Văn chương và Đức tin
Từ cõi vô minh đến chân lý vĩnh hằng
Nhân loại ngày càng giảm những cuộc thánh chiến đẫm máu khởi
nguồn từ độc tôn tôn giáo. Trong sự va chạm và tương hỗ giữa các nền văn minh,
đối thoại liên tôn đáp ứng yêu cầu bức thiết của thời đại trên nhiều lĩnh vực.
Fromm khi nghiên cứu tôn giáo đã đưa ra chân lý đơn giản: “Vấn đề tôn giáo
không phải là vấn đề thượng đế mà là vấn đề con người” (Fromm, Phân tâm học
và tôn giáo). Dẫu Đức tin có khác nhau, nhưng các tôn giáo lớn đều hướng đến
khổ nạn kiếp người; xoa dịu, mong mỏi cuộc sống an yên cho muôn
loài. Trong văn chương, đối thoại liên tôn thể hiện một cách nhìn, một tư
duy đa chiều về thế giới và con người. Nó lý giải được bản chất đa phức của quy
luật cuộc sống, cũng như thế giới hữu thức lẫn vô thức của con người.
Có một kiểu nhà văn như thế
Trong văn chương Việt hiện đại, có một kiểu tác giả sáng tác
từ cảm quan tôn giáo. Nguyễn Khải tâm sự: “Tôi là người viết nhiều về các tu sĩ
của các tôn giáo lớn... Mọi niềm tin hướng về sự cao thượng đều có giá trị như
nhau”. Luận bàn về tôn giáo, Hồ Anh Thái cho rằng, tôn giáo “như một cái phanh
hãm, nó có thể phanh thắng con người dừng lại bên bờ vực tội lỗi, trước vùng
ranh giới thiện - ác, bóng tối - ánh sáng” (Dấu về gió xóa). Các nhà viết tiểu
thuyết đều gặp gỡ nhau ở quan niệm tôn giáo chạm đến nhiều vấn đề của đời sống,
là nhu cầu tinh thần của con người, rộng hơn là giá trị văn hóa nhân loại. Theo
Nguyễn Việt Hà, “với những đặc tính ưu việt mà chỉ riêng nó có, tôn giáo siêu
thăng ra khỏi những ràng buộc của cái chung và cái riêng, nói cách khác, của
cái “một” và cái “nhiều”. Nó giống hệt như cuộc sống nhưng luôn tái tạo cuộc sống
theo chiều kích hướng thượng hoặc hướng nội” (Khải huyền muộn). Tôn giáo là sự
lựa chọn đức tin của mỗi người. Viết về tôn giáo, các nhà văn đều muốn nhấn mạnh
hai mặt liên thông là đạo và đời.
Thật ra, kiểu nhà văn mà cảm thức tôn giáo làm nên phong
cáchkhông nhiều. Ở giai đoạn trước, triết luận tôn giáo là nguồn cảm hứng chủ đạo
trong tiểu thuyết Nguyễn Khải. Từ Xung đột đến những tác phẩm về sau
có sự thay đổi trong tư duy và lối viết của nhà văn. Từ chỗ viết về quyền lực tối
thượng, Nguyễn Khải quan niệm tôn giáo là sự thăng hoa, “nó sẽ thuộc phạm trù của
văn hóa chứ không còn thuộc phạm trù quyền lực như hiện tại” (Cha và con, và…);
“Tôn giáo phải tự giải phóng ra khỏi cái ám ảnh về quyền lực thì mới tồn tại được,
kể cả quyền lực về tinh thần” (Thời gian của người); từ cái nhìn đối kháng nhị
nguyên (linh mục - nhân dân, tôn giáo - xã hội chủ nghĩa, địch - ta) đến tư duy
hòa hợp (Thời gian của người, Điều tra về một cái chết). Những suy niệm tôn
giáo trong nhiều tác phẩm những năm cuối thế kỷ XX ngày càng khẳng định tầm sâu
triết luận trong tiểu thuyết Nguyễn Khải. Ông chính là nhà văn khơi nguồn cho
dòng văn học thế sự - chính luận, có tính tư tưởng. Nhưng dẫu vậy, Nguyễn Khải
là nhà văn của một thời, cho dù ông để lại “dấu vân tay” thật sắc nét trên diện
mạo văn học đương đại. Đầu thế kỷ XXI, cảm quan hậu hiện đại chi phối lối viết
của cả một thế hệ nhà văn. Các tác giả sáng tác từ cảm thức tôn giáo không nhiều;
trong ít ỏi đó, tiêu biểu là Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà v.v…
Nguyễn Việt Hà thuộc kiểu nhà - văn - liên - tôn - giáo.
Trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà không có tôn giáo nào là duy nhất. Trên nền
Kitô giáo, cảm thức liên tôn khúc xạ qua tư duy hiện sinh và lối viết liên văn
bản khiến tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà đan quyện nhiều vấn đề thuộc nhân vị bản
thể; những suy niệm tôn giáo, đức tin và sự sụp đổ đức tin, nỗi cô đơn của “kẻ
lạc Chúa”, lạc cả mọi niềm tin - “Anh là người tin có chúa GiêSu chịu nạn trên
cây thánh giá và đức mẹ Maria có con mà vẫn đồng trinh” (Cơ hội của Chúa); “Có
những thông điệp của Thiên Chúa tôi đòi thực chứng”(Khải huyền muộn). Đan
lồng những suy niệm tôn giáo vào đời sống thị dân; những triết lý siêu hình va
đập nhưng tương hỗ với triết lý đời sống thực tiễn, làm nên những mẩu sinh động
về đạo và đời trong tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà. Các tín điều siêu nhiên về tôn
giáo ẩn sau số phận của nhân vật, hoặc qua diễn ngôn triết lý của tác giả,
nhân-vật-nhà-văn. Trong lời của nhà văn, triết lý Phật giáo, đan xen lời Chúa,
sách Khải Huyền, Kinh thánh, Kinh Phật lẫn Kinh Qur'an, chưa kể lời Khổng Tử,
Lão Tử…, thuyết tiến hóa, tà giáo, Thần học, cái Ác và đạo đức sinh thái (Cơ hội
của chúa, Ba ngôi của Người, Thị dân tiểu thuyết). Trong Khải huyền muộn,
nhà văn Vũ loay hoay tìm ý nghĩa sống trong nhốn nháo cõi người - “Giữa trắng
và đen. Giữa trong và ngoài. Đấy là Trung Dung của Khổng Tử hay là Trung Đạo của
đức Phật. Mình đang là Mê hay là Ngộ. Có cái gì đấy không phải, kể cả đến lúc ấy
hình như Vũ đã đọc tập bản thảo Thần học của cụ linh mục Đức. Ta ước gì ngươi
hoặc nóng hoặc lạnh thì tốt. Nhưng vì ngươi âm ấm - không nóng cũng không lạnh
- nên ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. Đấy là nguyên văn lời trong sách Khải
Huyền”. Quan niệm về văn/nhà văn chêm xen, ẩn lồng trong những ý niệm tôn giáo
khiến cho những phát ngôn nghệ thuật của Nguyễn Việt Hà thoát khỏi tính sáo
mòn. “Tôi là người mong manh có đức tin và tôi là nhà văn”; “Đức Phật đã từng
tuyên xưng, trong bốn mươi chín năm thuyết pháp ngài không hề nói gì… Chao ôi,
hạnh phúc làm sao được thành nhà văn mà vô ngôn”. Vô ngôn, “dĩ tâm truyền tâm”
là đích đến của các tiểu thuyết gia tầm cỡ. Dẫu vậy, tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà
lại rườm rà một cách cố ý. Điều đó làm nên một phong cách. Luận bàn tôn giáo từ
lối viết trò chơi hậu hiện đại tung hỏa mù, láo nháo và trang nghiêm, thiêng và
tục, siêu hư cấu… tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà không dễ “đọc”.
Riêng và “lực lưỡng”, Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn
mà mỗi tác phẩm là những vỉa tầng hòa nhập và khu biệt giữa các tôn giáo lớn. Trong
tiểu thuyết Hồ Anh Thái, bên cạnh nền văn hóa này cũng tồn tại một/ nhiều
nền văn hóa khác, bên cạnh tiếng nói của Đức tin này, còn vang lên tiếng
nói của các Đức tin khác. Cho rằng nhãn quan Phật giáo là yếu tố làm nên
tư tưởng văn chương Hồ Anh Thái không sai nhưng vẫn là phiến diện. Dấu về
gió xóa mang triết lý vô thường với những mạch ngầm đối thoại giữa Phật
giáo, Kitô giáo, Hồi giáo và một số tôn giáo khác. Năm lá quốc thư bên
cạnh những vấn đề về căn tính Việt, còn có một những mảnh ghép về Hồi
giáo. Cõi người rung chuông tận thế đan xen Phật giáo, Ki Tô giáo và
tín ngưỡng dân gian. Kể cả Đức Phật, nàng Savitri và tôi là cuốn tiểu
thuyết về Phật sử, với quan niệm luân hồi, kiếp trước kiếp sau, cũng không đơn
thuần là độc tôn tôn giáo. Tiếp nhận các luồng tư tưởng lớn; vốn tri thức đồ sộ
cộng với những thực chứng từ nhiều vùng đất thánh nhà văn đã đi qua, tất cả đã
chuyển hóa thành những khái quát nhân sinh mang tầm triết lý. Ghép vào một
khung khổ, vô hình trung làm giảm tầm tư tưởng của văn chương Hồ Anh Thái, dẫu
đa phần nhà văn chỉ viết những chuyện đời phàm, bằng diễn ngôn phi “chính ngữ”,
phi nghiêm túc (đôi khi ồn ào quá do cách cường điệu hóa để cợt giễu của nhà
văn). Ở những tác phẩm sau, giọng bông đùa vẫn là giọng chủ, nhưng không ồn ào
mà kín và sâu qua lối liên tưởng bất ngờ dí dỏm. Hồ Anh Thái thường giành lời của
nhân vật. Và khi không để nhân vật lên tiếng, lời thoại giảm đi thì nhà văn nói
nhiều hơn nhân vật (những tri thức, suy ngẫm, luận bàn kết nối nhau tải dài mạch
truyện). Nhưng phải chăng, cái nói, cái “nhiều lời” ấy lại là điều thể hiện rõ
nhất một cái - tôi - im - lặng tri nhận rõ những chìm nổi phận người trong thời
đại “Chúa/ Phật đã bỏ loài người” (TCS). Bên trong một cái tôi bông đùa, châm biếm
là một cái tôi khác cay đắng, hoài nghi về những gì đã đặt niềm tin - “… càng đi
càng mất dấu. Tìm dấu một cơn gió vừa đi qua trên bãi cỏ. Tìm dấu một con tàu vừa
đi qua giữa đại dương” (Dấu về gió xóa). Khi Hồ Anh Thái viết về nhân quả, báo ứng,
cảm giác đắng chát nhiều hơn là phẫn nộ. Những nhốn nháo con người chỉ là phần
nổi đằng sau đó là những trầm tư day dứt về cõi thế. Quyền lực trần thế đã lấn
át, niềm tin chao đảo, phận người chênh chao. Câu hỏi về bản thể day dứt sau những
luận bàn tôn giáo: “Đi hay về? Đi đâu cho thoát kiếp người? Đi đâu cho thoát
chính mình?” (Dấu về gió xóa).Những suy niệm tôn giáo ẩn sau giọng châm biếm cợt
nhả; kể cả tính dục - lạc thú muôn thuở của con người. Và phải chăng cái hài,
grotesque hay cường điệu… cũng chỉ là để khỏa lấp, che chắn cô đơn giữa một cõi
thế quen thuộc mà xa lạ.
“Tôn giáo là thông dự chứ không phải là bàn thuyết” (Mircea
Eliade, Nguồn gốc các tôn giáo). Trong tiểu thuyết, tư tưởng tôn giáo
không thể tồn tại ngoài ngôn ngữ. Nhà văn khi viết về đức tin tôn giáo cần có
diễn ngôn riêng. Hồ Anh Thái ít “bàn thuyết”. Không quá thiên về trích dẫn Kinh
thánh, Phúc âm, Tứ Diệu Đế..., những ý niệm siêu hình ẩn ở mạch ngầm văn bản,
qua sự liên kết, chêm xen, ghim vào những huyền tích, biểu tượng thể hiện niềm
tin tâm linh. Từ một biểu tượng xuất hiện với tần suất lớn trong nhiều tác phẩm
của Hồ Anh Thái là “tiếng chuông”, có thể “đọc” được đối thoại liên tôn khúc xạ
qua cái nhìn thế tục hóa. Dấu về gió xóa là tác phẩm luận bàn nhiều về
đa thần, đa giáo. Tôn giáo nào cũng hướng con người đến an lành. Vì vậy, ở Đảo
Xanh (thiên đường và địa ngục cũng tại chốn này) có một ngôi đền Đa giáo,
Hợp chủng giáo; có tiếng chuông dành cho mọi tín đồ: “Chuông nhà thờ đánh suốt
ngày, ban đầu là đánh chuông cho người Tin Lành người Thiên Chúa giáo. Sau rung
chuông cho người Hindu, người Hồi giáo người Hỏa giáo, sau thỉnh chuông cho Phật
giáo”. Âm thanh tiếng chuông mang nhiều “tiếng nói”. Trong Đức Phật, nàng
Savitri và tôi, khi cái ác của tà giáo nấp bóng, tiếng chuông không còn mang ý
nghĩa từ bi hỷ xả, hay cứu rỗi. Ngày phán xử cuối cùng đã đến, khi tế sư Bà La
Môn lảo đảo, tóm được quả chuông nhỏ trong lòng bàn tay, tiếng chuông chỉ “leng
keng vài tiếng rồi bị đứt ra khỏi dây rơi xuống cùng thân hình tế sư đổ xuống”
giàn thiêu đang bốc lửa từ bên dưới. TrongCõi người rung chuông tận thế, là tiếng
chuông nguyện hồn cho cái chết tức tưởi của một phận người rách nát không chốn
nương thân, không một niềm tin cứu rỗi - “Âm thanh như một núi mảnh thủy tinh sắc
vụn trút xuống…, xây thành mộ cho một linh hồn đột tử oan uổng”; là một “bản
hòa âm những tiếng chuông xôn xao, phấp phỏng, vang động những lời cảnh báo”
trên con đường sám hối đầy nhọc nhằn của Đông, kẻ từng đứng về cái ác… Kết thúc
câu chuyện về cái ác là thông điệp mang tinh thần Thuyết mạt thế, diễn ra trong
thế kỷ của văn minh công nghiệp và đạo đức sinh thái. Vang lên từ không gian Phật,
nhưng như một mặc khải tận thế, tiếng chuông chùa hối hả như một lời cảnh tỉnh
về sự tận diệt, khi con người mù mờ trong cõi vô minh, để cái ác ngự trị. “Bất
đồ chuông chùa rung thảng thốt... Sư cụ đã bị cướp mất bình yên.
Chuông giận dữ đổ ập vào không gian… Cả cõi người bị nhấn chìm trong một
trận hồng thủy ngập tràn kim loại”. Trong âm thanh tiếng chuông chùa hoảng
loạn là “sấm ngôn” về “thời giờ đã gần đến”, về “một điều gì đó sắp phải xảy
ra”, trong đó có mặc khải tận thế (Kinh Thánh). Bạo lực làm xói mòn nhân tính,
hủy diệt nhân vị. Hồng - thủy - kim - loại là cảnh báo về tình trạng phi nhân dẫn
đến tận diệt. Nền văn minh phi tự nhiên phá vỡ thiết chế đạo đức văn hóa loài
người. Quyền năng là do Đấng Sáng Thế. Nhưng với cái nhìn thế tục và tư duy đối
thoại, Hồ Anh Thái đặt ra câu hỏi khác: Đâu là “quyền năng” của con người trong
việc biến cuộc sống thành đại họa. Tôn giáo có chức năng cứu vớt con người,
nhưng đôi lúc đức tin tôn giáo trở nên mong manh trước quyền lực trần thế. “Tai
họa rồi. Tận số rồi. Đảo chìm… quá tải vì tội lỗi của con người… Trời đất trừng
phạt rồi…” (Dấu về gió xóa); “Cõi nhân gian như đang kề bên bờ vực hủy diệt. Động
đất ở Nhật. Lụt lớn ở Trung Quốc. Sóng thần ở Bangladesh. Những trận nóng kinh
hồn và bất thường ở những xứ như Pháp, Anh, thậm chí cả ở Mỹ, làm chết hàng
nghìn người. Vậy thì chẳng phải cái hố đen diệt vong đã bắt đầu hiện ra rồi
sao?” (Cõi người rung chuông tận thế).
Thiện - Ác và Đức tin
Đạo đức xã hội dựa trên nền tảng Thiện và Ác. Mọi tôn giáo đều
ngăn chặn con người làm điều ác. Văn chương viết nhiều về cái ác, có những tác
phẩm đẩy đến tận cùng tội lỗi, nhưng bên trong vẫn là hạt nhân thiện lành. Hồ
Anh Thái là một trong những nhà văn sớm viết về cái ác với quan niệm “Cuộc sống
chỉ chia ra hai màu Thiện - Ác, không hơn” (Dấu về gió xóa). Từ cảm thức tôn
giáo,mọi tội lỗi - trừng phạt trở thành chủ đề đạo đức phổ biến trong văn
chương. Nếu Kitô giáo tin vào một đấng thượng đế toàn năng sáng tạo thế giới
thì Phật giáo không có khái niệm về một đấng cứu thế. Phật giáo quan niệm rằng
mọi hiện tượng đều tùy duyên - “Do cái này sanh, cái kia sanh”; “do cái này diệt,
cái kia diệt”; gieo nhân nào thì gặt quả ấy. Kitô giáo không có khái niệm
về thuyết nhân quả. Tuy vậy, các tôn giáo đều có điểm tương giao là tin có báo ứng
trong cuộc đời như một quy luật tất yếu. “Vì chúng nó đã gieo gió và sẽ gặt bão
lốc”, “Tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì gươm” (Sách Khải huyền). Đề cập
nhân quả, bảo ứng khiến các tôn giáo có sự gặp gỡ trong niềm tin tâm
linh. Cõi người rung chuông tận thế là tột cùng tội ác và hình phạt.
Nhóm gây tội ác phải đền tội, từng người một (mọi thứ làm ác và sự trừng phạt đều
cùng khuôn đúc). Giữa cõi người nhốn nháo ta bà, cô gái mang vác sức nặng của
thập tự giá - “Các chị hãy khai sinh cho cháu là Nguyễn Thị Mai Trừng. Mai ngày
cháu lớn, cháu sẽ đi trừng phạt kẻ ác”. Lời trăng trối của người mẹ như “vòng
kim cô” trói buộc để cô gái mãi mãi đồng trinh. Nỗi khao khát đàn bà bật lên thành
lời cầu khẩn - “Cho con thoát khỏi sứ mệnh ấy”. Với cái nhìn huyền thoại lẫn thế
tục, Hồ Anh Thái đã tạo nghi lễ tâm linh mang tinh thần phương Đông để giải
thoát cho Mai Trừng, trả cô về cõi người dẫu còn quá nhiều khổ lụy: “Diệt trừ
cái ác là việc của mọi người, sao lại bắt một đứa con gái đơn độc như con phải
làm việc ấy?”.
Theo Phật, cuộc đời con người được vận hành bởi nghiệp. Con
người chịu trách nhiệm trước hành vi tội lỗi của mình. Theo Chúa, con người làm
điều ác sẽ bị trừng phạt bởi một đấng quyền năng. Sự trừng phạt trong Mưa ở
kiếp sau (Đoàn Minh Phượng) thật dữ dội. Đối thoại liên tôn đan xen vào những
lời độc thoại vang lên từ hai nửa con người thù hận và hỉ xả cùng tồn tại trong
Mai. Tội lỗi của người cha kết hình thành bóng ma lẩn quẩn trong thân thể Mai,
không siêu thoát: “Cha yêu mẹ nhưng lại làm dì sinh ra con lúc mới mười lăm tuổi”;
“Cha không hiểu đứa con gái bị cha mình úp chiếc gối vào mặt thì nó thèm được
thở như thế nào”. Hình phạt đứa con dành cho ông thật nặng nề (phá trinh của
chính con gái mình), đẩy ông đến tận cùng tội lỗi “để cha quỵ xuống và trở lại
làm người”, để ông phải cay đắng, sụp đổ, và thức tỉnh. Lời kết tội của Chi
(bóng ma bé gái chỉ vài tháng tuổi) như lời phán-xử-cuối-cùng: “Tội lỗi này
ngang với tội giết tổ tông. Thế giới của ông sẽ vỡ tan. Chỉ trong sự đổ vỡ ông
mới nguyên lành trở lại. Người Thiên Chúa rửa tội bằng lửa, Mai có biết
không?”. Lời của Mai (đứa con gái mười tám tuổi) như lời - sám - hối, xưng tội:
“Thứ định mệnh nào đã bắt tôi ngồi đây, trên hai đầu gối của mình, dưới chân
ông, đợi chờ tội lỗi xảy ra, tội lỗi cuối cùng đốt cháy tất cả tội lỗi trước
đó…”; “Khi vũng máu hồng trinh tiết đã chảy ra và thấm vào làn vải trắng tinh…
con sẽ quỳ trước mặt cha và nói: Con là con gái của cha”; “Chỉ một khoảnh khắc
nữa thôi. Nhưng tôi không vượt qua được khoảnh khắc đó”. Trong cơn hoảng loạn,
chấn thương, hơn bao giờ hết, Mai cần “dựa vào bàn tay của Phật nâng cho tôi
không ngã”; “Tôi khấn, van nài, xin Đức Phật đến với con, một lần, trong giờ
phút con cần nhất, để con không tan ra trong nỗi khổ đau này”. Nhưng mãi mãi với
Mai, kẻ mang vác tội lỗi từ bóng ma Chi, tiếng chuông chùa "tịch mịch hơn
cả sự yên lặng” không “làm tan nỗi buồn đã kết tinh thành Chi” trong thân xác của
mình. Qua một cốt truyện đầy oan trái, qua sự giằng xé đấu tranh giữa tội lỗi
và cứu chuộc, Đoàn Minh Phượng khắc họa một thế giới bên trong quá nhiều bất ổn,
có những chiều tâm linh được lý giải bằng đức tin tôn giáo.
Con người thân phận là giao điểm giữa tôn giáo, văn chương và
cảm thức sáng tạo của nhà văn. Từ một lối viết khác, trong tiểu thuyết của Nguyễn
Khắc Ngân Vy, sự trừng phạt không đến từ bên ngoài, mà diễn ra ở nội giới, nó
làm nên bi kịch số phận đàn bà. “Hãy ăn năn và tin vào Phúc âm”. Lấy tên tác phẩm
là Phúc âm cho một người, Ngân Vi không vướng mắc vào những giáo điều, triết
thuyết; về nghệ thuật cũng không quá bị chi phối bởi trò chơi cấu trúc. Đối thoại
tôn giáo/liên tôn âm thầm diễn ra ở nội tâm của một người đàn bà khốn khổ khốn
nạn. Những dòng tự vấn, độc thoại không tuôn trào mà chậm chạp, hổn hển, đứt nối,
như cõng theo mặc cảm về tuổi già, bệnh tật và tội lỗi. Niềm kính Chúa và những
hoài nghi về một đấng cứu rỗi, niềm kiêu hãnh Mẹ lẫn tội ngoại tình cứ lẫn lộn,
day dứt thành mặc cảm trong mơ trong thức của người đàn bà chịu quá nhiều khổ nạn
đời thường. Tội ngoại tình của người tuổi xế chiều xuất phát từ niềm khao khát
được chở che, được quan tâm, nhưng sự gần gũi về thân xác rốt cục chỉ mang lại
cảm giác ê chề, đầy mặc cảm. Ân điển không thuộc về một người đàn bà trót không
tin vào Chúa bởi Người đã khước từ một con chiên khốn khổ và luôn ý thức về số
phận đời người. Triết lý phận người đan xen trong nỗi hoài nghi về sự có mặt của
Đấng sáng thế trong cuộc sống trần gian khổ ải: “Thượng đế đã chết” hay không
thuộc về những phận người mong manh nhỏ bé?… Ta cứ quay cuồng trong câu hỏi
mình là ai, mình từ đâu đến và mình sẽ đi về đâu. Tôn giáo giúp ta trả lời, hay
tôn giáo chỉ là lợi dụng cái sự ly hương cố hữu trong bản ngã con người để đưa
người ta vào u mê bị dẫn dắt bởi quyền lực”. Hành vi xưng tội của bà Khuê bắt
nguồn “từ tâm trạng bơ vơ không người giúp đỡ của con người khi phải đối đầu với
sức mạnh của bản năng bên trong” (Freud, Tương lai của một ảo tưởng). Chòng
chành giữa mặc cảm tội lỗi và nhu cầu chuộc lỗi, với bà Khuê - “Chúa tôi! Thánh
giá này quả là nặng quá”. Vừa kính Chúa vừa mất niềm tin về một thượng đế nhân
từ, vừa cầu mong cứu rỗi vừa hoài nghi được cứu rỗi, người đàn bà ấy lại quay về
với thực trạng cô đơn và chìm trong ký ức. Mùi hương trầm trong tang lễ mà đứa
bé gái từng hít hà thuở ấu thơ và mùi nước hoa hồng xức mình thánh cứ quyện
hòa/tách bạch trong ký ức lẫn thực tại rối bời của một người đàn bà tội lỗi. Tiếng
chuông nhà thờ giục giã như nhắc nhớ về tuổi thơ đã trôi xa và tội lỗi thật gần.
Bà thấy mình “đang bị lột trần ra, không nơi trú ngụ”. Con đường tìm lại Đức
tin của người đàn bà với “bầu ngực lòng thòng cả đời dâng hiến cho công cuộc bú
mớm của lũ con. Và cho cả bọn đàn ông cả đời khát mẹ” quá nhọc nhằn. Liệu có ân
sủng nào cứu chuộc mọi tội lỗi của người đàn bà ấy? Niềm tin Phúc âm phải chăng
là ảo tưởng?
“Thượng đế chỉ có một, tất cả các tôn giáo đều chung một mục
đích đưa con người ta đến bến thiện, dạy họ ăn ngay ở lành. Khác nhau giữa các
tôn giáo chỉ là quan điểm sống, hành lễ, phong tục mà thôi…” (Nguyễn Việt Hà).
Tư duy liên tôn khiến văn chương Việt về “đề tài” tôn giáo ngày càng có tầm cao
và chiều sâu. Niềm tin tâm linh khúc xạ qua văn chương trở thành lời cảnh tỉnh,
hướng dắt con người đến cái Thiện. Hòa hợp tôn giáo, văn chương hướng đến hằng
số chung của các tôn giáo là đưa con người từ cõi vô minh đến chân lý vĩnh hằng
là chân thiện mỹ.
16/6/2020
Lê Thị Hường
Theo http://www.vanhoanghean.com.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét