Lời ca của một “Người hát rong”
Nguyễn Thị Minh Châu
(Trích tiểu luận: Trịnh
Công Sơn - cuộc đời và tác phẩm)
Trịnh Công Sơn - chỉ cần
một cái tên, không kèm theo chức danh hay một lời chú giải nào cả, thì công
chúng của hơn hai thập niên cuối thế kỷ XX, từ già đến trẻ, từ trí thức đến
người lao động bình thường... hầu như ai cũng biết ông là ai.
Ông là ai? Giới văn nghệ sĩ
thân ái gọi ông là: Người thơ ca (Văn Cao), Người tình
lãng du của nhiều thế hệ(Hoàng Phủ Ngọc Tường), Thiền sư du
ca (Đỗ Minh Tuấn), Ông hoàng tình ca (Nguyễn Trọng
Tạo), Nhạc sĩ nhân gian (Doãn Nho)…, và Thi sĩ của âm
nhạc, hay Nhạc sĩ của thi ca. Còn ông trả lời theo cách riêng:
“Tôi chỉ là tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình
về những giấc mơ đời hư ảo...”[1].
Chẳng phải vô cớ nhiều nhà
thơ đã gọi Trịnh Công Sơn là thi sĩ. Lời ca trong nhiều bài hát của ông tách
rời khỏi giai điệu vẫn đẹp như một bài thơ. Riêng điều đó đã cho thấy vị trí ca
từ đặc biệt đến mức nào trong nhạc Trịnh.
Nổi lên trong nội dung lời
ca của Trịnh Công Sơn là các chủ đề: tình yêu - quê hương - thân phận. Ranh
giới giữa các chủ đề không phải lúc nào cũng phân định rõ ràng. Trong quê hương
có Em, trong tình yêu Em có tình yêu xứ sở. Trong tình yêu cho riêng Em, cũng
như trong tình yêu nhân thế luôn có Tôi, gắn liền với thân phận Tôi, thân phận
một đời người, và đôi khi, thân phận một đất nước.
Thân phận
Cái làm cho ca khúc Trịnh
Công Sơn độc đáo khác thường, trước hết là nhờ nhân vật “Tôi”. Cái Tôi xuyên
suốt mọi chủ đề, và hình ảnh Tôi hiện lên trọn vẹn nhất trong những bài hát nói
về thân phận, về kiếp luân hồi và giải thoát bản ngã.
Tôi là ai? Đã hơn một lần
nhân vật Tôi ấy lặng lẽ nhìn lại mình. Phải trả giá bằng những năm tháng trẻ
thơ đầy ảo tưởng, “ngày nay không còn bé” tôi mới “chợt nhìn ra tôi”, thấy tôi
như chiếc bóng phai mờ, như vết mực nhòe, như hòn đá nặng “tình cờ rớt xuống
mịt mùng”, và tôi cứ “trôi trong cuộc đời... không chờ ai”[2].
Hết âm thầm gõ buồn gót
chân hành hương bóng đổ một mình tôi, tôi lại khép cửa quỳ bên vết thương, nhốt
mình trong căn gác đìu hiu, soi bóng mình giữa tường trắng lạnh câm, rồi một
hôm chợt thấy hoang vu quanh mình mà thốt lên: “Ô hay mình vẫn cô liêu”! [3].
Hiu quạnh, lạnh lùng, im
vắng, tịch lặng, băng giá, xa lạ, xa vắng, lặng câm, hư vô, hun hút, lẻ loi, âm
u, lạnh lẽo, bơ vơ, lạc loài... Bao nhiêu tính từ kiểu đó cứ chồng chéo, vây
bủa lấy thân phận Tôi, đan kết thành một tấm lưới khổng lồ vô hình có tên là Cô
đơn.
Nhiều người đã nói đến màu
sắc của triết lý Phật giáo và triết học hiện sinh trong lời ca của Trịnh Công
Sơn. Chẳng phải ông đã từng thú nhận: “Tôi vốn thích triết học và vì thế tôi
muốn đưa triết học vào những ca khúc của mình” [4] đó sao. Nhưng đây là “một thứ
triết học nhẹ nhàng mà ai ai cũng có thể hiểu được như ca dao hoặc những lời ru
con của mẹ” [5]. Chẳng phải
ông đã cho rằng: “Hiện sinh chân chính đâu phải xấu”, và “bậc thượng thừa của
hiện sinh chính là ông Phật” [6]. Nhưng hoàn toàn không phải kiểu
hiện sinh sống gấp và phản kháng bằng nổi loạn đập phá, mà là “một sự phản
kháng tiềm tàng trong suy nghĩ”, để được “sống bình tĩnh trong từng sát na” [7], thức tỉnh và ơn đời.
Một phát hiện của nhà thơ
Hoàng Phủ Ngọc Tường, người bạn gần gũi từ nhỏ của Trịnh Công Sơn: nỗi đau phận
người được nhà Phật gói lại trong bốn từ sinh - lão - bệnh - tử đều có mặt
trong lời ca của Trịnh Công Sơn [8].
Đúng vậy. Chẳng mấy khó
khăn để lượm nhặt đủ bốn chữ của nhà Phật trong lời ca của “vị thiền sư” này.
Chữ sinh ẩn náu trong “cây non trên núi đầu thai”, lẩn khuất trong “tiếng khóc
cười của bào thai” [9]. Chữ sinh nằm trong hạt bụi “vươn
hình hài lớn dậy”, cất lên “tiếng khóc ban đầu”, để báo “tin buồn mẹ cho mang
nặng kiếp người” [10]...
Vừa sinh ra, con người đã
lập tức khởi đầu một quá trình lão hóa. “Từng tuổi xuân đã già”, để “chợt một
chiều tóc trắng như vôi” và chấp nhận “có một bạc đầu tôi đi, tôi đi” [11]. Chữ lão chập chờn trên “lau trắng
trong tay”, trên “tóc người dòng sông xưa ấy đã phai” [12]. Chữ lão được viết trên chiếc lá
thu phai, trên mặt trăng đã già, trên cuộc đời đã phủ rêu phong.
Đời người là một nỗi đau
triền miên, với những “cơn đau chưa dài” và những “cơn đau lên đầy” [13]. Những cơn đau dài, đau vùi ấy đã
khắc sâu trăm vết thương sầu cho một con tim tật nguyền, một thân thể mệt
nhoài, gối chân mê mỏi... Chữ bệnh như ám vào tấm “thân đau muốn nằm”, vào
“từng chiều lên hấp hối”[14].
Dấu chấm cho một kiếp rong
chơi trên cõi tạm là cái chết. Cái chết không khoác áo choàng đen, mang bộ mặt
khủng bố bên lưỡi hái lạnh lùng. Với Trịnh Công Sơn, cái chết quen thuộc như
một chốn trở về nghỉ ngơi sau chuyến đi hoang tạm bợ:
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời
(Ở trọ)
Nhiều người nhận thấy Trịnh
Công Sơn hay “nói dại miệng” về chuyện “nằm xuống”. Cứ như thể biết trăm
năm chỉ ở đậu ngàn năm, nên ông sốt ruột “còn bao lâu cho thân thôi lưu đày
chốn đây, còn bao lâu cho thiên thu xuống trên thân này” [15].
Luôn quan tâm đến cái ngày
“thân xác không còn”, chẳng phải vì chán sống, trái lại, ông “nghĩ đến cái chết
nhiều là vì quá yêu cuộc sống”[16]. Mà cái chết lại rất gần gũi sự
sống, ngay “trong xuân thì” ông đã thấy “bóng trăm năm” rồi [17]. Chữ tử cứ treo lơ lửng trong giấc
ngủ, để giật mình tỉnh ra lại nói gở: “Thí dụ bây giờ tôi phải đi, tôi phải đi
chia ly cùng đời sống...” [18]. Ông muốn nhìn nhận cái ngày về nơi
cuối trời làm mây trôi đó một cách bình tĩnh, không sợ hãi, không ân hận. Cũng
tự nhiên như “lá úa trên cao rụng đầy”, cái việc “cho trăm năm vào chết một
ngày” được đón nhận bằng một thái độ bình thản “lòng không buồn mấy”, hệt như
một giấc mơ “tôi thấy tôi qua đời” [19] mà thôi.
Giải thoát khỏi nỗi sợ chết
bằng cách chuẩn bị trước cho mình một cái chết nhẹ nhàng, không thắc mắc gì cả,
“một cái chết như vậy cũng giống như cái sống” [20]. Để ý nghĩa sự sống vượt qua cột
mốc của cái chết, để một đời người nối dài tới cõi hư vô, còn có cách gì hơn
sống trọn vẹn cho hiện tại, sống với một tấm lòng. Đó chính là chữ tâm, chữ
tình mà Trịnh Công Sơn muốn gửi lại cho đời, muốn “trao đến muôn loài chút tình
tôi”[21].
Để đến với đời, trước hết
phải biết lắng nghe. Tôi không chỉ lắng nghe tôi, nghe buồn vui trong mình, mà
còn lặng nghe đất trời trở mình hú than, nghe tiếng muôn trùng, nghe im lặng
của đêm ngày, của tình người, nghe đời nhấp nhô, nghe đời mênh mông [22].
Lắng nghe, cảm nhận, để hóa
thân thành muôn loài: tôi đã biến mình thành lá cỏ hay nụ hồng, đốm lửa hay
ngọn đèn, thác đổ hay mưa tan, con chim hay đứa trẻ[23]. Khát vọng được hòa đồng, chia sẻ
với đời đã biến “em là tôi và tôi cũng là em” [24], đã cứu rỗi tôi trong cơn tuyệt
vọng. Dù cho thân phận là mong manh và sự sống là hữu hạn, tôi vẫn xin “tạ ơn
người, tạ ơn đời, tạ ơn ai” [25].
Cái tôi càng hay triết lý
sự đời trong những bài hát ở giai đoạn sau này. Những “lý sự” ấy vừa ngấm chất
thiền, vừa quẩn quanh trong nhiều cái tiến thoái lưỡng nan [26], vừa rất giản đơn sau nhiều cái ngộ
ra ở tuổi già, lại vừa mang nét ngộ nghĩnh bất ngờ của trẻ thơ.
Bao nhiêu năm rồi còn mãi
ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
(Một cõi đi về)
Biển sóng biển sóng đừng xô
tôi
Ta xô biển lại sóng về đâu
(Sóng đừng xô tôi)
Quê hương
Thực ra quê hương cũng vẫn
là thân phận và tình yêu, nhưng không của một người, mà mang tính bao quát hơn:
tình yêu cho nhiều người và thân phận của nhiều người - cho quê
hương và của quê hương.
Tình yêu quê hương chính là
tình yêu đồng loại, tình yêu thiên nhiên, đất trời. Không chỉ là người tình của
con người, Trịnh Công Sơn còn tự coi mình là một “người tình của thiên nhiên” [27].
Thiên nhiên gắn bó với từng
buồn vui đời người. Trong cô đơn, Trịnh Công Sơn đâu chỉ có gọi em, ông còn mê
mải gọi tên bốn mùa, gọi nắng, gọi mưa... Thiên nhiên bình đẳng với người trong
sự sống. Nắng hờn ghen, rồi nắng chết trên sông dài [28]. Đồi núi thắp nắng đứng ngóng, cứ
nghiêng nghiêng đợi chờ cho đến lúc người về để đồi núi reo ca [29]. Dòng sông chở hồn thương đau, chở
ngày hấp hối, rồi dòng sông cũng qua đời [30]. Ông đã nghe gió tự tình, gió thở
dài, đã thấy từng giọt sương nhỏ nhoi mà thu nổi vào mình hết cả mênh mông, đã
cảm được nỗi đau của bia đá, để hiểu rằng sỏi đá cũng cần có nhau[31].
Một hiện tượng thiên nhiên
được thầy phủ thủy Trịnh Công Sơn thổi vào nhiều hồn người nhất, đó là mưa.
Trong ca khúc Trịnh Công Sơn, mưa là một hình tượng sống, có màu sắc, có linh
hồn. Mưa rớt trong lòng người, đem cả lòng người ra “cô đơn dệt hè phố” rồi
“rưng rức khóc bên đường” [32]. Mưa thì thầm, lạnh lùng, lặng
lẽ..., chỉ thưa tựa áo trời, mà có khi lại mang sức mạnh hủy diệt để nhận chìm
cả ngàn năm trước và ngàn năm sau, khiến cho đất phải trở mình và đời hóa thành
biển động [33].
Mưa rơi, mưa bay, mưa ru
trong rất nhiều bài hát của Trịnh Công Sơn, vì mưa chính là một biểu tượng của
Huế. Cùng với những hình ảnh dòng sông, thành cổ, lăng miếu, khói
sương và những dáng gầy mong manh, mưa đã làm nên một không gian rất Huế, để
khỏi cần nhắc đến Huế dù chỉ một lần, mà người nghe vẫn nhận ra chất Huế mặn mà
trong Trịnh Công Sơn.
Trong những bài hát về
chiến tranh, hình ảnh quê hương bị mất hết vẻ lung linh thơ mộng. Quê hương đắm
chìm trong tiếng nổ: tiếng nổ nghe quen như câu dạo buồn, đại bác ru đêm thay
tiếng mẹ ru, người già co ro buồn nghe bom nổ, trẻ con quên lớn để từng đêm
nghe ngóng [34]... Quê
hương phủ một màu tang tóc: người con gái chưa từng hát ca dao một lần đã thành
kẻ mất trí lên đồi cao hát trên những xác người [35], người mẹ mê sảng hò ơ ru con, đứa
con đã ngủ vĩnh viễn trong tuổi đôi mươi.
Chiến tranh đem đến những
câu chuyện ngụ ngôn lạnh lùng về “Người chết hai lần” [36]. Cái chết tự nhiên của một kiếp
người không đáng sợ. Nhưng cái chết nhan nhản khắp mọi nơi trong chiến tranh
sao mà hãi hùng và oan nghiệt đến thế: chết vội vàng, chết vô tình, chết lạnh
lùng, chết nghẹn ngào, chết cong queo...[37].
Trong chiến tranh, tình yêu
quê hương, tình yêu con người càng sâu nặng, khát khao hòa bình càng cháy bỏng.
Từ trong đau thương mất mát, cái nhìn nhân bản của Trịnh Công Sơn đã vượt qua
tất cả, thời gian, khoảng cách, hận thù..., để thấy một ngày tương lai người
Việt gần nhau trong tiếng nói da vàng, cùng nhau đi khâu vá non sông, để mỗi
con người đều được yêu được sống trọn vẹn một vòng Sinh Tử [38].
Từ Bắc vô Nam nối liền nắm
tay
Ta đi vòng tay lớn mãi cho hết sơn hà...
(Nối vòng tay lớn)
Tình yêu
Bắt đầu sự nghiệp sáng tác
của mình bằng những tình khúc, Trịnh Công Sơn đã gặt hái nhiều thành công từ
những bài hát về những mối tình không thành công, gần như đơn phương của mình.
Như có lần ông đã thổ lộ: “Tôi chỉ có những mối tình lãng đãng, sương khói,
hoàn toàn không có gì cụ thể”. Yêu thầm một mái tóc, một dáng hình..., để khi
từng mối tình khói mây ấy “bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ” [39] thì cuối cùng ở lại chỉ còn
một nỗi đau rất thật.
Bởi vậy, hình tượng người
tình của Trịnh Công Sơn thật đẹp và buồn, thật mảnh mai và xanh xao: xanh mướt
hồng nhan, gầy yếu hư hao, mình hạc xương mai, nụ cười mong manh, mướt xanh như
ngọc [40]... Nếu
thiên nhiên luôn mang tình người, thì người tình luôn được đối chiếu với vạn
vật: đôi môi lửa cháy, mi cong cỏ mượt, tay xanh ngà ngọc, đôi vai lụa mát, da
thơm quả ngọt…Cứ thế, chân dung Em được vẽ bằng cả đất trời, bằng nắng gió mây
mưa...
Nắng có hồng bằng đôi môi
em
Mưa có buồn bằng đôi mắt em... |
...Gió sẽ mừng vì tóc em
bay
Cho mây hờn ngủ quên trên vai (Như cánh vạc bay) |
Đôi vai thon, gầy, ướt,
mềm... lại phải gánh cả không gian - “biển rộng hai vai”, cả thời gian - “chở
chiều trên vai”, “một ngày trên vai” [41]. Em đi vào đời người, tình người
bằng những gót nhỏ, gót hồng, bằng những bước chân âm thầm, mềm mại.
Khắc khoải với Tình
nhớ, Tình xa, Tình sầu, Trịnh Công Sơn đưa ra hàng loạt “định nghĩa”
về tình bằng những hình ảnh so sánh rất Trịnh Công Sơn, thực thực - ảo ảo: tình
vừa mong manh như nắng, lại có sức tàn phá như cơn bão đi qua địa cầu, tình lên
cao vút như chim xa lìa bầy, rồi lại chìm mau như bóng chim cuối đèo[48].
Tình yêu của Trịnh Công
Sơn, cũng giống như hình ảnh người con gái của lòng ông, đẹp và buồn. Một vẻ
đẹp mong manh, dễ vỡ và một nỗi buồn lặng lẽ, rất đỗi dịu dàng. Thêm một khía
cạnh nữa cho bức chân dung Tôi: rất chân thành, tận tụy và bao dung trong tình
yêu. Một người đã từng vài lần ru đời, vừa rơi lệ ru người vừa ngậm ngùi tự ru,
thì nhất định phải để dành nhiều lời ca nhất để ru tình, ru em [49]. Một người sẵn lòng làm tất cả để
được thấy em yêu đời. Ngay cả khi bị em phụ rẫy vẫn một mực “yêu em yêu thêm
tình phụ, yêu em lòng chợt từ bi bất ngờ” [50]. Dù em đã để lại một vết thương cho
riêng một người, thì người ấy vẫn cứ dịu dàng mà “xin cho bốn mùa đất trời lặng
gió, đường trần em đi hoa vàng mấy độ” [51].
Tấm lòng là một nét đẹp
trong tình ca Trịnh Công Sơn. Cái đẹp còn được tạo bởi một yếu tố khác: chất
thơ. Nếu trong chủ đề thân phận trĩu nặng tính triết lý, thì không đâu trong ca
khúc Trịnh Công Sơn lại đậm đặc chất thơ như trong chủ đề tình yêu.
Chất thơ đầy ắp trong cảnh,
trong tình. Nhờ con mắt thi sĩ - họa sĩ, Trịnh Công Sơn đã nắm bắt được những
gam màu lạ lùng: màu mắt em “lung linh nắng thủy tinh vàng” và màu áo trắng
“trong như ánh sao băng”[52], màu “chiều tím loang vỉa hè” và
“vàng chiều ngơ ngác giăng lên nhịp cầu” [53]. Ông đã thấy “chiều đã đi vào vườn
mắt em... ngàn cây thắp nến lên hai hàng” [54], thấy em “chở chiều trên vai, ngậm
buồn trên môi” và thấy người phu quét lá bên đường đã quét cả nắng vàng mùa
thu, quét cả gió nồm mùa đông, quét cả nắng hồng mùa hạ để góp lá cho mùa xuân [55].
Trịnh Công Sơn tả tình, tả
tâm trạng với cách riêng. Dân gian có “quen hơi bén tiếng”, Trịnh Công Sơn viết
“thương áo quen hơi”, để lúc rời nhau “hồn mình như vá khâu” [56]. Ví tình như chiếc áo rồi, thì ngại
gì mà không đem “treo tình trên chiếc đinh không, phơi tình cho nắng khô mau” [57]. Chẳng những “lòng ta trăm
con hạc gầy vút bay”, mà cả nụ cười cũng “vội cất cánh bay” luôn [58].
Cách dùng từ, ghép từ độc
đáo đã biến cái thực thành không thực, và ngược lại, cái trừu tượng, cái không
thể sờ nắm được lại có cơ hội hiện hữu bằng chất liệu thật - thật mà thơ. Nắng
trở nên lung linh, lấp lánh hơn khi được nương nhờ vào vật chất để thành “nắng
thủy tinh”. Cách nói thông thường, kiểu như: sống quá nửa đời người, rõ ràng
không ấn tượng bằng biến đời thành đá để có thể diễn tả như Trịnh Công Sơn: “Ta
lăn đời đã quá” [59].
Không biết có phải vì muốn
phá vỡ tính cân bằng, đối xứng, vì luôn cảm nhận được sự chông chênh trong
lòng, bấp bênh trong đời và bất định trong tình, nên ông thích xoay nghiêng
nhiều thứ: nghiêng tay, nghiêng vai, nghiêng đầu, nghiêng sầu, nghiêng tình...
rồi hỏi: “Này nhân gian có nghe đời nghiêng?” [60].
Sức tưởng tượng bay bổng
được kết hợp với tính linh hoạt trong cách sử dụng ngôn từ đã làm cho lời ca
của Trịnh Công Sơn “chẳng giống ai”, đẹp, lạ, và đôi khi ngữ nghĩa cứ chờn vờn,
không dễ nắm bắt. Vẻ mơ hồ, trừu tượng ấy góp phần không nhỏ làm nên nét độc
đáo trong lời ca của ông. Ông đưa ra nhiều cụm từ thật ấn tượng, kiểu như: vết
lăn trầm, vòng tiều tụy, bờ mộng mị, vùng ăn năn… Đôi chỗ tính từ đại diện luôn
cho danh từ vắng mặt, càng tăng thêm vẻ bí ẩn, “vô thường” cho đối tượng được
ám chỉ: yêu dấu tan theo, nghe những tàn phai, ôm lấy mịt mùng, cười với âm u [61]. Sự bí ẩn còn tạo bởi cách diễn đạt
cầu kỳ: “Xin vỗ tay cho đều, môi người thôi những âm ba” [62], và những hình ảnh “kinh dị”: loài
sâu ngủ quên trong tóc chiều, rồi lại hát lên khúc ca cuối cùng trong vùng u
tối nào đó, đến nửa đêm thì quên hết ưu phiền “để người về hát đêm hồng địa
đàng còn in dấu chân quên” [63].
Sự bí ẩn nhiều khi chỉ để
cảm nhận, chứ không thể, hay không cần giải mã cụ thể, cặn kẽ. Dù không phải
tất cả lời ca đều dễ hiểu với bất cứ ai, vậy mà người ta vẫn cứ nghe, vẫn cứ
cảm, vẫn mê say ca khúc Trịnh Công Sơn. Với ông, thế là đủ, bởi điều quan trọng
nhất trong nghệ thuật là “làm thế nào để mở ra một con đường ngắn nhất đi từ
trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần cắt nghĩa gì thêm” [64].
Người nghe thường nói nhạc
và thơ của Trịnh Công Sơn “quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là
chính, cái nào là phụ” [65], lời ấy nhất định phải đi với nhạc
ấy, chứ khó mà hình dung nổi nó lại được hát lên bằng một giai điệu nào khác.
Còn Trịnh Công Sơn từng nói: “Ca khúc là một cuộc hôn phối kỳ diệu giữa thi ca
và âm nhạc” [66]. Lời ca của
ông đã kết duyên với những giai điệu đẹp mà đơn giản, dễ thuộc và dễ trình bày,
chỉ cần một cây đàn guitar thùng đệm theo. Có lẽ không còn phong cách giai điệu
nào thích hợp hơn thế cho những bài thơ - ca từ tự sự, tâm tình của ông. Nhiều
giọng ca đẹp đã hát Trịnh Công Sơn, nhưng nhiều người vẫn cho rằng chẳng ai hát
nhạc Trịnh hay bằng chính ông tự hát. Cũng dễ hiểu, bởi ca khúc của ông để bày
tỏ hơn là để khoe giọng, mà chưa ai thấu hiểu lời ca đầy thân phận để hát tự
đáy lòng như ông. Sẽ chẳng quá nếu nói rằng lời ca vừa “thiền” vừa thơ đã góp
phần quyết định để làm nên một tên tuổi Trịnh Công Sơn.
Bằng lời ca độc đáo, đầy
chất thơ và tính nhân bản, bằng nét nhạc trữ tình mềm mại, không cầu kỳ, vừa
gần gũi với tai người Việt, vừa có cái duyên riêng, ca khúc Trịnh Công Sơn rất
dễ thấm đọng vào lòng người. Người nghe không chỉ thưởng thức, mà đôi khi còn
cảm thấy như chính lòng mình đang được hát lên, và những cảm xúc trong cõi
riêng của mình đang được giãi bày... Trịnh Công Sơn đã và sẽ nói hộ cho nhiều
người, nhiều thế hệ. Đúng như linh cảm của ông: “Tôi mất đi, nhưng tiếng hát
còn ở lại. Ở lại như một chứng tích vừa buồn bã vừa huy hoàng của một cõi
người”, và “đó là một cuộc rong chơi ngậm ngùi của hữu hạn muốn chộp bắt cái vô
hạn làm món quà thế chấp cho đời mình” [67].
[1]Trịnh Công Sơn: lời tựa trong tập ca khúc Bên
đời hiu quạnh. Hội Âm nhạc TP. HCM, 1993.
[2] Ngày nay không còn bé, Ru ta ngậm
ngùi.
[3] Hành hương trên đồi cao, Một ngày
như mọi ngày, Đêm thấy ta là thác đổ, Ru ta ngậm ngùi, Lời buồn thánh.
[4] Trịnh Công Sơn: Để bắt đầu
một hồi ức. Thế giới âm nhạc, 1/1997.
[5] Vừa dẫn.
[6] Trịnh Công Sơn (trả lời phỏng vấn của
Văn Cầm Hải): Kiếp sau tôi vẫn là người nghệ sĩ. Sách: Trịnh Công
Sơn, một người thơ ca, một cõi đi về. NXB Âm nhạc và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ
Đông Tây, 2001.
[7] Vừa dẫn.
[8] Hoàng Phủ Ngọc Tường: Hạt bụi và tia
sáng. Sách Trịnh Công Sơn, một người thơ ca, một cõi đi về. NXB Âm nhạc và
Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2001.
[9] Như tiếng thở dài, Nghe tiếng muôn
trùng.
[10] Cát bụi, Lời mẹ ru, Gọi tên bốn
mùa.
[11] Phôi pha, Cát bụi, Có một ngày
như thế.
[12] Chiếc lá thu phai, Có một dòng
sông đã qua đời.
[13] Tình nhớ.
[14] Tưởng rằng đã quên, Một
ngày như mọi ngày.
[15] Phúc âm buồn.
[16] Trịnh Công Sơn (trả lời phỏng vấn
của Văn Cầm Hải): đã dẫn.
[17] Gần như niềm tuyệt vọng.
[18] Rơi lệ ru người.
[19] Cát bụi, Bên đời quạnh hiu.
[20] Trịnh Công Sơn (trả lời phỏng vấn
của Văn Cầm Hải): đã dẫn.
[21] Như tiếng thở dài.
[22] Tình xa, Nguyệt ca, Hôm nay tôi
nghe, Nhìn những mùa thu đi, Còn có bao ngày, Nghe tiếng muôn trùng, Tôi đang
nghe.
[23] Đêm thấy ta là thác đổ, Tự tình
khúc, Biết đâu cội nguồn, Như con chim ưu phiền...
[24] Tôi ơi đừng tuyệt vọng.
[25] Tạ ơn.
[26] Tiến thoát lưỡng nan.
[27] Trịnh Công Sơn: Nhạc và đời. NXB
Tổng hợp Hậu Giang, 1989.
[28] Như cánh vạc bay, Hạ trắng.
[29] Em hãy ngủ đi, Biển nhớ, Người về
bỗng nhớ.
[30] Vàng phai trước ngõ, Em đi trong
chiều, Có một dòng sông qua đời.
[31]Nghe tiếng muôn trùng, Bốn mùa thay lá,
Diễm xưa.
[32]Những giọt mưa khuya.
[33]Chìm dưới cơn mưa, Nghe tiếng muôn
trùng, Diễm xưa.
[34]Đại bác ru đêm, Người già em bé.
[35]Người con gái Việt Nam da vàng,
[36] Ngụ ngôn mùa đông.
[37] Tình ca người mất trí.
[38] Đi tìm quê hương, Tình ca người
mất trí.
[39] Tình nhớ.
[40] Góp lá mùa xuân, Ru em, Đóa hoa
vô thường, Hoa xuân ca.
[41] Lặng lẽ nơi này, Em đi trong
chiều, Tình xót xa vừa.
[42] Yêu dấu tàn theo, Ru em từng ngón
xuân nồng.
[43] Gần như niềm tuyệt vọng.
[44] Nắng thủy tinh, Nhìn những mùa
thu đi, Biển nhớ.
[45] Ru em từng ngón xuân nồng, Tưởng
rằng đã quên.
[46] Tưởng
rằng đã quên.
[47] Con mắt còn lại.
[48] Tình sầu, Tình nhớ.
[49] Ru đời đã mất, Ru đời đi nhé, Rơi
lệ ru người, Ru ta ngậm ngùi, Ru tình, Ru em, Ru em từng ngón xuân nồng, Tôi ru
em ngủ.
[50] Ru em.
[51] Hoa
vàng mấy độ.
[52] Nắng thủy tinh, Thương một
người.
[53] Nhìn
những mùa thu đi, Bến sông.
[54] Em còn nhớ hay em đã quên,
Nắng thủy tinh.
[55] Em đi trong chiều, Góp lá mù
xuân.
[56] Tình sầu.
[57] Tình xót xa vừa.
[58] Hãy cứ vui như mọi ngày, Một lần
thoáng có.
[59] Tình xót xa vừa.
[60] Có nghe đời nghiêng.
[61] Yêu dấu tan theo, Nghe những tàn
phai, Tình xót xa vừa, Những con măt trần gian.
[62] Xin vỗ tay cho đều.
[63] Dấu chân địa đàng.
[64] Trịnh Công Sơn (trả lời phỏng vấn
của Văn Cầm Hải): đã dẫn.
[65] Văn Cao: Lời bạt cho Tuyển tập Những
bài ca không năm tháng. NXB Âm nhạc, 1995.
[66] Trịnh Công Sơn.
[67] Trịnh Công Sơn: Tình yêu và tiếng
hát. Thế giới âm nhạc, 1966.
Ý kiến bạn
đọc
Đây không phải là một bài
báo bình thường hay một tản văn gợi nhớ một thoáng nào đó về TCS mà là một
bài luận bàn nghiêm túc (2001). Những ai hâm mộ dòng nhạc TCS đều nhận
thấy tác giả nói đủ nói gần như hết những điều cần nói về TCS rồi.
Tôi là một người thích nghe
nhạc Trịnh. Nốt nhạc đơn giản dễ nhớ, ca từ cũng đơn giản, nhưng hai thứ pha
lẫn vào nhau không tách rời được, tạo thành ca khúc mượt mà, dễ đi vào lòng
người. Ca khúc của TCS hát cùng mọi người cũng được, nghe người khác hát cũng
được và tự mình lẩm nhẩm hát cũng được. Trong cái Ta chung của nhân quần bỗng
dưng có cái Tôi của lòng mình và tự trong cái Tôi riêng rẽ có cái gì đó khái
quát chung của tổng thể. Nhạc của TCS có cái buồn riêng man mát, giãi lòng
nhưng không quá là rên rỉ ủy mị. Nếu là một ca khúc vui, thì nét nhạc rộn ràng,
náo nức nhưng không lên bậc thái quá.
Người Việt Nam nhiều thế hệ đều thích, hâm mộ nhạc TCS. Hầu như không ít thì
nhiều mỗi người đều biết, thuộc nhạc TCS. Công lao của TCS với nền âm nhạc VN
là vô cùng to lớn. Âm nhạc của ông là liều thuốc tinh thần cho nhiều người,
trong đó có tôi.
Chỉ tiếc là dù lúc còn sống
hay cho đến lúc này nhạc sĩ TCS không hề được một tổ chức của Nhà nước VN vinh
danh trao một cái giải thưởng chính thức gì cả. Điều này thì quả là tôi không
hiểu.
MĐ cũng yêu nhạc Trịnh,
cũng hay nghe, và thậm chí rất hay hát nhạc Trịnh...đơn giản vì cảm thấy những
ca khúc ông viết không những chỉ có giai diệu đẹp, mà cả ca từ cũng rất hay
nữa...
MĐ nhớ đâu đó đã viết về ca
từ trong những ca khúc của ông và rất tâm đắc:
Lời ca trong ca khúc TCS đã
tạo ra tên tuổi TCS. Lời ở đây là truỵện, là thơ, là hình ảnh siêu thực, nét
chấm phá, những hoa gấm cho nhạc và có những giây lát, lời đã đươci chuyển
thành kinh. kinh là những lời nguyện nhằm chuyển hóa thực tại, cầu kinh có cái
sức mạnh của đức tin, hi vọng, nó nâng cao con người lên, kéo con người ra khỏi
thân phận mình...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét