Chưa bao giờ tôi khóc khi nghe người
ta hát. Thế mà tối hôm đó nước mắt tôi cứ chực trào xuống trong suốt thời gian
tôi ngồi nghe nhạc sĩ Phạm Duy hát bài tâm ca số năm của anh. Buổi họp mặt gồm
có chừng ba trăm thanh niên nam nữ, phần lớn là những người đang theo học
trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, một số các vị giáo sư và thân hữu của
trường. Bài tâm ca mang tên là "Để Lại Cho Em", những lời tự thú của
một người anh bốn mươi tuổi nói với người em hai mươi tuổi. Phải, đúng là những
lời tự thú. Những lời tự thú thẳng thắn, đầy ân hận, đầy đau thương; những lời
tự thú làm cho xót thương dâng lên tràn ngập lòng người, người của thế hệ đi
trước cũng như của thế hệ đi sau. Những lời tự thú khiến cho giận hờn và
trách móc tan biến và khiến cho nguồn thông cảm được khơi mở. Trong ánh mắt của
những người trẻ tuổi hôm ấy, tôi quả đã đọc thấy tha thứ và tin yêu.
Tôi rưng rưng nước mắt, vì tôi được
nghe chính tiếng nói của lòng tôi, tiếng tự thú của lòng tôi, do một nhạc sĩ
tài ba hát lên. Phạm Duy đã hát gì? Thế hệ của những người đi trước- là chúng
tôi- đã để lại cho thế hệ đi sau- là những người em hai mươi tuổi ngày hôm nay-
những hèn kém những tội lỗi của họ. Một giải non sông gấm vóc, một miền oai
linh hiển hách bây giờ chỉ còn là một mảnh đất bị chia cắt, cày xới lên bởi bom
đạn. Hận thù nhân danh chủ nghĩa, bạo lực vênh vang bề thế, các anh đã để lại
cho các em những giọt máu của dân lành, những nấm mồ chưa xanh cỏ, những tấm
khăn sô, những thành phố buồn trong đó loài người đang tranh nhau từng đám bụi
đen. Các anh đã vụng về, đã hèn kém, đã để lại cho các em một quê hương nghèo
khổ đói lạnh dù ruộng đồng của tổ quốc ta vốn rất mầu mỡ phì nhiêu. Đường về
tương lai nghẽn lối, bàn tay các anh đáng lẽ phải thơm mùi đất nay thành ra hôi
mùi thuốc súng; các anh đã để lại cho các em những giả dối, đê hèn và vụng dại
của các anh. Nhưng cơ sự đã xảy ra như thế rồi, xin các em đừng trách móc hờn
giận: hãy thương chúng tôi và hãy can đảm nhận lấy cái gia tài khôn khổ khốn
nạn do các anh để lại Nếu chúng ta biết thương nhau, nếu các em biết thương yêu
và tha thứ cho chúng tôi, nếu chúng ta cùng gom sức mới, cùng nhận lời tranh
đấu, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ tìm được một lối thoát cho nhau. Nếu các em
biết thương yêu và tha thứ thì hồn nước cũng sẽ giật mình, đời chúng ta sẽ lên
sức sống, tủi hờn sẽ lắng xuống và niềm kiêu hãnh sẽ vươn lên. Nếu các em biết
thương yêu và tha thứ thì súng đạn cũng sẽ phải thở dài, tàu bay cũng sẽ phải
khóc, lựu đạn sẽ phải im tiếng, và quê hương ta sẽ không còn là một bãi chiến
trường.
Một bài hát như thế quả thực đã là
tiếng nói phát ra từ tâm niệm thành khẩn, từ ý thức trách nhiệm, từ những khổ
đau của nhận thức. Một bài hát như thế không còn là một bài hát nữa. Đó là máu,
đó là xương, đó là linh hồn, đó là những khúc ruột quặn đau, đó là sự sống
Chúng tôi, những người anh bốn mươi thời hôm nay, nhân danh Mẹ tổ quốc, Mẹ tình
thương, chờ mong em đáp lại tiếng kêu bi thương đó, kêu gọi em trở về với tình
huynh đệ, ngồi lại bên nhau, bàn bạc với nhau đề tìm ra một lối thoát. Em đừng
oán giận trách móc nữa, và cũng đừng nghĩ rằng những điều chúng tôi nói, chúng
tôi viết đây là những lời than trách, nhục mạ, lên án tuổi trẻ nữa. Tôi biết
tuổi trẻ còn nhiều trong trắng, còn nhiều tha thứ. Tôi biết em sẵn sàng tha
thứ, cũng như chúng tôi cũng đã từng biết tha thứ cho những vụng dại, những
thành kiến của lớp người đã làm cho chúng tôi khổ đau.
Em hãy nhìn lại chúng tôi: trán
chúng tôi cũng bị cày lên những đường nét ưu tư, khổ đau, mắt chúng tôi vì cát
bụi cuộc đời cũng không còn trong xanh nữa, niềm tin và sự trong trắng của tâm
hồn cũng đã sứt mẻ và vỡ nát nặng nề. Chúng tôi cũng đã cô độc như bây giờ em
đang cô độc. Chúng tôi cũng đã bơ vơ như em bây giờ còn đang bơ vơ. Chúng tôi
nào phải là muốn lên giọng đạo đức để nhục mạ em. Đến nước này mà còn nhục mạ
nhau, còn lên giọng đạo đức với nhau thì quả thực là chúng ta đã điên mất rồi.
Quê hương thân yêu tan nát, chúng ta người lớn cũng như người nhỏ, hầu như
không còn là chúng ta nữa. Chúng ta đã đổ trách nhiệm lên đầu nhau, đổ oán giận
lên đầu nhau, để càng xa nhau, để càng thêm không hiểu nhau. Đau thương đã lớn
lao quá rồi, chúng ta đừng gây nhiều thêm nữa. Trong giai đoạn nầy chỉ còn có
lòng xót thương mới có thể giữ cho chúng ta còn là chúng ta, mới có thể giúp
cho chúng ta có đủ bình tĩnh và thương yêu để tự lái con thuyền chúng ta ra
khỏi cơn bão táp.
Hãy hướng về chắp tay xót thương cho tổ quốc, cho giống nòi, xót thương Mẹ, xót thương Em, xót thương mảnh vườn xanh xưa của thời thơ ấu. Chất liệu xót thương sẽ biến khổ đau thành hoa trái ngọt ngào. Thương nhau, chúng ta sẽ tìm thấy con đường. Thương nhau, chúng ta sẽ làm nên lịch sử.
Hãy hướng về chắp tay xót thương cho tổ quốc, cho giống nòi, xót thương Mẹ, xót thương Em, xót thương mảnh vườn xanh xưa của thời thơ ấu. Chất liệu xót thương sẽ biến khổ đau thành hoa trái ngọt ngào. Thương nhau, chúng ta sẽ tìm thấy con đường. Thương nhau, chúng ta sẽ làm nên lịch sử.
Hình bóng? Hình bóng của em? Hình
bóng nào là hình bóng đích thực của tôi, đích thực của em? Hình bóng nào mới
thực là hình bóng của Mẹ tạo nên, của Mẹ trao truyền? Hình bóng nào mang được
tiếng ru bên nôi nhỏ, mang được ánh mắt biết hy sinh, giàu tha thứ, mang được
bàn tay cần mẫn biết chăm lo của truyền thống Việt Nam? Hỡi người em hai mươi
tuổi, dù cho phong ba bão táp có đến trên đời em một trăm lần, một ngàn lần, dù
có quật ngã em, tôi vẫn nhận ra em, vẫn thấy em còn mang hình bóng của người
con tổ quốc. Dù em có từ chối tôi, có từ chối Mẹ, tôi vẫn thấy nơi em, hình
bóng của Mẹ. Em vẫn còn rung động khi nghe lại tiếng ru bên nôi nhỏ. Em vẫn còn
thấy tâm hồn tràn ngập xót thương khi nhìn lại ánh mắt giàu hy sinh và tha thứ.
Em vẫn còn là em. Dù đã có lần em thù ghét tôi, từ bỏ tôi, phủ nhận tôi, tôi
cũng không thể nào không nhận ra em. Em có mặc lên trên người em những y phục
dị kỳ, em có làm tội làm tình em bằng cách chặt bớt vài ngón tay, rạch thêm
những lằn sâu trên mặt, xẻo bớt thân thể em để tạo nên những vết sẹo lớn thì
tôi cũng vẫn còn nhận ra em. Tôi còn nhận ra em thì không bao giờ tôi có thể từ
bó em. Tôi còn nhận ra em tại vì chất liệu thực của con người em dễ dầu gì mà
bị tiêu diệt bằng phong ba bão táp, dù cho từ phương Bắc thổi xuống, dù cho từ
phương Tây thổi qua. Thôi, em cho tôi nhìn nhận em là em của tôi đi, xin cho
tôi nhìn nhận em là con của Mẹ. Tôi có hư hỏng, tôi có gây khổ đau cho em thì
vì Mẹ em vẫn còn có thể tha thứ được cho tôi mà. Cái mà em khoác vào người và
em cho là hình bóng của em, vốn không phải là hình bóng đích thực của em, do Mẹ
trao truyền lại. Dù những vết thương có sâu, dù những đường rạch có lớn, dù
những vết sẹo có nhiều thì không phải vì vậy mà em tiêu diệt được hình bóng
đích thực của em. Hình bóng mà bây giờ em nhận là của em, tôi thấy đó chỉ là
những vết thương, những đường rạch, những cái sẹo. Tôi, chính chúng tôi cũng có
những vết thương, những đường rạch, những cái sẹo. Mà có phải vì vậy mà tôi với
Mẹ không còn những liên lạc huyết thống đâu. Mà có phải vì vậy mà tôi với em
không còn những liên lạc huyết thống đâu.
Để trả thù tôi, em đã hủy hoại em,
em đã tạo cho em một hình dáng mà chất liệu là những đổ vỡ do phong bão gây
nên, rồi em nhận hình dáng ấy là hình dáng của chính em. Để cho tôi khổ đau, và
để cho Mẹ khổ đau. Mà thực ra thì Mẹ đã khổ đau, tôi đã khổ đau. Vì chính em đã
khổ đau. Tôi biết em đã khổ đau, khổ đau hơn chính chúng tôi. Nhưng tôi không
thể nào giận em được. Tôi xót thương cho tôi, xót thương cho em, xót thương cho
tất cả chúng ta. Có phải em đã tự miêu tả hình dáng em như thế này chăng, và có
phải khi em nhìn vào một hình dáng như hình dáng này, em thấy thắp thoáng hình
bóng em trong ấy phải không?
"Thế giới người lớn là thế giới
nghĩa địa, thế giới chết, thế giới ma quái ngu dại.
Các ông tự
cho là các ông khôn ngoan, chín chắn, kinh nghiệm. Chúng tôi không cần những
thứ ấy và chúng tôi cũng không đụng chạm gì đến những thứ ấy, vì thế chúng tôi
lễ phép xin các ông hãy trả thế giới hồn nhiên cho chúng tôi: đừng làm điếc tai
chúng tôi với những tiếng thối nát như " khôn ngoan", "chín
chắn", "kinh nghiệm".
Chúng tôi
không cần kinh nghiệm.
Kinh nghiệm
là gì, nếu không phải là thói quen mà các ông đã bám vào đó để bảo đảm cái thân
người hèn mọn nô lệ của các ông
Tôi đã vô lễ
hằn học với các ông.
Những sự hằn
học ấy cần thiết.
Chúng tôi,
thế hệ thanh niên Việt Nam tù I5 đến 25 tuổi, muốn nói lên một sụ thực đau buồn
nhất trong đời chúng tôi; sự thực bi đát ấy là:
CHÚNG TÔI
KHÔNG CÒN TIN TƯỞNG NƠI CÁC ÔNG NỮA
Hơn thế nữa,
sự thực bi đát trên trở thành bi tráng: chúng tôi không cần các ông nữa.
Đối với chúng tôi, các ông đã chết,
và bây giờ đã đến lúc chúng tôi phải sống, phải đứng thẳng nhìn đời với nỗi
niềm cô đơn vô hạn của tuổi trẻ, chúng tôi sẽ đi và chỉ đi một mình. Quê hương
Việt Nam đang đổ vỡ; chúng tôi sẽ gánh Iấy sự đổ vỡ ấy trên hai vai yếu đuối,
nhưng vẫn mang niềm kiêu hãnh vô biên, chúng tôi sẽ tự tạo ra trách nhiệm cho
mình; các ông đã chết; tôi phải cần lập lại một lần nữa rằng các ông đã chết,
vì thế các ông không có trách nhiệm và các ông cũng không thể bắt chúng tôi
nhận trách nhiệm nào cả. Trách nhiệm là trách nhiệm riêng của mỗi anh em trong
chúng tôi.
Đau buồn không phải là mái nhà đang
đổ vỡ ; đau buồn là chúng tôi đã ngu dại để chờ những người chết xây dựng lại;
những người chết là đã chết hẳn; chỉ có chúng tôi là xây dụng lại thôi,
chỉ có những người sống là thổi sức sống vào thế giới điêu tàn này.
Các ông thường phàn nàn rằng chúng
tôi là một thế hệ thối hóa, sống không biết ngày mai, không biết lý tưởng, trụy
lạc, la cà ruợu chè, hút thuốc, tục tằn, du côn, mất dạy, lấc xấc, ngang tàng,
chỉ biết ăn chơi, non nớt, không làm gì ra hồn, đàng điếm, nhảy đầm, trác táng,
hoang đàng và một triệu hình dung từ khác.
Vâng, chúng tôi hãnh diện chấp nhận
hết cả nhũng hình dung từ trên. Và chúng tôi chỉ xin nở một nụ cuời lễ độ
và cúi đầu không biện hộ. Các bạn bè thân yêu của chúng tôi đang gục chết trên
cánh đồng biên giới, bên bờ sông hay giữa rừng rú hoang vu; khói lửa ngút trời,
máu đỏ của tuổi trẻ đang tưới trên những giải đất khô cằn quê hương, những mái
tóc xanh trở thành nhĩrng bãi cỏ xanh trên những nấm mồ trận địa.
Hỡi ơi, hãy khóc đi hỡi quê hương
yêu dấu...
Các ông trách rằng chúng tôi sống
không lý tuởng. Lý tuởng là gì? Lý tuởng là gì? Lý tưởng có phải tranh đấu giữ
gìn để cho các ông sống nốt cuộc đời tầm thường an phận của các ông . Mục đích
của cuộc đời là Sống - Sống gì? Sống cuộc đời thực sự của mình. Cuộc đời thực
sự không phải là cuộc đời của đám đông, của xã hội, của khuôn mòn lối cũ, của
công thức tù hãm. Cuộc đời thực sự không phải là những phép tắc luân lý đạo
đức. Cuộc đời thực sự không phải là những ông công an, những ông cảnh sát,
những ông giáo sư trung học và đại học. Cuộc đời thực sự là chúng tôi, là tuổi
trẻ.
CHỈ CÓ CHÚNG TÔI LÀ ĐẶT RA NHỮNG LỀ
LUẬT.
Chúng tôi không còn lý tưởng, vì lý
tưởng là lý tưởng của các ông.
Lý tưởng (dù
lý tưởng nào) đều là nhà tù để nhốt lại sức sống vỡ bờ của tuổi xuân; lý tưởng
là ảo tưởng; sống không lý tưởng là sống trọn vẹn, là lao mình vào cuộc đời với
trọn sự hồn nhiên bỡ ngỡ của mình.
Con người
hồn nhiên không có lý tưởng.
Chỉ
khi nào người ta mất mát rồi thì người ta mới tạo ra lý tưỏng để tự đánh lừa
mình bằng sự phiêu lưu vô định trong thế giới tư tưởng.
Lý tưởng là
những sản phẩm của lý trí ; lý trí là ký ức; ký ức là quá khứ là kinh
nghiệm; kinh nghiệm đánh mất hồn nhiên.
Sống có lý
tưởng là sống có quá khứ, lấy quá khứ mà nhìn dòng đời: dòng đời luôn luôn trôi
chảy mới lạ từng giây phút; lấy quá khứ nhìn dòng đời là chận đứng dòng đời
lại, là bắt dòng đời phải chảy ngược lại chỗ cũ mà nó đã chảy qua từ lâu rồi,
như thể là đã giết chết sức sống phong phú.
Sống có lý
tưởng là sống không còn ngạc nhiên nữa ; người ta không thể biết ngạc nhiên
trước cuộc đời khi người ta sống có lý tưởng
Sống không
lý tưởng là lao mình vào đời với trọn vẹn hồn nhiên, ngạc nhiên, thao thức, bỡ
ngỡ , mới lạ trong trắng giây phút một.
Ngoài kia,
trời đang vẫn còn mưa, tôi lại đứng đây để lý luận với những người chết
sao?..." [1]
Không!
Không, em ơi ! Đó không phải là hình bóng đích thực của em. Đó chỉ là những
thương tích
Đó chỉ là
những thương tích. Em nhìn lại em xem. Em vẫn còn cảm động khi nghe tiếng ru
bên nôi nhỏ.
Đó chỉ là những thương tích. Những
dấu tích. Những chứng tích của giai đoạn lịch sử này. Hãy bình tâm đi em: đau
khổ sẽ làm em trưởng thành. Đau khổ sẽ làm ta trưởng thành. Bình tâm và yêu
thương, em sẽ làm nên lịch sử. Thực ra, có thể em không còn tin nơi tôi. Nhưng
không phải vì vậy mà tôi đã chết. Bằng cớ là em vừa nói với chúng tôi vừa lý luận
với chúng tôi. "Ngoài kia, trời đang vẫn còn mưa, tôi lại đứng đây để lý
luận với những người chết sao?". Tôi thấy rồi, em ơi, cái giận dữ của em
chỉ là cái giận dữ bề ngoài. Trong em, vẫn còn tin yêu, vẫn còn những liên hệ
muôn đời với tôi, với Mẹ. Em nói tôi đã chết. Em nói em không nên lý luận với
những người chết. Nhưng em đã lý luận với người chết rồi, đã lý luận với tôi
rồi. Và như vậy trong thâm tâm em vẫn tin rằng tôi còn sống, em vẫn muốn nói
chuyện với tôi. Còn gì làm sung sướng hơn nữa. Còn gì làm tôi hy vọng hơn
nữa. Tất cả những xua đuổi, những oán ghét, những phũ phàng của em, trước sau,
chỉ là những dấu tích, những thương tích, những chứng tích. Nằm trong sâu thẳm
của hồn em, là con người đích thực của em, là huyết thống của Mẹ, là chất liệu
huynh đệ của anh em ta. Em không thể nào thù ghét tôi được bởi vì em vẫn còn là
em. Em hãy bình tĩnh lại, em ngồi xuống. Hãy nghe lại tiếng ru ngày xưa. Cho
tâm hồn em lắng dịu. Và để cho tôi nói chuyện với em. Bởi vì dù giận dữ, hung
hăng, em cũng đã muốn nói chuyện với tôi rồi.
[1] Phạm Công Thiện, Ý thức mới trong Văn nghệ và Triết học,
trang XV- XX, Lá Bối, 1965
Em muốn nói chuyện với tôi, bởi vì
trong thâm tâm, em chưa mất hẳn niềm tin nơi tất cả chúng tôi. Và tôi
muốn nói chuyện với em, bởi vì có lẽ tôi là một trong những người chưa chịu
đầu hàng cuộc đời. Thực ra, những người đầu hàng cuộc đời không hẳn
đã phải là những người lớn. Trong lứa tuổi các em, cũng đã có rất nhiều người
đầu hàng cuộc đời rồi. Hãy để cho họ tạm yên, bởi vì họ đang cần được yên. Dù
sao họ cũng đáng thương như chúng ta. Em có thể gọi họ là những người chết, nếu
em muốn. Hoặc em có thể nói như Albert Camus rằng họ sống như những
người chết, điều đó cũng không sao.
Cái gì đã khiến cho chúng ta ngồi lại bên nhau để nói chuyện cùng nhau, nếu không phải là ý thức về thực trạng của chúng ta ? Hãy tự hào là những người tỉnh táo. Hãy tự hào là những người không bị chìm đắm trong cảnh túy sinh mộng tử. Hãy có thái độ nổi loạn đối với guồng máy đang muốn lôi kéo tất cả chúng ta vào cảnh túy sinh mộng tử. Điều thiết yếu là ta phải biết nổi loạn bằng cách nào. Bởi vì có những cách nổi loạn chỉ gây thêm chìm đắm. Và có những cách nổi loạn khác có thể đưa tới sự giải phóng con người. Tôi muốn được đàm luận với em về những điều ấy. Và đàm luận một cách thẳng thắn, can đảm.
Cái gì đã khiến cho chúng ta ngồi lại bên nhau để nói chuyện cùng nhau, nếu không phải là ý thức về thực trạng của chúng ta ? Hãy tự hào là những người tỉnh táo. Hãy tự hào là những người không bị chìm đắm trong cảnh túy sinh mộng tử. Hãy có thái độ nổi loạn đối với guồng máy đang muốn lôi kéo tất cả chúng ta vào cảnh túy sinh mộng tử. Điều thiết yếu là ta phải biết nổi loạn bằng cách nào. Bởi vì có những cách nổi loạn chỉ gây thêm chìm đắm. Và có những cách nổi loạn khác có thể đưa tới sự giải phóng con người. Tôi muốn được đàm luận với em về những điều ấy. Và đàm luận một cách thẳng thắn, can đảm.
Có lẽ điều bi thảm nhất đối với những
con người trẻ tuổi hôm nay là càng chống đối và ghét bỏ những hình thái sinh
hoạt hiện tại bao nhiêu, con người lại càng bị mắc kẹt vào những hình thái ấy
bấy nhiêu. Em thử nhìn lại xem. Em chán ghét trường học, nhưng em cũng cứ phải
hàng ngày chui đầu vào lớp học để nghe giảng những môn học hình như không dính
líu gì đến những băn khoăn thao thức lớn nhất trong tâm hồn em. Em chán ghét
thi cử, khinh miệt bằng cấp, vậy mà em vẫn phải chui đầu vào phòng thi, cố cướp
cho được một mảnh bằng như bất cứ ai khác. Em rất chán ghét đời sống cạo giấy
an phận của công tư chức nhưng mà em vẫn phải lê mòn gót chân đi tìm công việc
như bất cứ một người thất nghiệp nào.
Em không yêu, không nghĩ đến đời sống lứa đôi nhưng em vẫn lao đầu vào những cuộc phiêu lưu cảm giác để gây thêm chán chường và bực tức cho em và cho kẻ khác. Em phải bắn vào đầu những kẻ em không thù hận. Em bị mắc kẹt vào những gì em khinh ghét và những gì em ghê sợ nhất. Nhận thức ấy làm cho em khinh ghét và ghê sợ chính em. Em thấy em bất lực trước một thực tại càng ngày càng trở nên khắc nghiệt, càng ngày càng thêm sức khống chế, và tiêu diệt em. Ý thức điều ấy em đã nổi loạn. Em đập phá lung tung. Và càng vùng vẫy, em lại càng mắc kẹt. Không những em đã làm như thế mà chúng tôi cũng đã làm như thế. Những người đi trước ta cũng đã làm như thế. Trong cơn hốt hoảng, bối rối, chúng ta có thể tạo nên nhiều lầm lỗi, chúng ta nổi loạn không đúng cách. Chúng ta đã không đập vỡ được mà chỉ mua thêm lấy những thất vọng, những chán chường, những mệt mỏi. Để rồi chúng ta tự làm cho tình trạng đã bi đát lại càng bi đát thêm ra đến cả trăm lần.
Em không yêu, không nghĩ đến đời sống lứa đôi nhưng em vẫn lao đầu vào những cuộc phiêu lưu cảm giác để gây thêm chán chường và bực tức cho em và cho kẻ khác. Em phải bắn vào đầu những kẻ em không thù hận. Em bị mắc kẹt vào những gì em khinh ghét và những gì em ghê sợ nhất. Nhận thức ấy làm cho em khinh ghét và ghê sợ chính em. Em thấy em bất lực trước một thực tại càng ngày càng trở nên khắc nghiệt, càng ngày càng thêm sức khống chế, và tiêu diệt em. Ý thức điều ấy em đã nổi loạn. Em đập phá lung tung. Và càng vùng vẫy, em lại càng mắc kẹt. Không những em đã làm như thế mà chúng tôi cũng đã làm như thế. Những người đi trước ta cũng đã làm như thế. Trong cơn hốt hoảng, bối rối, chúng ta có thể tạo nên nhiều lầm lỗi, chúng ta nổi loạn không đúng cách. Chúng ta đã không đập vỡ được mà chỉ mua thêm lấy những thất vọng, những chán chường, những mệt mỏi. Để rồi chúng ta tự làm cho tình trạng đã bi đát lại càng bi đát thêm ra đến cả trăm lần.
Tôi thấy nhất định là chúng ta phải
nổi loạn rồi. Bởi vì nếu ngồi yên, thúc thủ, tiêu cực, chúng ta sẽ bị lôi tất
cả vào guồng máy, và nhân loại sẽ đi đen chỗ tiêu diệt nhân tính. Con người vì
tiện dụng đã đặt ra những khuôn khổ, và những khuôn khổ ấy cũng đã trở lại
khống chế con người. Con người bị bắt buộc phải chui vào những khuôn khổ kia để
rồi phải từ chối bản ngã chân thực của mình. Con người khoác lên một bộ mặt giả
tạo để có thể mua được sự an thân tầm thường. Xã hội bắt em phải điêu đứng thảm
hại nếu em không chấp nhận những khuôn khổ của nó. Em phải ăn theo những
cách thức nào đó, nói theo những khuôn thước nào đó, cười theo
những mẫu mực nào đó. Có những cái em không được ưa thích và có những cái khác
em phải tập ưa thích cho bằng được. Có những cái xã hội không cho phép em có,
và có những cái xã hội bắt em phải có.
Nếu em không tuân theo những mệnh lệnh đó, nếu em không làm được những gì xã hội buộc em phải làm thì em sẽ bị xem như là một người bất thuờng, và tệ hơn nữa, một người bất lực. Vì vậy muốn được an thân, con người phải cúi đầu chịu khuất phục mệnh lệnh của số phận, con người phải chui đầu vào guồng máy. Bởi vì chúng ta không muốn tiêu diệt con người của chúng ta nên chúng ta nổi loạn. Thân phận của con người sở dĩ đã bi thảm lại càng bi thảm thêm là vì những cuộc nổi loạn của con người đã không đủ sức để phá vỡ được guồng máy mà thương thay chỉ gây thảm thương tích cho con người nổi loạn. Cuộc đời đã trả thù những kẻ nổi loạn chống lại nó và trả thù một cách đích đáng. Con người nổi loạn đã bị điêu đứng thảm hại. Con người nổi loạn đã bị lên án, đã bị gạt ra ngoài lề của xã hội, đã mang đầy thương tích, đã trở thành điên loạn. Đứng trước những đe dọa tiêu diệt nhân tính của guồng máy xã hội, đứng trước những đổ vỡ trong và ngoài, chứng kiến những thảm kịch của cuộc sống, người trẻ tuổi hôm nay vừa bàng hoàng vừa phẫn nộ, vừa khiếp sợ vừa xót xa. Câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời đã đến với các em rất sớm. Tuổi các em đáng lẽ phải còn là tuổi hát ca, nay đã bắt đầu là tuổi của những băn khoăn thắc mắc siêu hình. Có phải cuộc sống kinh nghiệm an phận đã đánh mất hồn nhiên của em đâu. Có phải người lớn đã cướp giật hồn nhiên của em đâu. Chính là cuộc đời, chính là những khuôn khổ, chính là sự tàn phá khốc hại của guồng máy.
Nếu em không tuân theo những mệnh lệnh đó, nếu em không làm được những gì xã hội buộc em phải làm thì em sẽ bị xem như là một người bất thuờng, và tệ hơn nữa, một người bất lực. Vì vậy muốn được an thân, con người phải cúi đầu chịu khuất phục mệnh lệnh của số phận, con người phải chui đầu vào guồng máy. Bởi vì chúng ta không muốn tiêu diệt con người của chúng ta nên chúng ta nổi loạn. Thân phận của con người sở dĩ đã bi thảm lại càng bi thảm thêm là vì những cuộc nổi loạn của con người đã không đủ sức để phá vỡ được guồng máy mà thương thay chỉ gây thảm thương tích cho con người nổi loạn. Cuộc đời đã trả thù những kẻ nổi loạn chống lại nó và trả thù một cách đích đáng. Con người nổi loạn đã bị điêu đứng thảm hại. Con người nổi loạn đã bị lên án, đã bị gạt ra ngoài lề của xã hội, đã mang đầy thương tích, đã trở thành điên loạn. Đứng trước những đe dọa tiêu diệt nhân tính của guồng máy xã hội, đứng trước những đổ vỡ trong và ngoài, chứng kiến những thảm kịch của cuộc sống, người trẻ tuổi hôm nay vừa bàng hoàng vừa phẫn nộ, vừa khiếp sợ vừa xót xa. Câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời đã đến với các em rất sớm. Tuổi các em đáng lẽ phải còn là tuổi hát ca, nay đã bắt đầu là tuổi của những băn khoăn thắc mắc siêu hình. Có phải cuộc sống kinh nghiệm an phận đã đánh mất hồn nhiên của em đâu. Có phải người lớn đã cướp giật hồn nhiên của em đâu. Chính là cuộc đời, chính là những khuôn khổ, chính là sự tàn phá khốc hại của guồng máy.
Những biến cố xảy ra cho đất nước
trong mấy mươi năm vừa qua đã làm cho tình trạng trầm trọng hơn lên. Chiến
tranh đã tàn phá. Máu chúng ta đã đổ. Vấn đề quốc gia trở thành một vấn đề quốc
tế. Một số trong chúng ta mang nặng mặc cảm nhược tiểu bất lực.
Trong hoang mang khổ đau, chúng
ta nhận thấy gia sản tinh thần của cha ông chúng ta đã mất đi rất nhiều
giá trị và hiệu lực trong cuộc sống mới. Những nguyên tắc của đạo làm người,
xưa tưởng như là bất di bất dịch, nay đã tự chứng tỏ là những giáo điều không
còn phù hợp với tâm trạng và hoàn cảnh của người thời đại. Nền tảng của sinh
họat gia đình cũ và của lễ giáo cũ đã bị lung lay. Chúng ta chưa kịp rút được
trong truyền thống tinh thần của dân tộc ra những chất liệu cần thiết để tạo
dựng cho chúng ta một nhân sinh quan mới thích hợp với tâm trạng và hoàn cảnh
mới, thì những khắc khoải những đổ vỡ của văn minh Tây phương đã lại tràn sang
như những đợt sóng vỡ bờ tàn hại. Một số lớn các bậc phụ huynh, không hiểu được
nguyên do căn bản của cuộc khủng hoảng, đã quy hết tội lỗi về cho thế hệ trẻ.
Họ nói đến sự suy đồi của đạo lý. Họ nói đến tuổi trẻ như tuổi của ăn chơi, của
tinh thần vô trách nhiệm. Họ chứng kiến sự suy sụp của nền tảng gia đình cũ và cứ
cố níu lại một cách tuyệt vọng thứ uy quyền mà ngày xưa đã từng là một giá trị
tuyệt đối trong gia đình - một giá trị được đạo lý và luật pháp bảo đảm. Thứ uy
quyền đó đã mất rồi, không phải vì các bậc phụ huynh không biết sử dụng nó,
cũng không phải vì các con em cố tình chống lại nó, mà tại vì nền tảng kinh tế
của gia đình đã thay đổi một cách đáng kể. Cá nhân bây giờ không còn là cá nhân
trong chế độ gia đình cũ. Phong tục, tập quán, luật pháp và kinh tế xưa không
cho phép cá nhân tồn tại ngoài gia đình, hạnh phúc của cá nhân và của gia đình
liên hệ với nhau một cách mật thiết, và cá nhân chỉ có thể có hạnh phúc trong
phạm vi gia đình của mình. Thời đại của Tự Lực Văn Đoàn đã chứng kiến thảm kịch
của sự vùng vẫy của cá nhân để thoát ra khỏi những kiềm tỏa của gia đình.
Từ ngày kỹ nghệ và thương mại chiếm được địa vị trên trường kinh tế, nhu yếu giải phóng ấy càng ngày càng thêm rõ rệt, thêm cấp bách. Gia đình ngày nay, ai cũng biết, không còn giống như gia đình ngày xưa, vì vậy uy quyền và trách nhiệm phụ huynh phải được quan niệm lại để có thể trở nên phù hợp và hữu hiệu. Cố níu lấy thứ uy quyền cũ, cố sử dụng thứ uy quyền mà thực ra bây giờ mình không có, các bậc phụ huynh chỉ làm cho con em xa lánh mình và do đó cắt đứt những giây liên lạc cảm thông với chúng. Trong thời đại này của chúng ta, ai cũng có một tâm sự đa đoan, ai cũng là nạn nhân của những biến cố những tệ đoan xã hội. Sự giao tiếp với thế giới con người trở nên phức tạp; cùng đứng trong guồng máy tranh chấp con người dần dần trở nên nguồn khổ đau cho nhau. Con người không xướng họa hòa hợp với nhau nữa mà phải vùng dậy lấn áp nhau, đè bẹp nhau. Hoàn cảnh kinh tế chính trị văn hóa xô đẩy con người đi vào cái thế địa ngục của nhau. Những nét nhăn trên trán, những bực dọc thường nhật, những cau có gắt gỏng ấy, vô tình chúng ta đem về nhà để làm cho không khí của gia đình căng thẳng. Ai cũng có một thế giới lo âu riêng và không có đủ thì giờ lo nghĩ và săn sóc đến người khác, dù người khác ấy chỉ là người trong gia đình. Mỗi người là một thế giới, một vũ trụ, một hoang đảo. Mỗi người có một vỏ cứng bao bọc chung quanh. Những bực dọc những cau có kia lách vào giữa mọi người và càng lúc càng tách xa người này với người khác. Chúng ta có cảm giác cô đơn thực sự, và tệ hại hơn nữa là cảm giác ấy, trong khi chung đụng với những người thận yêu trong gia đình, lại càng rõ rệt hơn bao giờ hết.
Từ ngày kỹ nghệ và thương mại chiếm được địa vị trên trường kinh tế, nhu yếu giải phóng ấy càng ngày càng thêm rõ rệt, thêm cấp bách. Gia đình ngày nay, ai cũng biết, không còn giống như gia đình ngày xưa, vì vậy uy quyền và trách nhiệm phụ huynh phải được quan niệm lại để có thể trở nên phù hợp và hữu hiệu. Cố níu lấy thứ uy quyền cũ, cố sử dụng thứ uy quyền mà thực ra bây giờ mình không có, các bậc phụ huynh chỉ làm cho con em xa lánh mình và do đó cắt đứt những giây liên lạc cảm thông với chúng. Trong thời đại này của chúng ta, ai cũng có một tâm sự đa đoan, ai cũng là nạn nhân của những biến cố những tệ đoan xã hội. Sự giao tiếp với thế giới con người trở nên phức tạp; cùng đứng trong guồng máy tranh chấp con người dần dần trở nên nguồn khổ đau cho nhau. Con người không xướng họa hòa hợp với nhau nữa mà phải vùng dậy lấn áp nhau, đè bẹp nhau. Hoàn cảnh kinh tế chính trị văn hóa xô đẩy con người đi vào cái thế địa ngục của nhau. Những nét nhăn trên trán, những bực dọc thường nhật, những cau có gắt gỏng ấy, vô tình chúng ta đem về nhà để làm cho không khí của gia đình căng thẳng. Ai cũng có một thế giới lo âu riêng và không có đủ thì giờ lo nghĩ và săn sóc đến người khác, dù người khác ấy chỉ là người trong gia đình. Mỗi người là một thế giới, một vũ trụ, một hoang đảo. Mỗi người có một vỏ cứng bao bọc chung quanh. Những bực dọc những cau có kia lách vào giữa mọi người và càng lúc càng tách xa người này với người khác. Chúng ta có cảm giác cô đơn thực sự, và tệ hại hơn nữa là cảm giác ấy, trong khi chung đụng với những người thận yêu trong gia đình, lại càng rõ rệt hơn bao giờ hết.
Chúng ta rút vào trong cái vỏ của
chúng ta với ước mong được yên thân. Nhưng chúng ta không được yên thân hơn
chút nào. Đối diện với niềm cô đơn của chúng ta, đối diện với chính chúng ta,
chúng ta không đủ sức để chịu đựng. Con trai thì leo lên xe gắn máy đi tìm một
thằng bạn, bất cứ thằng bạn nào, để rồi cùng vào ngồi nơi một quán nước, trao
đổi vài câu chuyện, nhìn người đi kẻ lại qua khói thuốc của mình Con gái thì
khoác vào một chiếc áo dài, xuống phố theo đám đông, trôi xuôi hai bên bờ đại
lộ. Các em trốn không khí gia đình tìm đến nơi đám đông để rồi lại từ đám đông
trở về với cái cô đơn của mình. Các em không có bản lĩnh thực sự cho nên các em
không dám đối diện với cái cô đơn ấy. Và các em phải thường trực trốn chạy,
trốn chạy sự cô đơn, trốn chạy chính bản ngã của các em.
Trong khi đó, oán ghét gia đình, em
phải bám lấy gia đình; oán ghét học đường em vẫn phải chui đầu vào lớp học. Em
vẫn phải học, phải thi, phải đỗ, phải kiếm việc làm. Không tin ở giá trị những
việc em làm, em có mặc cảm rằng em giả dối. Em không thừa nhận những bảng giá
trị hiện tại nhưng em vẫn phải phục tùng. Em vẫn phải phục tùng, vì những lý do
do thật giản dị: em phải ăn, em phải mặc, em phải ngủ, nói tóm lại em có những
nhu cầu ngũ uẩn phải được thỏa mãn. Có phải chính bi kịch của con người là ở
chỗ vừa phủ nhận vừa phải phục tùng những ước muốn ác liệt của số phận không ?
Mà số phận là gì nếu không phải là những gì do con người tạo ra bây giờ đã trở
lại không chế con người?
Tôi cũng như em , tất cả chúng ta
đều có một hệ thống thần kinh cần được giữ cho tương đối thăng bằng, tất cả
chúng ta đều có những nhu cầu trí tuệ tình cảm sinh lý thông thường, tất cả
chúng ta cần phải được nuôi dưỡng trong những môi trường thuận tiện (chứ không
phải dễ dãi) để có thể bảo vệ và phát triển những khả năng đặc biệt của chúng
ta. Và bởi vì hoàn cảnh bao giờ cũng mang tính cách cộng đồng, chúng ta biết
rằng chính con người đã tạo nên hoàn cảnh của mình và chỉ có con người mới đủ
sức chuyển tạo được hoàn cảnh. Là nạn nhân trực tiếp của những hoàn cảnh xã hội
hiện tại khống chế bởi guồng máy hiện tại, chúng ta mất đi rất nhiều tự do sáng
tạo. Tuy vậy chỉ có chúng ta mới chuyển đổi được hoàn cảnh, mới đập vỡ được
guồng máy. Ta không còn có thể hy vọng ở một thế lực nào khác ngoài thế lực của
chúng ta. Nhưng trong tình trạng cô đơn, nghi ngờ và thác loạn, ta không thể
nào thực sự tạo nên một sự thay đổi. Chúng ta đã nổi loạn, nhưng những cuộc nổi
loạn đó vẫn chỉ là những cuộc nổi loạn rất cô đơn. Chúng đưa tới sự trả thù của
guồng máy. Chúng ta bị điêu đứng tàn hại vì đã dám chống lại nó. Bị gạt ra khỏi
cuộc sống ước lệ, bị khinh bỏ, đè nén, la mắng, tủi nhục, chúng ta càng cảm
thấy xa lìa mọi người, càng trở nên cô đơn, càng thêm thù ghét con người. Càng
mất bình tĩnh, chúng ta càng đập phá lung tung, và sự mệt mỏi rã rời của thần
kinh của thể xác và tâm hồn kêu gọi một sự trốn chạy cuối cùng: tự tử. Khi một
người nhận thấy rằng cuộc đời vô lý không đáng sống, thì hắn cũng nhận thấy
luôn rằng tự tử không phải là một cái gì đen tối mà có thể là một nẻo thoát
quang đãng cũng chưa biết chừng.
Em hãy cho tôi trở lại với hệ thống
thần kinh của chúng ta. Thực ra vì cái hệ thống thần kinh bị giao động mãnh
liệt đó mà chúng ta đã thấy cuộc đời quá bi thảm. Sự thực, thiếu bình tĩnh,
chúng ta đã tạo thêm quá nhiều đen tối cho cuộc đời, nhất là cho cuộc đời của
chính chúng ta. Cảm giác cô đơn là do những vụng dại, ngu dốt và kém cỏi của
chúng ta tạo ra: đó là một chứng bệnh của con người, hơn là một cái gì nằm
trong bản chất của con người. Vì thiếu bản lĩnh, thiếu khôn ngoan, ta đã tạo ra
những đường nứt, những chiếc vỏ cứng, những bức tường chia cách cao vút, ngay
giữa những người thân yêu và có cảm tưởng rằng ta với những người khác không
được cùng làm bằng một chất, do đó, không thể nào có sự cảm thông. Nếu gia đình
là một tổ chức giả hiệu, thiếu tình thương, thiếu cảm thông. Nếu gia đình chỉ
là một quán trọ, thì đó chính là vì sự hèn kém của chúng ta, vì sự ích kỷ của chúng
ta, vì những vô minh của chúng ta. Chính chúng ta gieo mầm tách biệt thì chúng
ta không nên phàn nàn về sự cô đơn. Ta phàn nàn rằng không ai hiểu ta thì
chính lúc đó, ta không hiểu được ai. Chính những phàn nàn đó biểu
lộ rõ rệt sự ích kỷ của chúng ta và cả sự độc tài của chúng ta nữa.
Có những trang thanh niên, chỉ vì
một vài thất bại nhỏ khi mới bước chân vào đời, một vài lần thi hỏng, một vài
sự phản bội chẳng hạn, cũng đã tự cho rằng mình cô độc nhất đời. Những người
trẻ tuổi này bắt đầu nói chuyện chán nản, nói chuyện cô độc, nói chuyện nôn
mửa. Một số khác, sẵn có chút ít kiêu ngạo và ngông nghênh của tuổi trẻ, cũng
nói chuyện chán nản, cô độc và nôn mửa. Rốt cuộc thái độ tỏ ra bất cần đời đó
trở nên một cái mốt mới.
Ai mà không "nổi loạn" thì
kẻ đó là người tầm thường, kẻ an phận. Những cuốn tiểu thuyết hiện sinh ngoại
quốc bắt đầu bán chạy ở xứ ta không phải vì giá trị của chúng mà vì cái mốt
hiện sinh đã được đề cao. Cả những kẻ không đọc trôi được những cuốn tiểu
thuyết ấy cũng có chúng trong tủ sách mình, trong tay mình, trên xe buýt cũng
như trong lớp học. Rồi truyện ngắn truyện dài nói chuyện chán chường khinh bạc
cũng xuất hiện trên thị trường văn chương Việt Nam và kéo vào vũng lầy của sự
tự kỷ ám thị một số không ít những con cừu của Panurge. Chúng ta ai cũng biết
rằng bắt đầu bằng những câu chuyện chán chường, và một vài cử chỉ tỏ vẽ chán
chường, dần dần nếp sống của ta sẽ trở nên chán chường thật sự. Con người yếu
đuối và dễ bị nhiễm độc, dễ bị ảnh hưởng: chúng ta cần nhìn nhận sự thực đó.
Cho nên ta hãy van xin các nhà văn
nghệ đừng đào sâu thêm, đừng trình bày thêm khía cạnh chán chường cô độc của
con người, đừng bi kịch hóa thêm những gì đã vì vụng dại của chúng ta mà trở
nên bi kịch. Vết thương rướm máu, xin đừng cào quấu thêm ra. Đừng tự ám thị và
đừng ám thị kẻ khác nữa. Vạn sự là do tâm chúng ta. Đừng chết đuối trong biển
chán chường cô độc do chúng ta tự tạo. Văn nghệ nên đảm nhận sứ mệnh tri
liệu bởi vì ở giữa đời này không có ai lại là người có thể sống một cách vô
trách nhiệm, dù là nhân danh tự do. Chúng ta hãy lắng lòng cho phong ba bão táp
dịu xuống, cho mây mù tan đi. Chúng ta không thực sự cô đơn. Cuộc đời không
thực sự đáng ghê tởm. Cuộc đời cũng như sự sống là một cái gì mầu nhiệm. Mẫu
trời xanh trong mắt em thơ thật là mầu nhiệm.
Tư tưởng chúng ta cũng là những gì mầu nhiệm. Chúng ta hãy bình tĩnh lại để thấy rằng ngục tù giam hãm chúng ta trong cô đơn vốn là một ngục tù do tâm chúng ta tự tạo. Hãy ngồi xuống và bắt đầu bằng một cuộc nói chuyện thực sự. Hãy đập vỡ cái vỏ cứng đang giam hãm em. Hãy cố gắng về phần em một tí. Tôi biết khi em đọc qua những giòng này em có thể nói rằng tôi không hiểu em. Và khi nghe em nói như thế, tôi cũng có thể trả lời rằng: Em không hiểu tôi. Như vậy, cuối cùng chúng ta cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Chi bằng chúng ta hãy chấp nhận sự thực này: nếu tôi không hiểu em, thì ít nhất tôi cũng đang muốn tìm hiểu em và muốn được em hiểu. Nơi em, tôi cũng chỉ mong có chừng ấy. Bởi vì tôi thấy chìa khóa của vấn đề là nơi sự thông cảm. Có sự thông cảm, chúng ta mới đánh tan được ảo giác cô độc. Và chỉ có thông cảm chúng ta mới có phương tiện gom tâm lực của chúng ta thành một sức mới để có thể nổi loạn một cách bình tĩnh, hữu hiệu, chống lại được guồng máy, chuyển đổi được tình trạng. Nếu không, những cuộc nổi loạn đơn độc vụng về và mất bình tĩnh cũng sẽ chỉ đưa đến thêm những đổ vỡ những đen tối và tình trạng sẽ vì vậy mà càng ngày càng trầm trọng hơn lên.
Tư tưởng chúng ta cũng là những gì mầu nhiệm. Chúng ta hãy bình tĩnh lại để thấy rằng ngục tù giam hãm chúng ta trong cô đơn vốn là một ngục tù do tâm chúng ta tự tạo. Hãy ngồi xuống và bắt đầu bằng một cuộc nói chuyện thực sự. Hãy đập vỡ cái vỏ cứng đang giam hãm em. Hãy cố gắng về phần em một tí. Tôi biết khi em đọc qua những giòng này em có thể nói rằng tôi không hiểu em. Và khi nghe em nói như thế, tôi cũng có thể trả lời rằng: Em không hiểu tôi. Như vậy, cuối cùng chúng ta cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Chi bằng chúng ta hãy chấp nhận sự thực này: nếu tôi không hiểu em, thì ít nhất tôi cũng đang muốn tìm hiểu em và muốn được em hiểu. Nơi em, tôi cũng chỉ mong có chừng ấy. Bởi vì tôi thấy chìa khóa của vấn đề là nơi sự thông cảm. Có sự thông cảm, chúng ta mới đánh tan được ảo giác cô độc. Và chỉ có thông cảm chúng ta mới có phương tiện gom tâm lực của chúng ta thành một sức mới để có thể nổi loạn một cách bình tĩnh, hữu hiệu, chống lại được guồng máy, chuyển đổi được tình trạng. Nếu không, những cuộc nổi loạn đơn độc vụng về và mất bình tĩnh cũng sẽ chỉ đưa đến thêm những đổ vỡ những đen tối và tình trạng sẽ vì vậy mà càng ngày càng trầm trọng hơn lên.
Lý tưởng không phải chỉ là sản phẩm
của lý trí như Phạm Công Thiện nói. Lý tưởng là sản phẩm của những ước vọng từ
cạn nhất đen sâu nhất của con người và là động lực giúp con người tự thực hiện.
Bởi vậy ta không thể nói như người trai trẻ họ Phạm rằng: «Con người hồn nhiên
không có lý tưởng. Chỉ khi nào người ta mất mát rồi thì người ta mới tạo ra lý
tưởng để tự đánh lừa mình bằng sự phiêu lưu vô định trong thế giới tư tưởng. Lý
tưởng là những sản phẩm của lý trí: lý trí là ký ức, ký ức là quá khứ, là kinh
nghiệm; kinh nghiệm đánh mất hồn nhiên » .
Chúng ta không nên nghĩ rằng lý
tưởng là một giả tạo của tư tưởng để con người tự đánh lừa mình. Cũng không nên
nghĩ rằng lý tưởng thì bao giờ cũng là đẹp đẽ. Lý tưởng biểu hiện ước muốn của
con người và ước muốn ấy có khi không chính đáng. Không chính đáng ở
đây không có nghĩa là trái chống với một nền đạo đức hay luân lý nào. Không
chính đáng ở đây chỉ có nghĩa là không có tính cách xây dựng, lành mạnh, và
còn đe dọa phá hủy những gì đẹp đẽ và mầu nhiệm của hiện hữu.
Tôi muốn định nghĩa lý tưởng là ước
vọng, và là nhu cầu đạt tới sự thực hiện những ước vọng của một người hoặc một
nhóm người. Vậy thì lý tưởng là một cái gì phải có đối với con người, bởi vì ít
nhất và cạn nhất con người cũng muốn có cơm ăn khi đói, áo mặc khi rét.
Xa hơn, con người còn muốn được thương yêu khi cô độc, được khám phá khi
óc tò mò bị kích thích. Về sinh lý, chúng ta đều được cấu tạo như nhau, hoặc
nói cho đúng, tương tự như nhau. Mà về tâm lý cũng vậy bởi vì tâm lý dựa trên
cơ sở sinh lý. Cái hợp thể ngũ uẩn của chúng ta (ngũ uẩn: sinh lý, cảm
giác, suy tưởng, ý chí và nhận thức) trong lúc hiện sinh cũng cần có những điều
kiện để được nuôi dưỡng và phát triển như bất cứ một hiện tượng nào
khác, và có lẽ hơn bất cứ một hiện tượng nào khác. Cái hợp thể ngũ uẩn
đó, như vậy, có những nhu cầu không bao giờ cạn của nó, và tôi gọi hình ảnh và
động lực đạt tới sự thỏa mãn những nhu cầu ấy là lý tưởng.
Người chuyên môn đi tìm lạc thú cũng
có lý tưởng của mình. Nếu hằng ngày, tôi có thể nghe những câu tương tự như «đó
là một nơi cắm trại lý tưởng» hay «đó là một cái bar lý tưởng» hoặc «đó là
một thứ rượu lý tưởng » thì tại sao ta không thể định nghĩa lý tưởng như
là những mong ước thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta. Có một điều cần nhớ là
những nhu cầu của ta không bao giờ có thể được thỏa mãn trọn vẹn và khi nói đến
lý tưởng là ta nghĩ đến những gì chưa được thỏa mãn ấy. Tôi thấy bi kịch của
một kiếp người là ở chỗ con người không sống được trọn vẹn cuộc đời của mình,
chỉ thấy được một số nhu cầu rất cạn hẹp của ngũ uẩn mà không thấy được những
nhu cầu thâm sâu nhất của ngũ uẩn. Do đó chúng ta thấy có sự lệch lạc đáng
tiếc; có khi ta đòi hỏi ước mong những gì thực sự bản thể ta không cần đến và
ta không biết đòi hỏi ước mong những gì mà bản thể ta, trong phần sâu thẳm và
vĩ đại của nó, đang cất tiếng kêu gọi. Nếu ta biết hướng sự sống ta về những lý
tưởng (tôi nhắc: những nhu cầu) này thì ta có thể phát triển con người của ta
đến mức tốt đẹp và vĩ đại nhất mà nó có thể đạt được.
Có những nhu cầu do ta tự tạo, những
nhu cầu này có vẻ giả tạo và không thực sự cần thiết. Ví dụ thói nghiện rượu
hay thuốc phiện. Ta tập cho ngũ uẩn ta một thứ nhu cầu đề ngũ uẩn ta quen với
nó, đòi hỏi nó, thiếu thốn nó. Và một khi sự đòi hỏi và thiếu thốn ấy trở nên
độc tài rồi thì ta sẽ mắc kẹt vào nó, không thể gỡ ra được nữa. Rượu và thuốc
phiện là những gì không thực sự cần thiết cho sự tồn tại phát triển của hợp thể
ngũ uẩn, trái lại, chúng phá phách và tàn hại hợp thể ngũ uẩn. Ta gọi là nhu cầu
không chính đáng những thứ nhu cầu không thực sự cần thiết, những thứ nhu
cầu tàn hại sự sống, ngăn cản đà phát triển của một hợp thể ngũ uẩn lành mạnh.
Và như thế những nhu cầu này không thực sự là những nhu cầu. Thực sự là nhu cầu
thì chỉ có những gì giúp ta đạt tới sự mạnh khoẻ, bình tĩnh và an lạc của hợp
thể ngũ uẩn.
Ta biết rằng có những người nương
vào nghệ thuật (nhạc, thi, họa, v.v.. ) để tự đưa mình đến một mức sinh hoạt
thực sự văn minh, thực sự cao đẹp. Có những người không bao giờ có thể thưởng thức
được một bản nhạc tâm linh để cho tâm hồn mình vươn lên cao vút và trong sáng
như sao trời mà chỉ có thể thấy được sự rung cảm rạo rực nơi những bản nhạc sầu
đau hay cuồng loạn. Bằng bất cứ một bộ môn nghệ thuật nào, người ta cũng có thể
đạt tới sự phát triển đến tận cùng bản ngã của mình. Yêu thương cũng là một
nghệ thuật. Khám phá cũng là mộ nghệ thuật. Bằng con đường yêu thương hoặc bằng
con đường khám phá, ta cũng đạt tới sự phát triển toàn diện bản ngã của
chúng ta.
Ta thấy có những người không thể nào
ngồi yên khi nghe nói đến một tai nạn vừa xảy ra cho một người bạn. Dù trời mưa
rét, dù đêm khuya, những người này cũng tự nhiên rời bỏ gian phòng ấm cúng của
mình để lặn lội đi trong mưa lạnh tìm tới nhà bạn. Tôi không muốn cho đó là
mệnh lệnh của bổn phận, của đạo lý. Tôi muốn cho đó là tiếng gọi của một nhu
cầu. Nhu cầu của thương yêu, của sự bình yên tâm hồn. Nếu không bỏ gian phòng
ấm cúng mà ra đi trong mưa lạnh, người kia sẽ cảm thấy thiếu thốn. Thiếu thốn
vì không đáp lại được nhu cầu thương yêu, vì không đáp lại được nhu cầu của sự
bình yên tâm hồn. Những người như thế đã tìm thấy những loại nhu cầu có thể
giúp họ phát triển con người của họ về hướng Chân Thiện Mỹ.
Có những người đi làm việc xã hội là
để giết bớt những thì giờ trống trải, và có những người khác vì nhu cầu của
thương yêu, vì nhu cầu của ý thức trách nhiệm. Thỏa mãn được những nhu cầu này,
người ta cũng cảm thấy an lạc và hạnh phúc, và như thế, phần thưởng cũng sẽ rất
ngọt ngào. Thường tình ai cũng thấy ngồi trong căn phòng ấm cúng là dễ
chịu hơn đi trong mưa lạnh, nhưng một khi nhu cầu yêu thương và trách nhiệm đã
trở nên rõ rệt, thì nhu cầu nhỏ bé của sự làm biếng sẽ bị mờ đi và trở nên
không quan trọng nữa.
Ở mỗi con người đều có nhu cầu của
sự phát triển toàn diện và tuyệt đỉnh của con người ấy. Trong đạo Phật nhu cầu
kia được gọi là Phật tính (bởi vì Phật là gì, nếu không phải là sự phát triển
toàn diện của con người đến mức cao nhất?) Nhu cầu kia thật là một tiếng gọi
tha thiết nằm ngay trong bản chất của hợp thể ngũ uẩn. Nghe được tiếng gọi ấy
là ta có thể bỏ dần được những nhu cầu giả tạo, những nhu cầu không thực sự là
những nhu cầu, để đi tới. Đi tới đây nghĩa là phải ăn, phải ngủ, phải chơi,
phải học, phải lo lắng, phải thương yêu, phải hành động. Ăn, ngủ, chơi, học, lo
lắng, thương yêu và hành động thế nào để thân thể khỏe mạnh, để hào quang của
một hợp thể ngũ uẩn có thể tỏa chiếu đèn những sinh hoạt của các hợp thể ngũ
uẩn khác. Em đừng nhìn tôi vớ icặp mắt e ngại như thế. Tôi không có ý muốn bảo
em hãy ăn chay, hãy tụng kinh, hãy từ bỏ hết những sinh hoạt vui và trẻ của em
đâu. Trái lại tôi muốn em được tự do, tự do phát triển để được thực sự sung
sướng. Người ta không có thể thành Phật bằng cách sống một cuộc đời cực khổ,
trái lại người ta chi có thể thành Phật bằng cách sống một cuộc đời thực sự
sung sướng. Mà để được thực sự sung sướng, ta phải biết những gì là nhu cầu
đích thực của ta và những gì là nhu cầu không đích thực của ta.
Tôi lấy ví dụ vấn đề ăn. Cố nhiên là
em có thể ăn bất cứ thứ gì các em muốn, bởi vì em có tự do. Cũng như Gide nghĩ
đã là những enfants de la terre thì ta có quyền và có thể ăn bất
cứ một thứ nourristures terrestres nào. Lẽ cố nhiên. Nhưng vấn đề không
giản dị như thế. Ta còn xem coi lục phủ ngũ tạng của ta có thể chấp nhận được
nhưng món ăn nào. Để đừng làm hại tới sự an lành và phát triển của ngũ uẩn, em
không thể ăn những món ăn có tác dụng tàn hại và gây rối loạn cho ngũ uẩn em.
Thế thôi. Và em phải tự lựa chọn lấy món ăn. Nếu cần, em nhờ sự giúp đỡ của một
bác sĩ mà em tin cậy.
Em có quyền ăn, nhưng mà nếu vì ăn
phải một món ăn không thích hợp với tì vị em có thể đau bụng, và em phải ráng
chịu. Đó là ý nghĩ của tự do, vì tự do không thể không đi đôi với tinh thần
trách nhiệm. Tự do mà không có trách nhiệm thì không còn là tự do mà là tự
hoại, mà là phá hoại.
Hãy ăn những gì ngon lành, thực sự
ngon lành, bây giờ và cả ngày mai nữa, cho khẩu vị của em, cho ngũ uẩn của em.
Có những thức ăn bổ dưỡng, giữ gìn cho em một sức khỏe, một sự an lành,
một sự tráng kiện thân thể cũng như tâm hồn. Có những món ăn không ngon và
không bổ dưỡng, nhưng ảo giác của em có thể cho là ngon và bổ dưỡng. Những món
ăn ấy chỉ có tác dụng phá hoại. Có những món ăn thực sự ngon lành và bổ dưỡng
mà chỉ vì không quen hay chưa quen, em cho chúng là dở và không cần thiết.
Đánh răng chẳng hạn, không phải là
một nhu yếu tốt đẹp và chính đáng sao. Thế mà một số những người dân quê chưa
quen, cho đó là một kỷ luật khó chịu, một cực hình. Đối với em, người đã được
dạy đánh răng sau bữa ăn từ thuở nhỏ, thì đánh răng là một nhu cầu cần thiết.
Em thấy khó chịu thiếu thốn mỗi khi ăn xong mà không có bàn chải đánh răng. Đó,
em đã tìm thấy thêm một nhu cầu chính đáng nữa rồi, bởi vì đánh răng giúp cho
em giữ gìn thêm được sự tráng kiện của thân thể, ngăn cản được sự sinh sôi nảy nở
của một số không nhỏ những vi trùng trong miệng.
Tìm thấy được lý tưởng của mình tức
là tìm thấy được con đường do đó mà mình có thể đạt tới sự phát triển toàn diện
con người của mình. Và tìm thấy được lý tưởng tức là tìm thấy được hạnh phúc.
Sở dĩ ta thấy những lạc thú cuồng loạn bao giờ cũng chứa đựng trong chúng tính
chất bi thương và chết chóc là vì chúng không đích thực là những nhu cầu cần
thiết của con người Những nhu cầu cần thiết của con người, từ những nhu
cầu của thân thể cho đến những nhu cầu của tình cảm và trí tuệ, đều mang
tính cách trong sáng, lành mạnh, xây dựng. Cho nên bí quyết thành công của một
đời người là ở chỗ biết được những gì mình quả thực thiếu thốn và
những gì mình quả thực không cần đến. Mà những gì mình quả thực thiếu
thốn ấy không phải là ít ỏi, nhỏ bé. Đó là những chất liệu cần thiết để bảo
vệ, nuôi dưỡng và phát triển của một con người. Thiếu thốn một số thực phẩm nào
đó thì hợp thể ngũ uẩn kia không thể trở nên một con người xứng đáng theo nghĩa
của nó. Được nuôi dưỡng bằng một số thực phẩm độc hại nào đó hợp thể ngũ uẩn
kia trở nên khô héo tàn tạ và không thể là một sức sống mạnh khỏe vươn lên.
Thân thể, cảm giác, suy tưởng ý chí
và nhận thức, mỗi thành tố ấy của con người đều có những nhu cầu của nó. Ta
không khinh thị thành tố nào trong hợp thể ngũ uẩn và cũng không khinh thị bất
cứ một nhu cầu nào của bất cứ một thành tố nào. Ta chỉ cần biết rõ ta là ai, ta
là gì; chỉ cần biết đặc tính và thực trạng của thân thể, cảm giác, suy tưởng, ý
chí và nhận thức ta để có thể tìm ra những gì hợp thể ngũ uẩn ta quả đang cần
đến để được bảo vệ, nuôi dưỡng và phát triển. Không một hợp thể ngũ uẩn nào
giống một hợp thể ngũ uẩn nào, vì vậy nhu yếu của mọi người không thể hoàn toàn
giống nhau được Do đó mỗi người phải tự tìm cho mình một lý tưởng thích hợp.
Khi ta nói rằng hai người kia cùng có một lý tưởng, ta không nghĩ
rằng tất cả những ước vọng, suy tư, sinh hoạt của hai người hoàn toàn giống
nhau. Ta chỉ có thể nói rằng trong ước vọng, suy tư và sinh hoạt của họ có
những điểm giống nhau và điều đó đã đưa họ tới gần nhau, nâng đỡ và bổ túc cho
nhau. Cá tính của con người chính là do ở những điểm khác nhau kia tạo ra. Tuy
vậy không ai có thể khác ai một cách tuyệt đối, bởi vì chính những cấu tạo sinh
lý và xã hội của con người đã không thể khác nhau một cách tuyệt đối rồi.
Bởi vậy khi ta có cảm giác cho rằng
không ai giống ta, ta hoàn toàn khác biệt với kẻ khác, ta làm bằng một thứ bột
( pâte ) khác hẳn với thứ bột làm nên những kẻ khác, cảm giác ấy chỉ là ảo
giác. Sự thực là tuy ta không giống ai, ta cũng là con người, là một hợp thể
ngũ uẩn - và do đó ta có những điểm giống với kẻ khác. Và chính căn bản đó đảm
bảo cho sự cảm thông chắc chắn là có thể có giữa người và người. Niềm tin này
đánh tan được mặc cảm và ảo giác cô đơn nhất là thứ cô đơn bị nhận thức chủ
quan của ta đây tới tuyệt đối nghĩa là tới mức bi thảm. Ta chắc chắn có thể có
những ước vọng và nhận thức chung với một người khác hay một nhóm người khác,
điều này ta phải công nhận. Chia xẻ với họ những ước vọng và nhận thức của ta,
ta sẽ không còn cô đơn nữa Cuộc đời đáng sống trước hết là vì ta có bạn,
ta có những con người sống chung quanh ta. Sở dĩ người là nguồn đau khổ cho
người là tại vì người đã vô minh, nghĩa là đã không sáng suốt để trông thấy
nhân tính nơi người. Cũng chính là vì người đã tự nhốt mình trong chiếc vỏ cứng
của tỵ hiềm của oán thù. Và cuối cùng chính là vì người đã không biết rõ được
mình, không biết rõ được những gì mình đích thực đang thiếu thốn.
Có người nói rằng đời chỉ đáng sống
khi có lý tưởng , nếu không có lý tưởng thì ta phải tạo ra một lý tưởng, cho dù
một ảo tưởng cũng được. Tôi thấy như thế thì bi thảm quá. Tại sao ảo tưởng lại
có thể là lý tưởng được? Có những lý tưởng khó thực hiện và vì những điều kiện
khó khăn hay trái ngược người ta có thể hoặc chưa hoặc không thực hiện được;
không phải vì vậy mà lý tưởng đó được gọi là ảo tưởng. Nói rằng phải tạo ra một
ảo tưởng để sống tức là cho rằng thực tại vốn không hàm chứa một cái gì đích
thực là chân, là thiện, là mỹ. Vì con người chỉ có thể sống trong niềm tin rằng
cuộc đời còn có một cái gì thực, lành và đẹp cho nên nếu quả thực cuộc đời
không có một cái gì thực, lành và đẹp thì ta phải tạo ra những ảo tưởng về
thực, lành và đẹp cho cuộc đời để mà sống trong cuộc đời. Tôi không chịu cái
nhìn bi thảm đó bởi vì tôi, và tôi biết còn có rất nhiều người khác nữa trong
đó có lẽ có em - tôi biết chắc rằng cuộc đời quả thực có những cái thực,
lành và đẹp. Những cái ấy có nhiều hay ít là do con mắt của chúng ta, do trái
tim của chúng ta. Có những con đường thật đẹp với hai hàng cây thẳng cao vút
mang ánh nắng tươi xanh trên tàn lá của chúng: tôi biết em có lần đã thấy chúng
đẹp, nhưng có thể trong liên tiếp năm sáu tháng trời em không nhìn thấy chúng
chỉ bởi vì em đã đi dọc theo những con đường ấy với bao nhiêu khổ sở lo âu.
Tôi thấy chính hợp thể ngũ uẩn của
em cũng đã là một cái gì mầu nhiệm, quý giá và linh thiêng. Tôi biết có khi em
chán ghét thân thể em, chán ghét cảm giác, suy tưởng, ý chí và nhận thức của
em. Có khi em coi hợp thể ngũ uẩn em như một vũng bùn
lầy lội nhầy nhụa, và em muốn chấm
dứt sự liên tục của dòng ngũ uẩn ấy. Thực ra, chỉ vì nhận thức của em mà thôi.
Hợp thể ngũ uẩn kia có thể là một vườn hoa, một ngôi đền thờ, và cũng có thể là
một địa ngục, một tử thi hôi hám, điều đó là tùy ở em, ở nhận thức của em. Tất
cả chỉ là một vấn đề nhận thức. Em không cần chán ghét hủy bỏ em, chán
ghét hợp thể ngũ quan em. Trong bản chất, nó không phải là một cái ổ tội lỗi.
Tại vì em mà nó có vẻ như thế. Tôi rất ghét những ai coi thường
hợp thể ngũ uẩn mình và lại càng ghét những ai khinh thị thân xác của mình. Khổ
hạnh, ép xác, cho rằng xác thân là tội lỗi, điều đó thật là sai lầm; tôi cho
làm như thế là ngu dốt, là khờ dại. Ngày xưa Phật có nói; người nào giác ngộ
thì tự nhiên trở thành Như Lai, ăn cơm Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi ghế Như
Lai, ở nhà Như Lai. Hành hạ xác thân là một lỗi lớn, chính Phật đã mắc phải và
đã chừa bỏ. Nhận biết thân thể em, nhận biết cảm giác, suy tưởng ý chí và nhận
thức em, em sẽ thấy chúng quả thực cần gì, quả thực thiếu gì, quả thực muốn
vươn tới đâu. Thấy được như thế rồi thì hợp thể ngũ uẩn của em tự khắc hướng về
sự sống, hướng về phát triển, hướng về Chân, Thiện, Mỹ. Em xem lại tổ chức tinh
vi của mắt em. Rồi em sẽ thấy rằng được nhìn trời xanh, được xem hoa nở, được
thấy nụ cười cha mẹ, được ngắm đôi má hồng của em thơ... tức là một diễm phúc
tuyệt vời.
Nếu thân thể em không phải là một thực thể mầu nhiệm và quý giá thì không bao giờ em thấy được thể hiện nơi em diễm phúc tuyệt vời đó. Hãy bảo trọng lấy thân thể em, tâm hồn em, bởi vì đó là nguồn của chân lý của Thượng Đế, của Chân Như, của Như Lai.
Nếu thân thể em không phải là một thực thể mầu nhiệm và quý giá thì không bao giờ em thấy được thể hiện nơi em diễm phúc tuyệt vời đó. Hãy bảo trọng lấy thân thể em, tâm hồn em, bởi vì đó là nguồn của chân lý của Thượng Đế, của Chân Như, của Như Lai.
Có người chê trách em không có lý
tưởng, nói nhỏ to với nhau rằng em không có lý tưởng. Tôi không tin có chuyện
đó. Với sức sống trào dâng của tuổi hai mươi, em không có lý tưởng thì xác chết
nào mới có lý tưởng? Một con đường không thể không đưa đến đâu. Một sức sống
như em, như hợp thể ngũ uẩn của em, không thể không có lý tưởng. Em quả tình
đang vươn tới. Nhưng vì em thiếu bình tĩnh thiếu nhận thức nên sự vươn tới ấy chưa
được chỉnh đốn Sinh lực của em tràn đầy và, chưa được nhận thức em hướng dẫn
đúng mức, đã khiến cho em khi lệch sang bên này một chút khi lạc sang bên kia
một chút. Em chỉ cần nhìn lại, em chỉ cần kiểm soát kịp thời là sức sống kia sẽ
vươn lên phía mặt trời. Muốn được như thế em phải sử dụng chính trí tuệ và kinh
nghiệm em, đồng thời phải thiết lập cảm thông và đối thoại với những người
khác, những người cùng tuổi và những người khác tuổi.
Em không cần tạo ra lý tưởng. Lý
tưởng vốn sẵn có trong em, cũng như nơi đến có sẵn trong con
đường. Phải kịp thời kiểm soát hướng đi của mình, điều khiển con thuyền của
mình. Phải kịp thời sử dụng năng lực dồi dào của sự sống em một cách hợp lý.
Năng lực sung túc của em cần phải được sử dụng, không thể để cho chúng trở nên
thừa thải. Nếu không, trong hôn mê, trong ngờ vực chán nản, em sẽ sử dụng
chúng, tiêu xài chúng trong những trường hợp và ở những địa vức bệnh hoạn. Thay
vì để bảo vệ nuôi dưỡng và phát triển em, năng lực ấy sẽ làm suy nhược em, phá
phách em, tiêu diệt em. Ngoài những nhu cầu tồn tại, hợp thể ngũ uẩn em còn có
những nhu cầu phát triển và trở thành. Mà chỉ khi nào có phát triển có
trở thành em mới tìm thấy an lạc hạnh phúc, em mới thấy được như con cá trong
nước, con chim trên trời: trong những nhu cầu phát triển và trưởng thành ấy tôi
thấy hai nhu cầu khám phá và thương yêu là những nhu cầu mãnh liệt nhất, bền bỉ
nhất rất cần cho sự phát triển của hợp thể ngũ uẩn em để em có thể trở thành vĩ
đại và siêu tuyệt.
Sự khát khao hiểu biết nơi em, cũng
như nơi tôi và nơi mọi người, là một sự thực, một bản tính của hợp thể ngũ uẩn.
Nếu sự tò mò, nếu nhu cầu hiểu biết và khám phá không biểu hiện nơi em là tại
vì em bị che lắp bởi những chướng ngại vật của cuộc đời,
bị trĩu nặng bởi những hành lý ốm
đau không ích lợi cho bản thân em. Trong trường hợp này sự phát triển và trở
thành của em - ta gọi là sự sống, quả thực bị ngăn chận lại rất nhiều. Em phải
khơi mở, phải giải phóng cho sự khát khao hiểu biết và khám phá vốn nằm tiềm
tàng trong con người em. Vũ trụ và con người cần được tìm hiểu, được khám phá.
Phải tìm tới sự thực, dù sao em cũng phải tìm tới sự thực; nhu yếu này nơi nhà
bác học, nơi nhà thám hiểm cũng như nơi người học giả được hiển lộ một cách rất
hiện thực. Nơi nhà đạo học, sự khát khao này gọi là sự khát khao đạt đạo hay
chứng đạo. càng khám phá, càng tìm tòi, càng hiểu biết, ta càng thấy ta lớn hơn
lên, gần gũi hơn lên với vũ trụ với con người, ta càng thấy rõ sự liên hệ mật
thiết giữa ta với vũ trụ, với con người, ta càng thấy rõ được hòa điệu đại đồng
của sự sống Ta sẽ không còn bị giam hãm trong một cái ta, một cái vỏ chủ quan
bé nhỏ và lầm lạc. Em sẽ tìm thấy sự sống và sẽ sung sướng tìm thấy mình trong
thực hữu mầu nhiệm.
Sự khao khát yêu thương nơi em cũng
là một sự thực, một bản tính của hợp thể ngũ uẩn em. Em không thể sống nếu
không yêu thương. Nếu em có cảm giác rằng em không thương ai, em ghét tất cả
mọi con người và cả chính bản thân em, thì đó là tại vì em chưa biết em là gì.
Cảm giác đó chỉ là ảo giác. Sự thực, em rất cần thương yêu và được thương yêu,
cũng như cây lá cần đèn ánh sáng mặt trời. Bản thể em lên tiếng gọi em thương
yêu bảo trọng lấy em và thương yêu bảo trọng tất cả những gì hiện hữu, những gì
đang vươn lên như sự sống mầu nhiệm.
Hợp thể ngũ uẩn em cần được hiện
sinh, cần được phát triển, em không thể không yêu thương bảo trọng nó. Em không
thể xử tệ với nó, không thể khinh xuất, không thể để nó phải ốm yếu, suy nhược,
hư hỏng. Và những sức sống quanh em cũng vậy.
Người sinh thành ra em, người cùng
một huyết thống với em, một tông tộc với em, một nòi giống với em cũng cần đến
sự bảo vệ, tôn trọng và yêu thương của em. Em có trách nhiệm về sự đau khổ của
họ. Nhìn thấy họ, sau khi nhìn thấy em, em sẽ thấy nhu yếu thương yêu họ là một
nhu yếu thiết thực không kém gì nhu yếu thương yêu lấy chính em. Em sẽ thấy
rằng hạnh phúc không phải là sự mê mệt đi tìm những khoái cảm chốc lát (những
khoái cảm ác liệt, tay sai của sự chết) thường có tác dụng tiêu phá hoại hủy
con người toàn diện của em, mà là thương yêu. Không thương yêu tức là không
sống. Càng biết thương yêu, ta càng thấy ta lớn hơn lên, gần gũi thêm lên với
vũ trụ với con người, ta càng thấy sự liên hệ mật thiết giữa ta với vũ trụ, với
con người, ta càng thấy rõ được hòa điệu đại đồng của sự sống. Ta sẽ không còn
bị giam hãm trong một cái ta, một cái bản ngã bé nhỏ và ích kỷ. Em sẽ sung
sướng tìm thấy mình trong thực hữu mầu nhiệm.
Sức sống rào rạt của em, nếu được
hướng về khám phá và yêu thương sẽ giúp em thực hiện một nhân cách càng ngày
càng vĩ đại càng đẹp đẽ. Dọc đường em đi, hoa trí tuệ và tình thương sẽ nở, có
thể là trên chông gai, nhưng là những bông hoa đẹp nhất của hiện hữu, những
cống hiến quý giá nhất của một cuộc đời.
Em là một kiến trúc kỳ diệu cũng như
vũ trụ là một kiến trúc kỳ diệu; ngày nào trí tuệ và trái tim em nhận thức được
điều đó một cách xác thực và thực nghiệm, ngày ấy em thực hiện được thiên
đường, hái được bông hoa tươi đẹp của chân như.
Chắc hẳn là em không muốn đi quanh
quẩn trong những vòng lý luận. Tôi cũng vậy. Chúng ta hãy tìm một con đường,
tìm bằng tất cả những kinh nghiệm và những khổ đau của chúng ta, trong tình
trạng hiện tại và trong bài toán hiện thời của chúng ta. Không có bài toán nào
là không chứa đựng đáp số của nó nếu quả đó đích thực là một bài toán, nghĩa là
có chứa đựng đủ những dữ kiện để đi tới đáp số. Chúng ta quả đang sống trong
một cuộc sống khó sống. Và chúng ta cũng biết rằng không phải vì cuộc sống vốn
là khó sống mà chính vì chúng ta, tất cả chúng ta đã làm cho cuộc sống trở
thành khó sống. Cuộc sống khó sống ấy không thể biến mất dễ dàng được bởi vì nó
không phải là một ác mộng: nó rất hiện thực, nó có những dấu vết trong ta và nó
mang những dấu vết của tâm hồn ta. Không có cách chi hay hơn cho chúng ta là
hãy bình thản lại và tìm cách thoát khỏi, một cách từ từ, tình trạng hiện tại.
Tình trạng do con người tạo ra đã trở lại khống chế con người , vậy thì công cuộc giải phóng của con người ra khỏi sự khống chế đó của tình trạng cần phải được đi đôi với công cuộc giải phóng của nội tâm con người. Con người và hoàn cảnh làm bóng và làm hình cho nhau nên sự giải phóng không được quan niệm một chiều. Và do đó, khởi điểm của công cuộc giải phóng nằm ở ý thức giác ngộ, nằm ở ý chí chuyển hóa nội tâm và chuyển hóa cuộc đời.
Tình trạng do con người tạo ra đã trở lại khống chế con người , vậy thì công cuộc giải phóng của con người ra khỏi sự khống chế đó của tình trạng cần phải được đi đôi với công cuộc giải phóng của nội tâm con người. Con người và hoàn cảnh làm bóng và làm hình cho nhau nên sự giải phóng không được quan niệm một chiều. Và do đó, khởi điểm của công cuộc giải phóng nằm ở ý thức giác ngộ, nằm ở ý chí chuyển hóa nội tâm và chuyển hóa cuộc đời.
Tuổi trẻ luôn luôn ước ao thực hiện
một cuộc thay đổi mau chóng, nhưng sự diễn tiến của mọi dòng hiện tượng không
phải bao giờ cũng đáp ứng lại được dễ dàng cho sự nóng nảy đó. Không, chúng ta
đang không ở trong một hoàn cảnh dễ dàng. Chúng ta phải có rất nhiều bình tĩnh,
rất nhiều kiên nhẫn. Những lúc khó khăn và nguy nan nhất đòi hỏi nhiều bình
tĩnh và kiên nhẫn nhất. Em đừng bực bội, đừng thất vọng, đừng oán trách. Dù sao
thì chúng ta vẫn còn là chúng ta mà. Dù sao thì chúng ta cũng vẫn còn nở được
nụ cười mà. Để cho những đường nhăn trên trán chúng ta mất đi, để cho thần kinh
ta bớt căng thẳng, để cho tâm hồn ta êm dịu lại. Và cũng để cho sự êm dịu ấy
tỏa rộng đến một vài người quanh ta. Cái trán của em nóng hổi như thế, hai mắt
em đỏ ngầu như thế thì em cần phải ngồi xuống, cần phải hướng về tiếng
gọi của thiên nhiên, cần phải trở về bơi lội tắm mình trong giòng nước
mát của tâm linh để tìm sức mới. Em đừng vội vàng, miễn là em không quên lãng.
Tôi biết em sẽ còn tranh đấu. Tuổi
trẻ không bao giờ chịu thua. Nhưng nếu muốn thành công, chúng ta không thể tự
đốt cháy chúng ta bằng những thất vọng, những bất mãn, những đòi hỏi vô lý. Em
không nên đòi hỏi, nhất là đòi hỏi hơi nhiều ở những người lớn. Người lớn cũng
chỉ là người, nghĩa là cũng bị buộc ràng trong những điều kiện của tình trạng
hiện tại. Người lớn cũng đang vùng vẫy, cũng đang mắc kẹt như em vậy. Sở dĩ
chúng ta có ít tự do là vì cái bản ngã đích thực của chúng ta đã bị phong tỏa
trong một cái vỏ giả tạo mà ta tưởng lầm là chính bản ngã của chúng ta. Nó ưa
thích, xét đoán mà ta cứ tưởng là ta ưa thích, xét đoán. Nó vâng theo mệnh lệnh
của những điều kiện đã tạo nên nó mà ta cứ tưởng là nó vâng theo mệnh lệnh của
chính ta. Lầm rồi, lầm rồi, chúng ta phải xét đoán lại, phải kiểm điểm lại. Tất
cả chúng ta đều đã là nạn nhân rồi. Không nên kết án nhau. Chỉ nên kết án tính
cách phi nhân bản của những ước lệ, những khuôn đúc, những guồng máy. Người lớn
có khi còn tệ hơn em ở chỗ bản ngã đích thực của họ còn bị phong tỏa nhiều hơn,
sự hồn nhiên cương trực và trong trắng của tâm hồn họ còn bị sứt mẻ và tiêu
diệt một cách thảm hại hơn. Đứng ở địa vị người lớn, họ có vẻ như là có thế có
quyền lực hơn em, có thể làm được nhiều việc tốt đẹp hơn em. Và em oán trách họ
chỉ vì em nghĩ rằng họ có quyền lực ấy mà họ không chịu làm, họ không chịu làm
cho họ, cho đất nước họ, cho đàn con em của họ. Kỳ thực đứng vào chỗ đứng của
họ em mới thấy được rằng họ cũng lúng túng khó khăn không khác gì em. Họ có một
mớ thẩm quyền nhưng họ chẳng làm gì được nhiều bởi vì họ bị ràng buộc nhiều hơn
em và do đó cũng cảm thấy bất lực như em đã từng cảm thấy.
Tôi thấy là các em không nên đòi hỏi
ở họ, hoặc nếu có thì nên đòi hỏi họ một chút ít mà thôi. Đừng nói cho họ nghe
bổn phận của họ. Họ biết chán cái bổn phận ấy là gì rồi. Điều cần thiết
là xét xem họ có đủ sức làm "bổn phận" ấy hay không. Em thử nghĩ xem
họ đã có thể làm trọn được bổn phận của họ đối với họ không đã,
đừng nói đến những bổn phận của họ đối với em. Họ cũng có những vấn đề ray rứt,
khốn nạn của họ và họ có thể cũng đang vùng vẫy tuyệt vọng trong cái tình trạng
của họ. Hãy thương hại họ cũng như có lần em đã thương hại chính em. Thấy được
hình dáng thực của họ em sẽ không còn đòi hỏi quá đáng ở họ, hy vọng quá đáng ở
họ để rồi tiếp tục thất vọng và bất mãn vì họ. Đừng đòi hỏi, đừng thất vọng,
đừng bất mãn: như thế em đã tiết kiệm được biết bao nhiêu năng lực của em rồi.
Và bởi vậy tôi đã đề nghị với em là đừng tự thiêu đốt em vì những đòi hỏi, những
thất vọng, những bất mãn vô ích, không cần thiết. Đề mặc cho người lớn làm
những việc người lớn trong khả năng người lớn. Em phải làm việc của em,
trong khả năng tuổi trẻ của em. Những gì em thực hiện được trong phạm vi hoạt
động của em, tôi biết, cũng có thể chuyển được tình thế và mở lối thoát cho cả
người lớn nữa. Điều đó tôi tin chắc như tin chắc ở khả năng vô biên của tuổi
trẻ.
Tình trạng của chúng ta đòi hỏi một
cuộc cách mệnh mọi mặt về kinh tế cũng như về giáo dục, văn hóa, xã hội. Em
đừng tưởng chỉ có bằng con đường quyền bính ta mới có thể thực hiện được cách
mệnh. Em đừng nghĩ rằng chỉ khi nào có được một chính quyền chủ trương cách
mệnh xã hội thực sự khi ấy ta mới có cách mệnh xã hội thực sự. Em đừng tưởng,
ví dụ, có làm bộ trưởng bộ giáo dục mới có thể có cơ hội làm cách mệnh giáo
dục. Cố nhiên là làm bộ trưởng thì sẽ có một số quyền năng nào đó và một số
phương tiện nào đó (dù là những quyền năng và phương tiện rất giới hạn) nhưng
nếu vì vậy mà ta nghĩ rằng chỉ có quyền bính mới thực hiện được cách mệnh thì
đó là một điều lầm lẫn to lớn. Vì lẽ như thế nên chúng ta mới để phí ngày giờ
và tâm lực của chúng ta mà hy vọng, mà hoan hô, mà đả đảo, mà trông chờ trong
khi chúng ta có rất nhiều quyền lực và phương tiện mà chúng ta không sử dụng để
xây dựng bằng chính bàn tay và tâm não của chúng ta. Tuổi em không phải là tuổi
làm thủ tướng, làm bộ trưởng ; tuổi em không phải là tuổi làm người lớn, làm
những việc của người lớn. Nhưng có phải chỉ những việc "người lớn" là
quan trọng nhất đâu. Em cứ làm đi, làm những việc của tuổi hai mươi, làm cách
mệnh văn hóa, giáo dục, xã hội bằng tuổi hai mươi. Tôi tin rằng em sẽ thành
công, và em sẽ làm được những việc mà người lớn không thể nào làm được, vì một
lý do duy nhất; họ đã là người lớn mất rồi. Tôi muốn đàm đạo với em về sự xây
dựng nền tảng cách mệnh, mà chính tuổi trẻ là tuổi có thể xây dựng được nhiều
hơn hết bởi vì tuổi trẻ nhiều cương trực và bất mãn hơn hết, và cũng vì không
có cương trực không có bất mãn thì không thể có cách mệnh đích thực. Đừng quan
niệm rằng cách mệnh là một trận mưa ân huệ từ trên tưới xuống mà hãy theo con
đường xây dựng từ dưới lên trên.
Chúng ta hãy nói đến việc học muốn
hành. Trước hết tôi rất không khuyên em nên chăm học. Chăm học để
làm chi? Để thi đỗ, để có bằng cấp, để tìm được một địa vị xã hội? Quả thực tôi
cũng muốn em thi đỗ, có bằng cấp, tìm được việc làm, có được một địa vị trong
xã hội. Nhưng nếu mục đích của sự học mà chỉ như thế thì thời gian nấu sử sôi
kinh của em sẽ trở thành một phương tiện mất, và trở thành một cách oan
uổng. Thời gian học tập là một thời gian quý báu, không thể được xem như một
thời gian khổ sai. Biết bao nhiêu người rời học đường bước vào trường đời rồi
mới nhận thấy rằng thời học trò là thời sung sướng nhất. Thế nhưng hầu hết
chúng ta đều mong cho cái thời gian hoàng kim ấy qua mau để chóng được giải
thoát khỏi sự học. Như thế là chúng ta đã nhận thức sự học tập như là một công
việc quá nặng nhọc và không có sinh thú. Điều đó là một sự dại dột và thiệt
thòi. Chỉ cần một thời gian chiêm nghiệm và một vài phương pháp áp dụng là
chúng ta có thể chuyển đổi sự học hành thành một nguồn lạc thú. Tôi biết rõ tất
cả những bực mình của các em về chương trình, về lề lối giảng dạy, thi cử, về
tiêu chuẩn xét định giá trị học lực và bằng cấp. Tôi sẽ nói đến những vấn đề
ấy, nhưng trước tiên tôi muốn em hãy nhìn lại sự bực mình của chính em.
Những sự bực bội kia sở dĩ ra cũng do em một phần không nhỏ.Và cũng do những người thực sự yêu thương em nữa.Như các bậc phụ huynh chẳng hạn. Họ mượn em chăm học, nhưng mà họ không biết làm cho em tìm thấy lạc thú trong sự khám phá kiến thức. Động cơ của sự ham học hầu chỉ nằm ở mảnh bằng, ở địa vị tương lai của em trong xã hội. Động cơ của sự học, trước hết, đáng lẽ phải được tìm nơi những lạc thú của khám phá, đi tìm kiến thức, mở rộng chân trời kiến thức.
Những sự bực bội kia sở dĩ ra cũng do em một phần không nhỏ.Và cũng do những người thực sự yêu thương em nữa.Như các bậc phụ huynh chẳng hạn. Họ mượn em chăm học, nhưng mà họ không biết làm cho em tìm thấy lạc thú trong sự khám phá kiến thức. Động cơ của sự ham học hầu chỉ nằm ở mảnh bằng, ở địa vị tương lai của em trong xã hội. Động cơ của sự học, trước hết, đáng lẽ phải được tìm nơi những lạc thú của khám phá, đi tìm kiến thức, mở rộng chân trời kiến thức.
Em than phiền về chương trình, em
than phiền về lề lối giảng dạy của các giáo sư. Cố nhiên là chương trình ấy lề
lối giảng dạy ấy có những khuyết điểm. Tuy nhiên xét lại ta vẫn thấy rằng tại
vì ta thiếu khao khát tìm học hỏi. Chương trình tú tài hoặc những chứng chỉ đại
học mà em đang theo học, thực ra, không đến nỗi dở, không đến nỗi "bỏ
đi". Chúng chứa đựng những đề tài rất hay nhưng tại em thiếu sự khao khát
tìm hiểu cho nên chúng trở nên nghèo nàn. Em cũng biết ngày xưa có người học
sinh ngữ mà không có tự điển nghiên cứu, không có thư viện, không có tài liệu.
Thế mà vì khao khát học hỏi họ thành công hơn những người hiện có trong tầm tay
mình hầu hết các phương tiện để thành công. Đã có khi nào em thầm cám ơn sự hiện
diện của một cuốn tự điển chưa, một tài liệu tham khảo, một cuốn sách hay chưa?
Chúng ta giàu quá, và chúng ta đã khinh thường. Cái môn sử địa hay công dân ấy
có lúc ta thấy no đến tận cố là tại vì ta thiếu sự ham thích, sự khao khát. Có
một lúc nào đó ta sẽ lục lại sách vở, tắm mình trong biển tài liệu để đi tìm
những điều ta khát khao hiểu biết về các môn đó. Tôi có nói với em một lần rằng
trong ta luôn luôn có nhu yếu khám phá tìm hiểu. Chỉ tại vì ta đã tiêu phí năng
lực của ta vào những hoạt động không chínhđáng và không cần thiết ta mới
trở thành lơ lửng không thiết tha đến sự học hỏi tìm biết. Em hãy tìm nếm hương
vị ngọt ngào và say mê của sự học hỏi, và em sẽ thấy chúng cũng có hấp dẫn lực
lớn lao như các bộ môn thể thao hay nghệ thuật vậy. Nếu không, tại sao đã có
những người để ra hai ba mươi năm hay trọn đời để mà chỉ nghiên cứu về một vấn
đề.
Nếu em không thích học thì em không
thể chăm học được.
Vì vậy phải đánh thức sự khát khao hiểu biết trong em dậy. Có những phương pháp giúp em thực hiện trong đó tôi thấy có phương pháp giữ gìn sinh lực đừng cho phân tán vào những hoạt động không đâu và phương pháp gần gũi với những người thích học. Cố nhiên những người này không phải là những người "học gạo" - những người này, trong số đó có giáo sư và sinh viên, hay tìm gặp nhau để đàm luận, trao đổi và chia xẻ những lạc thú của sự khám phá. Tôi đã có đi dạy học và nhiều khi nhờ tiếp xúc với vài ba người sinh viên ham chuộng hiểu biết thôi, thế mà tôi cũng được lây sự hăng hái và có thêm nhiều lạc thú trong sự nghiên cứu và trao đổi. Tôi cám ơn họ và tôi nghĩ rằng trong một lớp học mà không có một vài người học với tinh thần đó thì lớp học sẽ rất buồn tẻ. Có nhiều lớp học buồn tẻ thật vì sinh viên trong lớp chỉ muốn học để thi đỗ. Rất ít khi họ hỏi tôi về tài liệu và phương pháp khảo cứu; họ cứ hỏi tôi về bài giảng để họ có thể học thi. Như vậy thì chính tôi, tôi cũng phải xuống tinh thần. Tôi thường nói: thi đỗ thì không khó, nhưng mà học không phải chỉ là để thi đỗ. Học là để biết, để khám phá. Có những lớp học mà giáo sư giảng không biết mệt, đàm luận không biết mệt, chỉ vì trong đó có vài người thích học. Tôi đã dạy trong một chứng chỉ triết và tôi ưa chứng chỉ này lắm chỉ vì trong lớp có một người lớn tuổi rất ham học. Người này là một bà khoảng gần sáu mươi tuổi, bà cố nhiên không phải vì muốn có bằng cấp mà vì sự hiểu biết. Bà theo dõi tôi rất chăm chú và hai con mắt của bà chứng tỏ rằng bà tìm thấy rất nhiều hứng thú trong sự học. Hồi tôi giảng về triết Duy Thức ở Columbia, có một bà mẹ Công giáo, mother Fiske, giáo sư trường nữ đại học Manhattanville, đến dự thính. Bà không bỏ qua một giờ nào. Lại có một người bạn họa sĩ cũng đến ghi tên học. Thành thử chúng tôi đã làm việc hăng hái với nhau trong suốt giảng khóa. Mỗi người đều viết một thiên tiểu luận, và trước khi viết ai cũng có dịp trình bày đề tài và phương pháp của mình trong lớp để mọi người có thể góp ý của họ cho thiên tiếu luận. Kỳ thi ấy, ai cũng đỗ điểm cao.
Vì vậy phải đánh thức sự khát khao hiểu biết trong em dậy. Có những phương pháp giúp em thực hiện trong đó tôi thấy có phương pháp giữ gìn sinh lực đừng cho phân tán vào những hoạt động không đâu và phương pháp gần gũi với những người thích học. Cố nhiên những người này không phải là những người "học gạo" - những người này, trong số đó có giáo sư và sinh viên, hay tìm gặp nhau để đàm luận, trao đổi và chia xẻ những lạc thú của sự khám phá. Tôi đã có đi dạy học và nhiều khi nhờ tiếp xúc với vài ba người sinh viên ham chuộng hiểu biết thôi, thế mà tôi cũng được lây sự hăng hái và có thêm nhiều lạc thú trong sự nghiên cứu và trao đổi. Tôi cám ơn họ và tôi nghĩ rằng trong một lớp học mà không có một vài người học với tinh thần đó thì lớp học sẽ rất buồn tẻ. Có nhiều lớp học buồn tẻ thật vì sinh viên trong lớp chỉ muốn học để thi đỗ. Rất ít khi họ hỏi tôi về tài liệu và phương pháp khảo cứu; họ cứ hỏi tôi về bài giảng để họ có thể học thi. Như vậy thì chính tôi, tôi cũng phải xuống tinh thần. Tôi thường nói: thi đỗ thì không khó, nhưng mà học không phải chỉ là để thi đỗ. Học là để biết, để khám phá. Có những lớp học mà giáo sư giảng không biết mệt, đàm luận không biết mệt, chỉ vì trong đó có vài người thích học. Tôi đã dạy trong một chứng chỉ triết và tôi ưa chứng chỉ này lắm chỉ vì trong lớp có một người lớn tuổi rất ham học. Người này là một bà khoảng gần sáu mươi tuổi, bà cố nhiên không phải vì muốn có bằng cấp mà vì sự hiểu biết. Bà theo dõi tôi rất chăm chú và hai con mắt của bà chứng tỏ rằng bà tìm thấy rất nhiều hứng thú trong sự học. Hồi tôi giảng về triết Duy Thức ở Columbia, có một bà mẹ Công giáo, mother Fiske, giáo sư trường nữ đại học Manhattanville, đến dự thính. Bà không bỏ qua một giờ nào. Lại có một người bạn họa sĩ cũng đến ghi tên học. Thành thử chúng tôi đã làm việc hăng hái với nhau trong suốt giảng khóa. Mỗi người đều viết một thiên tiểu luận, và trước khi viết ai cũng có dịp trình bày đề tài và phương pháp của mình trong lớp để mọi người có thể góp ý của họ cho thiên tiếu luận. Kỳ thi ấy, ai cũng đỗ điểm cao.
Nhưng mà sự khát khao hiểu biết đôi
khi có liên hệ tới những yếu tố khác ví dụ tính cách cấp thiết và thực
dụng của một số kiến thức. Cố nhiên ta khát khao hiểu biết về mọi sự,
nhưng trong tình trạng sinh hoạt xã hội ta, ta thấy có nhiều vấn đề cần
được giải quyết ước muốn giải quyết các vấn đề ấy cũng là một động lực đẩy ta
đi tới khảo cứu, khám phá và tìm tòi giải đáp. Cuộc sống luôn luôn nhắc nhở ta,
thúc đẩy ta đi khảo cứu học hỏi và tìm tòi những lời giải đáp ít khi chúng ta
có thể sống trong tháp ngà được.
Ta phải sống hiện thực trong cuộc đời và do đó ta phải đi tìm giải đáp, đi tìm lối thoát cho những vấn đề của chúng ta. Quốc gia Việt Nam là một quốc gia đang phát triển (đang phát triển có nghĩa là chưa phát triển, và cũng có nghĩa là chậm tiến) ta có những đề tài học hỏi vô cùng quan trọng, cấp thiết, và thực dụng; những vấn đề thuộc phạm vi kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, lịch sử. Những năm gần đây, tôi bắt buộc phải xếp bớt các sách về Phật học, về triết học tôn giáo, để chong đèn: đọc về phát triển cộng đồng, hợp tác xã phân bón, nuôi gà vịt, v.v.. Cũng tại vì tôi thấy cần đóng góp một phần vào công việc xây dựng nông thôn. Bốn năm trước đây, tôi không có hứng thú gì về các vấn đề đó. Nhưng gần đây tôi đã biết đọc, biết tìm hiểu một cách say mê về chúng, cũng bởi vì tính cách thực dụng của các kiến thức kia thúc đẩy. Tôi lấy tôi làm thí dụ để cho em thấy một trường hợp có thể tin cậy. Vậy thì trong niềm khao khát hiểu biết, ta không thể không quên rằng trong tình trạng đất nước hiện thời, có những đề tài cấp thiết cần được tìm hiểu, khảo cứu, để ta có thể đóng góp vào sự xây dựng lại đất nước bằng sự hiểu biết và bằng sự thực hành của chúng ta. Cái học biết hướng về hiện thực ấy, tôi gọi là cái học "khế cơ". Với lại chúng ta cần có tinh thần phê phán độc lập và khách quan. Chúng ta đừng tin tưởng quá ở giá trị của các sách giáo khoa. Chúng ta phải cố gắng sưu tầm thêm, nghiên cứu thêm, và đừng bao giờ cho rằng ta không thể vượt cao hơn sách và hơn thầy. Chúng ta phải vượt chứ, và vượt sau khi đã biết rõ sách và biết rõ thầy. Rồi chúng ta đừng ôm chặt lấy mớ kiến thức đã thâu lượm được và cho đó là hay nhất, cao nhất. Phải nhớ rằng chúng, chính những kiến thức ấy, cũng cần được vượt. Như thế ta có thái độ cởi mở, cầu tiến, không bo bo cố thủ, không giữ quyến chân lý, không trở nên độc tài và cuồng tín. Thái độ đó tôi gọi là thái độ "phá chấp". Và cuối cùng, ta không được tự mãn với một số những lý luận thiếu kiểm chứng. Phải coi chừng cái biết lý thuyết, cái biết sách vở. Cái biết đó không chắc thực, không có nền móng vững chãi ở hiện thực, có thể đi lạc rất xa, không phù hợp với hiện thực. Hãy đừng mất liên lạc với thực tại, hãy gần gũi với các dữ kiện của thực tại, hãy luôn luôn kiểm chứng lại và chỉ tin tưởng ở những hiểu biết nào có tính cách phù hợp với thực tại. Tôi gọi cái học ấy là cái học "thực chứng".
Ta phải sống hiện thực trong cuộc đời và do đó ta phải đi tìm giải đáp, đi tìm lối thoát cho những vấn đề của chúng ta. Quốc gia Việt Nam là một quốc gia đang phát triển (đang phát triển có nghĩa là chưa phát triển, và cũng có nghĩa là chậm tiến) ta có những đề tài học hỏi vô cùng quan trọng, cấp thiết, và thực dụng; những vấn đề thuộc phạm vi kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, lịch sử. Những năm gần đây, tôi bắt buộc phải xếp bớt các sách về Phật học, về triết học tôn giáo, để chong đèn: đọc về phát triển cộng đồng, hợp tác xã phân bón, nuôi gà vịt, v.v.. Cũng tại vì tôi thấy cần đóng góp một phần vào công việc xây dựng nông thôn. Bốn năm trước đây, tôi không có hứng thú gì về các vấn đề đó. Nhưng gần đây tôi đã biết đọc, biết tìm hiểu một cách say mê về chúng, cũng bởi vì tính cách thực dụng của các kiến thức kia thúc đẩy. Tôi lấy tôi làm thí dụ để cho em thấy một trường hợp có thể tin cậy. Vậy thì trong niềm khao khát hiểu biết, ta không thể không quên rằng trong tình trạng đất nước hiện thời, có những đề tài cấp thiết cần được tìm hiểu, khảo cứu, để ta có thể đóng góp vào sự xây dựng lại đất nước bằng sự hiểu biết và bằng sự thực hành của chúng ta. Cái học biết hướng về hiện thực ấy, tôi gọi là cái học "khế cơ". Với lại chúng ta cần có tinh thần phê phán độc lập và khách quan. Chúng ta đừng tin tưởng quá ở giá trị của các sách giáo khoa. Chúng ta phải cố gắng sưu tầm thêm, nghiên cứu thêm, và đừng bao giờ cho rằng ta không thể vượt cao hơn sách và hơn thầy. Chúng ta phải vượt chứ, và vượt sau khi đã biết rõ sách và biết rõ thầy. Rồi chúng ta đừng ôm chặt lấy mớ kiến thức đã thâu lượm được và cho đó là hay nhất, cao nhất. Phải nhớ rằng chúng, chính những kiến thức ấy, cũng cần được vượt. Như thế ta có thái độ cởi mở, cầu tiến, không bo bo cố thủ, không giữ quyến chân lý, không trở nên độc tài và cuồng tín. Thái độ đó tôi gọi là thái độ "phá chấp". Và cuối cùng, ta không được tự mãn với một số những lý luận thiếu kiểm chứng. Phải coi chừng cái biết lý thuyết, cái biết sách vở. Cái biết đó không chắc thực, không có nền móng vững chãi ở hiện thực, có thể đi lạc rất xa, không phù hợp với hiện thực. Hãy đừng mất liên lạc với thực tại, hãy gần gũi với các dữ kiện của thực tại, hãy luôn luôn kiểm chứng lại và chỉ tin tưởng ở những hiểu biết nào có tính cách phù hợp với thực tại. Tôi gọi cái học ấy là cái học "thực chứng".
Bằng cách ham học của em, bằng những
khát khao hiểu biết của em hướng về nẻo khế cơ, phá chấp và thực chứng, em có
thể chuyển đổi được cả không khí của lớp học. Em sẽ làm cho các vị giáo sư thêm
hứng khởi, em sẽ làm cho họ biết lo học hỏi thêm lên, lo nghiên cứu thêm lên, và
đối với những vị xem dạy học là một công trình đổi chác, em cũng có thể khiến
cho họ thay đổi hẳn. Em không biết rằng em đóng một vai trò khá lớn trong việc
cách mệnh giáo dục. Cách mệnh giáo dục không hẳn đã có thể được thực hiện bằng
những đạo luật thay đổi chương trình, mở lớp tu nghiệp cho giáo sư thay đổi thể
chế thi cử.... Em đóng một vai trò quan trọng lắm mà em không biết. Điều này
tôi mong em chiêm nghiệm cho kỹ lưỡng.
Nếu em thực hiện được sự ham học hướng về khế cơ, phá chấp và thực chứng thì chính từ chương trình tú tài hay chương trình đại học hiện thời cũng có thể xuất hiện những sinh khí mới, những giác sắc mới. Thế rồi những môn mà em thay "ứ đến cổ" ấy cũng sẽ trở nên hấp dẫn vô cùng cần thiết vô cùng. Để rồi em thấy chúng có liên hệ mật thiết đến đời sống em, đời sống dân tộc em, liên hệ nhiều hơn em đã tưởng. Còn nếu em không thực hiện được điều đó thì tôi tưởng chương trình có thay đổi ba mươi lần cũng không tạo được một cái gì đáng kể. Nếu em học như là đi mua một ít kiến thức để đi thi thì vị giáo sư cũng sẽ dạy như là bán cho em một ít kiến thức để đi thi. Đó là một điều có thực và rất đáng buồn cho hiện tình giáo dục.
Nếu em thực hiện được sự ham học hướng về khế cơ, phá chấp và thực chứng thì chính từ chương trình tú tài hay chương trình đại học hiện thời cũng có thể xuất hiện những sinh khí mới, những giác sắc mới. Thế rồi những môn mà em thay "ứ đến cổ" ấy cũng sẽ trở nên hấp dẫn vô cùng cần thiết vô cùng. Để rồi em thấy chúng có liên hệ mật thiết đến đời sống em, đời sống dân tộc em, liên hệ nhiều hơn em đã tưởng. Còn nếu em không thực hiện được điều đó thì tôi tưởng chương trình có thay đổi ba mươi lần cũng không tạo được một cái gì đáng kể. Nếu em học như là đi mua một ít kiến thức để đi thi thì vị giáo sư cũng sẽ dạy như là bán cho em một ít kiến thức để đi thi. Đó là một điều có thực và rất đáng buồn cho hiện tình giáo dục.
Em nói: sở dĩ em phải học theo kiểu
ấy là tại vì em đang cần bằng cấp, em khinh thường bằng cấp, em biết rõ giá trị
thực của bằng cấp; nhưng sở dĩ em phải "giật" cho được bằng cấp cũng
là vì em phải có bằng cấp mới "sống" được. Điều đó tôi cũng hiểu. Em
cứ việc giật bằng cấp đi, tôi có nói sao đâu. Nhưng mà đồng thời em cũng
vẫn có thể học theo tinh thần khám phá được mà. Càng học như thế em càng phát
triển nhân cách em; càng học như thế thì em càng trở nên cao thượng, nhiều tài
năng, đạt được nhiều mến chuộng, nhiều kiêng nể. Đó há không phải là những
yếu tố lớn để thành công sau này sao?
Tôi không thể không đồng ý với
em về việc chúng ta phải xét lại vấn đề thi cử và bằng cấp. Có người nói: dù
chúng ta có ý kiến gì hay đi nữa về vấn đề thi cử và bằng cấp thì chúng ta cũng
chỉ nói cho nhau nghe chơi vui vậy thôi, chớ ta có quyền gì mà thực hiện. Tôi
không nghĩ như thế. Tôi tưởng chưa chắc làm bộ trưởng bộ Quốc Gia Giáo Dục mà
đã có quyền thực hiện những gì mình ước muốn trong lĩnh vực cách mệnh giáo dục.
Tôi trở lại ý kiến trước kia là chính các em, chính tuổi trẻ, có thể đóng góp
phần quan trọng nhất vào việc cách mệnh giáo dục mà không cần phải nuôi mộng
làm bộ trưởng hay làm thủ tướng.
Để tôi trình bày em nghe. Chúng ta
không dễ gì trong một sớm một chiều mà xô ngã được những tiêu chuẩn những khuôn
khổ hiện thời xã hội đang dùng, bởi vì hiện có cả một sự thông đồng cấu kết của
những thành phần được ưu đãi để bảo vệ cho những tiêu chuẩn và những khuôn khổ
ấy. Bức thành thật là khó phá, dù cho đối với những người có chức vị có thẩm
quyền như một ông bộ trưởng. Em cứ thử nhìn hiện tượng gian thương ở xứ ta.
Những kẻ gian thương mạnh lắm, khiến
cho cả một nội các dù có thiện chí cũng vẫn thấy khó lòng loại họ ra ngoài vòng
pháp luật. Vậy nếu không có một phong trào quần chúng và một kế hoạch có quần
chúng tham dự, ta khó lòng thực hiện nổi những điều ta ước mơ. Ta vẫn phải kiên
nhẫn đặt nền tảng cách mạng ngay ở hạ tầng, phải bắt đầu xây dựng từ dưới lên
trên. Cái bằng tú tài hay cái bằng cử nhân tự nó nó không xấu, nhưng cách sử
dụng những thứ bằng cấp ấy để làm những bức tường hạn chế, những bức tường giai
cấp, những cơ sở bảo vệ cho quyền lợi của những giai cấp - ta gọi là những giai
cấp bằng cấp - thì quả thực rất xấu xa. Hầu hết những người có bằng cấp dù
không nói ra vẫn cứ âm thầm muốn bảo vệ cho quyền lợi của kẻ có bằng cấp và
luôn luôn muốn cho ít người leo lên được địa vị của mình. Bởi vì nếu họ leo lên
nhiều quá thì giá trị của bằng cấp sẽ không còn bao lăm nữa, tiền bạc và địa vị
do bằng cấp bảo đảm sẽ không đáng là bao lăm nữa. Thành ra sự học hành chỉ là
những khó nhọc cần thiết để mua một địa vị, một quyền lợi, và sự thi cử là
những hạn chế cần thiết để bảo đảm cho địa vị và quyền lợi đó. Một nền giáo dục
mà như thế thì thực là một niềm tủi hổ. Tuy vậy đó không phải là lỗi của kẻ đặt
ra chương trình đặt ra sự thi cử. Đó là tội ác của sự cấu kết thông đồng
của những kẻ được xã hội ưu đãi nhờ bằng cấp của họ. Để đập vỡ sự cấu kết thông
đồng ấy, chúng ta phải có những cuộc vận động rộng rãi trên bình diện quần
chúng. Chúng ta phải biết làm cách mệnh bằng cách không chịu thần phục những
tiêu chuẩn những khuôn khổ hiện thời về thi cử. Chúng ta có thể không thừa nhận
chúng, và không thừa nhận một cách tập thể. Chúng ta hãy vạch rõ cho giới tuổi
trẻ và cả mọi giới thấy rằng để bảo vệ quyền lợi và địa vị họ, những kẻ được ưu
đãi kia đã thông đồng cấu kết với nhau để chận đứng cả đà tiến thủ của một dân
tộc, gây bao nhiêu điêu đứng cho một đa số những người trẻ tuổi và làm cho cả
một nền học vấn trở nên xa cách lạc lõng và không thiết thực. Một mặt khác,
chúng ta tạo nên tiêu chuẩn mới, giá trị mới và hô hào tuổi trẻ, đồng bào và
những nhà trí thức chân chính hãy can đảm nhìn nhận các tiêu chuẩn mới, các giá
trị mới ấy.
Ngoài công cuộc vận động ấy không có cách gì để chúng ta có thể thực hiện được cách mệnh giáo dục, kể cả cách năn nỉ, viết thỉnh nguyện, viết kiến nghị cho các nhà hữu trách. Công việc khó nhọc, cần phải được thực hành một cách kiên nhẫn và có phương pháp, nhưng tuổi trẻ có thể làm được. Điều cần thiết nhất là đừng tìm con đường dễ dãi, con đường đầu hàng những tiêu chuẩn và những khuôn khổ hiện hữu.
Ngoài công cuộc vận động ấy không có cách gì để chúng ta có thể thực hiện được cách mệnh giáo dục, kể cả cách năn nỉ, viết thỉnh nguyện, viết kiến nghị cho các nhà hữu trách. Công việc khó nhọc, cần phải được thực hành một cách kiên nhẫn và có phương pháp, nhưng tuổi trẻ có thể làm được. Điều cần thiết nhất là đừng tìm con đường dễ dãi, con đường đầu hàng những tiêu chuẩn và những khuôn khổ hiện hữu.
Để tôi nói với em về một vài chi
tiết của vấn đề. Lề lối thi cử bây giờ chỉ là những phương tiện hạn chế, ngăn
cản người học sinh và người sinh viên không cho số người thi đỗ vượt lên quá
mức cần thiết. Có nhiều cuộc thi tốt nghiệp hoặc thi vào trường mà được tổ chức
như những cuộc thi tuyển. Số người đáng đỗ thì nhiều, nhưng số người cần lấy đỗ
thì ít. Ta biết rằng nhờ có thi cử mà người sinh viên biết lo học. Nhưng ta
không thể chấp nhận được một lối thi cử như lối thi cử hiện tại. Thi cử, như
được tổ chức lâu nay, làm tốn của công quỹ một số tiền hết sức lớn lao. Có
những lớp không thi, như đệ ngũ, đệ tam chẳng hạn, trong đó người học sinh thấy
mình nhàn hạ hơn những người trong các lớp phải thi, như đệ tứ và đệ nhị, rất
nhiều. Và thời gian học thi làm tiêu phí thật nhiều sức khỏe của người họ. Ốm
mòn, bệnh tật, yếu đuối, mất ngủ, thần kinh suy nhược cũng vì học thi. Uống
thuốc không ngủ, tàn phá sức khỏe để mà học thi. Chỉ cần biết đến đỗ hay rớt
chứ không cần biết đến cái học khám phá, cái lạc thú hiểu biết, cái tính cách
cần thiết của các kiến thức. Chỉ cần biết học vẹt, học tủ, nhảy hai lớp
trong một năm. Cái đỗ và cái không đỗ cách xa nhau một trời một vực; đỗ là tất
cả, và không đỗ là không gì hết. Hằng hà sa số người thất chí, không bước vào
trung học hay đại học cũng vì một ít hơn kém nho nhỏ, một ít may rủi nho nhỏ.
Có những người thông minh học ít nhưng khi vào thi, có thể làm nên chuyện mười
lần hơn những kẻ suốt năm cần cù. Đánh hỏng vì thiếu chỗ học và vì giữ quyền
lợi cho kẻ đã đỗ. Mọi tiêu chuẩn xét định giá trị con người, ngoài tiêu chuẩn
bằng cấp, đều bị bỏ quên. Tất cả những khuyết điểm to lớn ấy của chế độ thi cử
hiện nay không thể nào được bù lắp bằng một ít lợi ích mà người ta nêu lên: lợi
ích khuyến khích học hành, lợi ích có phương tiện tuyển lựa người có thực học.
Ta vẫn có thể áp dụng những thể chế học tập và thi cử khác. Chúng ta có thể hủy
bỏ thể lệ thi cử và cấp phát các thứ bằng cấp tú tài và cử nhân hiện nay mà vẫn
có thể kiểm soát được sự làm việc của người sinh viên. Thay vì thi một lần ở
cuối năm, ta có nhiều kỳ thi trong một năm, để kiểm soát sự làm việc ấy và cũng
để thúc đẩy người sinh viên làm việc đều đặn. Trường học phải kiểm soát sự
chuyên cần và sự làm việc của người sinh viên. Giáo sư phải theo dõi sự tiến bộ
của sinh viên. Tất cả các thành tích đều được ghi vào học bạ. Môn nào kém, thi
không đủ điểm thì học sinh chỉ cần học và thi lại môn đó mà không cần phải bỏ
phí cả một năm để "ở lại". Mùa hè có thể là thời gian trau dồi môn
mình kém để thi lại. Như thế những oan uổng do thi cử gây nên sẽ được loại trừ
gần hết. Học xong trung học, người học sinh sẽ được cấp phát chứng chỉ
tốt nghiệp trung học, và tỷ số người nhận chứng chỉ tốt nghiệp trung học so với
tỷ số người đỗ tú tài toàn phần bây giờ sẽ cao hơn nhiều. Như thế có nghĩa là
số người thi hỏng, bỏ học, trở nên bất đắc chí sẽ trở thành không đáng kể. Trên
thực tế, ta thấy có những người giỏi hơn những sinh viên đại học nhưng không có
điều kiện vào đại học, cũng chỉ vì họ là nạn nhân của sự thi cử ở xứ ta, hình
như ai cũng nghĩ rằng học sinh các trường trung học công lập là giỏi hơn các
trường tư. Thực ra, ta chỉ có thể nói rằng trường công có kỷ luật hơn trường
tư, và không có hiện tượng nhảy lớp và phát chứng chỉ bất hợp pháp như một vài
trường tư. Thế nhưng không thể nói rằng học trò trường công giỏi hơn học trò
trường tư. Một trường tư nếu biết xây dựng nghiêm chỉnh uy tín mình thì sẽ
không bao giờ mời những giáo sư dở vào dạy và cũng sẽ không bao giờ vi phạm kỷ
luật của chính mình. Giá trị của chứng chỉ tốt nghiệp trung học được thành lập
trên uy tín của trường trung học mà người ta theo học. Nếu các trường được tự
do phát triển và cạnh tranh về mặt uy tín thì nền học vấn càng ngày càng trở
nên nghiêm chỉnh, tiến bộ. Các trường dở và thiếu kỷ luật học tập sẽ tự nhiên
bị đào thải. Thi vào đại học hoặc thi vào một công hay tư sở chẳng hạn, chỉ có
những ai tốt nghiệp ở các trường trung học danh tiếng mới có thể đỗ. Chứng chỉ
tốt nghiệp của một trường trung học danh tiếng, lắm khi đã có thể bảo đảm cho
người thí sinh được rồi. Và thành tích trong học bạ nữa. Tỷ số những người được
nhận vào các đại học hay vào các công tư sở bảo đảm cho uy tín của trường trung
học đã phát bằng tốt nghiệp cho học. Những trường không có uy tín ấy sẽ không
có ai theo học và phải đóng cửa. Bộ Quốc Gia Giáo Dục có thể làm công việc kiểm
soát và nâng đỡ các trường tư thục. Chắc chắn là có nhiều tư thục sẽ trở lên
danh tiếng hơn cả các trường công lập. Vấn đề học nhảy và vấn đề cấp phát chứng
chỉ và học bạ không đứng đắn là hai vấn đề phải giải quyết trước tiên. Thi cử
nếu tổ chức đều đặn thì học sinh sẽ làm việc đều đặn, ngay từ đầu năm, và không
phá hoại sức khoẻ mình để học rút ở cuối năm. Ngân khoản tổ chức thi cử sẽ để
dành lo những việc hữu ích như học bổng, như sách giáo khoa, như nhân viên kiểm
soát lưu động. Khi số người bị loại bởi các kỳ thi tú tài không còn nữa thì số
người có chứng chỉ tốt nghiệp trung học sẽ nhiều hẳn lên và xấp xỉ số người học
ở các lớp đệ nhị, đệ nhất. Không ai theo học đàng hoàng mà lại không tốt nghiệp
cả. Ta loại bỏ được các hiện tượng bất đắc chí, tự tử, mặc cảm, may rủi, những
hiện tượng đáng kể đang rạch nát thế hệ tuổi trẻ. Số người tốt nghiệp trung học
đông thì số trường đại học cũng tăng lên. Nước ta cần chừng mười trường đại
học, những trường này có đường lối phát triển riêng của mình. Những trường này
cũng cần xây uy tín của họ, cũng cần cạnh tranh về uy tín chuyên môn và bổ túc
cho nhau. Nếu ta chỉ có một trường đại học thôi thì những trường ấy sẽ làm trời
làm đất và không chịu nghe lời xây dựng của kẻ khác để cải tiến và phát triển.
Chính quyền phải nâng đỡ cho các trường đại học được thành lập trên toàn quốc,
cung cấp điều kiện, mời giáo sư giỏi và đào tạo giáo sư giỏi cho mỗi trường.
Các trường đại học căn cứ vào giá
trị và uy tín của trường trung học đã cấp phát chứng chỉ tốt nghiệp trung học
để nhận sinh viên vào trường. Học bạ cũng sẽ dược dùng làm tài liệu xét định.
Nếu cần, sẽ có thêm một cuộc thi trắc nghiệm nữa.
Ở các trường đại học, các
chứng chỉ mười giờ, hay mười hai giờ, cần được chẻ ra làm nhiều chứng chỉ
nhỏ. Có thể gọi những chứng chỉ đó là những giảng khóa ; những giảng khóa như
thế chỉ có chừng ba giờ học mỗi tuần và thi ít nhất là hai lần trong một năm.
Chương trình sơ cấp đại học (cử nhân bây giờ) sẽ có chừng mười tám giảng khóa
như vậy. Thi đủ điểm được hai mươi giảng khóa như thế thì được cấp văn bằng tốt
nghiệp. Thi thiếu điểm giảng khóa nào thì chi cần học và thi lại giảng khóa ấy.
Chứ không phải vì thiếu điểm môn ấy mà các môn khác cũng "rớt" theo.
Chúng ta tránh được sự "ở lại", oan uổng trong một năm. Mỗi năm sinh
viên có thể theo học năm giảng khóa (I5 giờ học mỗi tuần) và như vậy trong bốn
năm có thể học xong được hai mươi giảng khóa - Họ không cần lo lắng đèn xanh
người mỗi khi kỳ thi cuối năm tới. Nhưng họ phải đọc sách, nghe giảng, thuyết trình,
viết tiểu luận và thi trắc nghiệm suốt từ đầu đến cuối năm.
Nhiều nước tiên tiến đang áp dụng lề
lối học tập và thi cử như thế và số người tốt nghiệp sơ đẳng đại học
(undergraduate) so với tỷ số sinh viên tốt nghiệp đại học của ta thì nhiều hơn
bội phần. Do đó số người theo học cấp cao đẳng đại học (graduate) cũng nhiều và
cơ hội cho nhân tài xuất hiện cũng nhiều hơn trong trường hợp ta gấp bội. Ở xứ
ta, lên được vào đại học đã là "oai" lắm rồi; tốt nghiệp cử nhân thì
lại càng hiếm lắm. Có bao nhiêu người được ghi tên học cao học và tiến sĩ? Các
kỳ thi tú tài và cử nhân, lợi khí bảo vệ cho quyền lợi thiểu số có bằng cấp là
mồ chôn của bao nhiêu thanh niên thiếu nữ.Tôi thù ghét độc địa thể lệ học hành
thi cứ ấy. Tôi oán trách những lưỡi dao ác nghiệt, những cánh cửa sắt uy nghiêm
và lạnh lùng ấy. Tôi đang nghe người ta nói: phải giữ giá trị cho bằng tú tài,
phải giữ giá trị cho bằng cử nhân. Chúng ta có cần giá trị ấy đâu. Chúng ta chỉ
cần phá tung những gông cùm tàn ác bít lắp đường tiến thủ của một số rất lớn
những người tuổi trẻ. Ở các nước người tốt nghiệp đại học (college graduate),
kể cả ở Phi và ở Úc, nhiều như khoai lang bên xứ mình. Nhiều thì cố nhiên là
mất giá. Nhưng nếu chỉ vì sợ mất giá mà kìm hãm bít lắp đường tiến thủ của tuổi
trẻ thì đó là một tội ác với dân tộc, với tổ quốc.
Ta cần có thêm hằng ngàn bác sĩ,
dược sĩ, kỹ sư, giáo sư và chuyên viên khác. Cố nhiên số người tốt nghiệp càng
nhiều thì giá trị (giá trị? thực ra là quyền lợi) sẽ xuống bớt - Ta cần phát
triển quốc gia, phụng sự dân chúng nghèo khổ, hơn là cần bảo vệ quyền lợi cho
những người có bằng cấp. Không phải nhờ đánh bóng thật nhiều mà bằng cấp
trở thành có giá trị. Cần tổ chức sự học và sự thi cử lại cho hợp lý,
cần phải làm cách mệnh tận gốc rễ. Có nhiều bác sĩ chẳng hạn, thì số lượng bác
sĩ giỏi sẽ được tăng lên, và ta mới có được nhiều bác sĩ chuyên môn. Ta mới có
thể loại trừ được hiện tượng độc quyền, làm giàu trên mồ hôi nước mắt người
nghèo. Công bình xã hội mới có thể được thực hiện từ từ, và tính cách phục vụ
và hữu hiệu của học vấn mới được chú trọng tới.
Trong khuôn khổ và khả năng của tuổi
trẻ, ta có thể làm được gì ? Tôi đã nói với em rằng chúng ta phải có can đảm
bắt đầu bằng một sự "không chấp nhận" những khuôn khổ những tiêu
chuẩn cũ. Nghĩa là bằng thái độ "không đầu hàng". Không đầu hàng ở
đây có nghĩa là phải chịu hy sinh quyền lợi của mình để dám đi trên những con
đường gai góc nhưng hứa hẹn nhiều cho tương lai dân tộc Trước hết em hãy thử
quan sát, nghiên cứu và tố cáo những tội ác của sự cấu kẹt bảo vệ quyền lợi của
thiểu số những người có bằng cấp. Bằng học tập, thảo luận, báo chí, em nêu lên
cho quần chúng thấy ở những khuyết điểm Lớn lao trong chế độ học hành và thi cử
hiện tại. Bằng những con số, những tài liệu chính xác, sống động mà em có thể
thu lượm được rất dễ dàng, em trình bày cho quần chúng thấy cái lưới thi cử
đang bổ chụp xuống đầu thế hệ trẻ tuổi để hạn chế sự tiến thủ của họ, để gây
nên bao nhiêu tấn kịch thảm thương giữa họ. Em hãy liên kết với những bạn đồng
chí hướng, gần gũi các bậc phụ huynh nào biết lo cho nền giáo dục mới, ủng hộ
họ, nâng đỡ tinh thần cho họ. Em sẽ học thật giỏi và từ chối không dự những kỳ
thi hiện tại. Em sẽ cổ động cho những tiêu chuẩn mới để xét định giá trị con
người. Các tư sở, các trường đại học tư thục sẽ chịu ảnh hưởng phong
trào mới, dư luận mới, và cũng sẽ đi tiên phong trong việc áp dụng những tiêu
chuẩn mới ấy. Rồi đến các công sở và các trung đại học công lập. Một số những
bài báo viết rải rác đó đây không đủ để tạo nên cách mệnh giáo dục. Nhu yếu
cách mệnh đường lối học tập và thi cử đã trở nên cấp bách rồi, ai cũng thấy như
vậy. Nhưng chỉ có em, chỉ có sự liên kết của tuổi trẻ để vận động, để đòi hỏi,
để tự tạo cho mình một thái độ một phương pháp mới có đủ sức giáng những đòn
khá nặng trên sự cấu kết vừa ý thức vừa vô ý thức của những phần tử được xã hội
ưu đãi. Việc là việc của đa số, của tuổi trẻ, của em. Em hãy biết rũ bỏ, biết
khinh thường, biết đứng dậy. "Nổi loạn" bằng cách ấy đòi hỏi can đảm,
kiên nhẫn, hy sinh và thời gian. "Nổi loạn" bằng cách ấy sẽ đóng góp
lớn lao vào công việc giải phóng tuổi trẻ, giải phóng con người. Còn nếu chỉ
phá phách đôi chút, biểu lộ thái độ bất mãn, bất cần, hoặc giả chỉ đày đọa thân
thể em, tâm hồn em thì em chỉ gây thêm khổ đau cho em và cho tất cả
chúng ta, chứ không thay đổi được gì. Những "người lớn" như chúng tôi
sẽ rất sung sướng tiếp tay với các em. Em hãy đứng dậy để cho chúng tôi cùng
được đứng dậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét