Bài thơ
Giây Phút Chạnh Lòng của Thế Lữ được viết năm 1936 để tặng cho Nhất Linh, tác
giả tiểu thuyết Đoạn Tuyệt. Tôi nhớ bài thơ này được in vào đầu trang tiểu
thuyết Đoạn Tuyệt.
Trong
cuộc sống hàng ngày lâu lâu tâm mình hơi chùng xuống một chút, yếu đi một chút,
mất đi một ít năng lượng, giây phút ấy gọi là giây phút chạnh lòng.
Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong sum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
Đó là lời
của một người con gái nói với một người con trai trong giờ phút người con trai
từ giã để lên đường phụng sự lý tưởng của mình. Chuyện xảy ra đã nhiều năm
trước và hôm nay người con trai đang ngồi hồi tưởng lại.
Đất nước
hồi đó còn nằm dưới sự đô hộ của người Pháp. Những người thanh niên Việt Nam
lớn lên bắt đầu có ý thức rằng đất nước mình không phải là một đất nước độc lập
cho nên tâm tư họ có những xao xuyến, thao thức: làm thế nào để giành lại độc
lập cho đất nước mình, tự mình làm chủ lấy mình?
Trong khi
đó guồng máy công an, cảnh sát dưới sự cai trị của người Pháp rất hùng hậu,
vững mạnh. Họ tìm mọi cách để người Việt không có cơ hội đứng dậy giành lại chủ
quyền. Nhưng những thanh niên tân học thấy rõ ràng rằng người dân của một nước
mà không làm chủ được đất nước của mình là chuyện rất nhục nhã, không những đối
với quốc dân trong giờ phút hiện tại mà còn đối với tổ tiên, tại vì tổ tiên của
mình cũng đã từng tranh đấu để quốc gia có chủ quyền, có độc lập. Trung Quốc đã
từng chiếm cứ đất nước Việt Nam đến một ngàn năm. Việt Nam trở thành lãnh thổ,
một tỉnh của Trung Quốc. Việt Nam trong thời kỳ ấy hoàn toàn bị mất chủ quyền
đối với người Trung Quốc.
Khi Thế
Lữ viết bài này thì Việt Nam đã bị Pháp đô hộ gần một trăm năm. Thế Lữ cũng như
một số các bạn đã từng có cơ hội đi sang Pháp du học, đậu bằng cử nhân khoa
học. Vì vậy những người đó biết thế nào là một quốc gia có chủ quyền, nên khi
về nước họ rất thao thức, muốn kết hợp bạn bè, tìm mọi cách để có cơ hội giành
lại độc lập cho tổ quốc.
Người
Pháp không cho phép ra những tờ báo hay in những cuốn sách và thành lập những
tổ chức với mục đích gây ý thức cho quốc dân nhằm khôi phục lại nền độc lập.
Nhưng các thanh niên đó đã tìm đủ mọi cách khéo léo để xuất bản những tờ báo,
lập những nhà xuất bản sách để truyền bá gián tiếp những tư tưởng đó cho quốc
dân. Họ chỉ cần một tờ báo thôi, một nhà xuất bản thôi, vậy mà trong vòng sáu
năm, bảy năm họ đã gây được ý thức trong quốc dân và ảnh hưởng của họ đối với
quốc dân rất lớn. Nhất Linh là một người đã từng bí mật tổ chức những đảng
chính trị để hoạt động, đã từng bị người Pháp bắt bỏ vào tù và đã từng trốn qua
Trung Quốc để lánh nạn nên những điều mà Nhất Linh nói, những điều Thế Lữ nói
là những điều phát xuất từ kinh nghiệm của chính mình.
Anh đi đường anh, tôi đường tôi.
Tình nghĩa tôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong sum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
Người con gái nói với người con trai: Anh đi cứu nước đi, em sẽ ở
nhà. Người con gái này tên là Loan và người con trai tên là Dũng. Loan sinh
trưởng trong một gia đình phong kiến, có
những lề thói không còn phù hợp với nếp sống mới nữa và nhất là tình trạng mẹ
chồng nàng dâu đã làm Loan rất khổ sở. Loan là người đã từng được đi học trường
Tây và đã học hết bằng trung học Pháp. Loan
đã bị ảnh hưởng tư tưởng Tây phương về tình yêu tự do và không muốn bị ràng
buộc vào đại gia đình. Nhưng vì hoàn cảnh, Loan bắt buộc phải lấy Thân mà không
được lấy người mình yêu là Dũng. Tại vì Dũng có những tư tưởng cách mạng nguy
hiểm nên cha mẹ Loan cấm không cho phép Loan yêu Dũng, lấy Dũng mà bắt Loan
phải lấy Thân, một người con trai rất tầm thường.
Hai vợ chồng Loan có một đứa con nhưng chẳng may đứa bé đó chết và
bà mẹ chồng nghĩ rằng vì Loan không thể sinh đẻ được nữa nên đã bắt ép Loan
phải đồng ý cho Thân cưới một người vợ lẽ. Loan là một thiếu nữ được học trường
Tây, cô mang trong mình tư tưởng tự do cá nhân của Tây phương mà phải sống
trong khung cảnh gia đình phong kiến với những lề thói ép buộc như vậy thì rất
là đau khổ, cho nên Loan
thường hay nhớ tới người yêu xưa là Dũng. Còn Dũng thì thấy mình không còn có
cơ duyên nào nữa để có thể cưới Loan nên quyết tâm đi kháng chiến, đi làm cách
mạng.
Có một
nguyên do thầm kín nữa là mẹ của Loan có mắc nợ mẹ của Thân nên phải hứa gả
Loan cho Thân. Điều này Loan chỉ khám phá ra sau khi sự việc bị đổ vỡ. Trong
một cuộc xung đột, khi Thân xông tới để đánh Loan thì tai nạn xảy ra. Thân vấp
té vào lưỡi dao Loan đang cầm để rọc giấy, lưỡi dao đó đâm vào bụng Thân và
Thân chết. Lúc ấy báo chí Hà Nội loan tin: Cô Loan giết chồng! Cô Loan giết
chồng! Rốt cuộc nhờ một cặp vợ chồng người bạn vận động các luật sư giỏi để cãi
cho Loan nên cuối cùng thì Loan được tha bổng vì đây là trường hợp tai nạn chứ
không phải là tội cố ý giết chồng. Lúc đó Dũng đang hoạt động cho cách mạng, bí
mật đi công tác về thành phố và đã nghe tin có buổi xử án như vậy.
Đêm đó là một đêm giao thừa, và người con trai không có gia đình
đã bôn ba nhiều năm, sống rất vất vả, khó khăn, trong khi về công tác ở thành phố
và được nghỉ ngơi một vài ngày trước khi tiếp tục lên đường thì nghe tin tòa xử
trắng án cho Loan. Dũng nhớ tới ngày xưa khi hai người yêu nhau, và có ý muốn rằng bây giờ Loan
được tự do rồi, thì mình sẽ tìm cách liên lạc với Loan để nối lại tình yêu ngày
xưa. Dũng nhờ hai vợ chồng cô giáo Thảo liên lạc để dò xem ý của Loan như thế
nào? Đây là những ý tưởng tới với Dũng khi Dũng nằm trên căn gác một mình lạnh
lẽo chiều cuối năm và nhớ lại những điều ngày xưa Loan đã nói với Dũng lúc hai
người chia tay nhau:
Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Lúc ấy
giọng điệu Loan rất cứng cõi, mạnh mẽ để giúp Dũng phấn chấn lên đường, có
thêm nghị lực mà hoàn thành công việc.
Nàng còn
nói: Duyên của chúng ta không thuận lợi thì em đi lấy chồng, anh đi làm cách
mạng. Tại sao phải vương vấn với nhau cho nó khổ? Anh cứ đi đi và em sẽ âm thầm
yểm trợ.
Đã quyết không mong sum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
Tại sao
phải bịn rịn, anh cứ đi, em không sao đâu!
Non nước đang chờ gót lãng du
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ
Nước non
đang cần những người con trai như anh. Anh hãy đi đi. Chinh phu là những người
con trai đi đánh trận, đi làm cách mạng đánh đuổi quân ngoại xâm.
Em có
thương, có tiếc thật nhưng vì lý tưởng mà em đành để cho anh đi và em thúc đẩy
cho anh đi, anh là con trai, anh không nên bịn rịn.
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ.
Hải hồ
tức là sông biển, nơi người con trai có không gian thênh thang để tung hoành. Ý
nói rằng tình là cái vướng víu, nếu anh có chí hướng cao cả, anh phải giật đứt
sợi giây tình để anh có không gian thênh thang mà thực hiện chí hướng của người
con trai.
Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
Đem chí bình sinh dãi nắng mưa,
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?
Anh đang
đi trên con đường rất đẹp, con đường của cách mạng, con đường đem lại độc lập
tự do cho đất nước. Anh đã có chí bình sinh, có tình yêu đối với tổ quốc, anh
sẽ không sợ nắng mưa, khó khăn. Cuộc sống của anh đã hiến tặng cho lý tưởng
phụng sự đất nước, tại sao anh còn bịn rịn?
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?
Người con
gái đem chút duyên tơ, sự thông minh và thiện chí của mình để giúp người con
trai ra đi, rất vững vàng. Nhưng sức người có hạn, cô chỉ nói được như thế
trong mười hai câu thôi, đến câu thứ mười ba thì người con gái chùng xuống.
Rồi có khi nào ngắm bóng mây,
Chiều thu đưa lạnh gió heo may.
Dừng chân trên bến sông xa vắng,
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây.
Trong bốn
câu này, tâm tình của Loan bắt đầu chùng xuống và tất cả những thiện chí được
diễn tả trong mười hai câu trên do đó đã tan thành mây khói. Trên con đường anh
đi, có khi nào anh dừng lại ngắm một bóng mây ở chân trời? Và một buổi chiều
nào lành lạnh có gió heo may, đứng trên bờ sông xa vắng thì xin anh nhớ lại một
chút là ngày xưa chúng ta đã từng yêu nhau.
Dừng chân trên bến sông xa vắng
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây,
Như vậy
là chết rồi !
Xin anh cứ tưởng, bạn anh tuy
Giam hãm thân trong cảnh nặng nề.
Vẫn để hồn theo người lận đận,
Vẫn hằng trông đếm bước anh đi.
Anh nên nhớ bạn của anh tuy đang bị kẹt trong một hoàn cảnh nặng
nề, khó thở, nhưng mà trái
tim của người đó vẫn luôn luôn theo dõi bước chân anh và cầu nguyện anh đạt
thành chí nguyện. Đó là những lời mà cô nàng đã nói nhiều năm về trước và bây
giờ anh chàng nhớ lại. Anh cảm thấy cô độc, cảm thấy cuộc đời của người chinh phu
lạnh lẽo, có những giây phút nhớ nhà, có những giây phút cần có sự ấm cúng, có
những giây phút cần sự có mặt của một người thương. Giây phút đó là giây phút
chạnh lòng.
Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,
Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.
Nhưng chính lòng em còn thổn thức,
Buồn kia em giấu được ta đâu?
Chàng
trai ngay từ lúc đó đã biết rằng tuy cô gái đang dùng những lời khẳng khái để
động viên mình nhưng kỳ thực trái tim của nàng đang còn thổn thức lắm.
Lấy câu khẳng khái tiễn đưa nhau,
Em muốn cho ta chẳng thảm sầu,
Là sự
vuốt ve, là lòng tốt của người con gái.
Nhưng chính lòng em còn thổn thức
Em đứng nương mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo: hoa kia khóc hộ người.
Khi hai
người chia tay, họ đứng ở dưới một gốc mai. Loan vịn vào cành mai và có những
hoa mai rơi rụng xuống. Hoa khóc chứ em đâu có khóc, Loan đã nói như vậy.
Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,
Nhìn nhau bình thản lúc ra đi.
Nhưng trong khoảnh khắc thờ ơ ấy,
Thấy cả muôn đời hận biệt ly.
Hai người
nói nói, cười cuời nhưng tới giây phút biệt ly, người con trai phải đi thôi.
Hai người không còn nói nữa, họ im lặng, họ im lặng trong chốc lát rồi người
con trai bước đi. Giây phút đó là giây phút khó khăn nhất của cả hai người vì
không có hy vọng gì để trong tương lai hai người có thể đoàn tụ với nhau được.
Anh đi đường anh, tôi đường tôi
Đất nước
đang lâm nguy, lại thêm ảnh hưởng nặng nề của chế độ phong kiến, nên đã gây ra
không biết bao nhiêu mất mác, chia ly đau thương. Ta có thể thấy, hai vấn đề
lớn của đất nước vào những năm 30 :
-
Vấn đề thứ nhất : đất nước không có chủ quyền.
-
Vấn đề thứ hai : xã hội đang bị chìm đắm, ràng buộc trong những lề lối phong
kiến, xưa cũ.
Dân trí
chưa mở và những tập tục phong kiến chưa thể tháo được là hai trở lực mà cả hai
người đang phải chịu đựng. Người con trai ra đi hoạt động để thay đổi tình
trạng, còn người con gái ở nhà có thể làm được gì hay chỉ tiếp tục làm nạn nhân
cho những tập tục phong kiến của gia đình cô?
Nhất Linh
sinh vào năm 1905 và viết cuốn tiểu thuyết này lúc 31 tuổi. Cuốn sách có tựa là
« Đoạn Tuyệt », muốn đoạn tuyệt với tất cả những cái gì cổ hủ, phong
kiến của xã hội, của gia đình, nó đã trói buộc tự do của con người. Thế Lữ đã
viết bài thơ « Giây Phút Chạnh Lòng » này để tặng cho Nhất Linh cũng
vào năm đó, tức là năm 1936.
Hồi đó họ chỉ là một nhóm nhỏ có khoảng sáu bảy người gọi là « Tự Lực Văn
Đoàn ». Họ sinh ra vào đầu thế kỷ hai mươi, khoảng năm 1905, 1906 và 1907.
Họ có cơ duyên được đi học và được ảnh hưởng tư tưởng tự do dân chủ của Tây
phương nên họ quyết định phải làm một cái gì cho đất nước. Một mặt họ muốn tổ
chức những hội kín để vận động quần chúng đi tới chuyện lật đổ chánh quyền
Pháp, một mặt họ biết rằng mật thám Pháp có khắp nơi, trong đó có rất nhiều
người Việt đi theo Pháp để làm tay sai, để do thám họ vì vậy công việc của họ
rất khó khăn. Biết bao nhiêu người đã bị bắt, bị ở tù, bị xử tử vì đã muốn đứng
dậy để làm cách mạng đánh đuổi Pháp.
Năm 1932,
có một tờ báo sắp chết tên là Phong Hóa, nhóm văn sĩ ấy xin lại giấy phép của
tờ báo đó và với tài năng của mình, họ làm cho tờ báo đó trở thành một tờ báo
rất nổi tiếng trong quốc dân. Họ viết những truyện ngắn, những truyện dài, họ
làm những bài thơ, họ viết những bài khảo luận đánh động vào tâm trí của giới
trẻ và tức khắc rất nhiều thanh niên trong toàn quốc đã trở thành độc giả của
báo Phong Hóa (Bộ mới 1932, số 13).
Nhất Linh tên thật Nguyễn Tường Tam có người em trai tên là Nguyễn
Tường Long lấy bút hiệu Tứ Ly. Tứ
ly là giờ xấu nhất trong ngày (người ta thường kiêng làm những chuyện quan
trọng vào giờ này), và Tứ
Ly đã thật sự là một cây bút châm biếm tài tình. Tất cả những gì cổ hủ, lỗi
thời, tất cả những gì lố bịch, ông ta đều dùng ngòi bút để châm biếm và cây bút
Tứ Ly đã làm cho chính quyền, nhất là chánh quyền Pháp, rất sợ hãi và đến năm
1936 chính quyền Pháp bắt buộc phải đóng cửa tờ Phong Hóa.
Chưa chịu thua, nhóm Tự lực văn đoàn đã tìm cách cho ra đời một tờ
báo khác với tên gọi « Ngày Nay ». Kỳ này, Nguyễn Tường Long bỏ
bút hiệu Tứ Ly, lấy bút hiệu mới là Hoàng Đạo –Hoàng
đạo là giờ tốt nhất trong ngày. Với những bài khảo luận, truyện ngắn, truyện
dài, họ giúp mở dân trí, và chỉ trong vòng bảy tám năm, họ đã giúp thay đổi
được suy nghĩ của cả một thế hệ thanh niên trong nước. Tôi lớn lên trong hoàn
cảnh ấy và đã bị ảnh hưởng tư tưởng và văn chương của Tự Lực Văn Đoàn khá
nhiều.
Một người
con trai lớn lên trong không khí, trong hoàn cảnh ấy, rõ ràng chỉ có hai cách
lựa chọn : một là vâng lời cha mẹ đi cưới vợ và sống trong môi trường
cũ ; hai là bỏ nhà đi làm cách mạng. Một là làm như Loan, lập gia đình,
sanh ra vài ba đứa con, cho nó đi học rồi chịu đựng tất cả những tập tục cổ hủ;
hai là làm Dũng, cương quyết bỏ ra đi làm cách mạng. Nếu không có nhân duyên
trở thành người xuất gia, chắc tôi cũng đã đi vào một trong hai con đường ấy,
và hôm nay, tôi đã không ngồi đây.
Thời đó
ảnh hưởng của Tự Lực Văn Đoàn rất lớn, thơ của Thế Lữ, của Xuân Diệu và tiểu
thuyết của Khái Hưng, của Nhất Linh ảnh hưởng đến tuổi trẻ rất nhiều. Thơ của
Nguyễn Bính, những câu thơ rất đơn giản cũng đã ảnh hưởng sâu sắc tới tôi. Xin
đọc lại vài câu để xem có thầy cô nào nhớ nhà không?
Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi, chị một em, em một chị
Trời làm xa cách mấy con sông....
Cột nhà hàng xóm lên câu đối
Em đọc tương tư giữa giấy hồng
Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông
Tôi đọc
những dòng này hồi mười mấy tuổi mà tới bây giờ vẫn còn thuộc.
Gạo nếp nơi đây sao trắng quá
Mỗi ngày phiên chợ lại thêm đông.....
Đêm nay em thức thi cùng nến
Ai biết tình em với núi sông
Lớn lên,
đêm giao thừa nào, tôi cũng ưa ngồi một mình, đốt đèn bạch lạp, và đọc thơ, chỉ
vì chịu ảnh hưởng vỏn vẹn hai câu thơ của Nguyễn Bính. Và khi trở thành một ông
thầy tu trẻ, tôi vẫn còn thói quen đó, cũng tìm ba ngọn bạch lạp, cũng đem thơ
của thi sĩ mình yêu thích ra đọc. Bây giờ, tôi bỏ cái tật ấy rồi, đêm giao thừa
ngồi chơi với đệ tử thôi.
Ngày xưa có cái mốt là những người trí thức văn nghệ sĩ tới giờ
giao thừa là phải đốt nến, đốt trầm lên để đọc thơ, nhất là nến bạch lạp (đèn
cầy trắng) và thơ phải in trên giấy thật tốt tức là giấy bản trắng. Đọc thơ
Đường in trên giấy lụa dưới ánh sáng của bạch lạp là một hình ảnh đẹp. Hồi đó
chưa có đèn điện, mà thắp
đèn dầu mờ mờ thì đọc thơ không được rõ lắm. Vì vậy thắp lên một ngọn bạch lạp,
thắp lên hai ngọn bạch lạp, hoặc thắp lên ba ngọn bạch lạp để đủ ánh sáng mà
đọc thơ.
Cách đây
mấy hôm, tôi thấy có một vị trên xóm Thượng đọc tiểu thuyết của Minh Đức Hoài
Trinh, tôi nói thôi đừng có đọc cái này. Tại vì tôi biết hơn ai hết, mình đọc
cái gì thì sẽ thường chịu ảnh hưởng cái đó. Vì vậy phải rất cẩn thận với nội
dung văn nghệ mà mình tiêu thụ. Trong luật nói rằng, vị sa di, sa di ni muốn
đọc sách gì thì phải hỏi y chỉ sư, điều này rất đúng. Vì nếu rủi mình đọc lỡ
những cuốn có chất độc, thì nó hại mình lâu lắm.
Hồi còn
làm học tăng tại Phật học đường Báo Quốc, tất cả các tiểu thuyết của Tự Lực Văn
Đoàn chúng tôi đều không được đọc. Có mấy chú học tăng « ăn gian »,
làm một thư viện bí mật, mua những cuốn tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, đem
giấu lên trên một cây nhãn, nếu chú nào muốn đọc thì chỉ cần ra leo lên cây
nhãn mà đọc, ở dưới dù các thầy cứ đi ngang qua mà không biết rằng trên đầu
mình học tăng đang đọc tiểu thuyết. Mình tưởng như vậy là mình khôn ranh lắm,
mình qua mặt được mấy thầy, ai dè làm như vậy là tự đầu độc mình. Dầu đã là Tỳ
kheo, Tỳ kheo ni rồi, mình cũng phải cẩn thận lắm mới được, chỉ nên đọc những
cuốn sách nào, và thưởng thức những tác phẩm văn nghệ nào mà không đem lại độc
hại cho trái tim của mình mà thôi.
Năm 1935
Hội Phật Giáo Bắc Kỳ xuất bản một tạp chí Phật học tên là tờ Đuốc Tuệ. Sự kiện
của tờ Đuốc Tuệ, đã cứu được tôi. Nếu chỉ có Tự Lực Văn Đoàn thì một là tôi làm
Loan và hai là làm Dũng. Nhưng nhờ có Đuốc Tuệ nên tôi đã làm Phùng Xuân. Tuy
đã là Phùng Xuân rồi nhưng Loan, Dũng vẫn cứ đi bám lấy tôi. Tại vì những hạt
giống mình đã gieo trước đó vẫn tiếp tục đi theo mình. Nhưng hạt giống của Đuốc
Tuệ rất mạnh nên nó có thể ôm được cả hai hạt giống kia mà không sao cả. Tờ
Đuốc Tuệ có những bài viết về Nhân Gian Phật Giáo, tức là về đề tài Phật Giáo
Đi Vào Cuộc Đời. Và mầm móng về ước nguyện đem đạo Phật nhập thế trong tôi đã
có từ đó.
Tờ Đuốc
Tuệ có nhiều bài viết nói đến các thiền sư Việt Nam trong quá khứ và hạnh
nguyện của các ngài trong việc giúp dân, giúp nước. Điều này giúp tôi thấy
được, đạo phật có thể đóng một vai trò rất lớn trong công cuộc xây dựng đất
nước và cứu độ con người. Con đường phục vụ đất nước theo tinh thần đạo phật
nhập thế đã mở ra cho tôi một chân trời mới rất rộng lớn.
Tại thư viện quốc gia Pháp ở Verseille, quý vị có thể tìm được
những tờ Đuốc Tuệ ngày xưa, vì mỗi số Đuốc Tuệ được phát hành, thì phải đem nộp
lưu chiểu một bản. Và người Pháp đã đem về nước đầy đủ các ấn bản đã được phát
hành từ số đầu –khoảng nam 1935, đến số báo cuối, khoảng năm1945, và lưu trữ nó
tại thư viện quốc gia Pháp. Tờ Đuốc Tuệ chỉ được lưu hành khoảng mười năm. Nếu
không có tờ Đuốc Tuệ và không có mười năm đó, đã không có tôi đang ngồi đây. Do
vậy, những cái mà quí vị đang làm như Lá Thư Làng Mai, nhà xuất bản Parallax,
nhà xuất bản Lá Bối, những khóa tu được tổ chức khắp nơi sẽ có ảnh hưởng rất
lớn trong các thế hệ. Có thể trong vòng năm năm hay mười năm nữa, mình sẽ có
thể tạo ra được một thế hệ mới, mình có thể làm nên lịch sử. Mình nên biết,
mình đang nắm giữ lịch sử trong tay.
Năm năm theo tiếng gọi lên đường,
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương,
Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại,
Để hồn mơ tới bạn quê hương.
Cuộc sống
của người chiến sĩ, của người đang ở chiến khu rất cực nhọc, không có sự an ủi,
thiếu thốn tình thương nên thỉnh thoảng trong lòng hay nhớ lại người yêu cũ.
Đây là một điểm yếu, và người con trai biết rằng nếu muốn thành đạt chí nguyện
thì mình phải cương quyết đi tới, đừng để cho tâm hồn chùng lại, đừng để cho
lòng mình có những giây phút trầm lắng xuống. Nhưng đã sinh ra làm con
người thì làm sao tránh thoát khỏi những giây phút gọi là chạnh lòng đó? Vì vậy
lòng mình, nhiều khi tự nhiên bất chợt yếu đi.
Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng,
Gác tình duyên cũ thẳng đường rong.
Song le hương khói yêu đương vẫn,
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.
Người con trai nào lớn lên hoặc người con gái nào lớn lên mà không
khao khát thương yêu? Dù lý tưởng của mình có vĩ đại cách mấy, dù Bồ Đề Tâm của
mình có vững chãi cách mấy thì sự khao khát ấy cũng luôn luôn còn đó. Trên bước
đường phụng sự, trên bước đường cách mạng, trên bước đường lý tưởng nếu có xảy
ra những giây phút Phảng phất
còn vương vấn cạnh lòng cũng
là chuyện bình thường thôi. Tôi đã quán chiếu và đã thấy trong trường hợp của
một nhà cách mạng và trong trường hợp của một người tu, có sự khác nhau.
Có một bài thơ khác của Thế Lữ có thể giúp mình hiểu được thêm về
bài Giây Phút Chạnh Lòng này, đó là bài Tiếng Gọi Bên Sông. Tôi xin đi lạc đề một chút để đọc bài
thơ này.
Ta là một khách chinh phu,
(một người đi làm cách mạng, một chiến sĩ)
Dấn bước truân chuyên khắp hải hồ.
Mũ lượt bốn bề sương nắng gội,
Phong trần quen biết mặt âu lo.
Vất vả bao từng, chi xá kể?
Gian lao như lửa rèn tâm trí,
Bấy lâu non nước mãi xông pha,
Chưa phút dừng chân, chưa lúc nghỉ.
Trong thuở bình sinh đôi mắt ta
Không hề cho đẫm lệ bao giờ.
(tôi chưa bao giờ khóc)
Cười theo thất bại, khinh nguy hiểm,
Nện gót vang đường nhịp khúc ca.
Đang độ nam nhi vui trẻ hoài,
Sầu tư bi thiết, gác bên tai.
Trái tim chỉ rộn khi căm tức,
Ghét lũ vô minh, giận nỗi đời.
Vì bất
bình, vì muốn có tự do dân chủ và bình đẳng xã hội mà đi làm cách mạng vậy
thôi.
Trong khi lật đật nẻo sông Mê,
Trận gió heo may đuổi nhạn về.
Bụi cuốn đường xa, chinh khách mỏi,
Bỗng nghe tiếng hát vẳng bên kia.
Cố nhiên
trên bước đường của người chiến sĩ, lâu lâu cũng có những giờ phút mỏi mệt và
trong những giờ phút ấy nếu có một tiếng hát rất trong trẻo vẳng lên thì lòng
người chinh khách sẽ bị chùng lại:
Tiếng hát trong như nước ngọc tuyền,
Êm như hơi gió thoảng cung tiên,
Cao như thông vút, buồn như liễu,
Nước lặng, mây ngừng, ta đứng yên.
Một người
đi đường trường từ ngày này sang ngày khác, hai chân đã mỏi, mồ hôi đầm đìa,
khát nước, cổ cháy khô mà tự nhiên thấy được một dòng nước trong, nghe được
tiếng suối reo thì không dừng lại sao được? Trong lúc mệt mỏi lại được nghe một
tiếng hát vẳng bên đường.
Chinh phu trong dạ dường tê tái,
Quay gót ta buồn trông trở lại.
Đường vẫn còn xa, còn phải đi,
Song le tiếng hát bên sông gọi.
Người thiếu nữ bên sông nói rằng anh đi đâu mà vội mà vàng, anh hãy ngừng ở lại đây,
và cái đó đánh động tới sự khao khát yêu thương của người con trai.
Tiếng ái ân kia réo rắt hoài,
Mà lời mây nước giục bên tai.
Có hai
khuynh hướng chống đối nhau, một bên là tiếng hát của ái ân, cứ tiếp tục réo
rắt; một bên là lời mây nước giục bên tai, anh phải đi, anh phải đi, tại vì chí
nguyện anh buộc anh phải dứt khoát lên đường.
Tiếng ái ân kia cứ réo rắt hoài,
Mà lời mây nước giục bên tai.
Đau lòng dứt mối tơ vương vấn,
Nước mắt đầu tiên lã chã rơi.
Người con
trai vừa khóc vừa bước đi vì không thể nào dừng lại được nữa, tại vì dừng lại
là phản bội chí nguyện của mình. Có cái thế tương phản ở trong lòng làm người
con trai phải khóc.
Đây là
lần đầu tiên người con trai khóc.
Trong thuở bình sinh, đôi mắt ta,
Không hề cho đẫm lệ bao giờ,
Tôi chưa
bao giờ khóc hết, tôi chỉ :
Cười theo thất bại, khinh nguy hiểm,
Nện gót vang đường nhịp khúc ca.
Bây giờ, tôi khóc, vì có sự mâu thuẫn trong lòng. Mâu thuẫn giữa
sự khao khát yêu thương và chí nguyện muốn thành tựu. Là con trai mới lớn, mình
khao khát yêu thương như bất cứ người con trai nào. Nhưng non sông mờ cát bụi, nếu mình
vướng víu vào chuyện tình duyên, làm sao mình có thể đạt thành chí nguyện? Cần
phải dứt khoát, và lần đầu tiên nước mắt rơi xuống.
Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng.
Đó là cái
lý trí.
Gác tình duyên cũ thẳng đường trông
Song le hương khói yêu đương vẫn
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng
Không
đuổi nó đi được, nó vẫn còn nằm trong trái tim.
Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan
Trong lúc gần xa pháo nổ ran
Rũ áo phong sương trên gác trọ
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang
Đây là
một đêm giao thừa, là giờ phút người con trai chùng chân mỏi gối, là giờ phút
người con trai nhớ về người yêu cũ và cảm thấy rất cô đơn và rất khao khát
thương yêu.
Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi
Ai cũng
đang lo chuẩn bị đón giao thừa. Ở Việt Nam có tám chục triệu người, ở Trung
quốc có một tỷ hai trăm ngàn người đang chuẩn bị đón giao thừa. Nhà nào cũng có
một cành mai, cũng có một cành đào, cũng có năm bảy cái bánh chưng, cũng có một
phong pháo, chỉ có một mình là không có gì cả, ngoài một cái áo, một đôi giầy
đầy bụi đường. Khi mùa xuân về và mọi người đang được đoàn tụ thì mình - thân
chiến sĩ cô đơn trong cuộc đời, mình thấy mệt mỏi và khát khao.
Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,
Trên đường rộn rã tiếng đua cười,
Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy,
Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.
Ta tìm thấy ba chữ xuân trong bốn câu thơ này : xuân nồng
thắm khắp nơi, xuân đã về, bạn xuân năm ấy. Loan và Dũng cũng từng ngắm xuân về
trên khóm mai. Ngày chia ly của hai đứa là một ngày xuân. Hôm đó, Loan mặc áo
dài, tay vịn vào cành mai, nói những lời tiễn biệt. Loan làm rung cành mai,
những cánh mai rơi xuống, và Loan nói, cây mai khóc dùm em, chớ em đâu cần
khóc, em bảo hoa kia khóc hộ
người.
Lòng ta tha thiết đượm tình yêu.
Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều,
Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gót phiêu lưu…
Cuộc sống
của người chiến sĩ quá kham khổ, quá khắt khe, thiếu vắng những cái vỗ về và
nuôi dưỡng cho nên ý tưởng muốn bỏ cuộc đời chiến sĩ nó hấp dẫn, nó cứ tới ám
ảnh hoài.
Cát bụi tung trời - Đường vất vả
Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân.
Chàng
chiến sĩ ấy cho phép lòng mình chùng xuống trên căn gác trọ phong sương đó.
Tưởng người trong chốn xa xăm ấy
Chẳng biết vui buồn đón gió xuân?
Không
biết Loan còn nhớ mình hay không? Loan còn thương mình hay không? Dũng rất cần
tình thương đó.
Đêm hôm
ấy liên lạc được với vợ chồng cô giáo Thảo, Dũng biết là Loan được tha bổng,
Loan bây giờ có tự do rồi. Dũng có thể trở về với Loan như một cặp thanh niên
tự do, không còn bị lề lối phong kiến ràng buộc nữa. Loan có thể xin đi dạy học
hay đi làm nghề nào đó, Dũng cũng có thể đi kiếm một việc làm, hai người có thể
kết hợp lại thành một gia đình. Trong căn gác đó Dũng lấy cây viết chì và một
tờ giấy viết thơ cho Loan: Nếu em còn thương anh thì chúng ta hãy nghĩ tới
chuyện trở về với nhau.
Nếu
chuyện này xảy ra thì không biết rằng lý tưởng của anh chàng sẽ đi tới đâu? Nếu
hai người cưới nhau, hai người cần làm việc để kiếm sống thì lý tưởng của người
chiến sĩ, người chinh phu đâu còn giữ được nữa? Vì vậy coi như con đường của
Dũng bị thất bại.
Quí vị
nào chưa từng có cơ hội nghiên cứu về lịch sử của đất nước, chưa biết những gì
đã xảy ra cho những thế hệ con trai và con gái sinh ra từ đầu thế kỷ thứ hai
mươi thì đây là sự mời gọi, quí vị phải tạo ra cơ hội để làm chuyện đó.
Quán
chiếu thì chúng ta sẽ thấy con đường cách mạng cứu nước là một con đường rất
hấp dẫn đối với thanh niên và con đường làm cách mạng xã hội để giải thoát thân
phận của con người cũng là một con đường rất hay và những thanh niên sinh ra từ
đầu thế kỷ thứ hai mươi đã dấn thân vào một trong hai con đường đó.
Khi đem
vào tình trạng một chiều thứ ba, tức chiều tâm linh, chúng ta thấy rằng chúng
ta có thể có một bức tranh khác. Tờ Đuốc Tuệ đã đem tới một chiều thứ ba trong
không gian của tôi và trong lòng người con trai mười lăm tuổi hồi đó đã mở ra
được một hướng đi.
Bây giờ nhìn lại, tôi thấy một cách rất rõ rệt là khi mình đi tu,
cũng giống như mình đi làm cách mạng, tại vì hành động cạo đầu của mình đích
thực là một hành động rất cách mạng. Hủy
hình phi pháp phục, tức là
hủy cái đẹp hình thức, mặc cái áo thầy tu là hành động can đảm. Cát ái từ sở thân, cắt đứt những dây lưu luyến ràng buộc
với những người thân, đó là quả thực là một hành động cách mạng.
Hủy hình phi pháp phục
Cát ái, từ sở thân
Bỏ cái
đẹp hình thức, mặc vào chiếc áo thầy tu, xa lìa những người thân yêu để đi theo
lý tưởng độ chúng sanh, đó là nội dung phần đầu bài kệ được đọc lên khi đưa mái
tóc cho thầy cạo. Đó là con đường lớn của cách mạng.
Xuất gia
cũng là làm cách mạng, đích thực làm cách mạng, nhưng người xuất gia có một mái
nhà gọi là gia đình tâm linh, có những giới luật, có sự tu tập.
Khi làm
cách mạng, mình chia sẻ với những người đồng chí lý tưởng cách mạng, tức là
phục hồi độc lập quốc gia, thực hiện dân chủ. Mặc dù có chung lý tưởng nhưng
phương tiện dùng để đi đến mục tiêu đó khác nhau. Đơn cử như việc thành
lập rất nhiều đảng trong hoàn cảnh ấy: Quốc Dân đảng, Đại Việt đảng, đảng
Cộng Sản,…và những đảng này có thể không hài hòa nhau, có thể chống đối nhau,
loại trừ nhau.
Nếu có cơ
hội, mình nên đọc lại lịch sử của đất nước giai đoạn này. Mình biết được, giữa
đảng Quốc Dân, đảng Đại Việt, đảng Cộng Sản và những đảng khác có những bất hòa
nào? Có ý hướng loại trừ nhau, tiêu diệt nhau, ám sát nhau như thế nào? Những
chuyện này gây ra niềm đau rất lớn cho những thanh niên đi làm cách mạng. Bởi
cùng làm cách mạng, nhưng nếu không cùng đảng, bắt buộc họ phải lên án lẫn
nhau, thậm chí còn bắt cóc, ám sát nhau.
Trong môi
trường của người tu thì không có chuyện đó xảy ra. Trong tăng thân mình đã có
giới luật, mình đã có lý tưởng, mình đã có nguyên tắc Lục Hòa, mình đã có những
phương pháp thực tập và vì vậy cho nên dầu người kia theo Tịnh Độ, dầu người
kia theo Thiền, dầu người kia theo những tông phái khác thì không có lý do gì
mình phải chống đối. Đạo Phật có tới tám vạn bốn ngàn pháp môn và tinh thần của
đạo Phật là tinh thần của sự bao dung cho nên những người xuất gia không bao
giờ nghĩ đến chuyện thủ tiêu nhau, tiêu diệt nhau. Đó là một sự khác biệt rất
lớn giữa những người đi xuất gia với những người đi làm cách mạng.
Điều khác
biệt thứ hai, khi làm cách mạng, mình có thể thấy con đường quá dài. Có khi
sống hết cuộc đời rồi, mà vẫn chưa thấy được cụ thể một kết quả nào của cách
mạng mang lại. Hoặc đảng của mình, đường lối của mình đôi khi bị tiêu diệt, bị
đàn áp đến nỗi không còn có thể phục hồi được. Có khi hai mươi năm, ba mươi
năm, năm mươi năm vẫn không thấy được một kết quả nào cụ thể mà sự tổn thất về nhân
mạng vẫn tiếp tục xảy ra.
Trong khi
đó, nếu mình tu tập nghiêm chỉnh với tăng thân thì trong vòng vài ba tháng,
mình đã thấy an lành, mình có thể bắt đầu độ được người. Nếu các thiền sinh từ
xa tới thấy các sư cô, các sư chú –dù họ chỉ thực tập được sáu tháng hay một
năm –đi đứng trong chánh niệm, có oai nghi, có nụ cười, có sự tươi mát, họ có
niềm tin nơi chánh pháp, và họ đã đỡ khổ rất nhiều.
Ngày xưa,
khi số lượng các thầy, các sư cô ở Làng còn ít, tôi hay đi hướng dẫn các khóa
tu một mình. Tuy những khóa tu đó rất thành công, nhưng không thể so sánh được
với những khóa tu sau này. Khi tôi đem tới khóa tu ba mươi vị xuất gia hay năm
mươi vị xuất gia, các thiền sinh thấy các vị xuất gia đi theo đều biết đi,
đứng, nằm, ngồi trong chánh niệm, nói cười trong chánh niệm. Điều này đã mang
lại cho họ niềm tin về chánh pháp. Rõ ràng, không cần phải tu năm mươi năm hay
sáu mươi năm mới có thể mang lại hạnh phúc cho người khác, chỉ cần hành trì
giới luật, uy nghi và chánh niệm có nội dung trong vòng ba tháng, năm tháng hay
sáu tháng, mình có thấy được hiểu quả của con đường xuất gia.
Trong khi
đó người thanh niên đi làm cách mạng có thể thấy con đường dài hun hút, tổn
thất có thể tới hàng ngày mà sự ích lợi thiết thực của con đường lý tưởng chưa
thấy đâu cả?
Mình không
cần phải đợi khi nào trở thành giáo thọ rồi mới bắt đầu độ đời. Ngay trong ngày
đầu tiên, giờ đầu tiên, nếu mình có hạnh phúc, mình thực sự nương tựa vào tăng
thân thì niềm hạnh phúc đó được biểu hiện ngay trong lời nói, tiếng cười, dáng
đi của mình, và như thế, mình bắt đầu làm hạnh phúc cho tăng thân và cho những
người tới với mình.
Điểm khác
giữa người tu với người làm cách mạng là thấy được kết quả của những hành động
của chính mình. Bởi giáo lý đạo Bụt là giáo lý vượt thoát thời gian, đến để mà
thấy, có hiệu lực ngay trong giây phút hiện tại, nếu bắt đầu thực tập thì thấy
có kết quả ngay lập tức, dù kết quả còn khiêm nhường.
Điểm khác
biệt thứ ba, những người đi làm cách mạng ít được hưởng tình huynh đệ, tình gia
đình, cuộc sống của họ phong sương rất nhiều, còn sự tập mỗi ngày của người tu
hướng đến tình huynh đệ, thực tập như thế nào để sư anh, sư chị, sư em của mình
trở thành những người thương thật sự của mình, thực tập như thế nào để mỗi ngày
có cơ hội để thương và được thương, thực tập như thế nào để xây dựng không khí
đầm ấm của một gia đình tâm linh và do đó chúng ta có cơ hội mỗi ngày để thương
và để được thương.
Người tu
sĩ không thiếu thốn tình thương như người chiến sĩ, vì mỗi ngày, ta đều thực
tập hiến tặng tình thương theo tinh thần tứ vô lượng tâm –thứ tình thương không
bi lụy, không vướng mắc, không đánh mất tự do của mình và người kia. Ta hiến
tặng tình thương ấy cho những người bạn tu của ta, cho những người đến tu học
với ta. Do vậy, ta không bị lâm vào tình trạng của Dũng
Đọc bài thơ
này, ta thấy thương cho những người con đã ra đi để tranh đấu cho chủ quyền
quốc gia, bình đẳng xã hội. Lý tưởng đó rất đẹp, lý tưởng đó không thua gì lý
tưởng của một vị Bồ Tát, nhưng tổ chức cách mạng có thể đã không nuôi dưỡng
được người cách mạng như tăng thân nuôi dưỡng được những người xuất gia.
Một đảng
chính trị, một đảng cách mạng, một hội cách mạng có thể áp dụng những phương
thức để nuôi dưỡng những thành viên của họ. Nhưng cho đến bây giờ, chúng ta vẫn
chưa thấy được dấu hiệu rõ rệt nào chứng tỏ điều đó. Còn với đạo Bụt, qua hơn
2500 năm lịch sử, chúng ta thấy rất rõ, chúng ta có đủ những lề lối, những
phương thức, những pháp môn áp dụng để có thể đi trọn được con đường tu tập của
chúng ta với tư cách một vị Bồ Tát. Và đức Thế Tôn mong muốn rằng, chúng ta trở
thành những vị Bồ Tát có thể giúp được mình và giúp được người.
Chúng ta
xuất gia là phát nguyện dấn thân vào một cuộc cách mạng lớn. Chúng ta có nhiều
cơ hội thành công cuộc cách mạng này, vì chúng ta có tăng thân và có pháp môn
rất rõ ràng, rất thực tế. Vấn đề bây giờ là khả năng nắm lấy cơ hội đó nơi mỗi
người. Nếu khéo léo thực tập mỗi ngày để được nuôi dưỡng và nuôi dưỡng đến các
thành viên khác của tăng thân thì thành công là vấn đề nằm trong tầm tay của
mình. Và mình sẽ có rất ít những giây phút chạnh lòng. Giả sử, nếu có xảy ra
những giây phút như vậy, mình vượt qua rất mau. Vì mình có tình thương của
thầy, tình thương của anh, tình thương của chị, tình thương của em, tình thương
của Bụt nên mình sẽ không lâm vào tình trạng của Dũng trong bài thơ này.
Bài thơ
này nói về tình yêu lứa đôi, nhưng nếu đọc thơ với con mắt của chánh pháp, mình
có thể sử dụng những yếu tố không phải phật pháp để làm thành phật pháp. Phật
pháp tức Thế gian pháp, đó là điều mình đã được học. Đọc thơ với sự quán chiếu
sâu sắc, tình thương trong mình sẽ trào dâng. Mình thương cho Loan, mình thương
cho Dũng, mình thương cho biết bao thế hệ thanh niên đã có một tấm lòng, đã có
chí nguyện thương nước, thương dân và cải tạo xã hội. Nhưng vì chưa có những
điều kiện thuận lợi để thực hiện chí nguyện ấy nên không biết bao nhiêu người
đã ngã gục.
Tôi đã có
nói với quý vị, chúng ta đang nắm lịch sử trong tay. Bởi chúng ta đã và đang có
rất nhiều cơ hội góp phần vào việc tạo nên một thế hệ mới lành mạnh. Ngày xưa,
nhóm Tự Lực Văn Đoàn hoạt động chưa tới mười năm. Hơn nữa lại hoạt động trong
tình cảnh rất khó khăn. Nhưng họ đã rất thành công trong sự nghiệp của mình.
Ngày xưa,
Hoàng Đạo, em ruột của Nhất Linh, đã lấy bút hiệu là Tứ Ly viết một tác phẩm
với tựa là Mười Điều Tâm Niệm. Mười Điều Tâm Niệm kêu gọi thanh niên đi làm
cách mạng. Chúng ta nên đọc nó và quán chiếu bằng con mắt trạch pháp, xem thử
điều nào có thể chấp nhận được, điều nào hơi quá đà.
Theo giáo
lý Tứ đế, chúng ta cần nhìn sâu vào khó khăn, đau khổ của tình trạng hiện tại
để hiểu được nguyên nhân đưa đến những khó khăn, khổ đau đó –Nhìn vào khổ đế
thấy được Tập đế. Thấy được Tập đế, chúng ta sẽ khai mở con đường Đạo đế để đi
tới kết quả là Diệt đế.
Tất cả
những gì ta làm, ta nói, ta viết đều có tác dụng mở rộng con đường cho những
thế hệ tương lai. Nhóm Tự Lực Văn Đoàn tồn tại rất ngắn, chúng ta có thể may
mắn hơn họ. Những gì chúng ta đang làm như mở những khóa tu cho người Việt, cho
người Mỹ, người châu Âu, cho người Nhật, cho những nhà tâm lý trị liệu, cho
giới văn nghệ sĩ, cho giới thương gia, cho giới bảo vệ môi trường, cho những
thầy giáo, cô giáo,…là những phương tiện, những cơ hội hướng dẫn cho thế hệ
tương lai con đường của chuyển hóa, con đường của trị liệu. Chúng ta đang thật
sự làm một cuộc cách mạng, chúng ta phải ý thức điều đó. Chúng ta không làm như
những cá nhân, chúng ta làm với tư cách một tăng thân.
Chúng ta
phải biết trân quí thời gian của mình. Trong mỗi giờ, mỗi phút, chúng ta phải
nắm tay nhau, chúng ta phải thấy được lý tưởng vĩ đại, cao đẹp của chúng ta,
chúng ta phải làm cho được, thực hiện cho được chí nguyện lớn của chúng ta
trong thế kỷ hai mươi mốt này.
Còn
khoảng một giờ đồng hồ nữa, chúng ta sẽ bước sang một năm mới. Đây là năm đầu
của thiên năm đầu của thế kỷ mới, của thiên niên kỷ mới. Đọc bài thơ này, chúng
ta phải ý thức rằng, chúng ta đang có may mắn được cùng sống với nhau như một
tăng thân, chúng ta có lý tưởng, đường hướng và phương tiện để hoàn thành cuộc
cách mạng của chúng ta. Thế giới hôm nay cần cuộc cách mạng đó, vì có rất nhiều
người đang chìm đắm trong đau khổ, trong hận thù, trong đam mê. Chúng ta sẽ
thành công như một tăng thân, chúng ta sẽ thành công như một dòng sông mà không
phải là những giọt nước.
Trong giờ giao thừa, chúng ta sẽ tụng chung với nhau bài tụng Hạnh
Phúc để chúng ta biết rằng, mình đang có nhau, đang cùng đi trên cùng một con
đường. Nếu chúng ta ý thức được điều này, hạnh phúc của chúng ta sẽ tăng tiến
rất mau chóng, và năng lượng đó sẽ giúp chúng ta thành đạt được lý tưởng mà
chúng ta đã nguyện đi theo.
Hủy hình phi pháp phục
Cát ái, từ sở thân
Xuất gia hành Phật đạo
Nguyện độ nhất thiết nhân
Đó là
giây phút mà ta nói lên lời cam kết, lời thề của tất cả những người xuất gia.
Giây phút chạnh lòng
Tặng tác giả "Đoạn Tuyệt"
"Anh đi đường anh, tôi đường tôi,
Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Đã quyết không mong xum họp mãi.
Bận lòng chi nữa lúc chia phôi?
"Non nước đang chờ gót lãng du,
Đâu đây vẳng tiếng hát chinh phu,
Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc
Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ.
"Anh đi vui cảnh lạ, đường xa,
Đem chí bình sinh dãi nắng mưa,
Thân đã hiến cho đời gió bụi
Đâu còn lưu luyến chút duyên tơ?
"Rồi có khi nào ngắm bóng mây
Chiều thu đưa lạnh gió heo may
Dừng chân trên bến sông xa vắng,
Chạnh nhớ tình tôi trong phút giây;
"Xin anh cứ tưởng bạn anh tuy
Giam hãm thân trong cảnh nặng-nề,
Vẫn để hồn theo người lận đận;
Vẫn hằng trông đếm bước anh đi."
Lấy câu khẳng-khái tiễn đưa nhau,
Em muốn cho ta chẳng thảm sầu.
Nhưng chính lòng em còn thổn-thức,
Buồn kia em giấu được ta đâu?
Em đứng nương mình dưới gốc mai,
Vin ngành sương đọng, lệ hoa rơi,
Cười nâng tà áo đưa lên gió,
Em bảo: hoa kia khóc hộ người.
Rồi bỗng ngừng vui cùng lẳng lặng,
Nhìn nhau bình-thản lúc ra đi.
Nhưng trong khoảnh khắc thờ-ơ ấy,
Thấy cả muôn đời hận biệt-ly.
Năm năm theo tiếng gọi lên đường,
Tóc lộng tơi bời gió bốn phương.
Mấy lúc thẫn thờ trông trở lại,
Để hồn mơ tới bạn quê hương.
Ta muốn lòng ta cứ lạnh lùng
Gác tình duyên cũ chẳng đường trông.
Song le hương khói yêu đương vẫn
Phảng phất còn vương vấn cạnh lòng.
Hôm nay tạm nghỉ bước gian nan.
Rũ áo phong sương trên gác trọ.
Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.
Ta thấy xuân nồng thắm khắp nơi,
Trên đường rộn rã tiếng đua cười,
Động lòng nhớ bạn xuân năm ấy.
Cùng ngắm xuân về trên khóm mai.
Lòng ta tha thiết đượm tình yêu,
Như cảnh trời xuân luyến nắng chiều,
Mắt lệ đắm trông miền cách biệt,
Phút giây chừng mỏi gót phiêu lưu...
Cát bụi tung trời - Đường vất vả
Còn dài - Nhưng hãy tạm dừng chân,
Tưởng người trong chốn xa xăm ấy
Chẳng biết vui buồn đón gió xuân?
Thế Lữ (1936)
Thế Lữ tên thật là Nguyễn
Thứ Lễ, còn có bút danh Lê Ta, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1907, tại ấp Thái Hà, Hà Nội trong
một gia đình Ki tô giáo. Ông quê ở làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên
Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông theo người nhà lên sống ở Lạng Sơn từ nhỏ cho đến năm
11 tuổi. Năm 1918, Thế Lữ về sống ở Hải Phòng và từ năm 1925 đến năm 1928 học
thành chung ở trường Bonnal (ở địa điểm nay là trường Ngô
Quyền). Học đến năm thứ ba thành
chung, ông thôi học lên Hà Nội học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, sau đó
một năm (1930), ông bỏ học. Năm 1932, Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự Lực Văn Đoàn
và là một trong những cây bút chủ lực của báo Phong
hóa, Ngày
nay, Tinh
hoa. Ông mất tại Sài Gòn ngày 3
tháng 6 năm 1989, để lại cho đời nhiều tác phẩm: Mấy vần
thơ, Vàng và
máu, Bên
đường Thiên Lôi, Gió
trăng ngàn, Trại Bồ
Tùng Linh,Ba hồi kinh dị, Con quỷ
truyền kiếp, Lê
Phong phóng viên, Gói
thuốc lá, Đòn hẹn, ,…
*Gồm 7 người là Nhất Linh, Khái
Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ, và Xuân Diệu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét