Phê bình văn học thế hệ 1932 - Phần 1
Đặc tính chung thế hệ 1932
Trung thành với phương pháp đặt các sự
kiện văn học vào những "lúc lịch sử quyết liệt", tôi
chọn những năm 32 làm điểm khởi cho thế hệ
thứ bốn của nền văn học mới: thế hệ 1932 (1)Thực vậy chung quanh những năm 32, nhiều biến cố quan trọng
đã xảy ra giúp vào việc sửa soạn và xô đẩy hầu như một cách ức
bách, sự thành hình của một hướng đi mới, một lối
sống mới, một lối hành động mới, một lối cảm xúc mới, một lối suy tư mới, một
lối viết mới... với những nhà
lãnh đạo mới.Lý do rất phức tạp, thuộc đủ mọi chiều
hướng: chính trị, kinh tế, xã hội, tâm lý, văn học...I- Lý do thứ nhất: những Biến
động chính trị.
Trước đây, chúng ta nhận thấy những thất bại quân sự đã từng gieo chán nản,
tuyệt vọng vào trong các tâm hồn, khiến nhiều người không còn nghĩ đến chiến đấu:
các bậc túc nho thì đi tìm quên lãng trong công việc khảo cứu (viết báo, dịch
sách, khảo luận...); phái trẻ thì say sưa đi tìm những cảm giác thê lương, ốm yếu
để, rút cục, tuyệt vọng, thi nhau mà đi tự tử. Đó là vào khoảng từ 1922 đến
1926. Tình trạng bi quan quá độ ấy, tất nhiên, tạo ra một sức phản ứng mãnh liệt
bùng nổ vào những năm 30. Đêm mồng 9 rạng mồng 10 tháng 2 năm 1930, dưới sự
lãnh đạo của mặt trận Việt Nam Quốc Dân Đảng, cách mạng bùng nổ ở Yên Bái: điểm
báo sự vùng dậy của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp. Nhưng, thiếu tổ chức,
cuộc cách mạng bị đàn áp nặng nề. Tuy vậy, nó cũng gây được một xúc động mạnh mẽ
trong các tầng lớp dân chúng. Cũng trong năm 1930, nhiều đảng phái mới ra đời,
đáng chú ý hơn cả là Đông Dương Cộng Sản đảng. Tất cả những biến cố chính trị
như trên đây chẳng những đánh thức dậy ý thức quốc
gia mà còn xoay chiều hẳn chí hướng và hoạt động
của cả một thế hệ: thế hệ trẻ, mới... II- Lý do thứ hai: việc Bảo Đại hồi loan.
Phải chăng bởi nhìn thấy tinh thần quốc gia đang bồng bột trong các tâm
hồn khó lòng dập tắt được mà, từ sau năm 1930, người Pháp tỏ ra mơn trớn người
Việt Nam, tung ra nhiều điều hứa hẹn. Đặc biệt hơn hết là năm 32, họ đã nắm lấy
cơ hội Bảo Đại hồi hương để gây hẳn một phong trào cởi mở giả tạo, cốt cho các
thành phần Quốc gia tin tưởng vào vai trò khai hóa của Pháp để đưa Việt Nam đến
một tương lai rực rỡ. Chính vì vậy mà họ đã cho nghênh đón Hoàng đế Bảo Đại hồi
loan rất long trọng. Tiễn đưa Bảo Đại tới Marseille, Thượng Thư thuộc địa
Albert Sarraut đã nói với nhà vua: "Tâu Hoàng Thượng, Hoàng Thượng sẽ
gánh một gánh rất nặng nề, là phải làm một Vị Đế Vương tân thời, song phải tuân
theo cổ tục, Ngài phải làm cho một nước cổ, hóa ra một nước kim...Thực vậy, cùng với
việc vua Bảo Đại hồi loan vào tháng chín năm 32, Chánh Phủ Pháp đã hứa hẹn rất
nhiều mà điều hứa quan hệ nhất là việc áp dụng đúng các điều khoản của Hiệp Ước
năm 1884. Theo Hiệp Ước năm 1884, thì Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tuy chịu quyền bảo hộ
của Pháp, vẫn tự trị về nội bộ.Nhưng người Pháp
đã áp bức Nam Triều ra chỉ dụ ngày 26-7-1897 để đặt Bắc Kỳ dưới quyền cai trị
của ¨Pháp, tách khỏi Trung Kỳ, là xứ cũng dần dần mất hết tính cách tự trị.Năm 32, nghe rằng
Pháp định nới rộng để trao trả quyền tự trị nội bộ cho Nam Triều ở cả Bắc và
Trung, người dân Việt Nam thực là háo hức. Le Grauclaude, trong cuốn "Những thời kỳ trọng đại của nước An Nam trong lúc Hồi xuân" đã ghi chú
điều ấy: "vì như người nào xét kỹ xung quanh mình, thì biết rõ ràng sự
hồi loan này đã làm cho thiên hạ náo động vô cùng, cái ngày ấy càng gần tới
chừng nào, thời sự náo động ấy càng rõ ràng chừng nấy, dầu các nhà lãnh tụ các
đảng phái lấy ngôn luận làm bút chiến cũng không tả thấu cái tư tưởng của nhân
dân đặng. Nếu biết rõ những sự tín ngưỡng di truyền, thời sau khi có những sự
loạn lạc, trừng trị, đói kém, cái phong trào ấy của nhân dân cũng dễ giải nghĩa
lắm" (3).Tuy Chánh Phủ Pháp
có thiện chí muốn duyệt lại các điều lầm lỡ để nới rộng quyền hành cho Nam
Triều, nhưng quan lại Pháp tại Việt Nam xem ra chống đối và hình như cũng kéo
được một phe cánh theo họ để phản kháng việc trao trả Bắc Việt cho Nam Triều.
Nói về sự kiện đó, Le Grauclaude viết: "Ở Bắc Kỳ, hai phe ấy đã khiêu
chiến nhau và ông Nguyễn Văn Vĩnh đã xưng là thay mặt một phần dân Trung Kỳ
nữa. Một phái kia là "phái quan trường có ông Phạm Quỳnh là một nhà văn
học trứ danh, làm lãnh tụ, chống với phái thanh niên, tự xưng là thay mặt bọn
thanh niên Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Bọn này có một tờ báo làm cơ quan là tờ An Nam
Nouveau. Ông Nguyễn Văn Vĩnh là một nhà viết báo có tiếng, chủ trương báo ấy.
Còn trong nhân dân, ít nữa là bọn thượng lưu, chia ra hai phe. Một bên đồng
tình với ông Phạm Quỳnh mà xin giao Bắc Kỳ lại cho Nam Triều cai trị với chánh
phủ bảo hộ Trung kỳ. Một bên hiệp ý với ông Nguyễn Văn Vĩnh mà yêu cầu cho Bắc
Kỳ trở nên một xứ thuộc địa, là thể thức cũng tựa như thể thức bây giờ rồi" (4).Tuy nhiên, phe
theo Nguyễn Văn Vĩnh, dầu sao cũng chỉ là số ít, còn phần đông dân chúng vẫn
chủ trương theo ông Chủ Nhiệm báo Nam Phong. Được phỏng vấn, Thủ Tướng Nguyễn
Hữu Bài, tạm coi được là tiếng nói của các phe Quốc gia, đã trả lời ông Le
Grauclaude: "Việc trong thì nước Nam ước ao có quyền nội trị, tự thu xếp
lấy. Người ta thường nói người nước Nam không có lòng ái quốc. Tuy không có cái
ái quốc như bên Âu Châu, song bên chúng tôi, ai cũng có cái lòng trung ái với
nước nhà, ai cũng một lòng một chí mà ước ao cho đặng cái quyền tự xem xét lấy
các việc chung của nước nhà" (4).III- Lý do thứ ba: những cải cách của nội các Bảo Đại.
Cho viết những lời lẽ trên này, người Pháp đã tỏ ra kiêng nể Việt Nam
lắm. Lý do là vì họ nhận thấy các phe Quốc gia mỗi ngày một ảnh hưởng đến dân
chúng, đặc biệt là các tổ chức Cộng Sản, được sự nâng đỡ của ngoại quốc, đang
thu hút được nhân tâm. Đàng khác, nạn kinh tế khủng hoảng trầm trọng của mấy
năm qua rất có thể được các lực lượng cách mạng khai thác để xúi giục dân làm
loạn. Để đánh lạc dư luận, một đàng họ ngấm ngầm đàn áp, một đàng họ công bố
những điều hứa tốt đẹp, đồng thời đề nghị với vua Bảo Đại, vừa mới hồi loan,
phải đi tuần du cả Trung và Bắc để làm yên lòng dân và cải tổ nội các một cách
thực mới mẻ. Nội các cũ gồm các quan già bị bãi nhiệm và theo đạo chỉ dụ ngày
mồng 2 tháng 5 năm 1933, vua Bảo Đại công bố thành phần nội các mới gồm những
vị Thượng Thư rất trẻ : Ngô Đình Diệm, Bộ Lại, ba mươi mốt tuổi; Phạm Quỳnh,
Bộ Quốc Dân Giáo Dục, bốn mươi tuổi; Hồ Đắc Khải, Bộ Tài Chánh, ba mươi tám
tuổi; Bùi Bằng Đoàn, Bộ Tư Pháp, bốn mươi sáu tuổi; Thái Văn Toản, Bộ Công
Tác, bốn mươi bảy tuổi.Thật vậy, không
những người Pháp làm ra mặt hoan hỉ, không những người dân đơn sơ tỏ ra vui
mừng vì được có một vị vua đầu tiên văn minh tân tiến, mà cả đến dư luận báo
chí toàn quốc cũng tỏ nỗi hân hoan trong dịp vua Bảo Đại hồi loan. Không những
báo hàng ngày mà cả đến các tuần báo, nguyệt báo cũng có những bài xã thuyết
bàn về việc hồi loan của nhà vua được coi như là một biến cố quan hệ, hứa hẹn
nhiều đối với Quốc dân.Ấy là đối với
chính trị thì như vậy. Mà đối với việc canh cải học chánh, đường lối giáo dục,
vua Bảo Đại cũng có những ý kiến đáng lưu ý. Báo Văn học tạp chí số 4 tháng 8 và tháng 9 năm 1932,
trong bài cảm tưởng đối với cuộc ngự giá hồi loan viết: "Đáng tiếc chỉ
có thế mà đáng mừng thì có nhiều điều: Một là mừng được trông thấy cái thái độ
khoan hòa cẩn trọng của Hoàng Thượng mà có phần tin chắc rằng Ngài sẽ cầm vững
vận mệnh tương lai cho quốc dân mà thái độ của Ngài lại chứng tỏ rằng: tiêm
nhiễm văn hóa Âu Tây mà tự mình bền chí và có định kiến thì cái kết quả sẽ được
mỹ mãn; thế là đủ làm cái gương sáng cho bạn thanh niên du học sau này, biết
noi theo đó thì mới có cái hy vọng tạo phúc cho đồng bào được."Hai là mừng
được trông thấy Ngài đối với báo giới chẳng những tiếp đãi trọng thể mà lại có
vẻ chan chứa cảm tình, thế là con đường ngôn luận của ba kỳ bắt đầu từ nay càng
thấy sáng thêm và mở rộng vậy."Ba là mừng được
nghe rõ Ngài là một vị Đế vương ưa văn hóa, trọng học thuật. Thế là nền văn học
nước nhà sẽ nhờ Ngài gây dựng tô bồi họa may có ngày vững vàng tốt đẹp như nền
văn học các nước văn minh Âu Mỹ."Vì ba điều
mừng ấy mà tôi dám có mấy lời ước cầu:"Ước sao về
vấn đề phiên dịch trước thuật, Triều đình dốc lòng chiếu cố , hết sức khuếch
trương, khiến cho sách quốc văn rộng đường ban bố lưu hành, họa may quốc dân
đối với các món phổ thông trí thức chuyên môn khoa học khỏi phải cái khổ học
nhờ viết mướn. (Nghe nói hiện nay Viện cổ học ở Huế đã tự xin tổ chức cuộc
phiên dịch mà Viện Dân Biểu cũng định xin lập Viện Hàn Lâm).Sau khi bày tỏ
niềm hân hoan và tin tưởng vào Ông vua trẻ, báo Văn học tạp chí còn trích đăng những đoạn văn quan hệ của lời huấn dụ ngày
10 tháng 9 của vua Bảo Đại liên quan đến dự án sửa đổi nền giáo dục lúc ấy:
"Ta sẽ tuyển dụng cũng như thuở xưa là do thí khảo, đề mục luân lý, kinh
văn và cũng có khoa học về chính trị phép luật tân thời, hễ ai được thắng phân
số là trúng tuyển. Sẽ lập một trường đặc biệt (là trường sĩ hoạn). Ta sẽ hết
sức lo dạy cách chánh trị thực hành làm cho đức dục và trí dục được tấn tới thêm."Việc học
bây giờ có nhiều người ý kiến trái nhau: kẻ thời nói việc học tấn bộ, người
thời nói thoái bộ, ta xem ra trong mấy năm gần đây, chỉ lấy những vấn đề học
qui làm trọng.Vậy học quy há
trọng hơn tôn chỉ, mà sao chỉ chăm dạy khai trí không chăm dạy thành đức cho
trẻ con là lũ đương nhiệt tâm về tân học. Ta sẽ hết sức bổ cứu cái hại ai nấy
đều phàn nàn, là nó làm cho những đời người cận thời giống như đã quên những
phong hóa lưu truyền rất tốt của nước ta. "Chính vì ý
ấy, cho nên nhân có chánh phủ Bảo Hộ đã tổ chức học vụ hay tốt, đặt thầy có mô
phạm tân thời, cứ cơ sở vững bền ấy, ta sẽ sửa bộ học lại, sẽ gọi là bộ Quốc
Dân Giáo Dục, để biểu minh chủ ý."Ta muốn sắp
đặt việc giáo dục của quốc dân theo nền vững bền gia đình giáo dục và luân lý đời
xưa."Có trường
công về phần quan kiểm sát làm hướng đạo cho việc giáo dục quốc dân. Ta lại
tính đường mở mang hương trường và tư trường là nơi gần mặt phụ huynh, vì theo
luật phép và phong tục nước ta, phải có trách vụ to về đường giáo dục."Ta khuyên
kẻ phụ huynh đem lòng lưu ý việc ấy, lo việc tương lai đặng mà giúp sức với
chánh phủ, để cho thành được việc gọi là việc xây dựng lại cho dân cả nước, ấy
là chính việc xã hội Việt Nam phải đem lòng chăm lo vào đó cả..."Vả
lại noi theo thánh ý khoan hồng Đức Tiên Hoàng Hoàng Tôn Tuyên Hoàng Đế, quả
nhơn muốn cho quốc dân thân ái của ta được trần ngôn tiếng thấu tai trên, được
tỏ tình những điều sở nguyện, được thỉnh cầu những sự cần thiết phải lẽ..." (5).Cũng như Văn học tạp chí của Dương Tự Quán, An Nam tạp chí của Tản Đà, trong bài xã thuyết bàn
về việc hồi loan của vua Bảo Đại, cũng đã cực lực khen ngợi lời chỉ dụ của Nhà
Vua: "Hay thay đức Kim Thượng là đứng thánh minh, đã hiểu cái nhẽ: phải
tiến."Lời thánh
dụ ngày 10 Septembre 1932, nhiều ý hướng duy tân đã khiến cho thanh niên phấn
chấn mà đợi buổi tương lai" (6).Tuần báo Phong Hóa cũng có nhiều bài nói về việc vua Bảo Đại hồi loan,
nhất là về việc loan truyền những chỉ dụ của nhà vua đối với công cuộc canh tân
xứ sở. Tất cả các chủ
trương của vua Bảo Đại cũng như của Pháp lúc ấy là hô hào canh tân, xây dựng
một nước Việt Nam mới, cởi bỏ được các tập tục cũ. Trong bài chỉ dụ đặt nội các
mới (2-5-1933) cũng như trong bài diễn văn đọc tại điện Cần Chánh trước mặt tân
nội các, vua Bảo Đại đều nhấn mạnh đến tính cách canh tân của chế độ: "Chí tôi là muốn trừ bỏ những cách chính trị quá cũ không thích hợp với thời đại
này. Tôi muốn cho nước Nam tấn bộ theo thời, không phải kém các nước khác trong
thiên hạ nữa. Làm thế không phải là bạo động biến cách, tức là tuần tự canh
tân, là một việc cần. Nước không đổi mới là nước hỏng. Tôi muốn cho nước này
được hoạt động, nên tôi quyết đem hết quyền lực giúp cho tiến hóa, cho mau bước
lên con đường cải cách văn minh" (7).Về phía người
Pháp, toàn quyền Pasquier cũng trịnh trọng nói đến cải cách với tân nội các:
"Cái chế độ cũ trong nước, đả động đến phải cho thận trọng lắm, nhưng mà
nếu xét ra thời thế phong tục khiến cho phải thay đổi thì cũng không nên ngần
ngại mà sửa đổi" (7).Những lời cổ võ
cho ý hướng theo mới ấy do hai chánh phủ Pháp và Nam triều phải đã gieo vào dân
gian một làn khí mới bắt đầu từ năm 1932 là năm vua Bảo Đại hồi loan.Phong trào theo
mới hăng say từ sau năm 1932 hẳn một phần đã bắt nguồn từ việc theo mới của tân
nội các Bảo Đại lúc ấy.IV- Lý do thứ tư: lối sống xé rào của vị vua trẻ
Việc
vua Bảo Đại về nước năm 1932, chẳng những đã gây xúc động mạnh về phương diện
chính trị, cũng như về phương diện canh cải giáo dục và học chánh mà còn gây
xúc động mãnh liệt cả về phương diện xã hội nữa. Thứ nhất vì nhà vua là một tay
Tây học, đã dám bãi bỏ tất cả các hủ tục, nghi lễ phiền phức, thoái hóa mà Nam
Triều đã khuôn mình từ hàng ngàn năm. Thứ hai, tuy không nói ra, tuy không
tuyên chiến bằng lời nói, nhưng Bảo Đại đã tuyên chiến bằng việc làm đối với
chế độ Đại gia đình. Chính Bảo Đại đã chống lại quyết định của Triều đình Huế,
nhất là của Đại Gia đình Hoàng Tộc nhà Nguyễn khi ông cương quyết cưới cho bằng
được một bà vợ là con gái thứ dân chứ không phải con hoàng tộc hay con gái bậc
Đại Thần. Hơn thế người con gái thứ dân ấy lại theo tôn giáo khác hẳn tôn giáo
của Triều đình, của Hoàng tộc. Chính Bảo Đại đã tranh đấu thành công chống chế
độ đại gia đình để thực hiện tự do kết hôn. Thứ ba chính Bảo Đại đã khai mở cái
thế hệ trai độc thê khác với phong tục cũ vua chúa bao giờ cũng đa thê. Ngần ấy
cái mới ảnh hưởng đến lớp thanh niên rất nhiều và các vai truyện của Nhất Linh
hay Khái Hưng về sau này, tức mãi 1933-1934, cũng không có gì mới hơn Bảo Đại
lúc Bảo Đại làm trái ý Hoàng tộc để cưới cho kỳ được bà Nam Phương làm vợ.Những luận đề mà mãi đến năm 33 hay 34 có
khi mãi đến 1935, Khái Hưng hay Nhất Linh mới đem ra bàn giải ở trong tiểu
thuyết luận đề của các ông, thì Bảo Đại, ngay từ năm 1932, đã đem bàn giải và biện
minh cho nó ngay trong cuộc đời của nhà vua.V- Lý do thứ năm: bế mạc thế hệ cũ và xuất
hiện thế hệ mới.
Năm 32 là năm "tống
cựu nghinh tân" giữa hai thế hệ mới cũ: nếu trong chánh trường những
Nguyễn Hữu Bài, những Võ Liêm, những Tôn Thất Đàn, những Phạm Liệu... đã về hưu
để nhường chỗ cho những Ngô Đình Diệm, những Phạm Quỳnh, những Bùi Đằng Đoàn...
thì trên văn đàn những Phạm Quỳnh, những Đông Hồ, những Hoàng Ngọc Phách, những
Tương Phố cũng rút vào bóng tối để nhường trường sở cho những Khái Hưng, những
Nhất Linh, những Xuân Diệu, những Thế Lữ... Thực vậy, năm 32 đánh dấu một cái
mốc quan hệ: Phạm Quỳnh bỏ báo Nam Phong để vào nội các của vua Bảo Đại. Phạm
Quỳnh đã ra đi trong vinh quang, giữa sự nhớ tiếc của mọi người. Nam Phong còn
sống thêm được hai năm nữa, nhưng cũng là sống cầm hơi, không nguyên vì mất
người thủ lãnh có tài mà nhất là vì thời thế thay đổi. Như một viên lão tướng,
dù huấn nghiệp có cao cả đến đâu, cũng phải nghĩ đến ngày rút lui. Phạm Quỳnh
đã ra đi đúng lúc để giữ hầu trọn vẹn cảm tình của văn học giới.
VI- Lý do thứ sáu: nhiều báo mới xuất hiện.
Điều đáng chú ý khác là cũng trong khoảng thời gian này nhiều báo chí
mới ra đời: Phụ nữ
Tân văn ra đời năm
1929, Phụ nữ Thời đàm, năm 1930 và đặc biệt là vào khoảng giữa năm 1932 cả một
loạt báo mới ra đời hay tái bản hoặc chuyên chú hẳn về xã hội hoặc đi sâu vào
nghiên cứu văn học, đó là trường hợp của các báo Chớp bóng, Từ bi âm, Đông tây tuần báo, Văn
học tạp chí, Đông thanh tạp chí, An nam tạp chí, Phong hóa tuần báo.Văn học tạp chí, số 1 ra tháng năm dương lịch năm 1932, trong bài Phi lộ đã
tuyên bố mục đích "là để làm cái cơ quan chung cho tất cả các nhà văn có
tài, có học thức trong nước cùng đóng góp vô mỗi người một phần tâm lực trau
dồi cho, sửa sang cho, gom góp cho, chỉnh đốn cho cái tiếng nói của mình thành một áng văn chương có khuôn phép
phân minh, có tài liệu phong thiệm, có thể thức đường hoàng, có lời lẽ tốt đẹp
mà dần dần gầy dựng thành một nền văn học xứng đáng sau này" (8).VII- Lý do thứ bảy: ra đời của báo Phong Hóa và Tự
Lực Văn Đoàn.Nhưng
năm 32 là năm của tuần báo Phong Hóa. Phong Hóa là một tờ tuần báo
ra ngày thứ năm, số đầu tiên ra ngày 16 Juin 1932. Phong Hóa buổi đầu là của
Phạm Hữu Ninh.Khổ báo buổi đầu thay đổi nhiều. Từ số 1
đến hết số 10, báo ra khổ nhỏ 24x33; nhưng từ số 11 đến số 20 thì khổ báo lại
to khác thường, to hơn cả khổ giấy nhật trình ngày nay; và từ số 20 trở đi thì
lại lấy giấy khổ trung bình 31x44. 1- Kỹ thuật mới mẻ
của báo Phong Hóa
Xét về hình thức, thì từ số 1 cho đến số
13, ngoài bìa báo không có đề báo do ai chủ trương hết. Ngay tên ông Phạm Hữu
Ninh cũng không hề xuất hiện trên báo bao giờ. Bỗng số 11, ngày 25-8-1932, loan
bằng tiêu đề lớn: "Một sự cải cách lớn của báo Phong Hóa..."Phong Hóa tuần báo tạm ra 4 trang
giá bán 0p03 để đủ thời giờ dự định một cuộc hoán cải rất lớn lao."Vài tuần nữa tờ báo Phong Hóa sẽ được vừa lòng độc giả về hết các phương
diện văn chương, mỹ thuật, tư tưởng."Xin độc giả vững tâm chờ đợi: Phong Hóa tuần báo sẽ không phụ tấm lòng
yêu mến của độc giả".Số 13 ra ngày 8 Sept. 1932, một tiêu đề
lớn hơn kéo dài hai cột báo nơi giữa trang nhất."Một cuộc hoán cải lớn lao trong báo
Phong Hóa.
"Một sự lạ trong làng báo!
Một cái mới!
Đến ngày thứ năm 22 Sept, 1932.
"Báo Phong Hóa sẽ ra số mới
"8 thay 4 trang (khổ nhật trình) mỗi số 0p07
"Bàn một cách vui vẻ về các vấn đề cần thiết:
"Xã hội, chính trị, kinh tế.
"Nói rõ về hiện tượng trong nước
"Có 15 tranh vẽ, nhiều chuyện vui, v.v...
"Cần thiết...
"Hoạt động...
"Vui vẻ...
"mãi... mãi...
"Ai cần xem báo! Ai thích đọc báo!
"Nên đọc Phong Hóa" (9)
Nguyên đọc nội dung cũng như cách trình
bày hai mục quảng cáo trên đây, ta cũng đã thấy có một bàn tay chuyên nghiệp về
báo chí nhúng vào tờ tuần báo Phong Hóa rồi. Trong mục quảng cáo số 13 ra ngày
8 Septembre 1932, ta đọc những câu như: "Bàn một cách vui vẻ về các vấn đề cần
thiết: Xã hội, chính trị, kinh tế". Lần đầu tiên làng báo
Việt Nam chủ trương bàn các vấn đề một cách vui vẻ, khác với chủ trương các
báo đi trước, như Nam Phong chẳng hạn bao giờ cũng trịnh trọng kênh kiệu, quý phái...Các lời quảng cáo trên đây kể ra không
phải là quá đáng. Thực vậy, Phong Hóa, từ số 14 ra ngày thứ năm, 22 Septembre
1932, mới lạ từ hình thức đến nội dung.Báo ra 8 trang thay vì 4 trang. Trên trang
nhất xuất hiện ban lãnh đạo của Phong Hóa: Fondateur directeur politique, ông
Nguyễn Xuân Mai; Directeur, ông Nguyễn Tường Tam; Administrateur Gérant, ông
Phạm Hữu Ninh. Tuy chưa được tăng cường như sau này, vì trước khi được đặt dưới
quyền điều khiển của Nguyễn Tường Tam, tuần báo Phong Hóa của ông Phạm Hữu
Ninh, ngay từ số 1 ra tháng Juin 1932, cũng đã có một nội dung khác các báo
đương thời, cả về văn cũng như về ý tưởng. Trần Khánh Giư Khái Hưng là cây bút
cốt cán, giữ nhiều mục quan trọng trên Phong Hóa suốt từ số 1 cho đến số 13.Nhưng, từ số 14 ra cuối tháng Septembre
1932, khi mà Nguyễn Tường Tam đứng ra điều khiển tờ báo này, với sự cộng tác
thường xuyên của Khái Hưng, Tú Mỡ, Tứ Ly, Thế Lữ, Thạch Lam... thì báo Phong
Hóa quả là một trái bom nổ giữa làng báo.Thực vậy, từ đấy trở về trước, báo chí ở
nước ta có vẻ quan liêu, khệnh khạng. Nam Phong, mặc dầu được coi là một tạp
chí tân tiến, mới mẻ, vẫn là cái tân tiến, mới mẻ của bọn trưởng giả, mang tích
cách quan lại.Phong Hóa đã đưa ra hẳn một tinh thần mới
trong việc làm báo, tổ chức tòa báo. Điều này chính Nhất Linh hầu như cũng vỗ
ngực tự đắc mà nhận như vậy, nhân ngày kỷ niệm báo ra đời được chẵn ba năm. Đọc
bài tự thuật sau đây của Nhất Linh, các bạn thấy ngay hồi ấy, Nhất Linh đã có
một quan niệm rất mới mẻ về nghề làm báo:"Chúng tôi ra số báo này để kỷ niệm
ngày báo ra, vì hai năm trước đây, chúng tôi đãng trí nên quên mất việc đó."Đã ba năm cùng các bạn cùng đi một
con đường, tất là có những kỷ niệm chung mỗi bước đường lại một nhiều thêm. Vậy
bây giờ cùng các bạn dừng chân trông trở lại để nhắc đến những việc đã qua,
những cảnh đã gặp và nhân tiện ngỏ cùng các bạn hay những truyện riêng trong
nhà báo và trong nghề báo, những truyện thân mật mà người ta chỉ thường kể cho nhau
nghe trong những lúc nhàn rỗi, nghỉ ngơi. Phải là những lúc đó, những câu
truyện trong số báo này kể ra mới hợp thời và không có vẻ cầu kỳ."Những lý tưởng nó sai khiến chúng
tôi, những ý muốn của chúng tôi trong khi làm báo, Tứ Ly đã có bài tỏ ở dưới đây."Có một điều ai cũng nhận thấy là
vào thời báo Phong Hóa ra đời (kể từ số 14 trở đi, lúc Tự Lực Văn Đoàn bắt đầu
chủ trương báo P.H.), trong làng báo có một khuynh hướng mới về mặt nhà nghề: tờ
báo viết để quần chúng xem và tờ báo mong sống về độc giả."Thời kỳ những báo loại báo Nam
Phong đã tàn, hay còn nữa thì những thứ báo đó cũng chỉ để cho một hạng người
đọc riêng, không có ảnh hưởng lớn lao đến quần chúng. Những báo của buổi đời
mới không thể là những tờ báo khảo cổ hay sống dựa vào những tài liệu cũ được
nữa. Những tờ mới đó phải căn cứ vào hiện trạng, phải săn sóc đến dư
luận, đến thời sự, phải là những bức tranh hoạt động của xã hội trước mắt. Nhà viết báo không
thể cắm đầu lục lọi trong kho sách cũ, hoặc bó gối trong phòng viết những bài
luận về triết lý vừa khô khan, vừa khó hiểu, nhà viết báo bây giờ phải làm thế
nào cho ai ai cũng hiểu được mình mà viết về những vấn đề có liên quan đến một
số đông người. Nghĩa là phải làm theo những người viết báo bên Âu Mỹ."Báo Phong Hóa về mặt trong còn có
một sự mới khác hẳn các báo trong nước xưa nay. Lệ thường thì tờ báo hoặc là
của riêng một hội, một đảng (ở nước ta ít khi thấy), hoặc là của riêng một
người. Người bỏ tiền ra bao giờ cũng nhận lấy chức Giám Đốc dầu rằng không có
một cái tài nhỏ mọn gì về nghề làm báo. Ông Giám Đốc chủ nhân đó bỏ tiền ra
thuê một ông chủ bút và ít nhiều ông trợ bút. Các nhà văn sĩ vì thế nên luôn
luôn xung đột với những nhà tư bản có quyền sai khiến mình mà không có đủ tài
để mình phục. Tờ báo ít khi có tôn chỉ duy nhất, vì tòa soạn thay đổi luôn mà
ông Giám Đốc thì không đủ tài trí bắt họ theo mình."Báo Phong Hóa khác hẳn không
phải là của riêng một người nào. Báo Phong Hóa là của chung hết thảy
những người viết báo Phong Hóa. Không có ông chủ, người làm công, không có
cuộc xung đột giữa các nhà văn sĩ, các nhà tư bản. Những người giúp việc báo
Phong Hóa là những nhà văn độc lập, mà tờ báo Phong Hóa vì thế là
một tờ báo độc lập, không phải theo mệnh lệnh của một đảng nào hay một nhà tư sản nào.Mỗi người mỗi tháng chỉ cần một số tiền đủ
sống, còn tiền lãi, nếu có, sẽ là của chung và sẽ dùng vào những công cuộc
chung rồi phải làm sau này" (1). 2- Phong Hóa đả kích,
hạ bệ tất cả thế hệ đàn anh
Muốn hiểu cuộc cách mạng mà báo Phong Hóa đã xô đẩy ra năm 1932, ta cần hiểu biết tình hình văn học từ năm 1932 trở về
trước.Vậy từ năm 1932 trở về trước ta biết triều
đình Huế là một triều đình cổ lỗ. Cả một cái nội các già nua của Nguyễn Hữu
Bài, toàn là bọn hủ nho, cũng đủ cho ta thấy trình độ dân trí ra sao rồi.Nếu văn học là bộ mặt xã hội, thì văn học
thế hệ 1913-1932 mà các tạp chí, nhất là tạp chí Nam Phong giữ một vai trò vô
cùng quan hệ là hình ảnh cái xã hội đồi trệ, quan liêu, kênh kiệu, khệnh khạng
của triều đình Huế lúc ấy vậy. Nếu muốn hiểu xã hội Việt Nam, cần nhìn vào
triều đình Huế thế nào, thì cũng vậy muốn hiểu văn học Việt Nam hồi này không
gì tốt cho bằng nhìn vào Nam Phong. Nam Phong là linh hồn, Nam Phong là tất cả
văn hóa thế hệ 1913-1932. Câu nói trên đây quả không phải là quá đáng. Bởi vì,
từ 1932 trở về trước, các nhà văn của chúng ta chưa có thói quen viết sách,
xuất bản sách mà chỉ có thói quen viết văn trên báo chí. Vậy Nam Phong hầu như
là cơ quan ngôn luận duy nhất đã liên kết tất cả các cây bút có thế giá đương
thời, đến nỗi nếu đem đốt hết Nam Phong đi, thì nền văn học thế hệ 1913-1932,
có thể nói là bị bóc lột rỗng tuếch. Nói như vậy để các bạn ghi nhận thế giá và
uy tín của Nam Phong nó to tát đến như thế nào. Thực vậy, trong suốt mười mấy
năm trường Nam Phong hầu như giữ vai trò của một viện Hàn Lâm. Điều gì Nam
Phong viết ra đều hay, văn Nam Phong viết ra là đẹp, ý kiến Nam Phong bàn là
được tôn trọng, luật lệ Nam Phong đặt ra mọi người tuân theo, chữ Nam Phong chế
ra mọi người đều dùng... Người ta coi Nam Phong như bậc thầy.Vậy mà năm 1932 vừa bắt đầu ra đời, tuần
báo Phong Hóa đã đánh thẳng vào Nam Phong: đánh các người lãnh đạo Nam Phong,
đánh ngay cả đường lối chủ trương về tư tưởng và nghệ thuật mà nhóm Nam Phong
bênh vực, tức là quốc dân bênh vực có trên hai chục năm. Thực vậy, tuần báo
Phong Hóa là luồng gió mới, làm xáo trộn tất cả trật tự xã hội, thổi tung những
lớp bụi bặm phủ đầy trên lâu đài văn hóa cũ để lần này nó bay mù trời. Quanh
những năm 32, nhiều hiện tượng văn học xảy đến báo hiệu sự thành hình của nhiều
khuynh hướng mới, sự chuyển hướng sâu xa của văn đàn Việt Nam, nhất là sự
trưởng thành của một thế hệ văn nghệ sĩ trẻ tuổi ý thức được trách nhiệm của
mình trước lịch sử và hiên ngang đòi quyền lãnh đạo trong nước Cộng Hòa Văn
Học.Phong Hóa bắt đầu mở chiến dịch khiêu
khích, hạ bệ hai lãnh tụ của hai cơ quan ngôn luận lớn nhất của thế hệ trước,
lãnh tụ của Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong Tạp Chí. Từ bao nhiêu lâu, khắp từ Nam chí Bắc, dư
luận đâu đâu cũng coi Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh là hai ông tổ của văn học
thế hệ 1913-1932.Vậy mà Phong Hóa số 14, 22 Sept. 1932 đã đặt vè để chế diễu
hai ông chủ bút Đông Dương và Nam Phong tạp chí. "Phong dao mới"
Nước Nam có hai người
tài,
Thứ
nhất sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh,
Một
sừ béo núng rung rinh,
Một
sừ lểu đểu như hình cò hương
Không
vốn liếng chẳng ruộng nương,
Chỉ
đem dư luận bán buôn làm giàu
Bây
giờ đang sỉa sói nhau:
Người
câu "lập hiến", kẻ câu "trực quyền"
- "Thưa các ngài, thực vi tiên
Muốn
xem chiến đấu quẳng tiền vào "đây" (10)
Chế diễu như vậy chưa lấy làm đủ, cây bút hài hước của
Phong Hóa, sang số 15, ngày 27 Septembre 1932, lại có mấy dòng sau đây bằng văn
xuôi không kém mỉa mai đối với Phạm Quỳnh:"Báo Phong Hóa ra buổi sớm, buổi
chiều đi chơi rong phố, nghe thấy con trẻ hát:"Nước Nam có hai người tài...
"Thứ nhất sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh
"Hai câu phong dao có lọt vào tai hai ông lãnh
tụ hai đảng lập hiến và trực trị, chắc hai ông tài cũng... mát dạ."Ông Quỳnh có lẽ chưa vừa lòng. Ông
có giận, xin đừng giận người làm thơ, nên giận cái người đặt ra điệu thơ sáu
tám. Chả nhẽ lại viết, thứ nhất sừ Uỳnh, thứ hai sừ Ĩnh".Người ta không thể bảo báo Phong Hóa chống
Phạm Quỳnh và Nguyễn văn Vĩnh vì hai ông này làm chính trị mà chỉ vì hai
ông bị
coi là hủ hóa một lũ mà thôi. Thực vậy, Phong Hóa đã chế diễu nào
Hoàng Tăng Bí, nào Huỳnh Thúc Kháng, nào Nguyễn Khắc Hiếu, nào Nguyễn Trọng
Thuật, nào Nguyễn văn Tố. Chẳng thế mà Phong Hóa số xuân (24 Janvier 1933), đã
có bài chúc Tết "thập bát tú" do Tứ Ly (Hoàng Đạo) gửi cho 18 nhân
vật :- "Mừng cụ Hoàng
Tăng Bí tăng phúc, tăng lộc, tăng thọ, tăng... bí.-
"Mừng cụ Nguyễn Văn Vĩnh đầu năm học xem tử vi, cuối năm xem thầy số... -
"Mừng cụ Huỳnh Thúc Kháng dùng chữ nho nhiều bằng năm bằng mười năm
ngoái.-
"Mừng ông Phạm Quỳnh thăng quan tiến chức.-
"Mừng ông Hy Tống ra ngoài hẳn cái bị của cụ bảng Bí.-
"Mừng ông Nguyễn Khắc Hiếu say bằng năm bằng mười năm ngoái.-
"Mừng ông Nguyễn Trọng Thuật sinh thêm được năm bảy người An Nam mới.-
"Mừng ông Dương Bá Trạc đầu năm học xong tiếng Ăng Lê, giữa năm học xong
tiếng Quảng Đông, cuối năm nói truyện ông Đinh Bộ Lĩnh.-
"Mừng búi tó ông Nguyễn văn Tố năm nay được vào viện Bác cổ Hà Nội.-
"Mừng ông Lê văn Phúc năm nay phát tài một mình..."Chẳng những công kích cá nhân các cây bút
đàn anh, Phong Hóa còn bơi móc cả văn của bọn họ nữa.Đây các bạn nghe Phong Hóa diễu văn của Hoàng Tăng
Bí và của Dương Bá Trạc: "Trứng vịt khó tiêu, không biết còn
cái gì khó tiêu hơn nữa không? Hỏi thế tất ai cũng buồn sắc mặt mà đáp lại
rằng: có văn của cụ Hoàng Tăng Bí. "Nhưng văn cụ bảng tuy có bí, nhưng
chưa đến nỗi bí như văn ông cử Dương Bá Trạc, tự là Tuyết Huy. Văn cụ Hoàng bí
vì thế văn cụ dài lướt thướt như cái áo thụng nhưng cụ còn có tư tưởng. Đến như
ông Dương Bá Trạc, văn ông giống như cái thùng sắt tây, ngoài bóng trong rỗng
không có tư tưởng gì. Vì thế văn ông lại bí hơn một bực mà bí lại bí "rỗng"."Ngày xưa, Chu Du 3 lần hộc máu,
ngẩng cổ lên giời mà than rằng:"Giời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?"Độc giả báo chí nước Nam mấy
lần ngủ gật cũng nên ngáp mà than rằng:
"Giời đã sinh ra cụ bảng Hoàng, sao còn sinh ra ông cử Dương?" (11)
Và đây Phong Hóa diễu cợt nhà học giả
Hoàng Tăng Bí:
"Tài phát minh của cụ Hoàng Tăng Bí,
Cụ Hoàng Tăng Bí mới tìm ra một thứ bệnh, cụ gọi là một bệnh chung của bạn
thiếu niên ta ngày nay! Cái bệnh ấy là cái bệnh quá yêu tây học, công kích Nho
giáo, không biết rằng dân tộc Việt Nam còn đoàn tụ được đến ngày nay, xã hội
Việt Nam còn giữ trật tự đến thế này đều là nhờ Nho giáo!"Cái bệnh ấy có không, không biết, chỉ biết rằng Cụ bảng Hoàng cũng mắc
bệnh, cái bệnh chỉ trông thấy cái tốt đẹp của Nho giáo.Chẳng những diễu bọn nam nhi, Phong Hóa cũng chẳng thương
đến một nữ sĩ đã từng làm cho thanh niên thiếu nữ yêu mến. Đó là nữ sĩ Tương
Phố: "Giải quán quân.
"Bà Tương Phố xưa làm bài thơ "giọt lệ thu" đăng trong
Nam Phong, ai cũng khen là lâm ly, ai oán, sầu thảm, thảm thiết, ảo não, và
buồn rầu..." Tính ra bài văn đó có 61 chữ vừa "than ôi", "ôi", và "lệ", chia ra như sau này:29
chữ "than ôi",18
chữ "ôi",14
chữ "lệ",Một bài độ bốn trang, mà có những 61 chừng ấy chữ, thì than ôi! Làm gì mà
chẳng đáng bi thương" (11).Nhưng chẳng hiểu sao Phong Hóa lại có thù riêng gì với
thi sĩ Tản Đà! Trong suốt mấy tháng cuối năm 32 đầu năm 33, chẳng mấy số báo
mà Phong Hóa buông tha nhà thơ sông Đà núi Tản. Họ chế diễu báo của ông:
"Báo Annam của ông Vĩnh đã là báo
"Annam mới", thì báo "Annam" của ông Hiếu hẳn là báo
"Annam cũ"... ông Vĩnh mới ít, mà ông Hiếu cũ nhiều. Nên báo ông
Vĩnh phải đặt là "Annam mới và cũ" mà báo ông Hiếu là "Annam
cũ cũ" hay "cũ cũ" không cho xong chuyện!"Trong số "cũ cũ" mới đây, ông Tản Đà uống rượu, uống rượu
rồi ông say, ông say "rồi thì xuất". Ông say nên ông trót làm
bài thơ cảm tình để cảm hóa Phong Hóa."Giữ quán quân về "chết" đi "sống" lại thì là báo
Annam của ông Hiếu:"3 lần chết
"4 lần ra đời
Bao giờ ông Tản Đà làm cho số chết và sống đều bằng nhau thì độc giả mới được
nhờ ông lắm lắm" (11).Họ chửi ông đủ điều, họ làm thơ họa vận để
rêu ruốc ông. Các bạn nghe Tứ Ly (12) nói về
Tản Đà và Annam tạp chí của ông:"Họa nguyên vận:
Anh
lên giọng rượu khuyên Phong Hóa
Sặc
sụa hơi men khó ngửi quá.
Đã
dạy bao lần tai chẳng nghe,
Hẳn
còn nhiều phen mồm bị khóa!
Thân
mềm chưa chắc đứng ngay đâu
Lưỡi
ngắn thì nên co lại nhé!
Phong
Hóa mà không hóa nổi anh,
Túy nhân quả thực là nan hóa!
PHONG HÓA"An nam tạp chí ví như sao?"An nam tạp chí ví như đỉa đói, giai lắm,
sống đi chết lại đến mấy mươi lần."An nam tạp chí giống như con vịt giời,
nay ở phố Hàng Lọng, mai ở phố Hàng Bồ, nay ở Hà Nội, mai về Nam Thành, không
có cơ sở nhất định, thật là vô gia cư."An nam tạp chí ví như con sâu róm. Con
sâu róm mùa thu còn là trứng; mùa đông hóa ra sâu, mùa xuân biến ra bướm,
nhưng sau trước vẫn là con sâu róm, tai hại vô cùng.An nam tạp chí năm nay nội dung thay đổi, sang
năm nội dung thay đổi, nhưng sau trước vẫn là An nam tạp chí, xem đến buồn ngủ
vô cùng " (12).3- Phong Hóa đả kích tất cả các cơ quan ngôn luận
đương thời
Chẳng những Phong Hóa đả phá chế diễu cá
nhân này cá nhân khác, mà còn đả phá chế diễu tất cả các cơ quan ngôn luận do
các nhân vật thuộc hệ cũ chủ trương. Chẳng những Đông Dương tạp chí, Nam
Phong tạp chí, Annam tạp chí, ra đời đã lâu, thậm chí những báo vừa
mới ra đời như Văn
học tạp chí, Đông Thanh tạp chí, cũng đều bị châm chọc. Đây các bạn
nghe Phong
Hóa phê bình Đông
Thanh tạp chí:"Trong nước Nam tưởng chỉ có một tờ
báo cổ là báo Nam Phong. Dè đâu lại có báo Đông Thanh. Báo Nam Phong không định
cổ mà thành ra cổ, báo Đông Thanh định tâm cổ mà cổ thật."Các ông bấy lâu chúi mũi tìm tòi
trong khe đá nứt hay gậm tủ hôi mù quên cả sự đời. Bỗng một hồi, các ông giật
nẩy mình bảo nhau: "Ấy chết, trong lúc ta đang cong lưng tìm tòi, cả
quốc dân đương mong ngóng muốn biết những cái ta đã phát minh ra: nghĩ thế rồi
các ông ra mở báo."Đầu tiên, các ông đem những con dấu
cổ ra lòe bà con dốt nát, rồi các ông bàn chuyện nước Chiêm Thành, các ông lo
đòi lấy lại tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây như ta đòi hai cái lục bình cổ vậy" (14).4- Phong Hóa đả kích lý tưởng văn hóa của thế hệ trước.
Như vậy đối với
thế hệ cũ, chẳng riêng gì con người họ bị bêu xấu, cơ quan ngôn luận của họ bị
chế diễu mà chính cả đường lối của họ từng được cả quốc dân ca ngợi nay cũng bị
nhạo báng.Tứ Ly, trong mục
"Từ cao đến thấp", Phong Hóa số 28 ngày 30-12-1932, còn đả kích Nho giáo nặng nề hơn:"TÀI PHÁT
MINH CỦA CỤ HOÀNG TĂNG BÍ""Cụ Hoàng
Tăng Bí mới tìm ra một thứ bệnh, cụ gọi là một bệnh chung của bạn thiếu niên
ngày nay! Cái bệnh ấy là cái bệnh quá yêu tây học, công kích Nho giáo, không
biết rằng dân tộc Việt Nam còn đoàn tụ được đến ngày nay, xã hội Việt Nam còn
giữ trật tự đến thế này đều là nhờ công Nho giáo! "Cái bệnh ấy có không, không biết, chỉ biết rằng Cụ bảng Hoàng cũng mắc
bệnh chỉ trông thấy cái đẹp của Nho giáo."Bệnh của Cụ bảng Hoàng nghe như trầm trọng lắm, cụ nên tìm thuốc chữa đi
thôi!"Cha ra cha, con
ra con
"Cụ bảng Bí mắc cái bệnh ấy nên nói rằng vì mấy nghìn năm chuộng Nho Giáo
nên trên dưới có trật tự, cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em, chồng
ra chồng... cụ Hoàng Tăng Bí ra cụ Hoàng Tăng Bí;"Ấy đấy, ý cụ bảng là nếu không có nho giáo thì cha không ra cha, con
không ra con, anh không ra anh, em không ra em, chồng không ra chồng, vợ không
ra vợ... cụ Hoàng Tăng Bí không ra cụ Hoàng Tăng Bí."Quái thật có lẽ cụ bảng đồ rằng bên Âu Mỹ, cha không ra cha, con
không ra con, anh không ra anh, em không ra em, vợ không ra vợ, chồng không ra
chồng, mà hề Charlot không ra hề Charlot" (14).Suốt mấy chục năm,
tên tuổi Phạm Quỳnh nổi tiếng như sóng cồn vì cái đạo chiết trung, điều hòa Âu
Á, tức là cái triết lý vừa phần bảo toàn được quốc hồn quốc túy vừa phần thâu
thái được cái hay cái đẹp của văn minh Âu Mỹ.Cái chủ trương ấy
có lúc bị Phong
Hóa nghi ngờ như ta
thấy trong bài "Đạo Trung Dung của ông Quỳnh" đăng trên Phong Hóa số 16 ngày 6-10-1932. "ĐẠO TRUNG
DUNG CỦA ÔNG QUỲNH".
"Dung hợp Âu
Á, lấy những cái tinh hoa của phương Tây đem hòa lẫn với những quốc hồn, quốc
túy của ta, ông Phạm Quỳnh bấy lâu kêu gào trên tạp chí Nam Phong (nói bắc phong thì đúng hơn) cái thuyết sâu xa ấy."Cái gì hay thì ta giữ lại, cái gì dở thì ta bỏ đi. Chỉ còn một việc đeo
chuông... nghĩa là việc phân biệt cái hay với cái dở."Nghe ra khó tìm phương thi hành. Gặp việc gì khó, tây phương nói tây
phương phải, đông phương nói đông phương phải, tiên sinh biết theo bên nào?"Lúc đó chỉ còn ngồi mà đợi thời, theo chiều gió mà phất là hơn cả, thưa
tiên sinh" (12)."Cái gì hay thì ta giữ lại, cái gì dở thì ta bỏ đi. Chỉ còn một việc đeo
chuông...nghĩa là việc phân biệt cái hay với cái dở. "Nghe ra khó tìm phương thi hành. Gặp việc gì khó, tây phương nói tây
phương phải, đông phương nói đông phương phải, tiên sinh biết theo bên nào?"Lúc đó chỉ còn ngồi mà đợi thời, theo chiều gió mà phất là hơn cả, thưa
tiên sinh" (12)."Cái gì hay thì ta giữ lại, cái gì dở thì ta bỏ đi. Chỉ còn một việc đeo
chuông...nghĩa là việc phân biệt cái hay với cái dở."Nghe ra khó tìm phương thi hành. Gặp việc gì khó, tây phương nói tây
phương phải, đông phương nói đông phương phải, tiên sinh biết theo bên nào?"Lúc đó chỉ còn ngồi mà đợi thời, theo chiều gió mà phất là hơn cả, thưa
tiên sinh " (12).Điều mà lúc
đầu Phong Hóa nghi ngờ, thì dần dần sau này Phong Hóa phát động chiến dịch đả phá.Nhất Linh trên Phong Hóa số 18 (20-10-32) đã kết án cái thuyết dung hợp của
Phạm Quỳnh. Cái điều đáng lưu ý là, ở thế hệ trước, Phạm Quỳnh vẫn tự coi mình
là tay tân học, thì, sang thế hệ mới này, cái ông tân học Phạm Quỳnh, đối với bọn tân học Nhất Linh, đã trở thành cựu học. Nhất Linh viết về Phạm Quỳnh năm 1932:"Vì vậy
trong bọn cựu học, có ông Phạm Quỳnh, đã xướng thuyết Trung
Dung giữ lấy cái hay của Đông phương, thu lấy cái hay của Tây phương; dung hòa hai cái văn hóa, gây dựng lấy một nền văn minh riêng, cái mộng tưởng ông Phạm
Quỳnh là ở đấy. "Cái thuyết ấy, mới nghe ai ai cũng phải công nhận là hay, là nên theo,
song đem ra thực hành thật là khó khăn vô cùng. Ngay đến ông Phạm Quỳnh cũng
phải công nhận như vậy. Tôi, tôi lại vượt qua lên một bực nữa: cái thuyết ấy
không thể thực hành được..."Theo bên nào cũng có cái hay, cái dở, chưa chắc chắn đâu là chân lý.
Song cái văn minh cũ đem ra thực hành kết quả còn ở trước mắt ta, cái kết quả
ấy làm cho ta bất mãn."Ta chỉ còn hy vọng ở cái văn minh của Tây phương, cái văn minh ấy, đưa
ta đến đâu, ta chưa biết, song cái vận mệnh con người ta là đi vào vô định, vô
thường. Cứ thay đổi mới tiến bộ" (15)."Cái thuyết ấy, mới nghe ai ai cũng phải công nhận là hay, là nên theo,
song đem ra thực hành thật là khó khăn vô cùng. Ngay đến ông Phạm Quỳnh cũng
phải công nhận như vậy. Tôi, tôi lại vượt qua lên một bực nữa: cái thuyết ấy
không thể thực hành được... "Theo bên nào cũng có cái hay, cái dở, chưa chắc chắn đâu là chân lý.
Song cái văn minh cũ đem ra thực hành kết quả còn ở trước mắt ta, cái kết quả
ấy làm cho ta bất mãn."Cái thuyết ấy, mới nghe ai ai cũng phải công nhận là hay, là nên theo,
song đem ra thực hành thật là khó khăn vô cùng. Ngay đến ông Phạm Quỳnh cũng
phải công nhận như vậy. Tôi, tôi lại vượt qua lên một bực nữa: cái thuyết ấy
không thể thực hành được..."Theo bên nào cũng có cái hay, cái dở, chưa chắc chắn đâu là chân lý.
Song cái văn minh cũ đem ra thực hành kết quả còn ở trước mắt ta, cái kết quả
ấy làm cho ta bất mãn.Trong mục "Bàn Ngang", Tứ Ly, trên Phong Hóa số 28 ra ngày 30-12-1932, còn nói mạnh
bạo hơn Nhất Linh:"Các nhà Nho
còn sót lại trên cõi đất Việt, thường than thở cho luân thường, phong hóa, mà
nhất là than thở cho mình muốn chấn hưng được đạo Nho kia, mong cho chúng ta ở
lùi lại một trăm năm về trước."Họ muốn cho chúng ta sống như đời Nghiêu Thuấn, còn trẻ con thì cắp sách
Nho, đọc Mạnh Tử "chi hồ giả dã" vang khắp bán đảo Đông Dương, nhớn lên thì này bút, này nghiên, này lều, này chiếu, bàn chuyện thì bàn với Tam Hoàng Ngũ Đế, bàn xem Quảng Trọng đã mấy lần tù..."Những điều hay ho ấy, thật chúng ta không xứng đáng theo. Chúng ta
không thể sống như đời cổ được, vì chúng ta đã chịu ảnh hưởng một trang lịch sử
vừa qua mà các nhà nho kia muốn xóa bỏ đi. Chúng ta nghĩ khác xưa, xét đoán
cũng khác xưa rồi! Chúng ta không thể tin rằng người Thái Tây chân chỉ có một
ống, ngã là không dậy được, đèn phải có bấc, dốc xuống không cháy được, súng
thần công phải là ông súng, có tàn có tán, sốt thì đổ mồ hôi, ốm thì đổ thuốc
vào cho uống."Những điều hay ho ấy, thật chúng ta không xứng đáng theo. Chúng ta
không thể sống như đời cổ được, vì chúng ta đã chịu ảnh hưởng một trang lịch sử
vừa qua mà các nhà nho kia muốn xóa bỏ đi. Chúng ta nghĩ khác xưa, xét đoán
cũng khác xưa rồi! Chúng ta không thể tin rằng người Thái Tây chân chỉ có một
ống, ngã là không dậy được, đèn phải có bấc, dốc xuống không cháy được, súng
thần công phải là ông súng, có tàn có tán, sốt thì đổ mồ hôi, ốm thì đổ thuốc
vào cho uống. "Những điều hay ho ấy, thật chúng ta không xứng đáng theo. Chúng ta
không thể sống như đời cổ được, vì chúng ta đã chịu ảnh hưởng một trang lịch sử
vừa qua mà các nhà nho kia muốn xóa bỏ đi. Chúng ta nghĩ khác xưa, xét đoán
cũng khác xưa rồi! Chúng ta không thể tin rằng người Thái Tây chân chỉ có một
ống, ngã là không dậy được, đèn phải có bấc, dốc xuống không cháy được, súng
thần công phải là ông súng, có tàn có tán, sốt thì đổ mồ hôi, ốm thì đổ thuốc
vào cho uống.5- Chương trình cải cách của Tự Lực Văn ĐoànCó điều các bạn cần ghi nhận là những cái
mà Phong Hóa đánh đấm chẳng phải đánh đấm vu vơ đâu. Nó nằm trong chủ trương,
đường lối của cả nhóm.Một cái bản tuyên ngôn của Tự Lực Văn Đoàn
đủ nói lên điều nhận định của tôi. Bản tuyên ngôn này tuy ra đời đầu năm 1934
mà thực nội dung của nó đã tản mát hầu khắp mọi trang báo Phong Hóa ngay từ số
14 là số Nguyễn Tường Tam đứng ra điều khiển tờ báo này. Đây các bạn hãy nghe
bản tuyên ngôn đó :"TUYÊN NGÔN CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN"."Tự Lực Văn Đoàn họp những người đồng
chí trong văn giới, người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, cùng nhau theo đuổi tôn chỉ, hết sức giúp
nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong công cuộc có tính
cách văn chương."Người trong Văn Đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn Đoàn và
bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn Đoàn nhận và đặt dấu hiệu."Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo, gửi
đến Văn Đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn Đoàn có mặt ở hội đồng xét là
có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Văn Đoàn và sẽ tùy sức cổ động giúp. Tự Lực Văn Đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách."Sau này nếu có thể được, Văn Đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng
Tự Lực Văn Đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Văn
Đoàn."Người trong Văn Đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn Đoàn và
bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn Đoàn nhận và đặt dấu hiệu. "Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo, gửi
đến Văn Đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn Đoàn có mặt ở hội đồng xét là
có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Văn Đoàn và sẽ tùy sức cổ động giúp. Tự Lực Văn Đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách."Sau này nếu có thể được, Văn Đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng
Tự Lực Văn Đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Văn
Đoàn."Người trong Văn Đoàn có quyền để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn Đoàn và
bao nhiêu tác phẩm của mình đều được Văn Đoàn nhận và đặt dấu hiệu."Những sách của người ngoài, hoặc đã xuất bản, hoặc còn là bản thảo, gửi
đến Văn Đoàn xét, nếu hai phần ba người trong Văn Đoàn có mặt ở hội đồng xét là
có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận đặt dấu hiệu của Văn Đoàn và sẽ tùy sức cổ động giúp. Tự Lực Văn Đoàn không phải là một hội buôn xuất bản sách."Sau này nếu có thể được, Văn Đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng
Tự Lực Văn Đoàn để thưởng những tác phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Văn
Đoàn."TÔN CHỈ CỦA TỰ LỰC VĂN ĐOÀN"
"1.- Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không
phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi: mục đích để làm giàu thêm văn sản trong nước."2.- Soạn hay dịch những sách có tư tưởng xã hội chú ý làm cho người và
xã hội ngày một hay hơn lên."3.- Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân
và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân."4.- Dùng một lối văn giản dị, dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có
tính cách An Nam."5.- Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ."6.- Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân,
khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân, không có tính cách
trưởng giả quý phái."7.- Trọng tự do cá nhân."8.- Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa"9.- Đem phương pháp khoa học Thái Tây áp dụng vào văn chương Annam.Chín mục tiêu tranh đấu và đòi hỏi trên
đây của Tự Lực Văn Đoàn chẳng có điều nào có thể dung hòa được với chủ trương
điều hòa của thế hệ trước.Điều tai ác đáng chú ý hơn hết là Tự Lực
Văn Đoàn coi việc đả phá, đàn áp, tiêu diệt Nho giáo như là một trong chín tôn
chỉ mà tất cả mọi người trong Văn đoàn hầu như phải uống máu ăn thề với nhau để
mà triệt để thi hành. Có nhiều nhà văn, nhiều tổ chức đôi khi cũng lên tiếng đả
kích Nho giáo rất kịch liệt, phũ phàng; nhưng chưa có ai coi việc đàn áp Nho
giáo là tôn chỉ cả. Tất cả cái khác, cái mới quyết liệt, cái mới phũ phàng của
Tự Lực Văn Đoàn là ở chỗ ấy. Điều khoản thứ tám Tôn chỉ của Tự Lực Văn Đoàn ghi là:
"Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa".Nhưng quyết liệt nhất, đồng thời cũng cảm
động nhất là bài bên "Bên đường dừng bước" của Tứ Ly viết ngày
20-9-1935 để kỷ niệm báo ra đời được chẵn ba năm. Sự tàn bạo, phũ phàng đối với
Nho giáo được bộc lộ một cách rất cảm động:"Cách đây ba năm, một đêm thu giá
lạnh, tôi và Nhất Linh từ biệt Khái Hưng ở báo quán, nện gót trên đường vắng mà
về. Lúc đó vào khoảng hai giờ sáng. Da trời sám nhạt, điểm mấy ngôi sao thưa,
trên rặng cây đen sẫm, chuôi Bắc Đẩu đã nằm ngang trời. Dưới ánh vàng của đèn
điện, thành phố Hà Nội ngủ yên lặng: thỉnh thoảng chỉ nghe thấy tiếng rao của
hàng bán rong như ở một thế giới xa xăm khác đưa lại. Trong khoảng đêm dài tịch
mịch đương lúc gió heo may thổi lá khô sào sạc, chúng tôi thấy trong lòng nhẹ
nhàng vui vẻ... Sáng hôm ấy, số đầu (tức là số 14) báo Phong Hóa ra đời. "Nhắc lại đêm hôm ấy, tôi sinh ra
một tư tưởng so sánh cái đêm trường tối tăm kia là cái đời cũ, chặt chẽ, phiền
nhiễu, vụn vặt, nhỏ nhen. Sống trong cái hoàn cảnh ủ rũ ấy, ta phải mạnh mẽ
chống cự lại, để đợi vừng đông, đợi cái đời mới, phong quang rạng rỡ."Đã biết chân lý ở đâu lẽ tự nhiên
là phải quả
quyết bồng bột mà theo. Vì lẽ ấy, chúng tôi mạnh bạo, hăng hái đem văn chương
phụng sự cải cách: phá hủy những hủ tục đồi phong, xây đắp một cuộc đời hợp lẽ
phải, bỏ thành kiến, trí phục tòng, lấy lương tri mà xét đoán mọi sự... Cái tinh
thần vị tha bao giờ cũng soi lối cho chúng tôi đi."Tuy sẵn có chương trình phân minh,
có phương pháp hẳn hoi, mà Phong Hóa lúc ra đời không có lấy một bài phi lộ. Là
vì chúng tôi e nói ra không làm được. Chúng tôi sợ chương trình của chúng tôi
cũng đến như chương trình của các ông nghị, có cũng như không vậy."Ba năm qua... những ý tưởng, những
hoài vọng, chúng tôi lần lượt phô bầy trên tờ báo, được các bạn độc giả một
ngày một hoan nghênh, khiến chúng tôi nức lòng hởi dạ, càng dốc lòng đi tìm
chân lý với các bạn. "Ba năm qua... sự đổi thay của phong
tục, lễ nghi, tuy chưa rõ rệt, nhưng sự thay đổi của linh hồn dân ta đã ngấm ngầm, từ
tốn mà tiến hành không có sức mạnh nào ngăn cản lại được nữa. Những lý tưởng,
những quan niệm cũ dần dần mất vẻ uy nghi, lẫm liệt, tất rồi cũng phải theo
thời gian mà phá tan, nhường chỗ cho những quan niệm, những lý tưởng mới. Linh
hồn người ta đã thay đổi, tất hoàn cảnh không chóng thì chầy cũng phải đổi
thay. Thay
đổi hoàn cảnh, đó là mục
đích của chúng tôi vậy."Chúng tôi muốn tiêu diệt đời cũ. Nó sẽ bị tiêu diệt. Then chốt
của nó là cái
đạo tống nho. Vì thế mà chúng tôi đã mạnh bạo bài bác cái đạo không hợp thời ấy. "Có người chê chúng tôi rằng không
phô bầy những cái hay của nho giáo. Họ không biết cho rằng chúng tôi không đứng
về phương diện của nhà triết học: về phương diện này, nho giáo cũng như tôn
giáo khác, không hơn không kém. Đối với nhà triết học, văn hóa đông phương với
văn hóa tây phương đều có thể cho là hay cả. Nhưng chúng tôi chỉ muốn làm một
nhà cải cách. Nguyên lý của đạo nho, chúng tôi không bàn đến, chúng
tôi chỉ nhận ra rằng trong trường thực tế nó đã đưa xã hội ta vào vòng ngừng
trệ, tù hãm, kể gì một vài người có trí hướng cao thượng, nếu vì đạo ấy mà phần đông dân
ta dầy xéo nhau trong sự nhỏ nhen."Cuộc đời cũ mất, sẽ có người thương
tiếc ngẩn ngơ. Nhưng tiến bộ tức là biến cải không cùng, ta không thể, trong
lúc thế giới đổi thay, sinh sống mãi trong cuộc đời cũ kỹ từ ngàn năm xưa."Ba năm qua... Báo chí trong khoảng
thời gian ấy cũng tiến bộ một cách mau chóng. Những bài phóng sự, những truyện
dài có giá trị thấy dần dần xuất hiện. Báo chí khác trước, ân cần với độc giả
tìm cách bênh vực kẻ cô yếu, bài bác những sự bất công... tìm phương pháp, cải
cách xã hội một cách sốt sắng hoạt động."Ba năm qua... Hôm nay tạm dừng chân
đứng lại, chúng tôi nhìn con đường đã đi; chúng tôi ra báo ngày 22-9 năm 1932,
là một ngày rất xấu: ngày tứ ly. Không phải là một sự vô tình: chính là định
ý cưỡng lại cái thuyết số mệnh nó bắt dân ta nằm dí một nơi, đương lúc mọi
người cùng tiến. Ngày tứ ly, trong ba năm, không thấy reo họa gì cho chúng tôi.
Công việc chúng tôi làm, các bạn đã rõ. Công cuộc chúng tôi sẽ làm, xin đợi lúc
có kết quả, chúng tôi sẽ bàn đến. Dầu sao, ký vãng của chúng tôi, xin đem ra bảo
đảm cho tương lai" (18).VIII- Lý do thứ tám: sự xuất hiện của nhiều cuộc bút
chiếnCũng
trong thời kỳ này, xẩy ra nhiều cuộc bút chiến gay go giữa nhiều học giả. Phan
Khôi có thể coi là một tay chiến sĩ đáng sợ đã khua động cái bình lặng tù hãm
của Văn Đàn Việt Nam. Ông gây hấn với Trần Trọng Kim và Phạm Quỳnh: với ông
trên, Phan Khôi công kích bộ Nho giáo; với ông dưới, Phan Khôi hăng hái cảnh
cáo cái tính cách học phiệt, gây nên cái mà người ta gọi là "vụ án các
nhà học phiệt". Cùng một đà ấy, từ năm 31, mở ra ở Phụ nữ Tân văn, mục
"Vai ngự sử Văn Đàn", với mục đích đàn hoặc các nhà văn mới
tập sự.Ngoài các việc trên đây, chúng ta còn phải
ghi nhận mấy biến cố chứng minh sự xoay chiều của nền văn học mới.IX- Lý do thứ chín: sự xuất hiện những tiểu thuyết theo lối
mớiChúng ta phải kể
đến một số tiểu thuyết hay phóng sự ra đời năm 32 này. Trên các tạp chí, từ năm
32, ta thấy xuất hiện nhiều truyện ngắn của Nhất Linh, của Khái Hưng, của Lan
Khai, của Thế Lữ, mà chiều hướng chúng ta thấy khác hẳn với các truyện của
Nguyễn Bá Học, của Tương Phố...Nhưng điều đáng
chú ý là sự ra đời của mấy truyện như Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng, Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan, Tôi kéo xe của Tam Lang. Từ cách xây dựng truyện đến cách đặt
vấn đề, cách mô tả tâm lý các vai truyện mà nhất là lời văn dễ dãi, linh động,
ba tác giả này như vạch ra một đường rạch lớn phân đôi hai thế hệ trước (13-32)
và thế hệ sau (32-45). X- Lý do thứ mười: sự xuất hiện thơ mới
Nhưng biến cố đã gây xúc động hơn hết là sự
xuất hiện bài "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ " (Phụ nữ Tân văn số 122 ra ngày 10-3-1932)Trong bài này, sau
khi công kích và kết án thơ cũ một cách nặng nề, Phan Khôi đã trình làng một
bài thơ mới. Đây các bạn nghe bài "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng
thơ"."Mới đây,
tôi có gặp ông Phạm Quỳnh ở Sài Gòn, trong khi nói chuyện ông nhắc đến mấy bài
Trúc chi Từ của tôi đã làm trên sông Hương khi gặp người bạn cũ là ông Nguyễn
Bá Trác ở ngoại quốc mới về; ông Phạm tỏ ý khen mấy bài đó và nói chính mình
đã dịch nó ra tiếng Pháp. Sau hết ông khuyên tôi nên giữ cái thái độ ngâm thơ
như hồi đó thì hơn."Lời khuyên
của ông Phạm đó, dầu là nói giỡn đi chăng nữa, đối với tôi cũng phải nhìn là có
ý nghĩa. Nhưng sau khi nghe lời ấy, tôi chỉ có thể gật đầu mà làm thinh không
dám vội vàng tỏ ra mình đã vui lòng lãnh giáo. Vì con người ta mà muốn thay đổi
cách sinh hoạt về tinh thần lại còn khó hơn Chánh phủ thay đổi chế độ giáo dục
hay chế độ nấu rượu nữa không phải việc chơi đâu mà hấp tấp."Duy vì có
nghe lời đó mà tôi nhớ sực lại sự làm thơ. Thật, cái động cơ khiến viết bài này
là chính ở mấy lời của ông vậy."Ông Phạm
bảo tôi nên lấy cái thái độ ngâm thơ hồi trước. Trong đó tỏ rằng bấy lâu tôi đã
bỏ mất hay đã đổi cái thái độ ấy đi nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm thơ. Mà
quả thế, gần mười năm nay tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ gì cũng
không có."Trước kia
tôi dầu không có tên tuổi trong làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần
Tuấn Khải, song ít ra trong một năm, tôi cũng có được năm bảy bài, hoặc bằng
chữ Hán hoặc bằng chữ Nôm. Mà năm bảy bài của tôi, không phải là nói phách, đều
là năm bảy bài nghe được. Vậy mà gần mười năm nay mót lắm chỉ được một vài bài
mà thôi, thì kể như là không có."Xin thú
thực với mấy ông thợ thơ. Không có, không phải là tại tôi không muốn làm hay
không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được!"Vậy thì
hiện nay, đừng nói tôi không chịu nhận lời khuyên của ông Phạm, dầu cho tôi
nhận đi nữa, mà tôi không còn làm thơ được, thì ông mới xử trí cho tôi làm sao.
Đó chính là cái vấn đề ở đó rồi."Lâu nay,
mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi lại lúng
túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi
rồi. Thơ Nôm ư? Thì cụ Tiên Điền, bà Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho
tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc
lại nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói mình muốn nói ra, thì lại bị
những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ
loanh quanh lẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật là dễ tức."Duy Tân đi! Cải lương đi!
(Bị bỏ một đoạn
dài)
"Đại phàm
thơ là để tả cảnh tự tình mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải quý cho Chơn. Lối
thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc
quá. Mà dầu có phóng ra theo lối thất cổ,... cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu
thúc thì nó mất cái Chơn đi, không mất hết cũng mất già nửa phần."Tôi nhìn
thấy trong thơ ta có một điều đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau
khen hay thì nó là hay, chớ nếu lột tận xương ra mà xem thì chẳng biết cái hay
nó ở đâu..."Bởi vậy,
tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì chưa thành thục nên chưa có thể đặt tên
kêu là lối gì được song có thể cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là: đem ý
thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu, có vần mà không phải bó buộc bởi
những niêm luật gì hết. Ấy là như:TÌNH GIÀ
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh,
kề nhau than thở!
"Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau
hẳn là không đặng;
"Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu
mà buông nhau"
"Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho
nỡ!
"Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời
bắt đôi ta phải vậy.
"Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy
chung?
Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau;
Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! Con mắt còn có
đuôi
"Đó là bài thơ tôi làm trước đây mấy tháng mà
tôi kêu là một lối thơ mới đó. Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ
ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới: mà miếng đất tôi
kiếm được đó chẳng biết có được không, nên mới đem ra mà trình chánh giữa làng
thơ. Chẳng phải tôi người thứ nhất làm ra việc này. Hơn mười năm trước ở Hà Nội
cũng có một vị thanh niên làm việc ấy mà thất bại...: Tôi dại gì lại đi theo
dấu xe đã úp, dường như một chỗ đế đô mà cái vượng khí, đã tiêu trầm rồi, ta
phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi đây sẽ thất
bại lần nữa, nhưng tôi tin rằng sau này có người sẽ làm như tôi mà thành công". (19)Phan Khôi đã nói hai lời tiên tri: tiên
tri thứ nhứt ông bảo ông sẽ thất bại, lời thứ hai ông bảo người sau ông sẽ
thành công. Hai lời đó đều đã ứng nghiệm.Bài thơ đó thực quả là trái bom ném vào
thành trì của thơ cũ. Người ta nhao lên khắp nơi: người công kích không ít mà
kẻ tán thành ông cũng không thiếu. Người đầu tiên hưởng ứng Phan Khôi là Lưu
Trọng Lư...Ông này viết thư ngỏ ủng hộ Phan Khôi và làm thơ bắt chước Phan
Khôi. Bức thư của Lưu Trọng Lư ký tên cô Liên Hương còn mấy bài thơ thì ký tên
Lưu Trọng Lư. Sau đây là lời lẽ Lưu Trọng Lư, bộc lộ với Phan Khôi về thơ mới. "Phan tiên sinh:"Cách đây đã lâu, Tiên sinh có đưa
trình chánh giữa làng thơ một lối thơ mới. Tôi đọc bài ấy rồi tôi cứ đợi mãi mà
sau tiên sinh không thấy ai nối gót theo mà chính tiên sinh hình như cũng không
buồn giở dói việc ấy nữa. Thế là thôi. Cái "của mới" ấy có lẽ chưa
thích hợp với đời nay. Mấy muôn độc giả đã yên trí như vậy. Mà hẳn tiên sinh
cũng từng chau mặt giậm chân mà nói rằng: "Thôi, không ai ưa thì ta xấp
lại nữa, đợi khi khác ta lại mang ra". Thưa tiên sinh đợi khi khác, khi
nào nữa? Thi ca ta ngày nay đương lúc ngấp ngoải, không còn có lấy một
chút sinh khí. Nếu không xoay phương cứu chữa gấp, thì ôi thôi còn chi là tánh
mạng của thi ca. Đừng có nói lắt láy như vậy tiên sinh ạ! Nếu tiên sinh cứ giữ
mãi cái thái độ tiêu cực ấy thì bọn thi nhân "rỗng tuếch" kia còn cứ ca đi
hát lại những câu sáo hủ nghìn xưa mà không thấy nở ra được những bậc thi nhân
chân chính."Hẳn tiên sinh cũng đủ hiểu rằng,
những bậc chân thi nhân không bao giờ chịu đứng trong cái "lãnh thổ" hẹp hòi ngột ngạt, mà có thể đưa tâm hồn người ta lên tận mây xanh phảng
phất trên những nôm na, phàm tục, vật chất hàng ngày."Những nhà chân thi nhân, thà là chỉ
rung động (vibrer) trong mình chứ không chịu xuất phát ra ngoài, mà để cho
những cái niêm luật khắc khổ, làm dẹp mất cái hồn thơ lai láng mênh mông. Người
ta thường khen Anatole France tiên sinh trọn đời giữ được cái cốt cách của thi
nhân, chính là vì lẽ đó. Trong thi giới ta dễ thường được mấy người như thế,
phần nhiều nhà thi nhân cần phải xuất phát ra ngoài để cho nỗi lòng được nhẹ
nhàng, hể hả. "Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ
chật hẹp, như hiện tình thi ca nước nhà thì họ phải thất vọng biết dường nào!Vậy ta ngần ngừ gì nữa, mà không mở rộng
cái "Lãnh thổ" kia ra, để mặc sức cho họ đem những cái thiên tài
phú bẩm ra mà đua bơi vùng vẫy. Làm vậy, hoặc giả có kẻ hoài nghi mà bảo rằng:
"Phóng túng buông lung quá rồi thành ra lộn xộn, mất cả nề thơ".
Trong cái lúc quá độ, ắt phải như thế, có buông lung, có phóng túng mới có thể
phát triển hết những cái rất hay, rất quý, rất đẹp trong mình, tuy có nhiều lộn
xộn, nhưng một ngày kia thành thục rồi, sẽ trở vào trong những cái nguyên tắc
lề lối, rộng rãi hơn, tự do hơn."Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn
một lần nữa mà tiến lên đường."Cái lối thơ mới của chúng ta đương
ở vào cái thời kỳ phôi thai, thời kỳ tập luyện nghiên cứu. Không biết rồi đây
nó đi được đến chỗ thành công, hay là nửa đường bị đánh đổ! Đó là sự bí mật
của lịch sử văn hóa mai sau! Dầu thế nào đi nữa, nó cũng có giá trị là giúp
cho sự tự do phát triển của thi ca đến một chỗ cao xa rộng lớn, nó như thúc
giục, như khiêu khích, như kêu gọi nhà thi nhân ra làm một cuộc canh tân, dầu
có thất bại, thất bại vì lòng mong ước quá cao, thì nó cũng đã hiến cho ta một
cái công lớn: nó chính là một tiếng chuông cảnh tỉnh làng thơ giữa lúc
đương triền
miên trong cõi chết."Trong lúc ban đầu mà đã vội mong
ước có những tay "thầy thợ" chơn chính (véritables maitres) thật là
không thể nào được. Nhưng trái lại nếu có ai xem thường những người sáng kiến
ra cái lối "thơ mới" kia, tưởng e cũng đắc tội với tiền đồ văn học
của nước nhà lắm vậy" (20) Cô LIÊN HƯƠNG - Fai-Foo
Đủng đỉnh một con thuyền,
Trăng
lên đầu ngọn núi
Đối
cảnh với người yêu,
Cầm
tay tôi gạn hỏi:
"Mộng Vân ơi! vũ trụ ngó bao la
Nên
cười hay nên tủi?...
Lẳng
lặng tự Hằng Nga,
Vân nhìn tôi chẳng nói
LƯU TRỌNG LƯ
Trên bãi biển
Giấc
mộng tình
Thừa
lương khách đã vắng;
Trời
nước mênh mông, duy còn có bốn mắt nhìn nhau lặng.
Trên
cát vô tình, vạch chữ: Vân
Ta
vạch vừa xong sóng xóa dần...
Mỉm
cười Vân sẽ nói:
"Người yêu Vân hỡi!
Sao
người lại quá điên,
Thân
này cũng diệt, nữa là tên?"
Hẳn
tưởng nghìn thu, nhờ bãi cát,
Tan
tác, nào hay, vì sóng bạc
Cuộc trăm năm đừng có đa mang,
Tình nhân chung kiếp dạ tràng
LƯU TRỌNG LƯ
LẠI NHỚ VÂN
Hôm nay dạ lại bần thần,
Nhìn
đám mây chiều lại nhớ Vân
Này
mây hỡi! Mây chiều hỡi!
Đứng
lại đây chờ ta với
Theo
lối chim xanh,
Rẽ
lối trời tình
Cậy
cùng dì gió,
Tìm
nơi Vân ở,
Chờ
lúc nàng tựa song thưa
Ngang
trời ta đổ trận mưa
Trong
cánh song, nàng ngồi ủ dột,
Trên
lầu tiên, mưa kêu thánh thót,
Kêu
rằng: "Vân nương hỡi Vân nương
Mưa
nay, là lệ người thương"
LƯU TRỌNG LƯ
VÌ SƯƠNG THU ĐỔ
Thế giới bên mình túy lúy say,
Một nàng năn nỉ với gốc cây
Lận đận vừng trên còn vừng bạc,
Ôi! cái đẹp nghìn thu, huống gì ai thắc mắc;
Lặng
yên nàng đếm giọt sương gieo,
Cùng
với sương thu lệ nhỏ theo...
Nương
bóng nguyệt rẽ lau tìm tới
Tới
tận nàng, cầm tay tôi hỏi
- Lệ
hỡi lệ, vì ai tôi sụt sùi,
Vân
hỡi Vân vì ai Vân ngậm ngùi,
Nếu
phải vì ta mà thổn thức
Ta
sẽ vì Vân lau hạt ngọc,
- Ô
hay! sao buộc lấy mình,
Em
buồn há chỉ vì anh,
Này
anh hỡi, kề tai em gạn hỏi:
Hồ
lệ đây, vì sương thu đổ" (20)
Từ đấy
phong trào bùng nổ: hai phái thơ cũ, thơ mới gây chiến sôi nổi kéo dài mấy năm
trường nào bằng bút chiến, nào bằng khẩu chiến. XI- Lý do thứ mười một: sự xuất hiện một thế hệ mới
Như
vậy các bạn thấy các biến cố văn học trên đây là những hồi chuông cáo tri bế
mạc một thế hệ và tuyên cáo khai mạc một thế hệ mới. Hay nói cách khác, nó là
một đạo chỉ dụ tuyên bố cho về hưu "một nội các già" và công bố
danh sách "một nội các mới" theo kiểu nội các của vua Bảo Đại.Quả thế, cho dù có tài đến đâu, có huân
nghiệp đến thế nào, các ông Phạm Quỳnh, Đông Hồ, Hoàng Ngọc Phách, Tương Phố,
Tản Đà, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Văn Vĩnh... cũng là những ông thượng thư lỗi
thời trong cái nước Tân Cộng Hòa Văn Học mà phái trẻ vừa thành lập. Bởi vậy,
những tay đàn anh đã từng làm ra luật, ngự trị một cách oai hùng trong thế hệ
trước (1913-1932), theo nhau mà rút lui, vào hậu trường: Nguyễn Bá Học, Phan
Kế Bính, Phạm Duy Tốn, đều đã thành người thiên cổ trước năm 1925. Đến những
tay cự phách như Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Tuấn Khải, Hoàng Ngọc
Phách, Nguyễn Hữu Tiến, nhất là Phạm Quỳnh tuy còn sống quàng sang thế hệ
32-45, nhưng hầu như thôi hoạt động, hay mất ảnh hưởng, thế giá, trước sức đi
lên của một số nhà văn mới. Bước vào "chánh trường văn học", bọn
này nắm ngay được ưu thế, được quốc dân hoan hô nhiệt liệt. Họ có đủ mọi điều
kiện để thắng thế và thiết lập uy lực: trên, họ dựa vào thế nhà nước, nhất là
dựa vào thế nhà vua trẻ mà người dân Việt Nam hãy còn yêu mến một phần nào, bởi
vì vua Bảo Đại như ta thấy, tỏ ra rất ham cải cách, bỏ các thói tục cổ hủ như
tục lạy lục. Lần đầu tiên, một nhà vua Việt Nam đã dám du tuần khắp nước một
cách bình dị như vua Bảo Đại. Cũng lần đầu tiên, một vua Việt Nam lấy có một vợ
mà người vợ ấy vừa là con gái bình dân, vừa là người Công giáo, một tôn giáo
dầu sao vẫn chưa được triều đình, nhất là hoàng tộc ưa thích. Vua Bảo Đại đã
hành động theo sở thích chứ không hành động theo lễ giáo, hay tập tục cũ, dưới
sự thúc bách của Hoàng tộc.Đi trước cả Khái Hưng, Nhất Linh trong Hồn
Bướm Mơ Tiên, Nửa Chừng Xuân, Đoạn Tuyệt, Bảo Đại đã tranh đấu thành công cho
việc tự do kết hôn, cho chế độ độc thê, mà nhất là trong việc đánh thẳng vào
chế độ đại gia đình. Bảo Đại đã chủ trương tự do cá nhân trước cả Tự Lực Văn
Đoàn.Ngoài những điều kiện chánh trị, các nhà
văn thế hệ 32 còn mới một cách hầu như cưỡng bách ở chỗ nếu họ không phải là
cánh du học từ bên Pháp trở về như vua Bảo Đại, như Nhất Linh, thì cũng là
người xuất thân từ những trường Pháp - Việt mở ra ở trong nước, hay từ trường
Đại học Hà Nội thành lập đã có trên dưới mười năm rồi. Món ăn tinh thần của lớp
nhà văn này là sách vở Pháp ra đời sau kỳ đại chiến thứ nhất. Thế chiến thứ
nhất kết liễu đã đẩy một khúc quặt quan hệ cho lịch sử tư tưởng và nghệ thuật
của Pháp: tâm lý chung của các nhà văn hậu chiến thứ nhất là lòng hoài nghi
mọi giá trị cổ truyền, mọi nền nếp xã hội, mọi chế độ chính trị: ý hướng của
họ là muốn đặt lại mọi vấn đề, là làm lại con người đã muốn sống như con vật.
Cái ý hướng khôi phục lại con người ấy của các nhà văn Pháp, ta gặp thấy tiếng
vang ở Thiếu Sơn, tác giả Đời sống tinh thần. Mở đầu cho cuốn sách của ông,
Thiếu Sơn viết: "Người mà tôi thương tiếc hơn hết là ông Gaston Rageot.
Chẳng phải ông là ngôi sao Bắc đẩu ở trên văn đàn Pháp quốc, nhưng vì ông là
một danh sĩ hiện đại mà tôi đã hiểu biết và kính yêu. Trước đây tôi đã được đọc
một câu văn như sau này: "Chúng ta đã hết sống theo người, chúng ta phải trở lại với
cái cốt cách nhân loại (Nous avons cessé de vivre humainement. Il faut
retourner à la condition humaine). Tôi dịch chưa hết nghĩa. Tôi phải giải nghĩa
thêm: thế nào là hết biết sống theo người?"Bởi hoàn
cảnh và thời đại đã làm tan nát cái linh hồn cố hữu của chúng ta."Cái linh
hồn đó nguyên nó phong phú, nó linh động, nhưng nó đã bị đầu độc bởi những tư
tưởng về chính trị, bị mê muội bởi các tổ chức của xã hội mà thành ra tầm
thường, phức tạp, cằn cỗi, nghèo nàn"(21).Cũng như trong các
nước chính trị quân chủ, vua Bảo Đại quả quyết canh tân thế nào, thì ở trong
cái nước Cộng Hòa Văn Học, chương trình của các cấp lãnh đạo là theo mới hoàn
toàn như vậy.Cái thứ tôn giáo
chiết trung ý chí điều hòa Đông phương và Tây phương mà thế hệ 1913 đã từng ôm ấp một cách say sưa, ngày nay đột nhiên
bị đả phá và mất hết "thiện nam tín nữ". Chương trình của thế hệ
mới là phá vỡ tất cả để làm lại tất cả từ đầu: nó gây nên giữa xã hội Việt Nam
những rung chuyển sâu xa trầm trọng, mở đường cho sự thành hình những thứ tâm
lý mới, những đường lối suy tư mới, cảm xúc mới, lối viết mới...Những tay chỉ đạo
của phong trào mới hầu hết là những tay tân học, xuất thân từ các trường Pháp
và du học ngoại quốc về. Họ bắt đầu hoạt động từ một vài năm trước và có tác
phẩm xuất bản từ năm 32.Sự va chạm với Tây phương đã làm thay hẳn những sở thích và tâm
tình họ. Hầu hết họ đều không còn chút lòng kính trọng nào đối với nền cựu học
mà thường họ ít hiểu biết. Cái đặc điểm của thế hệ 1913 là nó gồm hầu toàn các
nhà học giả, các nhà tư tưởng, những người chuyên chú về lý thuyết: hoạt động
của họ vì thế thường là công việc dịch thuật hay khảo luận. Họ tự nhận là
"Những người thợ" muốn góp công, góp sức vào công việc xây dựng cơ sở
cho chữ quốc ngữ mà họ nhận thấy còn nghèo túng cần phải làm cho mỗi ngày một
phong phú thêm. Thế hệ mới, ngược
lại, gồm toàn những người muốn tự xưng là "nghệ sĩ" mà lý tưởng là
sáng tạo ra những sự nghiệp có bản sắc và hùng mạnh. Bản tuyên ngôn của Tự Lực
Văn Đoàn đã đặc biệt chú ý đến điểm này.Cái họ thắc mắc từ
đây là "nghệ thuật", là "cái đẹp". Họ không còn quan
tâm lắm đến đạo đức luân lý như thế hệ trước. Thuyết "nghệ thuật vị nghệ thuật " hầu được toàn thể văn nghệ sĩ
ủng hộ. Họ đòi cho nghệ sĩ sự tự do hoàn toàn, nhất là trong việc cởi mở tâm
hồn đến chỗ trần truồng. Tất cả họ đều gặp nhau ở chỗ này: đánh dấu cuộc đời
bằng một nếp sống lệch lạc, bừa bãi, yếu đuối. Họ muốn chính sự lệch lạc, bừa
bãi, yếu đuối ấy sẽ phá tan những điều mà họ dự tính, sẽ đánh lừa những cái họ
mong đợi và trùm lên số mệnh của họ vết tích của sự dở dang, sự thất bại. Đàn
bà, từ đây, là món sở thích thường ngày và yêu mến của văn nghệ sĩ. Họ tin
tưởng có thể có sự điều hòa trong chính những cái tương phản đối lập nhau hoàn
toàn: một bên là những bùn dơ nhớp của cuộc sống mà nghệ sĩ đang sống, bên kia
là vàng thập của cuộc đời đã được thi vị hóa. Nghệ sĩ, bởi vậy, tin tưởng rằng
tác phẩm văn chương phải là kết tinh do chính những mâu thuẫn bi đát thảm hại
ấy, nghĩa là do những bước tiến, bước thoái cũng như do những cố gắng của con
người vươn tới, nhân đức hay trườn xuống trụy lạc. Họ luôn luôn muốn
"dấy loạn", muốn "rựt đứt" mọi ước lệ để đòi tự do phóng đãng hoàn toàn và
hưởng thụ tất cả với một sức cuồng nhiệt vượt bực. Sức hoạt động
chính vừa có tính cách bao la vừa có tính cách sâu rộng của văn nghệ sĩ thế hệ
mới là một hoạt động thiên về tâm lý mà mục đích là để giải phóng cho tinh thần: khuyến khích văn nghệ sĩ tìm ra những nhẫn giới mới, thôi thúc họ đem đặt
những giá trị nghệ thuật lên trên đỉnh chót mọi hoạt động của con người.Trước kia, văn gia
thường là những nhà bác học, những tay bách khoa, muốn làm hết mọi công việc.
Chẳng hạn như Phạm Quỳnh, ta thấy ông vừa là nhà báo, vừa là nhà dịch giả, vừa
là nhà khảo luận, vừa là sử gia, vừa là triết gia, vừa là nhà phê bình, vừa là
nhà tự điển...Nhưng từ nay, văn
nghệ sĩ có khuynh hướng đi đến chuyên môn và họp thành trường, thành phái mà lý
tưởng và chương trình khác biệt nhau hay đối lập nhau.Đàng khác, những thể văn như báo, dịch, biên khảo v.v... trước kia
giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, hầu choán tất cả mọi hoạt động văn học, từ
nay rơi xuống hàng dưới.Ngược lại, những
thể văn mới như phê
bình, kịch nghệ, tiểu thuyết, thơ ca, sẽ
giữ một địa vị cực kỳ quan trọng.Chúng ta chọn năm
32, để làm khởi điểm cho thế hệ mới mà chúng ta muốn nó sẽ bế mạc vào khoảng
tháng 8 năm 45, bởi năm 32 và năm 45, là hai "lúc lịch sử" vô cùng
quyết liệt. Năm 32 xoay chiều cho một luồng xúc cảm và suy tư rồi đây sẽ kéo
dài cho đến ngày Đảo chánh vào tháng 8 dương lịch năm 45. Thực vậy, dầu sau
này, Việt Minh vì theo chủ nghĩa cộng sản đã làm lòng người ly tán, nhưng lúc
buổi đầu, họ đã gây được hẳn một phong trào mạnh mẽ, hay nói cách khác, cuộc
Đảo chánh vào mùa thu năm 45 đã xoay chiều hẳn lịch sử Việt Nam, công nhiên trả
lại cho quốc dân quyền tự do mà thực dân Pháp đã chà đạp lên trong ngót 80 năm.
Chính phủ Trần Trọng Kim đã nhờ vào thế lực của Nhật, lật được ách thống trị
của Pháp để tuyên bố độc lập, nhưng nền độc lập của chánh thể Trần Trọng Kim
không được ai để ý, thậm chí có người không biết đến. Phần vì chiến tranh còn
đang kéo dài, phần vì sức uy hiếp của quân Nhật quá mạnh, phần vì nạn đói hoành
hành làm chết mấy triệu người. Chứ ngày mà Chánh phủ lâm thời ra mắt quốc dân ở
Hà Nội, công nhiên xé hiệp ước đã ký với Pháp và hạ bệ chế độ quân chủ thì
không ai là không náo nức tham dự. Toàn là những biến cố trọng đại chưa từng có
trong lịch sử Việt Nam. Chính bởi thế chúng ta chọn năm 45 là năm bế mạc cho
thế hệ mà chúng ta khảo sát năm nay bởi vì hình thức và nội dung văn học từ sau
1945 đã biến đổi hẳn. Thế hệ 32-45 là một thế hệ văn học phồn thịnh và phong
phú nhất trong suốt cả hai ngàn năm lịch sử.Sau tất cả những phân tích trên
đây, chúng ta có thể đi tới những nhận định cụ thể sau đây:
A- CÁC HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC VỨA
BẾ MẠC
Điều nhận định thứ nhất là ta trông thấy rõ một bức màn vừa buông xuống, một thế hệ vừa rút lui, nhiều hiện tượng văn học vừa bế mạc.
a)- Đường lối suy tư
Trước hết, về mặt
tư tưởng, tức đường lối suy tư, ta thấy chấm dứt cái chủ trương từng được đặt
lên hàng đầu cho tất cả mọi hoạt động chẳng kỳ là chính trị, văn hóa hay nghệ
thuật: đó là chủ trương hòa hoãn, thỏa hiệp, điều hòa. Cái chủ trương Pháp Việt đề huề trong chánh trị không còn nữa.
Cái chủ trương văn hóa muốn tham bác cả Đông lẫn Tây bị đả kích. Cái lý tưởng
bắt nghệ thuật phục vụ cho luân lý đạo đức bị đả phá.b)- Về mặt tâm tình:Cái thái độ nhu
nhơ, nước đôi, nửa chừng bị coi là hủ hóa, lỗi thời.c)- Về chữ
viết:Các văn thể như
phiên dịch, biên khảo nếu không biến mất, thì cũng bị gạt xuống hàng hai.- Câu văn biền
ngẫu, nhịp nhàng, dài lượt thượt từng đợt bốn, năm chữ biến mất.B- CÁC HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC MỚI KHAI MẠC.Đồng thời với sự mất đi một số hiện tượng văn học, thì lại xuất hiện ào
ạt không biết bao nhiêu hiện tượng mới.a)- Lối suy
nghĩ:Thế hệ mới, phần
nhiều trẻ, tây học hoàn toàn đã có lối nghĩ mới hẳn, nghĩ theo tây phương.
Những từ ngữ như "đoạn tuyệt",
"thoát ly"... không phải chỉ là đề tài của một
vài bộ tiểu thuyết mà còn là chủ trương đường lối của
thế hệ mới. Thế hệ trẻ đòi đoạn tuyệt với Đông Phương, quyết thoát ly khỏi nho giáo, cương quyết giải phóng nghệ thuật khỏi luân lý đạo đức.b)- Lối cảm xúc:Từ lối suy nghĩ
với lập trường dứt khoát, con người cũng có lối cảm xúc bộc lộ: cái lối cảm
xúc nặng tình cá nhân manh nha từ thời trước, nhưng còn bị gò bó dồn ép, đến
thời kỳ này, được tràn lan như nước vỡ bờ. Tất cả những gì kín đáo nhất của
lòng người được phơi bày ra cho hết.c)- Nghệ
thuật:Để phản ứng lại
cái sính làm thơ, viết văn vần của mấy trăm năm văn học, học giả thế hệ trước
có thái độ miệt thị văn vần và đề cao quá mức văn xuôi.Đối với thế hệ
trẻ, văn xuôi, văn vần không thành vấn đề. Vấn đề thực đáng chú ý là nghệ
thuật. Với nhà nghệ sĩ có tài, văn vần hay xuôi không bao giờ làm ngăn cản công
trình sáng tác. Và đối với hạng vô tài, thì dù có viết văn xuôi đi nữa, cũng
chẳng bao giờ làm nên được cái gì đáng giá. Đây là mấy điểm đáng chú ý của thời
đại mới.- Các văn thể
như thơ, kịch, tiểu
thuyết, phóng sự, tùy bút... tức là các loại sáng tác đi vào con đường cực thịnh...- Các nhà văn họp
thành môn phái có lập trường và chương trình riêng.- Lời văn uyển
chuyển muôn mặt, có văn vần, có văn xuôi; văn có câu dài như văn của Thái Phi,
có câu ngắn cụt ngủn như văn của Hoàng Tích Chu. Nhưng dù dài hay ngắn câu văn
bao giờ cũng sáng sủa, và không bao giờ đặt theo lối biền ngẫu như văn của Tản
Đà, Tương Phố, hay Hoàng Ngọc Phách ở thời trước. Sau khi trình bày
các lý do khiến tôi chọn năm 32 làm năm khởi đầu cho một thế hệ mới, tôi sẽ đi
vào thế hệ này để ghi nhận một vài nét chính trước khi đi vào chi tiết trong
việc khảo sát các sinh hoạt văn học.Là một cuộc sống
như mọi cuộc sống, sinh hoạt văn học thế hệ 32-45 cũng có một diễn trình biến
hóa.Vậy mười ba năm
văn học, chúng ta đã nói là nó tham dự vào một gia tài chung, nghĩa là nó có
những lối suy nghĩ cảm xúc và viết văn chung. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà
nhiệt độ bắt buộc lúc nào cũng như lúc nào.Mà thực diễn hình
nhiệt độ của thế hệ này có thể chia làm ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất kể từ
32 đến 37, là thời kỳ mở chiến dịch; giai đoạn hai từ 37 đến 42, là thời kỳ
tổng phản công; giai đoạn thứ ba kể từ 42 đến 45 là thời kỳ càn quét.Ở giai đoạn thứ
nhất năm 32-37, sự tranh đấu, dầu có hăng hái, nhưng tương đối hãy còn do dự,
cầm chừng, và chỉ mới dàn trận trên một số bình diện, như thi ca mà nhất là
tiểu thuyết. Mục tiêu của các chiến dịch đặt trọng tâm vào chế độ đại gia đình: người ta muốn đập vỡ chế độ đại gia đình để giải thoát cho cá nhân.Giai đoạn hai từ
năm 37 đến 42, là thời kỳ quyết liệt, chiến tranh có tính cách toàn diện:
người ta muốn đánh thẳng vào chế độ cũ, muốn tận diệt Nho giáo và quy cho nền
văn minh Á đông thoái trào tất cả tội ác của xã hội, tất cả xấu xa đang dâng
lên làm ngập lụt, chìm đắm con người. Khí giới để phản công vẫn là thi ca, tiểu
thuyết, phóng sự mà nhất là phê bình.Sang đến giai đoạn
thứ ba, từ năm 1942 đến 1945 là thời kỳ càn quét để tiêu diệt những tàn tích bị
coi là phản động còn rớt lại. Phóng sự, tiểu thuyết còn được dùng nhưng nghị
luận có tính cách tranh đấu là hình thức mới được xử dụng rất nhiều.Nếu đặt ba giai
đoạn trên đây vào hoàn cảnh lịch sử của chúng ta, thì ta thấy giai đoạn đầu (32-37)
có thể coi như là phản ứng của lớp người trẻ trước những biến cố xẩy ra chung
quanh các năm 32 mà ta đã nói ở trên. Giai đoạn hai từ 37-42 là do ảnh hưởng
phần nào của Mặt
trận bình dân vừa
mới lên cầm quyền ở Pháp từ năm 1936. Vấn đề ý thức xã hội bắt đầu giày vò
nhiều tâm hồn. Thời kỳ này cũng là thời kỳ chuẩn bị đại chiến và tiếp đến chịu
đựng những hậu quả của đại chiến thứ hai.Giai đoạn thứ ba (42-45) là thời kỳ hậu chiến đối với các dân tộc
Tây phương mà ngược lại đối với ta nó là thời kỳ chiến tranh thực sự: Pháp,
Nhật, Mỹ, Trung Hoa... cùng tranh giành nhau, giày xéo lên đất nước ta: kết
cục đưa đến nạn đói chết hơn hai triệu người dân năm 1945.Nói tóm lại, sau
đây là các mục tiêu tranh đấu của thế hệ mới: - Chống chế độ cũ: hô hào theo chế độ mới, theo mới một cách dứt khoát, triệt để, không kiêng
nể, e dè, thương tiếc.Tiêu biểu đại
diện cho chế độ cũ:
Là những cường hào
gian ác như các ông nghị:
Nghị Hách trong Giông
Tố
Nghị Quốc trong Tắt
đèn
Nghị Lại trong Bước
đường cùng
Nghị Bá trong Những
ngày vui
- Là những quan lại chỉ nghĩ đến làm giàu như huyện
Viết trong Gia đình. Là hình ảnh lý tưởng cho thế hệ mới, họ
chủ trương: - Đạp đổ chế đội đại gia đình để giải phóng cho con
cái khỏi quyền áp bức cha mẹ, chú bác, phụ nữ khỏi quyền đàn áp của nam giới.
Vạch trần những hủ tục phản tiến hóa. |
(1)- Bốn
thế hệ của nền văn học mới là:
|
Phôi thai từ Đông Dương Tạp Chí với những bài giới thiệu sách mới, thành hình trên Nam Phong Tạp Chí với những bài phân tích và bình giảng văn cổ hay giới thiệu sách vở ngoại quốc, văn phê bình Việt Nam, ngay từ thế hệ 1913-1932, tương đối cũng đã xây dựng được những cơ sở vững chắc. Nhưng nó chỉ thực sự đi vào con đường thịnh hành từ sau năm 1932.
Hũ to hũ nhỏ bầy la liệt.
Đỗ Thận thì:
"Một hang thăm thẳm trông lồng lộng
Bia tạc "Khâm Thiên đệ nhất động"
Đỗ Thận tiên ông ấy chủ nhân
Luyện đàn tinh nhảy và... ôm xống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét