Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2021

Sử thi Odyssée 3

Sử thi Odyssée 3

Thi ca khúc 11: Hội Đồng An Thạch và ngày khởi hành Thế Viễn Mạc: (Câu 3773 đến 4222)
CHÚ THÍCH:
3561. Pylos La Sablonneuse ở Triphyle phía Bắc Alphée và Nam Néda.
3460). Chơi cờ Hy Lạp thời cổ đại chơi cờ bắng đá cuội, cờ marelle hay dames.
3476. Dân Taphiens người đảo Taphos ở phía Bắc đảo Ithaque, bờ biển Đông Acarmanie và trong các đảo Đông Nam Leucade. Dân sống nghề thương thuyền buôn bán.
3534. Thành ngữ "Tấm khăn Pénélope" trong văn học thế giới chỉ một việc làm cần mẫn chăm chỉ, nhưng không đem lại một kết quả hay ích lợi gì, do việc Pénéloppe dệt tấm vải liệm cha chồng, ngày dệt, đêm tháo ra trong suốt ba năm, để chờ chồng về, đợi con trưởng thành, tương đương với thành ngữ Việt Nam "Dã tràng xe cát biển Đông"
3639. Tôi dịch thành "hoài lang vọng cổ" để phù hợp với tâm tình người Việt Nam, diễn tả lòng thương nhớ người đi chiến trận chưa về. Vọng cổ hoài lang do ông Cao Văn Lầu sáng tác trong Đờn ca tài tử Nam Bộ đầu thế kỷ 20).
THI CA KHÚC 11: HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN AN THẠCH VÀ NGÀY KHỞI HÀNH THẾ VIỄN MẠC
TÓM LƯỢC:
Ngầy hôm sau Hội Đồng Nhân Dân An Thạch (Ithaque) được triệu tập bởi Thế Viễn Mạc (Télemaque) tại quảng trường. Dù có sự can thiệp của Hải Linh Công (Halithersès) và Mạnh Tô (Mentor) bọn cầu hôn vẫn từ chối, không chịu rời lầu trang Uy Lĩnh. Nguyện vọng xin một con thuyền và thủy thủ đi dò thăm tin tức cha lại bị chối từ. Thế Viễn Mạc ra bờ biển cầu Thần nữ Quán Trí Tuệ. Thần lại hoá thân Mạnh Tô và hứa giúp đỡ. Trở về nhà khước từ lời Án Tinh Lộc (Antinoos), Thế Viễn Mạc ra lệnh cho vú già O Chi Khuê (Euryclée) chuẩn bị lương thực và vật dụng cho cuộc hành trình, trong lúc Thần nữ Quán Trí Tuệ tìm ra thuyền và chiêu mộ thủy thủ. Buổi tối Thế Viễn Mạc cùng bạn bè bí mật chuyển lương thực và ra đi với Thần nữ Quán Trí Tuệ hóa thân thành Mạnh Tô.
Ngón hồng bừng sáng chân trời, (3773)
Thế Viễn Mạc dậy, tươi cười nắng mai,
Y trang nhung phục kiếm dài,
Áo choàng gấm đỏ, chân hài da thêu.
Bước đi oai vệ trầm tư,
Tuổi thanh xuân đẹp tựa như thiên thần.
Khắp nơi vang tiếng loa vang,
Mời hàng bô lão, sĩ dân hội đồng. (3780)
Đỉnh đồng khói tỏa hương trầm,
Người người ngồi xuống chung quanh khán đài.
Trường thương cầm chắc trong tay,
Thế Viễn Mạc tiến đến ngay đá tròn,
Nơi cha xưa ngự họp bàn,
Hai con chó lớn theo chàng hai bên,
Quán Trí Tuệ phất đũa tiên,
Khiến chàng trai trẻ càng thêm oai hùng.
Mọi người chăm chú lắng nhìn,
Cha nào con nấy giống dòng hùng anh. (3790)
Ai Cấp Công lão anh hùng, (Egyptios)
Hôm nay chủ tọa mở phiên Hội Đồng.
Lưng còng thượng thọ lão niên,
Dạn dày từng trải bao kinh nghiệm đời,
Con ông Ai Phổ tài trai, (Antiphos)
Nổi danh cỡi ngựa thương dài phóng nhanh,
Theo Uy Lĩnh khắp chiến trường,
Tiếc thay đã chết đau thương vô cùng,
Khổng lồ độc nhãn sát nhân,
Bắt chàng xơi thịt bữa ăn kinh hoàng. (3800)
Ba con trai khác của ông,
Hai người chăm sóc ruộng đồng ông cha,
Riêng Ai Mô Nốt ba hoa, (Eurymonos)
Giao thiệp với bọn phá nhà cầu hôn.
Phần ông trông ngóng đứa con,
Nhớ thương dòng lệ hao mòn chưa nguôi.
Trước đài cảm động lệ rơi:
Hỡi dân An Thạch được mời đến đây,*
Từ lâu chẳng họp hành chi,
Từ khi Uy Lĩnh ra đi chiến trường. (3810)
Hôm nay ta họp Hội Đồng,
Vì là ai đó đang cần việc chi.
Người già hay lớp trẻ đây,
Có ai nghe nói quân đi sắp về,
Có ai tin tức đã nghe,
Hay là muốn nói chuyện quê chuyện thành.
Cầu chung ích nước lợi dân,
Cầu Thần Vương được trí lành sáng soi.
Công tử Uy Lĩnh tiếp lời.*
Tấm lòng nung nấu đứng ngồi chẳng yên. (3820)
Tiến lên giữa bậc cung thềm,
Cầm cây ngôn trượng Thông tin đại thần.*
Phi Lê Công bậc hiền nhân, (Pisénor)
Mọi người kính phục lời răn ôn hòa:
Kính thưa các bậc lão gia,
Người mời hội họp ấy l̀à chính tôi,
Đau thương giục nói nên lời,
Chẳng là tin tức những người ra đi,
Chẳng là tin biết sớm gì,
Chẳng là thông báo việc chi nước nhà. (3830)
Chính tôi triệu Hội Đồng là:
Mọi người bàn bạc để mà giúp tôi.
Đau thương nay đã gấp đôi,
Từ khi Uy Lĩnh đi rồi không ai,
Vị vua sáng suốt anh tài,
Nhân dân vương quốc tôn người như cha.
Đau thương phá sản bại gia,
Vì bọn công tử đến nhà cầu hôn.
Ép mẹ tôi phải lựa chồng,
Rồi lì ăn bám ở trong cửa nhà. (3840)
Ngày ngày chè chén ba hoa,
Giết bò cừu thịt, xem ra lộng hành.
Hơn trăm công tử tranh giành,
Phá nhà tôi chẳng làm ăn giống gì.
Cha tôi Uy Lĩnh ra đi,
Chẳng người cán đán cứu nguy cung đình.
Tôi còn chưa tuổi trưởng thành,
Tiếc chưa đủ sức đấu tranh việc đời.
Nên nay triệu tập mọi người,
Họp bàn phân xử giúp tôi việc nhà. (3850)
Khẩn cầu Thần Dớt thấu là,
Xét soi mọi việc thật thà chính trung.
Nếu không ngay thẳng chí công,
Luật Thần sấm sét bất bình chẳng tha.
Xét soi nguyện vọng tôi là:
Dứt ngay cái chuyện đến nhà cầu hôn.
Nằm lì ăn bám gia trang,
Uống ăn thô bỉ, giết càn bò dê.
Hội Đồng phân xử mọi bề,
Đền bù xứng đáng trả về cho tôi. (3860)
Bừng bừng cơn giận ngút lời,
Ném cây ngôn trượng vào nơi bậc thềm.
Mọi người cảm động xót thương,
Thế mà chẳng dám thốt lên lời nào.
Án Tinh Lộc đứng tiếp theo: (Antinoos)
Thế Viễn Mạc tự nảy giờ oán than,
Đòi đền tài sản tiếng danh,
Nhưng ai là kẻ có phần lỗi chi?
Người cầu hôn hay mẹ người?
Ba năm ấm ớ với lời cầu hôn. (3870)
Người thì hy vọng mỏi mòn,
Người thì lời hứa sẽ còn se duyên,
Người thì nhắn nhủ khuyên lơn,
Nhưng trong toan tính, chẳng thèm duyên ai!
Đến nay năm thứ tư rồi,
Nàng ngồi khung cửi dệt thôi chẳng ngừng.
Hẹn rằng người đến cầu hôn,
Nàng còn phải dệt tấm khăn liệm này.
Cho cha chồng đắp mai đây,
Khi người nằm xuống có gì che thân. (3880)
Ngày dệt, đêm thắp đuốc hồng,
Tháo ra dệt lại ba năm mỏi mòn.
Có người thị nữ một hôm,
Mách rằng ngày dệt, đêm nàng tháo ra.
Người cầu hôn thế mới là,
Ngày đêm canh giữ, đến nhà xét xem.
Bắt khăn liệm dệt phải xong,
Đúng như lời hứa lấy chồng năm nao.
Hứa rằng sự thật ra sao,
Hứa lời thì phải làm theo với lời. (3890)
Không tin thì hỏi mẹ người,
Bảo rằng chọn lựa có nơi, có tình.
Việc gì phòng lạnh một mình,
Khi Uy Lĩnh mất đã không tin gì.
Xét An Kinh tự xưa nay,
Bao giai nhân đó chuyện ghi sử vàng.
Thy Lộ, Anh Mai, Mỵ Liên. (Tyro, Alcmène, Mycène).
Xét Nhã Lan đó còn hơn các nàng.
Với tài mưu trí cỏn con,
Nhưng lần tính toán này còn hãy sai. (3900)
Người cầu hôn đến đợi hoài,
Ăn bò dê, uống rượu chơi đến ngày.
Chọn chồng như hứa y lời,
Ngày nàng chọn lựa việc thời xong ngay.
Nàng còn hứa cuội, hứa mây,
Nhà người tài sản ngày ngày tiêu hao.
Vinh quang nàng chọn chồng nào,
Còn người tiếc rẻ rượu đào, cừu dê.
Chúng ta ở mãi chẳng về,
Cho khi nàng kết bạn thề hợp loan. (3910)
Thế Viễn Mạc đáp lời rằng:
Án Tinh Lộc hỡi tôi không cải lời,
Mẹ tôi, tôi kính yêu người,
Người đà nuôi nấng sinh tôi ra đời.
Cha tôi đâu đó phương trời,
Một vùng hoang đảo, một nơi hiểm nghèo.
Ngày mai tôi sẽ nói sao?
Nếu cha từ một phương nào hương quan.
Mất còn chưa biết thật không?
Làm sao quyết định, lấy chồng kết duyên. (3920)
Cầu hôn là chuyện trăm năm,
Hãy thôi đừng đến ăn nằm nhà tôi.
Hãy về ăn của nhà người,
Mỗi người một buổi thay nơi đãi đằng.
Chớ nên vu vạ ăn nằm,
Chẳng ai chịu thấu quanh năm tiệc tùng.
Tôi kêu đến tận trời xanh,
Hãy xem Thần Dớt thấu tình chẳng tha,
Búa trời sấm sét chói lòa,
Thần Vương trừng trị, chẳng ta trả thù. (3930)
Từ trên sơn đỉnh thiên thu,
Mắt nhìn qua đám mây mù mênh mang,
Dớt gửi đôi cánh đại bàng,
Vụt bay cánh rộng bao quanh quảng trường.
Vuốt dài, mắt sắt như gươm.
Bay trên đầu lượn bóng đen tử thần.
Rồi quay nhau đánh trên không,
Mỏ đầu vung mổ bắn tung máu hồng.
Mọi người kinh hoảng bàng hoàng,
Đôi chim bay mất, điềm mang lạ lùng. (3940)
Hải Linh Công, lão anh hùng, (Halithersès)
Đứng lên ngỏ với Hội Đồng Nhân Dân,
Ông người đoán mộng chiêm tinh,
Đoán chim biết được dữ lành tiêu hao.
Dớt cho điềm báo ra sao?
Bây giờ toàn thể đồng bào nghe đây:
Tôi tiên tri rõ điều này,
Sống còn ân oán, việc đầy đau thương!
Uy Lĩnh đang ở trên đường,
Sẽ về đất nước không còn bao xa. (3950)
Cầu hôn ăn vạ nằm nhà,
Lắm điều sằng bậy, gây ra oán hờn.
Hãy nhìn xa rộng thiệt hơn,
Dứt đi cái gốc, cái nguồn tai ương.
Nay điềm chim đánh khác thường,
Tôi e rằng chuyện khôn lường đớn đau.
Một loài mà cấu xé nhau,
Chắc là ăn ở ra sao chẳng lành,
Uy Lĩnh mưu trí vô cùng,
Tai ương nào cũng thoát vòng hiểm ngay. (3960)
Ngày mai Uy Lĩnh về đây,
Dù thân trơ trọi, mất đi quân đoàn.
Bao năm xa cách vô vàn,
Chẳng ai còn nhận ra chàng về đây.
Tôi tiên tri rõ điều này,
Nghe lành tránh dữ chớ vay oán hờn.
Cầu hôn Âu Tinh Mạc đáp liền: (Eurymaque)
Ông già chớ lấy chuyện chim dọa người.
Hãy về quê hưởng thú chơi,
Giữ điều tiên đoán, đoán đời con ông. (3970)
Xem chúng có thoát tử thần,
Tiên tri tôi đoán dữ lành còn hơn.
Trong trời bay lượn chim muông,
Biết gì số mệnh chim trong trời hồng.
Quân đoàn Uy Lĩnh còn chăng?
Đắm thuyền, mất xác bão giông hiểm nghèo.
Tiếc ràiâng ông chẳng đi theo,
Để nay khỏi nói những điều tiên tri.
Ông đang cầu cạnh việc gì?
Vuốt đuôi Thế Viễn Mạc hưởng chi đặc quyền. (3980)
Bảo rằng già lão luyện hơn,
Nói lời mê tín, chẳng còn ai nghe!
Bảo rằng mệnh nọ số kia,
Số ông có tránh được chưa thảm sầu?
Còn Thế Viễn Mạc hãy mau,
Về nhà bảo mẹ khuyên nhau biết là:
Trở về nhà cũ mẹ cha,
Chờ người sính lễ đặng mà kết hôn.
Bọn ta công tử An Kinh,
Chẳng sợ Thế Viễn Mạc, chẳng sợ hơn ông già. (3990)
Sợ tiên tri bói chim gà,
Sợ lời trẻ dại chưa qua việc đời.
Cầu hôn là việc chúng tôi,
Mục tiêu đạt đến lấy người: giai nhân.
Tranh nhau như ngựa đua tranh,
Được dù sống chết, tiếng danh chẳng cầu.
Cản ngăn chẳng được gì đâu!
Chỉ thêm chuốc oán, chuốc sầu mà thôi.
Bao giờ nàng chẳng lựa người,
Bọn tôi ở mãi, ăn chơi dài dài. (4000)
Mỗi ngày thịt béo rượu vui,
Mỗi ngày một lễ, chờ người kết hôn,
Khi nào nàng chọn lựa xong,
Bọn tôi sính lễ, hôn nhân cho nàng.
Thế Viễn Mạc cất tiếng vang:
Âu Tinh Mạc việc cầu hôn các người,
Việc này là việc mẹ tôi,
Tôi không nói nữa việc đời khó khăn,
Trên cao soi thấu các Thần,
Và An Kinh cả toàn dân biết cùng. (4010)
Nay tôi muốn một thuyền buồm,
Hai mươi thủy thủ tinh thông lái chèo,
Tôi đi Xích Bạc, Phy Lô,
Hỏi Vua đi trận thành Troa về rồi,
Mười năm thắng trận xa vời,
Vì đâu còn mãi nổi trôi chưa về.
Bao binh sĩ, bao thuyền bè,
Sống còn lưu lạc, mọi bề ra sao?
Cầu xin Thần Dớt ngôi cao,
Bao điều còn mất, nơi nao tìm người? (4020)
Một năm tìm kiếm khắp nơi,
Nếu cha tôi mất, thì tôi trở về,
Lập mồ tang lễ tại quê,
Rồi xin mẹ chọn phu thê kết nguyền.
Mạnh Tô, Phụ Chính đứng lên, (Mentor)
Bạn hiền Uy Lĩnh chăm nom chí tình,
Từ khi chinh chiến xuống thuyền,
Mạnh Tô cai quản cung đình, lầu trang:
Toàn dân An Thạch nghe chăng!
Vua ta Uy Lĩnh anh hùng khoan dung. (4030)
Tay cầm vương trượng bao năm,
Trị vì sáng suốt, tiếng tăm ôn hòa.
Yêu Vua như kính yêu cha,
Vì đâu đối xử như là bất lương?
Chẳng tôn kính lại xem thường,
Khi người vắng mặt, ăn không nằm dài,
Chẳng tôn trọng của một ai,
Chẳng còn nhân phẩm con người là chi,
Bảo rằng Uy Lĩnh mất đi,
Phải tìm ra được cớ gì, nơi đâu? (4040)
Vì đâu chẳng nói một câu,
Để cho một đám mọt sâu lộng hành.
Toàn dân An Thạch đông hơn,
Lẽ nào chịu đựng dối dang bọn này.
Cầu hôn Lê Tích đáp ngay:
Mạnh Tô xấc xược, người nay lẫn rồi.
Xách động dân chống chúng tôi,
Nổi dậy dân chúng vì vài bữa ăn?
Chẳng ai dại chết đấu tranh,
Lợi quyền chẳng được, cũng không danh gì! (4050)
Nếu mà Uy Lĩnh về đây,
Hy vọng đánh đuổi bọn này cầu hôn,
Khôi phục quyền thế được chăng?
Ngày về ấy chẳng ngày mừng đoàn viên?
Ngày về Uy Lĩnh bại vong,
Ngày về nhục nhã tang thương tủi hờn.
Cầu hôn chúng tôi đông hơn,
Một mình Uy Lĩnh thoát chăng ngày tàn?
Lời ta đã thấu thiệt hơn,
Ta truyền giải tán Hội Đồng hôm nay. (4060)
Mạnh Tô, Hải Linh muốn đi,
Theo Thế Viễn Mạc chết thì ai ngăn?
Riêng tôi muốn nói trước rằng:
Ra đi thì có mà không ngày về.
Mọi người im lặng nảo nề,
Mắt nhìn nhẫn nhục, ai về nhà ai,
Bọn cầu hôn tiếp tục chơi,
Đến cung Uy Lĩnh nằm dài ăn không.
Thế Viễn Mạc bực trong lòng,
Đi ra bờ biển cầu Thần A Tê Nê: (4070)
Cầu xin Thần Nữ lắng nghe,
Xin Thần cứu giúp ngày về cha con.
Giúp con vượt biển hỏi thăm,
Mong cha còn sống mau nhanh trở về.
Bên trời Thần nữ lắng nghe,
Hiện ra an ủi vỗ về âu lo,
Mượn hình dáng của Mạnh Tô:
Thế Viễn Mạc, bác thấu cho nỗi lòng.
Hiểu tình con những chờ mong,
Mong con sớm gặp cha hằng thương yêu. (4080)
Lòng con thương nhớ bao nhiêu,
Lòng con mong mõi cha mau về nhà,
Việc làm ta quyết chí ta,
Xá gì cái bọn đến nhà cầu hôn,
Càng ngạo mạn, càng du côn,
Ngày tàn bọn chúng chẳng còn là bao.
Nay ta lo liệu thuyền cho,
Con về chuẩn bị lương khô xuống thuyền.
Rượu nước trong hủ đất nung,
Bột mì, khô thịt, khăn mền, chiếu chăn. (4090)
Phần ta chiêu mộ cho xong,
Một đoàn thủy thủ tốt lòng khó chi.
An Thạch thuyền mới khó gì,
Ta tìm cho chiếc thuyền đi biển ngàn.
Đêm nay ta chuẩn bị xong,
Đưa thuyền ra bến nhanh cùng nắng mai.
Thế Viễn Mạc vội vâng lời,
Lời người quen thuộc, những lời sắt son.
Đến nhà lòng chợt hao buồn,
Bọn cầu hôn đứng trong sân rộn ràng. (4100)
Đứa thì quay lợn bếp hồng,
Đứa thì thọc huyết, lột lông da cừu.
Án Tinh Lộc thấy cười ruồi,
Bắt tay rồi nói những lời đâu đâu:
Thế Viễn Mạc cớ vì sao?
Nói lời giận dữ, nói câu giận hờn?
Hãy vào đây nhắm rượu ngon,
Rổi xơi thịt béo, chớ buồn mà chi!
Việc xin một chiếc thuyền đi,
Dân An Kinh đã có đây sẵn sàng. (4110)
Sang Phy Lô để hỏi han,
Xem cha ngươi đã mất còn hay chăng?
Thế Viễn Mạc giọng bướng ngang:
Tôi no, tôi chẳng có màng uống ăn,
Ngày tôi thơ ấu đã đành,
Cùng người ăn uống, trẻ ranh biết gì!
Bây giờ tôi lớn khôn rồi,
Tôi không còn muốn những lời lố lăng.
Lòng tôi đã quyết chí rằng,
Giá nào tôi cũng đi thăm hỏi người. (4120)
Không thuyền đi hộ thuyền ai,
Quyết tìm tin tức cha thời mới thôi.
Rút tay hậm hực nên lời,
Hắn đà nắm chặt nói cười mỉa mai.
Một tên nói nói cười cười:
Viễn Mạc muốn giết chúng tôi giả vờ,
Đi cầu quân ở Phy Lô, (Pylos)
Hay là Xích Bạc về cho đốt nhà. (Sparte)
Ít ra đường cũng còn xa,
Đi Âu Phi thuốc độc là có thôi. (Ephyre) (4130)
Rắc trong hồ tắm nước hơi,
Là chúng tôi sẽ đi chơi nhị tỳ.
Một tên chua chát tiếp bài:
Hay là hắn muốn ngày dài lênh đênh,
Như Uy Lĩnh đã bao năm,
Chết trong biển cả, chẳng mong trở về.
Nói mà chi, hắn u mê,
Gia tài của hắn, ta hè chia nhau,
Người cưới mẹ hắn được trao,
Lâu đài và tấm thân đào giai nhân. (4140)
Thế Viễn Mạc chẳng nói năng,
Rút tay rồi lại bước nhanh lên lầu.
Đến kho tổng tháp tầng cao,
Vàng, đồng, y phục, lương khô sẵn sàng.
Xuống hầm kho chứa rượu vang,
Bao năm cất dấu, rượu càng thơm hương.
Cửa kho tàng khóa hai lần,
Một người thân tín giữ gìn ngày đêm.
Dặn dò vú O Khuê thêm:
Vú ơi rượu quý bao năm kho này. (4150)
Mẹ đà cho cất nơi đây,
Chờ cha về thết một ngày đoàn viên.
Bây giờ con quyết đi tìm.
Con đi Xích Bạc và miền Phy Lô,
Hỏi thăm tin tức cha sao?
Vú an ủi mẹ chăm lo cung đình.
O Chi Khuê thốt lời than:
Con ơi, biển rộng cha còn biết đâu?
Bỏ thân đất lạ, biển sâu?
Bao năm mẹ đã âu sầu nhớ thương! (4160)
Giống dòng chỉ một mình con,
Ra đi còn biết sống còn được chăng?
Bọn cầu hôn lắm mưu thâm,
Biển sâu sóng cả, mênh mông con thuyền.
Mưu sâu, kế độc chờ con,
Để mà thụ hưởng, chia phân gia tài.
Trầm ngâm Viễn Mạc trả lời:
Chớ lo, chớ sợ vú ơi việc này,
Có Thần giúp chuyến đi đây,
Có Thần khuyên bảo việc này cho con. (4170)
Vú ơi! Vú có hứa chăng,
Không nói với mẹ chừng hơn mười ngày.
Đợi người tự hỏi đâu đây,
Con không muốn mẹ hao gầy khóc thương.
Rồi chàng bảo vú thề nguyền,
Cùng với Thần nữ lặng im mười ngày.
Rồi cùng chuẩn bị cuộc đi,
Rượu chum, lương thực chất ngay đường hầm.
Rồi chàng ra lại sảnh đường,
Lẫn vào trong đám cầu hôn rượu chè. (4180)
Còn riêng Thần nữ bộn bề,
Hoá thân Viễn Mạc, đi về khắp nơi,
Tuyển chân thủy thủ gọi mời.
Chẳng bao lâu đủ đông người nhiệt tâm.
Đến Nô Anh Môn có thuyền buồm, (Noémon)
Sẵn sàng vì nghĩa, mượn thuyền mới tinh.
Mặt trời vàng nắng hoàng hôn,
Thần đà cho kéo con thuyền ước mơ,
Thuyền trong bến vắng đợi chờ,
Mọi người hớn hở mong giờ ra đi. (4190)
Y trang, buồm lái, chèo tay,
Hành trang sắp sẵn ngày mai khởi hành.
Trở về nơi chốn lầu trang,
Bọn cầu hôn đã say, càng no nê,
Hóa Mạnh Tô vẫy phép mê,
Chân xiêu, chân vẹo đi về nhà riêng.
Khép đôi mắt bợm say mèm,
Gục đầu ngất ngưỡng trong rèm ngáy vang.
Gọi Thế Viễn Mạc nhẹ nhàng:
Con thuyền đã sẵn, thủy đoàn đã xong. (4200)
Chỉ còn chờ lệnh của con,
Lái chèo đã sẵn, lên thuyền ra khơi.
Thế Viễn Mạc vội đến nơi,
Theo chân Thần nữ gặp người nhiệt tâm.
Đợi Thế Viễn Mạc khẽ rằng:
Bến đây có lối hầm thông lâu đài.
Lương khô sắp sẵn hầm ngoài,
Ta cùng nhau vác khuân ngay xuống thuyền.
Chớ làm kinh động náo huyên,
Tôi không cho mẹ biết buồn tôi đi. (4210)
Trong nhà tôi tớ biết chi,
Chỉ O Khuê vú già hay chuyện mình.
Tàn canh sắp dọn xuống thuyền,
Đủ lương khô cuộc du hành dò tin.
Hừng đông vừa rạng nắng lên,
Nhổ neo chèo lái căng buồm ra khơi.
Quán Trí thổi gió mang đi,
Gió Tây ấm áp thuyền say nắng hồng.*
Thế Viễn Mạc đứng cột buồm,
Oai nghiêm thuyền trưởng trẻ trung lệnh truyền. (4220)
Quán Trí Thần nữ ngồi bên,
Phy Lô thẳng hướng con thuyền lướt nhanh.*
Thi ca khúc 12: Cuộc du hành Thế Viễn Mạc ở Phy Lô
(Câu 4223 đến 4748)
CHÚ THÍCH:
3808. Tóc dài Achéens đân Hy Lạp ngày xưa để tóc dài, hay mang đầu tóc giả, hoặc búi tóc trên đỉnh đầu có cột dây vàng, hay thắt nơ có hình con ve. Khác biệt với người nô lệ hay người vùng Cận Đông cắt tóc ngắn hay đầu trọc.
3819. Tôi dùng chữ công tử thay cho con ông dùng cho phái nam, công tử Uy Lĩnh là Thế Viễn Mạc con Uy Lĩnh. Tôi dùng nương tử thay cho chữ con ông phái nữ. Thời cổ đại người Hy Lạp không có họ, nên họ gọi tên và kèm theo con ông. Với bậc vua chúa tôi dùng tôn tử, và với thần tôi dùng chữ thần tử.
3822. Phong tục Hy Lạp, để tránh tình trạng nhiều người nói một lượt không ai nghe ai. Vị Thông tin đại thần trao cây ngôn trượng cho người muốn nói, phát biểu. Nhà Vua có cây Vương trượng thần Dớt ban để trị dân, Người tế tự giữ đền các Thần có cây Thần trượng.
4218. Gió Tây còn có tên là gió Tăy Khuê Zéphyre gió Tây Bắc đẩy cánh buồm thuyền Télemaque từ Ithaque đến Pylos la Sablonneuse. Trong Odyssée Hoa Hồng của Gió, La Rose đes Vents gồm: Borée Gió Bắc,Eurus Gió Đông, Notus Gió Nam, Zéphyre Gió Tây.
4220. Thành Pylos xây cất bởi anh em Pélias, Nélée khai sáng ra triều đại Néleides, truyền ngôi cho Nestor, Iolcos. Di tích khảo cổ ngày nay tìm lại được một nền cung điện gồm 105 phòng. Télémaque về sau cưới con gái út vua Nestor. Kinh thành có hải cảng Pélias nằm sâu trong vịnh Pagasétique, nơi đây hội quân các chiến thuyền đi đánh thành Troie.
THI CA KHÚC 12: CUỘC DU HÀNH THẾ́ VIỄN MẠC Ở THÀNH PHY LÔ
TÓM LƯỢC: Thế Viễn Mạc và Mạnh Tô đến Phy Lô, được tiếp đón nồng hậu. Thế Viễn Mạc trả lời Vua Ninh Tô về mục đích chuyến đi, cầu mong được biết tin cha Uy Lĩnh. Vua Ninh Tô kể lại cuộc chiến thành Troa và ngày chia tay trở về của các binh thuyền Hy Lạp, từ đó không còn tin tức gì Uy Lĩnh. Thế Viễn Mạc kể chuyện bọn cầu hôn thúc ép, lộng hành và cầu mong ngày về của cha. Vua Ninh Tô kể lại cái chết của An Gia Đại Vương, Sau buổi tế lễ vua Ninh Tô mời hai vị khách ở lại, nhưng riêng Mạnh Tô từ chối và ra đi. Vua Ninh Tô nhận ra Thần nữ Quán Trí Tuệ hoá thân và dâng lễ tế hôm sau. Thế Viễn Mạc được hoàng tử Phi Sinh Trác (Pisistrate) vâng lệnh vua cha đánh xe đi La Thế Đệ Môn gặp vua Mai Ninh Lạc.
Vầng dương rạng rỡ trời xanh, (4223)
Sáng soi thế giới an lành cõi thiên,
Cõi trần xanh ngát đất liền,
Cánh đồng lúa chín trải vàng bóng mây.
Phy Lô bến cảng tường vây,
Vua Nê Lê trị thành xây vững bền.
Dân Phy Liên hội bên đền,
Cạnh nơi cửa bể tế Thần Hải Long. (4230)
Chín con bò mộng đen mồng,
Chín hàng ghế sắp năm trăm chỗ ngồi.
Trang nghiêm cờ lộng rợp trời,
Linh đình yến tiệc vua tôi dự phần.
Gia nhân tíu tít dọn lên,
Món lòng bò nướng thơm ngon ngạt ngào.
Đùi dâng Thần ngự ngôi cao,
Rồi chia phần với rượu đào bánh thơm.
Bỏ neo cập bến con thuyền,
Quán Trí đi trước dạng hình Mạnh Tô. (4240)
Thế Viễn Mạc bước theo sau,
Quán Trí Tuệ đã dặn dò khuyên răn:
Chớ nên nhút nhát nói năng,
Con đà đi đến đồng bằng cùng ta.
Hỏi thăm tin tức của cha,
Sống còn số mệnh người đà ra sao?
Đến cung vua Ninh Tô chào,
Thành tâm mà hỏi nỗi nào vì đâu?
Nhà vua sáng suốt nhân từ,
Sẽ cho con biết việc như thế nào. (4250)
Viễn Mạc rằng: Biết nói sao?
Con chưa quen với lời chào lễ nghi.
Với người già, thế nào đây?
Con chưa kinh nghiệm văn hay dong dài!
Quán Trí Tuệ mắt sáng cười:
Con ơi, tự nói những lời nghĩ suy,
Thần Văn sẽ dẫn lời thay,
Như sinh ra có biết hay việc gì!
Ăn no khôn lớn cần chi,
Thánh Thần còn dẫn dắt gì nữa chăng? (4260)
Thế Viễn Mạc theo bước chân,
Hai người đến trước Hội Đồng Phy Liên.
Ninh Tô cùng các vương tôn,
Quần thần, tướng lĩnh quay quần lễ tân.
Thấy hai khách lạ đến thăm,
Mọi người mừng rỡ, hỏi han đón mời.
Phi Sinh hoàng tử thay lời: (Pisistrate)
Khẩn mời khách lạ vào nơi cổ bàn.
Thảm da êm trải cát vàng.
Hoàng thúc Thái Chí dự phần cùng vua. (Thrasymède)* (4270)
Lòng thơm dọn dĩa sứ hoa,
Rượu vang đỏ thẩm rót ra chung vàng.
Ngỏ lời chúc tụng ly nâng:
Xin mời khách lạ cầu Thần Hải Long.
Chúc nhà Vua lễ tế thần,
Nhờ người mà có hội mừng hôm nay.
Cầu Thần ban phúc cao dày,
Trọng người cao tuổi chung này trước tiên.
Bạn trẻ trai tráng thanh niên,
Rượu mời xin rót tiếp mừng chung sau. (4280)
Quán Trí Tuệ nâng chung đào,
Trang nghiêm đứng trước đài cao khẩn cầu:
Hải Long Thần Rung Địa Cầu,
Xin Ngài ban phúc nhiệm mầu trần gian,
Vua Ninh Tô cùng Vương tôn,
Quần thần, quý tộc, dân lành Phy Liên.
Được mùa no ấm bình yên,
Vượt qua bệnh dịch, hoàng trùng, thiên tai.
Cầu Thế Viễn Mạc và tôi,
Hoàn thành sứ mệnh biết người, biết tin. (4290)
Trở về quê quán yên lành,
Nhờ Thần tế độ cao xanh lộc dày.
Thế Viễn Mạc rượu cầm tay,
Nghiêm trang kính cẩn cầu ngay như lời.
Lễ xong tiệc dọn nơi nơi.
No nê thịt nướng, rượu mời chén trao,
Sau chung rượu ngọt mật đào,
Nhà Vua mới hỏi cớ sao sự tình:
No say xong lễ tế thần,
Giờ xin được hỏi quý danh các người? (4300)
Các vị từ xa đến đây,
Hẳn là có những việc chi tỏ tường,
Chẳng là bốn biển lênh đênh,
Phiêu lưu cướp biển gieo tang tóc đời?
Thế Viễn Mạc vội trả lời,
Quán Trí Thần nữ ban người nhiệt tâm,
Lòng thương yêu để hỏi thăm,
Người cha yêu quý chàng hằng nhớ mong.
Nê Lê Tôn tử Lão vương,
Vinh danh dân tộc An Kinh anh hùng. (4310)
Ngài đà hỏi chúng tôi rằng:
Là ai vượt biển đi thuyền tới đây?
An Thạch quê hương chúng tôi,
Nễ Sơn đỉnh núi ngất trời biển xanh. (Néion)
Điều chúng tôi muốn biết tin,
Là cả dân tộc chờ mong ngày về,
Cha tôi Uy Lĩnh năm xưa,
Cùng Ngài kết nghĩa ăn thề thành Troa,
Hội quân vì nghĩa dựng cờ,
Mười năm chiến trận mưu mô hạ thành. (4320)
Ngày về biển cả gian truân,
Bão giông gió dữ trên đường hương quan,
Lạ lùng số phận anh hùng,
Chẳng hay, chẳng biết, chẳng tin chốn nào?
Cồ Nốt Thần tử ngôi cao,
Chắc còn muốn giữ nơi nào, chẳng tin.
Ngài ơi, Ngài có biết chăng?
Kể cho tôi biết, tôi mong tin người!
Cúi đầu quỳ gối bên Ngài,
Cha tôi có chết, mắt ai chứng nhìn? (4330)
Hay nghe ai nói sự tình,
Cha tôi lưu lạc lênh đênh nơi nào?
Bây giờ người ở phương nao?
Nói cho tôi biết nỗi đau thương này!
Dù cho sự thật chẳng hay,
Kể cho tôi biết những ngày chiến chinh.
Ninh Tô cảm động lệ mừng:
Con ơi, những nổi gian truân từ ngày,
Dựng cờ gươm báu trao tay,
Vì danh dự hội cơ này kết liên. (4340)
Buồm căng, thẳng hướng chiến thuyền,
Vây thành Troa của vua Biam trận dàn. (Priam)
Biết bao dũng tướng hy sinh,
An Bắc, Ban Tuấn, An Sinh trận tiền, (Ajax, Patrocle, Achille)
Và bao người nữa xót thương,
Con ta An Thi Lộc thanh niên anh hùng. (Antiloque)
Bao nhiêu chiến trận lẫy lừng,
Máu đào, xương trắng xả thân chiến trường.
Chín năm chiến bại bất phân,
Nhờ mưu Uy Lĩnh anh hùng cha con. (4350)
Con ơi, kính phục nào hơn,
Thẳng ngay, trung chính, khôn lường mưu cao.
Hôm nay sung sướng làm sao!
Gặp con tận mặt, biết bao nỗi lòng.
Riêng ta cùng với cha con,
Tương đồng, tương đắc Hội Đồng Liên Quân.
Cùng nhau chung sức phá thành,
Mưu cao ngựa gỗ, lẫy lừng thành Troa.
Sau khi thắng trận treo cờ,
Phân chia lợi phẩm, trờ về quê hương. (4360)
Thần xui phân tán Đạt Liên,
Làm nên những trận đảo điên bất hòa.
Ý Thần Dớt muốn chăng là:
An Kinh khốn khổ phong ba não nề.
Trong khi gian khổ cùng chia,
Đến khi vinh hiển ý lìa xa nhau.
Hội Đồng triệu tập cuối chiều,
Mọi người ngất ngưỡng bao nhiêu rượu rồi.
Phật lòng nhau nói những lời,
Đắng cay, cay đắng để rồi giận thôi. (4370)
An Kinh hai ý chia đôi,
Mai Ninh Lạc dục ra khơi gió về,
An Gia Vương ý chẳng nghe,
Muốn giữ quân lại hội thề Liên Quân.
Và cùng tế lễ Nữ Thần,
Cho nguôi cơn giận, chiến tranh hận thù.
Mỗi người mỗi ý vì đâu?
Liên quân nay lại khởi đầu chia hai.
Hai bên thức trắng đêm dài.
Mỗi người theo ý, kẻ này người kia. (4380)
Ôi buồn sao nói cho vừa,
Xui chăng Thần Dớt lọc lừa đau thương.
Biển xanh vừa rạng nắng lên,
Bên tôi mang hết xuống thuyền chiến công.
Cùng bao phụ nữ lưng ong.
Lên đường ra biển thong dong cánh buồm.
Còn lại nửa Liên Quân,
Theo Vua An Trích Đại Vương tế thần.
Biển êm lặng sóng mênh mông,
Đoàn thuyền nhanh lướt trời xanh gió lành. (4390)
Đảo Tê Nê Độ dừng chân,
Tế thần cảm tạ cầu mong an lành.
Mau về cùng với gia đình.
Nhưng Thần xui chẳng thuận tình bình yên.
Một cơn cải vã nổi lên,
Nửa vòng cung tách đoàn thuyền chia đôi.
Uy Lĩnh quay lại thành Troa,
Còn tôi rong ruổi biển khơi xanh rì.
Tôi linh cảm một điều gì,
Ý Thần trừng phạt, xui chi bất thường. (4400)
Tách ra còn có một đoàn,
Ty Đê công tử, tùy tùng A Rê (Arès)
Đến đảo Lét Bốt thì ra, (Lesbos)
Gặp Mai Ninh Lạc cùng là đến đây.
Hội bàn phương hướng thuyền đi,
Chi Ô đi thẳng hướng Tây thuận buồm. (Chios)
Rồi nhắm Sĩ Bá đi lên, (Psyria)
Chi Ô bên trái, lái thuyền hướng Đông.
Đi Đến Mỹ Mã gió lồng, (Minas)
Khẩn cầu Thần giáng xuống trần chỉ cho. (4410)
Đồng lên chỉ hướng dặn dò,
Âu Bệ giữa biển hướng đồ cắt ngang. (Eubée)
Tránh bao bão tố nguy nan.
Gió lành lại thổi đưa đoàn thuyền đi.
Suốt đêm qua biển cá phi,
Cập đảo Lê Tuyết lễ nghi tế thần. (Géreste)
Tế đùi bò cầu Hải Long, (Poséidon)
Đoàn thuyền lại vượt biển hồng nắng mai.
Ngày thứ tư vượt biển dài,
Đỗ Mạnh ở lại nghỉ ngơi sửa thuyền. (Diomède) (4420)
Đoàn tôi tiếp tục cánh buồm,
Đi theo hướng gió về thành Phy Lô.
Nhờ ơn Thần thổi gió cho,
Tôi đi về đến bến bờ bình yên.
Tôi không biết các đoàn thuyền,
Nổi trôi trên biển, ngược cơn gió lành.
An Sinh công tử bình an về nhà.̣ (Néoptolème)
Phi Cát công tử tài ba, (Philoctète con Pocas)
Anh Đô về Kiết cùng là bình yên. (Idoménée, Crète) (4430)
Riêng vua An Gia Đại Vương,
Tên Âu Thích đã gian dâm vợ chàng, (Egisthe)
Âm mưu hãm hại thảm thương,
Ngày về chiến thắng, ai lường mưu gian.
May thay trung hiếu người con,
Giết Âu Thích, mẹ, rửa hờn cho cha.
Hôm nay con đến cùng ta,
Nhìn con khôn lớn bao là yêu thương.
Thế Viễn Mạc lại đáp rằng:
Ninh Tô vua bậc anh hùng thế gian. (4440)
Nê Lê tôn tử vinh danh,
Chiến công vang dội đất lành An Kinh.
Tên Ngài sáng chói ngàn năm,
Sẽ còn tên tuổi sử xanh muôn đời.
Đớn đau biết mấy Ngài ơi!
Cung đình con mấy năm rồi đau thương,
Bảo rằng cha mất trên đường,
Đến nhà một bọn cầu hôn ép nài.
Mẹ con phải chọn chồng ngay,
Thế rồi ăn ở nằm lì chẳng đi. (4450)
Bò heo rượu thịt đêm ngày,
Của nhà vô chủ, tiệc bày hơn trăm,
Ra vào xấc xược vô cùng,
Bao năm mẹ đã tủi buồn làm sao?
Vì sao Thần Dớt trên cao,
Chưa ban hạnh phúc thương đau phận này.
Ngày cha chưa trở về đây,
Con còn mang mối hận này chưa nguôi.
Ninh Tô an ủi đôi lời:
Con ơi còn gánh sự đời trái ngang. (4460)
Bọn cầu hôn đến ngang tàng,
Cung đình ăn ở xem thường, xem khinh.
Của ăn, núi cũng sụp dần,
Hãy cho ta biết ý con thế nào?
Vì toàn dân ghét bỏ sao?
Hay vì theo ý Thần nào mách chăng?
Ngày về Uy Lĩnh cầu mong,
Rửa hờn nỗi nhục bạo hành kiêu quân.
Giúp cho An Thạch an lành,
Hãy cầu Thần nữ giáng trần giúp con. (4470)
Quán Trí Mắt Cú tinh anh,
Yêu con như thể vinh danh ngày nào,
Cha con Uy Lĩnh anh hào,
Quán Trí bảo vệ biết bao nhiêu lần.
Ta cầu Thần nữ hiện thân,
Giúp con những lúc khốn cùng âu lo.
Nhờ Thần cứu nạn khổ cho,
Bọn kia chẳng bỏ ý đồ này đâu!
Thế Viễn Mạc đứng cúi đầu:
Lời Ngài con đã đổi sầu làm vui. (4480)
Con xin cảm tạ ơn Ngài,
Một niềm hy vọng bao lời phúc ban.
Lòng con tin tưởng vô vàn,
Ý tình Ngài đã trao truyền cho con.
Ngước đôi mắt sáng tinh anh,
Quán Trí Thần nữ trấn an đôi lời:
Như con vừa thốt trên môi,
Khó gì Thần cứu giúp người gian truân.
Dù nơi xa cách muôn trùng,
Mắt Thần soi sáng nỗi lòng khổ đau, (4490)
Thà bao khốn khổ gian lao,
Để rồi về lại bên nhau an lành.
Còn hơn cờ xí quang vinh,
Để rồi chết giữa gia đình tang thương.
Như Vua An Gia Đại Vương,
Âu Thích cùng vợ gian dâm giết mình.
Chết là định mệnh của chung,
Người trần ai thoát tử thần được chăng?
Nhưng Thần có thể gia ân,
Cứu cơn nguy khốn, thoát vòng khổ đau. (4500)
Cái chết độc ác biết bao,
Bất ngờ đi đến làm sao khôn lường?
Thế Viễn Mạc đáp: Xin vâng,
Mạnh Tô chớ nói xa xăm sự đời,
Lòng con đau khổ lắm rồi,
Ngày về cha đã xa xôi chẳng còn,
Tưởng chừng ảo vọng nào hơn,
Các Thần chẳng muốn người trên cõi trần.
Riêng con thắc mắc trong lòng,
Cúi xin được hỏi Vua Ông sự tình. (4510)
Ngài đã ngự trị bao năm,
Ba đời sáng suốt công bằng trị dân.
Ngài là một bậc minh quân,
Ngài là một bậc thần tiên trên trần.
Nê Lê Tôn Tử Quốc Vương,
Cho con sự thật khôn lường ra sao.
Khi An Gia chết thương đau,
Em Vua, Mai Ninh Lạc nơi nào ở đâu?
Còn tên Âu Thích mưu sâu,
Mai Ninh Lạc có biết vào âm mưu? (4520)
Hay thuyền trôi bạt phiêu du,
Cho nên anh ruột thương đau thế này!
Vua Ninh Tô trả lời ngay:
Nguyên do sự thật thế này con ơi!
Khi Mai Ninh Lạc về rồi,
Thì tên Âu Thích cướp ngôi chẳng còn.
Xác hắn bị vất ngoài đồng,
Sói ăn, quạ rỉa, ai còn tiếc thương.
Từ lâu hắn đã mưu toan,
Mối thù truyền kiếp trải hơn mấy đời. * (4530)
Khi Vua An Gia lên ngôi,
Âu Thích ẩn trốn một nơi tận cùng.
Đồng sâu chăn ngựa nuôi thân,
Tấm lòng canh cánh chỉ mong rửa hờn.
Khi Vua cất bước chinh nhân,
Có mời du tử hát đàn trong cung
Hát cho Tâm Khánh vui lòng,
Cho nàng nghe chuyện sớm hôm giải sầu.
Âu Thích mua chuộc người hầu,
Cùng người du tử ra vào trong cung. (4540)
Lửa tình bén cháy dần dần,
Bên bùa mê hoặc, bên lòng khát khao.
Khi khăn gấm, khi lụa đào,
Khiến người chinh phụ cũng xao xuyến lòng.
Lời ca tiếng nhạc mơ mòng,
Trước thì tiêu khiển sau thành thông dâm.
Tôi cùng Mai Ninh Lạc lên đường,
Nẳm sương gối đất chiến trường anh em.
Đến Châu Mi Đông dừng chân, (Soumidon)
Bổng đâu tai họa muôn phần đảo điên. (4550)
Phổ Bút cầm lái bao nâm, (Phébus)
Thuyền Mai Ninh Lạc, ngã lăn trên tàu.
Tên An Long nhẹ làm sao,
Chết đi không một lời nào trối trăn.
Phong Chi phụ lái thay chân, (Phrontes)
Đưa thuyền vào chốn bão giông tơi bời.
Tôi còn nghỉ lại một nơi,
Mai Ninh nhất quyết một lời đi thôi.
Thuyền gặp bão tố nổi trôi,
Ý Thần Dớt muốn cuộc đời thương đau. (4560)
Thổi cơn gió dữ thét gào,
Đoàn thuyền qua biển sóng cao như đồi.
Đoàn thuyền bị cắt làm đôi,
Một đoàn đảo Kiết đành thời dừng chân.
Đến Chi Độ Niên quây quần, (Cydonien)
Bên sông Đạm Thủy bến thuyền Lạc Tinh. (Iardanos, Gortyne)
Đoàn đi gặp phải đá ngầm,
Vượt qua vất vả, một phần hư hao.
Năm con thuyền dạt biển cao,
Đưa xuống Ai Cập, lạc vào chốn đây. (4570)
Mai Ninh Lạc cùng thuyền này,
Lang thang suốt bảy năm dài phiêu lưu.
Âu Thích thừa cơ âm mưu, (Egisthe)
Giết anh An Trích trả thù đảo điên.
Bảy năm cai trị My Liên, (Mycènes)
Xứ giàu vàng bạc thỏa nguyền ăn chơi,
Toàn dân rên siết khôn nguôi,
Sưu cao thuế nặng, tả tơi gông cùm.
Đến năm thứ tám vui mừng,
Anh Tuấn khôn lớn từ thành Nhã Kinh, (Oreste, Athènes) (4580)
Trở về oán trả, nợ đền,
Dâm phu, dâm phụ làm nên tội tình.
Xác phơi, quạ rỉa ngoài đồng,
Nhân dân mở hội thanh bình thảnh thơi.
Cùng ngày thuyền bỗng đến nơi,
Mai Ninh Lạc tự xa xôi về nhà,
Đầy thuyền châu báu ngọc ngà,
Chiến công từ trận thành Troa mang về.
Chắc Mai Ninh Lạc có nghe,
Có nhiều tin tức được về cha con. (4590)
Con mau đến đó hỏi thăm,
Việc nhà gấp rút, đang mong con về.
Chớ nên rong ruổi mãi mê,
Việc nhà sơ hở, bỏ bê mặc tình.
Bọn cầu hôn lắm mưu ranh,
Thừa cơ vắng mặt chia phân cung đình.
Con ra thu xếp bạn thuyền,
Nghỉ ngơi ban thưởng, kẻo trông đợi gì.
Phần ta thu xếp xe đi,
La Môn đến đó mất chi đôi ngày. (Lacédémone) (4600)
Con ta sẽ dẫn đường thay,
Hành trang chuẩn bị chất đầy rương trong.
Vua Mai Ninh Lạc tốt lòng,
Nói cho sự thật, con mong đợi chờ.
Mặt trời ngã bóng biển mờ,
Hoàng hôn phủ một trời mơ rực màu.
Quán Trí lên tiếng cáo từ:
Tạ lòng Vua đã tiếp như thế này.
Rượu nồng đà thắm men say,
Giờ xin phép được chia tay cùng Ngài. (4610)
Vua Ninh Tô khẩn hoản mời,
Hai người ở lại nghỉ ngơi lâu dài :
Dớt là Thần khách đến chơi,
Kính Thần tôi phải kính người đến đây.
Thuyền người ghé đến thăm tôi,
Giàu nghèo tôi cũng tiếp người thành tâm.
Không áo dạ cũng chăn êm,
Lẽ nào để ngủ lênh đênh ngoài thuyền.
Cháu đây, con bậc anh hùng.
Bạn từng gối đất nằm xương chiến trường. (4620)
Uy Lĩnh anh em thân thương,
Lẽ nào không được tâm tình một hôm.
Con ta cũng trạc tuổi con,
Anh em bạn hữu sớm hôm vui vầy.
Quán Trí Tuệ đáp lời ngay:
Lời Ngài đã dạy, con thì nên vâng,
Ở đây nghỉ lại tốt hơn,
Con là khách quý thiết thân trong nhà.
Còn riêng ta bận phần ta,
Xuống thuyền thu xếp, tặng quà anh em. (4630)
Thủy thủ trẻ tuổi nhiệt tình,
Đi theo ta bởi tấm lòng thiết thân.
Phục tính Viễn Mạc tận trung,
Ta người lớn tuổi được lòng anh em.
Đêm nay ta ở trên thuyền,
Rồi mai ta sẽ đi miền Châu Loan, (Caucones)
Ta còn món nợ lâu năm,
Việc quan trọng phải đi thăm hỏi người.
Cháu con đã đến cùng Ngài,
Xin cho xe ngựa đua thời đi xa. (4640)
Con Ngài dẫn dắt đón đưa,
Biết đường biết lối cùng qua bến bờ.
Nói rồi Thần nữ A Tê Nê,
Hóa thân như phượng hoàng về biển xa.
Mọi người kính phục trông ra,
Lão Vương linh tính biết là Thần ngay.
Vội cùng Viễn Mạc cầm tay:
Con ơi, ta biết con đây chẳng hèn,
Chẳng kiếp nhược tuổi thanh niên,
Nữ Thần dắt dẫn con tìm đến ta. (4650)
Nữ Thần cõi Thiên Sơn xa,
Con gái Thần Dớt hiện ra giúp đời.
Cha con từng đã được Ngài,
Hiện ra cứu giúp ở nơi trận tiền.
Nữ Thần ân đức phúc ban,
Giúp cho tôi được vô vàn hồng ân,
Vợ hiền con thảo an lành,
Tôi xin hiến tế bò con tuổi tròn.
Bò chưa đặt ách dây cương,
Sừng non trán rộng thếp vàng tế dâng. (4660)
Sau khi cầu khẩn Nữ Thần,
Lão Vương cất bước về cùng các con,
Cung vàng, điện ngọc, thảm son,
Phân ngôi chủ khách ngồi trên ghế vàng.
Rượu ngon chúc tụng ly nâng,
Sai hầu tớ sắp áo khăn sẵn sàng,
Đưa Viễn Mạc đến khách phòng,
Kề bên đại sảnh, giường nhung gối đào.
Vua về cung cấm tường cao,
Hoàng hậu chờ đón đêm vào giấc xuân. (4670)
Bình minh bừng ngón tay hồng,
Lão Vương thức dậy áo choàng uy nghiêm,
Bước chân ra chốn sảnh đường,
Cận thần tề tựu bên thềm lắng nghe.
Năm hoàng tử đứng hầu kề,
Anh Chí, Thạch Tố, Bạt Lê anh hùng. (Échéperon, Stratos, Persée)
Anh Thế, Thái Chí như thần, (Arétos, Thrasymède)
Hoàng tử thứ sáu hiên phòng bước ra,
Phi Sinh Trác dẫn khách qua, (Pisistrate)
Khách Thế Viễn Mạc bên Vua đến gần. (4680)
Hai chàng tươi đẹp oai hùng,
Chào mừng chúc tụng rồi cùng lắng tai.
Lệnh Vua phân việc hôm nay:
Các con này hãy nghe đây ta truyền,
Hôm qua Thần nữ hiện lên,
Ta đà cầu khẩn nay nên tế thần.
Hãy mau sửa soạn cho nhanh,
Bò tơ con hãy ra đồng tìm ngay,
Con ra bến cảng sáng nay,
Mời đoàn thủy thủ đến đây tế thần. (4690)
Chỉ để hai kẻ giữ thuyền,
Đứa đi mời thợ kim hoàn Đạt Cơ. (Laercès)
Nạm vàng sừng con bò tơ,
Dao rìu sắp sẵn để cho tế thần.
Bánh mì, bàn ghế, nước trong,
Trái cây rau quả trang hoàng trầm hương.
Lệnh vua vừa mới truyền ban,
Ai vâng lời nấy, sẵn sàng lễ tân.
Thạch Tố dẫn về bò non,
Anh Thế bánh nước trang hoàng hoa cây. (4700)
Một tay lúa đựng giỏ mây,
Hoàng Thúc Thái Chí rìu tay sẵn sàng.
Bạt Lê chậu huyết đặt bên,
Ninh Tô quỳ trước bàn thiên cầu thần.
Rót nước rải lúa mạch xong,
Khẩn cầu Thần nữ cạo lông đầu bò.
Ném vào đống lửa bùng to,
Thái Chí hoàng thúc đến giờ ra tay.
Vung rìu gân cổ chặt ngay,
Con bò ngã quỵ lăn ngay chết liền. (4710)
Các chàng rể nâng bò lên,
Phi Trác cắt cổ, máu đen tuôn dòng.
Đựng đầy chậu huyết đặt bàn,
Dao to xẻ thịt nhịp nhàng lễ nghi.
Phần đùi cúng tế nướng quay,
Gia nhân bếp núc, tiếp tay cổ bàn.
Phi Linh gái út Lão vương, (Polycaste)*
Đẹp xinh duyên dáng như tiên giáng trần,
Mời Thế Viễn Mạc vào phòng,
Dầu hương, nước tắm áo quần tẩm hoa. (4720)
Chàng từ phòng tắm bước ra,
Lòng xuân phơi phới như là thần tiên.
Ninh Tô thân mật yêu thương,
Mời chàng vào tiệc cùng bên ghế ngồi.
Nâng ly chúc tụng tiệc mời,
No nê rồi mới tiễn người ra đi.
Viễn Mạc, Phi Trác cầm tay,
Hành trang đã sẵn, cuộc đi khởi hành.
Chiếc xe hai ngựa thấp vàng,
Phi Linh Cát sắp thức ăn dọc đường. (4730)
Phi Sinh Trác tay cầm cương,
Giả từ hoàng tộc lên đường ra đi,
Mênh mông đồng lúa đồi cây,
Phy Lô khuất nẻo mây bay dậm ngàn.
Một ngày ngựa mỏi yên cương,
Một ngày xe ngựa qua truông suối rừng,
Nắng chiều vàng trải mênh mông,
Đô thành Phi Xứ, cạnh đồng bóng cây. (Phères)
Nhà Đi Ôn Các nơi đây, (Dioclès)
Ốc Tỉnh công tử tiếp tay đón mời. (Ortiloque) (4740)
Tiệc mừng bạn cũ chung vui,
Nghỉ qua đêm đón tiếp người thân thương.
Bình minh bừng ngón tay hồng,
Xe song mã lại thong dong lên đường.
Qua đồng rồi lại qua rừng,
Nhịp roi vun vút, băng băng đường dài.
Qua đồng xanh nắng ban mai,
Đến chiều bóng ngả, non đoài sương lam. (4748)
CHÚ THÍCH:
4260). Nestor. Vua có danh hiệu Chiến Xa Công Lão Vương.
4270). Thrasymède em vua Nestor.
4432. 4530) Tội ác và thù hằn giữa hai anh em Atrée và Thyeste là hai anh em sinh đôi con anh hùng Pélop. Pélop bội ước giết người đánh xe ngựa cho vua Énomaos tên Miéctilos đã giúp cho thắng cuộc đua và được cưới công chúa Hyppodemie. Trước khi chết hắn nguyền rủa rằng con cháu Pélop đời đời sẽ chìm đắm trong tội ác và thù hằn dai dẳng. Tội ác đầu tiên của dòng họ này là anh em Atrée và Thyeste giết Crirysippos em cùng cha khác mẹ, con Pélop và tiên nữ Adsiochée, để loại trừ đối thủ tranh ngai vàng. Việc bại lộ sợ cha trừng phạt, hai anh em trốn sang kinh đô Mycènes nhờ Vua Sténétos che chở, vua là em rể lấy nàng Nikippé. Nhà Vua mất không người kế vị. Các vị lão thần cầu Thần Zeus và được phán truyền ngôi cho người nào có Bộ Lông Cừu Vàng. Atrée có bộ lông đó và cất trong hòm khóa kín, chỉ có vợ Aéropé biết. Nhưng Aéropé vốn tư thông với Thyeste và đánh cắp bộ lông cừu vàng trao cho Thyeste và Thyeste lên làm vua ở Mycènes. Atrée khẩn cầu Thần Zeus, Thần chấp nhận đảo đường đi Thần Mặt Trời Hélios, dân Mycènes biết mình lầm lẫn và truất phế Thyeste đưa Atrée lên làm Vua... Thyeste bị trục xuất khỏi Mycènes lòng đầy uất hận, bắt cóc con trai nhỏ của Atrée đem theo, dạy dỗ và dùng nó để trả thù. Lớn lên Polisten đứa con có nhiệm vụ trở về giết cha Atrée. Atrée giết kẻ thích khách và nhận ra con mình, lòng đầy đau đớn. Atrée lập mưu hòa giải và giết ba đứa con Thyeste cho Thyeste ăn thịt. Thyeste thù hận sang trú ngụ tại Sikion. Y khẩn cầu Thần Số Mệnh, theo lời chỉ dẫn, y cưỡng bức con gái mình là Pélopia, nhưng nàng đã lấy được thanh gươm của hắn. Pélopia sinh con trai sợ mang tiếng, bỏ con vào rừng và trở về Mycènes kết duyên cùng Atrée. Đứa con đặt tên là Egisthe lại được đón về nuôi nấng. Égisthe lớn lên được giao nhiệm vụ bắt Thyeste giải về. Thyeste nhận ra con nhờ thanh gươm của mẹ cho. Thyeste thuyết phục con. Pélopia cầm thanh gươm tự sát. Egisthe giết Atrée và hai cha con lên ngôi. Hai con Atrée là Agamemnon và Ménélas bỏ trốn sang Sparte nương náu được vua Tindare gả hai con gái cho hai anh em. Clytemnestre lấy Agamemnon và Hélène lấy Ménélas. Agamemnon được Vua giúp quân trở về Mycènes trừng trị Thyeste khôi phục quyền thế nhưng Egisthe trốn thoát. Ménelas thừa kế ngôi vua thành Sparte. Sau trận chiến thành Troie vì Hélène bị Paris bắt cóc quyến rủ. Vua Agamemnon trở về chiến thắng nhưng Egisthe tư thông Clytemnestre giết vua Agamemnon lên ngôi, và bị con vua Agamemnon là Oreste giết chết.
4636. Caucones xứ dân Elides
4717. Về sau Télémaque cưới Polycaste con gái út vua Nestor.
THI CA KHÚC 13:
THẾ VIỄN MẠC ĐẾN THĂM VUA MAI NINH LẠC TẠI LA THẾ ̣ĐỆ MÔN
TÓ́M LƯỢC: Đến Lacédémone, Télémaque và Pisistrate được vua Ménélas tiếp đón trọng thể. Télémaque chiêm ngưỡng cung điện. Nhà Vua cho biết sự giàu có là do chiến lợi phẩm từ thành Troie mang về, và vua nói rằng trong các bạn chiến hữu, ông thương Ulysse nhất, Télémaque cảm động khóc. Hoàng hậu Hélène nhận ra con Ulysse. Pisistrate trình bày mục đích chuyến đi. Vua và hoàng hậu kể chuyện Ulysse và gặp Thần Biển Protée cho biết Ulysse còn sống và bị Calypso giam giữ.
Đường đi vào dọc kênh xanh,
Theo triền thung lũng đến thành La Môn. (4750)
Lâu đài Mai Ninh mênh mông,
Hoàng gia hai tiệc cưới con tưng bừng.
Gái kết duyên con An Sinh, (Achille)
Anh hùng chiến trận lẫy lừng thành Troa.
Từ trong gian khổ ước mơ,
Mai Ninh Lạc hứa gả cho anh hùng.
Nã Tố Long nối ngôi vương, (Néoptolème)*
Rước dâu về với kinh thành Nguyệt Đông, (Myrmidons)
Con trai Mai Gia Thế nối dòng,(Mégapenthès)
Cưới gái An Lộc Tô thành thông gia. (Alector) (4760)
Mẹ là cung nữ trong nhà,
Hạ Lan từ buổi rời xa lạc loài. (Hélènes)
Chỉ sinh một gái xinh tươi,
Như Ngọc Vệ Nữ sáng ngời trân châu. (Aphrodite)
Lâu đài đại sảnh mái cao,
Đèn hoa lộng lẫy sắc màu áo xiêm.
Thân bằng quyến thuộc liên hoan,
Múa ca du tử ca ngâm theo đàn.
Hai người ảo thuật nhịp nhàng,
Trò chơi vui thú, đùa vang lâu đài. (4770)
Chiếc xe dừng bánh cửa ngoài,
Anh hào Viễn Mạc, trai tài Ninh Tô.
Quản gia Tô Nê bước ra, (Étéonée)
Rồi vào thông báo băng qua sảnh đường.
Đến bên Vua mới tâu trình:
Ngài Mai Ninh Lạc giống dòng Thần Vương.
Có hai khách lạ đến thăm,
Hình dung lẫm liệt oai phong giống dòng.
Có nên tháo ngựa cương không?
Mời vào đại sảnh chung cùng tiệc hoa. (4780)
Hay là gửi họ sang nhà,
Gần bên để họ thay ta đón mời.
Nhà vua giận dữ trả lời:
Bồ Xuân nô tử mi thời ngốc ngu! (Boéthos)*
Sau mi ăn nói hồ đồ,
Như là một đứa trẻ thơ biết gì!
Bao nhiêu lần trên đường đi,
Ta đà ăn được bánh mì người dưng.
Bao lần ta được đón mừng,
Giống dòng Thần Dớt phải cùng chăm lo. (4790)
Hãy mau tháo ngựa mời vô,
Nghỉ ngơi, tắm rửa, tiệc hoa với mình.
Tô Nê băng qua sảnh đường,
Sai hầu sai tớ tháo cương mời chào.
Cất xe chăm ngựa chuồng sau.
Hai chàng thong thả bước vào cung vua.
Cột cao trướng gấm thêu thùa,
Thảm nhung, tượng đá, ngọc ngà, vàng son.
Hai chàng chiêm ngưỡng trông lên,
Cung đình vua ngự, giống dòng Thần Vương. (4800)
Vòm cao ánh sáng trên trần,
Lung linh rực rỡ, một vầng thái dương.
Chiếu qua tường cột mênh mông,
Chạm hoa, khắc lá, chim muông, thú rừng.
Lâu đài tráng lệ mấy tầng,
Nhấp nhô mấy nóc, đỉnh vàng, mái xanh.
Vách tường cảnh giới tiên thần,
Cảnh vua anh dũng chiến công rạng ngời.
Nhà vua xem kịch nửa vời,
Khách đà mời đến nghỉ ngơi trong phòng. (4810)
Nước trong tắm rửa dầu hương,
Áo choàng nhung ấm vai choàng khăn hoa.
Rồi mời ngồi bên ngai vua,
Thị tỳ mang nước ấm hoà hương bay.
Đổ trong chậu bạc rửa tay,
Rồi mang đến một mâm đầy thời trân,
Cắt thoi thịt nướng vàng thơm.
Rót chai mỹ tửu đỏ hồng vào chung.
Vua Mai Ninh Lạc chào mừng:
Xin mời khách quý hãy cùng nâng ly. (4820)
Sau khi ăn uống no say,
Rồi tôi sẽ hỏi khách này là ai?
Uy nghi tướng mạo tuyệt vời,
Cháu con Thần Dớt phương trời nào đây?
Được cầm Vương trượng trong tay,
Việc gì đi đến nơi này tìm tôi.
Nói rồi đưa miếng thịt mời,
Chăm non săn sóc như người thiết thân.
Hai chàng nâng lấy tri ân,
Ơn nhà vua đã có lòng ban cho. (4830)
Sau khi ăn uống đã no,
Thế Viễn Mạc hỏi nhỏ to bạn cùng:
Bạn tâm giao có thấy chăng?
Cung phòng đại sảnh, bạc vàng ngà voi,
So ra cung Dớt trên trời,
Chắc là cũng đẹp thế thôi như vầy.
Càng nhìn càng ngắm càng say,
Nghìn muôn vật báu chưng bày trong cung.
Lắng nghe lời nói thì thầm,
Vua Mai Ninh Lạc cười rằng: Bạn ơi! (4840)
Sánh sao cung Dớt trên trời,
Chẳng ai trần giới so nơi cõi thần.
Cõi thần bất tử vô chung,
Cung vàng, báu vật cũng cùng thiên thu.
Người trần chỉ sánh với nhau,
Ta đây chắc hẳn đã giàu hơn ai.
Trải bao gian khó hiểm nguy,
Bảy năm lưu lạc thuyền đi dặm ngàn.
Góp gom bảo vật trần gian,
Đổi trao quà tặng dừng chân ghé thuyền. (4850)
Chuyết, Ai Cập, dân Ê Tô Biên,(Chypre, Égypte, Éthiopien)
Si Đô Ni, Á Rập và miền Li Bi, (Sidonie, Érembes, Libye)*
Những miền cừu có sừng ngay,
Vừa lọt lòng mẹ từ ngày sơ sinh.
Dê một năm sinh ba lần,
Suốt năm vắt sữa, chẳng cần bánh tươi.
Trong khi góc biển chân trời,
Đoàn thuyền lưu lạc xứ người lênh đênh.
Quê nhà mất một người anh,
Chị dâu lừa lọc, thông dâm hại người. (4860)
Cho dù lắm của trên đời,
Lòng ta cũng chẳng an vui được nào.
Ví dầu đổi sự sang giàu,
Để mà hết nỗi thương đau trong lòng.
Tim ta đau khổ vô cùng,
Vì giàu sang đã đổi bằng máu xương.
Lòng ta đau xót anh em,
Máu đào xương trắng chiến trường thành Troa.
Từng đêm thương nhớ lệ sa,
Nhớ từng chiến hữu vì ta thế này. (4780)
Nhớ Uy Lĩnh còn lưu đày,
Gian nan gánh chịu từ ngày ra đi,
Mất còn ai biết tin gì?
Thương cha Lã Đạt hoen mi lệ mờ. (Laerte)
Thương Nhã Lan mãi đợi chờ,
Thương Thế Viễn Mạc trẻ thơ trong nhà.
Bơ vơ thương mẹ hỏi cha?
Hai mươi năm đó biết là nơi đâu?
Thế Viễn Mạc lòng mủi sầu.
Hai hàng lệ nóng nhỏ mau sụt sùi. (4880)
Khi nghe vua nhắc đến người,
Kéo áo choàng tím che đôi mi tràn.
Mai Ninh Lạc thấy sự tình,
Lặng im do dự, chẳng lòng hỏi han.
Vì đâu nhỏ lệ thở than,
Vì đâu đau xót vô vàn người xưa.
Trong khi do dự còn chưa,
Hạ Lan từ chốn phòng khuê bước vào. (Hélène)
Như Đạt Thế Mỹ đẹp sao! (Artémis)
Ba nàng thị nữ theo nhau hầu kề. (4890)
An Lạc Thi mang ghế hoa, (Adrasté)
An Chi Hoa đã trải ra thảm mềm. (Alcippé)
Phi Loan giỏ bạc bày bên,(Phylo)
Đó là quà tặng của nàng Anh Băng,(Alcandre)
Hoàng hậu Bồ Linh anh hùng,(Polybe)
Nhân thăm thành Thép đồng bằng sông Nin. (Thèbes, Nil)*
Nhà vua trọng đãi vô cùng,
Tặng bao vật quý bạc vàng cao sang.
Anh Băng tặng vật nữ trang, (Alcandre)
Giỏ bạc chạm ngọc khung vàng quay tơ. (4900)
Phi Loan đặt giỏ thêu thùa,
Cuộn len mới dệt màu hoa cúc vàng.
Khung quay len tím hoa sim,
Hạ Lan ngồi đặt chân lên ghế đòn.
Nhìn khách rồi chợt hỏi chồng:
Quân Vương có biết ai chăng hay là?
Khách mới đến với chúng ta?
Thiếp nhìn quen quá như là người thân.
Trông ra thật giống hình dung,
Phải con Uy Lĩnh đến cùng chúng ta? (4910)
Phải Thế Viễn Mạc đây mà?
Ngày đi còn để lại nhà trẻ thơ!
Vua Mai Ninh Lạc nghi ngờ:
Chính ta cũng thế, đang chờ hỏi thăm.
Giống như khuôn đúc lạ lùng,
Tay chân, ánh mắt, trán cùng tóc quăn.
Kể chuyện Uy Lĩnh nhớ thương,
Mà lòng thổn thức, mắt buồn lệ rơi.
Dấu trong vạt áo choàng vai,
Mà lòng thương nhớ khôn vơi nỗi buồn. (4920)
Ninh Tô công tử mới rằng:
Tâu vua Ninh Lạc, giống dòng Thần Vương,
Vị vua Nguyên Soái anh hùng,
Đúng con Uy Lĩnh thưa rằng chẳng sai.
Ngại ngùng chưa dám thưa lời,
Lời Ngài trầm ấm tuyệt vời thần tiên.
Ninh Tô, Chiến Xa Công Lão Vương,
Sai tôi xe ngựa dặm trường xa xôi,
Cầu Ngài tin tức đôi lời,
Cầu Ngài giúp đỡ cho người nguy nan. (4930)
Vắng cha con trẻ đau buồn,
Không ai nâng đỡ, sớm hôm lạc loài.
Nhân dân cả nước chẳng ai,
Giúp cho chống đỡ gia tài cha ông.
Vua Mai Ninh Lạc vui mừng:
Chao ôi ! Sung sướng quá chừng, thật ư!
Con trai người ta mến yêu,
Vì ta người trải qua nhiều gian truân.
Bao lâu mong ước mơ rằng:
Được cùng tiếp đón anh hùng về đây. (4940)
Dớt Thiên Đình thấu lời này,
Người đâu? vượt biển tìm ngay đến người.
Mang người về đến cùng tôi,
Bán thành dựng cả lâu đài tri ân,
Mời cả An Thạch cũng ham,
Cả con, cả vợ cả toàn dân luôn.
Về đây dựng một kinh thành,
Để khi hôm sớm ta tìm đến nhau.
Tấm lòng người đã biết bao,
Vì ta gian khổ, ra vào hiểm nguy. (4950)
Sướng vui cùng hưởng giờ đây,
Đến khi Thần Chết kéo mây đen nhòa.
Thần nào ghen hạnh phúc ta,
Một mình Uy Lĩnh còn chưa trở về.
Nỗi lòng thổn thức tràn trề,
Hạ Lan nàng cũng đầm đìa lệ rơi.
Ninh Tô công tử ngậm ngùi,
Mắt sa dòng lệ nhớ người anh xưa.
An Thi Lộc dũng tướng vào ra, (Antiloque)
Thành Troa gục ngã, máu pha ngọn cờ: (4960)
Mai Ninh Lạc Đại vương ơi!
Cha tôi thường nhắc đến Ngài luôn luôn,
Cha tôi rất quý rất thương,
Những khi hội họp tôi thường hỏi han,
Mỗi lần nhắc tới bạn vàng,
Cha tôi đã kể bao gian nan cùng.
Tôi còn biết nói gì hơn,
Khóc than thương tiếc thêm buồn mà thôi.
Bình minh xuất hiện chân trời,
Rồi hoàng hôn tới buông rơi ngày tàn. (4970)
Phận người có họp có tan,
Phận người mệnh bạc số tàn ra đi.
Nhớ người cắt tóc từ ly,
Nhớ người lệ nhỏ trên mi đôi hàng.
Riêng tôi mất một người anh,
Đạt Liên dũng tướng, nỗi danh anh hùng.
Mà Ngài từng chiến đấu cùng,
Tôi trong nôi bé, chẳng nhìn được anh.
Anh An Thi Lộc anh hùng,
Đấu trường tranh sức, chiến trường ai hơn. (4980)
Mai Ninh Lạc đáp lời chàng:
Con ơi, nào có ai bằng anh con,
Ta quen tính nết mà thương,
Tấm lòng ngay thẳng, nói năng vững vàng.
Cháu con Thần Dớt giống dòng,
Lời con dễ nhận ra cùng anh em.
Ninh Tô trường thọ lão niên,
Sang giàu cùng các vợ con hầu gần.
Các con tài giỏi thông minh,
Giỏi văn, giỏi võ cầm quân trận tiền. (4990)
Thôi ta ngừng khóc xót thương,
Ngày vui tiệc cưới, chớ buồn hôm nay.
Ngày mai bàn chuyện tương lai,
Hôm nay tiệc cưới, cùng vui mọi người.
Đạt Pha Long hầu cận lại mời,
Rửa tay quan khách cùng ngồi tiệc tân,
Hạ Lan rót rượu vào chung,
Bỏ hoàn linh dược giải phiền muộn đi,
Uống rồi quên hết những gì,
Nhớ thương chồng chất, sinh ly đau buồn. (5000)
Thuốc này nàng được tặng ban,
Bồ Linh hoàng hậu ngày nàng viếng thăm. (Polydamna)
Vua Thông Ai Cập xa xăm, (Thon)
Sông Nin lúa tốt, cây xanh ngát đồng.
Xứ này nổi tiếng tài danh,
Ngự y lừng lẫy tiếng danh lưu truyền.
Cháu con dòng dõi Ban Công, (Pacon)
Nỗi danh thiên hạ, tay tiên thuốc thần.
Hòa tan linh dược nàng rằng:
An Trê Tôn tử vốn dòng Thần Vương. (5010)
Trị vì thần thánh chẳng hơn,
Biết chăng Thần Dớt đã ban mỗi người,
Kẻ lành, người dữ trên đời,
Thần ban vui cả loài người thế gian.
Tiệc mừng ta hãy vui lên,
Hôm nay đám cưới, chớ buồn mà chi.
Để tôi sẽ kể chuyện vui,
Chiến công Uy Lĩnh sáng ngời thành Troa.
Uy Lĩnh can đảm xông pha,
Mấy lần giả dạng đi qua cửa thành. (5020)
Khi giả nô lệ vác khuân,
Ngang nhiên len lỏi vào trong thành này.
Trong thành đường lớn, cầu quay.
Thì chàng lại giả ăn mày xin ăn.
Chẳng ai biết được ra chàng,
Riêng tôi nhận được qua tuồng ngụy trang.
Hỏi chàng, chàng lại chối quanh,
Tôi mang tắm rửa, áo quần bảnh bao.
Tôi thề Thần Dớt tối cao,
Rằng không để chút lời nào hở môi. (5030)
Uy Lĩnh ở trong thành Troa,
Trước khi chàng trốn ra rồi thoát thân.
Chàng bày mưu kế An Kinh,
Dặn tôi nội ứng trong thành đốt lên,
Lửa to tin báo đại quân,
Khi quân trong ngựa mở tung chốt thành.
Rồi chàng vội vã đi nhanh.
Sau khi giết lính cổng thành vào ra.
Mấy lần nhận được tin nhà,
Cũng nhờ Uy Lĩnh vào ra can trường. (5040)
Dân Troa khốn khổ rên than,
Riêng lòng tôi vẫn ngập tràn sướng vui.
Trái tim tôi vẫn yêu đời,
Mong ngày trở lại về nơi quê nhà,
Lòng tôi hận nỗi mù loà,
Khi Thần Vệ Nữ đánh bùa mê tôi.
Đưa đi đến tận chân trời,
Xa quê hương đến thành Troa lưu đày.
Xa con, chồng vợ phân ly,
Chồng tôi quyết chẳng bỏ đi nghĩa tình. (5050)
Vua Mai Ninh Lạc đáp rằng:
Nàng ơi! đúng vậy can trường nào hơn.
Tôi quen biết mấy anh hùng,
Tôi đà từng trải khắp cùng thế gian,
Chẳng ai lòng dạ sắt gan,
Ai hơn Uy Lĩnh lòng can đảm này.
Mấy ai chẳng sợ hiểm nguy,
Núp trong ngựa gỗ, bao tay anh hùng.
Đề dân Troa kéo vào thành,
Một sống một chết với cùng mưu sâu. (5060)
Ta trong ngựa gỗ nghe kêu,
Tiếng nàng như bị quỷ sầu xui nên.
Giúp dân Troa một chiến công.
Sau nàng Đề Lộc như thần bám theo. (Déiphobe)
Ba lần gõ ngựa tiếng rao,
Tiếng Đa Niên tiếp tiếng kêu gọi chồng. (Danaens)
Ta và Đỗ Mạnh mừng lòng,
Muốn lên tiếng đáp từ trong ngựa này.
Uy Lĩnh ra hiệu im ngay,
Riêng An Thi Cốt muốn thay trả lời.̣ (Anticlos) (5070)
Uy Lĩnh bịt miệng tức thì,
Nếu không lộ hết còn gì phục binh.
Uy Lĩnh nhẫn nại đến cùng,
Quán Trí Thần nữ dẫn nàng ra xa.
Chờ đêm tối mới xông ra,
Từ trong ngựa gỗ, quân ta mở thành.
Đêm khuya Viễn Mạc mới rằng:
Ôi đau thương hãy còn dăng dẵng hoài.
Chiến trường sống chết thế thôi,
Trái tim sắt đá, than ôi còn gì. (5080)
Đêm tàn mắt mỏi làn mi,
Đường xa mỏi mệt cần say giấc nồng.
Hạ Lan ra lệnh gia nhân.
Dọn phòng cho khách dưới tầng cửa son.
Gấm nhung tím thẳm trải giường,
Thảm hoa, khăn lụa áo choàng len êm.
Thị tỳ cầm đuốc soi đường,
Quản gia hầu dẫn hai chàng đến nơi,
Khách phòng khép cánh cửa gài,
Say sưa giấc điệp đêm dài mênh mang. (5090)
Nhà vua về đến hậu cung,
Tầng cao cung điện khuê phòng Hạ Lan,
Say sưa giấc mộng êm đềm,
Cùng nàng một giấc thần tiên hương nồng.
Bình minh bừng ngón tay hồng,
Vua Mai Ninh Lạc sẵn sàng phục trang,
Nhung y gươm báo bên sườn,
Oai nghiêm như bậc thần tiên giáng trần.
Đến bên Viễn Mạc hỏi rằng:
Cần gì con đã đi tìm đến đây? (5100)
La Thế Môn đất nước này,
Biển xanh giáp đất, chân mây cuối trời.
Việc riêng hay việc chung thôi,
Nói cho ta biết những lời thành tâm.
Thế Viễn Mạc mới thưa rằng:
Con nay đi đến mong tìm tin cha,
Gian nguy khánh tận cửa nhà,
Cung đình lấn lướt bao là thương đau,
Một bọn công tử cường hào,
Đến cung ăn ở làm bao sổ sàng. (5110)
Gọi là đi đến cầu hôn,
Rằng cha mất, ép mẹ con lấy chồng!
Ngài ơi có biết gì không,?
Khẩn cầu Ngài nói cho giùm tin cha.
Mất còn Ngài biết tin qua,
Chính Ngài mắt thấy hay là được nghe.
Lạc đường thuyền chẳng trở về,
Phận người đau khổ thảm thê nhất đời.
Ngài ơi hãy nói thật thôi,
Chớ vì thương xót, dấu lời nói quanh. (5120)
Cha con từ buổi phá thành,
Những gì Ngài biết trên đường gian nguy?
Kể cho con biết hết đi,
Ngài nên nói thẳng, không gì dấu con.
Nhà vua quảng đại từ tâm
Nhìn xa xôi mới trầm ngâm kể lời:
Ôi đau thương hỡi con ơi!
Vì ta con đã một đời nhớ nhung.
Người cha dũng cảm anh hùng
Ra đi con hãy sơ sinh nôi nằm. (5130)
Như con sư tử đi săn,
Bỏ con cho mẹ trong lòng nhớ thương.
Để bao thảm cảnh đau buồn,
Bọn cầu hôn đến tiêu hoang cửa nhà.
Khẩn cầu Thần giáng giúp ta,
Thần Vương, Quán Trí Tuệ và An Long.
Đáp lời cầu khẩn hoài mong,
Đưa cha con sớm về cùng mẹ con.
Dẹp hung tàn bọn cầu hôn,
Cùng nhau xây lại giang sơn cung đình. (5140)
Lòng ta chua xót nào hơn,
Khi nghe con nói lòng buồn xót xa,
Đáp lời con khẩn cầu ta,
Ta xin nói hết kể ra sự tình,
Những ngày trôi dạt phiêu linh.
Những lời Thần Biển dữ lành báo ta.
Những ngày Ai Cập chốn xa,
Mặc dù mong muốn vượt qua biển về.
Các Thần bắt giữ thuyền bè,
Phạt không dâng lễ tế thề thần linh. (5150)
Các Thần giam lỏng khốn cùng,
Thuyền bè mắc cạn nơi vùng đá đen,
Đảo Pha Rốt cách đất liền, (Pharos)
Một ngày thuyền biển nếu thuyền nhẹ không.
Đậu trong bến cảng gió êm,
Hai mươi ngày chẵn các Thần giữ đây.
Không cơn gió nhẹ heo may,
Doi đất cửa cạn chẳng ngày ra khơi.
Mỗi ngày lương thực cạn vơi,
Lòng người chán nản những lời nhớ mong. (5160)
Bỗng đâu Thần nữ thương tình,
Uyên Đô Thủy, gái Thần Bồ Tê, (Idothée, Protée)
Trông coi biển cả ghềnh khe,
Thấy người đói khát đường về mà thương.
Ngày ngày câu cá biển cồn,
Bữa no bữa đói héo hon nỗi lòng.
Một hôm dịp vắng bạn thuyền,
Bên tôi, Thần mới hỏi han sự tình:
Đã lâu người ở đảo hoang,
Không cơn gió nhẹ nước ròng ra khơi. (5170)
Đảo hoang lương thực cạn rồi,
Hỡi người có muốn thoát nơi đảo này?
Hay là ở mãi nơi đây,
Thử lòng nhẫn nại với ngày gian nan?
Nghe xong tôi đáp lời nàng:
Phận tôi sống chết ở nơi tiên thần.
Tôi nào muốn ở ăn không,
Chắc tôi có tội với thần ở trên.
Nàng là Thần nữ giáng trần,
Các Thần biết hết nỗi lòng thế gian. (5180)
Thần nào khóa gió cản ngăn,
Vì sao thuyền phải bị giam ngày ngày.
Cầu Thần dâng nước, gió bay,
Để thuyền vượt đảo hoang này ra đi.
Đáp lời Thần nữ nghĩ suy:
Khách ơi ta nói kế đây để về.
Nơi này Thần Biển Thủy Tề,
Hàng ngày vẫn đến nghỉ nghê hiện hình.
Thần thuộc hạ Thần Hải Long,
Biết từng biển thẳm vực ngàn đảo khơi. (5190)
Thần là thần sinh ra tôi,
Cho tôi phép lạ cõi đời thần tiên.
Khó lòng mà gặp được ông,
Trừ khi mai phục gặp trong bất ngờ.
Rồi ông sẽ chỉ bến bờ,
Cách qua biển rộng hải hồ hương quan.
Chuyện nhà nếu muốn biết tin,
Ông cho tin tức tỏ tường chẳng sai,
Từ ngày lưu lạc biển khơi,
Bao nhiêu biến đổi ở nơi quê nhà. (5200)
Kẻ còn người mất lìa xa,
Kẻ phương trời biết bao là buồn thương.
Nghe nàng tôi mới hỏi rằng:
Nói cho tôi gặp chuyện Thần Bồ Tê.
Làm sao mai phục đường vô,
E Thần biết hết mưu mô tránh liền.
Khó lòng gặp được thần tiên,
Trừ khi Thần có ý tìm đến ta.
Mỉm cười Thần nữ kể ra,
Hỡi người khách lạ. mưu ta thế này. (5210)
Mặt trời đứng bóng mỗi ngày,
Là Thần rời biển thăm bầy hải ngư,
Cùng nằm phơi nắng ghềnh sau,
Hàng bầy hải cẩu khác nào cừu đen.
Tây khuê gió mát nổi lên,
Biển khơi hải cẩu vượt ngàn về đây.
Nằm phơi nắng, ngủ mê say,
Mai tôi đưa đến nơi này hừng đông,
Hãy về chọn thủy thủ đoàn,
Ba người khỏe mạnh can trường biển khơi. (5220)
Lão Thần dễ nhận ra thôi,
Trước khi đi ngủ là Ngài dạo quanh,
Đếm đàn hải cẩu mới nằm,
Giữ đàn như thể người chăn cừu bầy.
Đợi khi Thần ngủ ngáy rồi,
Đến ôm giữ chặt, chẳng rời tay chân,
Dù Thần có muốn thoát thân,
Hóa làm con vật cũng đừng thả ra.
Chẳng kinh hãi, chẳng buông tha,
Đến khi Thần hiện trở ra nguyên hình. (5230)
Bây giờ Thần hỏi sự tình,
Thì người cung kính, hỏi Thần vì sao?
Đường về bị vị Thần nào?
Ngăn bờ, khóa gió thuyền neo chẳng rời?
Cầu Thần chỉ hướng bể khơi,
Đưa thuyền vượt biển về nơi quê nhà.
Nói rồi Thần nữ bước ra,
Biển tung bọt sóng, nàng qua biển ngàn.
Tôi về trên bến đậu thuyền,
Thuyền phơi nước cạn, mênh mông bãi cồn. (5240)
Trời chiều tím đỏ hoàng hôn,
Cát vàng cồn vắng, vọng buồn chân mây.
Bữa cơm chiều khói nhẹ bay,
Rồi bên lửa ấm, người say giấc nồng.
Bình minh bừng ngón tay hồng,
Làn mây ửng đỏ mênh mông chân trời.
Đi theo bờ biển cát dài,
Tạ ơn Thần đã ban tôi phúc lành.
Mang theo ba bạn đồng hành,
Ba người gan dạ chiến trường xông pha. (5250)
Uyên Đô Thủy chợt hiện ra,
Bắt bốn hải cẩu lột da trao người.
Rồi đào cát bốn rảnh dài,
Bốn người nằm xuống da tươi phủ mình.
Lại trao một lọ dầu hương,
Xức ngay vào mũi, chẳng còn mùi chi.
Rồi nàng ra biển biến đi,
Chúng tôi chờ đợi những gì xảy ra.
Hàng đàn hải cẩu từ xa,
Vượt khơi đến bãi bình sa nằm dài. (5260)
Ngày vừa đứng bóng mặt trời,
Lão Thần từ biển đến nơi đảo nằm,
Nhìn quanh đếm đủ số đông,
Chẳng nghi ngờ đến bốn con giả hình,
Lão Thần nằm ngáy bên mình,
Bốn người choàng dậy nắm cầm chân tay,
Lão Thần vùng dậy biến ngay,
Hóa làm sư tử bờm dày lông mao.
Tay chân xiết chặt rống gào,
Lão Thần vùng vẫy, đỏ ao hoá rồng. (5270)
Bốn người giữ chẳng sờn lòng,
Lão Thần lại hoá ra thành báo đen,
Báo đen cũng chẳng thoát thân,
Lão Thần lại hoá ra con heo rừng.
Heo rừng en ét chẳng xong,
Hoá làm cây đứng tòng ngồng người ôm.
Biết rằng chẳng thoát lụy phiền,
Trở thành người đứng, hỏi rằng vì sao:
An Trê Tôn tử, vị Thần nào?
Kế mưu mai phục chỉ cho các người. (5280)
Ta đà chịu trận thua thôi,
Bây giờ người muốn chi thời hãy thưa.
Cúi đầu tạ lỗi phân bua:
Chẳng là tìm một cụ già hỏi thăm,
Biết là Thần Biển vạn năng,
Các Thần biết hết dữ lành thế gian.
Vì đâu mắc cạn đảo hoang,
Gió im, nước cạn, giam thuyền vì ai?
Can trường ngày một phôi phai,
Lương khô đã hết đợi hoài ngày đi. (5290)
Vị Thần nào giữ lại đây?
Không xiềng mà chẳng có ngày ra khơi.
Con đường biển cá sáng ngời,
Thấy ngay trước mặt, chẳng rời được đây?
Lão Thần vội đáp lời ngay:
Người nên sắm sửa việc nay tế Thần.
Dê béo cắt cổ vật sinh,
Cầu Thần Dớt với các Thần Thiên Sơn.
Cầu Thần dâng biển nước lên,
Thuyền rời bãi cạn chèo liền ra khơi, (5300)
Tế Thần nghi lễ xong rồi,
Mới căng buồm gió ra khơi biển ngàn.
Đường qua biển sóng rượu vang.
Đường này không thể bình yên về nhà.
Bão giông hiểm họa xảy ra,
Sẽ không còn thấy quê cha đất lành.
Đường về chẳng có chi bằng,
Trở về Ai Cập tế Thần nơi đây.
Cầu Thần Gió đẩy thuyền đi.
Là người vượt hết gian nguy về nhà. (5310)
Nghe ta dù biết rằng là,
Phải đi trở lại vượt qua biển mù.
Trở về Ai Cập xa mờ,
Đường dài thăm thẳm, mệt phờ anh em.
Nghe lời tôi mới hỏi thêm:
Tạ ơn lời dạy, xin vâng lời Thần,
Tôi còn thắc mắc trong lòng.
Hãy cho tôi biết được tin các đoàn,
Chiến thuyền quân đội An Kinh,
Có về đến chốn an toàn quê hương? (5320)
Có ai thuyền đắm dọc đường,
Có ai trôi nổi nơi phương trời nào?
Thành Troa từ biệt năm nao,
Bao năm xa cách ra sao sự tình?
Đáp lời Thần mới nói rằng:
An Trê Tôn tử biết làm chi đây?
Những điều ta nói chẳng hay,
Chỉ làm nước mắt vơi đầy xót thương,
Tất cả trở về an toàn,
Chỉ hai dũng tướng không còn thế gian. (5330)
Những người đã chết trận tiền,
Người đà biết hết ta không thêm gì.
Thành Troa căng cánh buồm đi,
Riêng tướng An Bắc chèo dài thuyền nhanh.*
Thần Hải Long đẩy sóng dâng,
Đến bờ mỏm đá ở vùng Diên Lê, (Gyrée)
Số là thoát chết trở về,
Dù cho Thần nữ A Tê Nê ghét thù,
Nhưng nào hắn chẳng biết điều,
Thốt lời hổn xược bao nhiêu thánh thần. (5340)
Lắng nghe Thần Biển Hải Long,
Quất cho làn sóng cuốn nhanh vào bờ,
Hai tay bám đá chơ vơ,
Lại rơi xuống biển vật vờ sóng cao.
Cuốn theo làn sóng dạt dào,
Uống bao nước mặn chìm vào biển sâu.
An Gia thuyền lớn buồm mau,
Qua Ma Lê đảo sóng đào gian nan, (Malée)
Nhờ Hạ Cơ cứu nên còn, (Héra)
Đến nơi đến chốn an toàn quê hương. (5350)
Cúi hôn mảnh đất quê hương,
Lỏng đà sung sượng khôn lường chia ly,
Vợ con sum họp từ đây,
Nào ngờ hạnh phúc là ngày chia phôi,
Đài cao quan sát biển khơi,
Trực canh là một con người gian manh,
Được tiền Âu Thích mua lòng, (Eugisthe)
Hai thoi vàng đã đổi tình đưa tin.
Âu Thích mưu kế sẵn sàng,
Hai mươi thích khách núp trong lâu đài. (5360)
Ngoài đường mở hội mừng vui,
Gấm hoa thảm đỏ mừng người vinh quang,
An Gia Vương chẳng nghi lòng,
Chiến xa, tuấn mã bao vòng hoa tươi,
Nào hay mưu kế hại người,
Trong phòng tắm đã tàn đời hùng anh.
Lâu đài bữa tiệc khao quân,
Bao nhiêu dũng sĩ chết trong bất ngờ,
Sảnh đường lênh láng máu đào,
Chẳng ai sống sót biết bao tủi hờn. (5370)
Mai Ninh thổn thức đau thương,
Gục đầu trên cát mà tuôn lệ trào,
Chẳng còn muốn sống làm sao,
Chẳng còn thấy bóng trời nào sáng soi.
Khóc lăn trên cát bồi hồi,
Lão Thần bất tử biển khơi mới rằng:
An Trê tôn tử nghe chăng!
Khóc hoài nước mắt cũng không được gì.
Hãy mau về cố hương đi,
Oán đền ân trả được thì tốt hơn. (5380)
Còn riêng Anh Tuấn cháu con, (Oreste)
Thù cha sẽ trả oán hờn máu xương.
Người về chắc kịp dự phần,
Ma chay tưởng niệm người anh hào hùng.
Nghe lời lòng bớt đau buồn,
Nén lòng bao nỗi đau thương bồi hồi.
Tiếp lời tôi đã hỏi Ngài,
Và còn Uy Lĩnh nay thời ra sao?
Sống còn trên biển nơi nào?
Về quê hay đã dạt vào nơi đâu? (5390)
Đã lâu chẳng được tin nhau.
Vội vàng ông đã tiếp câu trả lời:
Phải con Lã Đạt đấy thôi?
Quê ở An Thạch sóng trời biển xanh.
Tôi đà thấy được mặt chàng,
Ngồi bờ cát đỏ, mơ màng nhớ nhung.
Kiều Ly tiên nữ yêu thương,
Cứu chàng giam giữ, cầu mong một lời,
Cầu làm chồng yêu thương thôi,
Nhưng chàng không thể xa rời về quê. (5400)
Không bạn chèo, không thuyền bè,
Một mình trơ trọi bốn bề biển khơi.
Mai Ninh Lạc riêng phận người,
Các Thần chưa quyết định đời ra sao.
Dứt đời trần thế Đạt Gô, (Argos)
Dứt đời binh mã được vô Thiên Đình.
Được Thần Vương Dớt ban ơn,
Vườn Địa Đàng hưởng phúc ân đời đời. (Élyssée)*
Cánh đồng cây trái thảnh thơi,
Cuối nơi mặt đất sống đời thong dong. (5410)
Chẳng tuyết lạnh, chẳng mùa đông,
Bốn mùa xuân đẹp trên vùng thần tiên.
Suốt năm gió mát dịu dàng,
Sông trong, suối mát, khắp miền trái thơm.
Vì người chồng của Hạ Lan,
Rể của Thần Dớt cho nên được vào.
Dứt lời Thần vội đi mau,
Biến nhanh trên ngọn sóng đào nhấp nhô.
Trở về bến cạn thuyền neo,
Vật sinh, nghi lễ cùng nhau tế thần. (5420)
Cầu cho nước lớn lên nhanh,
Cầu cho gió thổi đoàn thuyền ra khơi.
Cơm chiều kể chuyện buồn vui,
Nỗi buồn, nỗi nhớ đầy vơi phận người.
Rồi bên đống lửa ngủ vùi,
Hành trang chuẩn bị ra khơi, khởi hành.
Hừng đông bừng ngón tay hồng,
Con thuyền chuyển động nước ròng nổi lên.
Bạn chèo mừng rỡ sẵn sàng.
Dựng buồm chèo lái biển ngàn hát vang. (5430)
Tay dầm chèo vỗ nhịp nhàng lướt nhanh.
Đoàn thuyền vượt sóng khơi xanh,
Hướng về Ai Cập biển trầm mù khơi,
Thuận buồm gió đẩy đến nơi,
Dừng chân lại đến đất trời sông Nin.
Mua lưng thực vật tế thần,
Lễ nghi dâng tế linh đình bên sông.
Tang ma An Gia Đại Vương,
Đài cao đắp mộ anh hùng hy sinh. (5440)
Sụt sùi nhỏ lệ ba quân,
Nhớ người thống lĩnh chiến trường thành Troa.
Cùng nhau kể chuyện xa xưa,
Nghỉ qua đêm lại thuyền ra biển ngàn.
Bổng đâu nổi trận gió Nam,
Đưa thuyền về chốn quê hương đợi chờ.
Như lời Thần Biển Thủy Tề,
Cha con còn sống sẽ về nay mai.
Hãy cầu Thần nữ giúp người,
Đưa cha đến chốn, đến nơi quê nhà. (5450)
Hôm nay con đến thăm ta,
Nghỉ ngơi thăm viếng ít là mươi hôm,
Chút quà tặng phẩm cho con,
Chiếc xe ba ngựa gấm son chạm vàng,
Ta cho con một chiếc bình,
Gọi là chút nghĩa chút tình cho nhau.
Thế Viễn Mạc vội nói mau:
Chuyện nhà đang gấp lòng nào ở lâu,
Để rồi thong thả mai sau,
Rồi con sẽ đến chơi hầu một năm, (5460)
Bây giờ khẩn cấp cung đình,
Con về thưa mẹ sự tình mẹ hay.
Mừng cha còn sống hôm nay,
Lòng con vui sướng đợi ngày đoàn viên.
Con còn về với bạn thuyền,
Đang chờ con ở nơi thành Phy Lô.
Về quà của Bác tặng cho,
Con xin chỉ nhận mang theo chiếc bình.
Chiếc xe ba ngựa kềnh càng,
Đi về An Thạch chẳng mang được nào. (5470)
Nơi đây đồng cỏ biết bao,
Ngựa no đường rộng đủ điều tiện nghi,
Đồng xanh đường thẳng xanh rì,
Chứ nơi An Thạch lấy gì để nuôi.
Đồng rau đủ lợn dê thôi,
Chẳng gì cho ngựa, ngựa thời đói meo,
Con đường mòn nhỏ cheo leo,
Ngựa xe sang trọng đem theo chẳng dùng.
Cầm tay Ninh Lạc mới rằng:
Con đây thành thật nói năng thẳng lời. (5780)
Thì ta đổi vật tặng thôi,
Tặng cho phẩm vật quý nơi cung đình,
Chiếc bình to chạm bạc vàng,
Do Thần Hỏa Thái làm nên vẽ vời.
Vua Pha Đi Nốt tặng tôi, (Phaedinos)
Khi tôi đến viếng thăm người Sĩ Đông, (Sidon)
Hôm nay ta lại tặng con,
Gọi là yêu quý nói lên tấm lòng.
Nói rồi truyền gọi gia nhân,
Rượu thơm, cừu béo hân hoan tiệc mừng. (5790)
Thi ca khúc 14: Bọn cầu hôn âm mưu phục kích Thế Viễn Mạc.
Câu 5491 đến 5804
CHÚ THÍCH:
4757. Néoptolème; Con trai Achille. Mẹ Achille là thần nữ Thétis biết trước định mệnh, không muốn cho Achille ra chiến trường, nên cho giả gái ở với một công chúa, Achille có con với công chúa, Ulysse được giao nhiệm vụ đi mời Achille, giả người buôn nữ trang và vũ khí đến, cô gái "Achille" không mua nữ trang mà chỉ mua vũ khí nên bị nhận diện đành phải đem quân Myrmidons ra trận. Néoptolème lên 8 khi cha ra chiến trường. Khi Achille tử trận vì mũi tên Pâris bắn trúng gót chân. Néoptolème ra trận thay cha, bách chiến bách thắng không hề bị một vết thương, giúp quân Hy Lạp chiến thắng.
4784. Étéonée con Boéthos. Tố Nê con Bồ Xuân.
5334. Ajax con Télemon sinh ở Salamine.
4852. Érembes tên cũ của Arabes.
4896. Thẻbes kinh đô Ai Cập thời bấy giờ.
5003. Biển sóng rượu vang: biển sóng dồi như say rượu vang.
5408. Ngày xưa Hy Lạp cho rằng Élyssée nằm giữa hai con sông vùng Irak ngày nay nơi này khi xưa khí hậu ấm áp bốn mùa xuân không băng tuyết.
THI CA KHÚC 14:
BỌN CẦU HÔN ÂM MƯU PHỤC KÍCH THẾ VIỄN MẠC
TÓM LƯỢC: Bọn cầu hôn hay tin Télemaque đã ra đi Pylos và Lacédémone sau mười ngày vì Noémon đến hỏi thăm, chúng tức giận lo lắng bàn mưu phục kích đánh đắm con thuyền từ ngoài khơi. Quản gia Médon hay tin báo cho Pénelope hay, nàng rất lo lắng. Vú già Euryclée tỏ bày và khuyên nàng đi cầu nguyện. Thần nữ Athéné gửi hương hồn Iphthimé, chị ruột Pénélope đã mất về an ủi trấn an nàng. Bọn cầu hôn xuống thuyền ra đi phục kích.
Nói về tin bọn cầu hôn, (5491)
Nằm lỳ ăn vạ sảnh đường lầu trang.
Nơi sân Uy Lĩnh, ngang tàng,
Chơi trò ném dĩa lại sang ném sào.
Án Tinh Lộc ngồi bục cao, (Antinoos)
Âu Ri Mạc diện bảnh bao như thần. (Eurymaque)
Tranh nhau một lũ cầu hôn,
Áo quần diêm dúa, xạ hương, bạc vàng.
Phù Ninh công tử, Nô Anh Môn, (Phronios, Noémon)
Bổng tìm Tinh Lộc hỏi thăm đón chào: (5500)
Án Tinh Lộc có biết sao?
Rằng Thế Viễn Mạc khi nào về đây?
Cậu đi Phy Lô mười ngày,
Thuyền tôi cậu mượn mà nay đã tròn,
Tôi cần đi Âu Lịch bán buôn,
Tính mua một chục lừa con mang về.
Để mà dạy dỗ kéo xe.
Ngạc nhiên cả lũ lăm le hỏi dồn.
Bấy lâu không thấy mặt chàng,
Ngỡ rằng Viễn Mạc đã sang ông rồi, (5510)
Đồng quê cừu thỏ đùa vui,
Nào ngờ hắn dám ra khơi đi về.
Thành Phy Lô, vua Nê Lê,
Thành vua hùng mạnh hội thề cất binh.
Hẳn là quan trọng sự tình.
Chẳng còn là chuyện trẻ ranh trong nhà.
Án Tinh Lộc vội hỏi tra:
Nói tôi sự thật ngày mà hắn đi,
Đi từ hôm bữa nào đây?
Chọn ai cầm lái, bao tay bạn chèo? (5520)
Thanh niên An Thạch đi theo,
Hay là tôi tớ chăn heo, chăn cừu?
Theo hắn cả thảy bao nhiêu?
Hắn đà cưỡng bức hay chiêu mộ người?
Hắn đà cầu khẩn nơi mi,
Hay mi tự ý theo lời cầu xin?
Nô Anh Môn trả lời rằng:
Chính tôi tự ý nhiệt tâm mượn thuyền.
Với tôi cậu nói sự tình,
Một bầu nhiệt huyết khó lòng từ nan. (5530)
Thanh niên An Thạch sẵn sàng,
Đi theo sôi nổi, chẳng màng sợ lo.
Xuống thuyền tôi thấy Mạnh Tô, (Mentor)
Hay là Thần hiện cơ hồ giống như.
Đứng điều khiển cuộc lãng du,
Mười ngày thuyền đã phiêu lưu chưa về.
Ấy mà thật lạ lùng chưa?
Hôm qua tôi thấy cụ già Mạnh Tô.
Giữa ban ngày đứng hỏi chào,
Thế ai cầm lái Phy Lô kia mà? (5540)
Nô Anh Môn dứt tiếng kêu ca,
Bước đi thoăn thoắt về nhà phụ thân.
Bọn cầu hôn đứng tần ngần,
Đang chơi, bỏ cuộc lầm bầm hỏi nhau?
Án Tinh Lộc giọng lo âu,
Điên cuồng giận dữ, đỏ ao mặt mày,
Mắt như bốc lửa, như say:
Khốn thay thằng trẻ ranh này ra đi.
Ta đà cấm cản được chi,
Cả bầy cả lũ trong tay hắn rồi. (5550)
Theo hắn một đám con trai,
Đủ lông, đủ cánh, coi ai ra gì?
Họa nguy khởi xướng từ đây,
Nếu không diệt chúng để ngày lớn khôn.
Bọn ta ắt sẽ không còn,
Hãy mau chuẩn bị con thuyền ra khơi.
Thủy thủ lựa hai chục người,
Ta đi mai phục ở nơi hiểm nghèo,
Sa Mô vùng đá cheo leo. (Samos)
Thấy thuyền chúng đến, đánh tiêu chúng liền. 5560)
Bọn cầu hôn thảy tán đồng,
Rồi cùng đứng dậy vào trong sảnh đường.
Nhã Lan chốn khuê phòng,
Lòng buồn vời vợi nhớ mong bóng chồng.
Tránh ra gặp bọn cầu hôn,
Nghe lời xàm xỡ nghe buồn mà thôi.
Quản gia Mê Đông nghe lời. (Médon)
Thầm thì bàn tán từ nơi sảnh đường.
Vội vàng thẳng đến phòng nàng,
Báo Nhã Lan được tỏ tường hiểm nguy (5570)
Đến nơi ngưỡng cửa cho hay,
Nhã Lan nàng đã hỏi ngay chuyện nhà:
Mê Đông người đến tìm ta,
Phải chăng họ muốn hỏi qua việc cần?
Phải chăng muốn thêm gia nhân?
Ngày ngày cung phụng lo phần ăn chơi?
Ta đà ngao ngán lắm rồi!
Bảo ngay với họ ngưng lời tán dương.
Bảo hôm nay buổi cuối cùng,
Là buổi ăn cuối ở trong cung này. (5580)
Ăn lỳ, nói khoác, rượu say,
Trăm người ai thấu ngày ngày ăn không.
Con ta Thế Viễn Mạc khôn ngoan,
Cũng không chịu thấu, bất bình chẳng ưa.
Khi người còn thuở ấu thơ,
Đã nghe dạy dỗ, chủ gia chân tình.
Uy Lĩnh cha của toàn dân,
Chưa hề làm một lỗi lầm với ai.
Trước sau cương quyết một lời,
Công minh phân xử, chẳng sai lệch gì. (5590)
Các vị vua khác trên đời,
Người thời ghét bỏ, người thời yêu thương,
Nhưng vua Uy Lĩnh khác thường,
Yêu người như thể yêu thân chẳng màng.
Người lầm lỗi biết ăn năn,
Thứ tha che chỡ, chẳng buồn giận ai!
Mê Đông khôn khéo đáp lời:
Xin thưa Hoàng hậu, lời ngài chẳng sai.
Hôm nay họa lớn nguy tai,
Bọn cầu hôn tính chặn mai phục thuyền. (5600)
Giết Thế Viễn Mạc với gươm đồng,
Khi cậu về đến qua hòn Sa Mô.
Mười hôm cậu đi Phy Lô,
Và La Môn nữa để chờ hỏi tin.
Những vị vua chiến đấu cùng,
Thành Troa thắng trận đã bao năm về.
Nghe lời nàng Nhã như mê,
Con tim nhức nhối, chân lê gối mòn.
Lặng yên, nấc nghẹn lệ tuôn,
Lời như uất hận bàng hoàng đớn đau. (5610)
Giây lâu mới tỉnh hỏi mau:
Quản gia có biết vì sao cớ gì?
Con ta ai rủ ra đi?
Bạn thuyền có biết tên chi, mấy người?
Con thuyền vượt biển ra khơi,
Ai người lèo lái, ai thời chỉ huy?
Mê Đông khôn khéo đáp lời:
Tôi ngờ Thần dạy, cậu thời dám theo.
Cậu quyết vượt mọi hiểm nghèo,
Đến Phy Lô quyết lái chèo đi xa. (5620)
Thế nào cũng được tin Vua.
Nói rồi ông lại lui ra sân ngoài.
Nhã Lan lo lắng khôn nguôi,
Chẳng còn hơi sức để ngồi ghế nhung...
Bệt ngay trước ngưỡng cửa phòng,
Thị tỳ già trẻ đến gần lăng xăng.
Nhã Lan ngồi rỉ rên than:
Người ơi có thấu kiếp thân đàn bà,
Thần Thiên Đình đã cho ta,
Khổ đau từ thuở sinh ra trên đời. (5630)
Chồng ta anh dũng đâu rồi,
Chiến công vang dội đất trời phương nao.
Từ Hy La đến Đạt Gô, (Hellas, Argos)
Thương chàng một bậc anh hào Đa Niên. (Danaens)
Bây giờ con trai ta thương,
Cuốn theo chiều gió, lên đường chẳng hay.
Lòng ta, ôi đớn đau thay,
Không hay, không biết từ ngày con đi.
Cánh buồm đen quyết từ ly,
Hẳn là chuẩn bị chân tay lâu rồi. (5640)
Sợ rằng ta cản ngăn thôi,
Bây giờ biển cả, đất trời ra sao?
Các người hãy vội gọi mau
Già Đô Quốc quản lâu đài trước kia, (Dolios)
Để người báo với vương gia,
Lão Vương Lã Đạt để mà mưu toan,
Chắc người sáng suốt hãy còn,
Tìm ra mưu kế, để hòng cứu nguy.
Giống dòng Uy Lĩnh là đây,
Dốc toàn trí lực phen này hiểm nguy. (5650)
O Khuê vú già tỏ bày:
Con ơi, cầm lấy gươm này giết ta,
Hay là tha kiếp sống thừa,
Chuyện này ta biết, ta đà dấu con.
Ngày đi Viễn Mạc mật tin,
Ta làm theo lệnh bảo mang những gì.
Rượu vang, khô thịt, bột mì,
Thế Viễn Mạc bắt ta đi thề nguyền,
Rằng ta không nói với con,
Mười hai ngày chẳng, tính tròn ngày đi. (5660)
Sợ con thương nhớ sầu bi,
Héo hon dòng lệ trên mi u sầu.
Con ơi hãy bước xuống lầu,
Thay đồ, tắm rửa rồi cầu A Tê Nê.
Con gái Thần Dớt hiện về,
Cứu nguy, cứu nạn, liệu bề giúp ta.
Chớ nên phiền muộn vương gia,
Tuổi già sức yếu người đà nghỉ ngơi.
Các thần phúc đức độ người,
Độ triều Đạt Kinh Quốc chẳng nuôi hận nào. (Arcésios) (5670)
Bao đời cửa rộng nhà cao,
Quê hương tươi tốt hoa màu ấm no.
Nhờ Thần phù hộ độ cho,
Các Thần sẽ cứu nạn to hiểm nghèo.
Nàng Nhã Lan dịu cơn sầu,
Lau dòng nước mắt, lên lầu điểm trang.
Khuê phòng tắm rửa, xông hương,
Rồi mang giỏ lúa mì lên điện đình.
Hai hàng thị nữ theo chân,
Dâng hương phẩm vật Nữ Thần A Tê Nê. (5680)
Rồi nàng quỳ gối khấn thề:
Cầu xin Thần nữ hiện về giúp con.
Ái nữ Thần Dớt vạn năng,
Ngày xưa Uy Lĩnh đã từng cầu xin.
Lể nghi và vật hy sinh,
Thần đà phù hộ bao lần cứu nguy.
Con tôi gặp nạn hôm nay,
Bọn cầu hôn rắp mưu mai phục đường.
Cúi xin Thần nữ xót thương,
Chỉ đường tránh lối thoát vòng hiểm nguy. (5690)
Lời nàng nhạc điệu vút bay,
Nữ Thần đã thấu lời ai nguyện cầu.
Lời thanh tao vọng xuống lầu,
Bọn cầu hôn lại kháo nhau thầm thì:
Hoàng Hậu đang khẩn cầu đây,
Cầu Thần kén chọn, định ngày kết hôn.
Nàng nào biết được mưu toan,
Sửa soạn cái chết thằng con cứng đầu.
Thầm thì huyên náo, xì xào,
Chẳng ai còn biết thế nào xảy ra. (5700)
Cướp lời Tinh Lộc hét la:
Điên khùng cả đám chớ mà nói to,
Kẻo mà bại lộ mưu cho,
Cả làng nước biết mặt mo lũ khùng.
Đứng lên chọn mặt thi hành,
Này đây hai chục đứa cùng theo ta.
Chỉ ngay một đám ba hoa,
Đầu trâu, mặt ngựa để ra xuống thuyền.
Thuyền đen đậu bến nước trong,
Cột buồm lại dựng, sẵn sàng đi chơi. (5710)
Mái chèo dàn cột bên người,
Hai mươi thủy thủ ra khơi rộn ràng.
Lầu cao Nàng Nhã mơ màng,
Lòng sầu vời vợi, chẳng buồn uống ăn.
Nỗi lo trăm mối bên lòng,
Lo con về lọt trong lòng hiểm nguy,
Như con sư tử xa bầy,
Thợ săn đông đảo bao vây cánh rừng.
Thiếp trong lo lắng mông lung,
Quán Trí Thần nữ thương nàng khổ đau, (5720)
Gửi hồn Anh Thy thân yêu, (Iphthimé)
Chị nàng mất đã bao nhiêu năm rồi.
Con gái Anh Khoa Quốc hai người, (Icarios)
Chồng nàng Âu Minh Lộc sống nơi Khuê Thành (Eumélos, Phères)
Từ ngày hai ngã chia phân,
Chị em cách trở, trăm phần đớn đau,
Nhã Lan nức nở nghẹn ngào,
Thương chồng con nhớ biết bao sự tình.
Anh Thy hồn đến bên giường,
Dịu dàng như buổi yêu thương thuở nào: (5730)
Nhã Lan, thôi xót thương đau,
Thần cho cuộc sống biết bao phúc tình.
Để đời hạnh phúc an lành,
Chớ sầu, chớ khổ, chớ buồn mà chi!
Con em rồi sẽ về đây,
Cháu không làm lỗi điều gì Thần đâu,
Cháu còn số mệnh rất cao,
Tai qua nạn khỏi, ai nào tổn thương.
Nàng Nhã Lan trong mơ màng
Tủi mừng gặp chị, ngỡ ngàng giấc hoa: (5740)
Chị ơi sao chị biết nhà,
Từ khi từ giả mẹ cha theo chồng.
Chị em cách trở mênh mông,
Rồi khi chị mất, em buồn nhớ thương.
Bao giờ gặp lại chị em,
Chỉ còn hồn mộng ta tìm đến nhau.
Chị ơi, em khổ biết bao,
Con tim sầu héo, lòng nào thở than. (5750)
Lòng em đau khổ vô vàn,
Người chồng dũng mãnh trái tim anh hùng,
Đức tài kính phục toàn dân,
Vinh quang chiến thắng đất gần, trời xa,
Từ Đạt Gô đến Hy La,
Thần người yêu mến thương là biết bao,
Thành Troa ngựa gỗ mưu cao,
Vang tin chiến thắng, mà nào tin ai?
Bây giờ con dại ra khơi,
Nổi trôi ai biết, đất trời ai hay? (5760)
Em đau xót dạ tim này,
Bao điều ác mộng hiểm nguy đang chờ.
Côn đồ mai phục đợi giờ,
Âm mưu giết chết trẻ thơ trở về.
Trước khi thuyền đến đất quê,
Em lo biết nấy, tái tê tâm bào.
Hương hồn chị đáp ngọt ngào:
Em ơi! can đảm lên nào sợ chi,
Chớ nên lo lắng điều gì,
Quán Trí Thần nữ hộ trì con em. (5770)
Từ khi cất bước lên thuyền,
Nữ Thần mầu nhiệm ở bên hành trình.
Biết bao người đã ước mong,
Nữ Thần trợ giúp thoát vòng nguy nan.
Nữ Thần thương xót lòng em,
Cho nên gửi chị đến tìm báo tin,
Cho em biết rõ sự tình,
Cho em tin tưởng an lành chớ lo.
Nàng Nhã Lan vẫn tò mò:
Chị ơi, chị hãy nói cho sự tình. (5780)
Nếu chị được lệnh Nữ Thần,
Chị là tiên nữ hiển linh nơi nào?
Biết chồng em ở phương nao?
Dưới trời hay đã đi vào cõi âm?
Hương hồn chị vọng u trầm:
Những điều biết khác chị không thể nào,
Nói ra tất cả được đâu,
Thiên cơ khả lậu, chị chào thương em.
Nói rồi hồn bỗng chập chờn,
Băng qua cánh cửa bay luồng ra đi. (5790)
Nhẹ nhàng như gió như mây,
Nàng đà tỉnh giấc lòng đầy tự tin.
Khuê phòng còn thoảng mùi hương,
Còn nghe lời chị yêu thương tâm tình.
Biết rằng trong giấc mộng lành,
Nữ Thần gửi đến trấn an tâm hồn.
Nói về chuyện bọn cầu hôn,
Lên thuyền đi đến đảo hòn ngoài khơi,
Đá đen lởm chởm sóng dồi,
Dấu thuyền mai phục đợi người đi qua. (5800)
Giữa đường An Thạch, Sa Moa,
Đảo ghềnh nhỏ bé đường qua các ghềnh.
Nơi đây dân tộc An Kinh,
Vẫn thường phục kích đánh thuyền tiến công. (5804)
CHÚ THÍCH:
Samos: Con đường biển từ Ithaque ngang qua Samé có các đảo đá Samos, Astéri.
Thiên cơ khả lậu: Cơ trời không thể tiết lộ được.
Trong nguyên tác chương này phụ thuộc Thi ca khúc XIII. Đoạn này khá dài lại nói về chuyện bọn cầu hôn và Pénelope ở Ithaque, trong khi Télemaque đang du hành, nên tôi tách thành một chương riêng.
THI CA KHÚC 15:
UY LĨNH GẶP LẠI ÂU MÊ
NGƯỜI GIA NHÂN CHỦ TRẠI CHĂN LỢN
TÓM LƯỢC:
Uy Lĩnh ngụy trang làm người ăn mày, rời bờ biển đến trại Âu Mê (Eumée) người quản gia trại nuôi lợn, được ông dọn ăn tiếp đãi và than thở tiếc thương người chủ chưa về và chửi rủa bọn cầu hôn. Người ăn mày bảo Ulysse sắp về đến nơi, Âu Mê không tin. Uy Lĩnh kể chuyện nửa hư nửa thật về các cuộc phiêu lưu, khiến Âu Mê tin tưởng. Trời lạnh Uy Lĩnh lại bịa chuyện để người gia nhân cho thêm áo ấm.
Đi theo đường đá gập ghềnh, (5805)
Uy Lĩnh chống gậy qua truông qua rừng.
Đến người nô bộc trung thành,
Âu Mê quản lợn, trại chuồng trông nom.
Loanh quanh lối sõi đường mòn,
Hanh hanh bóng nắng, chon von khu chuồng. (5810)
Chung quanh đá xếp xây tường,
Bên trong chuồng trại, xếp hàng rạ rơm.
Mười hai dãy trại cao nền,
Cột sên to với nứa phên thoáng trời,
Cây cao bóng mát nơi nơi,
Năm mươi lợn nái nằm dài chờ sinh,
Lợn nọc chăn dắt ra đồng,
Ba trăm sáu chục lợn con chạy cùng.
Trong sân năm sáu chó săn,
Dăm người phụ trại lo ăn, quét chuồng. (5820)
Trước lều Uy Lĩnh dừng chân,
Âu Mê đang gọt da thành dép quai.
Trại chuồng trưa chẳng còn ai,
Ba người xua lợn đồng ngoài đi ăn.
Một người phải bận về thành,
Hiến con lợn béo tiệc tùng cầu hôn.
Giật mình tiếng chó sủa vang,
Lao xao, hùng hục đến gần lão xin.
Uy Lĩnh buông gậy dừng chân,
Mặc cho đàn chó lăng xăng lại gần. (5830)
Âu Mê ra cổng hét lên,
Xua đàn chó cúp đuôi liền vào sân.
Lão bộc an ủi xa gần:
Cụ già, suýt nữa chó xông cắn người.
Lại rồi cụ oán trách tôi,
Quỷ thần đem lại cuộc đời khổ đau.
Riêng tôi vẫn khóc thương sao,
Nhớ người chủ quý, ngày nào gặp đây?
Lợn nuôi, người khác ăn thay,
Còn người phiêu bạt đó đây lạc loài. (5840)
Xứ nào, thành phố, tiếng người,
Người còn sống dưới mặt trời hay chăng?
Theo tôi, cụ hãy vào trong,
No lòng rượu ấm, thức ăn sẵn rồi.
Rồi cụ cho biết là ai?
Xứ nào phiêu bạt cuộc đời khổ đau?
Nói rồi cùng bước vào lều,
Mời ngồi giường cỏ phủ nhiều da dê.
Còn ông ngồi cạnh giường kia,
Rạ rơm phủ với chăn da ấm tình. (5850)
Uy Lĩnh cảm động trong lòng:
Cầu xin Thần Dớt phúc ban cho người.
Tấm lòng tử tế tiếp tôi,
Các Thần chứng giám đời đời không quên.
Âu Mê rằng: Ấy chớ nên,
Hỡi người khách lạ chớ phiền mà chi.
Không vì nghèo khó khinh khi,
Dớt thường gửi đến ăn mày, khách xa,
Giúp người Thần biết đến ta,
Dù cho nhỏ bé cũng là vui thay! (5860)
Thần ban phúc lộc cao dày,
Cửa nhà vợ đẹp như thầy chủ ta.
Ban ơn tôi tớ trong nhà,
Thần ban dùng đủ, cùng là thảnh thơi,
Tôi thương chủ tốt của tôi,
Tốt lòng như tựa Thần trời cho ta.
Vì ai người phải đi xa?
Vì ai người chẳng chết già quê hươn?
Vì Hạ Lan một sắc hương, (Hélène)
Mà bao dũng sĩ máu xương chiến trường. (5870)
Vì danh dự An Gia Vương,
Chủ tôi đã phải lên đường liên quân.
Thành Troa bao trận đao binh,
Chỉ vì sắc đẹp giai nhân nghiêng thành.
Nói rồi xắn áo lăn xăn.
Ra chuồng heo sữa mổ lòng hai con.
Cắt làm miếng nhỏ ướp nêm,
Ghim xâu, nướng vì lửa than bếp hồng.
Rượu mật hâm nóng trên bàn,
Thịt thơm bốc khói, mời chàng cùng vui: (5880)
Nâng ly, khách lạ của tôi,
Đây là heo sữa, món xơi thanh hàn,
Heo béo dùng để đãi đằng,
Bọn cầu hôn buộc nộp dâng mỗi ngày,
Của người ăn phải trả vay,
Bọn này chẳng nghĩ mai sau sẽ đền.
Thần Dớt chánh trực công minh,
Kẻ gian phải chịu ngục hình tối tăm.
Mỗi ngày trăm kẻ ăn nằm,
Bò, heo, cừu thịt, rượu hầm say no. (5890)
Chủ tôi mười hai đàn bò,
Cừu, heo, dê có trại lo hằng ngày.
Mỗi bầy ngày nộp một hai,
Những con béo tốt cho người ăn chơi.
Uy Lĩnh chẳng nói nên lời,
Nghĩ suy kế hoạch nay mai đối cùng.
Bọn cầu hôn lắm gian manh,
Gia tài, súc vật, uy quyền chúng tranh.
Âu Mê thêm rượu vào chung,
Nâng ly rượu quý rót cùng mật thơm. (5900)
Còn ông dùng rượu nho thường,
Uy Lĩnh cảm động lòng thương ông già.
Vẫn trung thành với chủ xưa,
Giả vờ gạn hỏi gần xa sự tình:
Bạn ơi đã nói ta rằng,
Vậy ai là chủ bạn hằng kính yêu?
Người đi chinh chiến từ lâu,
Sống hay đã chết ra sao chẳng tường,
Vì An Gia Vương ra quân,
Kể cho ta biết anh hùng là ai? (5910)
Ta đi góc bể chân trời,
Cõi Thần cho đến cõi người lang thang,
Ta từng gặp gỡ thế gian,
Biết đâu ta biết được tin chủ người.
Biết tin ta mách cho thôi,
Sống còn hay mãi xa vời lãng du.
Người quản trại thoáng buồn rầu:
Cụ ơi trần thế có đâu một người,
Hãy còn có mặt trên đời,
Mà không tin tức về nơi quê nhà. (5920)
Vợ trông con đợi lệ nhòa,
Cụ ơi đừng nói để mà lừa ta.
Để ta trao tặng chút quà,
Chút quần áo cũ để mà đi thôi.
Chẳng tin tức đã lâu rồi,
Chủ tôi thân xác mục nơi xứ người.
Sói ăn, diều rỉa tàn đời.
Hồn đà thoát xác đến nơi cõi nào.
Hay là chết đuối sóng cao,
Xác thân vùi dưới cát sâu vực ngàn. (5930)
Hồn người lìa cõi trần gian,
Để sầu, để nhớ để buồn người thân.
Tôi thương người chủ tốt lòng,
Dịu hiền đối đãi kẻ gần người xa.
Yêu người như yêu mẹ cha,
Mỗi lần về đến cung nhà lệ rơi.
Biết bao thương nhớ bồi hồi,
Nhớ người bao tháng năm rồi ly hương.
Tên người Uy Lĩnh thân thương,
Dù người vắng mặt lòng buồn nhắc tên. (5940)
Lòng tôi biết mấy tủi buồn,
Người thương tôi nhất trong hàng gia nhân.
Với tôi, người bạn tri âm,
Người ơi đã mất, tôi thầm xót xa.
Uy Lĩnh cảm lời thật thà,
Lựa lời an ủi ông già trung kiên:
Bạn ơi, lòng chớ buồn phiền,
Chớ bi quan trước mà buồn không đâu.
Ai thấy Uy Lĩnh chết nào?
Hay là phỏng đoán vì đau nhớ buồn. (5950)
Biết đâu chỉ lạc đảo hoang,
Không thuyền, không bạn nên không tin về.
Này người hãy lắng tai nghe,
Lời ta chân thật chẳng hề dối gian.
Ta thề trước mặt các Thần,
Uy Lĩnh vượt hết gian truân về nhà.
Tin này người chẳng trả ta,
Áo quần tươm tất, gấm hoa, khăn choàng.
Người về, người sẽ ngụy trang,
Cho nên chẳng thể ai nhìn được ra. (5960)
Vì bọn cầu hôn đầy nhà,
Ra tay trừng trị mới là yên vui.
Có Thần Dớt chứng trên đời,
Ta đà nói thật chẳng lời dối gian.
Rằng đây chỉ nội một năm,
Uy Lĩnh còn sống sẽ nhanh về rồi.
Tháng này hay tháng nữa thôi,
Báo thù ân oán những người cầu hôn.
Manh tâm phá hoại lầu trang,
Ăn nằm xàm xỡ, mưu toan hại người. (5970).
Âu Mê lòng chẳng nguôi ngoai:
Chắc là cụ thấy ta thời xót thương,
Cho nên an ủi đỡ buồn,
Uy Lĩnh đã mất chẳng còn sống đâu.
Thôi đừng nhắc nữa mà đau,
Thôi đừng nhắc nữa mà sầu nhớ thương.
Tôi không trả cụ cái tin,
Những lời cụ chỉ bóng hình ước mơ.
Mọi người đang đợi đang chờ,
Như lòng ta tự bao giờ ngóng trông. (5980)
Nhã Lan, Lã Đạt Vương Ông,
Và Thế Viễn Mạc cũng trông từng giờ.
Lòng ta rối tựa tơ vò,
Tin Thế Viễn Mạc bất ngờ ra đi,
Tuổi xanh chí thẳng như cây,
So người trần thế chẳng tày kém cha.
Thông minh chửng chạc tài ba,
Tương lai hứa hẹn ngôi vua sáng ngời.
Có ai quyến rủ đi chơi,
Hay Thần hiện đến mách lời rối ren. (5990)
Cậu lên thuyền để đi tìm,
Tin cha ở tận kinh thành Phy Lô.
Bọn cầu hôn đang mưu mô,
Đón thuyền phục kích đường vô đảo nhà.
Âm mưu chúng thật gian tà,
Giết Thế Viễn Mạc dòng Vua xứ này.
Dòng Đạt Kinh Quốc trị vì,
Cháu con Thần Dớt nơi đây bao đời.
Thôi đừng nói nữa người ơi,
Thôi đừng nói nữa những lời đau thương. (6000)
Chắc cậu gặp nạn trên đường,
Hay là tránh thoát thuyền đang trở về.
Số phận mỏng manh từng giờ,
Cồ Nốt Thần tử đang chờ trong tay.
Cụ ơi, cụ đã biết gì?
Nghĩ đi, cụ hãy kể ngay nỗi lòng.
Nói đi sự thật tôi mong,
Cụ ơi, cụ biết tin rằng ra sao?
Cụ là ai? đến từ đâu?
Thị thành nào, giống dòng nào mẹ cha? (6010)
Thuyền nào đón cụ đi qua?
Thủy đoàn nào chỡ, cụ đà đến đây?
Tôi không tin đến đảo này,
Bằng chân đi bộ vượt bay sóng ngàn.
Lựa lời Uy Lĩnh nói quanh,
Bịa ra chuyện kể ngọn ngành nguồn cơn:
Cám ơn người bữa ăn ngon,
Rượu thơm, lều ấm ta cầu mong thôi.
Bao người khó nhọc cuộc đời,
Miếng ăn vất vả kiếp người tha phương. (6020)
Rồi ta kể nỗi đau thương,
Mà ta đã trải trên đường ta đi.
Các Thần muốn thử thách chi,
Cho nên gây nỗi phân ly đau buồn.
Ta sinh xứ Kiết mênh mông, (Crète)
Con nhà quyền quý nhưng con nàng hầu.
Mẹ nô lệ, con xót đau,
Khác mẹ dòng giống lụa đào cao sang.
Phận con hầu thiếp kém hơn,
Mặc dù thứ bậc cội nguồn thế thôi. (6030)
Cát Tô Hy Mã cha tôi, (Castor con Hylax)
Giàu sang quyền quý trong đời ai hơn,
Nhân dân kính phục như thần,
Phong lưu phú quý, con hằng quang vinh,
Chẳng may cha sớm lìa trần,
Hồn về Diêm Chúa cõi âm chia lìa.
Gia tài con cả chia ra,
Phần tôi lãnh một ngôi nhà hương hoa,
Vợ tôi con một phú gia,
Nhưng tôi chẳng thích làm nhà bán buôn. (6040)
Giờ đây nghĩ lại con đường,
Đau thương vì chọn chiến trường làm vui.
Thần Chiến ngự trị trong tôi. (Arès)
Làm trai cung kiếm chọn nơi hiểm nghèo.
Quán Trí Thần nữ dõi theo,
Khôn ngoan chiến trận, thuyền chèo, giáp binh.
Điều quân mai phục địa hình,
Nghĩ suy chiến lược giết quân địch thù.
Sợ gì buốt giá âm u,
Sợ gì cái chết thiên thu đợi chờ. (6050)
Ngọn thương phóng trước địch thù,
Ngựa phi nhanh bước, bụi mù tung bay.
Chiến trường rong ruổi hăng say,
Chẳng ham đồng ruộng cấy cày chăm nom.
Chẳng ham nhà cửa vàng son,
Chẳng ham con trẻ sớm hôm nhọc nhằn.
Xuống thuyền chiến trận phiêu linh,
Thương dài sắc nhọn, tên đồng bay xa.
Bao người nhìn rợn làn da,
Riêng tôi gươm kiếm ấy là niềm vui. (6060)
Thần nào ngự trị đầu tôi,
Mỗi người sở thích, tôi thời chiến chinh.
Trước khi An Kinh ra quân,
Mười năm chiến trận hào hùng thành Troa.
Chín lần tôi đã vào ra,
Chỉ huy thuyền chiến xông pha chiến trường.
Mang bao lợi phẩm chiến công,
Chia phần quân sĩ, tôi còn phần to.
Sang giàu cửa rộng nhà cao,
Dân Kiết Toa phục kẻ nào sợ hơn. (Crétois) (6070)
Lần này Thần Dớt mưu toan,
Làm nên chiến trận kinh thiên cõi người.
Gây bao chinh chiến tơi bời,
Bao hùng binh đã ra nơi chiến trường,
Theo Anh Đô Mai lên đường, (Idoméné)
Được giao cai quản đoàn thuyền Ý Lô, (Ilios)
Khó mà từ chối hội cơ.
Tướng quân truyền hịch lệnh cờ trong tay.
Mười năm chiến địa thành vây,
Mưu Uy Lĩnh hạ thành dày vua Biam. (Priam) (6080)
Trở về chiến thắng quang vinh,
Nhưng Thần phân tán binh thuyền An Kinh.
Vận xui gây nỗi lênh đênh,
Riêng tôi Thần Dớt khôn ngoan đã dành.
Cho về quê cũ an lành,
Sống trong hạnh phúc vui cùng vợ con,
Bạc vàng phẩm vật chiến công,
Vui chơi một tháng, dục lòng chinh nhân.
Hướng về Ai Cập xa xăm,
Chiến thuyền trang bị, binh đoàn hùng anh. (6090)
Thủy đoàn khỏe mạnh như thần,
Chín con thuyền chiến sẵn sàng xuất chinh.
Sáu ngày tế lễ khao quân,
Vật sinh hiến tế rồi cùng no nê.
Ngày thứ bảy gió Bô Rê, (Borée)
Xuống thuyền căng cánh buồm về biển xa.
Từ khơi đảo Kiết đi ra,
Thuyền đi êm ái như là trên sông.
Không tai nạn, không bệnh truyền,
Ngồi trong thuyền lái cánh buồm thong dong. (6100)
Năm ngày thuyền đến cửa sông,
Ai Cập màu mỡ, đầy đồng lúa xanh.*
Đoàn thuyền đậu cánh vòng cung,
Sắp đặt do thám, đội binh sẵn sàng.
Viễn chinh đánh cướp kho tàng,
Bắt cóc phụ nữ trẻ con về thuyền.
Đàn ông đánh giết chẳng màng,
Đánh nhanh rồi rút thuyền sang sông về.
Nào ngờ phòng thủ gớm ghê,
Dân tình chạy trốn bốn bề như ong.* (6110)
Tin nhanh lan khắp thị thành,
Bỗng đâu xuất hiện trùng trùng hùng binh.
Ngựa xe, giáp trận thương đồng,
Dớt cho sấm sét bại vong chốn này.
Binh thuyền muốn rút đi ngay,
Chẳng còn khí phách múa may đối đầu.
Bốn bề vây kín còn đâu,
Một cơn gió thảm mưa sầu tang thương.
Máu rơi thịt đổ chiến trường,
Kẻ còn chiến đấu chết trong thảm sầu. (6120)
Kẻ qui hàng bỏ gươm đao,
Bị làm nô lệ biết bao nhọc nhằn.
Riêng tôi Thần Dớt thương tình,
Ban cho ý nghĩ gặp liền nhà Vua,
Đã đành liều kiếp sống thừa,
Vắt gươm cỡi giáp trước xe khấu đầu,
Rằng tôi muôn tội khẩn cầu,
Xin Ngài tha chết, xin tâu phục Ngài.
Chỡ che cho sống trên đời,
Làm thân trâu ngựa ơn trời dám quên. (6130)
Khóc than mắt lệ chứa chan,
Vua đà cảm động ơn ban sống thừa.
Khoát tay xua giáo gươm ra,
Cho lên xe ngựa cùng là về cung.
Bao kẻ muốn giết cho xong,
Vua kính Thần Dớt thương tình thứ tha.
Cấp cho vốn liếng cửa nhà,
Làm ăn buôn bán vào ra thị thành.
Góp bao tiền của để dành,
Vua thương, người tặng chân tình biết bao. (6140)
Bảy năm xây dựng cơ đồ,
Bổng đâu có khách thương hồ làm quen,
Khách xưng người Phê Ni Siên, (Phénicien)*
Rủ sang buôn bán nơi vùng Pê Ni Si, (Phénicie)
Cửa nhà vốn liếng thiếu chi,
Bán buôn bỏ một lãi đi mười lần.
Chí đà đã muốn tung hoành,
Bán ngay tài sản xuống thuyền cùng đi.
Một năm nhà khách ở chơi,
Vốn đà hao hụt mà lời thấy đâu. (6150)
Mùa xuân ấp áp đến mau,
Lại theo chân khách buồm chèo ra đi,
Khách rằng đi xứ Li Bi, (Libye)
Ngờ đâu bạn khách là tay buôn người,
Bạc vàng sang đoạt hết rồi,
Bán luôn bạn hữu vốn lời gấp trăm,
Qua khỏi đảo Kiết sóng xanh
Gió Bắc Phong thổi, mênh mông nước trời, (Borée)
Ngờ đâu Thần Dớt đỉnh trời,
Muốn tang thương những kiếp người dối dang. (6160)
Bốn bề bỗng nổi mây đen,
Gió mưa, chớp giật con thuyền sóng xô.
Dớt tung sấm sét chói lòa.
Cột buồm cánh gãy, quay ra tít mù.
Nát tan trăm mảnh phiêu du,
Sóng trôi, gió cuốn về đâu bến bờ.
Riêng tôi bám cột buồm to,
Chín ngày theo gió vật vờ nổi trôi.
Ngày thứ mười dạt đến nơi,
Đến xứ Thạch Quốc được người vớt lên. (Thesprotes) (6170)
Hoàng từ con vua Phi Đông, (Phidon)
Đi ngang qua đó, thương thân khốn cùng.
Cấp cho ăn uống áo quần.
Lên xe về đến cung đình không xa.
Mới hay Uy Lĩnh vừa qua,
Chàng là khách quý được vua đãi đằng.
Trên đường về với quê hương,
Gửi vua tất cả kho tàng chiến công.
Hoàng tử đã dẫn tôi thăm,
Kho tàng Uy Lĩnh đã mang trở về, (6180)
Gươm đồng, vàng bạc, khiên che.
Nữ trang, châu báu, lụa the, ngọc ngà.
Chất đầy đại sảnh hoàng gia.
Của này nuôi sống tiêu pha mười đời.
Nhà vua nói rõ với tôi,
Uy Lĩnh còn đến cây sồi thiêng liêng.
Nơi đây tên gọi Đô Đông, (Dodone)
Xin nhờ Thần Dớt ban ơn chỉ giùm.
Đã lâu vắng mặt cung đình,
Nên về bí mật sự tình xem sao. (6190)
Hay là đường chính thuyền vào,
Vinh quang chờ đợi đón chào người xa.
Bến tàu hoàng tử đi qua,
Thuyền bè đang chực để mà ra đi.
Rương vàng chất xuống thuyền ngay,
Hành trang chuẩn bị đợi ngày ra khơi,
Uy Lĩnh sẽ về đến nơi,
Quê hương An Thạch chỉ đôi ba ngày.
Hôm ấy tôi xuống thuyền ngay,
Thuyền xứ Thạch Quốc đến ngươi Đông Ly Chân. (Doulichion) (6200)
Ra đi hoàng tử gửi thuyền,
Dặn người tử tế chăm nom hành trình,
Đến xứ An Cát Đại Vương, (Acastos)
Trao thư giới thiệu, tận tình gửi trao,
Thuyền ra khơi mới hay sao,
Mới hay lũ cướp giả vào bán buôn.
Trên thuyền trấn lột áo quần,
Vất cho manh áo rách mang vào người,
Manh tâm đem bán chợ trời,
Trói vào cột gỗ ở nơi khoang thuyền. (6210)
Thuyền qua An Thạch xa trông,
Thừa cơ tôi mới tháo vòng dây ra,
Phía sau bánh lái vòng qua,
Nhảy tòm xuống nước, chúng đà chẳng hay,
Bơi nhanh vào mỏm đá này,
Theo đường mòn dẫn đến đây gặp người.
Âu Mê buồn bã thốt lời:
Khổ thay! Là buổi tiếp người hôm nay.
Lời người thật cảm động thay,
Bao nhiêu khốn khó những ngày phiêu linh. (6220)
Có điều nghĩ lại chẳng bằng,
Tôi không nghe được, cũng không tin gì,
Là điều Uy Lĩnh về đây,
Vì đâu người dấu tôi chi việc này.
Trong hoàn cảnh của hôm nay,
Vì tôi, tôi biết như vầy vì đâu.
Chủ tôi đời lắm cơ cầu,
Các Thần thù ghét ngóc đầu chẳng lên.
Bao năm chiến trận máu xương,
Làm điều lầm lỡ, các Thần ghét thôi. (6230)
Tiếc không nấm mộ cho người,
Chẳng còn gì nữa để hoài nhớ mong.
Riêng tôi tủi phận âm thầm,
Chăm nom đàn lợn mà lòng nhớ thương.
Nơi đây xa cách phố phường,
Lòng không tha thiết lên đường về thâm,
Trừ khi Nhã Lan gọi lên,
Bà người khéo léo khôn ngoan nhất đời.
Khi nào có việc chi thời,
Vời lên thăm hỏi vài lời mà thôi. (6240)
Lần về thương xót thân tôi,
Kẻ buồn thương nhớ xa xôi người về.
Kẻ mừng ăn nhậu chẳng nề,
Chẳng ai khiển trách, chẳng hề sợ chi.
Lòng tôi nguội lạnh sầu bi,
Chẳng buồn han hỏi từ khi việc này:
Có người Tinh Liên đến đây, (Étolien)
Lừa tôi bèn kể chuyện đầy dối dang.
Rằng hắn trót giết bạn đường,
Cho nên bỏ trốn, lang thang cõi đời. (6250)
Tôi tiếp tử tế đón mời,
Hắn quê đảo Kiết vốn nòi binh cơ.
Theo Anh Đô Mai dưới cờ,
Đã từng chiến đấu thành Troa về nhà.
Thấy thuyền Uy Lĩnh vượt qua,
Thuyền hắn ở lại phong ba bão bùng.
Hắn rằng Uy Lĩnh trên đường,
Hè hay thu đến là cùng về đây.
Trên thuyền của cải chất đầy,
Binh thuyền, thủy thủ như tay thiên thần. (6260)
Vậy mà hết hạ qua đông,
Bao năm rồi đó người không trở về.
Cụ ơi, đừng nói dối hề!
Thấy tôi buồn bã liệu bề nói xuôi.
Nói ra cho đỡ buồn thôi,
Nghĩ rằng tôi sẽ nghe lời giúp chăng?
Với người tôi chỉ xót thương,
Tôi kính Thần Dớt cho nên giúp người.
Uy Lĩnh vội vã đáp cười:
Ta đà nói thật những lời thấy trông. (6270)
Ta đà nói thật trong lòng,
Sẵn sàng thề với các Thần Thiên Sơn.
Các Thần chứng giám lòng thành,
Vua người Uy Lĩnh sẽ nhanh về nhà.
Thì người sẽ cấp cho ta,
Áo choàng khăn ấm ta ra đi liền.
Ta đi đến Đông Ly Chân,
Là nơi ta có ý hằng phiêu du.
Chủ người nếu chẳng thấy đâu,
Thì người hãy vất ta sau vực hầm. (6280)
Từ trên ghềnh đá chông chênh,
Để làm gương bọn gạt lường dối dang.
Giả ăn mày đến xin ăn,
Lại còn láo xược, nói quàng nói xiên.
Mỉm cười người quản trại chăn :
Chớ thề, chớ thốt nghĩ rằng ta tin,
Bao người đoán việc dữ lành,
Hiện tại không biết, lại rành tương lai.
Khốn thay ta tiếp đãi người,
Lẽ nào lại muốn giết nơi vực hầm. (6290)
Đời như hơi thở nhẹ nhàng,
Lẽ nào cướp lấy để lòng ăn năn.
Để mà mang tội với Thần,
Cồ Nốt Thần từ dạy nên giúp người.
Bây giờ đến cơm chiều rồi,
Các trai bạn đuổi lợn nuôi về chuồng.
Rửa tay mời cụ vào trong,
Cùng nhau sửa soạn bữa ăn ngon lành.
Bên ngoài chiều xuống tối nhanh,
Từng đoàn lợn béo về quanh theo người. (6300)
Cửa then, trại chốt cổng rồi,
Đầy chuồng ủn ỉn, tiếng người hét la.
Rửa tay, tắm rửa bên nhà,
Âu Mê quản trại đã ra lệnh rằng:
Có người khách quý đến thăm,
Thịt con lợn béo đãi đằng bữa nay.
Lâu rồi làm cực nhọc thay,
Để mà nuôi lũ cướp ngày trắng răng,
Công ta cực nhọc ai bằng,
Bây giờ ta hưởng vui cùng khách xa. (6310)
Nói rồi bước tới sân nhà,
Rìu đồng lại bửa củi ra sẵn sàng,
Trai bạn đem lợn lên năm,
Tròn vo béo tốt lên sàn cạo lông.
Vất lông vào lửa cầu Thần,
Cầu cho Uy Lĩnh sớm nhanh về nhà.
Vung tay một nhát chày qua,
Lợn đà ngã quỵ tiếng la lìa đời.
Bên chum, thọc huyết xẻ rời,
Ướp hương sửa soạn cúng mời thần linh. (6320)
Bàn thờ thắp ngọn nến hồng,
Đầu heo sống với bộ lòng bốn chân.
Mỡ chài phủ kín mâm đồng,
Rắc bột lúa mạch trắng tinh một màu.
Âu Mê đứng trước nguyện cầu,
Rồi tung vào lửa mâm thau cúng thần.
Trai bạn bên lửa quây quần,
Xâu ghim, gia vị, thơm lừng món ngon.
Mâm đồng bày biện lên bàn,
Âu Mê chia xè bảy phần thịt thơm. (6330)
Phần cúng Hạc Mai, các tiên, (Hermès)
Phần trao Uy Lĩnh thịt mềm thơm ngon..
Uy Lĩnh cảm động trong lòng:
Cầu xin Thần Dớt, cha lành thế gian.
Phúc ân xin hãy ban ơn,
Âu Mê tử tế cưu mang giúp người.
Trong cơn vận hạn của tôi,
Cho tôi vinh dự khách mời hôm nay.
Âu Mê: Mời cụ dùng đi,
Dỡ ngon chẳng ngại, nâng ly vui nào. (6340)
Chỉ Thần, ta chẳng biết sao,
Cho hay từ chối, biết bao nhọc nhằn.
Chúng ta chỉ có lòng thành,
Các ngài là bậc thánh thần vạn năng.
Nói rồi tay rót rượu hồng,
Nâng mời Uy Lĩnh ăn cần tận tay.
Mai Sô Lộc phát bánh mì, (Mésaulios)
Vốn chàng trai được mới đây vào làm,
Từ khi Uy Lĩnh vắng tin,
Âu Mê chuộc với tiền riêng dụm dành. (6350)
Người Tà Phiên bán nô công, (Taphien)
Âu Mê mua lấy thương tình làm con,
Chẳng qua ý kiến chủ nhân,
Lão Vương hưu dưỡng nên không nói gì.
Các trai bạn lãnh phần chia,
Say sưa ăn uống nói đùa cười vang,
No nê cho đến tiệc tàn,
Bánh mì đã hết, dọn bàn cáo lui.
Mai Sô Lộc dọn ra ngoài,
Rồi vào nằm ngủ chung nơi lửa hồng. (6360)
Đêm đen, mây tối, không trăng,
Mưa rơi nặng hạt không gian mịt mờ.
Gió Tây vi vút qua bờ,
Thở hơi khói biếc, người chờ rét run.
Uy Lĩnh bịa chuyện tâm tình,
Gợi người quản trại cho manh áo lành,
Cho qua giá buốt đêm thanh,
Ăn mày chớ hỏi đòi phần quá tay:
Âu Mê và các bạn này,
Cảm ơn tiếp đãi đêm nay thật thà. (6370)
Đôi lời cùng bạn phân bua,
Nếu lời chẳng phải, tại là rượu thôi.
Ngày xưa trẻ như các người,
Cả đêm hát xướng vui chơi nhảy đầm,
Tuổi còn trai tráng thanh niên,
Sức tôi khỏe lắm, trận tiền xung phong.
Một đêm phục kích địch quân,
Dưới Ý Long ấy đêm sương mù dày,
Uy Lĩnh, Mai Ninh Lạc chỉ huy,
Và thêm tôi nữa là người thứ ba, (6380)
Thành cao doanh trại mù xa,
Bụi bờ lau lách, thông già rừng khô.
Nấp nơi hiểm trở đợi chờ,
Gió Nam buốt giá qua bờ lau thưa,
Tuyết giăng trắng xoá, mù sa,
Không gian buốt lạnh, nước đà đóng băng.
Mọi người áo dạ trùm khăn,
Riêng tôi quên mất áo choàng rét run.
Nửa đêm chẳng thấu lạnh lùng,
Ghé tai Uy Lĩnh nói cùng bạn thân: (6390)
Trẻ thơ Thần Dớt biết chăng,*
Uy Lĩnh bạn hỡi anh hùng nghìn mưu.
Tôi còn chẳng sống bao nhiêu,
Giá băng đêm rét đủ tiêu cuộc đời.
Tôi không có áo choàng ngoài,
Quỷ thần xui khiến quên nơi đậu thuyền.
Tuyết sương buốt giá lạnh lùng,
Tôi không sống nổi qua cùng đêm nay.
Uy Lĩnh mưu trí dạn dày,
Đứng lên to nhỏ nói ngay mọi người. (6400)
Này các bạn lắng nghe tôi,
Chúng ta đang ở xa nơi đậu thuyền,
Ai đi báo An Gia Vương,
Gửi thêm binh viện đến cùng chúng ta.
Đứng nhanh lên có Thọ Kha, (Thoas)
Cởi áo choàng tím nhanh ra về thuyền.
Thế là tôi có áo choàng,
Trải qua đêm đến sáng hồng bình minh.
Nếu tôi còn tuổi thanh xuân,
Sức còn trai tráng, tôi không sợ gì. (6410)
Bây giờ già lão yếu đi,
Ai cho chiếc áo ấm này qua đêm.
Âu Mê vội vã phân trần:
Cụ ơi, tôi biết cụ rằng muốn chi,
Những điều cụ kể biết ngay,
Cụ muốn quần áo đổi thay chứ gì?
Chúng tôi nghèo lắm ở đây,
Mỗ̃i người áo dạ chẳng thay chẳng rời.
Ngày mai nắng sáng lên rồi,
Cụ hãy giặt giũ, áo thời khô ngay. (6420)
Đợi Thế Viễn Mạc về đây,
Cậu ta tốt lắm, cho ngay thiếu gì.
Cậu ta hay giúp đỡ người,
Tôi sẽ dẫn cụ đến nơi cụ nhờ.
Nói rồi đứng dậy đến bồ,
Lấy ra hai tấm da to dê cừu,
Uy Lĩnh phủ trải góc lều,
Chung quanh trai bạn gáy đều giấc ngon.
Âu Mê mặc chiếc áo choàng,
Thay quần áo ấm, gió đêm lạnh lùng. (6430)
Lòng ông chẳng muốn yên nằm,
Ngủ xa đàn vật ông chăm ngày ngày.
Khoát thanh gươm nhọn lên vai,
Áo da dê mặc phủ ngoài ấm êm,
Cầm thanh giáo nhọn đi canh,
Bước đi xem xét chung quanh trại lều.
Rồi về dưới động đá rêu,
Cạnh chuồng khuất gió phía sau đá ghềnh.
Uy Lĩnh cảm động trong lòng,
Thương người gia bộc chăm nom trại chuồng. (6440)
Cho dù chủ vắng mặt luôn,
Thói quen chăm chỉ chẳng buồn đổi thay. (6442)
 Paris 2005-2019
Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
Chuyển ngữ thơ lục bát
Theo http://chimvie3.free.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...