Nhà vườn bên
dòng sông Hương
Ai đặt chân đến thành phố Huế cũng đều có ấn tượng sâu đâm trước
vẻ đẹp êm đềm của cố đô. Trừ khu buôn bán không rộng lắm bên tả ngạn sông Hương
tập trung xung quanh chợ Đông Ba và đường Trần Hưng Đạo, cả thành phố còn lại
đều dịu dàng yên tĩnh, không khí trong sạch, rất ít bụi bặm, mọi tiếng ồn ào
đến đây hình như đều bị lọc bớt, lắng xuống. Nắng hè ở miền Trung nước ta gay
gắt đến thế mà ở Huế cũng dịu được nhiều phần. Mọi ngôi nhà ở Huế kể cả các
công thự lớn, dường như đều được che chở sau màu xanh của các rặng cây. Những
con đường lớn của Huế đều râm mát nhờ những hàng cây đẹp. Người ta cho rằng sở
dĩ thành phố Huế có được cái êm đềm hiền hòa, dịu dàng, yên tĩnh ấy phần lớn là
nhờ dòng sông Hương và những ngôi vườn, vườn quanh nhà ở, vườn chùa, vườn đền,
vườn ngự, vườn lăng... Sông và vườn cùng với các công trình văn hóa nghệ thuật
cổ kính đã đem lại cho Huế cái chất thơ trầm lắng và cái hài hòa trong sáng tỏa
ra từ những đô thị có chiều sâu văn hiến.
Thiên nhiên đã giữ một vai trò thật quan trọng trong sự tổng hợp
nên bản sắc Huế. Khi xây dựng đô thị của mình, người Thuận Hóa - Phú Xuân của
những thế kỷ trước đây không hề bộc lộ được cái ham muốn chế ngự thiên nhiên mà
chỉ tìm cách tổ chức thiên nhiên trở thành có văn hóa để tham dự một cách hài
hòa vào cuộc sống của con người. Lớn lên ở Huế không lúc nào người Huế không
cảm thấy thành phố này như một khu vườn thân mật của mình. Ít có một thành phố
nào như Huế, nơi mà giữa tạo vật và con người luôn luôn gắn bó một tình bạn
thân thiết và tươi xanh.
Nhà vườn xứ Huế dù giàu hay nghèo thường vẫn có cổng gạch, mái
khá rộng, phía ngoài trồng vài cây có quả: ấy là chỗ dừng chân qua cơn mưa, là
bóng mát dành cho người đi đường, là chút lộc hoa trái dành cho trẻ con trong
xóm. Người Huế lập vườn trước hết là nơi
cư ngụ của tâm hồn mình giữa thế gian, ước mong nó sẽ là chút di sản tinh thần
để đời cho con cháu. Ngôi vườn An Hiên trong vùng Kim Long ở gần chùa Linh Mụ
là một kiểu vườn Huế như vậy. Muốn vào vườn người ta bước qua một cái vòm cổng
xây gạch và thấy nhô lên ở cuối sân chiếc mái ngói cổ với những nét uốn cong ẩn
hiện giữa tán lá xanh biếc. Một lối đi khá dài, hai bên trồng mai trắng, lá đan
vòm che trên đầu người như nối dài thêm cái vòm cổng vào đến sân. Vườn An Hiên
có một cây ngọc lan già nửa thế kỷ đứng sát cổng, thu tàn đông lạnh nó chỉ rụng
lác đác ít lá vàng, vẫn giữ một màu lục tươi nguyên khối, cây già mà hoa trẻ,
hoa nở không có mùa cứ mỗi cơn mưa cơn nắng chợt đến lại bừng lên dễ đến hàng
vạn đóa hoa trên cây, hương bay xa mấy dặm. Gần gũi với cây ngọc lan là cây
hoàng lan, thường gọi là bông sứ vàng, loài hoa màu vàng đu đủ chín - một giống
còn lại ở Huế rất hiếm.
Vườn An Hiên thật là Huế trong cái nét tổng hợp những loài thực
vật đa dạng đó của đất nước. Vườn trồng nhiều loại hoa, mỗi thứ một ít nhưng đủ
loại, dân dã có các loài nhài, lý, thạch lựu, tường vi và các giống hồng bản
địa, quý phái có các loại thổ lan và phong lan; bên cạnh những khóm hồng hiện
đại nhập từ châu Âu, người ta có thể thấy một bụi hoa sim dại. Khách đến thăm
vườn thế nào cũng dừng lại ngắm hai cây hải đường đứng đối nhau trước tấm bình
phong cổ, rộ lên hàng trăm đoá phơi phới ở đầu cành, nhìn gần hải đường có một
màu đỏ thắm rất quý phái. Ở Huế, hải đường không chỉ mọc ở sân nhà quyền quý nó
sống khắp các vườn nhà dân, các sân đình, chùa, nhà thờ họ. Dáng hải đường khá
độc đáo: lá to, thân khoẻ, sống lâu nên cội cành thường sần lên những lớp rêu
da rắn màu gỉ đồng, trông dân dã như cây chè vùng đất đỏ. Hoa hải đường rạng rỡ
nồng nàn mà không có vẻ gì là yểu điệu.
Vào dịp Tết, những chậu trà mi đỏ tươi, màu đỏ rất sâu, cứ hút
lấy cái nhìn của người xem, hoa đỏ đã đẹp, hoa trắng càng đẹp, có cái gì thật
trong sáng tinh khôi trong màu trắng trà mi, toàn đoá hoa như một phiến ngọc
bạch. Đến quá giữa xuân thì hoa lê bắt đầu nở, nhìn cây lê đang nở hoa thấy
trên những cành thẳng có những chấm mắt nhỏ gồ ghề, dáng đốt trúc, mấy chùm hoa
trắng điểm lên ít lá non, xanh mơn mởn, bóng loáng. Cành lê to khoẻ, hoa chỉ
điểm năm ba chùm rung động nhẹ như những cánh bướm trắng. Măng cụt trong vườn
cũng đang nẩy lộc chi chít.
Vào hè vườn An Hiên vào mùa quả. Khởi đầu là mùa thơm: giống
thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa, cắt ra từng lát tròn to vàng màu mật ong.
Dâu chín vào tháng năm tháng sáu. Sau vườn, cạnh giếng nước có một vạt đất
trồng những loại cây leo: hồ tiêu, thanh long, trầu không...
Vườn An Hiên còn có mấy cây vải Phụng Tiên giống vải đặc sản của
Huế quả lớn hơn quả nhãn một chút, hạt bé bằng hạt tiêu, hương vị không kém vải
thiều xứ Bắc. Giống vải này được xếp vào hàng quý tộc, xưa chỉ trông nơi cung
cấm.
Vào thu, khu vườn An Hiên càng hiện ra trong vẻ đẹp của trái:
cam và thanh trà làm cho khu vườn nặng trĩu xuống khác với dạo đầu hạ, đến cuối
tháng tám những cây thị nhung chi chít những quả đỏ, loại thị này giống như
những quả táo tây, cũng là một loại cây trái lạ đã được đưa đến Huế. Mấy cây
hồng Tiên Điền, không hạt, già tuổi nhất trong vườn An Hiên, là đặc sản của quê
hương Nghệ Tĩnh được cụ nghè Mai - chắt nội thi hào Nguyễn Du tặng ngày mới
thành lập vườn.
Người Huế trồng vườn, ngoài hoa lợi vật chất còn coi trọng nguồn
hoa lợi tinh thần do cây cối đem lại.
Hàng năm, mùa xuân người chủ vườn trồng thêm cây, mùa hạ làm cỏ
đốt lá, mùa thu hái hồng, mùa đông đọc sách trong niềm vui thầm lặng chờ mùa
xuân đến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét