Lời mai đây cao ngút Trường Sơn - Nhạc Phạm
Duy
I. TÌM NHAU
Bụt là
người. Và vì vậy cho nên một người có thể trở thành Bụt. Đây là điều rất là
quan trọng. Bài Tìm Nhau này nói về việc chúng ta đi tìm chúng ta. Và nếu chúng
ta tìm được chúng ta, chúng ta biết chúng ta là ai rồi thì chúng ta cũng tìm ra
được Bụt. Đây là một bài thiền quán.
Con đã tìm ra Thế Tôn
Con đã tìm ra con
Khi mình
tìm ra được mình thì đồng thời mình tìm ra được Thế Tôn. Trong cuộc sống bận
rộn có thể mình không có thì giờ để đi tìm, để biết mình là ai. Nếu mình chưa
tìm được mình thì làm sao mình tìm được Bụt?. Đây là một sự thực tập thiền quán.
II. BẾP LỬA HỒNG
Kính thưa đại chúng hôm nay là ngày ba mươi Tết (thật ra là hăm
chín Tết do năm nay không có ba mươi). Bây giờ là 15h30’ chiều (giờ nước Pháp).
Chỉ 2h30’ nữa Việt Nam đón giao thừa. Buổi bình thơ này là một buổi thực tập
cho chúng ta có cơ hội nhìn trở lại. Có thể là trong năm chúng ta bận rộn. Và
chúng ta không có thì giờ để nhìn lại chính chúng ta và cách sống của chúng ta.
Giờ cuối năm là giờ linh thiêng. Chúng ta cần phải buông bỏ hết. Ngồi yên để
nhìn lại, để chúng ta có một cơ hội sẽ làm hay hơn trong năm tới. Đề tài của
chiều hôm nay là Bếp Lửa Hồng.
Bếp Lửa
Hồng tượng trưng cho sự đoàn tụ, cho sự ấm áp, cho tình thương, cho hạnh phúc.
Bếp lửa đó nằm ở đâu? Nó nằm ở đây (Pháp) hay ở bên nhà (Việt Nam)? Có những
người trong chúng ta thật sự không có một bếp lửa. Nghĩ tới nhà thì chúng ta
không có hạnh phúc. Tại vì chúng ta không có một bếp lửa hồng. Chúng ta chưa
thật sự có một bếp lửa. Có thể trong gia đình còn có đủ mẹ cha và anh chị.
Nhưng mà liệu tối hôm nay mọi người có nhìn mặt nhau được hay không, có nói
chuyện với nhau được hay không? Có đủ tình thương không? Có đủ hạnh phúc không?
Bếp lửa là một hình ảnh rất là thân quen. Chúng ta ai nấy đều mong
muốn có một bếp lửa hồng, có một cái tổ ấm. Chính người xuất gia cũng vậy.
Chúng ta cũng mong muốn có một chỗ ấm áp, ngồi chung với nhau trong tình huynh
đệ. Huống hồ những người ở ngoài đời cuộc sống bận rộn, đi ngang qua bao khổ
đau thì họ rất mong ước có một chỗ quay về để có thể cảm thấy ấm áp và hạnh
phúc. Chúng ta đã hiểu rằng, chúng ta đã biết rằng nếu không có hiểu nhau thì
chúng ta không thể thương nhau, chấp nhận nhau được. Mà trong đạo Bụt, Đức Thế
Tôn dạy rất rõ. Nếu mình không hiểu được mình và thương được mình thì mình
không thể hiểu được và thương được người khác, dù người đó là bố của mình, mẹ
của mình hay là anh chị em của mình hay là người đồng bào của mình. Vì vậy cho
nên từ Hiểu và từ Thương rất quan trọng.
Chất lửa
phải từ trong trái tim đi ra. Đạo Bụt dạy chúng ta làm ra lửa, làm ra tình
thương, làm ra sự hiểu biết. Và khi chúng ta học giáo lý đạo Bụt thì chúng ta
có thể chế tác được lửa, ngọn lửa ở trong trái tim của chúng ta. Đó là ngọn lửa
của thương yêu, của hạnh phúc. Và nếu chúng ta có ngọn lửa đó rồi thì chúng ta
mới châm cho trái tim của những người khác.
Gánh nước đêm ba mươi Đối với
văn hoá Việt Nam, hình ảnh ngọn lửa đi đôi với hình ảnh của gánh nước. Gánh
nước đêm ba mươi. Có nhiều địa phương ở Việt Nam, đêm ba mươi gánh nước là một
nghi lễ. Dù cho mấy cái chum, cái lu trong nhà đầy rồi thì mình vẫn phải đi
gánh nước ở giếng như thường. Và đêm ba mươi người ta gặp nhau ngoài giếng,
gánh một gánh cuối cùng và người ta kể chuyện cho nhau nghe. Người ta nói hy
vọng của nhau đối với năm mới sắp tới. Do đó gánh nước đêm ba mươi trở thành
một đề tài thi ca. Nếu chúng ta sinh ra trong thời đại mới này thì chúng ta nên
biết là ở trong nhà ngày xưa có người em gái, người mẹ đi ra giếng gánh cho đầy
chum, đầy lu, đầy vại. Đó là chuyện phải làm trong ngày Tết. Cũng như Tây
Phương người ta đổ xăng, đổ dầu cho đầy. Lu nước, chum nước tượng trưng cho
những tiện nghi về vật chất. Nếu trong nhà đầy nước thì có nghĩa là chúng ta có
nhà ở, có cơm ăn, có áo mặc, chúng ta có lương bổng đàng hoàng. Chúng ta có
ruộng vườn, trâu bò, ao cá. Vì vậy tối ba mươi thế nào cũng phải có những chum
nước đầy, vại nước đầy. Điều này người nào làm cũng được. Không cần phải là
người giàu. Bất cứ người nào dù nghèo cách mấy cũng có thể lấy thùng đi gánh
một đôi nước về. Đó là điều bình đẳng. Và giếng trong làng đóng vai một vị Đại
Bồ Tát cung cấp nước cho tất cả dân ở trong làng mà không hề kỳ thị. Người giàu
cũng nước đó. Người nghèo cũng nước đó.
Người già cũng nước đó. Người trẻ cũng nước đó. Người sang cũng nước đó và người hèn cũng nước đó. Vậy nên nhìn vào cái giếng chúng ta có thể thấy đó là một vị Bồ Tát không kỳ thị, không phân biệt, là một nguồn sống, nguồn hạnh phúc cho cả làng.
Người già cũng nước đó. Người trẻ cũng nước đó. Người sang cũng nước đó và người hèn cũng nước đó. Vậy nên nhìn vào cái giếng chúng ta có thể thấy đó là một vị Bồ Tát không kỳ thị, không phân biệt, là một nguồn sống, nguồn hạnh phúc cho cả làng.
Thi sĩ
Nguyễn Nhã Tiên có viết bài thơ Khúc Quê nói về chuyện đi gánh nước đêm 30. Có
thể là chúng ta chưa từng thấy, chưa từng nghe, chưa từng làm. Nhưng chúng ta
phải biết được chuyện ngày xưa cha ông của chúng ta ăn Tết như thế nào. Và lệ
đi gánh nước đêm ba mươi là một nghi lễ. Dầu cho nước trong nhà đã đầy rồi thì
vẫn phải đi gánh như thường. Nó có nghĩa là mối quan tâm hàng đầu của mình là
làm thế nào để có được điều kiện vật chất đầy đủ để mà sống. Đó là mối quan tâm
đầu tiên của con người.
Khúc quê
Đập vỡ thời gian hoa lửa rơi rơi
Mọi ẩn nấp xô bật tường rêu nhú lời cỏ biếc
Bấc se se ngập ngừng ngoài sân đợi tết
Nước tràn mái , tràn thùng, em gánh tiếp niềm tin
Giếng ngời ngời gương mặt của đêm đêm cháy sáng
Đêm giũ mình bóng tối
Những cát bụi không còn nơi ẩn trốn
Hạnh phúc từ ngực người nhuộm thắm cỏ hoa
Cả ngàn nhà, nước từ giếng chia ra
Cười nói dội vang vang hồi âm của đất
Có một thiên đường đêm ba mươi rất thật
Trừ tịch chia đều mọi ngõ trầm hương
Khói bay trong nhà, khói bay hàng hiên về em nhé
Giao thừa đang điểm
Có một tiếng gàu bỏ quên ngoài giếng
Chạm vào tôi ngân mãi khúc quê mùa !
Mối quan
tâm thứ hai là làm sao để có một Bếp lửa hồng. Nghĩa là phải có tình thương,
phải có niềm tin, phải có hạnh phúc. Và cái bếp lửa hồng này từ đâu mà có? Ai
cung cấp cho mình sức nóng đó? Ai cung cấp cho mình ngọn lửa đó? Làm thế nào để
thắp lên ngọn lửa trong trái tim? Làm thế nào để thắp trái tim của mình lên?
“Thắp tim
lên” là cách dùng từ của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ.
Ai là
người sẽ thắp trái tim của mình lên?
Ai là
người giúp cho mình hiểu, mình thương để mình có thể hiểu và thương người khác?
Đó là ngôi
chùa ở trong làng.
Ngôi nhà, trung tâm thực tập là nơi người ta tinh luyện, tu tập để
người ta chế tác ra cái hiểu và cái thương. Những khoá tu của chúng
ta ở Làng Mai đã được tổ chức ở khắp Âu châu, Mỹ châu và các châu khác. Những
khoá tu đó đem lại rất nhiều niềm tin cho người ta về tương lai. Có nhiều người
khi mới tới với khoá tu họ rất là đau khổ. Họ có nhiều tuyệt vọng, chia rẽ, hận
thù, kỳ thị. Họ không có đủ chất liệu thương yêu và tin cậy. Nhưng mà sau một
khoá tu năm ngày, bảy ngày thì tự nhiên họ thấy có sự chuyển hoá. Và họ mỉm
cười được. Mắt họ sáng lên. Như vậy chúng ta - những người tổ chức khoá tu,
hướng dẫn tu học - chúng ta đã châm (mồi) lửa vào trong trái tim của họ để cho
họ đem về nhà. Vì vậy cho nên trung tâm tu tập là một vị Bồ Tát.
Nếu mình
được tham dự vào chuyện giữ bếp lửa hồng đó thì mình là người có hạnh phúc.
Mình giữ bếp lửa hồng đó không phải cho chính mình mà thôi. Mình giữ cho dân cả
xóm, cả tỉnh, cả nước. Do đó việc có cơ duyên tới với nhau, sống chung trong
tình huynh đệ làm nên một bếp lửa hồng để mình có dư lửa cho chính mình, để có
dư lửa phân phát cho người chung quanh là hạnh phúc của những người tu.
Trước khi
Thầy nói tiếp thì chắc có lẽ mình nên hát chung với nhau bài Vui Bếp Lửa Hồng.
Tại vì đó là chủ đề của buổi sinh hoạt tối nay. Bài này lời và nhạc của Xuân
Tiên. Và quý thầy Xóm Thượng thêm một vài lời.
III. VIỆT NAM! VIỆT NAM!
Chúng ta
vừa nói tới những quan tâm thường nhật. Làm sao để có được những điều kiện vật
chất như là công ăn việc làm, lương bổng, nhà cửa và những tiện nghi tình cảm.
Làm sao để có một cuộc sống lứa đôi, một cuộc sống gia đình có hạnh phúc. Nhưng
nếu chúng ta có thì giờ để quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy rằng ngoài những mối
quan tâm thường nhật, cái "daily concerns". Mỗi người trong chúng ta
còn có một mối quan tâm khác, mối quan tâm tối hậu, cái "ultimate
concern". Chúng ta muốn vươn lên một cái gì cao hơn cuộc sống thường ngày.
Nhưng mà
nghĩ cho cùng thì chúng ta thấy rằng có những nước ở Tây phương họ có dân chủ,
họ có tự do nhưng mà họ cũng còn nhiều đau khổ lắm. Trong nước họ có nhiều đảng
phái và các đảng phái được tự do hoạt động. Họ có tự do thật, họ có dân chủ
thật nhưng khổ đau trong xứ họ cũng rất là nhiều. Đó là hạnh phúc chân thật, là tình
thương. Mà tình thương là cái mà chúng ta phải chế tác.
Hôm nhạc sĩ Phạm Duy qua đời… Nhạc sĩ Phạm Duy là một nhạc sĩ lớn
của nền Tân Nhạc Việt Nam. Giữa ông và Thầy có một mối giao tình khá mật thiết.
Hôm đó Thầy nhờ nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, một người chuyên môn nghiên cứu
về Huế gọi là Huế học. Những ngày chót của nhạc sĩ Phạm Duy thì Nguyễn Đắc Xuân
đã ở bên giường bệnh và tiễn Phạm Duy vào những phút giây cuối cùng. Khi Phạm
Duy tịch rồi thì Nguyễn Đắc Xuân có gửi thư cho thầy và nói rằng “Phạm Duy đã
rời cõi tạm để đi tới cõi vĩnh hằng”. Ý nói là cõi mình đang sống đây chỉ là
cõi tạm. Và trong cuộc sống này có 100 năm thì mình phải biết đầu tư cho cái
cõi vĩnh hằng. Chia ra hai cõi. Một cõi gọi là cõi Tạm. Và một cõi gọi là Vĩnh
Hằng. Trong dân gian người ta cũng nói “sống gửi thác về”. Nó có một nghĩa
tương đương như vậy. Sống là gửi tạm ở đây thôi. Còn thác là về chỗ đó, chỗ
vĩnh hằng. Thầy có gửi cho Nguyễn Đắc Xuân một câu thư pháp để đưa vào cho gia
đình Phạm Duy. Câu của Thầy viết là “lời
mai đây cao ngút Trường Sơn”. Đó là chữ của Phạm Duy.
Vào năm 1964, khi Thầy gặp Phạm Duy nói chuyện thì anh có tiết lộ
cho Thầy biết là anh đang có mơ ước làm một trường ca gọi là Trường Ca Trường Sơn. Phạm Duy
rất là nổi tiếng về Trường Ca Con Đường Cái Quan và Trường Ca Mẹ Việt Nam. Hai
Trường Ca đó chưa được phép hát tại Việt Nam. Trường Ca Con Đường Cái Quan nói
về con đường xuyên Việt từ Bắc vào Nam, con đường lập quốc, nối liền 3 miền với
nhau. Trong đó có biểu lộ niềm mong ước đất nước được thống nhất. Rồi khi Phạm
Duy sáng tác Trường Ca Mẹ Việt Nam thì có Đất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ và Biển Mẹ.
Trong thời gian sáng tác thì đất nước còn chia đôi. Con sông Bến Hải chia đôi
đất nước làm 2 miền. Trong Trường Ca Mẹ Việt Nam, khúc nói về những con sông
chia rẽ buồn lắm. Cùng một mẹ mà chia rẽ ra làm hai. Phạm Duy còn tiết lộ sau
Trường Ca Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam thì anh sẽ sáng tác một trường ca thứ
ba gọi là Trường Ca Trường Sơn.
Con Đường Cái Quan thì anh nói nhạc đó là nhạc hiện thực, tả
chân, tả thực. Nốt nhạc có nhiều dấu thăng. Đến Mẹ Việt Nam thì nhạc có tính
cách biểu tượng, tượng trưng. Và trong đó có nhiều nốt giáng. Và khi anh sáng
tác Trường Sơn thì nhạc ngụ ngôn, ví dụ. Và nó sẽ có những dấu không có theo
tiết tấu thông thường, nó tự do. Phạm Duy có chia sẻ là Trường Ca Trường Sơn sẽ
nói về chiều cao tâm linh của đất nước. Tại vì chúng ta đã có những người cha,
người anh vươn lên rất cao trên đỉnh tâm linh. Chúng ta không phải chỉ khám phá
và thực hiện được những gì ta ước mơ trong đời sống hằng ngày là những tiện
nghi vật chất, tiện nghi tình cảm mà chúng ta đã khám phá được chiều sâu, chiều
cao tâm linh. Vào đời Lê, đời Lý, đời Trần, chúng ta đã vươn lên rất cao. Nhờ
có đạo Bụt mà chúng ta đã đi tới một đời sống tâm linh rất là cao. Cho đến nỗi
một ông vua đã đi xuất gia trở thành một vị xuất sĩ. Chúng ta đã có những người
cha, người anh vươn tới được như vậy. Tuệ Trung Thượng Sĩ là một người cư sĩ
nhưng đã trở thành thiền sư. Và các vua Trần Thái Tông, Trần Anh Tông, Trần
Nhân Tông đều là những người có ngồi thiền, có tu học và sáng tác. Mẹ Việt Nam
là nói về những người mẹ. Và Trường Sơn là nói về những người cha. Phạm Duy nói
rất rõ là “có lẽ tôi sẽ bắt
đầu bằng hình ảnh của một người đang đi từng bước. Đang đi thì tự dưng dừng lại
vì thấy dưới chân có một con giun, con trùng. Và nếu mình bước lên thì sẽ dẫm
chết con giun, con trùng đó.”
Nếu bắt
đầu ngay đoạn đó thì chúng ta biết là từ bi, từ bi không những với loài người
mà còn đối với những loài cỏ cây, đất đá và cầm thú. Tâm linh là như vậy. Chúng
ta biết đạo Bụt là một đạo chuyên về tình thương, bất bạo động. Chiều hôm nay
chúng ta nói về chuyện tâm linh, chuyện đạo đức của nhạc Phạm Duy. Vào những
năm 1960, chính xác là 64-65, những hạt giống đạo đức, những hạt giống tâm linh
của Phạm Duy được tưới tẩm rất nhiều. Cho nên Phạm Duy đã sáng tác được những
bài nhạc thấm nhuần tinh thần tâm linh, đạo đức. Trong đó có 10 bài Tâm Ca.
Cuộc vận động của đạo Bụt đã khôi phục lại quyền làm người trong những năm
1963-1964 và đã gây cảm hứng rất lớn cho nhiều văn nghệ sĩ. Ngọn lửa tự thiêu
của Hoà thượng Quảng Đức đã đi vào trong Trường Ca Mẹ Việt Nam. Trong bài Chung
Khúc của Trường Ca Mẹ Việt Nam. Chúng ta hát như thế này:
Việt Nam, Việt Nam, nghe tự vào đời
Việt Nam hai câu nói bên vành nôi
Việt Nam nước tôi.
Việt Nam, Việt Nam, tên gọi là người
Đây là
những câu chứng tỏ là Phạm Duy muốn đi, Phạm Duy muốn đất nước đi trên con
đường của tình thương hơn là con đường của gươm giáo và hận thù.
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Tức là hoà giải với nhau. Bỏ gươm xuống để tới với nhau.
Việt Nam trên đường tương lai
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Phạm Duy
có nói rất rõ. Lửa thiêng đây là ngọn lửa của Hoà thượng Quảng Đức đem từ bi
xoá bỏ hận thù. Trên con đường xây dựng tương lai thì Việt Nam đóng góp cho thế
giới bằng ngọn lửa thiêng đó. Không có làm khổ người. Lấy thân làm đuốc. Lấy từ
bi để làm khí giới.
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Ngọn lửa
của Hoà thượng Quảng Đức không chỉ soi sáng cho đất nước Việt Nam, cho con
người Việt Nam mà là cho tất cả thế giới.
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tức là
không chỉ tranh đấu cho đất nước riêng của mình mà là tranh đấu cho cả nhân
loại. Và con đường tranh đấu là con đường bất bạo động, con đường tình thương.
Chứ không phải là con đường gươm giáo.
Tình yêu đây là khí giới.
Tình thương đem về muôn nơi
Rất là rõ
ràng. Khí giới của mình là tình thương và mình muốn khắp nơi trên thế giới đều
được thừa hưởng tình thương đó.
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người.
Tức là
tình người, tình anh chị em là mục đích, là chí hướng của Việt Nam. Việt Nam
không phải chỉ để cho Việt Nam mà thôi. Việt Nam phải phụng sự thế giới, phụng
sự theo con đường bất bạo động, tâm linh và tình thương. Có rất nhiều người ở
Việt Nam muốn dùng bài này để làm Quốc Ca nhưng mà chuyện đó chắc phải chờ đợi.
Bài Quốc Ca cũ thì có xương, có máu quá nhiều. Bài này thì không đòi xương máu
mà chỉ kêu gọi thương yêu mà thôi. Nếu mà tuổi trẻ muốn thì nội trong vòng ba
mươi năm thì có thể có được bài này.
Các thầy,
các sư cô có thể hát bài này được không? Mấy anh chị sinh viên có nhớ, có biết
bài này hay không?
IV. TÂM CA
Năm 1964,
Thầy thành lập trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội (TNPSXH). Và từ đó các
thầy trẻ, các sư cô trẻ, những người thanh niên Phật tử đã đi vào nông thôn để
giúp cải thiện đời sống miền quê. Đó là những chiến sĩ hoà bình. Thầy cũng
thành lập Viện Đại Học Vạn Hạnh và mời thầy Minh Châu về làm Viện Trưởng.
Trường TNPSXH thường tổ chức những buổi nói chuyện của văn nghệ sĩ. Và Phạm Duy
được mời tới rất là thường. Phạm Duy đã sáng tác Mười bài Tâm Ca trong thời
điểm này. Bài Tâm Ca đầu là Tôi Ước Mơ. Đó là một bài thơ của Thầy Nhất Hạnh và
Phạm Duy phổ nhạc. Bài đó rất đơn sơ. Khi đó chiến tranh đang tiếp diễn khốc
liệt và trong nước không ai dám mở miệng ra nói hoà bình hết. Thì bài này là
bài thơ đầu tiên dám nói về hoà bình.
Sáng nay vừa thức dậy
Nghe tin em gục ngã
Nơi chiến trường
Nhưng trong khu vườn tôi, vô tình
Khóm tường vi vẫn nở thêm một đóa
Em mình
chết ngoài chiến trường nhưng mà cây tường vi vẫn nở thêm một đoá.
Tôi vẫn sống, vẫn ăn và vẫn thở
Nhưng đến bao giờ mới được nói thẳng điều tôi ước mơ ?
Đầu đề
bài thơ là Hoà Bình. Phạm Duy có can đảm đặt nhạc bài đó. Tiếp theo là 9 bài
khác. Và trong 9 bài, bài nào cũng có ước vọng về hoà bình, có ước vọng nuôi
lớn tình thương, đem từ bi để xoá bỏ hận thù.
Bài Tiếng
Hát To thì Phạm Duy có nói là tôi muốn tiếng hát của tôi nó át được tiếng súng.
Tiếng hát này là tiếng hát của tình thương. Đây là tâm ca thứ hai sau bài Tôi
Ước Mơ – Hoà Bình.
Tôi sẽ hát to hơn súng nổ bên bờ ruộng già
Lời tôi ca, lời tôi ca xin lúa đừng lo
Đây không
phải là tiếng kêu gọi chiến tranh giết nhau. Đó là tiếng kêu gọi thương nhau.
Lời tôi thay cho tiếng đạn bay
Lời tôi xây cho vững tay cày
Rồi đêm đêm xua ác mộng đầy
Lời ca êm ru giấc ngủ say
Trẻ em đi ngủ trong tiếng súng nổ bên bờ ruộng.
Tôi sẽ hát cho vơi thống khổ vơi dòng lệ nhòa
Một miền quê, một miền quê tim héo và khô
Lời tôi ca khâu vá tình thương
Mình nhớ lại bài Kim Chỉ của Xuân Diệu.
Chúng ta là cây kim,
Chúng ta là sợi chỉ,
Để may lại cuộc đời
Cho liền trong vạn kỷ...
Mình thế gian rách nát,
Ôi cái áo ăn mày
Chúng ta là kim chỉ
Thương khó những đêm ngày
Lời hôm qua chắp nối Con Ðường
Lời hôm nay vương tiếng Mẹ buồn
Lời hôm
qua chấp nối Con Đường tức là Con Đường Cái Quan. Lời hôm nay vương tiếng Mẹ
buồn tức là Mẹ Việt Nam. Và lời mai đây cao ngút Trường Sơn là muốn nói đến
Trường Ca Trường Sơn mà Phạm Duy chưa có cơ hội viết trước khi lìa đời. Hứa với
Thầy rồi. Sẽ làm ra một Trường Ca lớn nói về chiều cao tâm linh của dân tộc,
nói về người cha lớn của Việt Nam. Nhưng mà tại vì cuộc đời nó kéo đi. Lỗi một
phần cũng tại Thầy. Tại vì Thầy bỏ nước đi kêu cứu hoà bình. Thành ra ở nhà không
có ai tưới tẩm hạt giống cho Phạm Duy. Không có ai mời Phạm Duy tới ăn cơm
chay… Cho nên trong đám tang của Phạm Duy, thầy gửi về cho Phạm Duy câu chót
của bài Tiếng Hát To này.
Lời mai đây cao ngút Trường Sơn.
Phạm Duy
anh chết rồi nhưng anh chưa chết đâu. Anh phải tái sinh trở lại. Anh phải bảo
con cháu anh làm cho được chuyện anh đã hứa với tôi. Phải sáng tác cho được
Trường Ca Trường Sơn. Chúng ta đã có Độc Lập, chúng ta đã có Thống Nhất. Chúng
Ta đã có Mẹ Việt Nam, Con Đường Cái Quan thì giờ đây chúng ta phải vươn lên đến
Trường Sơn. Chúng ta phải có một nếp sống tâm linh có hạnh phúc để có thể đóng
góp cho hoà bình của thế giới.
Tôi sẽ hát to hơn những kẻ
Tôi sẽ hát to hơn những kẻ khơi ngọn lửa thù
Lời tôi ca, lời tôi ca như suối rừng thu
Lời rất là đạo vị.
Lửa âm u ai đốt từ lâu
Miền quê tôi khan tiếng kêu gào
Lời tôi ca như nước nhiệm mầu
Thành mưa rơi cho dứt niềm đau
Đúng là Cam Lộ. Đó là chiều hướng tâm linh trong nhạc Phạm Duy. Lời tôi ca như nước nhiệm mầu.
Đó là Cam Lộ Thủy. Thành mưa rơi cho dứt niềm đau. Thấy rất là rõ. Khi mà một
nhà nhạc sĩ được tưới tẩm những hạt giống tốt, tâm linh, thương yêu thì có thể
sáng tác như vậy. Cả triệu người hát theo. Rất tiếc là Thầy bỏ nước đi kêu gọi
hoà bình nên ở nhà không có ai chăm sóc và tưới tẩm tiếp tục. Đây là những bài
ca có thể gọi là chống chiến tranh:
Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang ngồi vỉa hè
Trẻ bơ vơ, trẻ bơ vơ đi giữa vườn hoa
Hỏi thăm em, em có mẹ cha
Hỏi thăm em, em có ông bà
Hỏi thăm em, em có cửa nhà
Một ngày qua em mất cả ba
Tôi sẽ khóc to hơn đứa nhỏ đang tìm nụ cười
Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi, xin đến gần tôi
Cùng em côi tôi có bàn tay
Và đôi môi tôi hát ăn mày
Chia hạt cơm rơi hay bát gạo đầy
Cùng ngủ ven sông hay gối bụi câỵ
Có rất
nhiều trẻ em đói, chỉ còn đôi môi để hát những câu “lạy ông đi qua, lạy bà đi
lại, cho con xin một bát cháo, chén cơm”. Chúng ta thấy những lời thơ này có
đạo vị, bắt đầu có chất liệu tình thương. Tâm ca số 3 là Ngồi Gần Nhau. Mình
không phải làm gì nhiều. Mình chỉ cần tới ngồi gần nhau.
Ngồi gần ngồi gần nhau, vai sát vai nhau tựa đầu
Ngồi gần ngồi gần nhau, tay nắm tay cho thật lâu
Ngồi gần ngồi gần nhau, xin nói cho nhau một điều
Ngồi gần ngồi gần nhau cho nhiều
Phải tới ngồi gần nhau thì mới có cơ hội hiểu nhau.
Ngồi gần tình thương yêu, nghe rõ tiếng Bụt kêu.
Phạm Duy
trong thời gian được tưới tẩm những hạt giống tốt đã sáng tác như vậy. Còn đây
là Giọt mưa trên lá – Tâm ca số 4
Giọt mưa trên lá nước mắt mẹ già
Lã chã đầm đìa trên xác con lạnh giá.
Đứa con trai vừa mới chết trên chiến trường.
Giọt mưa trên lá nước mắt mặn mà
Thiếu nữ mừng vì tan chiến tranh chồng về
Đây là
nói về ước mơ.
Giọt mưa trên lá tiếng khóc oa oa
Đứa bé chào đời cho chúng ta nụ cười
Giọt mưa trên lá tiếng nói bao la
Tóc trắng đậm đà êm ái ru tình già.
Giọt mưa trên lá tiếng nói thầm thì
Bóng dáng Phật về xoa vết thương trần thế
Như vậy
rất là đẹp.
Tâm ca số
5 - Để lại cho em (thơ Nguyễn Đắc Xuân) là lời thú thật với thế hệ trẻ: các anh
đã làm ăn bê bối, để lại cho các em một đất nước chia lìa, chiến tranh.
Để lại cho em này nước non mình
Để lại cho em một nước đẹp xinh
Một miền oai linh hiển hách
Chỉ còn dư vang thần thánh
Để lại cho em hèn kém của anh
Để lại cho em cuộc sống mệt nhoài
Để lại cho em hồn nước tả tơi
Đường đời quanh co kẹt lối
Để lại cho em một nước phân lìa
Để lại cho em một giống nòi chia
Hận thù nhân danh chủ nghĩa
Bạo tàn vênh vang bề thế
Để lại cho em giọt máu dân lành
Để lại cho em từng nấm mồ xanh
Chập chờn bay trong bại thắng
Ngọn cờ khăn sô mầu trắng
Đó là lời thú tội của một người anh bất lực. Không để lại cho đất
nước một điều gì tốt đẹp mà lẽ ra thế hệ trẻ đáng được hưởng. Bài Tâm Ca
số 7 phổ nhạc từ một ý thơ của Thầy: “kẻ
thù ta không phải là người, giết người đi thì ta ở với ai”
Bài này
là một bài hát phản chiến. Hồi đó thanh niên đã hát trên đường phố Sài Gòn. Năm
1966 Thầy đã gặp Mục sư Martin Luther King, Jr. Thầy đã đọc cho Mục sư
nghe trong một cuộc biểu tình ở Memphis thì mục sư đã giăng câu này ra để đi
biểu tình.
My ennemy is not people.
If I kill people who shall I live with?
Có lẽ
trong khoá tu xuất sĩ, mình có thì giờ mình sẽ hát bài Tâm Ca này.
Khi Thầy
đi qua Tây Phương để kêu gọi thế giới giúp một tay để chấm dứt cuộc chiến khốc
liệt ở Việt Nam thì Phạm Duy cũng được nghe dư âm đó và Phạm Duy cũng viết vài
bài nói về tình trạng đó. Những bài đó không phải là Tâm Ca mà là Tâm Phẫn Ca.
Tức là sự phẫn nộ của tâm. Trong đó có bài Tôi không phải là gỗ đá. Đại ý là
tôi thấy người dân chết mỗi ngày mỗi đêm. Đâu phải là tôi không biết. Tôi không
phải là gỗ đá. Thành ra tôi phải nói thôi. Phạm Duy đã phổ nhạc bài thơ phản
chiến của Thái Luân là Bi Hài Kịch và bài Đi Vào Quê Hương (thơ Hoa Đất Nắng).
IV. RONG CA
Năm 1988
thì thầy gặp Phạm Duy ở California. Hồi đó ông mới sáng tác 10 bài mới. Gọi là
Rong Ca. Rong là rong chơi. Lúc đó ông đã 71 tuổi. Và ông tập hợp tất cả những
bài nhạc của ông để in thành một tập gọi là Ngàn Lời Ca. Ở trên này đề là kính
tặng Thầy Nhất Hạnh, Phạm Duy - 1989. Trong tập nhạc này có một băng cassette
trong đó có Mười bài Rong Ca. Trên con đường lái xe từ Los Angeles đi lên San
Francisco thì Thầy đã bỏ vào trong máy và Thầy nghe 10 bài. Thầy đã chiêm nghiệm
và thấy trong đó Phạm Duy đã bắt đầu có những cái mà Thầy gọi là "ultimate
concern". Tức là những mối quan tâm về siêu hình, về sống chết, về tâm
linh.
Dầu cho
không làm được Trường Ca Trường Sơn nhưng mà vẫn khắc khoải. Tại vì Phạm Duy có
kể rằng năm 1988 có dịp đi San Francisco thì tự nhiên nhớ là chỉ còn có 12 năm
nữa là tới năm 2000 và lúc đó có thể là mình đã chết rồi cho nên mới đặt vấn đề
là sau khi chết mình sẽ đi đâu, thành cái gì và thấy rằng cuộc sống 100 năm quá
ngắn. Phạm Duy tự nhận mình là một người tình, một người tình già. Vậy nên Rong
Ca Đầu Tiên mang tên là Người Tình Già Trên Đầu Non.
Người tình già trên đầu non
Tuyết đã tan trên vai mỏi mòn
Giữa đám mây xanh xao chập chờn
Nhìn mặt trời thoi thóp hoàng hôn
Người tình già trên đỉnh khơi
Muốn lãng quên trăm năm một đời
Trong bài
này Phạm Duy tìm cách để hiểu thế nào là thời gian, tìm cách vượt thoát thời
gian. Tại vì thấy 100 năm sống ở cõi đời này quá ít, nó không có nghĩa gì hết.
Cái đó thuộc về những ưu tư tối hậu.
Người từng là nắng mùa Xuân
Ðã dắt em đi trên đường trần
Ðã vuốt ve em trong Hạ mềm
Rồi lạnh lùng Thu đến... lìa em
Tức là mình sẽ phải chết.
Người trở thành cây mùa Ðông
Lá úa rơi vun cao cội nguồn
Nhưng cuối bước đi trăm năm một lần
Ðầu cành khô bỗng hoa nở tràn
Đó là
hình ảnh của một cây mai. Tới mùa Đông thì tất cả những lá mai rụng xuống và tự
nhiên những bông mai nở tràn ra đầy. Hình ảnh đó cho Phạm Duy ý tưởng là có thể
mình sẽ đầu thai thành những người trẻ. Mình chết đi đây tức là không phải mình
hết mà mình sẽ đầu thai. Và Phạm Duy có nhắc tới lời nói trong dân gian là “lá
rụng về cội". Trở về cội thì mình phải có thì giờ để hoá thành đất. Hoá
thành đất rồi thì mới luân hồi ra thành những bông hoa mai của năm mới. Chứ đâu
thể rớt xuống rồi thành hoa liền được. Nhưng mà Phạm Duy nóng lắm, muốn mình
thành mai lập tức cho nên trong bài đó những câu như vậy.
“Người ta
thường có ý nghĩa lá rụng về cội khi nói tới tuổi già. Trong cái băng nhạc tình
của tuổi Bảy mươ này, tôi lại muốn nói rằng cái quan trọng không phải là sự về
cội nguồn của những chiếc lá chết. Cái quan trọng là làm sao để hoa vẫn nở rộ
trên những cành khô. Chúng ta là những người tình của bách niên 1900, là những
lá vàng khô đang chết, nhắn nhủ người tình của thế kỷ thứ 21 là những nụ hoa
đang hé…”
Ở đây có một
khoảng cách giữa mình và thế hệ của những người trẻ. Phạm Duy không thấy rõ là
những người trẻ bây giờ đang là sự tiếp nối của mình và mình sẽ không bao giờ
chết. Bài Người tình già trên đầu non là một cái suy nghiệm về thời gian. Mộ
Phần Thế Kỷ - bài thứ hai có đưa ra hình ảnh hoa và rác. Những rác của thế kỷ
20 nếu mình biết cách thì mình có thể biến rác thành hoa được. Thành ra Phạm
Duy cũng có những cách tư duy, chiêm nghiệm, thiền quán của Phạm Duy. Chỉ có
cái là không có người hướng dẫn. Nhưng trong sự sống, thực sự đã có những giây
phút Phạm Duy có cái nhu yếu làm thoả mãn niềm quan tâm về tối hậu.
Người đi trong mùa Đông
Lòng bâng khuâng như làn sương
Theo người phu đi dọn xác chiến trường
Người phu sau thời gian
Một trăm năm đã gần xong
Anh bình tâm đi lượm xác trên đường
Những xác úa một thời
Có bóng dáng triệu người
Phiêu diêu nơi Thế Chiến Một, Thế Chiến Hai
Hết Thế Chiến, lại là
Anh em trong một nhà
Lấy chém giết để giải hoà trong quốc gia
Người đi trong mùa Đông
Đội khăn tang, mang tình thương
Theo người phu đi đào lỗ bên tường
Vùi sâu trong mộ chung
Hoặc vùi nông trong mộ hoang
Anh hùng rơm hay chủ nghĩa phi thường
Vùi chôn bao lầm than
Một trăm năm, bao trẻ em
Biết lấp
kỹ thì chúng sẽ trở thành hoa màu cho thế kỷ 21.
Đó là tư
duy của Phạm Duy, là thiền quán của Phạm Duy. Và có thể trên rác bạo động, hận
thù đó mình sẽ có đoá hoa của tình thương nở lên cho những người trẻ của thế kỷ
21. Cái đó là meditation chứ gì nữa.
Trong bài
Trăng Già – Rong Ca số 8 - thì hơi tội nghiệp. Có câu là “Trăng ơi, im
lặng suốt đời. Mà sao ta cứ đứng ngồi không yên.” Rất là là tội nghiệp. Đây là
sự bất an. Rất tiếc là không có (thầy trò) mình đó để mình chỉ cho nhạc sĩ thở
theo An Ban Thủ Ý, an tịnh tâm hành, an tịnh thân hành, an tịnh những cái cảm
thọ. Đứng ngồi không yên là tại vì không biết an trú trong hiện tại. Không biết
điều phục chăm sóc cái thân hành và tâm hành. Trong bài Rong ca số 9 - Ngựa
Hồng - thì có một câu rất là hay. Ngựa Hồng ngày xưa đã từng ra trận, đã
có những thời oanh liệt. Nhưng mà sau trở thành ra kéo xe cho những người giàu
có, cho vua chúa và trở thành nô lệ. Hai con mắt bị che thành ra không thấy
được gì nữa. Người ta bắt chạy đâu thì chạy đó thôi. Ngày xưa đã vinh quang
trong chiến trường bây giờ trở thành kiếp nô lệ, nạn nhân của tham nhũng, nạn
nhân của bạo quyền. Một bữa nọ, có một con ngựa rừng nó đi ngang qua. Nó nói
“Tại sao mày dại như vậy? Cuộc sống của một con ngựa tự do trên rừng sướng biết
bao nhiêu mà lại đem thân mạng làm một nô lệ như vậy?” Nó khuyên một câu thì
con Ngựa Hồng này tỉnh ngộ. Nó đưa chân đá vỡ yên cương, tìm đường thoát thân.
Ngựa Hồng vươn lên phi qua lỗ bé trôn kim
Thong dong đi vào cõi không !
Phạm Duy thấy cuộc sống này chật hẹp, thấy thế giới của tích môn
này chật hẹp. Trăm năm không đủ và có nhu yếu muốn vươn tới một cõi, gọi là cõi
lớn, cõi không. Phạm Duy có cái đó chứ không phải không. Phạm Duy là con nhà
Phật tử. Rất tiếc là không có thầy, có bạn, có tăng thân ở bên. Thành ra không
có làm tròn ước mơ của mình là Trường Ca Trường Sơn. Vì vậy mình phải nói với
Phạm Duy là anh không có đi
đâu hết. Anh phải ở đây cùng với con cháu anh làm cho tôi được Trường Ca thứ ba
là Trường Ca Trường Sơn.
Bài Rong
Ca số 10 – Rong Khúc cũng là một sự chiêm nghiệm. Bài này mình sẽ nghe con trai
của Phạm Duy là Duy Quang hát. Cả hai cha con đều mất tháng trước. Đây là bài
chót của Rong Ca. Có thể là tiếng chào tạm biệt của Phạm Duy trước khi ra đi:
Từ cõi xa xôi, muôn ngàn thế giới
Anh đã đi theo nắng từ trời vui
Anh xuống nơi chơi lúc Người mới tới
Anh đã hân hoan ghé qua cuộc đời
Đây là
một tư duy rất truyền thống. Tại vì những người tài ba, những thi sĩ, những văn
sĩ luôn luôn nghĩ mình là một ông tiên sống ở trên thiên đình. Vì có cái lỗi gì
đó mà bị đày xuống cõi này, cõi hạ giới. Hoặc là uống rượu, uống trà làm rơi
cái ly bể rồi Thượng Đế nói “mày không có chánh niệm cho xuống dưới ở”. Ở Việt
Nam hay các nước Á Châu hay có tín ngưỡng đó. Chúng ta cứ nghĩ rằng mình là một
vị tiên trên thượng giới tại vì một cái lầm lỡ nào nên bị đày xuống cõi cõi ta
bà này.
Cuộc đời trần gian
Chỉ có 100 năm
Anh đã rong chơi khắp miền hoang dã
Anh đã đi qua bốn bể gần xa,
Êm ái rơi theo tuyết miền băng giá
Hay cuốn bay theo gió sa mạc già
Ở nơi dương thế... mặn mà.
Dương thế này cũng được tại vì mặn mà.
Anh đã rong chơi khắp nẻo đường trần
Anh đã quên đi những nẻo đường tiên
Tức là
không biết kiếp trước mình ở trên thượng giới, không biết con đường tiên đẹp
như thế nào. Giờ đây chỉ biết rong chơi những nẻo đường trần thôi. Đường trần
thì gặp bụi bặm, gặp những điều không như ý. Có một sự phân biệt rất rõ ràng.
Đường tiên trên kia thì nhẹ hơn, không có bụi. Đường trần dưới này thì có bao
nhiêu trắc trở. Trong khi đó tại Làng Mai thì chúng ta biết rằng cũng con đường
đó tùy theo cách đi của chúng ta. Nếu đi theo cách này thì đó là con đường
tiên. Nếu đi theo cách kia, nó là con đường trần. Rất tiếc là Phạm Duy chưa
thấy được cái điều đó.
Chân đã tung tăng khắp nẻo đường đời
Anh đã cho Anh sống thật đầy vơi.
Tức là
sống cũng không có uy nghi, không có giới luật lắm. Anh đã cho Anh sống thật
đầy vơi. Câu này nói rất là nhiều.
Đã chót đưa Em tới nguồn yêu dấu
Anh cũng theo Em bước vào khổ đau
Cố nhiên
là chưa học Tứ Vô Lượng Tâm thì làm sao biết yêu được. Cho nên yêu là tạo ra
đau khổ cho người và tạo đau khổ cho mình. Chưa biết yêu, chưa biết thương cho
nên khổ là chuyện bình thường. Vì vậy người nào mà chưa học cách thương của Bụt
là phải học gấp. Phải có Từ-Bi-Hỷ-Xả để thương mới không có khổ.
Khi thấy ai trong cõi trần khô héo
Anh đã dâng cho trái tim nhiệm mầu
Đời mà chìm sâu
Cũng muốn leo cao
Chìm thì rất
là sâu mà leo thì muốn leo cho thật là cao. Và cố nhiên leo cao thì ngã đau.
Anh bước khoan thai lối rừng hun hút
Đưa đón chân Anh có lửa hoàng hôn
Anh dẫn Em vươn tới miền an tĩnh
Cho bớt mông mênh cõi sinh mệnh buồn
Ở nhịp trần gian... quay cuồng.
Thế giới
này có những phiền não, có những hệ lụy. Cho nên lâu lâu thấy mình cần phải đi
tới một chỗ nào yên tĩnh. Miền yên đó chính là thượng phương. Thượng phương tức
là chùa. Thành ra mình giữ một ngôi chùa cho thanh tịnh để cho người đời tìm
tới khi mà họ đau khổ, họ hệ lụy. Họ tới họ thở không khí đó họ đỡ khổ.
Anh đã rong chơi khắp nẻo đường tình
Yêu nhều
lắm. Mà càng yêu thì càng rắc rối
Anh đã theo Em đi gặp bình minh.
Như đã rong chơi khắp nẻo đường chiều
Như đã đưa Em tới đỉnh tình yêu
Thôi nhé, cho anh giã từ trái đất
Biết là
mình sắp chết. Càn khôn là đất trời lớn. Tức là tiếng giả biệt. Em ở lại nhé.
Anh phải đi…
Nhưng nếu Em yêu muốn vào cõi lớn
Anh sẽ cho Em dắt tay lên đường
Trong đây
phân biệt hai cõi. Một là cõi lớn. Và cõi này là cõi tạm. Cõi tạm chỉ có 100
năm thôi rồi mình phải tới cõi lớn. Điều đó là điều Phạm Duy cần phải được nhắc
nhở. Chúng ta ở Làng Mai là chúng ta biết rất rõ Ta Bà là Tịnh Độ. Sinh Tử là
Niết Bàn tùy theo cách chúng ta nhìn ta sống. Nhìn như thế này, sống như thế
này thì cõi này là cõi Sinh Tử, khổ đau nhưng mà nếu có Trí Tuệ, có Chánh Niệm
thì nhìn như thế này, sống như thế này thì đây là Tịnh Độ, đây là Niết Bàn. Cõi
lớn cũng ở đây mà cõi tạm cũng ở đây. Điều đó là điều Phạm Duy chưa có học
được.
Nhưng nếu Em yêu muốn vào cõi lớn
Anh sẽ cho Em dắt tay lên đường
Không
biết mình có vào cõi lớn được không mà dắt người khác. Mình phải vào cõi lớn
được đã. Mà ngay trong giây phút này chưa vào cõi lớn được thì khi chết đi làm
sao mình vào được, dắt ai được. Cho nên ngay trong hiện tại mình phải có khả
năng tiếp xúc với cái cõi lớn. Rồi mình mới có thể giúp người khác cùng
đi vào cõi lớn. Còn trong 100 năm đó, mình không có khả năng tiếp xúc thì làm
sao mình giúp người khác. Cho nên tư duy này vẫn là lưỡng nguyên. Cõi lớn, cõi
tạm nó cũng ở đây. Tùy theo cách nhìn của mình mà nó là cõi tạm hay cõi lớn.
Một đường hành tinh
Đi thăm những Thái Dương
Anh dắt tay Em đi vào Ngàn Mai
Anh khoác vai Em bước về Ngàn Xưa
Đi về quá
khứ, đi tới tương lai, mình có khả năng chưa mà dám nói mình sẽ đưa người yêu
đi vào quá khứ, đi tới tương lai. Ngay đi vào hiện tại cũng chưa được. Hiện tại
nắm chưa được mà sao đi vào quá khứ hay tương lai.
Ta sẽ
quên như có mình nơi đó
Ta sẽ
quên như có Ta nơi này
Nơi đó,
nơi này tức là cõi Địa Cầu trong 100 năm. Khi mà bước vào cõi lớn thì không có
quay lại đây nữa tại vì có nhiều hệ lụy, có nhiều đau khổ quá. Không muốn nhớ
là đã có thời gian trong 100 năm mình đã ở chỗ đó. Muốn quên. Không cần nhớ
nữa. Thành ra nó đi lại bài Rong Ca đầu Người tình già trên đầu non “Muốn lãng
quên trăm năm một đời”.
Ta vứt sau ta những nẻo đường trần
Ta vút bay theo những nẻo đường tiên
Đường
trần mình không đi nữa. Mình đi chỗ khác để có thể đi theo những nẻo đường
tiên.
Ta vứt sau ta những nẻo đường trần
Ta vút bay theo những nẻo đường tiên
Nhưng nếu mai sau, ai gọi Người Tình
Anh sẽ quay lưng bước về nẻo xanh.
Nẻo xanh
với Phạm Duy tức là nẻo đó. Nhưng với chúng ta thì nẻo xanh đó là ngay chỗ này.
Giờ mời
đại chúng nghe anh Duy Quang - hát bài này. Đây cũng là lời tạm biệt của Thầy
đối với Phạm Duy. Anh không có đi đâu hết. Anh ở lại đây với chúng tôi. Anh
phải tiếp tục cùng với con cháu. Anh phải làm cho được điều đã hứa với Thầy là
viết cho được Trường Ca Trường Sơn.
Thầy có
viết một lá thư cho Phạm Duy nhờ phổ nhạc Bài kinh ca ngợi Bụt Amitabha và Lời
nguyện cầu hướng về đất mẹ. Lá thư đó phải chuyển vào nhà thương. Lúc đó Phạm
Duy yếu rồi không có cơ hội để đặt nhạc cho hai bài kia. Rất là uổng.
Đại chúng
nghe Duy Quang hát bài Rong Khúc
Từ cõi xa xôi, muôn ngàn thế giới
Anh đã đi theo nắng từ trời vui
Anh xuống nơi chơi lúc Người mới tới
Anh đã hân hoan ghé qua cuộc đời
Cuộc đời trần gian
Chỉ có 100 năm
Anh đã rong chơi khắp miền hoang dã
Anh đã đi qua bốn bể gần xa,
Êm ái rơi theo tuyết miền băng giá
Hay cuốn bay theo gió sa mạc già
Ở nơi dương thế... mặn mà.
Anh đã rong chơi khắp nẻo đường trần
Anh đã quên đi những nẻo đường tiên
Chân đã tung tăng khắp nẻo đường đời
Anh đã cho Anh sống thật đầy vơi.
Đã chót đưa Em tới nguồn yêu dấu
Anh cũng theo Em bước vào khổ đau
Khi thấy ai trong cõi trần khô héo
Anh đã dâng cho trái tim nhiệm mầu
Đời mà chìm sâu
Cũng muốn leo cao
Anh bước khoan thai lối rừng hun hút
Đưa đón chân Anh có lửa hoàng hôn
Anh dẫn Em vươn tới miền an tĩnh
Cho bớt mông mênh cõi sinh mệnh buồn
Ở nhịp trần gian...quay cuồng.
Anh đã rong chơi khắp nẻo đường tình
Anh đã theo Em đi gặp bình minh.
Như đã rong chơi khắp nẻo đường chiều
Như đã đưa Em tới đỉnh tình yêu
Thôi nhé, cho anh giã từ trái đất
Anh đã nghe vang tiếng gọi càn khôn
Nhưng nếu Em yêu muốn vào cõi lớn
Anh sẽ cho Em dắt tay lên đường
Một đường hành tinh
Đi thăm những Thái Dương
Anh dắt tay Em đi vào Ngàn Mai
Anh khoác vai Em bước về Ngàn Xưa
Ta sẽ quên như có mình nơi đó
Ta sẽ quên như có Ta nơi này
Và lộ trình Ta... miệt mài.
Ta vứt sau ta những nẻo đường trần
Ta vút bay theo những nẻo đường tiên
Nhưng nếu mai sau, ai gọi Người Tình
Anh sẽ quay lưng bước về nẻo xanh.
Nhất Hạnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét