Thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào ở chốn nước non lặng lẽ này
Xuân Diệu là một hồn thơ tha thiết, rạo rực, băn khoăn. Nhà thơ Thế Lữ, trong
lời Tựa cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xd trên đất của một tấm lòng trần
gian”. Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là vội vàng. Ngay từ
hồi viết Thi nhân Vn, Hoài Thanh đã thấy "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say
đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt".
Thực ra, cái điệu sống vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý
thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục
không thể tránh khỏi mai này. Sống là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu. Mà sống
là phải tận hưởng và tận hiến!. Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sống. Sống
hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với
thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp.
Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thơ ca. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Mở đầu bài ‘Vội vàng’ là một khổ thơ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Đấy là ước muốn quay ngược qui luật tự nhiên - một ước muốn ko thể: Tôi muốn …bay đi.
Muốn "tắt nắng", muốn "buộc gió" thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy?. Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở một lòng yêu bồng bột vô bờ với thế giới thắm sắc đượm hương này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũg hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong ‘Vội vàng’ vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Tg diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình: Của ong .. cặp môi gần;
Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác "Tháng giêng... môi gần". Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ - tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, trinh nguyên.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết rất chặt chẽ. Thi sĩ muốn "tắt nắng", muốn buộc gió chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế như thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ 3 của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, "ngon" nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái "ngon" kia khi còn trẻ thôi. Trong khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này: Xuân đang …. sẽ già.
Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời gian tuyến tính. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn.
Vội vàng cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thơ ca. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Mở đầu bài ‘Vội vàng’ là một khổ thơ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Đấy là ước muốn quay ngược qui luật tự nhiên - một ước muốn ko thể: Tôi muốn …bay đi.
Muốn "tắt nắng", muốn "buộc gió" thật là những ham muốn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được qui luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy?. Cái ham muốn lạ lùng kia đã hé mở một lòng yêu bồng bột vô bờ với thế giới thắm sắc đượm hương này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũg hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong ‘Vội vàng’ vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khiêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng. ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Tg diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình: Của ong .. cặp môi gần;
Có lẽ trước Xuân Diệu trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác "Tháng giêng... môi gần". Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ - tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, trinh nguyên.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết rất chặt chẽ. Thi sĩ muốn "tắt nắng", muốn buộc gió chính vì muốn giữ mãi hương sắc cho một trần thế như thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thì. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ 3 của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, "ngon" nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái "ngon" kia khi còn trẻ thôi. Trong khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này: Xuân đang …. sẽ già.
Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn, với cái chu kì bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời gian tuyến tính. Thời gian như một dòng chảy vô thuỷ vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn.
Phần cuối của bthơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy là Vội vàng trong hình thái sống của cái tôi cá nhân cá thể này. Bài thơ được kết thúc bằng những cảm
xúc mãnh liệt, bằng những ham muốn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc
tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới
phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuốn của mình.
Ta muốn ôm: …Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!.
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, theo những đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm hồn người đọc. Câu thơ ‘Ta muốn ôm’ chỉ có 3 chữ, lại được đặt ở vị trí đbiệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, hơn nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Điệp ngữ: "Ta muốn" được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm - riết - say - thâu - cắn. Có thể nói, cthơ "Và non nước, và cây, và cỏ rạng" là không thể có đối với thi pháp trung đại. Tuy nhiên, đây lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ "và" hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ!. Cho chếnh …. của thời tươi cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ "cho" điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thuê: chếnh choáng - đã đầy - no nê. Sóng cứ càng lúc càng tràn dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh: - Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!.
Ta muốn ôm: …Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!.
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, theo những đợt sóng vỗ mãi vào vào tâm hồn người đọc. Câu thơ ‘Ta muốn ôm’ chỉ có 3 chữ, lại được đặt ở vị trí đbiệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muốn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, hơn nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Điệp ngữ: "Ta muốn" được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm - riết - say - thâu - cắn. Có thể nói, cthơ "Và non nước, và cây, và cỏ rạng" là không thể có đối với thi pháp trung đại. Tuy nhiên, đây lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ "và" hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ!. Cho chếnh …. của thời tươi cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ "cho" điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thuê: chếnh choáng - đã đầy - no nê. Sóng cứ càng lúc càng tràn dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh: - Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!.
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhuỵ đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chếnh choáng men say. Sống là hạnh phúc. Muốn
đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là, Vội vàng chính là cách duy nhất
để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá trả cho hạnh
phúc vậy!. Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ
của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã
thuộc về tuổi trẻ!. Đã hơn 20 năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm
lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái
tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình
của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất
trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!.
Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, Một Nguyễn Bính với “mùa xuân là cả một1 mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi 20 căng nhựa sống.
Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”, Một Nguyễn Bính với “mùa xuân là cả một1 mùa xanh…”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi 20 căng nhựa sống.
Bài thơ mở đầu bằng những ước muốn thật kì lạ: Tôi muốn … bay đi.
Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ!. Xuân Diệu có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi qui luật bình thường của tạo hoá. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp của đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.
Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về tgian trong tâm tưởng con người: nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li. Ý niệm về tgian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy lòng ta ko vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với mùa xuân.
Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian: Của ong ….gõ cửa.
Chưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như thế. Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phất”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng”!. Sức sống của mx làm vạn vật có linh hồn, quấn quít giao cảm đến độ cuồng nhiệt.bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa n~ hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng thời gian, nồng nàn và tinh tế.
Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc: Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.
Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạng phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nthơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống! Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực:Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Nhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét: xuân đang … cũng mất.
Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn xưa, không phải là một ý`niệm mới mẻ.
Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nthơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.
Trong khi đồng nhất hoá mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nthơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của qui luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cơ sở đã mất ý niệm. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao?. Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân.
Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” này. trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí của nhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng: Mau …hôm
Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ!. Xuân Diệu có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi qui luật bình thường của tạo hoá. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp của đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.
Điều nhà thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về tgian trong tâm tưởng con người: nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li. Ý niệm về tgian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy lòng ta ko vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với mùa xuân.
Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian: Của ong ….gõ cửa.
Chưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như thế. Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phất”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng”!. Sức sống của mx làm vạn vật có linh hồn, quấn quít giao cảm đến độ cuồng nhiệt.bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa n~ hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng thời gian, nồng nàn và tinh tế.
Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc: Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.
Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạng phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nthơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống! Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực:Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Nhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét: xuân đang … cũng mất.
Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn xưa, không phải là một ý`niệm mới mẻ.
Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nthơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.
Trong khi đồng nhất hoá mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nthơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của qui luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cơ sở đã mất ý niệm. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao?. Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân.
Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” này. trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí của nhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng: Mau …hôm
Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng
buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang,
nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất. Người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống.
Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quít kia là sự cuồng nhiệt với đời: Ta muốn ôm….cắn vào ngươi.
Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thđộ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cs, sống th` thật với chính mình, sống hết mình.
Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quít kia là sự cuồng nhiệt với đời: Ta muốn ôm….cắn vào ngươi.
Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thđộ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cs, sống th` thật với chính mình, sống hết mình.
Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cả đời mình và ông đã tìm ra ý/n của sự
sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi
hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến
thắng tgian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi 20:
Trong hơi thở chót dâng trời đất Cũng vẫn si tình đến ngất ngư (Không đề - 1983).
Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý niệm sự sống đời người. Con người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình hôm nay, sôi nổi chân thành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ yêu đời mê đắm. Trong Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh đã có nhận xét thật xác đáng về một đặc điểm của thơ XD: "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết". Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu thể hiện một khát vọng kì lạ đến ngông cuồng:"Tôi muốn tắt…bay đi” Trong làng thơ mới, Chế Lan viên thấy cuộc đời "tất cả là vô nghĩa" là khổ đau. Không thích mùa xuân, người thanh niên này muốn ngăn bước chân của nó bằng những gì sót lại từ mùa thu trước. Những lá vàng rơi, muôn cánh hoa tàn... với cả "ý thu góp lại" tạo nên một hàng rào tâm tưởng, để "chắn nẻo xuân sang". ở bài "Vội vàng", Xuân Diệu dường như lại có thái độ khác hẳn: thi sĩ cũng muốn đoạt quyền của tạo hóa, "muốn tắt nắng đi", "muốn buộc gió lại", nhưng để cho hương sắc của mùa xuân "đừng bay đi". Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn tả ý tưởng mạnh mẽ đó một cách thành công. Sở dĩ có khát vọng kì lạ đó, bởi lẽ, dưới con mắt của thi sĩ, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ: Của ong …tình si. Mùa xuân - mùa của tình yêu, của sự sống đã đi vào trong thơ từ hàng ngàn năm, nhưng trước Xuân Diệu, có lẽ chưa ai có tứ thơ, lời thơ tương tự. Đây là mx tươi đẹp bướm ong dập dìu, chim chóc ca hát, lá non phơ phất trên cành, hoa nở trên đồng nội. Đáng nói hơn là vạn vật như căng đầy sức sống, giao hoà vui sướng. bằng cách sử dụng linh hoạt, dồn đập các điệp từ và điệp ngữ ("của", "này đây"); những dòng thơ trên tạo cho người đọc ấn tượng một mùa xuân viên mãn, thiên nhiên phong phú bất tận như chờ đợi, như chào mời, sẵn sàng dâng hiến trao tặng tất cả cho con người. Cũng như trong cảnh mùa thu trong bài Đây mùa thu tới, cảnh mùa xuân trong bài thơ này được phát hiện bằng niềm háo hức mê say, tất cả đều ngỡ ngàng mới lạ trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, ham sống.
Táo bạo nhất, mới mẻ nhất có lẽ
chính là mấy câu thơ tiếp theo: Và này….môi gần. Mỗi buổi sáng, thi sĩ thức dậy
mở mắt là được chứng kiến một cảnh tượng mới mẻ, diễm lệ. ánh bình minh rực rỡ
chiếu sáng thế giới. Nguồn ánh sáng ấy như phát ra từ đôi mắt xinh đẹp của người
thiếu nữ, mỗi lần nàng chớp chớp hàng mi. Trong một bài thơ khác, Xuân Diệu đã
lấy lại hình ảnh gợi cảm này: Tà áo mới cũng say màu gió nước; Rặng mi dài sao
động ánh dương
vui. (Xuân đầu) Tuy vậy, gây ấn tượng mới mẻ, tươi đẹp nhất chính là câu:
"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần".
ở đây, nhà thơ có sự so sánh
thật táo bạo, thiên về cảm giác, gây được ấn tượng mạnh cho người đọc. Dưới con
mắt "xanh non" của Xuân Diệu, mùa xuân tựa hồ như một cô gái kiều diễm,
hồng hào, tình tứ, đầy hấp dẫn... Qua sự so sánh, ta có thể nhận thấy con người
ở đây là một thiếu nữ - sản phẩm diệu kì của tạo hóa, được Xuân Diệu coi là chuẩn mực của mọi vẻ
đẹp trên thế gian này. Xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ ấy, Xuân Diệu sáng tạo ra được nhiều câu thơ khoẻ
khoắn, mới lạ đầy sức sống, mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc, mà trước đó, có lẽ ta
chưa bao h thấy: ... Lá liễu dài như một nét mi .... Hơi gió thở như ngực người
yêu mến... Mây đa tình như thi sĩ đời xưa... Thơ xưa, thường lấy thiên nhiên
làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người. Vẻ kiều diễm của nàng Kiều được Nguyễn
Du ví với thiên nhiên: đôi mắt trong như làn nước mùa thu, nét mày thanh như sắc
núi mùa xuân; khiến cho "hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". Còn
cái đẹp phúc hậu của Thuý Vân thì được ví như "khuôn trăng đầy đặn, nét
ngài nở nang, - Hoa cười ngọc thốt đoan trang - Mây thua nước tóc tuyết nhường
màu da"... (Truyện Kiều). Từ quan niệm chuẩn mực của cái đẹp là thiên
nhiên đến quan niệm chuẩn mực của cái đẹp là con người có sự cách biệt của biết
bao thế kỷ. Như vậy, ở phần đầu bài thơ, bằng cặp mắt "xanh non"
"biếc rờn", Xuân Diệu đã nhìn cuộc đời và vạn vật có nhiều điểm khác
lạ so với các nhà "thơ cũ". Ông phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người
gần gũi bình dị ở quanh ta đây biết bao điều mới lạ, thật đáng yêu, đáng quý.
Do đó, chỉ còn có một cách duy nhất là phải sống vội vàng, cuống quýt, tận dụng
cao độ từng giây, từng phút của tuổi thanh xuân. ý tưởng táo bạo này được diễn
tả một cách thật mới mẻ. Đoạn thơ cuối cùng sau đây chính là sự kết tinh nghệ
thuật của toàn bài, thể hiện tập trung những nét nổi bật trong phong cách thơ
Xuân Diệu: Ta muốn ôm….. vào ngươi! ở đây, từ lối vắt câu, đến ngôn từ dùng điệp ngữ,
từ việc sử dụng nhiều hình ảnh táo bạo thiên về cảm giác, đến nhịp thơ hăm hở sôi
trào..., tất cả đều góp phần thể hiện đậm nét niềm ham sống đến cuồng nhiệt mê
say của tác giả. Đúng là "ông muốn thành một cây kim để hút vào mình thiên hạ"
như Thế Lữ đã nhận xét. Ngay tựa đề của bài thơ, ta đã thấy cái gì đó "vội
vàng" cuống quýt, ham muốn của một hồn thơ yêu đời, yêu cuộc sống của Xuân
Diệu: Tôi muốn … đừng bay đi’ ý muốn táo bạo quá! Phải chăng hồn thơ thiết tha với
đời ấy đang lo lắng trước sự đổi thay của đất trời, cảnh vật nên muốn ôm tất cả,
muốn giữ lại tất cả với vẻ đẹp vốn có của nó?... ý muốn của Xuân Diệu lớn quá,
mạnh mẽ quá như chính hồn ông vậy? "Muốn tắt nắng đi", "muốn buộc
gió lại" có vẻ không ngoài ý muốn giữ cho vũ trụ ngừng quay, ý tưởng giữ lại
cái đẹp, giữ lại thời gian... Những ý muốn, những hành động của ông cứ mạnh dần
lên, lớn hơn lên: "tắt nắng" rồi lại "buộc gió"; cũng như sự
"lớn" của lòng ham muốn của niềm khao khát trước cuộc sống trần thế
đang tràn đầy hứa hẹn. Một loạt những điệp từ "này đây", "này
đây" đặt song song như sự sắp đặt những món ăn tinh thần sẵn có, như gợi mở
quyến rũ hấp dẫn đến lạ kì. Qua "cặp mắt xanh non" của nhà thơ,
cuộc sống trần thế xung quanh ta bỗng được phát hiện như một thiên đường, phong
phú giàu có. Cuộc sống, tình yêu và hạnh phúc, những cái giá trị nhất của cuộc
đời đang được Xuân Diệu phát hiện. Cái gì cũng "biếc rờn" "mơn mởn".
Khác với những nhà thơ cùng thời, Xuân Diệu cũng chịu "nỗi buồn thế hệ",
nhưng không có phần chán chường, buồn nhưng ông vẫn nhìn thấy cuộc sống tươi đẹp,
đáng sống. Không như Chế Lan Viên trong Điêu tàn có phần quay lưng lại thực tại
một cách gay gắt, quyết liệt, hay chán nản, bế tắc như trong những vần thơ Huy
Cận, hoặc tìm đến một nơi tiên cảnh như trong thơ Thế Lữ, thơ Xuân Diệu luôn
toát lên niềm ham sống mãnh liệt. Đó là nét bao trùm của hồn thơ ông. Tất cả
như gợi lên sự tận hưởng, gợi lên niềm tha thiết với tình yêu và cuộc sống. Cảnh
vật đầy hứa hẹn về tương lai, về hạnh phúc và với Xuân Diệu, cuộc đời đầy đáng
yêu, ngay cả tháng giêng cũng thật thi vị, hấp dẫn:Tháng giêng ….môi gần. một cthơ gợi cảm thật đắt!.
Xuân Diệu không nói cả mùa xuân mà chỉ nói mỗi tháng giêng - tháng
đẹp nhất, tháng mở đầu cho cả mùa xuân. Nói tháng giêng, nhưng Xuân Diệu gợi đến cả mùa xuân, mùa
mà vạn vật căng đầy sức sống: cây cối đâm chồi nẩy lộc, hoa lá xanh tươi, con
người trẻ trung, yêu đời, tất cả như trồi dậy một sức sống mạnh mẽ, một niềm
say sưa sống, thiết tha với đời. "Tháng giêng" là tháng đẹp nhất của
mùa xuân, mùa xuân là "mùa" đẹp nhất của con người, của cuộc đời. Thiên nhiên đẹp được Xuân Diệu ví với
"cặp môi gần". Đây là một câu thơ rất truyền thống lấy chuẩn mực cái đẹp
là cỏ cây hoa lá, thì với Xuân Diệu, chuẩn mực của cái đẹp lại là con người. Cái hay,
cái đẹp, của hồn thơ Xuân Diệu, cái rất Xuân Diệu có phần là ở đó. Khác với Nguyễn Du tả mùa xuân
đẹp với chuẩn mực là thiên nhiên, khác với Chế Lan Viên trong Điêu tàn, mùa
xuân đẹp, hấp dẫn là thế mà thi sĩ chối bỏ gay gắt, quyết liệt. Đối với Xuân Diệu, mùa
xuân thật tươi đẹp, thật quyến rũ. ở đây, Xuân Diệu không có sự phủ nhận thực tại như Chế
Lan Viên, mà trái lại, trước thực tại, ông luôn đón nhận nó một cách mãnh liệt,
thiết tha. Bởi lẽ ông đang trong thời xuân. "Cặp mắt xanh non",
"biếc rờn" của nhà thơ nhìn vào cái gì cũng đẹp, cũng thấy thú vị, hấp dẫn:
"ngon như một cặp môi gần". "Tháng giêng …môi gần" là một câu thơ trong sáng. Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc một cảm nhận trước phần
"ngon nhất" của cuộc đời. Câu thơ vừa tả cảnh lại vừa ngụ tình - tình Xuân Diệu, khát khao hạnh phúc, khát khao yêu đương, tha thiết cuộc đời đến cuồng nhiệt. Xuân Diệu đã "say sưa", "chếnh choáng" trước vẻ đẹp "no
nê", "đã đầy" của mùa xuân. Nhưng vì lẽ thường, xuân chỉ là một trong bốn mùa của một năm, chỉ tồn tại một thời gian để mùa hạ, mùa thu, mùa đông sẽ đến, nên
xuân mang trong nó tính thời gian, mang ý nghĩa trôi chảy: Xuân đang ….sẽ già.
Ta muốn ôm,….. hồn nhiều. Chữ "ôm" như gói trọn "Cả sự sống mới
bát đầu mơn mởn", như ghì riết, ôm tất cả để giữ lại tất cả. "Cặp mắt
biếc rờn" của nhà thơ như đang khám phá hết những bí ẩn của thế giới thiên
nhiên, như thấy tất cả đều căng đầy, tràn trề nhựa sống. Lời thơ mạnh mẽ, trần
thế quá. Nhưng đó là cái tâm, cái hồn nhà thơ thiết tha sự sống, yêu cuộc đời đến
cuồng nhiệt, muốn được "chếnh choáng", "no nê" trong sự tận
hưởng hết giá trị, hết cái đẹp của cuộc sống và tình yêu. Ta cảm giác như Xuân
Diệu đang hạnh phúc, đang sung sướng đón nhận một món quà, một niềm vui tột bậc
khi nhà thơ buông câu kết: Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!. Mùa xuân như một
trái chín ửng hồng, như mời mọc ta, hấp dẫn ta, thôi thúc ta hành động để đến
cái đích: "cắn vào ngươi!". Lòng ham muốn mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu trước
tình yêu, trước cả đời mãi mãi là khát vọng, là ham muốn chưa toại nguyện. Xuân đẹp
quá, gần quá mà chưa với tới được. Như thế Vội vàng không chỉ thể hiện một hồn thơ Xuân Diệu, một tấm
lòng Xuân Diệu trước cuộc đời mà còn thể hiện một quan niệm nhân sinh mới "chưa từng thấy trong
thơ ca truyền thống". Đó là thái độ sống tích cực, sống hết mình, sống
"say sưa", sống cuồng nhiệt của Xuân Diệu. Vội vàng đúng là một bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ lớn luôn khao khát giao cảm với đời. bài thơ này khiến người đọc biết yêu cuộc sống trần thế, biết tận hưởng niềm hạnh phúc được sống trên Thiên đàng và thêm quý trọng tuổi thanh
xuân một đi không bao giờ trở lại, để không bao giờ phải ân hận xót xa, bởi những năm tháng sống
hoài phí. Xuân Diệu mãi là nhà thơ của tình yêu, của tuổi trẻ chính là bởi lẽ đó.
Trong hơi thở chót dâng trời đất Cũng vẫn si tình đến ngất ngư (Không đề - 1983).
Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý niệm sự sống đời người. Con người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình hôm nay, sôi nổi chân thành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ yêu đời mê đắm. Trong Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh đã có nhận xét thật xác đáng về một đặc điểm của thơ XD: "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn, tha thiết". Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu thể hiện một khát vọng kì lạ đến ngông cuồng:"Tôi muốn tắt…bay đi” Trong làng thơ mới, Chế Lan viên thấy cuộc đời "tất cả là vô nghĩa" là khổ đau. Không thích mùa xuân, người thanh niên này muốn ngăn bước chân của nó bằng những gì sót lại từ mùa thu trước. Những lá vàng rơi, muôn cánh hoa tàn... với cả "ý thu góp lại" tạo nên một hàng rào tâm tưởng, để "chắn nẻo xuân sang". ở bài "Vội vàng", Xuân Diệu dường như lại có thái độ khác hẳn: thi sĩ cũng muốn đoạt quyền của tạo hóa, "muốn tắt nắng đi", "muốn buộc gió lại", nhưng để cho hương sắc của mùa xuân "đừng bay đi". Bằng lối điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn tả ý tưởng mạnh mẽ đó một cách thành công. Sở dĩ có khát vọng kì lạ đó, bởi lẽ, dưới con mắt của thi sĩ, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ: Của ong …tình si. Mùa xuân - mùa của tình yêu, của sự sống đã đi vào trong thơ từ hàng ngàn năm, nhưng trước Xuân Diệu, có lẽ chưa ai có tứ thơ, lời thơ tương tự. Đây là mx tươi đẹp bướm ong dập dìu, chim chóc ca hát, lá non phơ phất trên cành, hoa nở trên đồng nội. Đáng nói hơn là vạn vật như căng đầy sức sống, giao hoà vui sướng. bằng cách sử dụng linh hoạt, dồn đập các điệp từ và điệp ngữ ("của", "này đây"); những dòng thơ trên tạo cho người đọc ấn tượng một mùa xuân viên mãn, thiên nhiên phong phú bất tận như chờ đợi, như chào mời, sẵn sàng dâng hiến trao tặng tất cả cho con người. Cũng như trong cảnh mùa thu trong bài Đây mùa thu tới, cảnh mùa xuân trong bài thơ này được phát hiện bằng niềm háo hức mê say, tất cả đều ngỡ ngàng mới lạ trong đôi mắt của thi sĩ đa tình, ham sống.
Bài viết rất hay, cảm ơn bạn Phan Chau Truong đã chia sẻ.
Trả lờiXóa------------------------------------
Ms Nga –Nghiệp Vụ vé - SacoJet.vn
Tel: 0938 172 672 - 090 262 1479 – 1900 63 6479
Thôn tin: Đặt mua vé máy bay Vietjet Air đi Du lịch Phú Quốc tại Tp.HCM
Website đặt vé trực tuyến: www.SacoJet.vn