Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

Vài nét về tính dân tộc trong văn học Việt Nam

Vài nét về tính dân tộc trong văn học Việt Nam

Văn học cũng như mọi loại hình nghệ thuật khác đều là sản phẩm tinh thần của một cá nhân nghệ sĩ. Mà cá nhân người nghệ sĩ đó lại thuộc về một cộng đồng, một dân tộc nhất định. Mỗi tác phẩm văn học ít nhiều đều  mang dấu ấn riêng  về văn hóa, phong tục tập quán hay tâm lí, tính cách đặc trưng của dân tộc mình. Vậy tính dân tộc có thể được xem như là một thuộc tính xã hội của văn học, là một “ thuộc tính tất yếu của việc sáng tạo” (Bielinxki)
Tính dân tộc có thể được hiểu là những đặc điểm nổi bật của cộng đồng người  có chung lãnh thổ, ngôn ngữ, phương thức và chế độ chính trị trải qua một thời kì lịch sử lâu dài. Tính dân tộc không bộc lộ một cách rõ ràng, cụ thể thành yếu tố hữu hình mà nó thấm vào trong cảm xúc, trong cách nhìn và phương thức thể hiện của tác phẩm. Nhà văn không phải cứ chăm chú miêu tả về cảnh sắc thiên  nhiên hay kể về những tên đất, tên làng gắn liền với dân tộc mình đang sinh sống thì tác phẩm mới có tính dân tộc.  Đọc tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chúng ta thấy trong tác phẩm xuất hiện nhiều địa danh, nhân vật, kể cả cốt truyện đều có nguồn gốc từ đất nước Trung Hoa, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được tâm hồn dân tộc thấm đẫm trong những trang Kiều.
 Rõ ràng một tác phẩm có tính dân tộc là tác phẩm thể hiện được “tính cách dân tộc và cái nhìn dân tộc đối với cuộc đời” (1, 103).Tính cách dân tộc là “những nét phẩm chất lặp đi lặp lại tạo thành bộ mặt tinh thần của dân tộc” (1, 104). Chẳng hạn,  người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay đều có chung một nét tính cách phổ biến là chịu thương, chịu khó, giàu đức hi sinh, giàu lòng  yêu thương và  thủy chung, son sắt. Tính cách đó đã hình thành từ thời xa xưa, được  lưu giữ qua truyền thuyết, truyền tụng trong nhiều bài ca dao và truyện kể khác.
 Đến thời kì văn học trung đại ta bắt gặp tính cách ấy trong hình tượng nàng Kiều – một người con gái rất mực xinh đẹp, tài hoa. Mặc dù đang sống trong cảnh “ êm đềm trướng rũ màn che” nhưng khi gia đình gặp cơn nguy biến, Kiều sẵn lòng hi sinh mối tình đầu đẹp đẽ của mình với Kim Trọng, hi sinh cả bản thân mình để bán mình cứu cha “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Mười lăm năm lưu lạc với biết bao đau đớn, ê chề, tủi nhục cũng không làm phai nhạt đi những nét tính cách, phẩm chất đáng quí của nàng mà ngược lại chính hoàn cảnh éo le càng làm nổi bật thêm vẻ đẹp tâm hồn đó . Tác giả  khắc hoạ một nàng Kiều đầy đủ nhất với tấm lòng trong trắng, thủy chung, giàu đức hi sinh và luôn dành hết nỗi lo lắng, nhớ thương cho những người mà Kiều thương yêu:
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
Dặm ngàn nước thẳm non xa,
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
Sân hoè đôi chút thơ ngây.
Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình?
Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai ?
Khi về hỏi liễu Chương Đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?
Tình sâu mong trả nghĩa dày,
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa?
     Ở đây, ta thấy một nàng Kiều có ý thức thật sự về thân phận, đó là con người dịu dàng mà cương quyết, sẵn sàng hi sinh phẩm giá, mạng sống của mình cho những người thương, cho lẽ phải và lòng tự trọng.
Tính cách ấy của người phụ nữ Việt Nam được thể hiện cao đẹp nhất trong thời kì văn học hiện đại với hình ảnh chị Sứ trong tiểu thuyết Hòn đất  của nhà văn Anh Đức, một người phụ nữ “ chỉ sung sướng bằng sự sung sướng của mẹ, cha anh em đồng chí và khi có con chị dành cho con  tất cả những gì mình có”, hay hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong  sẵn sàng hi sinh tuổi xuân của mình cho dân tộc, cho nhân dân:
Cạnh giếng nước có bom từ trường
Em không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà
(Gửi em cô thanh niên xung phong- Phạm Tiến Duật)
    Phải chăng những tính cách, phẩm chất đó là điển hình cho vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tổng hòa những tính cách tiêu biểu mang đậm cốt cách,  truyền thống của con người Việt, dân tộc Việt ?
     Tính dân tộc còn thể hiện ở cái nhìn dân tộc đối với thế giới xung quanh, là biểu hiện đầy đủ nhất những cảm nhận của nhà văn, nhà thơ trước không gian, thời gian và các mối quan hệ giữa con người với con người. Đọc thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Khuyến ta nhận ra điệu hồn dân tộc thể hiện qua những trăn trở, nghĩ suy về nhân tình thế thái hay đơn giản chỉ là  những  rung động, xúc  cảm của các nhà thơ trước cảnh sắc thiên nhiên. Nguyễn Trãi –một quan đại thần thời nhà Lê đã có lúc từ bỏ chốn quan trường với những bon chen, đố kỵ, để tìm  về núi Côn Sơn  ở ẩn, sống chan hoà với thiên nhiên cảnh vật: 
Côn Sơn có khe,
Tiếng nước chảy rì rầm.
Ta lấy làm đàn cầm.
Côn Sơn có đá,
Mưa xối rêu xanh đậm,
Ta lấy làm chiếu thảm.
Trên núi có thông,
Muôn dặm rờn rơn biếc một vùng,
Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong.
(Côn Sơn ca, Nguyễn Trãi)
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng mang tâm trạng thoải mái, thanh thản khi được sống một cuộc đời bình dị, thanh nhàn  trong thế giới tự nhiên:
" Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn  dầu ai vui thú nào
Ta dại ta  tìm nơi vắng vẻ
Người  khôn người đến  chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn  giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
             (Nhàn- Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Còn với Nguyễn Khuyến, người  được mệnh danh là “ nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam” thì bước vào thơ ông ta có cảm tưởng như bước vào một thế giới riêng biệt, thế giới bên trong luỹ tre làng, tách hẳn với thế giới bên ngoài. Trong cái thế giới đó là khung cảnh làng quê với bờ tre bụi trúc, cảnh nước lụt đồng chiêm, bầu trời thu xanh ngắt, ao thu lạnh lẽo, lưng dậu phất phơ màu khói ….. tất cả đều thân thương và nhuốm màu sắc thôn quê Việt Nam. Rõ ràng sự cảm nhận, cái nhìn  đối với thế giới xung quanh  của các nhà thơ trung đại là biểu hiện đặc trưng cho  tính dân tộc  của những con người sinh sống ở một nước nông nghiệp trong một chế độ phong kiến kéo dài hàng thế kỉ. Các nhà thơ trung đại suy nghĩ, cảm nhận và chiêm nghiệm về cuộc đời, con người qua cảnh sắc thiên nhiên xung quanh và thiên nhiên là nơi gửi gắm tâm tình, tình cảm, thậm chí  thiên nhiên còn trở thành thước đo cho vẻ đẹp của con người.
     Bàn về tính dân tộc trong văn học nghệ thuật, nhà nghiên cứu người Nga A.Tôn xtoi đã từng nhận định "Nghệ thuật dân tộc là nghệ thuật mang mùi hương đất đai, trong tiếng mẹ đẻ mỗi từ dường như có hai lần ý nghĩa nghệ thuật… " Quan điểm đó rất đúng bởi vì tác phẩm văn học nghệ thuật  là sản phẩm riêng của cá nhân nghệ sĩ, nhưng  đằng sau mỗi người nghệ sĩ bao giờ cũng mang bóng dáng của dân tộc, giai cấp mà họ đang sống. Vậy nên tinh thần dân tộc luôn thấm đẫm trong từng câu chữ, trong cách cảm cách nghĩ của mỗi nhà văn, nhà thơ. Và cũng chính đặc thù của đời sống dân tộc đã mang lại cho văn học của dân tộc ấy một bản sắc riêng độc đáo được bảo tồn lưu giữ qua nhiều thế hệ.
Theo http://ssh.htu.edu.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Hoàng hôn có nắng Nhà văn trẻ Hoàng Thị Trúc Ly vừa được bầu chọn làm hội viên mới Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Chị sinh ngày 24.5.198...