Tâm linh và huyền bí sắc dục
Tượng giao hoan của người Cơ Tu
“Hỡi Thượng đế!
Người nhìn xem, Người đã cho thân thể
Bình thịt xương để đựng chứa linh hồn.”
Đó là mấy vần thơ của Huy Cận trong tập Lửa Thiêng (1940)
Cái nhìn nhị đối ấy về con người, về bản ngã ấy tất nhiên có
trước Huy Cận từ rất lâu trong truyền thống phương Tây: thân thể là cái bình chứa
linh hồn.
Chính vì thế mà văn hào D.H. Lawrence vào khoảng năm 1925 đã
viết:
“Chúng ta thường có những ý tưởng kỳ lạ về bản ngã. Ta cho rằng
bản ngã như một thân thể với linh hồn trong đó,... Năm tháng nốc cạn rượu, thế
là ném vứt cái bình đi, và dĩ nhiên thân thể là cái bình”. [5,tr.533]
Và Lawrence nhận thấy đó là “một loại mê tín buồn cười” (a
funny sort of superstition) [5, tr. 533]
Cái nhìn nhị đối xác/hồn ấy thường đưa đến một nhát cắt tai
ương, rằng hồn linh thuộc về một thế giới khác, nhẹ và thanh trong khi thân xác
thì thuộc về trần tục, nặng nề và ô trọc. Hơn nữa, nếu linh hồn phạm tội và sa
đọa, đó là vì thân xác kéo lôi nó, như Huy Cận diễn tả trong bài thơ Thân
thể:
“A! Thân thể! Một cái bình tội lỗi!
Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy.”
“Thân quá nặng nên hồn sa xuống thấp,
Chớ giận chi những kẻ mất thiên đường!”
Và thế là, thân thể hay xác thịt bị tôn giáo lên án. Hiện hữu
trần thế bản nguyên ấy bị lên án. Sự khỏa thân bị lên án. Tình dục bị lên án. Từ
đó ra đời bao nhiêu điều cấm kỵ, kiểm duyệt, trừng phạt, thậm chí khủng bố nhân
danh thuần phong mỹ tục, nhân danh kinh sách, nhân danh thánh thần và thánh hiền.
Họ tấn công vào thân xác, đóng đinh thân xác vào những xác ướp ý niệm (những
concept-mummies như chữ dùng của Nietzsche).
Đồng thời họ ca tụng linh hồn, một linh hồn dẫu sao đi nữa cuối
cùng sẽ được cứu rỗi nếu biết sám hối và hướng vọng Thượng đế, mặc cho thân xác
tiêu ma. Họ ca ngợi sự khổ hạnh thân xác và một thứ tiết hạnh khả phong đặc biệt
dành cho phụ nữ.
Từ đó, khuynh hướng sắc dục (eroticism) bị nhiều tôn giáo và
thể chế chính trị trấn áp trong đời sống cũng như trong văn chương nghệ thuật.
Trong nhiều thời đại và xứ sở, có quyền thể hiện tình yêu
nhưng không có quyền thể hiện sắc dục. Như thể tình yêu và sắc dục là hai điều
khác biệt. Như thể tình yêu thuộc về “sự trong sáng của tinh thần” và sắc dục thuộc
về “tội lỗi của thân xác”. Như thể tình yêu có thể là thiêng liêng còn sắc dục
thì không. Như thể tinh thần có thể hiền minh còn cảm quan của nhục thể thì
không.
Nhưng linh hồn là gì? Nó khác biệt thân xác lắm sao? Hãy nghe
nhà thơ Octavio Paz nói trong một cuốn sách về tình yêu và sắc dục Ngọn lửa
đôi (The Double Flame) vào năm 1993:
“Linh hồn, hay bất kỳ từ gì dùng để gọi tâm linh con người,
không chỉ là lý trí và trí tuệ, mà nó còn là cảm thức. Linh hồn là nhục tính: cảm
giác, chuyển thành xúc động, tình tự, đam mê.” [7, tr.211]
Đối với Octavio Paz, tình yêu và sắc dục (love and eroticism)
là ngọn lửa đôi của đời sống. Lửa thiêng và lửa trần hòa vào nhau làm một dù vẫn
gọi là đôi.
Và cũng theo Octavio Paz, không chỉ có sự hiểu biết trí lự,
mà còn có sự hiểu biết nhục thể: “sự hiền minh của cảm giác” (wisdom of the
senses).
Từ cuối thời văn minh Hy La, sự chia tách tâm linh và thân
xác đã khởi sự. Rồi đến thời Tân ước và giáo hội, ngọn lửa đôi ấy càng chia
tách hơn.
Nhưng nữ sĩ Marguerite Yourcenar còn cho biết ở Tây Âu trước
thời của Chúa, người Celt và German đã thiêu sống và nhấn chìm những tình nhân
phá luật. [11, tr.111]
Trong khi đó, ở Ấn Độ cổ đại, tôn giáo và tình dục, tâm linh
và nhục thể đều có thể thắp chung ngọn lửa thiêng.
Hợp tuyển Erotica của Ch. Hill và W. Wallace viết như
sau:
“Phúc cho ai là trai gái Ấn Độ đương xuân vào 2.000 năm trước
đây! Tình dục không phải là chuyện tội lỗi, thường công khai thảo luận, và hiền
giả Vatsyayana vừa hoàn thành Kinh Kama... Ông viết bộ kinh này vào cuối đời
như một bổn phận tôn giáo.” [2,tr.10]
Chẳng những thế, hành động tính dục còn có thể mang màu sắc
huyền bí, trở thành biểu tượng cho sự hợp nhất linh hồn con người với Thượng đế.
Như trò chơi tình ái của Thượng đế Krishna với các nàng mục tử, trong rừng đêm
trăng.
Nghệ thuật Ấn Độ đầy táo bạo gợi tình, đầy huyền bí sắc dục vẫn
còn phơi bày lồ lộ ở Ajanta, Kailasa, Khajuraho,... tràn dâng nhựa sống, phát
tiết nhựa tình...
Đi cùng với nghệ thuật tạo hình của huyền bí nhục thể ấy là tụng
ca trữ tình thiêng liêng Gita-Govinda (Mục tử ca) của nhà thơ
Jayadeva thuộc thế kỷ mười hai. Đề tài là trò chơi tình ái của Krishna gọi
là rasa-lila khi vui đùa với các nàng mục tử (gopi) nhưng chủ yếu là
hợp hoan với riêng nàng Radha.
Theo triết lý - thần thoại Ấn Độ, trong sáng tạo Thượng đế
hóa thân vào người nam thành purusha, vào người nữ thành prakriti.
Khi hai yếu tố này hợp nhất thì sẽ phát sinh ananda (hoan lạc).
Krishna chính là hóa thân thứ tám của Thượng đế Vishnu (thần
Bảo tồn) và Radha được xem là âm thể của Krishna, người tình vĩnh cửu và tận hiến
của ngài.
Cuộc tình đam mê nồng nhiệt và vô tận Radha-Krishna tượng
trưng cho quan hệ con người với thần linh, phàm tục với thiêng liêng trong một
huyền bí sắc dục mà thơ ca Ấn Độ xưa nay không ngừng thể hiện.
Trò chơi tình ái rasa-lila vừa linh thánh vừa tràn
đầy sắc dục là tưởng tượng diễm tuyệt nhất trong văn chương mà Ấn Độ đã sáng tạo
ra.
Trong thần tích cổ xưa Bhagavata Purana, trò chơi này
(rasa-lila) đã được diễn tả sống động trong năm chương thuộc quyển mười.
Câu chuyện ấy còn được kể lại trong nhiều kinh sách khác
nhưng phải đợi đến thế kỷ mười hai nó mới thật sự tìm thấy nhà thơ thần diệu của
mình là Jayadeva.
Với mười hai ca khúc bất hủ, nhà thơ tán tụng cuộc ái ân với
mọi vẻ đẹp sắc dục của Radha và Krishna không chút ngại ngùng. Đến tận ngày hôm
nay, các đền thờ vẫn còn vang ngân tiếng tụng ca hoan lạc ái ân này. Jayadeva mở
ra thời đại mới trong văn chương Ấn Độ, làm dấy lên một sóng triều thơ ca, hát
tụng trò chơi tình ái linh thiêng khắp Ấn Độ, tạo nên ý nghĩa sâu thẳm trong
tâm thức người dân về huyền thoại Radha-Krishna.
Truyền thuyết kể rằng khi soạn ca khúc thứ mười, đến đoạn
nàng Radha sắp đặt bàn chân hồng lên đầu thần Krishna, nhà thơ do dự bỏ ra sông
tắm. Chính lúc đó, Krishna giáng bút, hoàn tất khổ thơ. Cớ gì mà ngại gót sen
đáp xuống đầu thần!
Nàng Radha còn bảo thần vẽ hoa lá lên mình trần của nàng,
trang hoàng vóc thể của nàng như thể nàng là một đền thiêng.
“Hãy vẽ một chiếc lá
Lên bầu ngực em đi
Đánh phấn hồng lên má
Tháo dây lưng bên đùi
Kết tóc em óng ả
Bằng những hoa thơm đi
Đeo chân em xuyến ngọc
Vòng tay em lưu ly
Và người tình tối thượng
Lộng lẫy với hoàng y
Nghe Radha chủ xướng
Nghe Radha thầm thì... [6,tr.73]
Không phải Radha được yêu đang ngạo mạn “vượt cấp” mà là tình
yêu đang siêu việt cả thiêng và tục!
Đọc Gita-Govinda, khó mà không liên tưởng đến Nhã
ca (Song of Songs) trong Cựu ước.
Nhã ca được Hội đồng Jamnia chọn đưa vào Thánh kinh vào
năm 100. Các tình nhân hồn nhiên tán tụng vẻ đẹp thân xác và niềm vui ân ái bên
nhau trong Kinh Thánh đã đưa đến nhiều lý giải và phản ứng khác biệt.
Như đó là tình yêu của Chúa Trời đối với dân Do Thái hay của Đức Kitô đối với
giáo hội. Như đó là khúc hoan ca hôn lễ. Như đó là thơ ca của khoái lạc nhục thể.
Nhiều nỗ lực đưa Nhã ca ra khỏi Thánh kinh hoặc hạn chế nó
trong vòng tín đồ “trưởng thành”. Có người, như giáo sư Luis de Leon ở Tây Ban
Nha trong thế kỷ 16 vì dịch Nhã ca ra tiếng Tây Ban Nha mà bị lôi ra
khỏi lớp học và cầm tù bốn năm. [10,tr.734]
Vì nằm trong Kinh Thánh, tìm đọc toàn văn Nhã
ca là điều quá dễ dàng. Chỉ xin dẫn mấy câu gần cuối khúc ca:
“Em cao như bức tường thành
Ngực như đang dựng tháp canh đôi đồi
Vào trong ánh mắt ai thôi
Cho em được đến như người được yêu.”
(Nhã ca 8:10) [1,tr.374]
Và dù Kinh Thánh cũng với văn chương Hy-La là nguồn
chính của văn học phương Tây, trong suốt thời trung đại, Nhã ca không
tạo ra một ngọn triều thơ của huyền bí sắc dục theo giọng điệu của mình
như Gita-Govinda đã làm được ở Ấn Độ.
Ở Nam Á cũng như nhiều xứ phương Đông, không có nguyên tội.
Và tính dục chưa bao giờ được xem là tội lỗi trong tư tưởng triết lý và văn
chương.
Ngay cả Phật giáo cũng có Kim Cương thừa (Phật giáo Tantra, Mật
tông, Chân ngôn tông) xem hòa hợp tính dục là siêu việt. Nhưng trạng thái hoan
lạc mê ly trong Phật giáo Tantra vẫn khác xa tính dục thông thường. Nó đi vào
tâm linh hơn là thể xác, tượng trưng hơn là thực dụng, trải nghiệm siêu hình
hơn là vật dục.
Đó là sự phối kết thượng thừa giữa thân thể và tâm linh. Như
vậy, sự hòa hợp tính dục trong Kim Cương thừa luôn mang ý nghĩa huyền bí, mật
truyền. Đó là điều mà ta có thể nhìn thấy trong văn chương, nghệ thuật và các
nghi thức Tantra ở Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Tây Tạng, Mông Cổ,... cũng như Chân
ngôn tông ở Nhật.
Có thể cảm nhận phần nào bí ẩn đó khi ta đọc Kinh Hoa
Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới thứ 39 cũng là phẩm cuối cùng.
Trên đường cầu đạo, Thiện Tài đồng tử đi đến xứ Hiểm Nạn,
thành Bảo Trang Nghiên tìm Bà Tu Mật Đa nữ đang ở tại chợ Bắc. Vì cô gái ấy rất
đẹp nên có người khuyên đồng tử chớ nên bị nữ sắc cám dỗ. Kinh viết:
“Thiện Tài thấy Bà Tu Mật Đa nữ nhan mạo đoan nghiêm, sắc tướng
viên mãn. Da màu chân kim. Tóc và mắt xanh biếc,...
Bà Tu Mật Đa nữ nói:
Này thiện nam tử! Ta được Bồ Tát giải thoát môn tên là “Ly
tham dục tế”, tùy chỗ sở thích của chúng sinh mà hiện thân...
Nếu có chúng sinh tạm thấy ta thời lìa tham dục mà được Bồ
Tát hoan hỷ tam muội.
Nếu có chúng sinh tạm cầm tay ta thời lìa tham dục mà được Bồ
Tát tam muội đến khắp tất cả cõi Phật.
Nếu có chúng sinh tạm lên chỗ ngồi của ta, thời lìa tham dục
mà được Bồ Tát giải thoát quang minh tam muội...
Nếu có chúng sinh ôm ta, thời lìa tham dục mà được Bồ Tát tam
muội nhiếp tất cả chúng sinh hằng chẳng bỏ lìa.
Nếu có chúng sinh nút môi ta, thời lìa tham dục mà được Bồ
Tát tam muội tăng trưởng phước đức tạng cho tất cả chúng sinh.
Phàm có chúng sinh nào thân cận ta, tất cả đều lìa tham dục
mà được nhập Bồ Tát nhất thiết trí hiện tiền giải thoát vô ngại.”
[8,tr.307-309]
Những hình ảnh trong câu chuyện Bà Tu Mật Đa nữ này không thể
chỉ nhìn qua đôi mắt phàm mà cần phải thấy bằng đôi mắt tâm linh khi gặp những
cầm tay, ôm ấp, thân cận,...
Và khi nhìn bằng đôi mắt tâm linh thì cũng không cần phải gọi
đó là mật truyền.
Tâm linh hòa lẫn sắc dục cũng là điều ta thường bắt gặp trong
công án và thơ thiền, đặc biệt là Zen ở Nhật với trường hợp thiền sư Ikkyu thế
kỷ mười lăm.
Ikkyu (Nhất Hưu) tìm thấy trong Thiền “cuộc tái sinh của tinh
hoa sự sống và xác định lại ý nghĩa của hiện hữu con người”, theo sự nhận xét của
văn hào Kawabata Yasunari.
Ikkyu tự gọi mình là Kyoun (Cuồng Vân) và để lại tập thơ tứ
tuyệt chữ Hán với nhân đề là Kyounshu (Cuồng Vân tập), gồm hơn ngàn
bài, trong đó nổi bật nhiều bài thơ thể hiện tình yêu nhục thể vô cùng táo bạo.
Trong Cuồng Vân tập, Thiền và tình yêu chỉ là một, theo
lời nhận định của nhà phê bình S.Kato.
Thử đọc một bài thơ của thiền sư Ikkyu:
“Khi khát hay khi lạnh
nước và lửa ước ao
Còn tôi, bầu ngực nàng nóng
và nước nàng khát khao!” [3,tr.33]
Tương đương với Thiền bên Phật giáo là huyền phái Sufi trong
thế giới Hồi giáo. Từ rất sớm, sau cái chết của nhà tiên tri Muhammad đã xuất
hiện nhà thơ nữ của huyền linh Sufi rất nổi tiếng là Rabia. Nàng sinh năm 717 ở
Basra (Iraq).
Rabia là người đẹp, hát hay, thường múa hát trong các lễ cưới
mà nhận thù lao. Rồi một ngày, bỗng dưng nàng tìm ra một điệu hát riêng. Từ đó,
nàng từ bỏ tất cả, chỉ múa hát cho Thượng đế.
Một bài ca của Rabia:
“Dựng nhà cho Người trong tim tôi
để trò chuyện như Bạn đời.
Tấm thân này dẫu trao ai khác
cho kẻ nào muốn ấp ôm tôi.
Tấm thân này xứng đáng
được thương yêu, hẳn rồi.
Nhưng trong nhà tôi vẫn ngụ Bạn đời
là Người tình của trái tim tôi.” [9,tr.3]
Sau Rabia, thơ ca Sufi càng ngày càng mở rộng ảnh hưởng với
những tên tuổi quen thuộc trên thế giới như Attar, Rumi, Sadi, Hafiz,...
Thơ ca tâm linh với huyền bí sắc dục mà ta vừa chiêm ngưỡng
không phải dễ dàng xuất hiện trong bất kỳ thời đại nào, xứ sở nào. Có những
nơi, những thời không bao giờ biết có một dòng thơ như vậy.
Người ta có thể chọn một hướng đi khác mà ở đó, tâm linh và
nhục thể bị chia tách phũ phàng. Và có khi chỉ còn lại một thứ nghệ thuật thiếu
vắng tâm linh mà cũng thiếu vắng nhục thể, không tinh thần mà cũng không tình dịch.
Chỉ còn lại một thứ nghệ thuật lờ mờ nhân ảnh hoặc một thứ nghệ thuật đậm đặc
tinh thần Thanh giáo.
Khi nhận ra nơi nhục thể ẩn chứa tất cả vẻ đẹp và huyền bí
tâm linh, văn chương sẽ có thể bước vào một thời Phục hưng mới.
Và ta có thể nói như Hafiz, thi hào Ba Tư (thế kỷ 14):
“Nhìn đi bạn ơi
Nụ cười sáng nay trên bờ môi trái đất,
Trái đất là cô gái
Đêm qua nàng ngủ bên tôi.” [4,tr.1]
Không thể không trích dẫn thêm Hafiz:
“Bởi vì Thượng đế đã
cùng với mi làm tình
Thế nên toàn vũ trụ
qua lòng mi sơ sinh”.
Thư mục tham khảo:
E.Akerley (1994), The X-rated Bible, Omar Brothers
Ch.Hill and W.Wallace (1999), Erotica, Carroll and Fraf
Ikkyu (Stephen Berg trans) (1995), Crow without Mouth,
Capper Canyon
Daniel Ladinsky (2006), A year with Hafiz, Penguin
Books.
D.H.Lawrence (1961), Phoenix, Heinemann
S.Mulchandani (2006), Erotic Literature of Ancient India,
Mercury Books
Octavio Paz (1995), The Double Flame, Harcourt Brace
Thích Trí Tịnh (dịch) (1994), Hoa Nghiêm Kinh, tập 4,
Thành hội Phật giáo
Charles Upton (1996), Door keeper of the Heart,
Rabia, S. Abdul
Yancey and Tim Stafford (1992), The Student Bible,
Zondervan
M.Yourcenar (1995), That Mighty Sculptor, Time, Noonday
17/3/2014
Nhật Chiêu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét