưa có quốc học: "Ôi! sao các ông không xét đến
sự thật và tình hình học vấn nước nhà xưa nay, mà đã vội mạt sát tiền nhân như
vậy?
"Ôi! không căn cứ theo sách vở,
thì dễ nói bậy bạ, cho nên tôi thường có một câu cách ngôn rằng: không biết
pháp luật thì dễ nói ngang, không xem sách vở thì sẽ nói càn"
(P.N.T.V. số 107)
Lời lẽ của Lê Dư như các bạn thấy trên đây
quả là kết án bọn các ông Phạm Quỳnh, Trịnh Đình Rư, Phan Khôi là dốt nát.
Nguyễn Trọng Thuật giàn hòa
Sau bài công kích của Lê Dư, Nguyễn Trọng Thuật đứng
ra hòa giải qua bài "Điều đình cái án quốc học". Đây nguyên
là một bài diễn thuyết ông đọc tại Hội Trí Tri Hải Dương ngày 26-11-1931, rồi
sau lại đăng tải trên Nam Phong tạp chí số 167 ra tháng 12 năm 1931.
Nói là hòa giải, là điều đình, nhưng thực
ra Nguyễn Trọng Thuật đứng hẳn về phe Lê Dư, công kích phe Phan Khôi, có điều
là Nguyễn Trọng Thuật công kích bằng lời lẽ phải chăng mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật mở bài diễn thuyết của
ông bằng việc ghi nhận nội dung và lý do vụ án mà ông gọi là "vụ án quốc
học".
"Hiện nay trong nước ta đang có một
cuộc tranh luận về vấn đề quốc học, là cái học riêng của một nước. Nó khác với
nghĩa quốc học cũ nghĩa là cái nhà trường học của cả nước như xưa. "Khởi
xướng ra hai chữ quốc học về nghĩa mới ở ta đây là ông Lê Dư; cãi lại rằng
nước ta không có cái học đáng gọi là quốc học là ông Phan Khôi. Hai bên tranh
luận ở báo Đông Tây Hà nội, thành ra một cái học án cho học giả trong nước đang
bàn xét".
Nguyễn Trọng Thuật có trách Lê Dư, nhưng
điều ông trách Lê Dư là điều rất nhẹ. Theo ông, cái lỗi của Lê Dư, nếu có, chỉ
là Lê Dư "sơ ý một chút" mà thôi.
Nguyễn Trọng Thuật viết:
"Nay xét đến nguyên nhân cuộc
tranh luận này, thì chỉ ông Lê Dư sơ ý một chút để nên chuyện mà thôi. Nguyên
ông làm trong trường Bác Cổ Hà Nội đã lâu năm, khảo cứu sưu tập được nhiều những
tập văn thi nôm của nước ta, nay ông muốn đem in dần ra làm một bộ sách tùng
thư thuần về bản quốc. Ông lấy việc làm như thế là nó thuộc vào một phần trong khoa
quốc học như của Nhật Bản đó. Ông bèn đặt tên cho bộ sách ấy là "Quốc học
tùng san". Cuốn in mở đầu là "Bạch Vân Am thi tập", trên đầu
bìa có bốn chữ tên bộ sách như thế…"
Ngoài ra, cũng theo Nguyễn Trọng Thuật,
cái sơ ý của Lê Dư là ở chỗ dùng một từ ngữ với một nội dung mới mà không minh
định trước cho độc giả biết cái nội dung mới mẻ ấy.
"Đại phàm mới phát minh ra một danh
từ về chủ nghĩa gì hay là mới thâu thái nó ở đâu mà đem xướng lên cho xã hội
thì phải giải thích cho rõ cái tính cách của nó ra trước. Bởi vì ngày nay
thường một danh từ mà nghĩa mới nghĩa cũ, nghĩa rộng nghĩa hẹp nhiều lắm, thế
mà ông Lê không giải thích cho cái tên quốc học mà ông mới dùng ấy một câu nào
cả. Lại quyển "Bạch Vân Am thi văn tập" ông Lê giữ tính cách biên
tập và tồn cổ, cho nên ông không có bình luận gì vào đấy một câu nào. Nghĩa là
chỉ để cho học giả được đủ nhiều tài liệu để nghiên cứu mà thôi. Nhưng ông cũng
không dặn cho người ta biết thế. Ở cái đời khoa học thực nghiệm này, trông
ngoài bìa sách thấy hai chữ "quốc học" mới mẻ to tát, mở cuốn sách
thấy một ít lời sấm, thì ai cũng phải ngờ. Ấy vì thế nghị giả nhận sai nghĩa
chữ quốc học đi mà thành lầm".
Nguyễn Trọng Thuật cho rằng chính bởi
thiếu minh định nội dung từ ngữ như vậy mà làm cho Phan Khôi hiểu lầm. Ông phân
tích và bàn giải về sự lầm lẫn của Phan Khôi một đàng vì không hiểu biết nội
dung từ ngữ quốc học theo nghĩa của Nhật bản, một đàng vì thiếu sự tìm tòi và
đối chiếu các tài liệu cũ của ta với nhau vì so sánh chúng với các nước khác.
Đó là ý nghĩa của đoạn văn sau đây:
"Nay xét ra nghị giả lầm vì hai cớ
này: một là không biết đến cái nghĩa quốc học đan thuần của Nhật Bản, nhận
thấy ở Trung quốc đâu đầu đời Dân quốc, có một phái nào đó xướng lên lấy sách
bách gia chư tử làm quốc học để đối với Tây học đang tràn vào. Quả như lời nghị
giả thì nghĩa quốc học ấy là ngoan cố khoa đại đấy, quả thế thì lầm. Hai là
nghị giả không đem thời đại học thuật của nước nhà mà so sánh với xa gần, và
đồng thời không chịu lượng xét cho học giới ta xưa bị những trở lực gì mà dù có
ít nhiều điều biệt kiến cũng phải tiêu trầm, rồi không chịu khó bới móc trong
chỗ giấy rách mà nhặt nhạnh lại, nhất diện cứ câu chấp ở đống sách bề bộn của
Tàu mà kết án cho cổ nhân mình, kết luận rằng: "Nước ta không có cái học gọi
là quốc học". Xét ra thì ý nghị giả muốn nói về cái học chung của thế
giới kia, mà gọi lầm là quốc học đấy, chứ quốc học thì nước nào mà chả có.
"Song le dù đối với cái học chung
của thế giới đi nữa, so với cụ Khổng, cụ Phật cùng Đông châu chư tử thì cổ nhân
ta không những không có mà lại còn là học đồ, nhưng so với bạn học cùng cái
thời đại học thuật với nhau, nghĩa là so với các học giả Hán, Tống, Minh Thanh,
mà đời kêu là đại nho thì cổ nhân ta đời nào cũng có như thế đấy, chỉ vì số
nhiều không biết trọng mà để trầm mai đi, thì còn lấy đâu mà thành lập lưu hành
được. Chứ nếu đều được thành lập lưu hành đến nay cả thì đã chả có cái cảnh
tượng học thuật khủng hoảng như bây giờ…"
Đoạn văn trích trên đây cho ta thấy Nguyễn
Trọng Thuật chủ trương rằng tổ tiên ta có thua kém thì chỉ thua kém cụ Khổng,
cụ Phật thôi, chứ có thua kém gì bách gia chư tử của Tàu và các học giả của
Nhật.
Để minh chứng cho lập trường trên, Nguyễn
Trọng Thuật phân biệt cái học ra làm quốc học và thế giới công học rồi lần lượt
định nghĩa, mô tả thế nào là quốc học và thế giới công học: "Cho
được hiểu rõ hai điều lầm của nghị giả trên này, tôi xin bàn giải, so sánh và
chứng dẫn luôn làm một bài khảo cứu như sau này, các ngài tự suy xét phán đoán
lấy, chứ tôi không muốn theo cách biện luận tỉa tách từng lời, cãi vặt từng câu
nữa.
"Dưới đây trước tôi phân giải cho
hai cái học ở trong học giới các nước ngày nay là quốc học với thế giới công
học khác nhau thế nào. Rồi tiến lên xem học thuật Việt Nam đối với hai cái học
ấy; về quốc học thì lấy nghĩa của Nhật Bản rồi xem Việt Nam sẽ có những gì, về
thế giới công học thì trước xét ở Trung quốc, ở Nhật Bản về đồng thời xem thế
nào, rồi xét đến Việt Nam xem thế nào.
"Hai cái học trong học thuật thế
giới:
"Học thuật các nước thế giới đến
ngày nay là hoàn bị và tinh tế, song lấy quốc tính mà phân ra thì có hai loài
là quốc học và thế giới công học. Quốc học là cái học riêng chỉ một mình nước
ấy có. Thế giới công học là cái học chung của các nước học lẫn của nhau.
"Coi đó thì biết quốc học tức là cái
học bất dịch, chỉ một nước ấy có, chỉ người nước ấy cần phải học, hoặc là chỉ
người nước ấy mới có thể học thâm thấu được, còn nước khác không có, người nước
khác không cần phải học, hoặc là có học cũng không thâm thấu được. Đến như thế
giới công học thì là cái học chung, là cái học biến dịch, nghĩa là tùy thời mà
đổi mới tùy thời mà khứ thủ không nhất định được.
"Ví như một người, quốc học là phần
bản thể; thế giới công học là phần bồi dưỡng. Bản thể thì cần phải nuôi cho
lớn khôn khỏe đẹp ra mà không bỏ và thay chỗ nào được, nếu bỏ hay là thay chỗ
nào thì là bất cụ, quá thì chết. Còn bồi dưỡng thì nếu nhà có thì chớ, bằng có
mà thiếu, hoặc có mà xấu, hoặc không có đi nữa thì cứ lấy ở ngoài…
"Xem thế thì về thế giới công học,
thiếu đâu cứ cầu ở ngoài, đã hủ rồi thì cứ cải lại, hoặc khử cả đi, hoặc phát
kiến thêm ra được để đóng góp với đời càng tốt. Đến như quốc học thì phải có
sẵn cả rồi, là cũ kỹ tích lũy chứ không phải là mới. Hoặc có nhãng bỏ thì nay
đem ra, có tản mát thì nay thu tập lại, chứ không phải đi chuốc ở đâu đem vào
được".
Như vậy, theo Nguyễn Trọng Thuật, cũng như
theo Lê Dư, quốc học gồm có "quốc sử, quốc văn, quốc thần, địa dư
chí, cổ điển, ca dao và văn thi." Quốc sử thì gồm có "sử ký, liệt
truyện, gia phả và bi ký"; Quốc văn tức là "ngôn ngữ văn tự", tức cũng là "cái gốc của cõi học một nước", quốc thần thì
gồm "những vị thần từ Hùng Vương trở xuống nào quốc tổ, nào vĩ nhân cùng
những vị có công đức", địa dư chí thì biên chép các nơi danh thắng trong
nước ; cổ điển tức là " chính trị của lịch triều"; chế độ của xã
hội, phong tục của dân gian; ngạn ngữ phong dao là "cái kho tự điển văn
luật, vừa là một pho kinh, điển của cả một dân tộc kinh nghiệm hoặc sở đắc về
luân lý, về phép hành vi, về mỹ cảm", văn thi là "kho tàng văn học
thơ của các văn nhân thi sĩ".
Sau khi đã phân tích và mô tả quốc học và
thế giới công học là thế nào rồi, Nguyễn Trọng Thuật dựa vào các quan niệm đó
mà duyệt lại lịch sử của Việt Nam, của Trung Hoa, của Nhật để minh chứng, ở mọi
địa hạt, ta không có thua kém gì Trung Hoa hay Nhật Bản, có chăng ta chỉ thua
kém là không có một "cụ Khổng", một "cụ Phật" mà thôi.
Cuối cùng Nguyễn Trọng Thuật, căn cứ vào
lịch sử để trình bày một cách cụ thể nền quốc học và nền thế giới công học như
là đã có cơ sở liên tục qua suốt cả lịch sử Việt Nam. Cái học của Việt Nam dưới
con mắt của Nguyễn Trọng Thuật quả cũng đã có trường phái đàng hoàng. Ông viết:
"Tóm lại học thuật Việt Nam trong
một thời đại, cả Nho học Phật học đều có ba cái tính chất khác nhau là hợp
sáng, biệt sáng và toàn mô phỏng". Ba tính chất ấy có những học phái này: "Về Nho học, tính chất hợp sáng có Hán nho đích Việt Nam học phái, tính
chất biệt sáng có Chu An thực hành học phái, Hoa Việt Nho học phái, Quế đường
học phái hay là Lê Nguyễn nho học phái, tính chất toàn mô phỏng có Tống nho học
phái".
Như vậy, chẳng những ta không thua kém Tàu
hay Nhật mà cũng không đến nỗi hổ thẹn nếu so sánh với các nước trong thiên hạ.
Nguyễn Trọng Thuật diễn tả ý tưởng đó ở đoạn sau:
"Bởi vậy tôi đã ví quốc học là bản
chất, ví những cái học cũ ở Á Đông là nhà trường Đông phương học; mà những cái
sở đắc cũ là những cái bằng tốt nghiệp trước vậy. Bây giờ bạn học cũ đã đều lên
trường cao đẳng mới, ta dù chậm chạp cũng đã tìm thấy cổng trường, nhưng trước
khi thụ giáo, ta phải tự sát hạch lại cái bằng tốt nghiệp cũ của ta là phải
lắm. Cái bằng tốt nghiệp cũ của ta, về món quốc học, những tài liệu về bản
chất, so với bạn học cũ dẫu chẳng được toàn ưu điểm gì, nhưng cũng ưu liệt
tương bán. Về món công học dù bị nội giới ngoại giới cùng số nhiều ham mê về cử
nghiệp khiến cho có sở đắc mà không được lưu hành, có lưu hành mà được một số
ít người hoặc được một thời kỳ ngắn ngủi; song những tinh thần chủ nghĩa như
là điều hòa siêu việt với thực tế, thực hành minh đạo hóa dân, tự tín, tự giác
về quốc âm thổ sản như trên ấy, thực đã biết đem cái học công hữu của thế giới
biến hóa ra làm cái học độc hữu của một nước rồi đó".
Qua sự phân tích bài "Điều đình cái
án quốc học" như trên đây, các bạn đã nhận thấy Nguyễn Trọng Thuật, tuy
nói là không bênh bên nào, mà kỳ thực thì đã bênh Lê Dư và kết án Phan Khôi. Có
điều là lời lẽ Nguyễn Trọng Thuật nó thanh lịch, kín đáo, nhẹ nhàng.
Phải chăng vì vậy mà Phan Khôi không chấp
nhận sự hòa giải của Nguyễn Trọng Thuật qua bài "Bất điều đình" của
ông đăng ở báo Đông Tây số 133. Tiếc rằng bài "Bất điều đình" của
Phan Khôi tôi chưa được đọc cho nên không biết Phan Khôi đã trả lời Nguyễn
Trọng Thuật những gì: hiện giờ tôi chưa làm sao tìm ra được tờ Đông Tây nào.
Phan Khôi chống sự giàn hòa của Nguyễn Trọng Thuật
Nhưng cứ đọc bài Siêu Việt công kích Phan Khôi vì Phan
Khôi không chấp nhận sự điều đình của Nguyễn Trọng Thuật thì cũng biết qua được
thái độ của Phan Khôi đối với Nguyễn Trọng Thuật. Để phản đối cái việc Phan
Khôi không chịu nhận sự hòa giải của Nguyễn Trọng Thuật, Siêu Việt đã trích
những lời Phan Khôi buộc tội những ai muốn điều đình đều là hạng người hèn nhát:
"Người ta mà ưa làm kẻ điều đình là
chỉ vì có ý sợ khó, có ý chiều đời, có ý thích làm lớn, bằng không có ý đó thì
bổn thân cái thuyết điều đình chẳng đứng một mình được vì nó vừa đen vừa trắng
hay là không đen không trắng, dễ nói quá, mà chẳng có nghĩa gì" (theo bài
"Đọc bài Bất điều đình của ông Phan Khôi" trong báo Đông Tây số
133, An Nam tạp chí số 43, 1-6-1932).
Sau khi đã trích câu văn của Phan Khôi,
Siêu Việt lấy nó để mà đả kích Phan Khôi là ngụy biện thiếu tư cách của một học
giả tự xưng là trọng luân lý: "Ông Phan Khôi thường tự nhận là một nhà
học giả, song đọc đoạn văn trên vừa rút ở bài của ông, tôi không thể coi là
cách lý luận của học giả được; gọi là cái luận điệu của trạng sư thì đúng hơn.
Cái bổn thân của sự điều đình thế nào? Nó có hại và vô giá trị không, ông Phan
hãy cùng tôi nghiên cứu" (Siêu Việt, An Nam tạp chí, số 43).
Phản đối việc Phan Khôi không chịu điều
đình, Siêu Việt đã định nghĩa thế nào là điều đình theo nghĩa triết học. Ông
viết: "Điều đình hay là tổng hợp cũng vậy, có khi thì là cái chung cục
của một cuộc biến, mà có khi lại là cái mầm của một cuộc biến khác. Một lý
thuyết dù hay dù dở, bao giờ cũng có một phái tán thành, hết sức duy trì lấy
nó. Đồng thời lại có một phái khác phản đối lại. Bởi đó, sự xung đột của hai lý
thuyết mà rút lại thì là sự điều đình vậy. Hết cuộc biến thiên này lại kế tiếp
một cuộc khác, nhân loại tiến hóa không biết tới đâu mới là cùng" (An Nam
tạp chí số 43).
Sau khi đã tranh luận với Phan Khôi về ý
nghĩa của chữ điều đình, Siêu Việt lại thương xác với Phan Khôi về thái độ cực
đoan của Phan Khôi. Cũng nhờ Siêu Việt mà ta biết Phan Khôi có chủ trương cực
đoan. Siêu Việt trích lời Phan Khôi: "Đại phàm sự học nhờ ở sự cực đoan
mà mới có tiến bộ. Nói về triết học, ai có khuynh hướng về duy vật thì cứ duy
vật đi. Mỗi bên đều cứ theo chỗ mình tin tưởng dựa vào luận lý học và phát huy
nghĩa lý cho tới cùng như vậy nền triết học mới càng ngày càng chói sáng thêm.
Học giả bên Tây sở dĩ tấn tới mau lắm là nhờ đi theo con đường đó. Con đường đó
là gì? Chẳng phải là sự quan ma tư ích cho nhau của hai cái thái cực duy tâm
và duy vật là gì?" (Siêu Việt An Nam tạp chí số 43).
Trích lời Phan Khôi rồi, Siêu Việt lại bàn
giải về vấn đề cực đoan như là một phương tiện trên đường khám phá chân lý. Như
chỗ tôi hiện biết, thì hình như cuộc tranh luận đã ngừng lại ở đấy. Vấn đề tuy
chưa ngả ngũ hẳn ra đàng nào, vụ án quốc học cũng khai mào cho việc đặt ra rất
nhiều vấn đề văn hóa xã hội và hối thúc học giả đi vào con đường tìm kiếm, giải
quyết: Văn học nhờ vậy mà tiến bộ rất nhiều.
6- Vụ Án Thơ Cũ Thơ Mới
Phạm Quỳnh chê thơ Đông Phương
Chẳng phải
đột ngột, bất thần mà có cuộc cách mạng về thơ. Cuộc cách mạng ấy, thực ra, đã
âm ỉ chuẩn bị từ lâu. Năm 1917, trên Nam Phong tạp chí, số 5, nơi bài "Bàn về thơ nôm", Phạm Quỳnh nhân đọc cuốn Cổ xúy nguyên âm của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến đã tỏ
thái độ về thơ cũ mà ông coi luật lệ thực không có khác luật hình: "Người nào thuộc luật thì bằng trắc tất không lộn, vẫn tất áp, luật tất niêm,
điệu tất xứng, đối tất chỉnh, sánh những khóe thôi xao, giỏi những cảnh xuất
sáo mà gây nên những bức thanh âm tuyệt điệu; người nào không thuộc luật thì
phạm phải những tội ghê gớm, đọc đến mà rùng mình: nào là tội thất luật, tội
thất niêm, tội khổ độc, tội cưỡng áp, tội trùng ý, trùng chữ, điệp điệu".
(Bàn về thơ nôm, Nam Phong số 5, Nov, 1917). Sau khi đã nêu lên những lề luật
chật hẹp như vậy, Phạm Quỳnh chê tâm lý của cái thứ thơ ấy là thứ tâm lý đã bị
sửa chữa thành ra giả tạo: "Người ta thường nói thơ là cái tiếng kêu tự
nhiên của con tâm. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn
chữa lại, sửa lại cái tiếng kêu ấy cho nó hay hơn, trúng vần, trúng điệu hơn,
nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên nhiên đi vậy (Bàn về thơ nôm, Nam
Phong số 5).
Sau đó, Phạm Quỳnh giới thiệu hai bài thơ, bài "Qua đèo ngang" của bà Huyện Thanh Quan, và bài "Soir en montagne" của Léonce Depont và trình bày cho độc giả nhận thấy thơ Tây tình tứ,
dồi dào, siêu việt bao nhiêu, thì thơ ta giả tạo, tiểu xảo, gò bó bấy nhiêu. Và
ngay từ hồi này Phạm Quỳnh hình như cũng mong có một sự đổi mới bằng sự bắt
chước Pháp trong khi ông viết:
"Bọn ta ngày nay thực là đứng giữa nơi giao giới
của hai cái tinh thần ấy, hai cái gặp nhau ở ta, nếu ta khéo ra thì có thể điều
hóa được cái hay của hai đằng mà không mắc phải những khuyết điểm. Ta cứ nên
giữ lấy cái lối tranh cảnh của ta nhưng ta nên
rộng cái khuôn nó ra một tí mà
bắt chước lấy cái vẻ thiên thú của người" (Bàn về văn nôm, Nam Phong số
5).
Phan Khôi chê thơ cũ trên Đông Pháp
Nếu năm 1917
đối với thi ca cũ, Phạm Quỳnh mới chỉ dám trách nó là quá ư nghiêm nhặt nhưng
vẫn nhận nó là tuyệt xảo thì năm 1928 trên Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã dám
táo bạo chê luật lệ thơ cũ của ta là trói buộc, tù hãm đã vậy mà lại còn thô
tục nữa: "Song từ ngày đem thất ngôn luật vào khoa cử rồi thì thể ấy trở
nên bó buộc quá mà mất cả sanh thú... Ấy chỉ là luật riêng dạy về lối làm thi
trong việc khoa cử mà thôi, nào có phải cái phép tắc chánh truyền của nghề thi
như vậy? nhưng mà ngày nay người ta cũng tuân theo, không biết cởi mình ra khỏi trói. Thấy có
một vài cuốn sách quốc ngữ tự xưng dạy phép làm thi mà cũng dạy theo lối thi
khoa cử ấy, thì thật là tục quá. Thi
quý cho nhã; mà đã tục thì còn dạy ai?" (Chương dân thi thoại, tr 46).
Nguyễn Văn Vĩnh và bài thơ Con Ve sầu và Con Kiến
Cũng năm
1928 này, lần đầu tiên ta thấy xuất hiện trên Trung
Bắc Tân văn, bài thơ đầu tiên không niêm, không luật, không hạn chữ,
hạn câu: bài thơ dịch của Nguyễn Văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi:
Ve sầu kêu ve ve
Suốt mùa hè
Đến kỳ gió bấc thổi
Nguồn cơn thật bối rối.
Trịnh Đình Rư công kích thơ Đường
Năm 1929,
Trịnh Đình Rư viết một loạt bài về vấn đề thi ca trong mục "Văn thơ với
nữ giới" đăng trên Phụ Nữ Tân Văn mà ta có thể kể ra làm thí dụ tiêu biểu
các số sau đây: số 18 (25-8-1929), số 19 (5-9-1929), số 26 (24-10-1929), số 29
(21-11-1929), số 31 (5-12-1929), số 33 (19-12-1929), số 62 (20-2-1930).
Trước hết ông trình bày cho ta thấy thi ca của ta từ
xưa cho đến nay không phải dừng bến bỏ neo ở mãi một chỗ mà vẫn biến hóa từ đời
này qua đời khác, từ chỗ nô lệ hoàn toàn đi đến chỗ vay mượn chế biến cho tới
hình thức sáng tạo độc lập đặc thù.
Thực vậy, nơi số 13 ngày 25 Juillet 1929 Trịnh Đình Rư
viết: "Văn chương theo từng thời vận mà biến đổi. Từ triều Lê trở về
trước nhân dân ăn ở dưới quyền quân chủ, dân trí hãy còn thuần ngạc cho nên thơ
văn về những thời kỳ ấy toàn là những giọng chất phác cả... Từ cuối đời Lê cho
tới triều Nguyễn gần đây dân trí hơi mở mang dần, văn chương có điều lịch sự
hơn trước, song cái tư tưởng về xã hội chưa có cho nên các nhà làm văn phần
nhiều là chỉ tả cái chí khí, cái tâm sự cùng cái hứng thú của mình...
"Cách mười năm về trước đây, sự học nước ta đã
thay cũ đổi mới, các nhà học giả đua nhau chuộng về văn quốc âm, song buổi đó
là buổi quốc văn mới phôi phai, lại chưa chịu đủ cái sức trào lưu ở ngoài thúc
giục, cho nên những tập văn thơ xuất bản về hồi ấy, toàn thấy những bài phi
tình thì sầu, phi sầu thì phiếm, ngày nay thức giả cho là vô vị mà hồi đó ai
cũng ưa chuộng ngâm nga?
"Văn chương là hồn nước. Hồn nước tỉnh dần thì
văn cũng phải đổi mới...
"Ta thử xem ngay ông Nguyễn Khắc Hiếu. Năm xưa
xuất bản những tập "Khối tình con" "Còn chơi" kể có
biết bao nhiêu là văn thơ gọt nặn tỉ mỉ.
"Thế mà đến hồi năm kia ra chủ trương tạp chí An
Nam cho đến sau vào viết bài ở Đông Pháp thời báo, thì thơ văn của ông thấy đã
đổi hẳn ra giọng khảng khái và hùng hồn không?" (Phụ Nữ Tân Văn số 13).
Trịnh Đình Rư cũng tố cáo sự chuyển hướng mãnh liệt
nơi chính bản thân ông: "Kẻ viết bài này nhân cũng xin thú thực rằng:
hồi năm 1919 đã có xuất bản một tập văn thơ nhưng sau tự xét thấy thiệt là vô
vị nên sau đó những thơ văn làm ra có thể tiếp tục in thêm được vô số tập nữa,
lại tự xét cũng không thấy ích gì cho xã hội, vậy đã quả quyết mà đem các bản
thảo phó cho thần lửa thu hết." (Phụ Nữ Tân Văn số 13).
Sang đến số 19 (5-9-1929), nơi bài "Vì đâu mà
chuộng thơ sầu cảm?", Trịnh Đình Rư nhìn nhận rằng hầu hết thi ca của ta
lúc bấy giờ đều là thứ thơ sầu cảm rỗng tuếch, vô vị chứ đâu có được thứ sầu
cảm to tát, sâu xa.
Sự sầu cảm vô vị và rỗng tuếch của thi ca Việt Nam,
theo Trịnh Đình Rư, có lẽ vì nó bị gò bó bởi luật thơ Đường quá ư chật hẹp.
Có lẽ chính bởi vậy mà bài khảo luận sau đó, đăng Phụ
Nữ Tân Văn số 26, 24-10-1929, Trịnh Đình Rư đã kịch liệt chống đối bài bác thơ
Đường.
Trong bài này, Trịnh Đình Rư đả kích thơ Đường luật
khá gắt gao: "Cái nghề thơ Đường luật khó đến như thế, khó cho đến đỗi
kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn phát ra lời, song vì khó
tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay cũng đành bỏ bớt. Cái phạm
vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ của thơ Đường luật thật là
tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này mãi, thì nghề thơ văn của ta
chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy.
"Chánh những nhà văn sĩ, nữ sĩ ở Trung Hoa gần
đây, họ cũng ít chuộng thơ Đường luật này nữa, vì họ cho là một lối thơ bó
buộc, làm cho người ta khó tả được hết cái cảm hứng. Cho nên họ có làm thơ, thì
hoặc dùng lối "trường thiên" không có hạn vần, hạn câu, hoặc dùng
các lối từ khúc không cần phải đối ghép tỉ mỉ. Ấy là lối thơ của họ mà ngày nay
họ cũng đã tự cải cách rồi đó. Ta còn cứ thần phục lối thơ Đường, nô lệ thơ
Đường mãi sao?".
Trịnh Đình Rư, tuy đả kích thơ Đường mạnh mẽ là thế,
nhưng chưa có đề nghị một lối thơ mới nào cả mà chỉ mới dám đề nghị lấy thơ
"lục bát", "song thất lục bát" thay thế mà thôi:
"Ngày nay ta nên biết rằng, hai lối thơ đó mới
thiệt là thơ nước nhà, nó không có bó buộc người ta hạn câu, phải nặn chữ như
là lối thơ Đường luật. Nề nếp của nhà, văn chương của nhà, tiếng nói của nhà,
mà ta theo đòi luyện tập thì còn gì dễ hơn và hay hơn?" (Trịnh Đình Rư,
"Có nên chuộng thơ Đường luật hay không?" Phụ Nữ Tân Văn số 26,
26-10-1929).
Ngoài ra Trịnh Đình Rư còn viết thêm ba bài ca ngợi
những thể thơ hoàn toàn Việt Nam. Số 29 (21-11-1929 cực tán lối thơ lục bát:
"Viết một bài thơ lục bát, chữ đã không cần phải đối, vần lại không phải
đeo nhiều, vui bút kéo đến trăm câu, muốn gọn viết một bài vắn, cái thú hạ bút
tự do toàn ở tác giả cả. Vả lại thơ lục bát còn có một cái thú nữa, là một bài
thơ nếu có lời lẽ khá, có ý tưởng hay, thì người đọc dễ biết và dễ cảm".
Đến số 31 (5-12-1929) ông ca ngợi thơ song thất lục
bát. Theo Trịnh Đình Rư, song thất lục bát chẳng những hay hơn thơ Đường mà còn
hay hơn cả lục bát vì nó tự do, nó uyển chuyển hơn.
Sang số 33 (19-12-1929) ông đề cập đến một lối Ca mới
mà ông cho là cũng thuần túy Việt Nam và rất tự do: "Nay tôi lại xin nói
đến một lối ca mới này, là một lối ca do điệu thơ lục bát mà thêm đặt ra thành
từng câu. Lối ca này hiện ở ngoài Bắc đang thạnh hành lắm, thường đi chơi khắp
kẻ chợ nhà quê, đến đâu cũng nghe có người hát điệu ca này; giọng hát thì
nhiều người cho là giọng "sa mạc" còn điệu văn thì nhiều người cho
là điệu ca "anh khóa"!
"Bởi sao gọi là điệu ca "anh khóa"
bởi vì họ cho rằng khởi đầu từ bài "Tiễn chưn anh khóa" của ông
Trần Tuấn Khải đặt in ở quyển "Duyên nợ phù sanh" xuất bản năm xưa" (Phụ Nữ Tân Văn số 33).
Cuối cùng đến số 42 (20-2-1930), nơi bài "Văn
thơ nên trọng về ý tưởng", Trịnh Đình Rư lại đả kích thơ cũ vì gò bó về
niêm luật mà ý tưởng phải bị hy sinh: "Cái nghề thơ Đường luật khó đến
như thế, khó cho đến đỗi kẻ muốn làm thơ, mỗi khi có nhiều tư tưởng mới lạ muốn
phát ra lời, song vì khó tìm chữ đối, khó chọn vần gieo, nên ý tưởng dầu hay
cũng đành bỏ bớt. Cái phạm vi của thơ Đường luật thật là hẹp hòi, cái qui củ
của thơ Đường luật thật là tẩn mẩn. Ta nếu còn ưa chuộng mà theo lối thơ này
mãi, thì nghề thơ văn của ta chắc không có bao giờ mong phát đạt được vậy". (Phụ Nữ Tân Văn số 42).
Cái ý tưởng này, Trịnh Đình Rư nhắc đi nhắc lại luôn
qua tất cả năm sáu bài ta đã kể trên đây.
Phan Khôi kịch liệt đả kích thơ cũ và đề nghị cải cách: làm bài thơ Tình
Già
Nhưng phải
đợi mãi đến ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phụ Nữ Tân Văn, số 122, mới cho nổ trái
bom nguyên tử vào thành trì thơ cũ làm cho nó hầu bị sụp đổ tan tành. Phan Khôi
là người chỉ huy cuộc tấn công này. Thật vậy, trên Phụ Nữ Tân Văn số 122, ra
ngày 18 tháng 3 năm 1932, Phan Khôi đã viết bài "Một lối thơ mới trình
chánh giữa làng thơ". Trong bài này, trước khi "trình chánh"
một lối thơ mới của ông, Phan Khôi đã chĩa súng bắn tới tấp vào thành trì thơ
cũ. Từ xưa ông vẫn làm thơ, mà rồi bẵng đi ông chẳng sáng tác được bài thơ nào
nữa. Ông gặp ông Phạm Quỳnh, ông này khuyên ông nên làm thơ như cũ vì Phạm
Quỳnh cho rằng đấy là nghề của Phan Khôi. Học giả họ Phan suy nghĩ và lấy lời
ông Phạm Quỳnh làm phải và đã cố gắng làm theo ông Phạm Quỳnh nhưng chẳng đi
đến kết quả nào cả. Phan Khôi đã bộc lộ tâm sự buồn chán, bất lực của ông mặc
dầu trước đấy trong làng thơ ông cũng là tay đáo để, đã không làm thơ thì thôi
chứ đã làm là phải hay cả. Ông viết: "Ông Phạm bảo tôi nên lấy lại thái
độ ngâm thơ hồi trước. Trong đó tỏ ra rằng bấy lâu tôi đã bỏ mất hay là đã đổi
cái thái độ ấy đi, nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm thơ. Và quả thế, gần
mười năm nay, tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ gì cũng không có.
"Trước kia dầu tôi không có tên tuổi trong làng
thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong một năm tôi
cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng chữ hán, hoặc bằng chữ nôm. Mà năm bảy bài
của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được. Vậy mà gần mười
năm nay mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, thì kể như là không có".
Mà Phan Khôi bảo ông không làm chẳng phải vì ông không
muốn, không thèm làm mà thực là ông "mót" làm lắm mà làm không
được. Ông đưa ra các lý do khiến ông không làm nổi bài thơ nào: "Xin thú
thực với mấy ông thợ thơ. Không có không phải là tại tôi không muốn làm hay
không thèm làm, nhưng tại tôi làm không
được!
"Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra ngâm
vịnh, thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông
Đỗ, ông Bạch, ông Tô cho án trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? thì cụ Tiên Điền, bà
Huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình
muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại nghe như họ đã nói rồi.
"Cái ý nào họ chưa nói mình muốn nói ra, thì lại
bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ
loanh quanh luẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật đã dễ tức".
Mà bởi tức như vậy, cho nên Phan Khôi chửi thơ cũ là
giả dối, là đáng bỉ. Các bạn nên chú ý đến chữ "bỉ" mà Phan Khôi
dùng để nói về thơ cũ: "Đại phàm thơ là để tả cảnh tả tình, mà hoặc tình
hoặc cảnh cũng phải quí cho chơn.
Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu
thúc quá. Mà dầu có phóng theo ra lối thất cổ... cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị
câu thúc thì nó mất cái chơn đi, không mất hết, cũng mất già
nửa phần.
"Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một điều đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy.
Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chớ nếu lột tận xương ra mà xem thì chẳng
biết cái hay ở đâu"
Nếu chỉ có thế thôi thì chẳng có gì là đặc biệt. Trịnh
Đình Rư mà có lẽ cả Phạm Quỳnh nữa cũng đã chê trách thơ cũ gay gắt rồi.
Cái mới đặc biệt, có thể coi như quái gở nữa là khác
đối với học giả đương thời là ở chỗ ông bày ra một lối thơ mới mà ông chưa biết
gọi tên là gì.
"Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì nó chưa thành thục nên chưa có
thể đặt tên là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là: đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu, có vận mà không phải
bó buộc bởi những niêm luật gì hết".
Sau khi giới thiệu sơ lược như vậy về thơ mới của ông,
Phan Khôi đã trình làng một bài thơ mới, bài Tình
Già.
Tuy là một bài thơ mới đầu tiên, bài Tình Già của Phan
Khôi đã táo bạo hơn cả những thơ mới ra đời sau đấy xét cả về cách gieo vần,
cách đặt điệu, cách dùng tiếng v.v... Câu thơ của Phan Khôi dài lượt thượt, câu
ngắn nhất cũng trên mười chữ, câu dài nhất có tới mười sáu mười bảy chữ... Luật
bằng trắc đã bị phá vỡ hoàn toàn, cho nên câu thơ của Phan Khôi còn gần văn
xuôi hơn cả các thơ tự do ngày nay.
Sau khi trình làng thơ rất "hỗn loạn" của
ông, Phan Khôi phải thanh minh rằng chẳng phải bởi lập dị hiếu sự mà ông làm
như vậy, nhưng bởi ông thấy trên miếng đất thơ cũ ông đã mất chỗ đứng cho nên
ông phải đi tìm đất mới. Ông chẳng dám tin rằng bài thơ của ông sẽ thành công
vì mươi năm trước đã có người làm như vậy mà đã thất bại nhưng nói tiên tri
rằng có người sẽ làm như ông mà sẽ thành công: "Chẳng phải là tôi hiếu
sự, nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất
mới; mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên mới đem ra
mà trình chánh giữa làng thơ.
"Chẳng phải tôi là người thứ nhất làm ra việc
này. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm việc ấy mà bị
thất bại. Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp? Nhưng tôi tin rằng cái lối
thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một chỗ đế đô mà cái vượng khí đã tiêu
trầm rồi ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi
đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà
thành công".
Lưu Trọng Lư hưởng ứng thơ mới
Gương Phan
Khôi có người soi ngay và lời tiên tri của ông đã ứng nghiệm (tôi tin rằng sau
này có người làm như tôi mà thành công) đó là trường hợp của Lưu Trọng Lư.
Lưu Trọng Lư đã gửi cho Phan Khôi một bức thư đính kèm
hai ba bài thơ mới được Phụ Nữ Tân Văn đăng số 153 đầu tháng 6 năm 1932, tài
liệu mà sau này báo Phong Hóa cho đăng vào số Xuân, tức Phong Hóa số 31 ra ngày
25 Janvier 1933.
Trong bức thư này trước tiên Lưu Trọng Lư như có ý
trách Phan Khôi đã đánh trống bỏ dùi trong lúc thi ca Việt Nam đang ở trong
thời kỳ ngấp ngoải vì thi đàn lúc nhúc toàn tụi thị nhân rỗng tuếch; rồi ông
mô tả thế nào là một "chân thi nhân"; sau đó ông hô hào canh tân
thi ca nếu cần phóng túng buông lung thì cứ phóng túng buông lung đừng do dự
ngần ngại; sau cùng ông khuyên người ta tin vào tương lai của thi ca lúc này
mờ tối bấp bênh:
"Phan Tiên Sinh,
"Cách đây đã lâu, Tiên Sinh đã có đưa trình
chính giữa làng thơ một lối thơ mới. Tôi đọc bài rồi tôi cứ đợi mãi đợi mãi mà
sau tiên sinh không thấy có ai nối gót theo mà chính tiên sinh hình như cũng
không muốn giở dói việc ấy nữa. Thế là thôi. Cái "của mới" ấy có lẽ
chưa thích hợp với đời này. Mấy muôn độc giả đã yên trí như vậy, mà hẳn Tiên
Sinh cũng từng chau mặt giậm chân mà nói rằng: Thôi, không ai ưa thì ta xếp nó
lại đã, đợi khi khác ta lại mang ra". Thưa Tiên Sinh, đợi khi khác, khi
nào nữa. Thi ca ta ngày nay đang lúc ngấp ngoải, không còn có lấy một chút sinh
khí. Nếu không xoay phương cứu chữa gấp, thì ôi thôi, còn chi là tính mạng của
thi ca?? Đừng có nói láy lắt như vậy tiên sinh ạ! Nếu tiên sinh cứ giữ mãi
cái thái độ tiêu cực ấy thì bọn thi nhân "rỗng tuếch" kia còn cứ ca
đi hát lại những câu sáo hủ nghìn xưa mà không thấy nở ra được những bậc thi
nhân chân chính.
"Hẳn tiên sinh cũng hiểu rằng, những bậc chân
thi nhân không bao giờ lại chịu đứng trong cái "lãnh thổ" hẹp hòi
ngột ngạt, mà có thể đưa tâm hồn người ta lên tận mây xanh phảng phất trên
những sự nôm na, phàm tục, vật chất hàng ngày.
Những nhà chân thi nhân, thà là chỉ rung động (vibrer)
trong mình mình chứ không chịu xuất phát ra ngoài, mà để cho những cái niêm
luật khắc khổ, làm đẹt mất cái hồn thơ lai láng mênh mông. Người ta thường khen
Anatole France Tiên sinh trọn đời giữ được cái cốt cách thuần túy của thi nhân,
chính là vì lẽ đó. Trong thi giới ta dễ thường được mấy người như thế? Phần
nhiều nhà thi nhân cần phải xuất phát ra ngoài để cho nỗi lòng được nhẹ nhàng,
hể hả.
"Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ chật hẹp,
như hiện tình thi ca nước nhà, thì họ phải thất vọng biết dường nào! Vậy ta
còn ngần ngừ gì nữa, mà không mở rộng cái "lãnh thổ" kia ra, để mặc
sức cho họ đem những cái thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi vùng vẫy. Làm vậy,
hoặc giả có kẻ hoài nghi mà bảo rằng: "Phóng túng buông lung quá rồi
thành ra lộn xộn, mất cả nề thơ". Trong cái lúc quá độ, ắt phải như thế,
có buông lung, có phóng túng mới có thể phát triển hết những cái rất hay, rất
quý, rất đẹp trong mình, tuy có nhiều lộn xộn, nhưng một ngày kia thành thục
rồi, sẽ trở vào trong những cái nguyên tắc lề lối, rộng rãi hơn, tự do hơn.
"Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn một lần nữa
mà tiến lên đường.
"Cái lối thơ mới của chúng ta là đương ở vào
thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện, nghiên cứu. Không biết rồi đây nó đi được
đến chỗ thành công, hay là nửa đường bị đánh đổ! Đó là sự bí mật của lịch sử
văn hóa mai sau! Dầu thế nào đi nữa nó cũng có giá trị là giúp cho sự tự do
phát triển của thi ca, đưa thi ca đến một chỗ cao xa rộng lớn, nó như thúc
giục, như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh tân dầu có
thất bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho ta một cái
công lớn: nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc đương triền
miên trong cõi "chết".
Trong lúc ban đầu mà đã mong có những tay "Thầy
thợ" chơn chính (véritables maitres) thật là không thể nào được. Nhưng
trái lại, nếu có ai xem thường những người sáng kiến ra cái lối "thơ mới" kia, tưởng e rằng cũng đắc tội với tiền đồ văn học nước nhà lắm vậy". (Phụ Nữ Tân Văn số 153, tháng 6-1932).
Đồng thời với việc Lưu Trọng Lư làm công việc khen
ngợi, hối thúc Phan Khôi bên Phụ Nữ Tân Văn, thì trên An Nam tạp chí số 39, ra
ngày 30-4-1932, Vân Bằng, trong bài "Tôi thất vọng vì Phan Khôi",
nhân trách Phan Khôi thất lễ với Nguyễn Tiến Lãng, đã mô tả Phan Khôi như là
con người ưa lập dị, việc gì cũng muốn làm khác người. Vân Bằng đã có những mỉa
mai sau đây về Phan Khôi tác giả một lối thơ mới". Vừa đây, ông lại
ra công "sáng chế" ra một lối thơ "tân thời" tự do, đặc
biệt, không cần niêm luật, tự ý vắn dài làm cho nhiều người "hoài cổ" phải ngậm ngùi thương tiếc. Tám vế "luật đường" có lẽ vì sự
phát minh lối thơ mới này mà phải mai một đi chăng?
"Đó, cái công
trình vĩ đại của ông Phan
Khôi đối với quốc văn là thế, cho nên văn tài ông được nhiều người bái
phục, như ông chủ bút báo Đông Tây Hoàng Tích Chu đã nói rằng
"bạn Phan Khôi" của ông có một bên (xin hiểu là một số người) coi
là "Alphonse Daudet của Việt Nam" (Vân Bằng, An Nam tạp chí số 39,
30-4-1932).
Như vậy, có lẽ Vân Bằng là người đầu tiên chống lại
nhà thơ mới Phan Khôi. Có điều là những điều nói mỉa mai của Vân Bằng về Phan
Khôi chẳng dè lại hóa thành lời tiên tri. Quả thực là tám vế luật đường
sẽ vì sự phát minh của Phan Khôi mà bị mai một, và quả thực Phan
Khôi đã làm một công trình vĩ đại.
Nhưng ở ngay buổi đầu này, hình như những người nghĩ
như Vân Bằng có lẽ đông hơn nhưng những người lên tiếng như Vân Bằng chưa có
đông mà ngược lại những người làm công việc như Lưu Trọng Lư có lẽ đông
đảo hơn. Phong Hóa ngay từ số 14, ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, đã lên tiếng
kịch liệt đả kích thơ cũ và hô hào bênh vực thơ mới. Bài hô hào đó được trích
nhắc lại trong Phong Hóa số xuân 1933, tức số 31, 24 tháng giêng năm 1933 với
lời mở thế này: "Trong số báo 14, Phong Hóa đã bàn về những chỗ không
hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của thơ đường luật". Tác
giả bài ấy kết luận rằng "bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ,
nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới
văn thể, mới ý tưởng. Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương đề gửi
cho ông Phan Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, ý tưởng có nhiều chỗ giống
với ý tưởng bản báo" (Phong Hóa số 31, trang 16).
Lưu Trọng Lư đã từng gửi bài đăng ở Phụ Nữ Tân Văn số
153, vào tháng 6 năm 1932, rồi lại gửi đăng ở Phong Hóa số 31 ra ngày 24 tháng
1 năm 1933 vẫn chưa lấy làm thỏa mãn nên tháng 5 năm 1933, khi cho xuất bản tập
tiểu thuyết đầu tay, Người Sơn Nhân, ông còn cho đính kèm ở phần hai một bài đả
kích thơ cũ ca ngợi thơ mới. Đó là bài "Một cuộc cải cách về thi ca".
Bài "Một cuộc cải cách về thi ca" này còn
được kèm theo 14 bài thơ mới. Xét về nội dung bài "Một cuộc cải cách về
thi ca" này, ta không thấy có gì mới mẻ hơn bức thư đã gửi cho Phan Khôi
gần một năm về trước. Có điều là ở bức thư trước kia, Lưu Trọng Lư phàn nàn là
chưa có ai hưởng ứng, còn ở đây Lưu Trọng Lư ghi nhận là trên văn đàn đã có
khuynh hướng, tức đã có phong trào thơ mới:
"Gần đây trên trường văn học nước nhà thấy nảy
ra một cái khuynh hướng mới lạ, mệnh danh là thơ lối mới, muốn cởi trói thi ca
ra khỏi cái niêm luật khắc khổ. Biểu hiệu cho cái khuynh hướng ấy, đáng kể nhất
có ông Nguyễn Thế Lữ ở báo Phong Hóa và cô Nguyễn Thị Kiêm ở Phụ Nữ Tân Văn. Cả
hai coi bộ sốt sắng lắm. Nhưng cái "thi trào" ấy còn nóng mãi hay là
sẽ nguội dần, đó là sự bí mật của lịch sử văn học tương lai ta không thể đoán
trước được" (Người Sơn Nhân).
Sau khi nhận định như vậy về sự phôi thai của thơ mới,
Lưu Trọng Lư tấn công thơ cũ, chửi thơ cũ, nhất là cái thứ thơ cũ được chế tạo
rất giả hiệu đang bày biện ở các cửa hàng. Nó là thứ thơ chẳng thơ tí nào: "Một hôm tôi vào một rạp hát nọ tôi không biết là người ta diễn vở tuồng
gì, nhưng khi tôi vào là nhằm khi một chú hề đương pha trò trên sân khấu. Chú
bông lơn thế nào mà thiên hạ cười như lười ươi nắc nẻ mà tôi thì... khóc không
được. Tôi tiu nghỉu ra đi, vẫn nghe tiếng cười vỡ rạp.
"Cái tiếng cười của rạp hát nọ đã chết rồi, vì
nó lạt lẽo, vô duyên quá. Ai bảo thi ca nước nhà với tiếng cười ấy chẳng cùng
chung một số phận. Ta thử tìm trong những cái vườn thơ của ta có gì là hoa thơm
cỏ lạ đâu nào? Trong những bài thơ xuất bản trên các báo ngày nay, dưới ký cái
biệt hiệu mỹ miều đó, rặt là những câu trần ngôn sáo ngữ, đúc đi luyện lại từ
xưa đến nay, không thêm bớt, không sứt mẻ. Các tay thợ kia chỉ chuyên một mặt
từ chương âm vận: lựa chữ cho kêu, tìm điển cho lạ, đem cái áo văn chương hoa
hòe sặc sỡ mà mặc cho những cái tình cảm yếu đuối, những cái tư tưởng tầm
thường.
"Cả một đám thanh niên rỗng tuếch, mềm nhũn, ươn
hèn đều tấp tểnh tập thói rung đùi, nặn câu, cũng khóc thời khóc thế, khóc gió
khóc giăng... Họ ca đi ca lại mà không thấy chán, những cái mà một Cống Quỳnh
hay một cô Xuân Hương đã quên nhãng. Họ gây lên một cái phong trào làm thơ rất
náo nhiệt, tưởng họ đưa được tâm hồn người ta lên phảng phất, tiêu diêu trên sự
nôm na chật hẹp hàng ngày, nào hay chỉ tổ làm cho người ta thêm long tai điếc
óc" (Một cuộc cải cách về thi ca, Người Sơn Nhân).
Một đoạn như đoạn trích trên đây cho ta thấy Lưu Trọng
Lư đã đi xa hơn Phan Khôi. Phan Khôi mới chỉ chê thơ cũ xưa kia và thú nhận
chính ông bất lực không làm nổi thứ thơ ấy nữa. Chứ Lưu Trọng Lư chẳng những
chửi thơ cũ mà chửi tùm lum tất cả các người đang làm thơ cũ lúc ấy. Phải chăng
vì vậy mà gây nên phản ứng mãnh liệt trong làng thơ cũ như các bạn thấy sau
này.
Sau cùng Lưu Trọng Lư đã bộc lộ tâm tình của thế hệ
trẻ đang khao khát cái gì mới mẻ, đang say sưa chờ đón những thay đổi, đến nỗi
ông dã ví người "thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm người
thi nhân của mình, như người con đi tìm mẹ". (Người Sơn Nhân):
"Ai cũng biết người thanh niên Việt Nam ngày nay
đã chán nản về những sự chính trị ồn ào mà vô hiệu, đã thất vọng về những cái
mộng tưởng mỹ miều mà giả dối. Người thanh niên Nam Việt ngày nay chỉ ao ước có
một điều, một điều mà thiết tha hơn trăm nghìn điều khác là được có một nhà thi
nhân hiểu thấu mình mà yên ủi mình, một bậc thiên tài lỗi lạc đi vào tận tâm
hồn của mình, đến những chỗ cùng sâu, mà vạch những cái kín nhiệm uất ức, rồi
đưa phả vào những cái âm điệu du dương cho mình được nhẹ nhàng thư thả. Một
việc khó khăn như vậy, tưởng các người Tùng, Tuy ngồi đếm câu, chọn chữ mà làm
được ư?
"Người thanh niên Nam Việt ngày nay đau đớn về
những cái đau đớn mà nhà thi nhân Nam Việt chỉ ngồi ca hát những nỗi khổ buồn
xưa. Còn gì chán bằng bắt ta buồn mãi cái buồn réo rắt, u uất của người cung nữ
đời Tần? Còn gì khổ bằng bắt ta sầu mãi cái sầu dằng dặc, âm thầm của nàng
chinh phụ?"
"Người thanh niên Nam Việt ngày nay đương bơ vơ
đi tìm người thi nhân của mình, như con đi tìm mẹ. Có ai thấy cái tình cảm thảm
thiết ấy không?" (Người Sơn Nhân).
Lưu Trọng Lư xuất bản "Người Sơn Nhân" vào
khoảng tháng 5 năm 1933. Cuộc chiến giữa thơ cũ và thơ mới bùng ra dữ dội từ
đấy. Hoài Thanh và Hoài Chân, trong bài tựa "Một thời đại trong thi ca", đã phác họa lịch sử thi ca trong vòng mười năm 1932 đến 1942, nhất là
đã ghi nhận cuộc chiến bùng ra giữa thơ cũ và thơ mới.
Các phe bênh thơ cũ
Sau đây là
phe phái bênh thơ cũ:
"Aout 1933, một tuần sau cuộc diễn thuyết thứ
nhất của cô Nguyễn Thị Kiêm, ông Tân Việt, bỉnh bút báo Công Luận, bênh vực thơ
cũ tại diễn đàn hội Khuyến học Saigon. Octobre 1933: Văn học tạp chí, Hà Nội,
chê các nhà thơ mới không biết cân nhắc chữ dùng.
"Novembre-décembre 1934: Tản Đà nói chuyện thơ
mới, thơ cũ trên Tiểu thuyết thứ bảy.
"Décembre 1934: Trên Văn học tạp chí ông Hoàng
Duy Từ phản đối bài diễn thuyết của ông Lưu Trọng Lư tại nhà học hội Quy Nhơn.
"9 Janvier 1935: Ông Nguyễn Văn Hanh diễn
thuyết tại hội Khuyến học Saigon.
"6 Janvier 1935: Ông Nguyễn Văn Hanh lại diễn
thuyết tại hội Khuyến học Saigon cùng hôm với cô Nguyễn Thị Kiêm (diễn thuyết
tranh luận).
"Avril 1935: Hai ông Tường Vân và Phi Vân xuất
bản tập thơ cũ "Những bông hoa trái mùa" ở Vinh.
"Juin 1935: Ông Tùng Lâm Lê Cương Phụng công
kích thơ mới trên Văn học tuần san, Saigon.
"Avril 1936: Ông Thái Phỉ công kích thơ mới
trên báo Tin Văn Hà Nội.
"Aout 1937: Ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết ở
hội Quảng Trị Huế.
"Juin 1941: Ông Huỳnh Thúc Kháng, sau nhiều lần
chỉ trích và mạt sát, nói quả quyết rằng thơ mới đã đến ngày mạt vận"
(Hoài Thanh, Thi Nhân Việt Nam, trang 22).
Các phe bênh thơ mới
Về phía các
nhà bênh thơ mới, Hoài Thanh ghi: "Từ hai tháng trước, hôm 26 Juillet
1933, một nữ sĩ có tài và có gan, cô Nguyễn Thị Kiêm, đã lên diễn đàn hội
Khuyến học Saigon hết sức tán dương thơ mới. Hội Khuyến học Saigon thành lập
đến bấy giờ đã 25 năm. Lần thứ nhất một bạn gái lên diễn đàn và cũng lần thứ
nhất có một cuộc diễn thuyết được đông người nghe như thế.
"Nối gót cô Nguyễn Thị Kiêm, còn nhiều diễn giả
cũng theo một mục đích: dành lấy phần thắng cho thơ mới.
"Juin 1934: Ông Lưu Trọng Lư diễn thuyết tại
nhà Học hội Quy Nhơn.
"Janvier 1935: Ông Đỗ Đình Vượng diễn thuyết
tại hội Trí Tri Hà Nội.
"Janvier 1935: Cô Nguyễn Thị Kiêm lại diễn
thuyết tại hội Khuyến học Saigon để tranh luận với ông Nguyễn Văn Hanh.
"Novembre 1935: Ông Vũ Đình Liên diễn thuyết
tại hội Trí Tri Nam Định.
"Février 1936: Ông Trương Tửu diễn thuyết về
thơ Bạch Nga tại hội Khai Trí Tiến Đức Hà Nội". (Thi Nhân Việt Nam trang
19).
Cứ kể bằng ấy mà thôi thì đã thấy Vụ án Thi ca đã là
rầm rộ, gay go, sôi nổi lắm. Rất tiếc rằng hầu hết các bài diễn văn đôi bên bài
bác nhau mà Hoài Thanh Hoài Chân nhắc đến trong bài "Một thời đại trong
thi ca", hiện lúc này tôi không có trong tay. Tôi mong các bạn sẽ bồi bổ
vào bằng việc đi tìm ở các thư viện ở tỉnh, ở các thư viện tư gia.
Nhưng dù thiếu chưa tìm ra các tài
liệu mà Hoài Thanh nhắc tới, nhưng một tài liệu tôi hiện có trong tay đã thấy
nhiều rồi và càng chứng tỏ chưa có một vấn đề nào, ngoài vấn đề truyện Kiều, đã
được văn giới sốt sắng tham gia góp ý kiến hay quyết liệt bênh vực cho bằng vấn
đề thơ Mới thơ Cũ.
Vụ Án Thơ Cũ - Thơ Mới
A- Mặt trận bênh thơ mới (1)
Phong Hóa bênh Thơ Mới
Tôi nghĩ gọi phe bênh thơ mới đả kích thơ cũ là một
mặt trận cũng không là quá đáng: chính bọn họ khai chiến, ngay cả lúc bên mà
họ cho là địch không có ai ra ứng chiến. Thực vậy, lai rai từ lâu trước với
Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trịnh Đình Rư và ngay cả chính Phan Khôi, nhưng
đến năm 1932 lại cũng chính cái ông Phan Khôi lai rai lúc đầu đã ra tay làm
cách mạng. Bỏ ngoài phần lớn các tài liệu mà Hoài Thanh và Hoài Chân đã trưng
ra ở đầu cuốn Thi Nhân Việt Nam của các ông vì chưa tìm ra, tôi xin phép trình
bày với các bạn theo tài liệu những sách vở báo chí mà tôi có trong tay. Tôi
mong các bạn hợp tác với tôi để bổ túc vào sau. Vậy cũng theo chỗ tôi biết hiện
nay thì, tuy báo Phụ Nữ Tân Văn đã là nơi xuất phát trận tuyến do Phan Khôi chỉ
huy, nhưng tham gia thật sự vào trận mạc lúc ban đầu này lại không phải Phụ Nữ
Tân Văn mà là tuần báo Phong Hóa của Tự Lực Văn Đoàn.
Ngay từ số 14, ra ngày 22-9-1932, Phong
Hóa, như các bạn đã thấy ở trên, đã có lời chửi thơ cũ và hô hào theo thơ mới: "Bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt
chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý
tưởng".
Thực ra, đòi cho thơ phải mới về tinh thần
tức mới ý tưởng thì đã có nhiều người nói từ lâu rồi, nhưng mới về văn thể thì
chỉ có từ Phan Khôi (Phụ Nữ Tân Văn số 122, 10-3-1932).
Tiếp sang Phong Hóa số 15 ngày 29-9-1932
nối bài "Sầu thảm nhiều rồi", Việt Sinh chẳng những chửi thơ cũ mà
chửi tất cả văn chương theo lối cũ là chỉ biết khóc, khóc một giọng rên ư ử từ
ngàn xưa: "Xã hội ta xưa nay vốn là một xã hội tiêu điều nhạt nhẽo. Hơn
một nghìn năm chịu đè nén dưới đạo Khổng đứng đắn nghiêm trang, hiểu lầm chăng,
nên chỉ khuôn con người ta vào vòng lễ phép chật hẹp vô cùng.
"Nói không dám nói mạnh, cười không
dám cười to, cái gì cũng như bó buộc, cằn cỗi già sói...
"Văn thơ của ta gần đây thực như
khóc như đầm đìa huyết lệ. Một chữ là một giọt nước mắt để ngậm ngùi cho "Đạm Thủy với Tố Tâm", xót thương cho "Lê Ảnh với Mộng Hà"... Ta hãy nghe ông Trần Tuấn Khải an ủi lòng người "Anh ơi! anh
ngồi xuống đây, anh xơi chén rượu này, anh nằm ngủ, anh ngủ cho say... kiếp trần
thong thả ngày là tiên!". Ấy thế mà chưa ai ngủ, chỉ riêng Trần Tuấn
Khải đó "phận kém duyên hèn" này mới tự mình du ngủ lấy mình đến
nay ông thật ngủ yên rồi mà ngọn bút quan hoài hẳn từ nay ráo mực. Ông Đặng
Trần Phất cũng đã yên giấc ngàn năm không bao giờ dậy nữa...
"Mà nào đã hết cái "thái sầu
muôn kiếp không tan được" của bà Tương Phố, cái "tân sầu"
khóc ve kêu hoa xoan rụng của ông Nguyễn Tiến Lãng đã làm rơi biết bao nước mắt
" (Phong Hóa số 15, 29-9-32).
Rồi cũng trên Phong Hóa số 15 ấy, nơi bài
" Quốc văn nó đi như sao? " với một giọng châm biếm tác giả khi thì
nhái văn Tản Đà, khi thì nhái văn Hoàng Tích Chu, đã viết một lối văn bông đùa
để chửi khéo tất cả các nhà thơ cũ: "Cho đến ngày nay thì biết bao nhiêu
văn nhân thi sĩ toàn loạt trứ danh nào Hiếu Nguyễn Khắc, nào Bi Hoàng Tăng, nào
Quỳnh Phạm, nào Dư Lê, nào Việt An họ Nguyễn, nào Tuấn Khải họ Trần kể có vài
muôn, nhớ tên sao viết vậy (Phỏng theo lối văn Đức Trần Hưng Đạo)... số văn sĩ
nhiêu phong như thế thì đáng lý ra quốc văn được bành trướng một cách cấp tốc
lắm mới phải! hà cố các áng văn tuyệt tác về vận văn, về tản văn vẫn hạn hữu?
Vì cứ tầm quan sát của bỉ nhân thì chỉ về vận văn mấy tập Kim Vân Kiều, Chinh
Phụ Ngâm, Cung Oán ngâm khúc, còn dáng đăng lục luận đề, chứ về tản văn thì thực
tịnh vô nhất quyển" (Phỏng theo văn Phạm Quỳnh)...
"Thiếu ý sáng kiến, lối văn mới ta
không có một. Thành thử không ai có "Xịch tin" riêng. Ta viết bá
láp: lăng nhăng. Hoặc ta theo người xưa: lòng thòng. Còn ý tưởng? Càng tệ
càng cũ không mấy khi dám bước ra ngoài lũy tre trí thức nước Lỗ (Khổng Mạnh)
và nước Sở (Lão Tử).
"Quốc văn muốn giàu. Phải có nhiều lối,
nhiều lối mới. Lối cũ nào không hợp thời: ta phích!
"Lại phải có tư tưởng mới!
"Mới lên!
"Nào chúng ta nhúng tay vào làm việc" (Phỏng theo lối văn Hoàng Tích Chu)
Từ đó, hầu như chẳng có số báo nào mà
Phong Hóa không dành giăm ba bài để chửi bới, trêu chọc tất cả các nhà văn, nhà
thơ cũ. Nhưng mũi dùi hình như chĩa thẳng vào lãnh tụ của thơ cũ là Tản Đà.
Phong Hóa, số 28, 30-12-1932, nơi bài
"Hoạ nguyên vận", đã mô tả Tản Đà là anh say rượu:
"Anh lên giọng rượu khuyên Phong Hóa
Sặc sụa hơi men khó ngửi quá
Đã dạy bao lần tai chẳng nghe
Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa!
Thân mềm chưa chắc đứng ngay đâu!
Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá!
Phong Hóa mà không hóa nổi anh,
Túy nhân quả thực là nan hóa"
Chẳng phải vô tình mà Phong Hóa đánh các nhà thơ cũ:
nó nằm trong chính sách văn học của Tự Lực Văn Đoàn mà chính sách của hội nhà
văn này là theo mới. Dĩ nhiên, Thơ Mới phải được Tự Lực Văn Đoàn tích cực bênh
vực. Như tôi đã nói gián tiếp ở phần trên, nơi bài "Lối Thơ Mới (P.H. số
31, tức số Xuân 1933), trong khi cho đăng bức thư Lưu Trọng Lư ca ngợi thơ mới,
Phong Hóa đã nhắc lại lập trường của họ đối với thơ mới, lập trường mà họ đã
bày tỏ từ số 14 ra ngày 22-9-1932: "Trong số 14, Phong Hóa đã bàn về những
chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của lối thơ Đường
luật... Nay bản báo nhận được bức thư của cô Liên Hương để gửi cho ông Phan
Khôi, nói về lối thơ điệu mới của ông, "ý
tưởng có nhiều chỗ giống với ý tưởng của bản báo. Vậy bản
báo vui lòng đăng lên mục văn học và sẽ lục đăng các bài thơ mới của các bạn
thi nhân" (Phong Hóa số 31, 25-1-1933).
Thế là từ đây, ngoài việc viết bài chửi
thơ cũ, bênh thơ mới, Phong Hóa còn chú trọng nhất đến việc đăng tải "thơ
mới của các bạn thi nhân" như họ vừa hứa.
Việt Sinh chê thơ cũ
Thực vậy, cùng ở nơi số 31, tức số Xuân này, Việt Sinh
và Nhất Linh đã chế diễu các ông làm thơ cũ:
Việt Sinh chế Nguyễn Tiến Lãng làm thơ
sáo, đánh cắp văn mà không biết: "Trong bài nhớ Tết năm ngoái "ở
sách" Xem tết", ông Lãng hồn thơ lai láng, cảm vì xuân nên "vụt nghĩ" ra hai câu thơ:
Bức tranh vân cẩu treo rồi xóa
Gánh nợ tang bồng trả lại vay!
"Vì ông Lãng "Vụt nghĩ" nhanh quá,
nên ông quên không nhớ đến hai câu thơ Vịnh nhà hát San nhiên năm xưa:
"Bức tranh vân cẩu treo rồi cuốn
"Một cuộc tang thương xóa lại bầy!
"Nếu chúng ta không nhầm thì hai câu dưới cũng
hơi hơi giống hai câu trên. Mà nếu chúng ta không nhầm thì cái "Vụt nghĩ
ra" của ông Lãng nó "cũng lâu lâu thì phải".
Sau Nguyễn Tiến Lãng thì đến Trần Tuấn
Khải là một nhà thơ lừng danh ở thế hệ trước, cũng bị Việt Sinh chửi là nhai
lại cái cũ rích thành ra đạo văn:
"Trong "Sách chơi xuân"
của Nam Ký, ông Á Nam vì Xuân làm bài thơ rất hay, rất mới:
"Một đời được mấy gang tay,
Một năm được mấy mươi ngày là xuân
Gặp xuân ta phải chơi xuân
Kẻo mai hạ tới thì xuân không chờ!"
"Hay tuyệt! Câu đầu, cả ý lẫn chữ là câu sáo
cũ.
"Câu thứ hai cũng hay như câu thứ nhất.
"Câu thứ ba cũng hay như câu thứ hai.
"Còn câu thứ tư không hay thì là của ông Á
Nam".
Còn Nhất Linh thì chế diễu thơ của Phương
Lang: "Vậy tôi chỉ nói đến bài thơ của ông Phương Lang và xin chép lại
bài thơ ấy ra đây lần nữa:
Mặt bẩn sao chưa lau?
Con ra lấy cái thau
Đổ nước mang khăn mặt
Mau!
"Thơ như thế sao gọi là thơ được. Đó chỉ là mấy
câu sai con mà có vần. Bài sai đầy tớ của Ôn Như Hầu cũng chỉ là mấy câu sai
đầy tớ mà có vần và đúng khuôn phép niêm luật. Nó cũng như thơ con cóc mà
thôi...
"Nhất Linh lại xin bắt chước ông
Phương Lang làm bài thơ như thế nữa:
LẠC QUAN
Trông vào nồi, cơm hết.
May còn miếng cháy ròn
Ăn với cá kho mặn,
Ngon!
MỪNG KHỎI BỆNH
Tay tôi mụn ghẻ đầy
May sao gặp thuốc hay
Bôi được một tuần lễ
Khỏi ngay!
"Chắc ông Công Luận phục hai bài thơ này lắm, vì theo ý ông tôi đã tránh được
những tiếng cao nhã (mots nobles) mà toàn dùng cái giọng thông thường (langage
vulgaire) đi thẳng một hơi trôi chảy vô cùng" (P.H. số 31).
Tứ Ly chế diễu Tản Đà
Sang số 34, 17-2-1933, Tứ Ly lại diễu Tản Đà trở lại:
"Ông Hiếu với thầy Nhan Hồi. Trước kia Tứ Ly ví ông Hiếu với anh Tề Ngã.
Nhưng nghĩ cho kỹ, có lẽ ông Hiếu giống thầy Nhan Hồi. Thầy Nhan Hồi đeo bầu,
ông Hiếu cũng đeo bầu. Bầu Thầy Nhan Hồi đựng nước. Bầu ông Hiếu cũng đựng
nước. Nước trong bầu Thầy Nhan Hồi không có men. Nước ông Hiếu lại có men. Cũng
vì thế, ông Hiếu giống thầy Nhan".
Nếu Tứ Ly viết văn xuôi nhạo Tản Đà thì
Vân Dương làm thơ, mà là thơ mới chửi xỏ Tản Đà, tuy không có gọi tên tuổi Tản
Đà:
"Ngày xuân ngồi ngắm hoa thủy tiên
Lòng thơ bỗng thấy sôi nổi lên
Bắt chước thi nhân ngồi bóp trán
Cố vịnh một bài "đứng ngoài hiên".
Ngoài hiên đứng chờ người bạn quen
Chờ mãi khống thấy dạ ưu phiền
Mây bay, gió thổi, lá bàng rụng
Thi nhân bất nguyện càng buồn thêm
Không thấy bạn quen, ôi! một thú
Thà vào trong nhà đắp chăn ngủ
Nghĩ vậy vừa toan quay lưng vào
Bỗng thấy một người nắm cái hũ,
Người đó ung dung đi lại gần
Cất giọng lè nhè "Kìa Dương quân,
Ngày tết sao không say túy lúy
Tội gì đứng đấy, rét cực thân".
Chưa kịp trả lời, khách lại nói:
"Người trần ai cũng có tội lỗi
Nên ngày hăm ba cúng ông Táo
Để ngài lập bô cho ít tội.
Chẳng biết ông có cúng gì không?
Riêng tôi chẳng dám để ngài giận
Một cái tầu bay, nghìn tờ công,
Gọi chút "vi thiền" dâng ngài nhận
Thế giới có lắm sự khốn nạn
Tôi đều liệt vào tờ cáo trạng
Đốt, nhờ ông Táo đem lên trời
Để Đức Ngọc Hoàng coi, xét đoán
Này, đứa ngông cuồng, ưa theo mới
Đứa đem quốc túy, riễu trên báo
Bọn gái đua nhau, mở, lập hội
Tôi đều liệt vào trong tờ cáo
Phải chăng lời tôi nói là đúng
Bác có cùng tôi cùng một bụng
Thôi, nói lâu rồi, tôi xin về,
Về nhà còn phải sửa cỗ cúng..."
Khách khom lưng chào, ung dung đi,
Tôi nhịn không được, bật cười khì
Khách ngoái cổ lại, trợn mắt quát:
- Ô hay Bác này giống người gì!"
Tứ Ly chế thơ cũ trong vở kịch "Tuồng cổ Tân thời"
Chẳng những viết văn xuôi chửi Tản Đà, làm thơ diễu
Tản Đà, Phong Hóa còn soạn kịch bêu xấu thi sĩ Núi Tản Sông Đà. Tứ Ly soạn vở
tuồng lấy tên là "Tuồng cổ tân thời" đăng liên tiếp trên năm số
Phong Hóa, tức các số 38 (17-3-1933), số 39 (26-3-1933), số 40 (31-3-19363), số
41 (7-4-1933), số 42 (14-4-1933).
Trong vở "Tuồng cổ tân thời"
này, các nhà văn nhà thơ cũ được trình bày như là tập họp nhau uống máu ăn thề
lập sào huyệt để đánh cướp và thanh toán bọn Phong Hóa Tự Lực Văn Đoàn. Chủ
trại là Hoàng Tăng Bí, tham mưu là Nguyễn Khắc Hiếu và Nguyễn Văn Vĩnh, lâu la
là các ông Nguyễn Tiến Lãng, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Trịnh Đình Rư, Lê
Công Đắc v.v... Còn bên địch là cả tụi Phong Hóa, nhất là Tứ Ly, Việt Sinh, Nhất
Linh, Nhát dao cạo... Cuộc tranh hùng được trình bầy cực gay cấn, sôi nổi, tàn
nhẫn nhưng cũng cực là trò hề, buồn cười, tố cáo cái ngây ngô, nhiều khi ngu
xuẩn của phe cũ.
Cuộc giao phong của phe cũ tuy nói thì
hăng lắm mà vào việc chưa gì đã mỗi anh chạy tháo thân, kết cục bị Phong Hóa đánh tan tành. Sự tan tành của đảng bí mật trong Tuồng cổ tân thời là sự tan
tành của lớp văn sĩ, thi sĩ cũ trước sức đi lên của bọn văn sĩ thi sĩ mới vậy.
Thực thế, Tứ Ly đã đặt vào miệng của các nhân vật cũ những lời lẽ ngây ngô, và
để vào người họ những cử động điên khùng, khiếp nhược. Tôi chỉ trích cho các
bạn nghe một vài đoạn Tứ Ly đặt vào miệng Tản Đà, vị tướng soái của làng thơ
cũ. Đây Tản Đà hét nhạc:
"Tản Đà thi sĩ, Khắc Hiếu nãi danh,
làm tham mưu lạm dự chút quyền, chỉ một việc rượu chàn quý tị, thơ sẵn có khối
tình bé tí, văn thời nào mộng lớn, mộng con, rượu càng say ngâm giọng càng ròn,
tiếng ngông đã vang trời dậy đất.
"Ngâm:
Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thời hư vậy, say thời cứ say
Đất say đất cũng lăn quay
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười
"TÁN: Rứa mà chừ, có tin chủ trại triệu đến
trướng tiền việc dữ lành chưa rõ căn nguyên, mau tới đó cho tường hắc bạch.
"Cười nói: Kha kha! hay chủ trại
nhớ tên lính cũ, phố hàng Bông bán đủ hạng văn, mà bây giờ cho uống cho ăn, để
cho được say lăn lóc (Tham mưu Hiếu cầm hũ ra)...
"Hữu tham mưu Hiếu rót rượu uống.
"TÁN: Say chuếnh choáng non xanh
còn chẳng thấy, thời mưu cao kế diệt biết đâu tìm, hay bây giờ bọn ta hóa ra
chim, theo giấc mộng bay về nơi tiên cảnh, hay bây giờ ta đem rượu cúc rủ quân
thù đặng chén say sưa, bao giờ cho say đứ say đừ, khi ấy sẽ ra tay trừ khứ!
"(Nói đến đây, hữu tham mưu túy lúy,
gục xuống bàn không còn biết gì nữa) (Hồi thứ thứ nhất số 38 17-3-1933).
Sang đến hồi thứ hai (Phong Hóa số 40,
31-3-1933), Tứ Ly cho Tản Đà ra nghênh chiến với bọn Phong Hóa: "Trong
thành Phong Hóa vẫn có tiếng cười đáp lại: Ha ha! (Tả tham mưu Hiếu a bạch: -
Thét -): Bớ a!
"Phong Hóa! Phong Hóa! Bọn ngươi
thực là láo quá, ta đây còn chẳng xá kể chi, ta say sưa nào có hại cái gì, mà
chẳng để tùy ta sở thích. Ta đây giống Lưu Linh thủa trước, đích thực là Lý
Bạch đời nay, trừ bọn mi, ta quyết ra tay, đem thành quách thu vào trong hũ.
"(Hát khách):
Tự cổ thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
(Tham mưu Hiếu mở hũ ra say lảo đảo)
"TÁN: Cái thành, cái quách nó ngả,
nó... với giềng, hỡi đồ mách qué.
"NGÂM:
Văn minh Đông Á trời thu sạch
Này lúc luân thường đảo ngược ru?" (Hồi thứ hai).
Cũng lại Tứ Ly trong mục "Từ nhỏ đến
lớn" (P.H. số 56, 21-7-1933), đã lấy số tử vi cho nhà thơ Tản Đà một cách
rất ư là "xỏ lá" nói theo tiếng Phan Khôi:
"Số ông Nguyễn Khắc Hiếu
"Lấy văn chương mà suy xét thì ông
ấm Hiếu đáng lẽ cũng được văn khúc, văn xương như ông cử Trạc, nhưng xét đến
đường công danh thì không có thể được: hoặc giả văn xương phùng
hình cho nên lao lực linh đinh, chịu làm ông ấm suốt đời chăng? Nếu thế thì di
hận biết thủa nào nguôi.
"Nhưng ông được sao tham lang thủ
mệnh, nên lòng hận của ông không lâu. Vì có câu rằng:
"Tham lam tính bẩm thung dung,
Say miền gái đẹp rượu nồng mùi ngon.
"Gái đẹp thì không có, hay có cũng không được
biết, chứ rượu nồng thì hẳn ông không còn chối vào đâu được!
"Nhưng thế cũng chưa đủ: ông còn là
người cả lo, ông lại còn là một nhà thi sĩ. Nếu vậy thì mệnh ông còn phải có
các sao bạch hổ, tang môn quan phù điếu khách, hoặc chính vị hoặc phụ chiếu. Vì rằng:
"Hổ tang chẳng việc mà lo.
"Quan phù điếu khách hay phô rộng nhời.
Rồi cũng nơi Phong Hóa số 56, 21-7-1933,
Tú Mỡ đã làm bài văn tế viếng báo An Nam tạp chí của Tản Đà vừa chết một cách,
theo tiếng nói của Phan Khôi, vừa xỏ lá vừa ba que.
Đây các bạn thử đọc bài văn tế đó. Thật là
tàn tệ.
"Ngày 12 tháng năm dư năm Quý Dậu:
"Ngu hữu là Phong Hóa tuần báo đứng
trước linh vị An Nam tạp chí, hậm hực mà than rằng:
- Đỉnh non Tản mây đen mù mịt, quấn băng tang lặng lẽ âu sầu (1),
- Giải sông Đà nước xám lờ đờ, cuộn dòng lệ rền rĩ buồn bã (2).
- Than như không mà khóc cũng như không,
- Im cũng giở mà nói ra cũng giở.
- Nhớ bạn xưa:
- Giấy trắng mực đen,
- Nhà không tiếng cả,
- Dượng tiểu nghiệp văn chương đất Bắc, kế sinh nhai khen đã cố công thay!
- Lấy đại danh tạp chí nước Nam, tuyên chủ nghĩa thực đà to truyện quá!
- Duy trì đạo đức, dương Đông kích Tây.
- Bồi bổ văn minh, dung Âu, hợp Á.
"Nhồi độc giả năm pho kinh cổ, nhai lại chi, hồ,
giả, dã, rõ cơ quan tiến thủ giật lùi,
"Ru quốc dân hay hũ thơ sầu, mơ màng tiên,
cuội, trời, răng, khiến niên thiếu liên miên bả lả.
"Ố kim Nệ cổ, đã từng phen nắm đuôi ngựa
Phan Khôi. Ghét cợt, chê cười, còn nhớ trận vuốt râu hùm Phong Hóa.
"Dằng dai như đỉa đói, chết đi sống lại
bao lần,
"Siêu bạt tựa vịt trời, nay đó mai đây mấy
thủa.
"Hơn bảy, tám năm lăn lóc, khi Hà Thành,
khi Nam Định ngoẻm trăm ấy, veo nghìn khác, than ôi, thua vẫn hoàn thua;
"Non ba mươi tháng vật vờ, hết Hàng lọng
đến Hàng khoai, thay dạng nọ, đổi hình kia, ngán nỗi khá không thấy khá.
"Vẻ vang thay nghìn rưởi số in,
"Hân hạnh lắm được một trăm độc giả.
"Cứ tưởng tạm ngơi ít bữa, lấy đà dưỡng
sức, cho qua thời kinh tế lung lay.
"Nào hay đánh giấc nghìn thu, bặt tiếng im
hơi, chẳng thoát nạn lý tài trắc trở.
"Hay là ngán trần tục, viết văn không kẻ
hiểu, luống uổng công phu.
"Cho nên thăng thiên đường, tái bản để
Trời xem cho cao phẩm giá.
"Than ôi!
"Cùng làng ngôn luận, tân cựu đôi đường,
Nửa kiếp kinh doanh, âm dương hai ngả,
Bâng khuâng luống xót xa lòng,
Tưởng nhớ thêm ngao ngán dạ,
Vừa độ nào ta đây bạn đó, điều phải chăng còn rũa bút luận bàn,
Mà bây giờ kẻ khuất người còn, thơ chua chát biết cùng ai xướng họa.
Thôi! chẳng may mỏng phận ngắn đời,
Song nay đã yên mồ đẹp mả.
Ngu hữu gọi là lễ mọn vi thiềng:
Rượu lậu một bầu, trứng tươi hai quả;
Mực nướng vài con, sò huyết một tá,
Bạn có khôn thiêng,
Xin về chứng quả.
Thượng hưởng.
TÚ MỠ
Tứ Ly chế thơ cũ trong hài kịch "Hội nghị Văn học"
Trong một hài kịch, một
hồi một cảnh, tiêu đề là "Hội Nghị văn học", diễn viên gồm có các
ông Huỳnh Thúc Kháng, Hoàng Tăng Bí, Dương Bá Trạc, Phạm Lê Bổng, Phan Khôi,
Nguyễn Công Tiểu, Lê Dư, Tùng Vân, tay hài hước Tứ Ly lại một lần nữa đưa các
nhà học giả ra làm trò cười. Mà nhân vật được chọn làm hề số một vẫn là vị
nguyên soái của làng thơ cũ, thi sĩ Tản Đà:
"Ông Nguyễn Khắc Hiếu (ngồi một xó,
mặt đỏ gay, từ nãy, chốc lát lại thò tay vào bọc lấy bầu hồ lô ra nốc, loạng
choạng đứng dậy): Thưa các ngài, Viện ta là Hàn lâm viện về... (giọng rượu) văn
chương, không phải về khoa học, ông tú Khôi lý luận xằng xì! (lau trán). Văn
chương là... là... (lưỡi líu dần) mâm gỏi... là... rượu. Cổ nhân có câu "hỏa nhập thi xuất", tưởng anh em ta nên uống rượu cho nhiều, rồi làm việc mới
có ích cho nước.
"Nhát dao cạo: Cho rượu...
"Ông Hiếu: - ... Tôi nói gì rồi
nhỉ... (cố nghĩ) À phải... nên nhắm rượu...(rút hũ rượu ra) mời các ngài, văn
chương là... thịt chim (say quá ông ngã gục xuống hũ rượu ngủ...)"
Như vậy, các bạn thấy, buổi đầu này, Phong
Hóa xem ra chưa bày tỏ lập trường minh bạch về thơ mới, thơ cũ mà thường chỉ
làm hai công việc: một là đem ra chế diễu các nhà thơ cũ, nhất là vị lãnh tụ
thơ cũ là Tản Đà được mô tả như là anh chàng hề điên điên khùng khùng; hai là
trịnh trọng cho đăng vào chỗ đích đáng trên hầu hết các số báo những bài thơ
mới của Tú Mỡ, của Thế Lữ, của Nhất Linh, của Tứ Ly, của Huy Thông v.v...
Nhưng vào khoảng cuối năm 1933 sang đầu
năm 1934, thì Phong Hóa đi hẳn vào con đường bênh vực, biện hộ cho thơ mới, phê
bình ca ngợi thơ mới. Nhị Linh trên Phong Hóa số 67 (6-10-1933) đã lên tiếng
chống báo Văn Học tạp chí để bênh thơ mới trong bài điểm báo:
"Một cuốn tạp chí văn học ngoài Bắc
nơi nổi tiếng là đất văn vật - mà luôn mấy kỳ nay toàn rút bài của báo khác làm
xã thuyết, thì cái giá trị của báo ấy cũng đáng ngờ lắm. Dẫu sao Văn Học tạp
chí đã lấy những ý tưởng của báo khác làm ý tưởng của mình, chịu những ý tưởng
ấy là đúng, là hay mà nêu lên trang đầu thì ta cũng cứ bình phẩm bài xã thuyết
kia như là của Văn Học tạp chí.
"Tác giả TR, GI bắt đầu:
"Thường thường các tay thợ thơ ta
bây giờ hay có cái khẩu khí: thơ cốt sao tứ cho cao, lời cho mạnh là được rồi,
chứ hơi nào mà ngồi đẽo từng chữ".
"Biết bao ý tưởng mâu thuẫn trong
một câu nhập đề.
"1. Dù ở Tây phương hay ở Đông
phương, trong làng thơ bao giờ cũng có hai hạng: một hạng là thi sĩ (poète),
hai là thợ thơ (versificateur). Các thi sĩ thì trước hết cốt tứ cho cao, lời
mạnh rồi mới nghĩ tới văn thể. Còn hạng thợ thơ thời chỉ hì hục ngồi gọt đẽo
đục, chạm từng câu, từng chữ như người thợ mộc hay người thợ khắc đục chạm
gỗ...
"2. Người đẽo từng chữ là công việc
một thi gia tầm thường. Đây có lẽ tác giả muốn nói cân nhắc cẩn thận từng chữ.
Song muốn có lời mạnh mà không chịu lựa từng chữ đích đáng thì mạnh sao được.
Muốn tả một sự hùng vĩ mà không chọn những chữ có ý nghĩa, có âm điệu hùng vĩ
thì tả sao nổi.
"Ta coi đó đủ biết tác giả viết chỉ
để viết chứ không có nghĩ ngợi gì".
Nhất Linh công kích thơ cũ
Cũng Nhất Linh, tức Nhị Linh, nơi Phong Hóa số 69,
20-10-1933, đã đi xa hơn bài công kích trên đây mà làm công việc so sánh thơ
mới với thơ cũ: thơ cũ chỉ cần chọn tiếng, chọn chữ cho thật đối, đọc cho kêu,
còn thơ mới cần chọn chữ cho hợp ý. Nhất Linh cho rằng xét chung, về điểm này,
thơ mới hơn hẳn thơ cũ. Ông viết bài "Sự cân nhắc chữ trong thơ cũ và thơ
mới".
"Trong mục "Cuộc điểm báo" số Trung Thu, Nhị Linh có nói đến bài xã thuyết của Văn Học tạp chí, mục
đích chỉ để công kích bọn thi sĩ mới, cho bọn này có tứ cao lời mạnh, nhưng
không biết cân nhắc chữ dùng.
"Văn Học tạp chí, một tờ báo văn học
mà như không muốn khuyến khích các trào lưu mới về văn học, vì chân thành thủ
cựu hay vì không có tài theo kịp bọn mới, nên mới tìm cách dìm bọn này đi. Có
biết đâu là làm như thế mà tự mình dìm mình.
"Đây tôi không muốn bàn xem thơ cũ
hay thơ mới hơn, nên làm thơ cũ hay nên làm thơ mới.
"Tôi chỉ xin nói ngược lại ông TR,
GI ở Văn Học: các nhà làm thơ mới cũng chọn chữ như các nhà làm thơ cũ. Nhà
làm thơ cũ cân nhắc từng chữ, cốt ý để câu văn được chỉnh, đọc lên nghe cho
kêu, có những chữ đối chọi một cách thần tình, khéo léo.
"Nhà làm thơ mới cân nhắc từng chữ
để đo đắn xem chữ nào diễn được cái cảm của mình, tả được cái ý của mình đúng
hơn hết, xem phải cần đến chữ nào, câu thơ mới có cái điệu khả dĩ diễn được sự
rung động của linh hồn mình một cách rõ rệt hơn.
"Đó, hai bên cùng chọn chữ cả: khác
nhau chỉ ở mục đích của sự kén chọn ấy.
"Xin lấy mấy câu thơ cũ nổi tiếng là
những câu tuyệt tác làm thí dụ:
Hai bàn tay trắng làm nên thế,
Một tấm lòng son ở với đời,...
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia.
"Cái hay của mấy câu thơ cũ này không phải ở ý
nghĩa mà ở những chữ: hai một, trắng son, thế đời, nhớ thương, nước nhà, lòng
miệng, cái con, quốc gia đối với nhau chan chát, hay ở chữ quốc (là con cuốc)
vận lên chữ nước; chữ gia (con gia gia) vận lên với chữ nhà mà chữ nhà lại đối
rất chỉnh với chữ nước. Kể về cách xếp chữ thì thật là một công trình tuyệt
sảo. Nhưng tiếc thay vì quá thiên về cách xếp cho tài tình nên quên mất cái hồn
của câu thơ.
"Trái lại nếu lấy câu thơ mới như:
"Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan...;
Mau! bay, trèo mau! đừng lần nữa!
Phải cao, cao nữa, xa, xa nữa...
Ái ân, bờ cỏ ôm chân trúc...
Rặng lau già xao xác tiếng reo khô...,
... Như khuyên van, như dìu dặt,
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may
"Ta sẽ thấy nhà làm thơ mới chọn chữ một cách
khác hẳn.
"Chữ vàng không cần phải đối với chữ
bạc, mà cốt tả cho thật đúng cái mầu của một đêm trăng trong rừng. Những chữ ái
ân, ôm, để tả sự dịu dàng sự âu yếm của cỏ cây, những chữ hắt hiu, hơi gió heo
may phần nhiều bắt đầu bằng chữ h để tả đúng được tiếng sáo.
"Vẫn biết rằng trong thơ cũ cũng có
chữ dùng đúng chỗ, diễn đúng ý, và trong thơ mới cũng nhiều câu chỉ kêu mà
không có hồn, song nói về toàn thể, thì khác nhau như trên.
Một bên chỉ cốt cân nhắc để tìm những chữ
nào đối chọi nhau, cho ý là phụ, một bên cố cân nhắc để tìm những chữ nào hợp
điệu thơ, diễn đúng ý".
Nguyễn Tường Bách công kích thơ cũ
Cũng như Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách, trong bài
"Thơ mới" (P.H. số 97, 11-5-1934) tuy có công kích một ít thơ mới
lố lăng, thơ thẩn, nhưng đã cực tán thơ mới, cho thơ mới chẳng những không lo
bị tiêu ma, trái lại đã xây dựng được cơ sở rất vững chắc mà còn cho thơ mới về
hầu hết các phương diện đã hơn hẳn thơ cũ: thành thực hơn, mạnh mẽ hơn, hợp tình
hợp cảnh hơn:
"Thơ mới đã bị nhiều người công
kích, cho là chỉ mới ở ngoài vỏ, còn bề trong vẫn cũ rích, và khó đọc khó nhớ
vì không có âm điệu âm luật gì cả.
"Lẽ tự nhiên là trong bao nhiêu bài
thơ mới thế nào cũng có bài chỉ nhặt nhạnh những ý tưởng sáo nhét vào một hình
thể mới. Nhưng đấy chỉ là một số ít. Ta có thể mang nhiều bài ra làm chứng rằng
thơ mới bây giờ đã xứng đáng với tên gọi.
"Thơ cũ chưa bao giờ tả được như thơ
mới, những cảnh vui buồn, âm thầm hay lộng lẫy, những nỗi yêu thương, nhớ tiếc
hay lo sợ, những tính tình trong lòng người, cao hơn nữa, những sự huyền bí
nhiệm mầu của đời người và của vũ trụ. Những bài thơ của ông Thế Lữ, đã tỏ ra
rằng thơ mới đã vượt qua những khuôn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một
con đường khác rộng rãi, tốt đẹp hơn nhiều.
"Nhưng thơ mới bị công kích nhất là
về phần hình thức. Vì nhiều người làm thơ không biết đặt câu cho có điệu, thành
ra bài thơ chỉ là những câu nói thường có vần thơ. Như thế, không thể gọi là
thơ được. Ta thử nghe mấy câu sau này:
(Trích trong Nhật Tân)
Như những hạt lệ của
người bạn lẻ loi,
Khóc chồng trong lúc đêm khuya lòng sôi
(Trong Bạn Trẻ)
... Anh khen cái nhăn
mặt của Tây Thi
Anh quên cơn cau mày của gái quê
Anh để ông dật khách là cao phẩm
Anh quên bác thợ cày bùn lấm...
(Trong Phụ Nữ Thời Đàm)
... Vừa rao vừa lạy mãi mới có người mua
Tiền chưa kịp trả xe chạy vù...
"Đọc lên nó lủng củng, chúc chắc, lại có vẻ ngớ
ngẩn, tuy rằng ý tưởng cũng mới.
"Thơ mới hay thơ cũ cũng cần phải có
điệu, chỉ khác là làm thơ mới phải tìm lấy điệu chứ không theo khuôn mẫu sẵn.
Như thế tìm được điệu cũng khó, nhất là khi dùng câu không có hạn chữ.
"Dùng những câu tám hay chín chữ để
đặt điệu hơn cả, tuỳ ý mình muốn dùng vần liền (rimes plates) hay vần cách
(rimes croisées). Trong một câu lại phải biết đặt những chỗ nghỉ (coupes,
césures) cho điệu lên xuống.
Mấy câu thơ của Thế Lữ để làm mẫu:
VẦN LIỀN:
Trời xanh dịu, sợi mây
hồng vơ vẩn
Trên bờ sông, cô em đương thơ thẩn
Đứng lặng nhìn, mặt nước chiếc thuyền trôi.
Với ánh chiều thu, bầm tím chân trời...
Chính vì, hồn thu vi vút ban chiều
Đã nhắc cho cô, thấy
lòng cô yêu
VẦN CÁCH (BÀI HOÀI XUÂN):
Tiếng ve ran, trong
bóng cây râm mát
Giọng chim khuyên, ca ánh sáng mặt trời
Gió nồng reo trên hồ sen rào rạt
Mùa Xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!
Tiếng vi vút như khuyên van như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may.
"Đọc những câu thơ trên đủ biết rằng thơ mới đã
có điệu cũng ngâm được, du dương, êm ái không khác gì thơ cũ. Mà âm điệu lại có
thể thay đổi theo những cảnh, những tính tình êm đềm hay dữ dội trong bài thơ.
Trong bài "Con Hổ" của Thế Lữ có những câu rất mạnh mẽ:
... Ta sống mãi trong tình thương, nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa,
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng!...
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan,
"Những ý tưởng ấy, nếu diễn ra bằng thể thất
ngôn hay là lục bát sẽ thấy yếu ớt ngay.
"Hai bài thơ cũ chỉ khác nhau về ý
tưởng, nhưng bài thơ mới vừa khác nhau ở tinh thần lại vừa ở hình thức nữa.
"Người ta đã có thể làm một bài
"thơ mới" nhưng ý tưởng cũ hay một bài "thơ cũ", nhưng
ý tưởng mới (xem bài: Lời than thở của nàng Mỹ thuật, Tiếng sáo Thiên thai của
Thế Lữ):
"Tuy theo luật thơ cũ, nhưng chỗ nghỉ
và chỗ xuống câu khác hẳn trong thơ cũ:
Em thấy chàng yêu mới nhớ ra
Tên em là Đẹp, bạn em là
Bao nhiêu cảnh tượng muôn hình sắc
Ánh sáng, non sông, mây, cỏ, hoa...
Trời cao xanh ngắt! Ơ kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai.
"Nhưng hay hơn cả là đạt diễn những tư tưởng mới
vào một hình thể mới.
"Thơ mới chắc sẽ đưa văn nghệ nước
ta trên con đường tương lai rực rỡ, vì hiện nay đã sản xuất được nhiều tác phẩm
có giá trị!"
Tứ Ly tính sổ văn học để ca ngợi thơ mới
Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn đã là theo mới, mới trăm
phần trăm, thì dĩ nhiên Phong Hóa phải ủng hộ thơ mới triệt để và phải coi đó
là một bổn phận nữa là khác. Thực vậy, Phong Hóa đã tranh đấu cho Thơ Mới và
sau hơn hai năm tranh đấu cho thơ mới, Phong Hóa đã tự kể công lao mình. Đây
lời Tứ Ly tính sổ văn học năm 1934 đã có mấy lời về thơ mới như sau, đăng Phong
Hóa số 134, 30-1-1935, nơi bài "Thơ mới và quần áo mới".
"Về phương diện văn chương và
mỹ thuật, thì trong năm vừa qua, Phong Hóa gây nên hai phong trào mới: phong
trào kiểu áo mới và phong trào thơ mới.
"Thơ mới bắt đầu có từ bài "Tình già" của ông Phan Khôi. Nhưng vì thiếu người bênh vực có can đảm,
thiếu thi sĩ mới có kiên chí, nên độ ấy không ai ngó tới nó nữa. Đến nay, thơ
mới nghiễm nhiên chiếm một địa vị quan trọng trong làng văn: thi sĩ làm thơ
mới rất nhiều, tương lai của thơ mới rất là rực rỡ. Tuy vậy, các nhà thi sĩ lối
xưa vẫn nhất định rằng chỉ có thơ làm theo lối xưa là thơ, còn mới không phải
là thơ, tuy nó vẫn là thơ.
"Phong trào mặt áo tân thời cũng
bồng bột lên như phong trào thơ mới. Kẻ công kích, người khuyến khích. Những áo
tân thời kể cũng đã làm tốn mực, giấy cho các nhà văn. Dẫu sao, có thay đổi mới
có tiến bộ. Mỹ thuật bắt họ phải ăn vận mỗi người mỗi khác, nhưng nền luân lý
chặt chẽ của Tống nho lại bắt họ phải ăn vận giống nhau: để lệch một bên ngôi
cũng đã là phạm một tội nặng, huống hồ lại đổi cả kiểu một cái quần! Tội thật
đáng đầy chung thân... Đến bây giờ chính những bà những cô lên giọng đạo đức ấy
vội vàng đi cạo răng, đi may áo mới... Ý chừng họ lấy làm sung sướng được chung
thân... chung thân với áo quần kiểu mới.
"Mong rằng sau hai thứ mới này còn
có nhiều thứ khác cần phải mới mà năm trước chưa phải lúc có thể thực hiện
được".
Ngộ Không phê bình Nguyễn Văn Hanh
Đàng khác hình như từ trước tới nay Tự Lực Văn Đoàn có
chửi thơ cũ, cũng chửi bâng quơ, chửi trống không vậy, chứ chưa có ra mặt bắt
bẻ đích danh ai bằng những bài tranh luận. Nhưng từ đầu năm 1935, thì Tự Lực
Văn Đoàn đã tiến thêm một bước. Ngộ Không đã ra mặt bắt bẻ Nguyễn Văn Hanh từng
điểm một bài diễn thuyết mà ông này đọc ngày 9 tháng 1 năm 1935 tại hội quán
S.A.M.I.P.I.C., Saigon.
Ông Nguyễn Văn Hanh đưa ra năm lý do để
bảo thơ cũ hay hơn thơ mới. Trước khi vào việc bác bỏ năm cái lý của ông Hanh
và đưa ra năm cái lý là thơ mới hay hơn thơ cũ, Tứ Ly đã dùng cái ngón châm
biếm để vẽ ra một Nguyễn Văn hanh dốt đặc mà lại kênh kiệu muốn học làm sang.
Các bạn nhận thấy tất cả sự cay cú của Tứ Ly nơi bài "Một cuộc diễn
thuyết ở Saigon: Vấn đề Thơ Mới... và Thơ Cũ (P.H. số 135, 8-2-1935).
"Tối thứ tư, 9 janvier vừa rồi, tại
hội quán S.A.M.I.P.I.C. đường Galliéni, ông Nguyễn Văn Hanh diễn thuyết về thơ
cũ và thơ mới bằng tiếng Nam, người ta tới đông lắm, vì hai năm nay mới lại có
diễn thuyết bằng tiếng Nam. Thấy báo "Tân Văn" giới thiệu ông Hanh
là một nhà giáo "có học vấn" và đã từng có "thịnh danh trong
văn giới" nên Ngộ Không tất tả chạy tới S.A.M.I.P.I.C. thì thấy quả nhiên
là ông Hanh "có học vấn": ông tỏ cho bà con cái học vấn của ông
bằng những tiếng Pháp chen luôn luôn vào bài diễn thuyết tiếng Nam, tuy rằng
những tiếng Nam ông dùng, bà con đều hiểu cả.
"Nhưng ông không cần, cứ mỗi tiếng
Nam ông lại dịch ra bằng một tiếng Pháp, ngộ nhỡ người Nam không ai hiểu tiếng
Nam chăng. Chu đáo lắm vậy!
"Ông nói: "Một bài thơ là một
cõi thế giới, "univers"... "thơ không nên coi là một món chơi
phiếm" bagatelle"... "thuyết nghệ thuật vì nghệ thuật "l'art pour l'art"..trụy lạc; "dégénéré"... những tay thợ
"les artistes" (tuy artiste không phải là tay thợ, nhưng có hề gì
cái đó)... "những cái hay ở ngoài và những cái hay ở trong, beauté
extérieure et beauté intérieure"... "tiếng ta là tiếng độc âm,
"monosyllabique" còn tiếng Pháp là tiếng liên âm, "polysyllabique", chữ tây không có dấu, "accents"... "thơ ta không nên
làm "enjambement" ... vân vân.
"Mỗi lúc ông đọc nhầm, ông vội chữa
ngay bằng một tiếng "à, bạc đồng!" rất cứng cỏi. Có lúc ông đọc
một câu rất dài bằng tiếng Nam, rồi tiếp ngay một câu rất dài bằng tiếng Pháp: "c'est le langage... " làm cho ai nấy giật mình tưởng ông sẽ tiện
mồm diễn phăng ngay bằng tiếng Pháp thời nguy to.
"Nhưng may sao ông hãm phanh kịp,
nên ai nấy mới hoàn hồn. Ông bảo đó là câu văn của một thi sĩ người Anh. Nhưng
ông đọc bằng tiếng Pháp? giá ông đọc luôn bằng tiếng Ăng lê có phải càng tỏ
cái học vấn của ông một cách hùng hồn không. Ông còn có chỗ hở, tuy rằng ông đã
có "thịnh văn trong văn giới" theo lời báo Tân Văn...
"Chưa xét đến nội dung bài diễn văn,
cứ nghe ông nói đã thấy vui tai, vì tiếng Pháp, tiếng Nam chen lẫn, thật là: "nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau". Đến nỗi người ta có thể
nói là ông Hanh diễn thuyết bằng tiếng Pháp, chen lẫn tiếng Nam cũng được.
"Người ta chỉ tiếc rằng có một vài
chữ (rất hiếm) ông không dịch ra tiếng Pháp như chữ "tôi" chẳng
hạn. Giá ông cứ dịch là "moa" có phải lý thú bao nhiêu: "Hôm
nay moa nói chuyện về thơ với các toa, moa lấy làm bố cu hân hạnh honoré, vân
vân et coetera".
"... Nhưng ông vẫn chê thơ mới. Lạ
nhất là ông đọc mấy bài thơ cũ, thất ngôn, ông nhất định bảo đó là thơ mới, rồi
ông nói: "Tôi không thấy mới ở chỗ nào". Thế thì còn ai cãi được
nữa. Ông lại có cái nhã nhặn đọc mấy câu thơ của cô Nguyễn Thị Kiêm, vừa đọc,
vừa nhìn vào tận mặt cô Kiêm ngồi trước mặt ông, rồi ông cười một cách ranh
mãnh mà hỏi cô Kiêm: "Thơ của cô như thế thì mới ở chỗ nào, mà hay ở chỗ
nào?". Ông nghiễm nhiên đóng vai ông giáo "chuy" học trò của
mình, ông lấy thế làm khoái trí lắm. Tuy vậy, ông còn chưa cho là nhã nhặn lắm,
ông còn muốn nhã nhặn hơn nữa kia, ông nói một cách tinh quái: "Của cô
dài lắm, đây là tôi bỏ đầu, bỏ đuôi, chỉ lấy quãng giữa thôi "... và
"cô còn cứng đấy, tuy thơ của cô có chữ "xìu dégonflée". Chắc
hẳn tối hôm ấy, ông về ngủ ngon giấc lắm vì đã rất nhã nhặn với thính giả, và
tự cho mình là hóm hỉnh hơn người, tuy cô Kiêm có cự cho ông mấy câu làm ông
lúng túng một lúc lâu và chối bay chối biến: "Không, không, tôi có công
kích cô đâu, tôi, tôi...tôi có mạt sát cô đâu!"
"CÁI ĐINH VÀ... CÁI ROI"
"Nhưng lúng
túng nhất là khi ông đánh rơi một cái đinh! Vâng, ông đánh rơi một cái đinh,
loay hoay mãi không tìm thấy. Thính giả cũng có mấy ông đứng dậy quanh co tìm
hộ ông hồi lâu mà không thấy. Ông tìm đinh để đóng hai bức tranh lên bảng đen,
hai bức tranh dùng để cắt nghĩa thế nào là loi de symétrie (A) và loi
d'alternance (B):
"Ông nhổ lên, cắm xuống trong nửa giờ đồng hồ
không treo xong hai bức tranh, rồi ông lúng túng mãi với cái đinh đánh rơi.
Mất mười phút đồng hồ mới xong cuộc tìm
đinh đóng tranh. Xong hai tay nắm chặt một cây gậy tre, ông chỉ lên hình A bảo
đó là symétrie, lên hình B bảo đó là alternance. Ông kết luận hình B đẹp hơn
hình A, vì ông có một người bạn "học mathématiques supérieures" bảo
ông như vậy. Xem chừng thính giả không tin mấy, ông tức mình hỏi phăng ngay ông
Hồ Văn Lái họa sĩ, ngồi ngay đó: "Ông Hồ Văn Lái là nhà mỹ thuật hẳn ông
đồng ý với tôi rằng hình B đẹp hơn A?" Ông Lái gật đầu thế là ông Hanh
đắc chí lắm, vênh mặt lên nói với thính giả, rồi bỉu môi mà leo lên diễn đàn.
"Thính giả ngơ ngác nhìn nhau có ý
hỏi: hai bức tranh đó có liên hệ gì với thơ? hay có bao hàm ý nghĩa gì sâu xa? Nhưng chẳng ai hiểu hết.
"Sau mới vỡ lẽ là ông định cắt nghĩa
cái hay của luật Bằng Trắc của thơ Đường.
"Nếu bằng bằng bằng bằng bằng... thì
không hay, nếu trắc trắc trắc trắc trắc... cũng không hay phải BBTTTBB thì mới
hay. À ra thế! Chỉ có thế thôi mà ông phải cầm lăm lăm cái gậy tre ở tay gõ
mãi lên bảng đen như nhà giáo dạy học, làm cho thính giả cứ tưởng mình là học
trò, mà nơm nớp sợ cái roi vô tình của ông. Nhất là cô Kiêm. Biết đâu lúc cáu
tiết, ông lại không nện cho vài roi, theo thói quen của nhà nghề.
"Cái roi của ông từ đấy không rời
tay ông ra. Khi ông lên ghế ngồi, vẫn để cái roi trên bàn, và luôn tay mân mê
đến nó một cách khoái lắm.
"Đồng hồ đánh mười tiếng mà ông
không cho học trò ra chơi, à quên, ông không cho thính giả về ngủ!
Ông Hanh bênh thơ cũ một cách rõ rệt, tuy
ông nói là "Không nghịch với thơ mới". Cứ kể ông đã có công trình
vất vả chép đầy hai cái bảng đen hai bên, nào những bài thơ cũ của Yên Đổ, nào
những TTBBBTTB, BBTTTBB,BBTTBBT, TTBBTTB...
"Trước hết ông đậy kín bằng mấy tờ
giấy nhật trình, sau mới long trọng bóc ra để giảng nghĩa cho thính giả, ông
thích chí lắm, hình như đã cho chúng ta biết một cái kỳ quan.
"Tóm tắt đại ý của ông, ông cho thơ
cũ là hay, vì có những đặt điểm sau này:
"1. - Câu trước câu sau đối chọi
nhau, đọc câu trên cố ý đợi chữ đối ở câu dưới, khi đọc đến chữ mình đương đợi
thì sướng lắm. Cũng như trông thấy một cái tai, rồi lại trông thấy một cái tai
nữa thì sướng lắm. Vả khi trông thấy một cái mũi, có lẽ nếu thấy một cái mũi
thứ hai ở sau gáy thì chắc cũng sướng lắm. Chắc ông Hanh này thích cửa sổ giả
(fausses fenêtres) như ông Pascal đã nói.
"2. - Thơ cũ có những lối yết hậu,
chiết hạ... mà thơ mới không thể có được. Những câu thơ tuyệt cú mà ông thích là:
"Ước gì ta được mà ta để...
"Ta để đem về để nữa ta..."
"Ông thích nhất là những chỗ có chấm lửng (...) hóm lắm!
"3. - Thơ cũ có lề lối, có khuôn khổ. Còn thơ mới chẳng có lề
lối, khuôn khổ gì cả thì hay làm sao được. Vậy con chim phải ở trong lồng mới
đẹp, nếu bay lượn không trung thì còn có lề lối gì nữa, đẹp sao được.
"4. - Thơ cũ
theo luật bằng trắc, nên mới có âm hưởng nhịp nhàng, chứ thơ mới có theo luật
nào đâu, ai muốn viết sao thì viết. Nói đến âm hưởng, ông đọc câu thơ của cụ
Nguyễn Du:
"Tiếng mau
rập rập như trời đổ mưa". Cụ Nguyễn Du có nghe thấy cái âm hưởng của hai
chữ "rập rập" cũng phải đến bực tức mà gắt:
"- Đọc láo
đến thế thì thôi!
"5. - Lẽ thứ
năm ông yêu thơ cũ... vì... vì lẽ gì không biết. Ông liền hỏi thính giả: "Những bài thơ cũ còn sống đến giờ là vì lẽ gì? Nếu không hay sao còn sống mãi
đến tận bây giờ? Rồi ông đứng dậy, không kịp để thính giả hỏi lại ông: "Thế cái búi tóc của đàn ông nếu không hay ho, sao còn lủng lẳng mãi tới bây giờ
trên đầu Lý Toét? Vậy nó hay vì cái gì?
"ÔNG HANH CŨNG LÀ THI SĨ"
"Không những ông là thi sĩ, mà ông
lại là thi sĩ của phái thơ mới nữa mới kỳ. Nói đáng tội, ông có làm hai câu thơ
mới thật, song làm để chế riễu thơ mới. Nhân công kích cái lối câu trên rớt
xuống câu dưới (enjambement) ông liền đọc hai câu thơ của ông làm và viết sẵn
trong bảng đen:
"Tôi đi đầu trần. Vì tôi không
"Biết trên đầu có ai"
"Rồi ông chế nhạo lối rớt chữ của thơ mới. Kỳ thực, ông không hiểu "enjambement" là gì cả. Và hai câu thơ của ông, ngớ ngẩn đã đành là ngớ
ngẩn, mà chẳng chế riễu được ai hết. Nhất là ông thích rung đùi lúc ngâm thơ,
nên ông lại càng là thi sĩ nữa. Ông có hứa sẽ nói tại sao khi ngâm thơ lại rung
đùi, nhưng trước khi kết luận, ông tự hỏi: "Tại sao rung đùi?" Rồi
chính ông cũng không biết tại sao cả, nên ông lại thôi không cắt nghĩa cho ai
biết nữa.
"CÁCH LẬP NGÔN CỦA ÔNG HANH"
"Ông chê thơ
mới mà ông chỉ đọc những câu ngớ ngẩn của những thi sĩ lơ mơ. Mà ông bênh thơ
cũ, ông lại đọc những câu thơ vô nghĩa của Thượng tân Thị, và đôi câu đối viếng
ông toàn quyền Pasquier cũng của Thượng tân Thị. Thành thử ông cũng không che
chở cho thơ cũ được tí nào.
"Một điều
nhầm to của ông là ông tưởng lầm rằng người ta thích làm thơ, là vì không có lề
lối bắt buộc, nên dễ làm. Ông khoái chí lắm, kêu lớn lên, làm ai nấy đương lim
dim ngủ đều giật mình tỉnh dậy: "À, tôi biết rồi, làm thơ cũ có khuôn
khổ, lề lối, nên khó, còn thơ mới không có lề lối dễ làm, nên họ thích làm thơ
mới...
"NHƯNG ÔNG HANH LẠI LÀ TRI KỶ CỦA PHONG HÓA"
"Và nhất là
tri kỷ của Tú Mỡ và Lê Ta (Tất nhiên là ông không đội trời chung với Thế Lữ).
Ông đọc đến tên báo Phong Hóa luôn, hân hạnh cho báo Phong Hóa lắm thay mà cũng
ân hận cho Thế Lữ lắm thay vì ông thích văn của Lê Ta, đọc thơ của Tú Mỡ, chứ
không hề nói đến Thế Lữ.
"Ông yêu Tú
Mỡ, vì Tú Mỡ làm thơ... lối cũ, như bài "Văn sách bà nghị khuyên ông nghị". Ông đọc trọn bài cho thính giả. Ông yêu Lê Ta vì... Lê Ta công kích thơ
mới của Nguyễn Vỹ, ông đọc từng đoạn văn rất dài của Lê Ta, lấy làm yêu mến
lắm. Nhưng ông yêu ông nhất, vì ông đã công kích thơ mới, lối thơ yêu của Phong
Hóa.
"Thành thử
đối với ông, P.H. không biết nên cám ơn hay nên trách. Cứ kể trong cuộc diễn
thuyết này, ông nói đến P.H. rất nhiều và giới thiệu Tú Mỡ với thính giả, cũng
là tri kỷ lắm vậy.
"CÒN CÔ KIÊM?"
"Cô Nguyễn
Thị Kiêm bất bình vì ông Hanh đã mạt sát cô, và đã trái ý cô về vấn đề "mới cũ", nên cô đứng dậy nói với thính giả sẽ tiếp câu chuyện ấy bằng một
bài diễn thuyết tối thứ tư sau (16-1) cũng ở S.A.M.I.P.I.C.
"Chắc hẳn
tối hôm đó, ta sẽ được xem cô Kiêm mắng lại ông Hanh như ông Hanh đã mắng cô
ngày hôm nay, chắc là kịch liệt lắm.
"Rồi ông
Hanh lại diễn thuyết cốt để mắng lại cô Kiêm, rồi cứ như thế mãi cho đến ngày
nào cả hai người hóa đá có lẽ cũng vẫn còn mắng nhau".
Ngộ Không tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Sau khi thuật lại cuộc diễn thuyết của Nguyễn Văn Hanh
công kích thơ mới và công kích đích danh cô Nguyễn Thị Kiêm, Phong Hóa có loan
báo là cô Nguyễn Thị Kiêm sẽ có bài trả lời vào tuần sau. Cô Kiêm đã giữ lời
hứa. Ta sẽ nói đến bài diễn thuyết của cô Kiêm khi nói đến Phụ Nữ tân văn với
vấn đề thơ mới. Đây ta chỉ thuật lại bầu không khí rất hài hước của buổi nói
truyện của cô Kiêm do Ngộ Không, đặc phái viên của Phong Hóa tường thuật. Theo
lời Ngộ Không thuật như các bạn sẽ đọc sau dây, thì hôm cô Kiêm nói truyện,
Nguyễn Văn Hanh đã huy động lâu la đến để yểm trợ ông ta hầu phá rối cuộc nói
chuyện của cô Kiêm. Đây là một tài liệu rất đặc thù, nó tố cáo sự hăng say của
hai phe cũ mới, coi như là một cuộc ganh đua canh bạc chứ không phải chỉ là một
cuộc thảo luận về thơ là cái gì mông lung mơ mộng. Bài của Ngộ Không thật linh
động và hài hước hết chỗ nói, nó cho ta thấy thương cô Kiêm, thương thơ mới và
khinh ông Hanh làm trò "mất dậy" và mất cảm tình với thơ cũ.
"Đúng như tối hậu ngôn của cô Kiêm
quả nhiên tối thứ tư 16-1, hội quán Samipic biến thành một chiến trường rất náo
nhiệt, hay nói cho đúng hơn, diễn đàn ở Samipic hôm đó đã thành ra một lôi đài
thí võ. Người đi nghe thì ít, người đi coi rất đông, mà người trợ chiến lại
đông hơn hết. Chưa đến 9 giờ, trong gian phòng ẩm thấp dưới nhà hầm của hội
Samipic đã đông chặt những người, không còn chỗ nào lách chân, mà những cái mũi
của thính giả ngơ ngác không biết đặt đâu để thở được một chút không khí. Không
khí trong hầm lúc đó nồng những hơi người và đầy những sát khí.
"Cuộc tranh đấu bắt đầu. Cô Kiêm,
sau mấy lời giới thiệu của bác sĩ Trần Văn Đôn, lên diễn đàn. Cô đứng trước bàn
trong 10 phút đồng hồ, mà chưa nói gì được.
"Ngay hàng ghế thứ nhất, ông Nguyễn
Văn Hanh ngồi lăm le chỉ chực vọt lên diễn đàn tuy không phải là phiên ông diễn
thuyết. Tay xách một cái cặp da, đựng những giấy má gì không biết, làm cho mấy
người chưa trả xong tiền nhà, tiền điện, cứ giật mình thon thót. Mấy ông bạn
ngồi cạnh ông và xun xoe khắp mấy góc phòng đều mắm môi mắm lợi, xắn tay áo, để
cố ý trấn tĩnh và cũng để nạt cô Kiêm nữa.
"Cô Kiêm biết mình dại, không sớm đề
phòng thuê một ít người...trợ lực... Nhưng đã chót lên đến thì thôi cũng phải
nói qua loa cho xong truyện. Thành ra cô bênh vực thơ mới không được hùng hồn
lắm, và công kích ông Hanh cũng rất là nhè nhẹ.
"Ngay bên cạnh chỗ tôi ngồi, có một
ông to béo, ý chừng là phe đảng ông Hanh. Mỗi lần cô Kiêm đọc một câu thơ mới
của Thế Lữ, hay của Tường Bách hay của một thi sĩ nào ở báo Phong Hóa, thì ông
rún vai bỉu ra một cái môi rất dài và "ứ ừ" một tiếng dài gần bằng
cái môi ấy. Tiếng ứ ừ của ông ta được những cái mồm đồng đảng họa theo làm cho
cô Kiêm xịu hẳn nét mặt lại và ông Hanh thì nở phồng hai lỗ mũi vốn nó cũng
không nhỏ gì cho lắm. Cái ông to béo, có lúc nóng nảy dạng hai cái đùi u những
thịt ra, như người đứng tấn một bài võ tầu làm cho mình suýt nữa bắn xuống đất,
vì... thiếu chỗ ngồi, tôi chỉ được ghé một mẩu ghế của ông và một mẩu ghế nữa
của ông bạn nhỏ người. Cũng may ông ta chỉ đứng vậy thôi chứ không đi bài võ
tầu nào, nên không đến nỗi thành án mạng.
"Cái không khí lúc bấy giờ không
phải là không khí một phòng diễn thuyết mà rõ là không khí một đài thí võ.
Trong khi cô Kiêm khua môi trên võ đàn, như nàng Sử Cẩm Bình (trong truyện Anh
hùng náo) múa võ trên lôi đài, thì ở dưới bọn đi xem, phe đảng ông Hanh cũng xắn
áo, xắn quần, mắm môi mắm lợi như chư anh hùng, phe đảng của Lý Quảng.
"Cái không khí ấy đè nén một cách
nặng nề, mãi cho đến khi cô Kiêm nói xong. Cô vừa đứng dậy thì ông Hanh lấy hơi
vọt lên... lôi đài.
"Xưa nay ông giáo Hanh trước mặt học
trò vẫn phải giữ dè lời nói, thì tội gì hôm đó được dịp nói nhảm lại không nói.
Người ta phải tùy từng lúc mà lịch sự, chứ lúc nào cũng lịch sự, cũng nhã nhặn
thì còn có nghĩa lý gì. Vì thế, nên ông Hanh hôm đó quyết trút hết những cái
lịch sự, nhã nhặn để lộ hẳn chân tướng trên diễn đàn một lần nữa, để tỏ cho bà
con biết rằng nếu con em ít giáo dục thì về sau ăn nói như vậy.
"Ông Hanh leo lên diễn đàn, hỏi
thính giả:
- Anh em chị em có muốn cho tôi nói không?
"Những tay trợ chiến của ông đều trả
lời:
"Có, có
"Tức thì ông Hanh toét một cái miệng
rất tình và rất rộng, cười mà trả lời cô Kiêm một cách đắc chí lắm. Ông gọi cô
Kiêm là "Nữ thi sĩ" rồi ông quay lại thính giả cười một cách ranh
mãnh... Những người trợ chiến lại vỗ tay và cười rất hùng hổ.
"Ông Hanh nói: "Tôi, Nguyễn
Văn Hanh, cô, Nguyễn Thị Kiêm, hay là cô, Nguyễn Thị Kiêm, và tôi Nguyễn
Văn Hanh lật lại theo lối tây... "Rồi ông ra hiệu cả hai tay, cười một
cách khoái lắm. Trong đám thính giả, có bao nhiêu con nít láu lỉnh, đều cười rộ
lên. Những người đang ngáp hay đang cãi nhau cũng giật mình quay lại rồi cười
theo và vỗ tay theo.
"Ông Hanh nói tiếp: "Tôi với
cô cùng đi trên một con đường tối tăm, mà cô không biết. Ông định nói: Ông
không phản đối thơ mới và đồng ý với cô Kiêm. Nhưng ông có một lối nói bóng bẩy
mà xuyên tạc làm vui lòng một số đông thính giả.
"Ông lại nói: Cô đẩy một cái cửa đã
mở rồi "vous enfoncez une porte ouverte. Một số đông lại cười rộ vì họ
tưởng rằng cô Kiêm đến đẩy cửa nhà ông Hanh. Nhưng ông Hanh chỉ định nói là cô
Kiêm phản đối ông vô ích, vì ông có công kích thơ mới đâu. Phải, ông không công
kích thơ mới ông chỉ chê thơ mới thôi. Nhưng ông không dám nói là: "Tôi,
Nguyễn Văn Hanh chê thơ mới" ông chỉ chê thôi, mà ông không nói là chê.
Nhưng ông Hanh lại được mãn nguyện quá sức mong, là vì không một mình cô Kiêm
"mắc cỡ" mà tất cả bao nhiêu nữ thính giả đều mắc cỡ, vì những lời
lẽ, những dáng điệu của ông. Thực là kết quả mỹ mãn không ngờ.
"Ông nói với cô Kiêm: "Cô bảo
cô không xìu (dégonflée) thế là cô còn cứng, vậy tôi xin xìu trước". Rồi
ông lại toét miệng ra cười và lom khom bước xuống ghế ngồi.
"Thế là ông lại được hoan hô một lần
nữa.
"Có mấy bà ngồi hàng ghế đầu nhấp
nhỏm đứng dậy mắng cho ông mấy câu, nhưng thấy vây cánh ông lớn quá, và nhất là
cái quả đấm của ông nắm chặt quá, nên lại ngậm ngùi mà ngồi im. Có một bà, trái
hẳn lại, vỗ tay dữ hơn mọi người để khen ông Hanh; mọi người trông lại thì
bà... bà Nguyễn Văn Hanh.
"Bỗng một ông nữa vọt lên diễn đàn.
Thôi nguy to rồi, cô Kiêm lại phải một phen run sợ. Nhưng may sao, ông này tuy
đem một cái mũi rất lớn lên diễn đàn cũng không đáng sợ bằng ông Hanh. Ông ôn
tồn nói một hồi, không ai hiểu ông nói gì, chỉ thấy ông quanh quẩn mắng hết ông
Hanh, lại cự đến cô Kiêm cho là hai bên đều vô lý hết, rồi ông lại cự cả ông,
vì ông cũng vô lý nốt.
"Ông Hanh ngứa tiết lại nhẩy lên lôi
đài. Hai ông giở tài ngọn lưỡi trước mặt cô Kiêm, làm cho cô Kiêm hậm hực muốn
khóc; cô muốn chui xuống đất, nhưng hiềm đất rắn quá, cô lại muốn bay lên
trời, thì cái hầm lại thấp quá. Cô Kiêm cầu cứu ông huyện Tri, nhưng ông huyện
Tri không động đậy; cô cầu cứu ông Phan Văn Hùm, nhưng vẫn thấy ông Phan Văn
Hùm nét mặt thản nhiên, lạnh lùng làm cho cô cuống quít ở giữa cái mồm rộng của
ông Hanh và cái mũi lớn của ông nọ.
"Ông đốc tờ Đôn lúc bấy giờ
vẻ mặt hớn hở lắm. Ông chắc lẩm: thế nào chẳng có anh vỡ đầu, sát trán, dập
sọ, gẫy xương. Nếu không cũng có một vài ba thính giả hoảng sợ mà ngất đi
chăng.
"Nhưng bà con thấy quang cảnh nguy
ngập, xô nhau mà chạy trốn làm cho người ngao ngán nhất là ông đốc tờ Đôn".
Thạch Lam tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Cùng một buổi diễn thuyết của cô Nguyễn Thị Kiêm mà
Phong Hóa có tới bốn bài tường thuật. Sau bài tường thuật của Ngộ Không tôi còn
kể thêm ba bài tường thuật của Thạch Lam, của Lê Ta và của Ngym. Tất cả chúng
đều cho ta thấy thính giả say mê tới vấn đề, đến chen chúc nhau thừa sống thiếu
chết. Đây mấy lời mở đầu bài tường thuật của Thạch Lam:
"Đến cuộc diễn thuyết của cô Nguyễn
Thị Kiêm ở quán hội K.T.T.Đ.
"Người đến nghe và đến xem chắc hẳn
là đông lắm. Vì một cái lẽ rất giản dị, diễn giả là một người con gái. Một cô
con gái diễn thuyết tất có nhiều cô con gái đến nghe, những cô tân thiếu nữ ở
Hà Thành, áo tha thướt và nhiều màu tóc mượt và đen nhánh.
"Người ta đến đây cũng như một cuộc
vui chơi. Trong một sự hỗn độn, bao giờ cũng lắm cái bất ngờ, lắm cái may rủi.
"Buổi tối hôm ấy không một ai nghe
rõ được câu gì. Người ta chỉ thấy cô Kiêm chốc chốc lại đưa khăn tay lên lau mồ
hôi trên trán, thấy đôi môi mấp máy. Thành thử không phải như bà Lê Dư diễn
thuyết cho bà ấy nghe ở hội Trí Tri. Cô Kiêm dẫu có muốn nghe lời mình nói cũng
không nghe thấy gì".
Lê Ta tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Và đây đến lượt Lê Ta tường thuật:
"Công chúng mỗi lúc một đông thêm.
Tiếng ồn ào mỗi lúc một lớn. Trên kia cô Kiêm vẫn nói. Dưới này họ lục đục
chen nhau, cãi nhau về chỗ ngồi. Một ông to béo luôn tay run người này ấn người
kia để bênh vực cái đồng hồ đeo tay của ông.
"Giữa lúc mồ hôi dang đua nhau làm
ướt áo mọi người, thì bỗng cái quạt điện bừng chạy.
"Một ông dẫm lên chân một cô ngồi
cạnh để tỏ ý bất mãn, rồi đứng lên diễn thuyết với hai người đằng sau xô lên.
"Dần dần, cả những người ngồi đầu
đều đứng lên, rồi muốn cho cao hơn, họ đứng cả lên ghế.
"Một vài ông cố sức mở một đường
"huyết đạo" xông vào gần chỗ tôi, phàn nàn rằng mình vẫn mộ tiếng
diễn thuyết mà không được nghe lấy một tiếng nào. Các ông đứng lau mồ hôi một
lúc trèo mám lên một cái ghế nghiễn cổ trông. Lúc thấy được mặt diễn giả các
ông sung sướng chen ra tỏ ý mãn nguyện lắm.
"Cái nóng bức trong hội quán cùng
với sự náo động cứ tăng mãi lên, đến lúc những cánh quạt vì lòng nguyện vọng
nhiệt liệt của công chúng lại bắt đầu quay, mà trật tự vẫn không giữ
được... Những người ở dưới muốn nghe rõ lần lượt rủ nhau lên gác muốn mát lại rủ
nhau xuống. Cứ thế mãi không thôi".
Nguym tường thuật cô Kiêm diễn thuyết bênh thơ mới
Sau cùng là lời thường thuật của một người ký tên là
Ngym, chẳng biết là ai:
"Thính giả, cả hai giống, có đến bảy
tám trăm đầu.
"Các bà các cô đến đông. Phần nhiều
không được trắng như mọi khi, ý chừng nóng quá mồ hôi ra trôi cả phấn.
"Nhưng vì đến sau, phải đứng cả. Có
độ hơn 400 ghế thì các ông râu mày ngồi mất đến ngoài ba trăm rưỡi ghế. Ông
huyện Trị thân sinh ra cô Kiêm, đứng lên xin các ông râu mày nhường chỗ cho các
bà quần thoa "íu đúi". Cái gì chứ cái ấy thì cố nhiên là thính giả
phái khỏe không chịu nghe viện lẽ rằng họ không lẳng (nếu tôi có thể dịch chữ
"galant" là lẳng được).
"Muốn cho thính giả lẳng lặng mà
nghe, các tổ chức viên dùng "suỵt". Sau có người "chừng cũng
thạo về khoa học", nghĩ ra được một kế rất điệu là đi mượn cái chuông.
Anh hàng kẹo hay anh hàng dầu nào cho mượn cái chuông ấy, chắc cũng được biệt
đãi.
Lê Ta phê bình tập thơ "Những bông hoa trái mùa"
Sau đấy Lê Ta, nhân đọc một tập cũ "Những Bông
Hoa trái mùa" của hai ông Tường Vân và Phi Vân làm ra để thách đố, đua
vai với thơ mới. Lê Ta đã phân tích tập thơ của hai ông và trích những câu văn
vừa sáo, vừa rỗng, vừa đạo văn, vừa ngây ngô để minh chứng thơ cũ mà các ông ca
ngợi đã hết sinh khí rồi. Thực bài trả lời của Lê Ta là cay độc, khiến cho làng
thơ cũ phải một phen bể mặt. Đây bài phê bình "Những Bông Hoa trái mùa" của Lê Ta (P.H. số 148, 10-5-1935).
"Sau khi góp sức chế tạo ra được
ngót ba mươi trang thơ (Những bông hoa trái mùa) hai nhà văn Tường Vân và Phi
Vân "một ngày tốt đẹp kia", đem in thành sách. In sách để tỏ cho
thiên hạ biết hai ông cũng có triết lý về cuộc đời, mà hai ông coi như một buổi
hát:
Còn lạ lùng chi cái thói đời.
Trăm năm cũng một lớp tuồng thôi
(Cuộc Đời)
"Để trách trăng, trách gió, trách người bạn gái,
khóc ý trung nhân và để than cái nỗi đời xoay chuyển mãi, "dặm liễu" đã mòn chân "ngựa ký" mà "đường mây" chưa thẳng
cánh "chim đồng" cho nên "anh hùng" còn thẹn mặt trần
ai, luống lo tưởng đến "nợ kiếm cung" ( !) chưa biết đến bao giờ
trả được.
"Tác giả thực là người có tâm huyết,
có khí khái, có tình cảm và có những giọng cụ đồ cổ bất đắc chí ngồi cạy ghét
móng tay mà giận đời không biết đến mình.
"Bởi thế, cái mới là cái đáng thù,
cả sự chân thực cũng vậy. Đứng trên núi cao trông cảnh giang sơn dưới ánh trăng
vằng vặc, các ông ngẫm, các ông cảm động bằng đôi mắt và trái tim của bà Huyện
Thanh Quan:
Tuế nguyệt thành xưa trơ lớp đá,
Tang thương ngõ cũ nhạt làm meo.
(Trên núi Thiên nhẫn)
"Các ông tả cái sắc đẹp của giai nhân trên
thuyền bằng văn Cung oán:
Cá dưới nước ra chiều lảng bảng,
Hoa trên dòng ra dáng lênh đênh.
Hoa kia ngơ ngẩn với tình,
Cô kia ngơ ngẩn như hình ai nghe.
(Trên mặt hồ tây)
"Các ông phục cái khí phách của bà Triệu Ẩu bằng
lời của một nhà làm thơ cũ, tôi quên mất tên, nhưng vẫn nhớ kỹ cái nghệ thuật
giở hơi và kiểu cách:
Dãi nắng dầm mưa đôi má phấn,
Xông tên đột pháo một đầu voi
(Triệu Ẩu)
"Các ông khen âm điệu thơ cũ thánh thót âm thầm
như tiếng đàn năm cung. Không ai cãi hai ông, nhưng tiếc rằng khi nghĩ đến đàn,
các ông lại nghĩ đến tính tình của người khác, các ông lại xúc động bằng tâm
hồn của người khác vì trong lòng các ông không có một thi cảm riêng nào.
"Thi sĩ Nguyễn Du tả tiếng đàn như
thế này:
Trong như tiếng hạc bay qua,
Đục như nước suối mới sa nửa vời;
Tiếng êm như gió thoảng ngoài,
Tiếng mau sậm sập như trời đổ mưa.
"Các ông liền lấy những ý trên lập lại. Các ông
cũng viết:
Trong như tiếng hạc mới bay qua,
Đục tựa lưng vời nước suối pha,
Êm ái tiếng khoan như gió thoảng,
Tiếng mau sầm sập lại mưa sa.
"Cái tài của các ông là cái tài xào nấu lại
những món ăn cũ. Các ông lấy lời văn, ý tưởng, tình cảm của người khác làm của
mình. Trong văn thơ các ông đầy rẫy những cành tuyết, mai, thông, liễu, ở những
chỗ sông Tân, vườn Thúy, chơi sông đêm trăng các ông bắt chước người ta nhớ câu
thơ Xích bích, ngắm nước hồ Tây các ông cũng chỉ nghĩ đến cảnh Bắc quân xô xát
với truyện con trâu vàng. Các ông đi sau cổ nhân để lượm nhặt những rơm rác ấy
là "Những bông hoa trái mùa".
"Các ông đem bó hoa không đáng gọi
hoa kia dùng làm thứ khí giới để công kích lối thơ chân thực dồi dào, phóng
khoáng mà người ta thường gọi là thơ mới.
"Là vì các ông không làm được thơ
mới.
"Các ông không phải là người biết
tìm cái đẹp mới mẻ, biết tả đúng tâm sự mình trước cảnh vật, cái cảm hứng của
các ông không thể ra ngoài khuôn sáo, chỉ quanh quẩn ở những điển tích mà đã
mấy nghìn lần người ta nhắc đến, nghe quen tai quá, chẳng khác gì những lời
chúc tụng của bọn người hát "súc sắc súc sẻ" đầu năm.
"Các ông trách lối thơ bây giờ không
theo niêm luật cũ, vì các ông không biết rằng thơ bao giờ cũng phải có luật.
Không phải cái luật hẹp hòi hạn câu chọn chữ là một lối rất tiện cho những
người khúm núm thi thố cái tiểu sảo của mình. Nhưng thơ phải có thứ luật cao
siêu hơn, thiêng liêng hơn: mình biểu lộ cảm tưởng, tâm trạng mình một cách êm
ái, tha thiết hay hùng tráng du dương theo cái bản lĩnh riêng mình, không bao
giờ chịu theo tư tưởng, tình cảm của người khác. Như thế thì trái với thứ biệt
tài của hai ông lắm, nên hai ông không bằng lòng.
"Các ông chỉ ưa và chỉ tìm được
những lời văn hoa sẵn có để tra vào cái khuôn khổ sẵn có. Khi tiễn đưa, tất
nhiên phải dùng đến những chữ: chuốc chén qua nhà với duỗi dong dặm kỳ; khi
vinh hoa tất nhiên phải chắp nhặt những tiếng: sắc nước hương trời. Mà cuộc
đời bao giờ cũng là một tấn tuồng cũng như lúc mặt trời về chiều, bao giờ cũng
là ác, là chênh chếch, giọt sương dùng để chỉ nước mắt, là ngô vàng rụng để tả
mùa thu. Các ông cũng không quên những chữ cảnh biếc, biển quế, bụi hồng, mắt
xanh, không quên những câu:
Lơ thơ dăm cụm lục chen hồng,
Thượng uyển là đây có phải không?
Hương ngự (!) ngạt ngào đôi khóm cúc,
Nhạc thiều (!) reo rắt mấy cành thông (trang 15)
"Để tả những cảnh... trong vườn bách thú (!).
Nghĩa là những câu thơ có thể tả được bất cứ cảnh vườn nào, mà tả cảnh vườn nào
cũng rỗng, cũng sáo, cũng không có nghĩa lý chi hết.
"Ấy thế mà các ông đi công kích bọn
làm thơ lối mới; các ông lấy những giọng oanh liệt để mắng họ:
Lạy bác xin đừng nói đến thi,
Nghĩa thi chưa hiểu hãy im đi.
"Và gọi họ là bọn mù:
Chẳng khác anh mù lại nói mơ,
Chẳng qua một bọn dốt làm thơ...
"Vâng, họ dốt vô cùng, dốt vì không biết theo
kinh điển, vì không biết nhai lại những lời cổ nhân mà các ông quý trọng, vì
không biết để cho cái khuôn khổ buồn cười của thơ (bát cú) kìm kéo, thắt buộc
tính tình, cảm hứng của họ.
"Vâng, họ dốt và mù lắm, họ không
thể sáng như hai ông Tường Vân và Phi Vân được, mà như thế, theo ý tôi, thì
thực là may cho quốc văn.
"Vì quốc văn cần phải tiến. Quốc văn
không phải thứ trò chơi dí dỏm ở trong ấy có những luật lệ bày ra để một ít
người thợ khéo chắp nhặt cái tiểu sảo nọ để ghép vào cái tiểu sảo kia. Thơ văn
của ta bây giờ mới biết theo khuynh hướng mới cũng đã quá chậm rồi, không cần
phải có những bọn văn sĩ như hai ông Tường Vân và Phi Vân với cô Bích Ngọc ngăn
cản lại.
"Nói đến cô Bích Ngọc, người đề tựa
cho quyển "Những bông hoa trái mùa" tôi lại tưởng tượng đến một bậc
nữ lưu đoan trang, trầm mạc. Tôi còn tưởng tượng lên thêm một bực nữa, tuy
không được vừa ý cô nhưng tôi cũng cứ mạn phép cô tôi nói: tôi tưởng tượng ra
một bực nữ lang... bà già.
"Bởi vì những ý tưởng của cô cũng đã
già như cái cây cổ thụ.
"Cô cũng đồng lòng với hai nhà thi
sĩ của cô ham mến cái cổ, coi lối thơ luật cũ rích như những bông hoa thơm, cô
lại viết một bài thơ tám câu, có ý cho chúng tôi thấy thí dụ. Cái cụm hoa thơm
là bài thơ quý hóa ấy cũng có đủ những biền ngẫu: nhị vàng đi dôi với cành
thắm, lòng bướm với kiếp hoa, dậu cúc với cành hồng, nghĩa là những chữ sáo đi
đôi với những chữ sáo.
"Cô thực là người biết yêu trọng
quốc hồn, quốc túy. Nhất thiết cái gì là mới, là lạ, cô đều ghét cay, ghét đắng
lấy lẽ rằng cái mới lạ ấy không phải là của nhà. Câu phong dao:
Ta về ta tắm ao ta,
"Có lẽ là câu châm ngôn của cô. Cô thiết tha
khuyên người ta chê bỏ và tự mình chê bỏ "ao ngoài", để về tắm
"ao nhà" dù ao nhà ấy đầy những bùn, những vẩn.
"Tôi buồn rằng người "thục nữ" có duyên đến thế lại kém vệ sinh.
17/9/2018
Thanh Lãng
Theo https://www.lienphathoi.org/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét