Bài
hát Làng tôi của Văn Cao đã đi vào lòng người dân
Việt với những ca từ ấm áp Làng tôi xanh bóng tre, từng
tiếng chuông ban chiều , tiếng chuông nhà thờ rung…” Hiện
nay biết bao làng quê Việt Nam tuy vẫn còn nóc nhà thờ , vẫn văng
vẳng tiếng chuông ngân , nhưng lũ tre xanh bao quanh làng đã biến
mất, để trơ trọi ra những khu nhà dân cư mở rộng với những kiến
trúc tự biên, tự diễn lai căng, lộn xộn và mất hết mọi phong
cách truyền thống.
Từ lâu lắm rồi nhà báo Thép Mới đã viết bài tùy bút và cũng
là lời bình cho bộ phim Cây tre Việt Nam hết sức
đặc sắc. Thật thú vị khi đọc lại những trang viết đầy tình cảm
ấm áp này: “Hình ảnh cây đa, bến nước cùng những khóm tre xào
xạc là những hình ảnh quá đỗi thân thuộc với người dân ở mọi miền quê Việt
Nam. Cây tre không những bảo vệ, bao bọc xóm làng mà còn trở thành nguyên
liệu để làm ra những vật dụng thiết yếu cho cuộc sống, gắn bó thân thiết
với mỗi con người từ khi sinh ra cho đến lúc qua đời. Ngay từ thuở ấu thơ
ta đã được nằm trong chiếc nôi tre êm đềm với tiếng ru à ơi của mẹ. Và nó
sẽ mãi là hình ảnh không bao giờ phai mờ. Rồi khi lớn lên, tre lại gắn bó
với trẻ trong suốt thời niên thiếu qua những vật dụng hàng ngày hay qua
những trò chơi con trẻ. Cũng có lúc tre lại được tô khắc, trang điểm theo
những ý tưởng độc đáo của người thợ để tạo ra những sản phẩm mang giá trị
thẩm mỹ cao. Tre gắn bó với con người là như thế. Ngược lên những phiên chợ
vùng cao, ta sẽ bắt gặp các mẹ, các chị, những chàng trai, cô gái gùi trên
lưng mình những sản phẩm của gia đình. Họ mang đến chợ để trao đổi buôn
bán, rồi lại gùi những thứ cần thiết về nhà. ở đây, tre có tác dụng như
dụng cụ chuyên chở làm giảm bớt sức lao động cho con người. Tre nứa không
chỉ gắn bó với đồng bào qua những sản phẩm như gùi, rổ, rá, thúng mủng...
mà tre còn được sử dụng để đan những kỷ vật trong đám cưới hay làm những
nhạc cụ góp vui trong ngày lễ hội, cho trai, gái gây dựng một nền tảng mới,
đó chính là nền tảng của sự giàu mạnh, hạnh phúc. Tre gắn bó với con người
từ trên cạn cho đến dưới nước. Những chiếc thuyền nan cùng người lái đò cần
mẫn trở khách qua sông, người dân vạn chài giăng lưới để cải thiện cuộc
sống hàng ngày. Không những thế, tre còn là nguyên liệu để làm nhà, dựng
cửa. Xưa kia, tre được sử dụng trong không gian kiến trúc nhà ở có phần đa
dạng, phong phú hơn. Nhưng ngày nay, khi về các vùng quê Việt Nam đâu đó ta
vẫn gặp những chiếc cổng tre sớm chiều khép mở hay những phên liếp trước
cửa nhà để che chắn nắng mưa cho ngôi nhà của người Việt. ở đồng bào các
dân tộc ít người, họ nhà tre được sử dụng trong các phần kiến trúc, từ hàng
rào phân định ranh giới cho đến mái nhà, cầu thang, bậc cửa, sàn nhà... tất
thảy đều có sự hiện diện của tre.”…
Gần đây trên truyền hình và báo chí tôi lại vô cùng xúc động khi
thấy thông tin về công trình nghiên cứu nhiều năm của TS Diệp Thị
Mỹ Hạnh và giải thưởng Xích Đạo 2010 của Liên Hiệp Quốc mà bà
đã được trao thưởng tại New York. Tôi cũng vô cùng tự hào về làng
tre Phú An (Bình Dương), nơi mà TS Mỹ Hạnh đã dầy công gắn bó và
đã trở nên một địa chí danh tiếng sau giải thưởng Xích Đạo 2010
của bà. TS Mỹ Hạnh cho biết trong dự án viết bằng tiếng Pháp : Tôi
sẽ nói một số ý chính của làng tre Phú An: biến tam giác sắt thành tam giác
xanh, tạo các việc làm thủ công nhằm giảm nghèo, bảo tồn tài nguyên thiên
nhiên, đặc biệt chú trọng đến vấn đề bình đẳng giới; nghiên cứu và đào tạo
phục vụ bảo tồn đa dạng sinh học và môi trường; truyền thông những vấn đề
xung quanh đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường; cố gắng tham gia thực hiện
mục tiêu xã hội hóa giáo dục môi trường, phục vụ phát triển bền vững. Cuối
cùng là phát triển hợp tác trong và ngoài nước để thực hiện những chủ đề
nói trên.
Bà cũng thông báo: Với giải thưởng này, số
tiền thưởng trước mắt sẽ được dùng để tiếp tục công việc phát triển cộng
đồng. Nhưng quan trọng hơn, nhiều người trên thế giới sẽ biết đến làng tre
Phú An, từ đó hi vọng làng tre sẽ kiếm được nguồn tài trợ mới để nghiên
cứu, phát triển cây tre Việt Nam và cải thiện đời sống của nhóm nghiên cứu
và phát triển cộng đồng. Ngoài ra, tôi hi vọng LHQ sẽ chú ý đến dự án về
tre của chúng tôi để có cách thức nào đó phù hợp tài trợ cho việc bảo tồn
cây tre Việt Nam nói riêng và tre của cả thế giới nói chung.
TS.
Diệp Thị Mỹ Hạnh
Trên màn ảnh truyền hình tôi thật cảm phục khi thấy hình ảnh
người phụ nữ đôn hậu , mái tóc bạc trắng đã đi suốt dọc đất
nước để sưu tầm được trên 100 mẫu tre và đã định tên khoa học
được đến trên 60 loài. Chúng ta biết rằng trong Tộc Tre (tribus Bambuseae)
thuộc Họ phụ Tre (supertribusBambusodae) có tới 91 chi (genus)
và khoảng 1000 loài (species) khác nhau. Tôi được biết bà Mỹ Hạnh
đã nhận bằng tiến sĩ chuyên ngành Kỹ thuật môi trường thuộc Đại học
Paris 12 Val de Marne (Pháp), về nước từ năm 1975 và bắt đầu hoạt động
nghiên cứu khoa học. Từ năm 2000, bà là giảng viên của Trường Đại học
Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TP.HCM) và từ năm 2003 bà là Chủ tịch dự
án làng tre Phú An . Đây là một dự án được hình thành với sự hợp tác giữa
bốn đơn vị là vùng Rhône Alpes, tỉnh Bình Dương, vườn thiên nhiên Pilat và
Trường ĐH Khoa học tự nhiên TP.HCM. Năm 2009 bà đã được Chính phủ
Pháp trao tặng Huân chương Cành cọ Hàn lâm.
Làng tre Phú An đã vượt lên làn sóng đô thị hóa để giữ lại cho
đất nước ta, dân tộc ta hình ảnh quý giá của một làng tôi
xanh bóng tre vốn là niềm tự hào của từng người dân nước
Việt. Ngày 7-4-2009, khu Bảo tàng Sinh thái tre và Bảo tồn thực vật Phú An
được khánh thành và chính thức đưa vào sử dụng. Khu Bảo tàng Sinh thái tre
và Bảo tồn thực vật Phú An (gọi tắt là Làng tre Phú An) cách thị xã Thủ Dầu
Một (Bình Dương) 12 km. Theo đường Nguyễn Chí Thanh, lộ 744 (đường đi về
hướng Dầu Tiếng), qua cầu Ông Cộ, cạnh UBND xã Phú An, là thấy Làng tre Phú
An bên phải, với một màu xanh rất riêng của tre. Theo báo Thanh niên , giờ
đây khu bảo tồn này đã có trên 1.500 bụi tre của 17 chi, với 300 mẫu tre
khác nhau của Việt Nam , trong đó có nhiều loại tre quý hiếm như cây tép
nứa, tre vuông, vàng sọc, mai, mạy muồi, luồng, vầu, trúc Cao Bằng, tre
mét, hóp…
Bộ sưu tập tre được trồng theo từng khu vực: khu tre đồng bằng
sông Cửu Long, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Bắc bộ… Trên mỗi bụi được đánh dấu
tên gọi địa phương, tên khoa học, tọa độ tìm thấy, thời gian và tên người
sưu tập… để tiện cho việc nghiên cứu. Thường thì tre có thời gian nở hoa
trong khoảng 5 - 60 năm một lần. Hoa tre có mùi hương hơi nồng và có màu
vàng nhạt như màu đất. Tuy nhiên theo TS Mỹ Hạnh thì cũng có những
loài tre nở hoa hàng năm. Nếu như đúng theo tiêu chí đã đề ra trong
việc chọn quốc hoa thì Việt Nam nên chọn hoa lúa hay hoa tre mới
là phù hợp. Hoa sen cũng thật đẹp thật đáng yêu nhưng các dân tộc
thiểu số ở nước ta đâu có quen thuộc với hoa sen? Hơn nữa hoa sen
đã được chọn làm quốc hoa từ lâu ở Ấn Độ và Sri Lanka rồi. Câu
chuyện này cần thảo luận kỹ hơn nếu thật sự chúng ta cần chọn
quốc hoa.
Đặt chân vào Làng tre Phú An, một cảm giác
thư thái ùa đến. Tre kết vòm trên đầu che bớt cái nắng gay gắt của vùng
miền Đông Nam bộ. Chen lẫn những bụi tre là vườn cỏ xanh um, những đồi cỏ
phủ đầy hoa đậu biếc với hoa vàng lá xanh giúp cho tâm hồn thêm thư thái.
Các tảng đá ong, những hòn đá cuội to lớn nằm rải rác, được sắp đặt như hữu
ý, như vô tình giúp cho du khách có chỗ ngồi nghỉ chân dưới tán tre lắng
nghe chim hót. Xa xa, ở “khu đồng bằng sông Cửu Long” sông nước với cầu tre
lắt lẻo, với con đò nhỏ hững hờ cập bến, bên cạnh chiếc vó được cất lên… là
sân khấu lộ thiên làm bằng đá ong để tối tối du khách có thể ngồi ngắm
trăng sao, lắng nghe ếch nhái hòa thanh cũng lũ dế, vạc sành, như tìm về
tuổi thơ…Trước khi vào “mê cung tre”, du khách cũng sẽ ngạc nhiên với bản
đồ Việt Nam khổng lồ bằng loài thực vật họ đậu phủ đất (Arachis pintoi).
Mỗi “địa phương” trên bản đồ sẽ được tạo đồi núi, trồng các loại tre đặc
trưng của từng vùng. Vùng “đồng bằng sông Cửu Long” là một thảm lá xanh hoa
vàng được “khía rãnh”, cách điệu các nhánh chính của dòng Mekong đổ vào
“biển Đông” bằng 9 cửa. Sau khi ngắm mô hình bản đồ, du khách sẽ được hướng
dẫn đi vào mê cung tre. Càng đi vào mê cung, du khách càng thích thú với
nhiều giống tre lạ, quý hiếm. Sau đó, du khách còn được hướng dẫn đi tham
quan đường sinh thái, đường làng mát rượi, ngắm dòng sông Rạch Chùa (một
nhánh của sông Sài Gòn) hiền hòa uốn lượn. Việc chăm sóc tre cũng khá quan
trọng. Với khu đất 10 ha thì tưới tiêu phải tự động hoàn toàn. Các đường
nước được kỹ sư cao cấp người Pháp Jacques Gurgand thiết kế rất tỉ mỉ và
khoa học theo phương pháp tưới nhỏ giọt để tiết kiệm nước. Độ dài và đường
kính của ống nước, các van khóa nước cũng được tính toán, đặt để hợp lý,
sao cho ống tưới nhỏ giọt đến từng gốc tre thì chỉ là một ống nhựa màu đen
nhỏ 3mm, khi tưới nước sẽ ngấm dần vào đất mà không phải chảy tràn ra một
cách không cần thiết.
Bao giờ
phục hồi lại được các Làng tôi xanh bóng tre? Câu
hỏi ấy luôn thường trực trong tôi mà thật khó có câu trả lời.
Việc mở rộng khu dân cư của mỗi làng là cần thiết nhưng sau khi
nới rộng ra đến mức cần thiết thì phải trồng lại ngay lũy tre
làng như xưa. Lũy tre làng không chỉ bao bọc ngôi làng truyền thống
mà còn bảo vệ đất và đem lại những nguồn lợi ích không nhỏ cho
dân làng. Từng ngôi nhà trong làng cũng cần dành đất để trồng
lại những khóm tre. Ai cũng biết rằng tre mọc rất nhanh, tự đẻ
nhánh hàng năm và có thể khai thác liên tục phục vụ các mục tiêu
dân sinh. Tre được sử dụng làm nhà, (cột, kèo), làm đũa, làm máng nước, làm
rổ rá, vật dụng nông nghiệp (gầu, cán cuốc, cán xẻng). Măng tre được dùng
làm thức ăn. Tre khô kể cả rễ có thể dùng làm củi đun. Lá tre dùng
cùng một số lá khác là nguyên liệu của nồi nước xông khi bị cảm
cúm…
Những nhà khoa học gắn bó với
cây tre như TS Diệp Thị Mỹ Hạnh thật đáng nêu gương sáng đối với
thế hệ các nhà khoa học trẻ. Chúng ta cần tiếp sức cho nhà khoa
học đã cao niên này để tiếp tục cho thế giới biết được nước ta
thực sự đang tồn tại bao nhiêu loài tre (với tên khoa học được
thừa nhận) và phát huy được hết tác dụng của từng loài tre khác
nhau. Việc sử dụng kỹ thuật ADN để xác định vị trí phân loại tre
có lẽ cũng cần phải bắt đầu thực hiện . Các trung tâm nghiên cứu
có thiết bị giải trình tự ADN sẵn sàng hỗ trợ các nhà nghiên
cứu tre nếu như kỹ thuật tách ADN từ sinh khối tre đã được hoàn
thiện.
Nguyễn Lân Dũng
Theo http://www2.hcmuaf.edu.vn/
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét