Đã có một thời gian dài, nhiều người nhầm lẫn khái niệm thế
nào là nhạc tiền chiến. Có nhiều người tưởng rằng nhạc tiền chiến là nhạc vàng
của miền Nam, hoặc tưởng nhạc tiền chiến là nhạc lính chiến, thậm chí có người
tưởng đó là nhạc đỏ (có lẽ vì chữ “chiến”?).
Trong lĩnh vực văn học, chúng ta đã có khái niệm “thơ văn tiền
chiến”, thì trong âm nhạc cũng có “nhạc tiền chiến”, đó là những bài hát được
sáng tác trước cuộc chiến Việt - Pháp được đánh dấu bằng cuộc cách mạng năm
1945. (tiền chiến nghĩa là trước chiến tranh).
Tuy nhiên đó chỉ là một khái niệm mang tính lưng chừng, vì thực
tế là thời kỳ 1945-1954 hoặc thậm chí là sau năm 1954, có nhiều ca khúc vẫn được
xếp vào loại nhạc tiền chiến của các tác giả Cung Tiến, Phạm Đình Chương, Đoàn
Chuẩn…, là những bài hát có giai điệu, lời ca… mang cùng tính chất với dòng nhạc
tiền chiến: lời ca lãng mạn, đẹp như thơ và có giai điệu âm hưởng từ nhạc Tây
phương.
Dưới đây xin giới thiệu với bạn đọc một góc nhìn về nhạc tiền
chiến của nhà báo Bùi Bảo Trúc viết năm 2001.
Dấu mốc của nhạc tiền chiến
Âm nhạc, cũng như thơ, hội họa, tiểu thuyết không bùng lên
trong một ngày, và cũng không ra đi, chấm dứt trong một ngày để hôm trước còn
là một nền Nhạc hùng, vang vọng tiếng quân hành và ngày hôm sau, là những âm
thanh lãng mạn chứa chất tình yêu trữ tình.
Bởi thế khó mà có thể định được một nền nhạc, một khuynh hướng
nhạc bắt đầu chính xác từ lúc nào. Nó có những khoảng lấn sang phía sau, nó có
những khoảng còn vương lại từ phía trước. “Nhạc tiền chiến” – danh từ
này xuất hiện từ lúc nào và ai là người dùng nó lần đầu tiên? Ðây là những câu
hỏi khó trả lời.
Nhưng có điều chắc là danh từ Nhạc tiền chiến phải
ra đời sau khi cuộc chiến Ðông Dương thứ nhất chấm dứt với sự chia cắt đất nước.
Nó ra đời sau khi có một phân định văn học, gọi sinh hoạt chữ nghĩa của giai đoạn
trước ngày chiến cuộc bùng nổ là văn học tiền chiến, lấy năm 1945 là cái mốc để
nhìn về trước và cũng là điểm đế nhìn về phía sau. Ðó là năm cuộc chiến Ðông
Dương bắt đầu đồng thời nó cũng chấm dứt một giai đoạn tương đối yên bình của
xã hội Việt Nam.
Các sinh hoạt văn học như tiểu thuyết, thơ trong những năm
trước 1945 được gọi là văn học tiền chiến, các nhà văn, nhà thơ hoạt động trong
những năm này là các nhà văn, nhà thơ tiền chiến. Và khi đã có một dòng văn học
được đặt tên cho là văn học tiền chiến thì việc gọi những sinh hoạt âm Nhạc
trong cùng giai đoạn đó là Nhạc tiền chiến là điều sẽ phải xảy ra. Lê Thương, một
trong những Nhạc sĩ đi đầu của tân Nhạc Việt Nam thì khẳng định đó là thời gian
giữa những năm 1938 và 1945.
Những bước đầu
Ảnh hưởng của văn hóa Pháp bắt đầu bén rễ khá vững từ năm
1930. Trước đó, trong những năm từ 1900 đến 1930, là giai đoạn sửa son cho những
sinh hoạt sau năm 1930, khi chữ quốc ngữ thật sự phát triển với những tác phẩm
bước ra khỏi truyền thống văn học từ chương cũ viết bằng Hán văn. Các tiểu thuyết
Tây phương, nói rõ hơn, là của Pháp từ năm 1925 cho đến những năm của thập niên
30 đã được giới thiệu, đưa tới độc giả Việt Nam và được ưa chuộng ngay. Trường
Mỹ Thuật Ðông Dương được thành lập ở Hà Nội mở đầu cho một phong trào mới của
các họa phẩm mang ảnh hưởng của Tây phương. Và trong khung cảnh này, là những bản
Nhạc mới do các Nhạc sĩ Việt Nam sáng tác ra đời, để sau này mang tên là Nhạc
tiền chiến.
Theo nhạc sĩ Phạm Duy, năm 1938 là một năm quan trọng vì đó
là năm khai sinh ra lời Nhạc cải cách.
Các nhạc sĩ Việt Nam sau một thời trình tấu các bài ta theo
điệu Tây mà các Nhạc sĩ tiền phong như Tư Chơi Huỳnh Hữu Trung và Năm Châu Nguyễn
Thành Châu đề xướng trong những năm 1933, 1934, muốn viết những bài hát hoàn
toàn Việt Nam thay vì vay mượn Nhạc điệu của Tây.
Một trong những bài hát đầu tiên của lời Nhạc này, là
bài Kiếp Hoa của Nguyễn Văn Tuyên, một thanh niên sinh trưởng tại Huế,
làm việc tai Sài Gòn, học Nhạc lý và thanh Nhạc tai Hội trường Philharmonique.
Sáng tác đầu tay này được giới thiệu trên đài phát thanh Radio Indochine. Ðược
trợ cấp của thống đốc Nam Kỳ Rivoalen, ông Tuyên đi diễn thuyết ở Huế, Hải
Phòng, Hà Nội (tháng 4 năm 1938). ông Nguyễn văn Cổn làm việc cho Radio
Indochine, một người ủng hộ và bảo trợ cho ông Tuyên đã đặt tên cho loi Nhạc
này là âm Nhạc cải cách (Musique Renovée).
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên viết thêm bài Anh Hùng Ca, thơ
của Nguyễn Văn Cổn và Bông Cúc Vàng phổ thơ của Nguyễn Quí Anh. Cùng
với bài Kiếp Hoa, đó là ba ca khúc đầu tiên của tân Nhạc Việt Nam. Chuyến
du thuyết của ông được báo Tiếng Dân của Huỳnh Thúc Kháng và Ngày Nay của Tự Lực
Văn Ðoàn hết lòng ca ngợi và trân trọng giới thiệu. Báo Ngày Nay sau đó còn cho
đăng tải những tác phẩm đầu của nền Nhạc mới.
Ảnh hưởng của Nhạc Tây phương
Bứt đi từ âm nhạc dựa trên ngũ cung cổ truyền Việt Nam, các
nhạc sĩ trong giai đoạn đầu của tân Nhạc Việt bị ảnh hưởng sâu đậm bởi nhạc Tây
phương qua việc sử dụng các nhạc khí Tây phương như dương cầm, Tây Ban cầm, vĩ
cầm và các loi kèn. Một số học sử dụng các nhạc khí này với các nhạc sĩ Pháp,
trong các ban quân nhạc, và qua các ca Nhạc đoàn của nhà thờ.
Hầu hết các Nhạc sĩ sáng tác thế hệ đầu của tân Nhạc Việt
không được học đến nơi đến chốn về âm nhạc Tây phương. Nhạc viện Viễn Ðông mở cửa
tại Hà Nội năm 1927 nhưng năm 1930 phải đóng cửa vì những khó khăn kinh tế của
thế giới thời đó. Nhiều người học với các nhạc sĩ Pháp, Nga hay Phi Luật Tân. Số
khác học sáng tác qua các lớp hàm thụ của Sinat.
Ngay từ những năm sau đệ nhất thế chiến, một số bài hát của
Pháp đã bắt đầu đến với người Việt, từ những xuất hát cải lương ở miền nam với
hai ban nhạc, một cổ truyền, một sử dụng Nhạc khí Tây phương cho đến những người
hát rong ngoài đường trình tấu các ca khúc mang từ mẫu quốc sang. Các ca khúc
này được thanh niên thời đó đón nhận nồng nhiệt cùng với tất cả các mốt quần
áo, sách vở, báo chí Pháp tại các thành phố lớn.
Các giọng ca của Edith Piaf, Maurice Chevalier, Tino Rossi,
Josephine Baker… những bài hát như J’ai Deux Amours, La Marinella, Ma Petite
Tonkinoise… là những ca khúc trên môi của các thanh niên Tây học thời đó. ở Hà
Nội lúc ấy có cả một hội ái mộ Tino Rossi, Hội ái Tino…
Tuy nhiên vào thời đó, phương tiện truyền bá những bản nhạc
này vẫn còn quá ít, và máy thu thanh vẫn còn ở ngoài tầm tay của nhiều người.
Chỉ những thành phần khá giả mới có được máy quay đĩa hay máy thu thanh để nghe
những bản nhạc này. Tại các đài phát thanh Hà Nội, Huế, Sài Gòn, đâu đâu cũng
nghe hát theo kiểu Tino Rossi. Các phòng trà, các hộp đêm ở các thành phố lớn
cũng là những nơi giúp phổ biến Nhạc Pháp đến cho giới thanh niên mà thú giải
trí không còn là đi hát ả đào nữa. Họ cũng tụ tập trước các tiệm bán đĩa hát để
nghe các bài hát mới từ Pháp đưa sang.
Sự lan tràn của các ca khúc này, theo Lê Thương trong một bài
viết nhan đề Thời Tiền Chiến Trong Tân nhạc, có một ảnh hưởng quan trọng. Ðó là
công chúng chuộng cái mới, muốn quên lãng đi những cái gì không thay đổi trong
Nhạc cổ truyền.
Các nhạc sĩ tiên phong
Ở Hà Nội trong những năm cuối của thập niên 1930, nhạc sĩ
Dương Thiệu Tước đã là một nhạc sĩ nổi tiếng sử dụng Hạ Uy Cầm rất điêu luyện.
ông có một tiệm bán đàn và lớp dạy Hạ Uy cầm ở phố hàng Gai. Cùng với Thẩm
Oánh, Trần Dư, Pham Văn Nhường và Vũ Khánh, ông thành lập một ban nhạc lấy tên
là Myosotis. Lúc đầu, ban nhạc chỉ trình diễn các ca khúc viết bằng tiếng Pháp
như Joie D’Aimer, Souvenance, Ton Doux Sourire do Dương Thiệu Tước viết phần nhạc
và lời ca do Thẩm Bích, bào huynh của Thẩm Oánh viết.
Chuyến đi nói chuyện của Nguyễn Văn Tuyên với những ca khúc lời
Việt của ông đã kích động các nhạc sĩ ở Hà Nội như Thẩm Oánh, Văn Chung, Lê
Yên, Trần Quang Ngọc đem các sáng tác mà các ông viết trước đó ra trình diễn
trước công chúng lần đầu tiên. Ðó là những bài như Hồ Xuân, Khúc Yêu Ðương của
Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em, Thuyền Mơ của Dương Thiệu Tước, Trên
Thuyền Hoa, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung.
Những ca khúc này được giới thưởng ngoạn ưa thích lập tức.
Nhóm Myosotis có hai chủ trương: Thẩm Oánh theo con đường trung dung. Trong bài
viết đăng trong tạp chí Nhạc Việt số 5 đề ngày 16 tháng 10 năm 1948, ông cho rằng
các ca khúc Việt Nam phải theo ý Nhạc Việt và phải có cảm tưởng thuần túy Á
Ðông. Trong khi đó, Dương Thiệu Tước thì chủ trương phải soạn theo âm điệu Tây
phương hoàn toàn. Người ta thấy là cả hai đã rất trung thành với chủ trương của
mình. Thẩm Oánh rất Á Ðông. Dương Thiệu Tước đầy âm điệu khiêu vũ Tây phương.
Ngoài ra, từ năm 1938, nhóm Myosotis cũng đứng ra xuất bản
các ca khúc mới, những bài như Ðôi Oanh Vàng, Hoa Tàn, Phút Vui Xưa… cùng
những bản nhạc không lời của Dương Thiệu Tước. Các ca sĩ nổi tiếng như ái Liên
và Kim Thoa được hãng đĩa Beka thuê thu thanh các bài hát này trên đĩa hát 78
vòng.
Một nhóm khác tên là Tricea gồm 7 người, trong đó có Văn
Chung, Lê Yên và Dzoãn Mẫn. Cả hai đều sáng tác, trình diễn và xuất bản các ca
khúc họ viết. Trong số các sáng tác của nhóm được quần chúng ưa thích là các bản
viết hồi năm 1939 như Khúc Ca Ban Chiều, Trên Thuyền Hoa của Văn
Chung, Biệt Ly, Sao Hoa Chóng Tàn, Tiếng Hát Ðêm Thu của Dzoãn Mẫn, Bẽ
Bàng, Vườn Xuân của Lê Yên. Văn Chung bị ảnh hưởng Nhạc Trung Hoa. Dzoãn Mẫn
và Lê Yên bay bướm nhịp tiết mang ảnh hưởng Nhạc Tây phương. Nhóm Tricea tan rã
sau khi thành lập không lâu. Ðó là ở Hà Nội.
Hải Phòng có Lê Thương và Văn Cao là những người viết tân nhạc
trong thời gian này. Cùng với hai ông, là các nhạc sĩ trẻ hơn như Canh Thân,
Hoàng Quý, Phạm Ngữ, Hoàng Phú, Văn Trang… Nhóm xuất hiện lần đầu tại nhà Hát Lớn
Hải Phòng với các tác phẩm Tiếng Ðàn Ðêm Khuya, Một Ngày Xanh, Trên Sông
Dương Tử, Thu Trên Ðảo Kinh Châu… Phạm Ngữ viết ca khúc Nhớ Quê Hương năm
1939, Hoàng Quí viết một loạt ca khúc trẻ với bài đầu là bài Chùa Hương rất
trong sáng, tươi mát như những bản nhạc sau của ông.
Ở Nam Ðịnh có Ðặng Thế Phong, một nhạc sĩ tài hoa mệnh yểu
qua đời khi mới ngoài hai mươi tuổi. ông lưu lai các tuyệt phẩm Ðêm Thu,
Giọt Mưa Thu, Con Thuyền Không Bến. Cùng với Ðặng Thế Phong, Nam Ðịnh còn sản
xuất ra Bùi Công Kỳ, Ðan Thọ và Hoàng Trọng. Phạm Duy, trong cuốn Hồi Ký (trang
278) gọi đây là những tên tuổi tiền phong của nền nhạc mới.
Ở Sài Gòn có nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát và Phạm Ðăng Hinh. Phạm
Ðăng Hinh đứng đầu một ban nhạc vĩ cầm và đại vĩ cầm gồm 15, 16 nhạc sinh của
ông. Ban nhạc có ra Hà Nội trình diễn các sáng tác của ông nhưng rồi cũng ngưng
hoạt động ít lâu sau đó. ông sớm ra đi, để lại vài bài như Ðám Mây Hàng và Cám
Dỗ, Nhạc đề cho phim Trận Phong Ba quay tại Hương Cảng năm 1940.
Trong giai đoạn này, các nhóm Myosotis và Tricea cũng viết một
số hùng ca và ca khúc thanh niên để tỏ một thái độ với thứ văn chương diễm lệ
và quá ủy mị đang rất được thanh niên nam nữ ưa chuộng.
Ảnh hưởng của Hoàng Quý và nhóm Ðồng Vọng của ông cùng với
Lưu Hữu Phước và Tổng Hội Sinh Viên là những ảnh hưởng lớn, kéo dài cho cả đến
những năm sau khi hai nhóm không còn hoạt động nữa. Với các sáng tác của hai
nhóm, người ta thấy nhạc hùng vẫn có thể hấp dẫn tuổi trẻ như Nhạc tình lãng mạn.
Tuy nhiên, theo Lê Thương, bất kể những tin tức chiến tranh vọng
lai, nhạc tình cảm vẫn xuất hiện như Con Thuyền Không Bến, Giọt Mưa Thu của
Ðặng Thế Phong, Xuân Yêu Ðương, Bản Ðàn Xuân của Lê Thương, Hồn
Xuân của Nguyễn Xuân Khoát, Trở Lại Cùng Anh của Dzoãn Mẫn…
Một nền Nhạc lãng mạn
Nhạc sĩ Hoàng Nguyên, trong bài giới thiệu tập ca khúc Nhạc
Tiền Chiến xuất bản ở Sài Gòn năm 1970 đã viết về Tiếng Hát Những Ngày Chưa Chiến
Tranh. Ông nói về những ngày không khí trữ tình bàng bạc, thanh bình, nhẹ nhàng
lâng lâng. ông ghi nhận nó còn có nét đơn sơ của cánh đồng, cái không-khó-khăn
của những ngày bàn tay không quen máy móc, cái bình dị của những tâm hồn quán
nhỏ.
Tập Nhạc gồm 27 ca khúc của 18 Nhạc sĩ mà hầu hết là những ca
khúc lãng mạn. Nhạc tiền chiến là Nhạc lãng mạn. Có nói như vậy chắc cũng không
sai là bao nhiêu. Âm Nhạc đi song song với sinh hoạt thơ của giai đoạn này.
Trong lãnh vực thơ, là Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh, Hàn Mặc Tử, Thâm Tâm, Vũ
Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Nguyễn Bính thì âm Nhạc cũng có những dòng Nhạc lãng mạn
không kém. Ða số các nhạc sĩ sáng tác đều là các thi sĩ ở một nơi khác, thơ của
họ được nâng đỡ bởi nhạc. Nên người ta không ngạc nhiên khi âm nhạc trong giai
đoạn này cũng đi con đường song hành với thơ.
Lời của nhạc sĩ Văn Cao, như trong ca khúc Thu Cô Liêu,
theo Phạm Duy, nghe đầy âm hưởng Ðường thi. Nguyễn Mỹ Ca, Ngọc Bích (sau này),
Phạm Ngữ, Tô Vũ, Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Dzoãn Mẫn, Nguyễn Hiền, Anh Việt…
cho thấy họ làm thơ bằng nhạc. Phần lời ca chuốt lọc của các ca khúc có thể đọc
lên như những bài thơ. Nhờ có nhạc, những bài thơ đó lại có thêm được một đời sống
khác: Đời sống âm nhạc.
Và đó là lý do các tác phẩm của giai đoạn này đã qua được tất
cả các thử thách của thời gian để tiếp tục được yêu mến, có những bài, sau hơn
nửa thế kỷ. Lời ca vẫn còn mới, vẫn còn như vừa được viết bằng thứ ngôn ngữ của
ngày hôm nay.
Chuyển tiếp
Thực ra, không thể nói nhạc tiền chiến ngưng lại vào năm
1945. Những ca khúc vẫn tiếp tục được các nhạc sĩ viết xuống, và gửi đến người
nghe trong một chiều hướng các nhạc sĩ này đã vẽ được ra trong những năm trước
đó. Dòng nhạc này vẫn tiếp tục chảy, và nó không hề đứng lại, với những nhạc sĩ
chọn ở lại với âm nhạc.
Dư Âm của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý năm 1949; Trách Người
Ði của nhạc sĩ Ðan Trường năm 1949; các ca khúc về mùa Thu của nhạc sĩ
Ðoàn Chuẩn trong những năm trước Genève; Ngọc Lan của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước…
là những thí dụ. Những bài ca này vẫn được coi, xếp hạng vào các ca khúc tiền
chiến mặc dù chúng được viết sau khi súng nổ khá lâu. Các tác giả vẫn tiếp tục
nuôi dưỡng những cảm xúc có được trong những năm trước đó.
Năm 1950, tờ Việt Nhạc do đài phát thanh Hà Nội ấn hành cho
biết đài đã phát thanh khoảng 300 nhạc phẩm của các nhạc sĩ tiền chiến, những
người ở vùng quốc gia cũng như những người đi theo kháng chiến. Khi đài Hà Nội
ngưng tiếng năm 1954, đài đã phát trên 2000 tác phẩm của khoảng hơn 300 nhạc
sĩ.
Dư âm của Nhạc tiền chiến
Nhạc tiền chiến vẫn tiếp tục những vang vọng của nó cho đến
ngày hôm nay, trong người nghe cũng như trong những người viết nhạc.
Phạm Duy, Nguyễn Hiền, Dương Thiệu Tước… tiếp tục viết loại
nhạc mà các ông đã rất thành công. Anh Việt với Bến Cũ, Thơ Ngây... Ngọc
Bích, viết những ca khúc làm gợi nhớ cái không khí lãng mạn của thời tiền chiến,
những Mộng Chiều Xuân, Trở Về Bến Mơ… Nếu Tô Vũ (tên thật là Hoàng
Phú) không ở một nơi chốn như ông đã phải sống trong mấy chục năm nay, thì tác
giả Em Ðến Thăm Anh Một Chiều Mưa sẽ tiếp tục viết những ca khúc rất
đỗi lãng mạn như thế, như Tiếng Chuông Chiều Thu, như Tạ Từ…
Phải chờ đến Trịnh Công Sơn và Lê Uyên Phương, ảnh hưởng Nhạc
tiền chiến mới dứt để âm Nhạc Việt Nam đi sang một con đường khác, cả về lối
chuyển cung, chuyển điệu.
20/11/2019
Bùi Bảo Trúc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét