Danh họa Vincent Van Gogh P.1
Vincent Willem van Gogh (sinh
ngày 30 tháng 3 năm 1853, mất ngày 29
tháng 7 năm 1890), thường được biết đến với tên Vincent van Gogh ([ˈvɪnsɛnt vɑn ˈɣɔx], đọc theo tiếng Việt là Van Gôc [1]) là một danh hoạ Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng [2]. Nhiều
bức tranh của ông nằm trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất
và cũng đắt nhất trên thế giới.
Van Gogh là nghệ sĩ tiên phong của trường phái biểu hiện và có ảnh hưởng rất lớn tới
mỹ thuật hiện đại, đặc biệt là tới trường phái dã thú (Fauvism) và trường phái biểu hiện tại Đức.
Thời thanh niên, Van Gogh
làm việc trong một công ty buôn bán tranh, sau đó là giáo viên và nhà truyền giáo tại một vùng mỏ nghèo. Ông thực sự
trở thành họa sĩ từ năm 1880 khi đã 27 tuổi. Thoạt đầu, Van Gogh chỉ sử dụng các
gam màu tối, chỉ đến khi được tiếp xúc với trường phái ấn tượng (Impressionism) và Tân ấn tượng (Neo-Impressionism)
ở Paris, ông
mới bắt đầu thay đổi phong cách vẽ của mình. Trong thời gian ở Arles miền Nam
nước Pháp, Van
Gogh kết hợp các màu sắc tươi sáng của hai chủ nghĩa này với phong cách vẽ của
mình để tạo nên các bức tranh có phong cách rất riêng. Chỉ trong 10 năm cuối đời,
họa sĩ đã sáng tác hơn 2000 tác phẩm, trong đó có khoảng 900 bức họa hoàn chỉnh
và 1100 bức vẽ hoặc phác thảo. Phần lớn các tác phẩm nổi tiếng nhất của Van
Gogh được sáng tác vào hai năm cuối đời, thời gian ông lâm vào khủng hoảng tinh
thần tới mức tự cắt bên tai trái vì tình bạn tan vỡ với họa sĩ Paul
Gauguin. Sau đó Van Gogh liên tục phải chịu đựng các cơn suy nhược thần
kinh và cuối cùng ông đã tự kết liễu đời mình.
Người quan trọng nhất trong
cuộc đời Van Gogh là em trai ông, Theodorus
van Gogh, người đã luôn lo lắng và hỗ trợ tài chính cho Van Gogh. Tình anh
em giữa Vincent và Theo đã được ghi lại qua rất nhiều lá thư họ trao đổi kể từ
tháng 8 năm 1872.
Đại gia đình nhà van Gogh
Hàng trên: Theodorus và Anna Cornelia van Gogh
Hàng dưới (từ trái qua): Vincent Willem, Anna Cornelia, Theo, Elisabetha
Huberta, Willemina Jacoba và Cornelius Vincent
Vincent van Gogh sinh năm 1853 tại Groot-Zundert, một
làng nhỏ gần thành phố Breda thuộc
tỉnh Bắc Brabant phía Nam Hà Lan [3]. Ông
là con trai của bà Anna Cornelia Carbentus và ông Theodorus van Gogh, một giáo sĩ của Giáo hội cải cách Hà
Lan. Van Gogh được đặt tên giống với ông nội và người anh cả đã chết non trước đó một năm. Có
ý kiến [4] cho
rằng việc có tên trùng với tên người anh chết sớm đã có ảnh hưởng tâm lý sâu sắc
tới người họa sĩ trẻ và những tác phẩm của ông, tiêu biểu là các bức chân dung
hai người đàn ông. Thực ra thì việc sử dụng tên Vincent là phổ biến trong dòng
họ Van Gogh, ông nội của họa sĩ cũng tên là Vincent van Gogh (1789 - 1874), một người tốt
nghiệp khoa thần
học tại Đại học Leiden và có sáu người con, trong đó ba
người làm nghề buôn bán tranh, bao gồm một Vincent khác, người thường được nhắc
đến trong các bức thư của Van Gogh như là “chú Cent”. Dòng họ Van Gogh vốn là một
dòng họ chuyên hành nghề buôn bán tranh hoặc làm các công việc có liên quan đến
nghệ thuật.
Khi Van Gogh lên bốn thì người
em trai của ông, Theodorus (Theo) ra đời
ngày 1 tháng 5 năm 1857. Ông còn có một
người em trai khác là Cor và ba người em gái là Elizabeth, Anna và Wil. Khi còn
bé, Van Gogh là một đứa trẻ trầm tính, ít nói và sâu sắc. Năm 1860 ông theo học
ở trường làng Zundert đến năm 1861 thì bắt đầu học ở nhà cùng em gái Anna dưới sự hướng dẫn
của một nữ gia sư. Năm 1864, Van Gogh lên Zevenbergen để vào học tại một trường nội trú, ông cảm thấy rất đau khổ vì phải xa
gia đình và vẫn còn nhắc đến nỗi buồn này kể cả khi đã trưởng thành. Ngày 15
tháng 9 năm 1866, Van Gogh vào học tại trường Willem II College tại
thành phố Tilburg,
tại đây ông được học vẽ dưới sự hướng dẫn của Constantijn C. Huysmans, một họa
sĩ đã có đôi chút thành công ở Paris. Tháng 3 năm 1868, Van Gogh bất ngờ
bỏ học để quay về nhà. Về sau ông nhắc lại thời niên thiếu của mình như một
giai đoạn u tối, lạnh lẽo và cằn cỗi [5].
Tháng 7 năm 1869, ở tuổi 15, Van
Gogh bắt đầu nghề buôn bán tranh tại công ty Goupil & Cie ở Den Haag, đến
tháng 6 năm 1873 ông
được phái đến London.
Trong thời gian ở thành phố này ông trọ tại số 87 đường Hackford, Brixton [6]. Đây
là thời gian vui vẻ của Van Gogh khi ông thành công trong việc buôn bán và đã
có thể kiếm nhiều tiền hơn cha mình dù mới ở tuổi 20, vợ của Theo sau này đã nhận
xét rằng đây có lẽ là giai đoạn hạnh phúc nhất trong cuộc đời Vincent [7].
Ông còn có tình cảm với cô Eugénie Loyer, con gái của bà chủ nhà trọ [7] nhưng
khi Van Gogh bày tỏ tình cảm với cô thì lại bị Eugénie từ chối với lí do cô đã
hẹn hò với một người khác. Vincent van Gogh bắt đầu trở nên cô độc và sùng đạo.
Sau khi được bố và chú gửi đến Paris, Van Gogh bắt
đầu biểu lộ sự không hài lòng với việc coi nghệ thuật chỉ là những món hàng và
bộc lộ quan điểm của mình với khách hàng. Vì thế đến ngày 1 tháng 4 năm 1876, Van Gogh quyết định
chấm dứt công việc buôn bán tranh.
Tình cảm tôn giáo của Van
Gogh bắt đầu phát triển tới mức ông nghĩ rằng mình đã tìm được thiên hướng thực
sự cho cuộc đời, ông trở lại Anh làm việc không công, đầu tiên là giáo viên
thay thế tại một trường nội trú nhỏ nhìn ra cảng Ramsgate nơi ông đã thực hiện
vài bức ký họa. Sau khi ngôi trường chuyển về Isleworth, Middlesex, Vincent cũng chuyển đi
cùng nhưng rồi nhanh chóng bỏ nghề giáo viên để trở thành trợ tá cho một giáo
sĩ của Phong trào Giám Lý với mục đích đưa sách
phúc âm đến khắp nơi.
Vào Giáng sinh năm 1876, Van Gogh trở về nhà và làm
việc cho một hiệu sách ở Dordrecht trong vòng sáu tháng, ông dành phần lớn thời
gian để vẽ nguệch ngoạc hoặc dịch Kinh
thánh sang tiếng
Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức [8].
Bạn cùng phòng của Vincent trong thời kỳ này là một giáo viên trẻ tên là
Görlitz, ông này về sau đã nhận xét rằng Vincent ăn uống rất đạm bạc và thường
thích ăn chay [9].
Trong một cố gắng giúp đỡ nguyện vọng trở thành mục sư của Van Gogh, gia đình
ông gửi Van Gogh tới Amsterdam tháng 5 năm 1877. Tại thành phố
này ông sống cùng người chú Jan van Gogh, một phó đô đốc hải quân [10],
và học ôn để thi vào khoa Thần học dưới sự hướng dẫn của Johannes Stricker, một nhà
thần học có tiếng tăm. Tuy vậy Vincent vẫn trượt kì thi đầu vào và ông rời khỏi
nhà chú Jan tháng 7 năm 1878 để học một khóa ba tháng tại trường truyền giáo đạo Tin
Lành (Vlaamsche Opleidingsschool) tại Laeken, gần Brussels.
Ngôi nhà nơi Van Gogh sống
trong thời gian ở Cuesmes
năm 1880, tại nơi đây Van Gogh đã quyết định trở thành một họa sĩ
Tháng 1 năm 1879, Van Gogh được
giao chức vụ người truyền giáo tạm thời tại một làng ở Petit Wasmes [11] [12] thuộc
vùng mỏ than Borinage của Bỉ với nhiệm
vụ đem lại niềm tin tôn giáo cho những người có lẽ là bất hạnh và tuyệt vọng nhất châu Âu.
Vincent đã lựa chọn cuộc sống giống như những con chiên của ông để chia sẻ sự
khó khăn với họ, ông ngủ trên chiếc nệm rơm trong một túp lều nhỏ phía sau căn
nhà của người làm bánh mỳ đã cho ông tá túc [7].
Tuy vậy những người quản lý giáo phận cuối cùng lại thải hồi ông vì lý do “hạ
thấp phẩm cách của một giáo sĩ” vì đã chọn cách sống nghèo khổ như vậy.
Van Gogh chuyển về Brussels
rồi lại đến làng Cuesmes ở Borinage trước khi phải
quay về “nhà” ở Etten dưới sức ép của gia đình. Ông ở đây cho đến
tháng 3 năm 1880.
Trong thời gian này nhiều mâu thuẫn đã nảy sinh giữa Vincent và cha, cha của họa
sĩ thậm chí còn yêu cầu ông phải vào một nhà thương điên [13] tại Geel [14]. Cuối
cùng Vincent phải trốn về Cuesmes nơi ông trọ trong gia đình người thợ mỏ
Charles Decrucq [15] cho
đến tháng 10. Càng ngày ông càng cảm thấy hứng thú với những con người bình thường
và cảnh vật xung quanh mình và bắt đầu ghi lại những hình ảnh đó bằng những bức
vẽ.
Năm 1880, theo đề nghị của
người em trai Theo, Vincent bắt đầu theo nghiệp hội họa một cách nghiêm chỉnh.
Mùa thu năm 1880, ông đến Bruxelles để theo học họa sĩ Hà Lan nổi tiếng Willem Roelofs, người đã thuyết
phục Van Gogh thi vào Trường mỹ thuật Hoàng gia. Tại đó họa sĩ không chỉ được học
về giải phẫu, mà còn biết thêm những quy tắc chuẩn trong
việc dựng hình và phối cảnh.
Sự nghiệp
Etten (1881)
Tháng 4 năm 1881, Van Gogh tới sống
tại vùng đồng quê cùng gia đình ở Etten và tiếp tục vẽ, ông thường lấy những
người hàng xóm làm mẫu cho mình. Trong suốt mùa hè, họa sĩ dành phần lớn thời
gian đi dạo và nói chuyện với người chị họ Kee Vos-Stricker và Johannes
Stricker [10].
Kee hơn Vincent bảy tuổi và đã có một đứa con trai tám tuổi, tuy vậy ông vẫn
tìm cách cầu hôn và bị từ chối thẳng thừng: “Không, không bao giờ, không bao giờ”
(tiếng Hà Lan: niet, nooit, nimmer) [16]. Cuối
năm 1881 ông
đến Amsterdam để xin gặp Kee nhưng một lần nữa bị từ chối [17].
Trong tuyệt vọng, người họa sĩ đã giơ bàn tay trái hơ lên ngọn lửa đèn và nói:
“Hãy cho tôi nhìn thấy cô ấy chỉ trong thời gian tôi có thể để tay trên ngọn lửa
này” [17].
Bố của Van Gogh và cả Stricker phản đối quyết liệt ý định cưới Kee của ông và
quyết định cắt trợ giúp tài chính. Đến Giáng sinh thì họa sĩ quyết định rời nhà đi Den Haag [18].
Nhìn từ ban công ở Den Haag,
màu nước
Tháng 1 năm 1882, Van Gogh đến Den
Haag và sống với người họ hàng Anton Mauve, một họa sĩ và cũng
là người khuyến khích Vincent tiếp tục nghề vẽ. Tuy vậy quan hệ của hai người
nhanh chóng trở nên lạnh nhạt, có lẽ vì Mauve phát hiện ra việc Vincent đi lại như
vợ chồng với một cô gái điếm nghiện rượu tên là Clasina Maria Hoornik (thường
được biết đến với tên Sien) [8].
Sien đã có một đứa con gái 5 tuổi và cô ta cũng đang mang thai trong lúc làm
quen với Vincent. Ngày 2 tháng 7,
Sien sinh thêm một bé trai lấy tên là Willem. Khi cha của Van Gogh phát hiện ra
mối quan hệ này, ông đã liên tục gây sức ép buộc con mình phải bỏ cô gái điếm
và hai con của cô ta. Tuy vậy họa sĩ vẫn tiếp tục sống với Sien.
Một người chú khác của Van
Gogh là Cornelis, cũng là một nhà buôn tranh, đã đặt hàng họa sĩ 20 bức vẽ mực
về Den Haag, chúng được hoàn thành vào cuối tháng 5 [19].
Tháng 6 năm 1883,
Van Gogh phải nằm viện ba tuần vì mắc bệnh
lậu [20].
Đến mùa hè, họa sĩ bắt đầu sáng tác bằng sơn dầu.
Mùa thu năm 1883, sau một
năm chung sống với Sien, Van Gogh bỏ cô và hai đứa trẻ. Có thể vì thiếu tiền
nên Sien buộc phải quay trở lại nghề mãi dâm,
cuộc sống của hai người trở nên ít hạnh phúc hơn và Vincent cảm thấy nó không
thể phù hợp cho sự phát triển về mặt nghệ thuật của mình. Sau khi ông bỏ đi,
Sien trao đứa con gái cho mẹ cô, còn cậu bé Willem được gửi cho anh trai Sien,
còn bản thân cô rời đến Delft và sau đó là Antwerp [7].
Sau này, Willem còn nhớ được rằng trong lần cậu được thăm mẹ ở Rotterdam năm
lên 12 tuổi, khi bác của cậu cố khuyên Sien lấy chồng để Willem có cha, mẹ cậu
đã trả lời rằng: “Nhưng em biết cha của nó là ai. Cha của nó là một họa sĩ
em từng chung sống cách đây gần 20 năm ở Den Haag. Tên anh ấy là Van Gogh“ [7].
Năm 1904 Sien
gieo mình xuống sông Scheldt tự vẫn [7].
Sau khi rời Den Haag, Van
Gogh chuyển tới tỉnh Drenthe ở phía Bắc Hà Lan, ông sống một mình ở đây đến
tháng 12 thì chuyển về sống với bố mẹ lúc này đang ở Nuenen, Bắc
Brabant.
Những người ăn khoai (1885)
Tại Nuenen, Van Gogh tập trung hết sức lực
vào việc sáng tác. Mùa thu năm 1884, con một người hàng xóm của họa sĩ là Margot Begemann, một
cô gái hơn Vincent tới 10 tuổi, đã phải lòng ông và Vincent cũng đáp lại tình cảm
này. Hai người đã hứa hôn với nhau nhưng chịu sự phản đối của cả hai gia đình.
Sau đó Margot cố tự tử bằng strychnine và Van Gogh phải
vội đưa cô đến bệnh viện [7].
Ngày 26
tháng 3 năm 1885, cha của Van Gogh qua đời sau một cơn đột quỵ, cái chết này đã gây ra nỗi buồn sâu
sắc trong lòng họa sĩ. Cùng lúc đó, giới nghệ thuật ở Paris lần đầu tiên đã
quan tâm tới các tác phẩm của Van Gogh, và chính họa sĩ trong mùa xuân năm 1885
đã hoàn thành tác phẩm được coi là sáng tác chính đầu tay của ông, bức Những người ăn khoai (tiếng Hà Lan: De Aardappeleters). Tháng 8 cùng
năm, các tác phẩm của Van Gogh lần đầu tiên được triển lãm tại Den Haag. Tháng
9, họa sĩ bị buộc tội đã làm một trong những mẫu của mình có thai, và mặc dù về
sau người này đã thừa nhận cha của đứa trẻ không phải là Van Gogh [7] nhưng
vị giáo sĩ của làng đã cấm dân làng không được tiếp tục làm mẫu cho Van Gogh.
Trong thời gian ở Nuenen,
màu sắc ưa thích của Van Gogh là các tông màu đất, đặc biệt là màu nâu tối, ông
không cho thấy sự phát triển cách dùng màu tươi sáng, phong cách xuất hiện ở
các tác phẩm xuất sắc nhất của ông sau này. Khi Vincent phàn nàn với Theo khi
cho rằng em trai đã không làm hết sức để có thể bán tranh của mình ở Paris,
Theo đã trả lời rằng các tác phẩm của Van Gogh quá u tối và nằm ngoài phong
cách phổ biến thời đó là các bức họa tươi vui của các họa sĩ theo trường phái Ấn tượng. Làm việc hai năm ở
Nueen, họa sĩ đã sáng tác rất nhiều bức vẽ và màu nước, ngoài ra còn có gần 200
bức họa hoàn chỉnh.
Tháng 11 năm 1885 Van Gogh
chuyển tới Antwerp và thuê một căn buồng nhỏ phía trên một cửa hiệu
bán tranh ở phố Rue des Images [8].
Họa sĩ có rất ít tiền và ăn uống đạm bạc, ông dành phần lớn số tiền Theo gửi
cho để mua vật liệu sáng tác và trả tiền cho người mẫu. Bánh mỳ, cà phê và thuốc
lá là những thứ Vincent dùng thường xuyên nhất. Tháng 2 năm 1886, Van Gogh viết
thư cho Theo kể lại chuyện ông nhớ mình được ăn thịt nóng lần cuối là từ tháng
5 năm trước đó và hàm răng của họa sĩ bắt đầu yếu dần gây ra nhiều đau đớn [8].
Ngoài thời gian sáng tác,
Van Gogh nghiên cứu thêm về lý thuyết màu sắc và đi chiêm ngưỡng các tác phẩm tại
bảo tàng thành phố, đặc biệt là các bức tranh của Peter
Paul Rubens, những tác phẩm đã khích lệ họa sĩ trong việc dùng các màu sắc
tươi sáng hơn như màu son, màu xanh
cô ban và màu xanh
lục. Ông cũng mua một số bức tranh khắc gỗ của Nhật
Bản (Ukiyo-e)
và sử dụng nó làm nền cho một số tác phẩm của mình [21].
Trong thời gian này ông cũng bắt đầu nghiện rượu absinthe [8] và
còn phải chữa bệnh (rất có thể là giang mai [7] [22]) dưới
sự điều trị của bác sĩ Cavenaile.
Tháng 1 năm 1886, Van Gogh trúng
tuyển vào Trường Mỹ thuật Antwerp (École des Beaux-Arts d’Anvers). Trong phần lớn
tháng 2 họa sĩ bị ốm, phần lớn là do lao lực, ăn uống kém và hút quá nhiều thuốc.
Số 54 phố Rue Lepic, Paris
Tháng 3 năm 1886, họa sĩ chuyển tới
Paris để học tại xưởng vẽ của Fernand Cormon. Ban đầu ông
và Theo ở tại đường Rue Laval trong khu đồi Montmartre.
Đến tháng 6 thì hai anh em chuyển về một căn hộ rộng hơn ở số 54 phố Rue Lepic,
nằm ở phía trên đồi. Vì thời gian này hai anh em ở gần nhau, các bức thư liên lạc
giữa hai người không còn và người ta không biết rõ những hoạt động của họa sĩ
trong thời gian ông ở Paris.
Vincent làm việc vài tháng
trong xưởng vẽ của Cormon nơi ông thường tiếp xúc với họa sĩ người Úc John Peter Russell cũng
như hai họa sĩ người Pháp là Émile Bernard và đặc biệt
là Henri de Toulouse-Lautrec.
Trong thời gian này ở Paris,
không khó để chiêm ngưỡng và nghiên cứu tác phẩm của các họa sĩ theo trường
phái Ấn tượng. Ví dụ năm 1886, hai triển lãm lớn của các họa sĩ tiên phong trong trường
phái này đã được tổ chức ở thủ đô nước Pháp, đó là Triển lãm lần thứ 8 và cuối
cùng của các họa sĩ Ấn tượng và Triển lãm của các họa sĩ độc lập (Artistes
Indépendants). Trong hai cuộc trưng bày này, lần đầu tiên chủ nghĩa Tân ấn tượng (Neo-Impressionism) ra mắt công chúng với
các bức tranh của Georges Seurat và Paul
Signac. Bản thân Theo van Gogh cũng buôn bán rất nhiều bức tranh thuộc trường
phái Ấn tượng của các họa sĩ nổi danh như Claude
Monet, Alfred Sisley, Edgar
Degas và Camille Pissarro, tuy vậy Vincent rõ ràng là gặp
khó khăn trong việc nắm bắt tinh thần của các tác phẩm đang được ưa chuộng này.
Bắt đầu có những mâu thuẫn giữa hai anh em và đến cuối năm 1886 thì hai người bắt
đầu sống riêng nhưng rồi lại nhanh chóng làm lành vào mùa xuân năm1887.
Sau đó Van Gogh đến Asnières và làm quen với Paul
Signac. Tại đây Vincent cùng người bạn của ông là Emile Bernard đã thử nghiệm
một số bức tranh theo trường phái Điểm họa (“pointillé”).
Tháng 11 năm 1887, Theo và Vincent
đã gặp và kết bạn với họa sĩ Paul
Gauguin, người vừa mới quay lại Paris sau thời gian sống ở nước ngoài [23]. Cuối
năm này, Van Gogh đã tổ chức một buổi triển lãm chung với Bernard, Anquetin và
Toulouse-Lautrec ở nhà hàng Restaurant du Chalet trên đồi Montmartre. Tại buổi
triển lãm này, Bernard và Anquetin đã bán được các tác phẩm đầu tiên, còn
Vincent thì trao đổi được tác phẩm với Gauguin, người ngay sau đó đã rời đi Pont-Aven.
Tháng 2 năm 1888, cuối cùng Van
Gogh cũng cảm thấy chán ngán cuộc sống ở Paris, ông rời Kinh đô Ánh sáng sau
khi đã hoàn thành hơn 200 bức họa trong 2 năm ở đây. Chỉ vài giờ trước khi rời
thành phố, ông cùng Theo đã có chuyến thăm lần đầu tiên và cũng là duy nhất đến
nhà của họa sĩ Seurat [24].
Quán cà phê đêm ở Arles,
tháng 9 năm 1888
Arles (tháng 2 năm
1888–tháng 5 năm 1889)
Ngày 21
tháng 2 năm 1888, Van Gogh đến Arles. Trong hai
tháng, ông làm việc cùng họa sĩ người Đan
Mạch Christian Mourier-Petersen. Ngày 1 tháng 5,
họa sĩ ký hợp đồng thuê một căn hộ bốn buồng với giá 15 franc một tháng nằm
bên phải của Nhà Vàng tại số 2 Quảng
trường Lamartine. Tháng 6, Van Gogh đi thăm thị trấn ven biển Saintes-Maries-de-la-Mer. Tại đây ông nhận dạy
vẽ cho một sĩ quan tên là Paul-Eugène
Milliet, người sau đó cũng trở thành bạn của họa sĩ. Từ tháng 8, ông bắt đầu
sáng tác về đề tài hoa hướng dương.
Ngày 23
tháng 10, Gauguin đến Arles theo lời mời
của Van Gogh. Trong suốt tháng 11 hai họa sĩ làm việc cùng nhau, cũng trong
tháng này Van Gogh đã sáng tác bức tranh nổi tiếng Cánh đồng nho đỏ. Tháng 12
cả hai họa sĩ đi thăm Montpellier và chiêm ngưỡng các tác phẩm của Courbet và Delacroix trong bảo tàng Museé Fabre. Tuy
nhiên sau đó tình bạn của hai người trở nên xấu đi vì những xung đột về nghệ
thuật. Van Gogh sợ rằng Gauguin sẽ rời bỏ ông, căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào
ngày 23 tháng 12 năm 1888 khi Vincent
đuổi theo Gauguin với một lưỡi dao cạo trong tay và sau đó lại tự cắt phần dưới
tai trái của chính mình, gói nó vào một tờ báo, đưa cho cô gái điếm Rachel ở
nhà thổ trong vùng và yêu cầu cô này giữ cẩn thận. Cuối cùng thì Gauguin vẫn rời
Arles và không bao giờ gặp lại Van Gogh một lần nữa. Vincent phải nhập viện
trong tình trạng nguy kịch, ông ngay lập tức được Theo đến thăm nom. Tháng 1
năm 1889, Van
Gogh trở lại “Nhà Vàng” nhưng liên tục phải đến bệnh viện vì gặp ảo
giác, ông còn mắc chứng hoang tưởng khi nghĩ mình bị đầu độc. Đến
tháng 3, sau khi nhận được yêu cầu từ những người hàng xóm, cảnh sát đã quyết định
đóng cửa ngôi nhà của Van Gogh. Đến tháng 4 thì ông dọn về căn phòng của bác sĩ
Rey sau khi những trận lụt làm hư hại các tác phẩm của ông.
Đêm đầy sao, tháng 6 năm 1999
Ngày 8 tháng 5 năm 1999 Van Gogh phải
nhập viện tại bệnh viện tâm thần Saint-Paul-de-Mausole nằm trong một tu viện cũ
ở Saint Rémy de Provence không
xa Arles. Tu viện nằm cách biệt với thị trấn và ở giữa những cánh đồng ngô, nho và ô liu. Theo
van Gogh sắp xếp cho anh trai có hai buồng nhỏ trong bệnh viện, một buồng dành
riêng làm xưởng vẽ. Trong thời gian chữa trị tại đây, phòng khám và khu vườn của
bệnh viện đã trở thành những đề tài chính của họa sĩ. Một số tác phẩm của Van
Gogh trong thời kỳ này có đặc trưng là các xoáy ốc, tiêu biểu là bức tranh nổi
tiếng Đêm đầy sao. Trong tháng 9, họa sĩ thực hiện hai phiên
bản mới của bức Phòng ngủ ở Arles và
đến tháng 2 năm 1990 thì
ông vẽ bốn bức chân dung có tên L’Arlésienne (Người
Arles, chỉ bà Ginoux), dựa trên những phác thảo bằng chì than của Gauguin.
Tháng 1 năm 1890, tác phẩm của
Van Gogh được Albert Aurier ca ngợi tại
trên tạp chí Mercure de France, nhà phê
bình này đã gọi Vincent là một thiên tài. Trong tháng 2, Van Gogh được nhóm Les XX, một tập hợp các họa sĩ tiên
phong ở Brussels,
mời tham gia triển lãm tranh thường niên của nhóm. Sau đó, khi tranh của Van
Gogh được trưng bày trong triển lãm của nhóm Nghệ sĩ Độc lập (Les Artistes
Indépendants) ở Paris, Monet đã nhận xét rằng tác phẩm của Vincent là
tuyệt vời nhất trong cả triển lãm [25].
Vincent van Gogh, tranh phấn
màu của Toulouse-Lautrec, 1887
Tháng 5 năm 1890, Van Gogh rời bệnh
viện và đến trị liệu với bác sĩ Paul Gachet ở Auvers-sur-Oise,
nằm gần Paris, nơi ông có thể ở gần hơn với em trai Theo. Bác sĩ Gachet được Camille
Pissarro giới thiệu cho anh em Van Gogh vì trước đó ông này đã từng chữa
cho một số họa sĩ và bản thân cũng là một họa sĩ nghiệp dư. Ấn tượng đầu tiên của
Vincent về Gachet là “ông ta trông còn ốm yếu hơn cả tôi” [26].
Sau đó Van Gogh đã vẽ hai bức chân dung bác sĩ bằng màu dầu, một bức khác khắc
axit, cả ba bức đều miêu tả Gachet trong một tư thế u sầu. Trong tuần cuối ở
Saint-Rémy, Van Gogh lại nhớ lại những kỷ niệm ở phương Bắc[27] và
một số trong khoảng 70 bức tranh ông vẽ trong 70 ngày ở Auvers-sur-Oise, như bức Nhà thờ ở Auvers đã gợi
đến những phong cảnh ở phương Bắc.
Tình trạng bệnh lý của Van
Gogh ngày càng trầm trọng, ngày 27
tháng 7 năm 1890, ở tuổi 37, người họa sĩ đã bước ra cánh đồng và tự bắn vào
ngực bằng một khẩu súng lục. Không nhận ra rằng mình đã bị thương nặng,
Vincent quay trở lại hoàn thành bức tranh Chân dung Adeline
Ravoux. Hai ngày sau ông qua đời trên giường ngủ, câu cuối cùng mà Theo
nghe được từ miệng anh trai mình là:
“La tristesse durera
toujours” - “Nỗi buồn sẽ kéo dài mãi mãi”
Vincent được chôn tại nghĩa
trang của vùng Auvers-sur-Oise [28].
Không lâu sau cái chết của anh trai, Theo cũng nhập viện, ông mất ngày 25
tháng 1 năm 1891 tại Utrecht, chỉ 6 tháng sau cái chết của Vincent.
Năm 1914, Theo được
cải táng về bên cạnh người anh trai yêu quý của ông.
Tĩnh vật với absinthe, 1887
Van Gogh bắt đầu vẽ các bức
màu nước từ khi còn đi học, tuy vậy rất ít tác phẩm thời kì này còn được lưu giữ
đến ngày nay. Khi thực sự bắt đầu làm họa sĩ (năm 1880), Van Gogh đi lại
từ bước cơ bản, đó là chép bức tranh “Cours de dessin”. Trong suốt hai năm đầu
họa sĩ phải đi tìm đơn đặt hàng cho mình, mãi đến mùa xuân năm 1882, người chú
Cornelis Marinus của Van Gogh mới đề nghị ông vẽ các bức tranh về Den Haag để
bán trong phòng tranh ở Amsterdam. Mặc dù công việc không được như Cornelis
mong muốn, Van Gogh vẫn được đặt hàng thêm và một lần nữa làm thất vọng chú của
mình.
Dù sao thì Van Gogh vẫn tiếp
tục nghề họa sĩ, ông cải thiện việc chiếu sáng cho xưởng vẽ và thử nghiệm với
các chất liệu vẽ khác nhau. Sau hơn một năm lao động miệt mài chỉ với những bức
tranh “trắng và đen”, cuối cùng người ta cũng công nhận khả năng của Vincent ở
thể loại này. Mùa xuân năm 1883, Van Gogh bắt đầu thực hiện các bức tranh phức tạp hơn,
ngay khi Theo nhận xét rằng các tác phẩm đó thiếu sự sinh động và tươi mới,
Vincent đã tiêu hủy chúng và tập trung vào sơn dầu. Cũng thời gian này, Vincent
đến tham khảo các họa sĩ thuộc Trường phái Den Haag như Weissenbruch và Blommers, ông nhận được những
lời khuyên về mặt kĩ thuật để sau đó khi đến Nuenen, Van Gogh đã có thể thực hiện
các bức vẽ khổ lớn. Đa số các tác phẩm này đã bị chính họa sĩ tiêu hủy, bức Những người ăn khoai nổi
tiếng là một trong số rất ít các tác phẩm còn sót lại của thời kì này. Sau chuyến
thăm Bảo tàng Rijksmuseum ở Amsterdam,
Vincent nhận ra rằng những thiếu sót trong các tác phẩm của ông là do sự thiếu
kinh nghiệm trong kĩ thuật vẽ, họa sĩ đã đến Antwerp và
sau đó là Paris để
trau dồi thêm kĩ năng này.
Sau khi học hỏi được kĩ thuật
và kinh nghiệm từ những họa sĩ theo trường phái Ấn tượng và Tân ấn tượng, Van Gogh tới Arles để phát triển các tác
phẩm theo hướng này. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, những ý tưởng cũ về
nghệ thuật và tác phẩm lại xuất hiện trong đầu họa sĩ. Đó là ý tưởng về việc thực
hiện những loạt tác phẩm về các chủ đề có liên quan hoặc tương phản nhau để phản
ánh suy nghĩ của người sáng tác.
Mộ của Vincent và Theo van
Gogh tại nghĩa trang Auvers-sur-Oise
Van Gogh thường xuyên gặp phải
các vấn đề về thần kinh, đặc biệt trong những năm cuối đời. Đã có rất nhiều cuộc
tranh luận nổ ra trong việc tìm nguyên nhân thực sự cho chứng bệnh thần kinh của
họa sĩ và tác động của nó lên các tác phẩm của ông. Người ta đã đưa ra khoảng
30 chẩn đoán khác nhau cho triệu chứng bệnh của Van Gogh [29],
trong đó phải kể tới chứng tâm thần phân liệt, rối loạn chức năng, giang mai,
ngộ độc màu vẽ, động
kinh và rối loạn chuyển hóa porphyrine cấp tính. Bất kì
chứng bệnh nào trong số trên cũng có thể là thủ phạm dẫn tới sự suy nhược thần
kinh của họa sĩ, tình trạng của ông còn bị làm trầm trọng thêm do ăn uống thiếu
chất, lao lực, mất ngủ và nghiện rượu, nhất là rượu absinthe.
Cũng có nhiều giả thuyết y học
được đưa ra để giải thích việc Van Gogh ưa dùng màu vàng trong các bức tranh của
ông. Một giả thuyết cho rằng việc này có thể xuất phát từ chứng nghiện absinthe của Van Gogh, trong
loại rượu này có chứa một loại neurotoxin tên là thujone. Việc hấp thụ thujone với liều
cao có thể dẫn tới chứng thấy sắc vàng (xanthopsia). Tuy nhiên, một công
trình nghiên cứu năm 1991 đã chỉ ra rằng những người nghiện absinthe sẽ phải trở
nên gần như vô thức nếu hấp thụ đủ lượng thujone gây chứng thấy sắc vàng. Cũng
có giả thuyết cho rằng bác sĩ Gachet có thể đã kê đơn cho Van Gogh dùng mao địa hoàng(digitalis) để chữa
chứng động kinh của ông. Việc này được suy đoán từ những bức chân dung bác sĩ
Gachet của Van Gogh, bên cạnh người mẫu thường có vài cây hoa mao địa hoàng.
Người dùng mao địa hoàng với liều lớn có thể dẫn tới triệu chứng quan sát thấy
những điểm màu vàng có quầng xung quanh (giống như trong bức Đêm đầy sao) [30].
Người ta còn đưa ra một giả
thuyết cho thể trạng yếu của họa sĩ, đó là do ngộ độc chì. Các màu vẽ mà Van
Gogh thường dùng đều có gốc chì, và một trong các triệu chứng của nhiễm độc chì
đó là căng võng mạc dẫn tới thường xuyên
nhìn thấy các quầng sáng, một đặc điểm thường thấy trong các tác phẩm cuối đời
của họa sĩ [31].
Năm 2014, kỹ sư hóa học người Hà Lan,
Rene Van Slooten, đã đưa ra giả thuyết Van Gogh đã sử dụng khí đốt để thắp sáng
các căn phòng nơi ông làm việc vào buổi đêm và Carbon monoxide và các kim loại nặng - thậm chí
cả uranium trong
than đá chứa lẫn nhiều tạp chất có thể là nguyên nhân gây ngộ độc cho ông. Nhưng
giả thuyết của Slooten về nhà danh họa Van Gogh vẫn không nhận được sự tán
thành của số đông. Nhà thần kinh học đã nghỉ hưu kiêm chuyên gia về
Vincent Van Gogh, ông Piet Voskuil, cho rằng giả thuyết
của Van Slooten không đáng tin cậy.[32]
Chân dung Bác sĩ Gachet,
từng được bán với giá 82,5 triệu USD
Van Gogh chết trong cảnh
nghèo túng và chỉ mới có một chút danh tiếng trong giới nghệ thuật châu Âu. Tuy
vậy các sáng tác của ông về sau đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các họa sĩ sau này,
đặc biệt là các họa sĩ thuộc trường phái Dã thú (Fauvism) như Henri
Matisse và các họa sĩ thuộc trường phải Biểu hiện Đức thuộc nhóm Die Brücke. Chủ nghĩa Biểu hiện trừu tượng trong
nghệ thuật thập niên 1950 cũng bắt nguồn từ việc phát triển các ý tưởng sáng tác
của Van Gogh.
Năm 2004, trong Danh sách
những người Hà Lan vĩ đại nhất trong lịch sử (De Grootste Nederlander) do đài KRO tổ chức, Vincent van Gogh được
xếp thứ 10 và là nghệ sĩ có thứ hạng cao thứ 2 trong danh sách (sau họa sĩ Rembrandt xếp
thứ 9) [33].
Các họa phẩm đắt giá
Sau khi mất, tranh của Van
Gogh rất được các bảo tàng nghệ thuật và nhà sưu tầm cá nhân ưa thích, đặc biệt
là trong thập niên 1980 và 1990. Khi đó tác phẩm của Van Gogh liên tục phá kỉ lục thế giới
về giá bán, có thể kể tới các bức [34]:
Tên tác phẩm
|
Thời gian
sáng tác |
Năm
bán |
Giá gốc
(triệuUSD) |
Giá quy đổi [35]
(triệu USD) |
Chân dung Bác sĩ Gachet
(Portrait du Dr. Gachet) |
1890
|
1990
|
82,5
|
129,7
|
Hoa diên vĩ
(Iris) |
1889
|
1987
|
53,9
|
97,5
|
Chân dung tự họa
(Portrait de l’artiste sans barbe) |
1889
|
1993
|
71,5
|
90,1
|
Cánh đồng lúa mỳ và cây trắc
bá
(Champ de blé avec cyprès) |
1889
|
1993
|
57
|
81,1
|
Hoa hướng dương
(Les Tournesols) |
1888
|
1987
|
39,7
|
71,8
|
Chân dung một phụ nữ trước
cánh đồng lúa mì
(Portrait de jeune paysanne assise devant un champ de blé). |
1890
|
1997
|
47,5
|
60,8
|
Chân dung một phụ nữ trước
cánh đồng lúa mì
(Portrait de jeune paysanne assise devant un champ de blé)
Nguồn: wikipedia
Theo http://lophocve.com/
Van Gogh trong văn hóa đương đại
Năm 1934 nhà văn Irving Stone cho ra đời tiểu
thuyết Lust for Life kể
về cuộc đời của Vincent van Gogh. Cuốn tiểu thuyết này vào năm 1956 đã được chuyển
thể thành bộ phim cùng tên do Vincente Minnelli và George Cukor đạo diễn. Người
vào vai Van Gogh là ngôi sao điện ảnh Kirk
Douglas còn vai Paul Gauguin được giao cho Anthony
Quinn. Với vai diễn này Quinn đã giành Giải Oscar Nam diễn viên
phụ xuất sắc nhất.
Năm 1971, nhạc sĩ và ca sĩ Don McLean đã
sáng tác bài hát nổi tiếng Vincent để tưởng nhớ
đến Van Gogh, câu mở đầu của bài hát, “Starry Starry Night” được lấy
cảm hứng từ bức tranh nổi tiếng Đêm đầy sao (tiếng
Anh: The Starry Night) của họa sĩ.
Năm 1990 câu chuyện về tình anh em giữa Vincent và Theo van
Gogh được đạo diễn Robert Altman đưa vào bộ phim Vincent & Theo trong
đó vai Vincent và Theo lần lượt do Tim Roth và Paul Rhys thủ vai.
Danh họa Vincent Van Gogh P.2
“Theo ơi,
… Và cả cuộc đời anh đã theo đuổi các đường nét và tạo ra các bức họa để được vẽ nhiều nhất mà anh có thể làm, rồi đến tận cuối đời mình, anh mong được chết, nhìn lại phía sau với tình yêu và sự nuối tiếc đau đớn, và nghĩ “ Ôi, những bức tranh mà mình đã có thể tạo ra chúng!…”. [1]
… Và cả cuộc đời anh đã theo đuổi các đường nét và tạo ra các bức họa để được vẽ nhiều nhất mà anh có thể làm, rồi đến tận cuối đời mình, anh mong được chết, nhìn lại phía sau với tình yêu và sự nuối tiếc đau đớn, và nghĩ “ Ôi, những bức tranh mà mình đã có thể tạo ra chúng!…”. [1]
Đó là đoạn trích bức thư thứ
338 của Van Gogh gửi người em trai ngày 19 tháng 11 năm 1883. Đó là tóm tắt cuộc
đời của Van Gogh (1853 – 1890, Hà Lan) - nhà danh họa lừng danh của trường phái
hậu ấn tượng [2].
Tranh của Van Gogh có đặc điểm
là màu sắc gây cảm xúc mạnh, nét bút thô, hình ảnh có đường viền lớn, tất cả
mang bên trong nỗi đau khổ của một tâm hồn bệnh hoạn khiến cho sau này nhà danh
họa phải tự sát.
Cũng giống như các họa sĩ ấn
tượng, Van Gogh vẽ từ cách quan sát trực tiếp, không vẽ theo trí nhớ và bao gồm
trong họa phẩm cách mô tả các cảm giác nội tâm của mình. Đặc điểm của Van Gogh
là cách dùng màu sắc. Nhà danh họa đã sử dụng màu sắc một cách rất hàm xúc,
không những coi màu sắc là một phương tiện để thiết lập nên các tác dụng của
ánh sáng và không khí, tạo nên chiều sâu của thể tích và không gian, mà còn coi
màu sắc là cách chuyển đạt sự đam mê sâu thẳm mà họa sĩ rung cảm trước cảnh vật,
kỷ vật và con người.
Van Gogh đã vẽ ba loại đề
tài: tĩnh vật, phong cảnh và con người. Thời kỳ đầu, tất cả các bức họa đều
liên quan tới miền đất canh tác của nông dân, đời sống của họ, những gian khổ
mà họ phải chịu đựng. Năm 1885, ông đã vẽ bức họa nổi tiếng có tên là “Những
người ăn khoai”. Bức họa này mang mầu sắc u tối, theo phong cách diễn đạt của
Frans Hals và Rembrandt, với nét bút nặng nề, mô tả cảnh gia đình gồm năm nông
dân đen đủi, ngồi xung quanh bàn ăn tồi tàn. Toàn thể bức họa đã diễn tả đầy đủ
mức sống thấp hèn của đề tài và hoàn cảnh tàn nhẫn của người dân thợ mỏ. Trong thời
kỳ này, Van Gogh cũng vẽ một số tranh tĩnh vật như một giỏ khoai, một ấm đồng
đun nước, vài tổ chim và ngay cả một đôi giầy cũ rách.
Pic1. ThePotatoEaters, Neuenen, April, 1885
Từ năm 1986, các tấm tranh của
Van Gogh trở nên nhiều màu sắc hơn, cách nhìn sự vật không còn cổ điển như trước,
với sắc độ của họa phẩm nhẹ nhàng hơn. Van Gogh không còn vẽ các nông dân đen đủi
nữa mà bắt đầu mô tả những đề tài đặc trưng của trường phái ấn tượng, hai họa
phẩm tiêu biểu là “Montmartre”, 1886, Pic.2) và “Sàn quay Galette” (Moulin de
la Galette -1886, Pic.3).
Pic2. Montmartre, Paris, Autumn1886
Pic3. LeMoulin de la Galette, Paris, Sumer1886
Bước tiếp theo, từ năm 1887,
Van Gogh đã chọn các mầu thuần nhất để vẽ phong cảnh với nét họa gián đoạn hoặc
chấm điểm. Đường lối hậu ấn tượng (postimpressionist style) của Van Gogh bắt đầu
được thực hiện kể từ năm 1888 qua các họa phẩm “Chân dung của Cha Tanguy”
(Portrait of Père Tanguy, Pic. 4) và “Chân dung tự họa” (Self-Portrait in Front
of an Easel, Pic. 5) cũng như một số tranh vẽ các vùng ngoại ô của thành phố
Paris.
Pic5. Self-Portrait in Front of the Easel, 1888
Thời kỳ sáng tác phong phú
nhất của Van Gogh là từ 1888, ông ở Arles, miền đông nam nước Pháp. Van Gogh hầu
như ở luôn ngoài trời để vẽ, trong một phong cảnh thiên nhiên rực rỡ và dưới
ánh nắng chói chang của bầu không khí khô ráo. Van Gogh đã hưng phấn với các cảm
xúc của tâm hồn mình trước các đề tài mới lạ, hấp dẫn. Ông đã làm việc với tốc
độ rất cao, cố công ghi lại các ảnh hưởng của thiên nhiên và tâm trạng của mình
trước ngoại cảnh. Các đề tài tại miền Arles này gồm các cây ăn trái đang nở
hoa, các toàn cảnh của thành phố và vùng phụ cận, các chân dung của bạn bè và
người đưa thư Roulin, cảnh trí trong nhà và bên ngoài nhà, một loạt các hoa hướng
dương và “một đêm đầy sao ở Rhone” (Starry Night Over the Rhone, Pic. 6). Qua
các họa phẩm, Van Gogh đã khai triển sự trong sáng về màu sắc và lối sắc nét về
bút pháp, khác hẳn với đường nét mờ ảo của trường phái Ấn Tượng
(Impressionism). Trong mỗi họa phẩm của Van Gogh, mỗi hình ảnh được vẽ rõ ràng
và táo bạo, khiến cho ánh sáng có vẻ như phát ra trực tiếp từ cảnh vật trong
tranh.
Pic6. Starry Night Over the Rhone, Arles, september, 1888
Khi vẽ chân dung, Van Gogh
không chỉ vẽ lại các nét đặc biệt của nhân vật mà còn muốn ghi lại bản chất
chính yếu của người mẫu và trong kỹ thuật này, màu sắc đã đóng một vai trò
chính, như tại hai chân dung vẽ năm 1888: “Họa sĩ người Bỉ Eugene Boch” (Portrait
of Eugene Boch, Pic.7). Và đối với Van Gogh, các màu sắc khác nhau mang các hàm
ý khác nhau: màu mặt trời tượng trưng cho sự ấm áp, yêu thương, màu xanh mát
mang ý nghĩa của ban đêm và vô tận, màu đỏ biểu hiện sự đam mê và điều xấu xa.
Cùng với cách diễn tả bằng màu sắc, Van Gogh còn mô tả nhân vật bằng nét vẽ hoặc
thô, nặng, hoặc thanh, nhẹ và chân dung của họa sĩ Boch có nét bút tế nhị, tượng
trưng cho một con người tinh tế.
Pic7. Portrait of Eugene Boch, september, 1888.
Sống đơn độc tại miền
Provence, Van Gogh cho rằng cách đạt tới nghệ thuật hội họa của mình mang nhiều
tính cá nhân nên ông đã muốn tập hợp một số họa sĩ để lập ra nhóm các họa sĩ ấn
tượng miền nam, trong đó gồm cả Toulouse-Lautrec, Paul Gauguin và một số người
khác. Theo lời mời của Van Gogh, Paul Gauguin đã về miền Arles vào tháng 8 năm
1888, sống trong căn nhà màu vàng, nơi mà trên tường Van Gogh đã trang hoàng bằng
một loạt các bức họa vẽ “Bình hoa với 15 bông Hướng Dương” (Vase with Fifteen
Sunflowers, Pic8). Cả hai họa sĩ này đã vẽ cùng với nhau và vì Gauguin cao tuổi
hơn nên đã hầu như đóng vai trò một bậc đàn anh, một bậc thầy chỉ bảo để Van
Gogh cải tiến đường lối hội họa. Gauguin cho rằng Van Gogh nên vẽ bằng trí nhớ,
nên làm cho các nét vẽ bớt thô kệch và không nên dùng các màu phụ đối chọi, chẳng
hạn như màu lục và màu đỏ, màu vàng và màu tím, nên tránh các màu gắt và chói mắt.
Lúc đầu, Van Gogh nghe theo lời khuyên của Gauguin và đã vẽ ra họa phẩm “Người
đọc chuyện” (The Novel Reader-1888, Pic 9) và một vài bức họa khác, nhưng rồi
Van Gogh cho rằng cách vẽ như vậy thiếu hẳn đi chiều sâu tâm lý nên đã không thỏa
mãn về phương pháp hội họa đó.
Pic9. The Novel Reader, 1888
Van Gogh trở về với lối làm
việc cũ, điều này đã khiến cho Paul Gauguin coi người em là một họa sĩ kiêu
căng, thường chối bỏ các lời đề nghị xây dựng. Thực ra, hai nhà danh họa này đều
là những con người có cá tính không ổn định, dễ bùng nổ. Các xung khắc về bản
chất chắc chắn sẽ không tránh khỏi. Vào đêm Giáng Sinh năm 1888, một trận cãi cọ
đã xẩy ra giữa hai họa sĩ và trong cơn nóng giận, Van Gogh đã dùng một con dao
cạo sắc, cắt đứt một vành tai. Sau khi Van Gogh được chở đi bệnh viện băng bó
thì Paul Gauguin cũng bỏ về Paris. Cả hai không bao giờ gặp lại nhau nữa. Hai
tuần lễ sau, Van Gogh trở về căn nhà màu vàng và bắt đầu cầm cọ trở lại, và kết
quả là các họa phẩm như “Chân dung tự họa với ống điếu và tai bị băng bó”
(Self- Portrait with Pipe and Bandaged Ear, Pic 10), một số tranh tĩnh vật và họa
phẩm “Ru Em” (La Berceuse, Pic. 11). Sau đó vài tuần lễ, người ta lại thấy ở
Van Gogh các dấu hiệu của bệnh tâm thần khá nặng, khiến cho họa sĩ phải quay về
điều trị tại bệnh viện.
Pic11. La Berceuse, 1889
Vào cuối tháng 4 năm 1889,
Van Gogh yêu cầu được nghỉ ngơi tạm và chữa bệnh tại Saint-Rémy de Provence.
Trong 12 tháng lưu ngụ tại nơi này, Van Gogh đã vẽ ra các họa phẩm “Các cây trắc
bá” (Cypresses, Pic 12), “Các cây ô-liu” (Olive Trees, Pic 13), các bức chân
dung của một số bác sĩ. Trong thời gian sáng tạo này, 1889-1890, Van Gogh đã bộc
lộ qua tác phẩm nỗi buồn và nỗi e sợ bị mất đi cách tiếp xúc với thực tại. Vì bị
giới hạn trong phòng hay trong vườn của khu điều trị, nhà danh họa bị thiếu tự
do trong việc lựa chọn đề tài, thiếu hẳn đi cảm hứng từ cách quan sát trực tiếp,
và luôn luôn Van Gogh không đồng ý với cách vẽ từ trí nhớ. Chính tại Saint
Rémy, các họa phẩm của Van Gogh không còn chứa đựng các màu sắc mãnh liệt như
trước, các đường viền bao quanh đề tài không còn thô đậm và các hình thể mang
hàm ý chạy vội tới người ngắm tranh hay lùi xa về phía chân trời.
Pic13. Olive Trees Saint-Rémy, Septemper, 1889
Van Gogh rời bệnh viện vào
tháng 5 năm 1890 và đi về hướng tây bắc của thành phố Paris, tới ngôi làng
Auvers-sur-Oise, nơi mà Daubigny và Pissaro đang sống và làm việc. Theo lời
khuyên của Camille Pissaro, Van Gogh đã nhờ bác sĩ Paul Ferdinand Gachet trị bệnh.
Bức họa “Bác Sĩ Gachet” (Portrait of Doctor Gachet, Pic. 14) của Van Gogh đã là
một danh tác mới. Nhà danh họa cũng chọn một số đề tài để vẽ như các cánh đồng
bắp và lúa mì, thung lũng có dòng sông, các mái nhà tranh của nông dân. Các họa
phẩm trong thời kỳ này có các hình thể tự nhiên, không bị méo lệch như trước
kia và ánh sáng của miền bắc nước Pháp đã làm cho sắc độ của họa phẩm tươi mới
hơn nhưng vẫn đượm màu sám. Mọi vật trong tranh có vẻ như linh động hơn, sống dậy
hơn. Thế nhưng, thời kỳ sáng tác này của Van Gogh đã không kéo dài được lâu.
Nhà danh họa đã cãi lại bác sĩ Gachet và cảm thấy quá lệ thuộc về kinh tế vào
người em trai Theo và không còn khả năng thành công nữa. Thế rồi vào đêm hôm 27
tháng 7 năm 1890, do quá tuyệt vọng, nhà danh họa Van Gogh đã dùng súng, tự
sát. Người em Theo vào lúc này đã lập gia đình và có một con trai 6 tháng, cũng
cảm thấy quá đau khổ, rồi qua đời 6 tháng sau, vào ngày 25-1-1891 vì bệnh sưng
thận kinh niên.
Căn cứ vào các họa phẩm phần
lớn sáng tác vào ba năm cuối của thời kỳ 10 năm cầm cọ ngắn ngủi, Vincent Van
Gogh được giới nghệ thuật coi là họa sĩ tài danh người Hà Lan xếp hạng sau
Rembrandt. Trong thời kỳ sinh sống tại Arles, Van Gogh đã vẽ các loại hoa, các
cánh đồng chan hòa nắng ấm, còn tại Saint Rémy, các họa phẩm của ông trở nên dịu
hơn, nhưng lại hàm chứa các đường nét táo bạo hơn, như bức họa “The Garden of
Saint-Paul Hospital”, Pic 15. Khởi đầu bằng các màu sắc u tối, Van Gogh đã ghi
lại các tĩnh vật, phong cảnh và chân dung của miền bắc, tới khi dọn xuống Arles
thuộc miền nam, các họa phẩm lại tươi sáng, rực rỡ và khi trở về sống tại
Auvers thì các bức họa mô tả miền Bắc Âu lại đượm màu sám và sắc độ tươi mới.
Màu sắc và bút pháp trong các tranh của Van Gogh đã biểu hiện được các cảm xúc
nội tâm, sâu kín, đã mang đầy đủ ý nghĩa diễn tả và đã gây được ảnh hưởng lớn
lao trong việc phát triển ngành Hội Họa mới, đặc biệt đối với các họa sĩ thuộc
hai trường phái Dã Thú (Fauve Painters), và Biểu Hiện tại nước Đức (German
Expressionists).
Pic15. The Garden of Saint-Paul Hospital
Trong lúc sinh thời, Van
Gogh không được nhiều người biết đến. Nhà danh họa đã trưng bày tác phẩm nơi
Phòng Triển Lãm các Nghệ Sĩ Độc Lập (Salon des Indépendants) tại Paris trong
các năm 1888 và 1889, và tại Brussels năm 1890 nhưng đã không gây được sự chú ý
nào của quần chúng. Và khi ông còn sống, chỉ có một bài báo đề cập tới nhà danh
họa, nhưng qua đầu thế kỷ 20, cách biểu hiện tự tình (lyrical) các cảm xúc nội
tâm trước sự vật, trước thiên nhiên của nhà danh họa đã là những đặc điểm, đã
nói lên rằng vẻ đẹp và sự thật không chỉ ở trong con mắt mà ở trong tâm hồn và
linh hồn, và nhà danh họa đã là người diễn tả ra bằng các màu sắc, các loại bút
pháp đặc biệt. Ngày nay các viện bào tàng, các nhà sưu tập tranh đều tìm kiếm
mua lại các họa phẩm của Van Gogh vì cách sáng tạo nghệ thuật này hàm chứa các
kinh nghiệm cá nhân, các cảm xúc và tâm tư của tác giả. Và đặc biệt vào năm
1987, họa phẩm “Hoa Diên Vĩ ” (Irises, 1890, Pic16) của nhà danh họa Van Gogh
đã được bán đấu giá với giá biểu cao kỷ lục là 53.9 triệu Mỹ kim.
Sưu tầm
Theo http://lophocve.com/
Danh họa Vincent Van Gogh P.3
Danh họa Vincent Van Gogh P.3
VINCENT VAN GOGH. Những đống cỏ khô
(gởi Jonh Russell) khoảng 31-7 đến 3-8-1888.
Sử dụng bút lau sậy, bút lông ngỗng, mực,
than chì, trên giấy dệt, khổ 9,5×12,25 inches.
Viện bảo tàng nghệ thuật Philadelphia.
Van Gogh, hoặc Vincent, vì ông thích được gọi với tên này
hơn, đã viết cho người em là nhà buôn bán tranh nghệ thuật Theo vào đầu tháng 9
– 1880, khi ông vừa mới quyết định trở thành một họa sĩ: “Giờ đây anh nhìn sự vật
với đôi mắt khác hơn trước lúc bắt đầu vẽ”. Ông đã diễn tả cảm quan của mình về
sự vật một cách nhẹ nhàng như vậy. Cuộc triển lãm ”Vincent Van Gogh: The
Drawing” do Viện Bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam và Viện bảo tàng Nghệ thuật
Metropolitan ở New York tổ chức đã đem đến cho người xem một cái nhìn thú vị, tổng
quát về những tác phẩm tạo hình đẹp nhất của nghệ sĩ tên tuổi Hà Lan này. Khoảng
100 trong hơn 1200 tác phẩm đang được lưu giữ của Vincent được chọn ra, nổi bật
lên với sự diễn tả tính mãnh liệt của những cảm xúc không kìm nén được và được
vẽ thành từng nhóm liên tiếp nhau, trong ba năm cuối đời của Vincent. Đây cũng
là những tác phẩm mà các nhà tổ chức muốn đặt vào một tầm quan trọng lớn hơn:
Chúng có thể làm tăng thêm sự hiểu biết, giá trị của những tác phẩm khác, nếu
như những trải nghiệm phong phú nhất có thể có được ở cuộc triển lãm này được đặt
trên khái niệm diễn giải về quá trình phát triển qua từng giai đoạn sáng tác của
nghệ sĩ. Việc sắp đặt tại Viện bảo tàng Metropolitan được cân nhắc kỹ lưỡng, từ
những nhãn tiêu đề đẹp, những bản văn viết trên tường đến những hiện vật trưng
bày hỗ trợ như bút chì, bút lau sậy từng được họa sĩ sử dụng trong các bức vẽ đồ
họa.
Vườn nho già và người đàn bà nông dân. Từ 20
đến 23-5-1980. Sử dụng cọ, dầu và màu nước,
than chì trên giấy sọc, khổ 17,5×21,25 inches.
Viện bảo tàng Van Gogh, Amsterdam
Trong một bài viết cho catalogue, Susan Alyson Stein đã đưa
ra những nhận xét sau: Danh tiếng nổi như cồn của Vincent phần lớn có thể tiên
đoán được, dựa vào sự ủng hộ nhiệt tình với các bản vẽ của những người hỗ trợ
ông không hề biết mệt mỏi như Emile Bernard. Một trong mhững bạn đồng học tại
sudio Ferdinand Cormon, nơi ông học vẽ lối chính thống sau khi đến Paris năm
1886. Khi Vincent tìm ra những lối vẽ không chính thống ngày một nhiều hơn, nhất
là vào mùa hè năm 1888 lúc ông sống một mình tại Arles, ông vẫn cho
Bernard biết diễn tiến công việc của mình qua việc gửi thư kèm theo những mẫu vẽ
với sự chú trọng không kém đến nội dung và cách trình bày. Cũng trong thời gian
tương tự về diễn tiến tạo hình của mình cho một người bạn học trong những lớp học
ở Cormon, họa sĩ người Úc John Russell. Nhưng phần lớn những bản vẽ của Vincent
lại được gửi cho Theo, người đã xếp đặt những tác phẩm này liên kết với nhau
như một bộ sưu tập riêng trong căn hộ ở Paris. Có lẽ nhận thức được việc Theo
đánh giá cao những tác phẩm này, người vợ goá của ông, Joanna Van Gogh – Bonger
đã khẳng định rằng: Những bản vẽ hình của Vincent, dù sớm hay muộn, cũng sẽ xuất
hiện ở nhiều cuộc triển lãm.
Có thể hiểu được những nỗ lực của bà, trong một bối cảnh mà khuynh hướng chủ đạo bắt đầu từ giữa thế kỷ 19, xem một tác phẩm đồ họa cũng có giá trị ngang bằng với hội họa và điêu khắc. Và trước khi Van Gogh qua đời năm 1890, những họa sĩ không theo lối chính thống như Whistler, Ensor và Rodin đã trình bày những tác phẩm đồ họa trong các cuộc triển lãm. Tuy nhiên lịch sử nghệ thuật vẫn chưa lưu ý đến giá trị của rất nhiều bức vẽ hình. Trong bài viết có tựa đề “Nghệ thuật thế kỷ 19” do đồng tác giả Robert Rosenblum và H.W. Janson viết năm 1985 đều không có đánh giá nào về các bức vẽ hình. Cho nên, việc khảo sát một cách nghiêm túc về các tác phẩm đồ hoạ thế kỷ 19 vẫn chưa được thực hiện.
Gần một nửa số tác phẩm trong triển lãm Những chặng đường sáng tác của Van Gogh năm 1935 tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York là tranh đồ họa.
Có thể hiểu được những nỗ lực của bà, trong một bối cảnh mà khuynh hướng chủ đạo bắt đầu từ giữa thế kỷ 19, xem một tác phẩm đồ họa cũng có giá trị ngang bằng với hội họa và điêu khắc. Và trước khi Van Gogh qua đời năm 1890, những họa sĩ không theo lối chính thống như Whistler, Ensor và Rodin đã trình bày những tác phẩm đồ họa trong các cuộc triển lãm. Tuy nhiên lịch sử nghệ thuật vẫn chưa lưu ý đến giá trị của rất nhiều bức vẽ hình. Trong bài viết có tựa đề “Nghệ thuật thế kỷ 19” do đồng tác giả Robert Rosenblum và H.W. Janson viết năm 1985 đều không có đánh giá nào về các bức vẽ hình. Cho nên, việc khảo sát một cách nghiêm túc về các tác phẩm đồ hoạ thế kỷ 19 vẫn chưa được thực hiện.
Gần một nửa số tác phẩm trong triển lãm Những chặng đường sáng tác của Van Gogh năm 1935 tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York là tranh đồ họa.
Những cây Birch xén ngọn. Nửa đầu tháng 3-1884.
Sử dụng bút mực, than chì được nhấn thêm
với màu nước loãng trên giấy dệt, khổ 15,5×21,37 inches
Nhưng vào năm 1965, khi MOMA xuất bản tác phẩm kinh điển
của John Rewald “Hậu trường phái Ấn tượng: Từ Van Gogh tới Gauguin”, những
tranh vẽ hình của Vincent, dù được ca ngợi, vẫn không nhận được sự quan tâm bằng
những bức tranh đầy màu sắc lộng lẫy của ông. Nhìn chung, những bản vẽ hình
không có chỗ để phát triển so với những bức tranh nhiều màu sắc trong suốt thế
kỷ 20. Ví dụ như sách nghệ thuật đầy rẫy những phiên bản mầu và các viện bảo
tàng tràn ngập các tác phẩm hội họa đầy màu sắc được trưng bày. Nhưng hoàn cảnh
mới không đến nỗi quá bi thảm, ở chỗ ít ra thì nghệ thuật vẽ hình của Vincent
đã được quan tâm: Cuộc triển lãm “Van Gogh ở Arles” năm 1984 tại Viện Bảo tàng
Nghệ thuật Metropolitan do Ronald Pickvance tổ chức đã gây được sự chú ý trong
cách thức trình bày để cho những bản vẽ hình cũng có tầm quan trọng như những bức
sơn dầu. Hoặc như cuộc triển lãm tưởng niệm 100 năm ngày mất của Vincent tại
hai Viện Bảo tàng Otterlo và Amsterdam, với qui mô lớn tương tự, dù đáng tiếc
là các bản vẽ hình và các bức tranh sơn dầu được triển lãm riêng rẽ tại hai viện
trên. Mặt khác, catalogue cho hai cuộc triển lãm đều được trình bày đẹp, lôi cuốn
sự chú ý của người xem và thúc đẩy họ quan tâm đến Vincent nhiều hơn nữa.
Có hai khuynh hướng được đặt ra: Một là xuất bản các bản vẽ
hình của Vincent nhiều hơn. Hai là tăng thêm sự phân tích tinh tế của các nhà
chuyên môn về giá trị đáng trân trọng của chúng. Từ năm 1996, mọi tư liệu
và chi tiết về gần 500 bản vẽ hình của Vincent luôn có sẵn, được đánh giá trong
catalogue đặc biệt dành cho các học giả. Quyển thứ tư và là quyển cuối cùng của
bộ catalogue này, theo dự định sẽ ra mắt vào năm tới. Cũng từ năm 1996, để thu
hút nhiều người xem hơn, học giả David Brooks đã thu thập những bản vẽ hình và
tranh của Vincent bằng hình ãnh kỹ thuật số cho một catalogue trực tuyến.
Những con thuyền trên biển. Khoảng 30-5
đến 5-6-1888. Sơn dầu trên vải bố,
khổ 17,38×20,88 inches. Viện Bảo tàng
Nghệ thuật Quốc gia Pushkin, Moscow
Tuy nhiên cho tới nay, trước khi thời gian làm phai màu các
tác phẩm, Brooks vẫn chưa khởi sự chuyển tải những hình ảnh có thể còn giữ
được gần với nguyên dạng ban đầu. Theo như Van Heutgen giải thích trong tác phẩm
“Vincent van Gogh: The Drawing”: Những người xem tranh ngày nay cần hiểu rằng
nhiều bản vẽ của Vincent còn lại đến hôm nay bị cảm nhận khá sai lạc là bản vẽ
phác thảo. Vì thời gian, một số vết mực đen đã chuyển thành mầu nâu, những loại
mực aniline mà tác giả sử dụng trong nhóm tác phẩm 1888 đã mờ gần như mất hẳn;
phức tạp hơn, trong một số bản vẽ dùng hai loại mực khác nhau thì cả hai đều bị
hư hại, có khi một loại mực bị phai còn loại kia ngả mầu sậm hơn. Nhận thấy sự
hư hại thì dễ nhưng tìm ra phương tiện phục chế mới là khó. Cuối cùng,
Van Heutgen nhận được sự trợ giúp của nhà khoa học Roy S. Bern để tái sản xuất
chính xác những loại mầu dùng trong các bản gốc sử dụng loại giấy xám xanh rất
dễ bạc mầu. (Gần đây, Berns – giáo sư tại Học viện Công nghệ Rochester, đã cung
cấp những bức hình được hiệu chỉnh màu tương tự cho một triển lãm ở Seurat tại
Học viện Nghệ thuật của Chicago). Bên cạnh việc phục chế bản vẽ, Van Heutgen
cho tái sản xuất bản in mầu những cuốn sách năm 1920. Mặc dù những người phụ
trách tuyển chọn những bức vẽ còn trong tình trạng tốt nhất cho bài khảo cứu
này, nhiều bản vẽ độc đáo trong catalogue cho thấy màu sắc chắc đã đổi
thay nhiều. Nhưng một chi tiết thú vị khác lại được phát hiện: Khi so
sánh với bản vẽ tham gia thuộc Vellekoop, có những bằng chứng để tin rằng một số
các bản vẽ ngả sang tone nâu, thực hiện tại viện tâm thần nơi Vincent ở năm
1889, được thể hiện một cách sáng tạo bằng loại mực có mầu dễ phai. Nếu vậy, những
bản vẽ phủ sơn dầu mỏng năm 1889 hoá ra tốt hơn nhiều những bản vẽ mực.
Catalogue còn có phần phụ lục rất hữu ích được thực hiện bởi nhân viên bảo quản
tư liệu của Viện bảo tàng Metropolitan, Marjorie Shelly, nguời cung cấp một số
những loại mực khác nhau trong buổi phát hành bản vẽ Vincent.
Những con thuyền trên biển (gởi Jonh Russell).
Khoảng 31-7 đến 3-8-1888. Sử dụng bút
lau sậy và mực, than chì trên giấy dệt,
khổ 9,5×12,5 inches. Viện bảo tàng
Mùa gặt ở Provence (gửi Jonh Russell)
khoảng 31-7 đến 3-8-1888. Sử dụng bút lau sậy
Sự thiếu hiểu biết của chúng ta về mục đích sử dụng màu sắc của
Vincent, chưa tệ bằng sự bàng quan của chúng ta về những gì ông muốn đạt tới
trong những tác phẩm đầy khát vọng thể hiện trên mặt giấy. Xuất thân từ một gia
đình buôn bán tranh nghệ thuật, chắc hẳn ông đã biết rõ sự lựa chọn gắt gao
trên thị trường về các bản vẽ hình. Bắt đầu trong năm 1880, những lá thư của
Vincent thường xuyên cho thấy ông muốn kiếm sống bằng việc bán các bản vẽ minh
họa cho sách hoặc cho các tạp chí đương thời như “The Illustrated London News”
hoặc “The Graphic”, hai xuất bản phẩm bằng tiếng Anh được ông ưa chuộng. Kế đến,
đầu năm 1882, người chú buôn bán tranh nghệ thuật của ông, Cornelis van Gogh, đặt
cháu mình làm các bức vẽ của nhà Hague, một dự án có tầm quan trọng rất lớn đối
với hoạt động của các phòng tranh nghệ thuật thời ấy giữa thế kỷ 19. Trong khi
chưa có bản vẽ sao chụp nào được xuất bản để giao cho ông chú, Vincent phát hiện
ra khả năng khả năng in thạch bản (lithographic) dựa trên những hình vẽ minh họa
cuối năm 1882. Ngoài ra, có thể coi như ông đã hoàn thành những mong ước ban đầu
về nghệ thuật khi tạo ra những bản vẽ cho sách hoặc các tác phẩm tiêu biểu từ
phiên bản với những tập bản vẽ mà ông gửi cho Bernard và Russell năm 1888, những
bản vẽ mà cuối cùng lại trở thành phiên bản cho những bức họa của ông. Hơn nữa,
vì quá trình 7 năm làm việc miệt mài cho Công ty Nghệ thuật và sao chép Nghệ
thuật quốc tế Goupil & Cie, nên Vicent là một người thành thạo về phiên bản
nghệ thuật.
Ông treo các phiên bản lên tường trong căn phòng ở Dordrecht,
nơi ông làm việc cho một người bán sách một thời gian ngắn năm 1877. Tại
Amsterdam, nơi ông chuyển đến sau đó để nghiên cứu thần học, ông tiếp tục mua
những tranh ảnh không đắt lắm về phủ lên tường. Cũng chẳng khác gì mấy khi ông ở
nhà Hague đầu năm 1881, dù lúc đó có thêm người khởi xướng, những bản vẽ của
ông góp lên tường là các hình sao chép từ những cuốn tạp chí tiếng Anh.
Dù thời kỳ đầu hay sau này, có thể đoán ra được vì kiểu cách thể hiện như bản
khắc của các bản vẽ, với rất nhiều những nét bút, cọ ngắn trông như những vết
khắc cho đường viền cũng như để tả chất hay khối. Dù là các bức vẽ ghi lại những
nơi nổi tiếng, nhiều bức trong số những bức ấn tượng nhất ở thời kỳ đầu tại triển
lãm Metropolitan trông như những bản sao từ những bản khắc tưởng tượng in bằng
những mầu mực rất ăn với nhau.
Khi đến Paris năm 1886, Vincent cố gắng phát triển một kiểu vẽ ít các đường vạch hơn. Một mặt, ông cố gắng để trở nên thành thạo phong cách vẽ theo truyền thống học thuật của Cormon. Mặt khác, ông chăm chút vào cách thể hiện ít đường vạch hơn, nhiều mầu sắc hơn mà các nghệ sĩ chuyên tranh khắc gỗ người Nhật rất ưa chuộng, những người mà tác phẩm của họ khiến Vincent nghiên cứu hàng giờ liền tại phòng tranh nổi tiếng của Siegfried Bing. Trong khi triển lãm Metropolitan hầu như lờ đi những bản vẽ mang tính học thuật của ông, những bản vẽ màu nước kiểu Paris lai Nhật này hiện đang gây sửng sốt cho người xem, một kiểu”Thoát ly Lục địa” giữa giai đoạn đầu và sau này trong việc vẽ phác họa của Vincent.
Khi đến Paris năm 1886, Vincent cố gắng phát triển một kiểu vẽ ít các đường vạch hơn. Một mặt, ông cố gắng để trở nên thành thạo phong cách vẽ theo truyền thống học thuật của Cormon. Mặt khác, ông chăm chút vào cách thể hiện ít đường vạch hơn, nhiều mầu sắc hơn mà các nghệ sĩ chuyên tranh khắc gỗ người Nhật rất ưa chuộng, những người mà tác phẩm của họ khiến Vincent nghiên cứu hàng giờ liền tại phòng tranh nổi tiếng của Siegfried Bing. Trong khi triển lãm Metropolitan hầu như lờ đi những bản vẽ mang tính học thuật của ông, những bản vẽ màu nước kiểu Paris lai Nhật này hiện đang gây sửng sốt cho người xem, một kiểu”Thoát ly Lục địa” giữa giai đoạn đầu và sau này trong việc vẽ phác họa của Vincent.
Những cây bách. Từ 20 đến 25-6-1889.
Sử dụng bút lau sậy, bút mực, than chì
trên giấy dệt, khổ 24,5×18,5 inches.
Viện bảo tàng Brooklyn, New York
Tuy nhiên, sự nổi tiếng của cuộc triển lãm gần đây là nhờ các
bản vẽ sử dụng loại bút làm từ cây lau sậy mà Vincent thấy mọc nhiều ở Arles.
So với đường nét của bút lông và bút chì, nét vẽ của bút lau sậy tinh tế hơn rất
nhiều, khiến cho các bản vẽ mà chỉ giới hạn từ một đến hai độ tone mực đen và
nâu của Vincent trông giống như các bức thư pháp Nhật. Nhưng sự nhuần nhuyễn của
những nét bút trong những bản vẽ này, cũng như những bản vẽ mả ông thực hiện ở
Hà Lan và Bỉ đầu năm 1880, lại trông như những bức tranh được làm từ bản khắc
theo những tác phẩm của các họa sĩ mà Vincent yêu thích như Millet; hoặc tốt
hơn, trông giống sự phối hợp đồng thời giữa tô mảng và vẽ nét. Chỉ cần một lượng
mực tối thiểu trên một nét vẽ, một cây bút lau sậy có thể tạo ra một vệt mực
tương đương với vệt mực được làm ra từ công cụ khắc bản vẽ. Vì vậy, những bản vẽ
sử dụng bút lau sậy của Vincent dường như là bằng chứng cho việc thực hiện bản
khắc. Trong chừng mực nào đó, các dị bản tinh tế, có khi lên tới ba bản giống
nhau, mà Vincent vẽ theo kiểu những bức hoạ ở Arles có lẽ phải đặt trong tình
trạng được in ấn, hoặc chỉ là những xuất bản phẩm không mấy quan trọng, được in
riêng để tặng bạn thân. Mặc dù bản thân Vincent không phải là thợ in thì ông
cũng là người buôn bán tranh và sưu tầm tranh ảnh in, và đó chính là nguyên
nhân khiến cho kiểu diễn đạt trong các bức vẽ rất gần với loại tranh khắc, đến
nỗi trông chúng khác hẳn các bức vẽ của các họa sĩ bậc thầy thế kỷ 19.
Dĩ nhiên là còn nhiều điều chưa được đề cập đến, nhưng chắc chắn Vincent đã đánh giá cao việc sử dụng bút lau sậy trong các bản vẽ hình, được thực hiện giống hệt các bức ký hoạ vẽ cọ phức tạp của các hoạ sĩ theo trường phái Ấn tượng cổ điển như Monet, hoặc vẽ chấm điểm của những người bạntheo trường phái Hậu Ấn tượng, Seurat và Signac chẳng hạn.
Thực ra, ngay sau khi quyết định một cách đáng tiếc không triển lãm những bản vẽ sử dụng bút lau sậy đẹp nhất tại Amsterdam tháng 6 – 1888, Vincent thực hiện chuyến du ngoạn tới vùng bờ biển Địa Trung Hải. Có lẽ, bên bờ biển này, Vincent lần đầu tiên tìm cách thể hiện chủ đề có dạng chuyển động mang tính ấn tượng mạnh mẽ nhất, với việc họa những ngọn bọt biển đang đùa trên nước, ”Boats at Sea, Saintes-Maries-de-la-Mer”. Và có lẽ, khi thực hiện những bản vẽ sử dụng bút lau sậy mà gần như dựa hoàn toàn trên những bức họa này, ông cảm thấy mình đang phối khí cho bộ tứ đàn dây. Nhưng quan trọng hơn, chắc hẳn ông nhận thấy bản vẽ phiên bản đẹp hơn bức hoạ nguyên bản, bởi vì lối miêu tả mang phong cách riêng của ông có thể bắt được sự chuyển động hiệu quả hơn sơn dầu. Một nhận thức như thế có vẻ như là sự đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp vẽ của ông. Khi ông vẽ ngoài trời ở Provence, ông cho biết, vì những cơn gió lạnh phía bắc “tấm toan lúc nào cũng rung lên. Nhưng lúc tôi đang vẽ thì chẳng có gì phiền đâu!”. Thực ra, ông tự hỏi, liệu những cơn gió tương tự có thể giải thích tại sao việc dùng cọ trong những bức họa của Cézanne ở Provence đôi khi quá khó khăn hay không. Dù trong trường hợp nào, từ thời điểm này trở đi, việc vẽ cọ trên những bức họa của Vincent sẽ có sự logic về nhịp điệu của các bản vẽ hình, mà tự chúng dự báo về một loại ngôn ngữ tạo hình giàu tính khuôn mẫu của tranh khắc.
Dĩ nhiên là còn nhiều điều chưa được đề cập đến, nhưng chắc chắn Vincent đã đánh giá cao việc sử dụng bút lau sậy trong các bản vẽ hình, được thực hiện giống hệt các bức ký hoạ vẽ cọ phức tạp của các hoạ sĩ theo trường phái Ấn tượng cổ điển như Monet, hoặc vẽ chấm điểm của những người bạntheo trường phái Hậu Ấn tượng, Seurat và Signac chẳng hạn.
Thực ra, ngay sau khi quyết định một cách đáng tiếc không triển lãm những bản vẽ sử dụng bút lau sậy đẹp nhất tại Amsterdam tháng 6 – 1888, Vincent thực hiện chuyến du ngoạn tới vùng bờ biển Địa Trung Hải. Có lẽ, bên bờ biển này, Vincent lần đầu tiên tìm cách thể hiện chủ đề có dạng chuyển động mang tính ấn tượng mạnh mẽ nhất, với việc họa những ngọn bọt biển đang đùa trên nước, ”Boats at Sea, Saintes-Maries-de-la-Mer”. Và có lẽ, khi thực hiện những bản vẽ sử dụng bút lau sậy mà gần như dựa hoàn toàn trên những bức họa này, ông cảm thấy mình đang phối khí cho bộ tứ đàn dây. Nhưng quan trọng hơn, chắc hẳn ông nhận thấy bản vẽ phiên bản đẹp hơn bức hoạ nguyên bản, bởi vì lối miêu tả mang phong cách riêng của ông có thể bắt được sự chuyển động hiệu quả hơn sơn dầu. Một nhận thức như thế có vẻ như là sự đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp vẽ của ông. Khi ông vẽ ngoài trời ở Provence, ông cho biết, vì những cơn gió lạnh phía bắc “tấm toan lúc nào cũng rung lên. Nhưng lúc tôi đang vẽ thì chẳng có gì phiền đâu!”. Thực ra, ông tự hỏi, liệu những cơn gió tương tự có thể giải thích tại sao việc dùng cọ trong những bức họa của Cézanne ở Provence đôi khi quá khó khăn hay không. Dù trong trường hợp nào, từ thời điểm này trở đi, việc vẽ cọ trên những bức họa của Vincent sẽ có sự logic về nhịp điệu của các bản vẽ hình, mà tự chúng dự báo về một loại ngôn ngữ tạo hình giàu tính khuôn mẫu của tranh khắc.
Cửa sổ studio. 9-1889. Sử dụng cọ, sơn dầu, phấn đen
trên giấy sọc hồng, khổ 24,38×18,75 inches.
Viện bảo tàng Van Gogh
Việc đến Arles tháng 10/1888 của Gauguin, người rất coi thường
nguyên tắc trường phái Ấn tượng và cương quyết vẽ từ sự tưởng tượng hơn từ thực
tế, chấm dứt đột ngột giai đoạn vẽ thử nghiệm của Vincent. Mặc dù nhập viện sau
sự ra đi bất ngờ của Gauguin cuối năm 1888, họa sĩ Vincent đã thoát khỏi ảnh hưởng
của những khuynh hướng khác, có thể tiếp tục thực hiện những khát vọng chưa
thành trong việc kết hợp giữa vẽ hình và hội họa. Cách tạo hình độc đáo đã đưa
ông đến một thế giới không bình thường, thậm chí quay cuồng, một thế giới mà
làm cho tác phẩm của ông rung lên như có gió lướt qua ngọn cỏ, có lá cây đang
xào xạc, có những đám mây đang trôi xa. Một cơn suy nhược nặng đầu năm 1890 cản
trở kế hoạch cuối cùng của ông để triển lãm một số các bản vẽ hình và tranh ở
Brussels. Sau đó không lâu, ông tự kết liễu cuộc đời, để lại phong cách vẽ vẫn
tiếp tục phát triển sau khi ông qua đời. Cám ơn những mẫu bản vẽ phong phú của
Vincent. Rõ ràng là sự quyết định nhìn thế giới với một con mắt khác của ông và
làm cho nghệ thuật đồ họa cũng có ảnh hưởng như nghệ thuật hội họa được chia sẻ
bởi nhiều họa sĩ thế kỷ 20, từ Matisse và Ernst đến Johns và LeWitt.
PHẠM THỊ KIM OANH
Dịch từ Art in America, 3/2006
Trả lờiXóamáy bay eva air
vé máy bay đi mỹ rẻ
ve may bay hang korean air
giá vé máy bay đi mỹ giá rẻ
giá vé máy bay từ tphcm đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Tri Thức Du Lịch