Con người trong thơ
Hàn Mặc Tử
Nguyễn
Thị Hồng Nam
Con người luôn luôn là vấn đề trung
tâm của văn học ở bất cứ thời đại nào. Thơ mới 1932-1945 đã cho chúng ta hình
ảnh về con người trong quan hệ tình yêu, trong trạng thái mộng mơ, buồn sầu, cô
đơn, đặc biệt đã chú trọng khắc hoạ hình ảnh con người trong tiềm thức. Hàn Mặc
Tử là nhà thơ đã có rất nhiều đóng góp về phương diện này. Con người trong thơ
ông được cảm nhận qua những mặt sau:
1. Con người vũ
trụ:
Một trong những
đặc điểm của văn hoá phương Đông là coi con người như một bộ phận của thế
giới “Thiên, Địa, Nhân”, con người là một “tiểu vũ trụ”. Điều này thể hiện
trong văn chương thành con người tương thông, tương cảm với thiên nhiên. Từ đó
sản sinh ra một đặc điểm nghệ thuật của thơ ca, đặc biệt là thơ ca dân gian và
thơ ca trung đại: dùng thiên nhiên làm thứ “ngôn ngữ thứ hai” để miêu tả và
diễn đạt các trạng thái tình cảm của con người. Đặc điểm này được tiếp nối và
cách tân bởi Thơ mới. Khi Thế Lữ “du hồn” vào thiên nhiên, khi nỗi buồn của
Bích Khê “vương cây ngô đồng” hoặc khi Huy Cận cảm ứng với vạn vật “nghìn cây
mở ngọn, muôn lòng hé phơi” thì có nghĩa là giữa thiên nhiên và con người còn
có sự phân cách. Ơû Hàn Mặc Tử sự phân cách này biến mất, ông hoà nhập hoàn
toàn vào thiên nhiên, không phân biệt chủ thể – khách thể. Điều này làm cho thơ
ông đậm chất siêu thực. Trong bài “Nói chuyện với Gái quê” ông tự khắc hoạ hình
ảnh của mình:
Ta
thường giơ tay níu ngàn mây
Đi
lại lang thang trên ngọn cây.
Hàn
Mặc Tử không làm xiếc ngôn từ, ông thực sự tin và sống với những hình ảnh do
mình tưởng tượng ra, hay nói như Chế Lan Viên, ông “không làm thơ mà bị thơ
làm”. Do hoà nhập với thiên nhiên, do khí chất con người, Hàn Mặc Tử có những
hành động lạ lùng “ngoắt đám mây”, “đuổi theo trăng”, “kìm sao bay”… Nỗi đau,
nỗi nhớ của con người không phải được diễn tả một cách gián tiếp kiểu “vật mình
vẫy gió tuôn mưa” mà được diễn tả bằng tác động trực tiếp của con người tới
thiên nhiên, gây ra những ấn tượng rất mạnh, lạ:
Em
bóp nát tơ trăng
Em
túm muôn trời lại
Em
cắn vỡ hương ngàn…
(Em
điên)
Đây không phải là
việc nhân cách hoá, phú cho sự vật những tình cảm của con người. Nhân cách hoá
được thể hiện bằng thủ pháp so sánh, còn Hàn Mặc Tử ít dùng thủ pháp so sánh.
Ông coi sự vật hiển nhiên là con người “Thôi rồi ! Con trăng nó bị vướng trên
cành trúc kia kìa, thấy không? Nó gỡ mãi mà không sao thoát ra được, biết làm
thế nào hở Trí? (Chơi giữa mùa trăng). Bởi nếu có sự phân cách giữa chủ thể và
khách thể thì khách thể sẽ gợi lên ở chủ thể những ấn tượng, cảm nghĩ theo kiểu
“tức cảnh sinh tình”.
Hàn Mặc Tử thực sự sống trong đối tượng, trải nghiệm cùng
đối tượng. Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thuý cho rằng trong thơ Hàn Mặc Tử có hiện
tượng “người hoá trăng” và “trăng hoá người” mà “người hoá” mọi vật mọi vật đều
mang những tình cảm của con người: trời “từ bi cảm động ứa sương mờ”, trăng
“choáng váng với hoa tàn cùng ngả”, gió “say ướt mướt trong màu sáng”, hơi nắng
“liếm cặp môi tươi”… Lối tư duy này gần với lối tư duy của người nguyên thuỷ cổ
xưa, đồng nhất con người với sự việc và ngược lại. Trong bài viết có tính chất
tuyên ngôn “Nghệ thuật là gì”, ông viết: “Nhưng muốn tìm cái tính cách thiêng
liêng của nó (tức nghệ thuật) thì nên đóng vai nghệ sĩ quăng mình đi giữa cái
vũ trụ mênh mang rượt nà theo những nguyện vọng cao xa, thì sẽ thấy hình ảnh rõ
rệt của Nghệ thuật”. Quan điểm này có phần tương đồng với quan điểm của Xuân
Diệu “là thi sĩ nghĩa là ru với gió…” Thực tại tẻ ngắt nên các nhà thơ lãng mạn phải đi tìm “cái phi thường” ở ngoài thực tại. Do quan niệm không gian trên cao là nơi “chứa đầy hoa mộng” nên con người trong thơ ông luôn luôn hướng lên cao, khi thì “thần trí dâng cao đến chính trời”, khi “lên chơi cung Quế”… Trong tiền kiếp con người là “chim phượng hoàng/Vỗ cánh bay chín tầng trời Đầu Suất”. Hầu như không có hình ảnh con người trên đường, con người ra đi trong thơ của các nhà thơ lãng mạn khác, chỉ có hình ảnh con người bay trong không gian. Dường như càng lên cao, niềm hứng khởi của tác giả càng mãnh liệt:
Hồn
vốn ưa phiêu diêu trong gió nhẹ.
Càng
lên cao dây đồng vọng càng cao.
2.
Con người phân thân, con người trong tiềm thức
Thời đại mới đã
cấp cho con người cái nhìn mới về thế giới xung quanh, về bản thân. Con người
trong Thơ mới khao khát khám phá bản thân, họ hay tự hỏi “Ta là ai?” , “Tôi là
ai?”. “Họ nhìn sâu vào bản thể mình, tâm hồn mình và có những khám phá lí giải
tinh vi. Con người trong thơ Xuân Diệu, Huy Cận là con người thống nhất về linh
hồn, thể xác, con người trong thơ Hàn Mặc Tử bị phân đôi:
Tôi dìm hồn xuống một
vũng trăng êm
Cho trăng ngập
trăng dồn lên tới ngực
Hai chúng tôi lặng
yên trong thổn thức
(Hồn
là ai?)
Sự phân cách hồn
xác xuất phát từ cuộc đời tác giả (thân xác bệnh tật bị cách ly với mọi người)
và cao hơn thế, phản ánh ước mong của tác giả: giải thoát thân xác hữu hình để
tồn tại vĩnh viễn “cho tan ra hoà hợp với tình anh”. Con người bị lạ hoá với
bản thân, không hiểu bản thân nên hay tự hỏi: “Hồn là ai? Là ai? Tôi không
hay?”. Trong khi Thế Lữ tự gián cách với bản thân nhìn mình một cách khách quan
bằng con mắt của người ngoài cuộc “Thế Lữ là anh chàng kỳ khôi” thì Hàn Mặc Tử
nhìn mình từ bên trong:
Hồn đã lạnh, hình
như hồn ớn lạnh
Không buồn về với
thể xác đêm nay
(Hồn
qua đêm)
Nhà thơ Vũ Quần
Phương có một nhận xét khá xác đáng về thơ Hàn Mặc Tử: “Từ Thơ điên ông hoàn
toàn quay vào nội tâm để viết, một nội tâm hoàn toàn bị cắt đứt với các sự kiện
xã hội, các giao tiếp xã hội, hoàn toàn cô đơn và luôn luôn phải đối mặt với cái
chết, luôn luôn bị hành hạ vì nỗi đau thân xác” (1). Có thể nói thêm rằng Hàn
Mặc Tử là một trong những người đầu tiên trong lịch sử thơ ca Việt Nam khám phá
trạng thái vô thức của con người. Nói cách khác trạng thái vô thức là một trong
những đối tượng thơ ca của Hàn Mặc Tử. Đó là một trong những lí do làm cho thơ
ông khó hiểu. Điểm qua tựa đề các tập thơ, bài thơ của Hàn Mặc Tử ta thấy rõ
điều này: Say nắng, Cao hứng,
Say trăng, Nhớ nhung, Máu cuồng, Hồn điên…Ông
diễn tả trạng thái tinh thần của mình khi nghe nhạc (Đàn ngọc). Miêu tả “Phút
thôi miên”, miêu tả cuộc phiêu lưu của hồn “Muôn bóng ý thun dần lên chót vót”,
trạng thái cuồng của trí “Trí ta sẽ cuồng lên khoái trá”. Rất nhiều lần ông nói
đến giây phút thăng hoa của tinh thần “Thần trí người đã mê man”, “trí rất ngớp
bởi chưng xuân hồn hậu”… Trạng thái khi say thơ “Cả lòng say tớt khí linh
thiêng” và trạng thái tinh thần khi làm thơ cũng trở thành đối tượng miêu tả:
Ta muốn hồn trào
ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều
dính não cân ta
Bao nét chữ quay
cuồng trong máu vọt
Như mê man chết
điếng cả làn da
(Rướm
máu)
Sáng tạo nghệ
thuật với Hàn Mặc Tử thực sự là phát tiết tất cả tinh lực theo đúng nghĩa đen
của nó. Những bài thơ miêu tả đời sống vô thức thường có cấu trúc và nhạc điệu
đặc biệt, cấu trúc lời thơ hỗn hợp không tuân theo một thể thơ nhất định, câu 6
câu 8 trộn lẫn với câu 5, câu 4 (bài Trăng tự tử), câu 6 câu 5 và câu 7 trộn
lẫn với câu 8, câu 4 (bài Ngủ với trăng)… Nhạc điệu của cảm xúc, tư tưởng với những
tiếng kêu, tiếng cười bật ra từ đời sống vô thức: A ha ! Ha ha ! A ha ha !,
tiếng gọi: bay ơi, ớ Địch ơi. Tựa đề của bài thơ cũng là một tiếng kêu: Phan
Thiết ! Phan Thiết !
Con người và sự
vật torng thơ Hàn Mặc Tử thường ở trong trạng thái say. Gió “say lướt mướt
trong màu sáng”, trăng xuân “tràn trề say chới với”, con người “say kinh cầu
nguyện, say trời tương tư”, cả vũ trụ đều ở trong trạng thái quay cuồng “Say,
say, say lảo đảo cả trời thơ”. Với trạng thái tinh thần như vậy ta hiểu vì sao
thời gian nghệ thuật trong thơ ông chủ yếu là thời gian ban đêm. Đêm là thời
điểm thuận lợi nhất cho trí tưởng tượng mãnh liệt của nhà thơ được phát huy cao
độ.
Có lạ lùng chăng
khi một con người bị cách ly với thế giới bên ngoài, một tín đồ Thiên Chúa
ngoan đạo lại hay nhắc tới khoái lạc? Cũng có khi Hàn Mặc Tử nói tới khoái lạc
của đời sống xác thịt, nhưng chủ yếu là khoái lạc tinh thần. Ông tìm thấy khoái
lạc trong những giây phút thăng hoa của tinh thần: khi thì thơ, khi “ngoại cảnh
hay thâm tâm đồng xáo động”. Ông có một định nghĩa lạ lùng về thơ : “thơ là sự
ham muốn vô biên những nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời cách biệt”
(Quan niệm thơ).
Sáng tạo nghệ
thuật là đem tới những cái lạ, cái người khác chưa từng nói đến, nghĩ đến. Thơ
Hàn Mặc Tử đầy rẫy cái lạ. Lạ trong cách nhìn thế giới:
Hơi nắng dịu dàng
đầy nũng nịu
Sau rào khẽ liếm
cặp môi tươi
(Nắng
tươi)
lạ trong cách cảm nhận sự vật: “Ta
đã ngậm hương trăng đầy lỗ miệng”, lạ trong trạng thái tinh thần lê mê, rã rời,
lướt mướt, điên cuồng… trong cách biểu lộ tình cảm: “Say tê trăng sần sượng cả
làn da”, trong cách dùng từ, so sánh, liên tưởng: “Xuân trên má nường thơ/ Ngon
như tình mới cắn” (Cao hứng), lạ trong cách chuyển ý nhanh và xa, tức thơ ông
có sự chuyển kên rất mau lẹ, phản ánh nội lực tinh thần, khả năng liên tưởng
mạnh mẽ, chính vì vậy mà Hoài thanh cảm thấy “mệt lả” khi đọc thơ Hàn Mặc Tử. Ở
bài “Trăng vàng trăng ngọc” tác giả đi từ ý tưởng “bán trăng” đến “bán đoàn
viên, ước hẹn hò” và đến lời hẹn:
Bao
giờ đậu trạng vinh quy đã
Anh
lại đây tôi thối chữ thơ.
Có
thể dẫn ra rất nhiều ví dụ như vậy: Mơ hoa, Lang thang, Ngủ với trăng… Điều này
làm cho kết cấu một số bài không chặt chẽ, một khổ thơ được dùng hai bài khác
nhau. Trong một bài có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng: từ ta sang tôi, từ mi
đến ta đến tôi…
Đồng
thời ông còn có những chuyển đổi rất mau lẹ từ ấn tượng tinh thần đến cảm nhận
thể xác. Điều này cho ta thấy giác quan của ông rất nhạy bén. Ông sống thực sự
cả tinh thần và thể xác với những cái đang xảy ra. Nhìn trăng ông cảm thấy
“ngọt ngào trong cổ họng như vừa uống xong ngụm nước lạnh, mát đến tê hết cả
lưỡi và hàm răng” (Chơi giữa mùa trăng).
Từ nỗi nhớ người yêu đến hành động vô
thức “anh đi thơ thẩn như ngây dại” / Hứng lấy hương nồng trong áo em”. Từ
trạng thái ghen đến phản ứng xúc giác “miệng lưỡi khô khan hết cả thèm” (Ghen)…
Sự chuyển biến nhanh chóng của quá trình “ngoại cảnh xâm lấn xác thịt và linh
hồn” chi phối sự chuyển đổi đột ngột của ngôn ngữ thơ từ miêu tả sang đối thoại
hoặc độc thoại:
Trong
khóm vi lau dào dạt mãi
Tiếng
lòng ai nói sao? Sao im đi
Ô
kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ
cái khuôn vàng dưới đáy khe.
(Bẽn
lẽn)
Nhiều
nhà nghiên cứu phát hiện Hàn Mặc Tử hay dùng những từ liên quan đến môi, miệng
như: nuốt, thèm thuồng, hớp, uống… Một mặt ông hớp, đớp, nuốt váng trời, miếng
cười, mùi trăng mặt khác lại ợ ra, mửa ra, ọc ra trăng, thơ, hồn, nguồn thơm…
“Bên đồi ta ợ ra trăng cả/ Ướt áo nhưng mà chưa no nê” (Ý trinh). Sự kết hợp
giữa những hình ảnh, từ ngữ vốn rất xa nhau về nghĩa như vậy cho ta thấy tính
chất trần tục và thoát tục của thơ Hàn Mặc Tử. Nhà nghiên cứu Bùi Xuân Bào
trong bài viết Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử lý giải vấn đề trên như
sau: “Đối với Hàn Mặc Tử, thi hứng có nghĩa là thi sĩ nhận một luồng cảm hứng
từ ngoại giới vào thể xác và tâm hồn, và sau đó thi sĩ biến luồng cảm hứng đó
thành lời thơ” (2). Có thể giải thích thêm: ông tiếp nhận tinh hoa từ ngoại
giới “đón từ xa một ý thơ” và phát tiết ra thơ bằng tất cả tinh lực chính vì
thế mà ông có những vần thơ rướm máu. Và những hành động “cười nói làm sao cho
hả hơi”, “cắn lời thơ để máu trào”… giống như là sự giải thoát những ẩn ức, tâm
trạng hoặc nỗi đau đè nặng trong lòng.
3.Con
người mơ ước:
Thơ
Hàn Mặc Tử cũng như thơ của các nhà thơ lãng mạn khác, tràn đầy mộng ước. Họ
coi đó là một trong những cách phủ nhận thực tại. Xuân Diệu tự coi mình là “con
chim đến từ núi lạ”. Huy Cận tự khắc hoạ hình ảnh của mình là “chàng trai gối
mộng trên trang sách”, Hàn Mặc Tử coi mình là “người trong mộng”. Thân xác càng
đau đớn cái chết càng đến gần, mộng ước càng cháy bỏng. Hàn Mặc Tử không chỉ mơ
mộng, ông thực sự sống trong mộng không phân biệt cái thực và cái ảo “Tôi ngồi
dưới bến đợi nường Mơ”. Vì sao Hàn Mặc Tử hay mơ ước như vậy?
Thực tế đời ông
không cho phép ông sống trong cuộc sống bình thường như mọi người, ông chỉ có
thể yêu trong mộng, sống trong mộng. Nhưng dù cho số phận của ông không khắc
nghiệt đến như vậy thì ông cũng không thể thoả mãn với thực tế. Ông luôn mang
cảm giác khát, thèm nhưng không phải là đói cơm, khát nước như có người lầm
tưởng. Ông “khát miếng chung tình”, khát khao thèm thuồng “những vật lạ muôn
đời” nghĩa là khát khao cái Tuyệt đối, Vô biên, cái không có trong cuộc sống
trần thế “Tôi tìm ánh nắng vạn đời vương”. Vì thế con người ấy phải đi tìm nó ở
Đức Chúa Trời, tức ở một “cõi trời cách biệt”, ở thế giới ước mơ hay còn gọi là
Thiên Đàng trong niềm tin của một tín đồ Thiên chúa giáo để có thể “hưởng cái
thơ khác nữa”. Thế giới thơ của ông là “bến xa mơ”, “nẻo mơ”, “xứ mộng”. Trong khi các nhà thơ khác mơ về quá khứ thì thế giới mộng của Hàn Mặc Tử nằm ở niềm tin, ở ảo giác của ông, nằm ngay trong hiện tại:
Từ
đầu canh một tới canh tư
Tôi
thấy trăng mơ biến hoá như
Hương
khói ở đâu ngoài xứ mộng
Cứ
là mỗi phút mỗi nên thơ.
(Huyền
ảo)
Điều
này giải thích vì sao thơ Hàn Mặc Tử ít có kết cấu tương phản kiểu xưa – nay,
gặp gỡ – chia ly …. như thơ của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Thế Lữ. Các nhà thơ này
dùng kết cấu tương phản để bộc lộ sự thất vọng với thực tế trong khi thơ Hàn
Mặc Tử tràn đầy niềm mong đợi về một mùa “xuân như ý”. Chính vì vậy nên dù thơ
của ông là thơ của một con người ý thức rõ cái chết đang đến gần nhưng thơ
không gợi lên cảm giác bi quan tối tăm như thơ vũ Hoàng Chương. Những từ ngữ
tiêu tán, biến hoá, tan…. Trong thơ không mang cái nghĩa thông thường của nó:
cái chết, sự tàn lụi mà là sự biến hoá của vật chất từ dạng này sang dạng khác:
Nước
hoá thành trăng ra nước
Lụa
là ướt đẫm cả trăng thâu
(Huyền
ảo)
hoặc
là sự hoà hợp, nhất thể của vật chất, của thân xác đau thương trong một thế
giới khác.
Một
hồn đau rã lần theo hương khói
Một
bài thơ cháy tan trong nắng rọi
Một
lời run hoi hóp giữa không trung
Cả
niềm yêu ý nhớ, cả một vùng
Hoá
thành vũng máu đào trong ác lặn.
Đấy
là tất cả người anh tiêu tán
Cùng
trăng sao bàng bạc xứ say mơ
Cùng
tình anh tha thiết như văn thơ
Ràng
rịt mãi cho đến ngày tận thế.
(Trường
tương tư)
hoà
tan thành một thể mới để chiến thắng thế giới vật chất hữu hình, để trương tồn
mãi cùng vạn vật:
Chúng
ta biến em ơi, thành thanh khí
Cho
tan ra hoà hợp với tình anh
Của
trời đất, của muôn vàn ý nhị
Và
tình ta sáng láng như trăng thanh.
(Sáng
láng)
4.
Con người cô đơn, đau đớn:
Con
người cô đơn là một motif quen thuộc của thơ lãng mạn. Xuân Diệu, Nguyễn Bính
cô đơn vì không tìm thấy sự chia sẻ, cảm thông của ngoại giới “Thôn đoài ngồi
nhớ thôn Đông/ Cau thôn đoài nhớ giầu không thôn nào”. Hàn Mặc Tử cô đơn vì bị
cách ly khỏi thế giới: “Anh nằm ngoài sự thực/ Em nằm trong chiêm bao”. Khoảng
cách chia ly trong thơ ông không phải là sự chia cắt trong một không gian giới
hạn như bên ấy, bên này, thôn Đoài, thôn Đông mà là sự chia cắt trong hai không
gian hoàn toàn cách biệt ngoài sự thực, trong chiêm bao, ngoài mây nước, bên
kia trời…
Chính vì khoảng cách không gian vô cùng như vậy mà nỗi cô liêu của
con người càng trở nên khủng khiếp “một vũng cô liêu cũ vạn đời”. Những đau
thương thể xác và tinh thần của ông bộ lộ thành tiếng nấc, tiếng khóc, tiếng
cười, tiếng rú. Đó là nỗi đau sâu sắc, trần trụi, mang tầm vóc vũ trụ: “Nghệ
hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm/ Nhớ thương còn một nắm xương thôi” (Muôn năm sầu
thảm). Nỗi đau được diễn tả bằng nhịp điệu của sự cuồng trí vô vọng:
Anh
nuốt phứt hàng chữ
Anh
cắn vỡ lời thơ
Anh
cắn cắn cắn cắn
Hơi
thở đứt làm tư.
(Anh
điên)
hoặc
bằng nhịp điệu buồn thấm thía:
Rao
rao gió thổi phương xa lại
Buồn
đâu say ngắm áo xuân ai.
Lay
bay lời hát, ơ buồn lạ
E
buồn trong mộng có đêm nay.
(Buồn
ở đây)
Từ
điểm nhìn của con người bi quan các nhà Thơ mới hay nói đến cái chết. Cái chết
ngang trái của những người trinh nữ “hồng nhan bạc mệnh”, “cái chết lạnh lẽo
không giọt nước mắt của người đời xót thương… Trong thơ Hàn Mặc Tử còn có những
cái chết kì dị, lạ thường Mây chết đuối, trăng tự tử. Phải chăng đó là nỗi ám
ảnh về cái chết đang đến gần với tác giả, và phải chăng cũng từ thực tế của
thân xác đau thương mà trong thơ ông có nhiều hình ảnh máu đến thế? Làn môi
thiếu nữ tươi như máu, mặt nhật tan thành máu, gánh máu, máu đang tươi…
Cuộc
đời trong quan niệm của các nhà thơ lãng mạn là sự dở dang, không trọn vẹn. Thơ
Hàn Mặc Tử cũng nằm trong cảm hứng ấy. Cũng như Xuân Diệu, ngay khi sự sống
đương hồi mơn mởn trong mùa xuân tươi thắm là thế Hàn Mặc Tử đã nhìn thấy cái
kết cục ảo não của nó:
Sóng
cỏ xanh tươi gợm tới trời
Bao
cô thiếu nữ hát bên đồi
Ngày
mai trong đám xuân xanh ấy
Có
kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.
(Mùa
xuân chín)
Một
trong những tiêu chuẩn để đánh giá tài năng nghệ sĩ là cái lạ, cái độc đáo. Sáu
mươi năm trước, đọc thơ Hàn Mặc Tử, Hoài Thanh viết: “Ta chỉ thấy trong văn thơ
cổ kim không có gì kinh dị hơn”. Thơ ca Hàn Mặc Tử lạ trong cách suy nghĩ, lập
ý, so sánh, trong cách dùng từ ngữ, hình ảnh. Và cái lạ nhất là một con người
phải trải qua những nỗi đau thể xác và tinh thần ghê gớm như vậy nhưng giọng
thơ nói chung không bi quan mà luôn mơ ước, hướng tới thế giới vĩnh hằng “tứ
thời xuân non nước” và cũng là con người đã viết ra một trong những vần thơ
trong sáng nhất của thơ ca Việt Nam:
Trong
làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi
mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột
soạt gió trêu tà áo biếc
Trên
giàn thiên lý bóng xuân sang
(Mùa
xuân chín).
CHÚ
THÍCH
1.
Nhìn lại một
cuộc cách mạng trong thi ca. Chủ biên Huy Cận, Hà Minh Đức – NXB Giáo dục 1993,
trang 130.
2.
Trích dẫn
theo Phan Cự Đệ – Thơ văn Hàn Mặc Tử – NXB Giáo dục 1993, trang 439.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét