Đã
có nhiều bài nghiên cứu về Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) và khẳng định ông là
người có tư duy vượt thời đại, một người Công giáo yêu nước. Điều này không
còn tranh cãi nữa vì có những điều ông viết cách đây 150 năm, mà vẫn nóng bỏng
tính thời sự như chống tham nhũng, buôn lậu, mở cửa đầu tư với nước ngoài, về
việc cải cách giáo dục…Ông canh cánh bên lòng suy tư làm sao cho nước thịnh đủ
sức đánh đuổi thực dân Pháp trong khi triều đình có chính sách hà khắc với đạo
Công giáo mà ông lại là tín hữu. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến
một khía cạnh khác: ông là một triết gia lớn ở Việt Nam thế kỷ XIX.
Nguyễn
Trường Tộ thông minh, học giỏi nhưng ông không theo đuổi nghiệp quan trường.
Cũng có thể, ông biết rõ dù có học giỏi cũng không được dự thi vì ông là người
Công giáo. Bởi theo chỉ dụ của vua lúc bấy giờ, dân theo đạo không được phép
đi thi. Cũng có thể ông bị ảnh hưởng tư tưởng coi thường công danh của
các thày dạy như Tú Giai, Cống Hữu nên đã đoạn tuyệt với những “cạm bẫy” của
người đời như chính ông viết trong “Bài trần tình” rằng: “Từ bé tôi đã thận
trọng trong việc giao du, thích yên tĩnh đối với tất cả những sự cầu danh, lấn
lướt, giành công tham lợi, tôi đều coi như mây bay nước chảy. Vả lại, tôi
không ham thích kinh doanh, không thích chuyện vợ con, đoạn tuyệt với hai cạm
bẫy tài sắc” (1). Ông là người Công giáo đạo hạnh. Đang dạy học, trò theo rất
đông nhưng khi cha xứ yêu cầu ông sang dạy tiếng Việt cho Giám mục Ngô Gia Hậu
(Gauthier), ông xếp lớp đi ngay, không hề tính toán thiệt hơn. Vì ai cũng biết,
đi làm việc chung xưa nay nào có công xá gì. Được giáo xứ cho ăn là tốt rồi.
Triều đình cấm đạo gắt gao, ông không sợ liên luỵ mà táo bạo gửi điều trần
cho vua can gián. Lời lẽ thật mềm dẻo nhưng sắc sảo khôn ngoan: “Xét ra đạo
Công giáo vào nước ta từ thời Lê…lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba
đạo (Phật, Lão, Khổng), tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón
nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước
nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị
nhau, do ghen ghét mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi
phải lưu ly thất sở mà mắc vào hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị
đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trở lại trong” (2). Theo chúng tôi, Nguyễn Trường
Tộ là người đầu tiên đưa ra khái niệm “đồng hành” trong bài “ Bàn về tự do
tôn giáo” viết ngày 29-3-1863. Ở đây, ông cũng đưa ra những quan niệm đúng đắn
mà đến hôm nay các nhà làm luật liên quan đến tôn giáo cũng vẫn phải tuân
theo như những nguyên tắc để vừa đảm bảo được tự do tín ngưỡng tôn giáo vừa
chống được sự lợi dụng tôn giáo làm những điều sai trái. Ông viết: “Giáo dân
cũng do tạo vật sinh dưỡng và đạo giáo cũng do tạo vật bảo dưỡng huống
chi giáo dân cũng là một thành phần của nhân dân trong nước. Trong số đó, nếu
có kẻ bội nghịch chẳng qua chỉ là một phần nghìn, phần trăm mà thôi… Bất kỳ
trong đạo giáo nào, hễ ai phản nghịch loạn thường đều là người đắc tội trong
tôn giáo, cứ áp dụng hình phạt không tha để cho tôn giáo được trong sạch. Còn
ai yên phận tuân theo pháp luật thì để cho họ tự nhiên, có gì hại đâu? Đồng
hành mà không nghịch nhau là được” (3). Ông luôn có ý thức về bổn phận
công dân rất cao. Nhiều lúc, vấn đề quốc gia, dân tộc được ông đặt lên trên cả
các lợi ích tôn giáo thông thường. Chẳng hạn, có những việc, ông đề nghị đừng
cho các Giám mục, linh mục biết, hoặc tranh thủ cả Vatican để tạo lợi thế cho
nước ta. Cũng chính ông đưa ra một ý tưởng hoàn toàn mới mẻ là Giáo hội Việt
Nam phải giao cho người Việt Nam cai quản. Điều này, mãi đến những năm
sau cách mạng tháng 8-1945 mới được nhắc lại và đến năm 1960 mới thành hiện
thực khi Đức Gioan XXIII ra sắc chỉ thiết lập hàng giáo phẩm nước ta. Ông viết:
“Năm trước, tôi đã bẩm miệng với quan Thượng thư Bộ Binh và Bộ Hộ, muốn nhân
lúc đi Tây mà xin với Giáo hoàng, rút giáo sĩ Pháp về và chỉ giao cho giáo sĩ
nước ta trông nom hoàn toàn việc đạo giáo. Tôi nói như thế, không phải là phản
đạo mà chính là để bảo vệ đạo” (4).
Đọc 58 Di thảo của
ông, chúng ta phải thật sự kinh ngạc vì sự am hiểu sâu sắc rất nhiều lĩnh vực
từ khoa học tự nhiên đến công nghệ máy móc, từ khoa học xã hội đến quốc
phòng, ngoại giao. Ông xứng đáng được coi là người sáng lập hay người phác thảo
những ý tưởng khai sinh ra rất nhiều ngành khoa học ở nước ta như nông nghiệp,
thiên văn- địa lý, luật học, ngoại giao, thương mại, giáo dục…Ví dụ nghành
nông nghiệp mà ông gọi là ngành nông chính, sau khi đã xác định tầm quan trọng
của nông nghiệp với kinh tế xã hội, ông đưa ra một loạt kiến nghị như xuất bản
một bộ sách “Nông chính toàn thư” ghi chép tất cả những kinh nghiệm hay trong
dân gian cũng như ở các nước về trồng cấy, chăn nuôi, chế tạo công cụ. Rồi
đào tạo quan lại chuyên trách về nông nghiệp đi khắp nước khảo cứu toàn bộ đất
đai để xem đất nào trồng cây gì, nuôi vật gì thì thích hợp, nơi nào cần khai
hoang, nơi nào cần tưới, tiêu. Ông đề nghị thành lập Bộ canh nông chăm lo
phát triển nông nghiệp, cử người đi học ở nước ngoài, tính lại thuế ruộng cho
phù hợp với đất và đặc biệt phải dạy cho dân biết trồng cấy, chăn nuôi không
để phó mặc cho tự nhiên như bấy giờ. Rồi ông đề nghị phải lo trồng rừng để chống
lũ lụt và phải giao đất cho dân trồng cấy, chăm sóc để chỗ nào cũng có chủ,
không để cảnh tự do chặt phá bừa bãi. Những điều này chúng ta cũng mới tiến
hành gần đây và vẫn đang tiếp tục phải hoàn thiện.
Là người theo
Nho học nhưng ông lại rất muốn học những cái hay, cái tiến bộ của xứ người
đưa về áp dụng trong nước chứ không bảo thủ. Ông đề nghị dùng cách học gắn với
thực tế, dùng phương pháp đánh giặc bằng cả quân sự, chính trị, ngoại giao,
dùng kế hoà hoãn để nuôi lực lượng, liên minh với Anh, Ý để đánh Pháp, mở cửa
mời nước ngoài vào làm ăn khai thác và dùng cả mật kế nội gián để đánh Pháp từ
trong vùng Pháp chiếm đóng do chính ông vạch kế hoạch và thực hiện. Có một thời
gian khi theo Giám mục Hậu vào Sài Gòn từ năm 1859 đến năm 1862, vì có mong
muốn được ra nước ngoài học hỏi nhưng bị kẹt lại, ông nhận làm phiên dịch
cho Pháp nhưng ông luôn tận dụng mọi thời cơ để theo dõi tình hình địch, làm
sai lạc các tài liệu có liên quan đến nghĩa quân hoặc chỉnh lại lời văn trong
các văn thư của triều đình nhằm giữ được thể diện quốc gia… Một số người cho rằng
ông theo Tây làm ông rất đau khổ, mặc dù chính ông đã từ chối nhận chức Bộ Hộ
của Pháp để trở về chấp nhận cảnh nghèo khó. Cho đến tận cuối đời, dù bao kiến
nghị bị xếp xó nhưng khi bị bệnh nặng, ông vẫn còn gửi nhiều bản điều trần nữa
vẫn với hy vọng nó giúp ích cho nước nhà. Điều đó chứng tỏ lòng yêu nước
trong ông nồng thắm đến mức nào!
Nguyễn Trường Tộ
không chỉ là người Công giáo yêu nước, ông còn là một triết gia lớn của Việt
Nam thế kỷ XIX.
Trong lịch sử tư
tưởng Việt Nam, thật ít người thể hiện tư tưởng triết học rõ ràng như ông.
Không ít người ca ngợi K.Mark là nhà triết học vĩ đại của chủ nghĩa Mac xít.
Nguyễn Trường Tộ có thể coi là người sinh cùng thời với K.Mark (1818), và
F.Engel (1820). Không rõ ông có được tiếp xúc với các tác phẩm của Mark,
Engel không, nhưng đọc Di thảo của ông, chúng ta bắt gặp rất nhiều luận điểm
triết học tương đồng. Ông viết: “Bởi vì có đủ cơm ăn, áo mặc rồi mới nói đến
chuyện vinh hay nhục mà muôn việc ở đời cơ bản là sự nuôi sống. Nếu không đủ
nuôi sống, bản thân còn không bảo tồn được nói gì đến chuyện khác ngoài bản
thân…Nếu bị cái nghèo đói thúc bách thì lo kiếm sống cũng không xong còn đâu
mà bàn lễ nghĩa” (5). Đây chính là quan niệm duy vật lịch sử mà Mark đã chỉ
ra.
F.Engel viết: “Mark là người đầu tiên đã phát hiện ra quy
luật phát triển của lịch sử loài người, nghĩa là tìm ra cái sự thật giản đơn,
trước hết con người cần phải ăn uống, mặc trước khi có thể lo đến chuyện làm
chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo” (6). Như vậy, nếu Nguyễn Trường Tộ
không đọc Mark mà ông có được luận điểm như trên thì ông thật sự là một triết
gia duy vật lớn. Chính ông cũng phát hiện ra yêu cầu khách quan của sự sinh tồn
trong xã hội. Ông viết: “Tôi thiết nghĩ, trong ngũ phúc, phú đứng đầu, triệu
dân trước tiên lo ăn. Sách Luận ngữ nói, làm giàu có rồi mới giáo dục. Mọi việc
trên đời hễ việc gì có công dụng lớn thì rất khó làm. Công việc của con người
không gì lớn hơn là làm ra của cải để nuôi sống” (7).
Ông nhận ra thế giới vô cùng phong phú, đa dạng: “Trời đất
sinh ra muôn vật không chỉ sinh một khuôn mẫu nào, không thiếu một bên nào, một
chức phận nào hay một sinh vật nào mà sinh ra vô số hình thù khác nhau, xu hướng
khác nhau để thu phục thống trị chúng, do đó mới thấy được cái phong phú, vĩ
đại tinh xảo, kỳ diệu của trời đất” (8). Rõ ràng, thế giới quan của ông
là thế giới quan tôn giáo vì ông là người Công giáo mộ đạo nhưng khi nhìn nhận
xã hội, xem xét một vấn đề cụ thể, ông lại có cái nhìn biện chứng duy vật.
Ông khẳng định, không có sự vật tồn tại một mình, cô lập, chỉ có các sự vật tồn
tại trong mối liên hệ với các sự vật khác. Trong bài “ Tế cấp bát điều”,
ông viết: “Mọi vật sinh ra trên đời, vật gì cũng có phần thụ hưởng và phần cống
hiến của nó. Chưa từng có một vật nào tồn tại một mình không có quan hệ dính
dáng vào đâu cả” (9).
Xem ra đức tin của
ông không cản trở việc ông tiếp thu các tri thức khoa học cũng như những năm
tháng theo Nho học không gò bó được tư duy của ông phải khuôn mẫu theo quan
điểm Khổng- Mạnh. Lúc đó, giáo hội không đồng tình với thuyết nhật tâm của
Copecnic nhưng ông lại say sưa chứng minh cho nó là đúng đắn bằng những lập
luận rất hùng hồn trong “Bài tựa sách Đàm thiên luận” và đưa ra nhận định rất
táo bạo và có vẻ ngược đời với trình độ dân trí ở ta lúc bấy giờ khi cho rằng: “ánh
sáng cũng là vật chất trong vũ trụ” (10). Nguyễn Trường Tộ tiếp thu tư tưởng
triết học biện chứng của Lão Tử để vận dụng vào xem xét các hiện tượng xã hội.
Ông viết: “Hơn nữa, việc đời thường thường chưa có việc gì hoàn toàn có lợi
mà không có hại, chỉ do con người biết tuỳ cơ ứng biến mà thôi. Trí lực không
bao giờ cùng, trong lợi có hại” (11). Lão Tử nói rằng, trong vạn vật, không vật
nào không cõng âm và bồng dương, nhân chỗ xung nhau mà hoà với nhau (chương
42, Hà thiên, Đạo đức kinh).Thế nhưng trong khi Lão Tử chủ trương “vô vi” thì
Nguyễn Trường Tộ lại cho rằng “trên thế gian lẽ nào có chuyện không làm mà tự
trên trời rơi xuống cho đâu?” (12). Ông còn đi xa hơn khi khẳng định thế giới
này là có thật chứ không phải tưởng tượng và khả năng nhận thức của con người (cụ
thể ở đây là các nhà khoa học) là vô tận. Ông viết: “Phàm nhà khoa học
thì bụng phải bao hết những việc xưa nay, mắt trông khắp trời đất, tinh thần
chu du tận cõi xa xăm, tâm hồn thấu đến chỗ u huyền. Như vậy mới sáng suốt mà
tâm đắc được những gì người xưa không thể nói hết, mắt trông thấy hiện tượng
mà tâm trí bao trùm sự hiểu biết ngoài hiện tượng đó. Bởi vì trời tuy cao, đất
tuy xa nhưng đều có sự thực chứ không chìm vào hư vô…Tuy nói sự thực nhưng nó
cao dày, thâm thuý vô cùng, thấy như gần nhưng thực là xa, thấy như nhỏ
mà thực là lớn, thấy như tĩnh mà thực sự là động, thấy như nghịch mà thực sự
là thuận, thấy như không có nguyên tắc mà thực sự là có nguyên tắc, thấy như
trừu tượng mà thực sự là cụ thể” (13).
Nói như ngôn ngữ triết học ngày nay thì Nguyễn Trường
Tộ đã nhận ra sự thống nhất của các mặt đối lập, ông có tư duy biện chứng. Mặc
dù không đưa ra khái niệm lượng-chất, nhưng ông đã thấy những mặt đối lập tồn
tại trong nhau, cùng nhau và có thể biến đổi cho nhau nữa nếu vượt quá “độ”.
Trong bản “Thảo gửi Tây soái”, ông đã phân tích lợi hại khi Pháp chiếm Nam Kỳ:
“Cái thay vì để nuôi người giờ trở thành cái làm hại người. Cho dẫu có quyết
định đánh lấy người ta cho được thì cũng chỉ tạm thời mà thôi và cái được
cũng bù vào cái mất. Người bị hại nhưng ta đâu chỉ có lợi mà không hại? Cuối
cùng cái gì quá cực độ của nó cũng sẽ phản ngược trở lại” (14).
Nguyễn Trường Tộ dùng tư duy logic để xem xét, phân tích
các mối quan hệ của những sự vật, hiện tượng phức tạp trong xã hội để tìm ra
cái cơ sở hưng thịnh của quốc gia đó là của cải. Dĩ nhiên không chỉ có của cải
vật chất vì theo ông “hiền tài là sinh lực của quốc gia, sinh lực con người
ta mà mạnh thì gân cốt trong người đều mạnh”. Còn cơ sở để thúc đẩy con người
hành động lại là “tài lợi”. Đây là quan niệm duy vật. Ông cũng cho rằng, mặc
dù các hiện tượng xã hội muôn hình muôn vẻ nhưng chúng cũng hoạt động tuân
theo những quy luật nhất định mà ông gọi là “lý”. Ví dụ quy luật gia tăng dân
số tự nhiên, ông viết: “Phàm con người sinh ra nhiều ít, nên, hư đều theo một
trật tự do tạo vật xếp đặt, chủ trì. Xem trong một nhà, một làng thấy có đầy
vơi, hư , thực không bằng nhau. Nhưng tính chung trong toàn tỉnh hay cả
nước thì cứ thấy có một thế kỷ, số người lại tăng gấp đôi. Đó là lý nhất định” (15).
Về thuật cai trị,
ông chủ trương phải dùng luật pháp “quan dùng luật để trị, dân theo luật mà
giữ gìn”. Tuy nhiên, ông cũng không hoàn toàn theo phái Pháp gia thiên về luật
để trị nước nhưng cũng không dựa hẳn vào “đức trị” như Nho gia chủ trương mà
dung hoà mềm dẻo hơn : “Phàm dùng lý chỉ dùng trong việc xử đoán hình phạt mà
khi nào không dùng tình được mới dùng đến lý. Lý là mệnh lệnh gắt gao. Tình
là cái đôn hậu hoà dịu… Người trị nước quý hồ chỗ thấu suốt tình dân, có tình
mới có dân” (16).
Dĩ nhiên, quan
điểm của ông cũng có chỗ sai lầm, cực đoan khi ông nhận xét về các chủng tộc
người trên trái đất. Ông cho rằng có giống “có phúc” và có giống “vô phúc”.
Giống có phúc như các nước phương Tây và nước ta thì mỗi ngày một thịnh,
còn “giống vô phúc như một số dân da đen ở phương Nam, dân Thổ nhĩ kỳ, dân Mã
Lai, Cao Miên, Chiêm Thành… thì ngày một điêu tàn nay đã dừng lại không phát
triển nữa” (17). Đây là luận điểm duy tâm, cực đoan mà về sau chủ nghĩa phát
xít hay chủ nghĩa Apacthai đã khai thác và gây ra thảm hoạ cho nhân loại. Thật
ra, những dân tộc thiểu số không phát triển được, đi tới chỗ tiêu vong có một
nguyên nhân là do chính sách kỳ thị chủng tộc chứ không phải họ là giống vô
phúc.
Về vai trò của
vua quan, ông cũng đề cao quá mức thành duy tâm khi nhận định rằng: “Người
xưa có nói, dân là gốc của nước. Nói như vậy cũng chưa đúng. Tôi cho rằng vua
quan là gốc của nước. Vì không có vua quan thì chẳng bao lâu dân sẽ loạn,
tranh giành nhau làm trưởng, giành giật lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau, oán thù lẫn
nhau. Cho nên nước có vua bạo ngược vẫn hơn không có vua”(18). Chỗ này Nguyễn
Trường Tộ đã nhầm lẫn, chính chức năng cai trị xã hội của vua quan cũng do
nhân dân giao phó cho họ. Từ lập luận trên, ông cũng phản đối sự thay đổi trật
tự xã hội hiện hành mà muốn duy trì lâu dài ngôi vua, “một họ cầm quyền, đời
đời truyền nối”. Rõ ràng, lòng trung quân của ông đã đưa ông đến những kết luận
đi ngược với sự phát triển của xã hội.
Chắc sẽ có ý kiến
cho rằng, Nguyễn Trường Tộ là tín hữu Công giáo, làm sao có thể có tư tưởng
triết học biện chứng được? Rằng những trích dẫn trên đây chỉ là những lời
nói, suy nghĩ không hệ thống, không thể chứng minh cho tư tưởng triết học của
ông… Xin thưa, chẳng lẽ cứ là tín đồ các tôn giáo thì không thể trở
thành triết gia duy vật hay sao? Lịch sử triết học và khoa học đã có biết bao
tín đồ tôn giáo vẫn là những nhà triết học duy vật và khoa học nổi tiếng. G.W
Leibnit (1646-1716) là một ví dụ. Ông là người Công giáo mộ đạo nhưng vẫn là
nhà toán học, vật lý học và triết học lớn ở Đức và trên thế giới. Thế giới
quan tôn giáo của ông chỉ chi phối khi ông bàn về Thượng đế mà thôi. Còn xét
tư tưởng của một người, chúng ta chỉ có thể xét qua lời nói, đoạn văn của họ.
Người ta vẫn nhắc và còn dẫn ra nhiều lần nữa để minh chứng cho quan điểm biện
chứng của triết gia trường phái triết học Milê là Hêraclit (544-483 tr.CN)
qua một câu nói: “Anh không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông vì nước
chảy trên mình anh luôn luôn là nước mới”.
Bệnh tật đã làm cho con người tài ba này yểu mệnh. Nguyễn
Trường Tộ mất ngày 22-11-1871, thọ 41 tuổi. Đây là mất mát lớn với gia đình
ông. Còn sự nhu nhược, hèn kém của triều đình nhà Nguyễn lúc đó đã bỏ qua các
bản kiến nghị đầy nhiệt huyết của ông không chỉ là nỗi bất hạnh với ông mà
còn là thiệt thòi với cả toàn thể dân tộc. Những công trình kiến trúc do ông
thiết kế, thi công có thể sẽ mai một theo năm tháng nhưng tấm lòng kính Chúa,
yêu nước của ông thì còn lại mãi với non sông như câu đối trên mộ của ông ở
làng Bùi Chu: “Kính Chúa, yêu người hằng tạc dạ. Trung quân, ái quốc vốn ghi
lòng”.
Chú thích:
1- Trương Bá Cần: Nguyễn Trường Tộ, con
người và di thảo, Nxb T.p HCM 1988, tr.120. Các trích dẫn sau đều dẫn theo
sách này. Số 2- tr.116, số3- tr.118, số 4- tr.325, số 5 - tr.191, số 7-
tr.394, số 8- tr.324, số 9- tr.243, số10 - tr. 419, số 11- tr.411- 412, số
12- tr. 406, số13 - tr.417, số 14-tr. 168, số 15 - tr.268, số 16- tr.269-270,
số 17- tr.268, số 18- tr.175.
6- Mác-Angghen, tuyển tập, tập 2, ST. 1971, tr.198.
Phạm Huy Thông
Theo http://btgcp.gov.vn/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét