Món nợ văn chương mà Trần
Luân Tín và những cây bút tham gia chiến tranh, cả phía bên này lẫn phía bên
kia, đã và đang phải trả cho quá khứ cũng là món nợ lịch sử khách quan và chân
thành đối với mọi thế hệ cầm bút để có được những tác phẩm văn học mang tầm cao
nhân văn và tinh thần hoà giải, bác ái của dân tộc…
Nhà văn Trần Luân Tín (ngoài
cùng bên phải) phát biểu tại buổi ra mắt bộ
sách giải thưởng 5 năm qua của Hội Nhà văn TP.HCM
Quá khứ chân thành là nền tảng
quan trọng đối với mỗi con người, nhất là người cầm bút. Các nhà văn bước ra từ
chiến tranh cứu nước thường tâm sự với tôi rằng họ cảm thấy còn mắc nợ với quá
khứ đau thương. Một món nợ văn chương luôn dằn vặt, canh cánh cần phải trả. Món
nợ với từng người dân, từng cánh rừng, từng căn hầm che chở đùm bọc mình. Món nợ
với những đồng đội và cả những đồng nghiệp đã ngã xuống để có được không khí
yên bình hôm nay.
Nền văn học Việt Nam thế kỷ
XX không thể nào quên những nhà văn đã dấn thân trên chiến trường để làm nghĩa
vụ công dân và cả thâm nhập thực tế để có tư liệu sống động cho trang viết. Tay
súng tay bút, chịu đựng gian khổ hiểm nguy như một người lính, nhiều nhà văn
còn hy sinh mạng sống của mình như: Trần Mai Ninh, Nam Cao, Hoàng Lộc, Dương Tử
Giang, Nguyễn Thi, Nguyễn Mỹ, Lê Anh Xuân, Lê Vĩnh Hoà, Dương Thị Xuân Quý, Chu
Cẩm Phong,… Di sản tinh thần họ để lại thực sự là những trang viết bằng máu có
giá trị vượt thời gian, trở thành những tác phẩm in đậm dấu ấn lịch sử một thời
oanh liệt và bi tráng của dân tộc.
Ý thức được món nợ văn
chương, nhiều nhà văn may mắn thoát khỏi mưa bom bão đạn trở về đã không ngừng
làm việc để “trả nợ”. Hàng ngàn tác phẩm viết về chiến tranh trong hơn 40 năm
qua đã minh chứng điều đó. Càng về sau này càng có nhiều tác phẩm giá trị viết
về chiến tranh của chính người trong cuộc đã ra đời, nhất là tiểu thuyết. Nếu
như trước và những năm ngay sau 1975 có những tiểu thuyết tiêu biểu như Đất
lửa của Nguyễn Quang Sáng, Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Hòn
Đất của Anh Đức, Dấu chân người lính và Miền cháy của
Nguyễn Minh Châu,
Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Đất miền Đông của Nam Hà, Nắng đồng bằng của Chu Lai, Thung lũng thử thách của Thái Bá Lợi,Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục,… thì về sau có Thời xa vắng của Lê Lựu, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Một ngày và một đời của Lê Văn Thảo, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng, Vùng lõm của Nguyễn Quang Hà, Khúc chuông chùa của Thanh Giang, Rừng thiêng nước trong của Trần Văn Tuấn, Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh, Đối chiến của Khuất Quang Thuỵ, Cánh đồng lưu lạc của Hoàng Đình Quang,… và đặc biệt là hàng loạt tiểu thuyết của Văn Lê như Nếu anh còn được sống, Cao hơn bầu trời, Mùa hè giá buốt, Phượng hoàng, trong đó Mùa hè giá buốt được đánh giá là tác phẩm viết về sự kiện xuân Mậu Thân 1968 hay nhất từ trước đến nay.
Trong cơn gió lốc của Khuất Quang Thụy, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Đất miền Đông của Nam Hà, Nắng đồng bằng của Chu Lai, Thung lũng thử thách của Thái Bá Lợi,Học phí trả bằng máu của Nguyễn Khắc Phục,… thì về sau có Thời xa vắng của Lê Lựu, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Một ngày và một đời của Lê Văn Thảo, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng, Vùng lõm của Nguyễn Quang Hà, Khúc chuông chùa của Thanh Giang, Rừng thiêng nước trong của Trần Văn Tuấn, Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh, Đối chiến của Khuất Quang Thuỵ, Cánh đồng lưu lạc của Hoàng Đình Quang,… và đặc biệt là hàng loạt tiểu thuyết của Văn Lê như Nếu anh còn được sống, Cao hơn bầu trời, Mùa hè giá buốt, Phượng hoàng, trong đó Mùa hè giá buốt được đánh giá là tác phẩm viết về sự kiện xuân Mậu Thân 1968 hay nhất từ trước đến nay.
Độ lùi thời gian, tay nghề
chín tới và hoàn cảnh lịch sử mới mẻ thông thoáng đã giúp cho các nhà văn từng
tham gia kháng chiến cứu nước có đủ điều kiện suy ngẫm, chắt lọc, liên tưởng và
tái dựng khách quan về chiến tranh, dù là thể hiện sự bi kịch hay tráng ca.
Không chỉ mạnh về số lượng mà tiểu thuyết về chiến tranh càng về sau càng nâng
cao về chất lượng, đi sâu vào nội tâm nhân vật, tâm lý xã hội và bản chất sự kiện,
chứ không chỉ phản ánh hiện thực đơn giản một chiều như trước. Tất nhiên, chúng
ta không thể quên tiểu thuyết về chiến tranh của những nhà văn không tham dự cuộc
chiến, nhất là các nhà văn trẻ trưởng thành sau ngày đất nước thống nhất, nhưng
những tác giả bước ra từ cuộc chiến vẫn có thế mạnh riêng, thế đứng riêng, đặc
biệt là sự trải nghiệm khốc liệt sinh tử và cả nỗi niềm canh cánh về món nợ ân
tình lớn phải trả.
Bìa tiểu thuyết tự truyện Được
sống và kể lại
của Trần Luân Tín cùng các tác phẩm đoạt giải thưởng
Hội
Nhà văn TP.HCM vừa được tái bản
Chính vì món nợ ấy mà gần
đây chúng ta lại được đọc Được sống và kể lại của Trần Luân Tín. Tiểu
thuyết mang tính tự truyện này được Hội Nhà văn TP.HCM trao giải thưởng năm
2010 và vừa được tái
bản cùng bộ sách giải thưởng gồm 5 tác phẩm của Hội nhiệm kỳ qua
(2010-2015). Trần Luân Tín là người gốc Phú Yên, năm 1972 khi đang là sinh viên
Trường đại học Mỹ thuật Hà Nội thì ông nhập ngũ vào chiến đấu ở chiến trường Quảng
Trị trong lực lượng bộ đội thông tin ở thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến.
Là nhà điêu khắc yêu văn chương, không dự định trở thành nhà văn, nhưng vì món
nợ với đồng đội mà Trần Luân Tín đã âm thầm cầm bút. Ông không viết hồi ký, mà
chỉ muốn viết những gì trung thực nhất để trải lòng mình, chia sẻ với gia đình
và bạn bè thân thiết. Vì vậy, lần in đầu sách không đề thể loại gì, đến lần tái
bản này ông mới đề “tiểu thuyết tự truyện”. Khởi đầu bằng kỷ niệm từ một chuyến
đi Mỹ gặp lại đồng đội và cả những người từng là kẻ thù, Trần Luân Tín quay về
quá khứ, gây ngạc nhiên xúc động người đọc bằng thiên truyện đầy ắp chi tiết và
sự kiện mà nếu như không ở trong cuộc thì dù tài năng đến đâu cũng khó tái hiện.
Con đường ra trận và chiến đấu của tác giả và đồng đội trong Được sống và
kể lại cũng là con đường của bao chàng thanh niên, sinh viên hồn nhiên
măng tơ khác từ miền Bắc đã lên đường vào chiến trường miền Nam, với bao gian
khổ, hy sinh vì giấc mơ hoà bình, thống nhất Tổ quốc.
Khi may mắn được sống phải
nhớ đến người đã ngã xuống. Khi hưởng thụ không khí bình yên phải nhớ đến những
năm tháng “sông máu núi xương đại dương nước mắt” mà đất nước đầy bi kịch này từng
phải gánh chịu. Món nợ văn chương mà Trần Luân Tín và những cây bút tham gia
chiến tranh, cả phía bên này lẫn phía bên kia, đã và đang phải trả cho quá khứ
cũng là món nợ lịch sử khách quan và chân thành đối với mọi thế hệ cầm bút để
có được những tác phẩm văn học mang tầm cao nhân văn và tinh thần hoà giải, bác
ái của dân tộc.
PHAN HOÀNG
Trả lờiXóađặt vé eva airline
vé máy bay giá rẻ đi mỹ khuyến mãi
mua ve may bay hang korean air
vé máy bay đi mỹ là bao nhiêu
đặt vé máy bay đi canada
Cuoc Doi La Nhung Chuyen Di
Ngau Hung Du Lich
Tri Thức Du Lịch