Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

''Thoát y dưới trăng'' và dấu hỏi lớn về tính chân thật nghệ thuật của tác phẩm văn học

 ''Thoát y dưới trăng'' và dấu hỏi lớn 
về tính chân thật nghệ thuật của tác phẩm văn học 
(Đọc tiểu thuyết Thoát Y Dưới Trăng 
của Thuỷ Anna. NXB Văn Học 2010
Bóng trăng đổ ập xuống căn nhà rất sớm. Di tắm trần như nhộng dưới bóng trăng nhễ nhại, cảm giác đau đớn và bỏng rát khi dội nước lên cơ thể đang nổi mần đỏ. Dường như trăng càng sáng nỗi đau đớn hành hạ Di dữ hơn. Cô lăn lộn dưới trăng như con sói hoang lăn lộn giữa rừng già cô độc” (tr.148). Đó là hình ảnh Di sau khi cô phát hiện ra mình bị phong cùi. Và chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó linh hồn Di tan vào ánh trăng. Hình ảnh cô gái thoát y dưới trăng có ý nghiã gì?
Thoát Y Dưới Trăng (TYDT) kể lại số phận của ba nhân vật Di, Mạnh và Mây. Di lên 10 thì bố bị lò gạch sập đè chết. Mẹ Di phải chịu đựng kiếp đời tủi nhục làm đĩ nuôi con. Mẹ Di chết vì lây bịnh Sida của người tình là một con nghiện. Số phận dun rủi, Di phải nuôi con người anh họ can tội giết vợ ngoại tình và cưu mang thêm đưá bé bị bỏ rơi trong bụi rậm. Công việc chuyển cá từ thuyền lên xe không đủ tiền nuôi hai đưá bé, Di phải bán mình cho Lão Độ lấy 6 triệu. Sau đó, để có thể nuôi con, Di lại làm lẽ lão Hồng 3 năm, với điều kiện có con cho lão. Nhưng lão vô sinh. Di thoát được tay lão trở về nhà xưa. Để làm được giấy khai sinh cho con, Di phải ngủ với lão trưởng phòng. Một sáng sớm tập thể dục trên bãi biển, Mây quen với Di. Mây có mẹ là bác sĩ viện trưởng một bệnh viện tư, cha là PGĐ Cty Xuất nhập khẩu Tranh đá mỹ nghệ. Từ lúc học lớp 10 cô đã ăn chơi thoải mái. Mây ăn ở với Mạnh cho đến khi anh chán cô. Mạnh là PGĐ CyTNH. Xuất thân từ một trẻ mồ côi, thuở nhỏ Mạnh cũng phải chứng kiến cảnh mẹ làm đĩ nuôi con. Lớn lên Mạnh sống với băng nhóm trẻ bụi đời, rồi nhờ thời cơ mà phất lên. Khi biết Mây giao du với nhiều người, Mạnh cho bọn đàn em xử Mây, nhưng không ngờ Mậy lại bị làm nhục như vậy. Di đã cứu Mây. Bà viện trưởng xử lý cái thai cho con và cho Mây sang Hàn Quốc lánh mặt mấy tháng. Mạnh bị đột quỵ sau một đêm uống rượi và lo lắng. Bọn đàn em thuê Di làm ôsin chăm sóc Mạnh. 4 tháng sau Mạnh hồi phục. Di lại trở về ngôi nhà xưa cuốc đất trồng rau nuôi con. Cô bị lây bịnh cùi do bốc mộ thuê cho môt bà già cùi. Mạnh tịnh tâm ở chuà một tháng rồi đi tìm Di. Hai người bày tỏ tình yêu. Đám cưới được tổ chức khi máu trên các vết thương cùi của Di chảy ròng ròng. Mây có đến dự đám cưới nhưng không vào. Nhìn Mạnh dìu Di, Mây tha thứ cho Mạnh. Di ra đi trong vòng tay  tình yêu của Mạnh.”Di đã tìm thấy hạnh phúc ở chặng đường ngắn ngủi trong cuộc đời “(tr169)
Thuỷ  Anna nói về chủ đề của tác phẩm:” Đây là cuốn tiểu thuyết viết về những người trẻ. Ba nhân vật của em bao gồm Di, Mạnh và Mây. Ba nhân vật này có công việc và hoàn cảnh sống hoàn toàn khác nhau nhưng có điểm chung là họ đều bị gạt ra ngoài xã hội, ước mơ khao khát rất bình thường thôi là gia đình rất bình thường, không phải to tát nhưng họ vẫn không đạt được ước mơ nhỏ bé ấy.
Thuỷ Anna nói về thông điệp tác giả gửi đến người đọc qua tác phẩm: Đó là khát khao mãnh liệt của con người để vượt qua được bế tắc, khổ đau của cuộc đời nhằm đạt được hạnh phúc. Thân phận con người trong "Thoát y dưới trăng" hơi bi đát một chút, hơi cay đắng một chút nhưng điều em muốn mang đến cho độc giả là có những thân phận cực kì bất hạnh và cay đắng trong cuộc đời vốn tươi đẹp này. Vì thế những người trẻ phải luôn biết trân trọng những thứ nghiêm ngắn mà mình đang có.(1) (Hồn Nhiên phỏng vấn Thuỷ Anna)
Vấn  đề là ở chỗ nhà văn đã xây dựng tác phẩm như thế nào đề thể hiện nội dung và chủ đề, tư tưởng trên? Sự thành bại của tác phẩm tuỳ thuộc vào tài năng xây dựng được những hình tượng tư tưởng có sức thuyết phục.
Với nội dung và chủ đề như vậy, tác phẩm đã giúp người đọc nhìn thấy chung quanh mình đang có những số phận phải sống trong hòan cảnh khốn nạn đáng được cảm thông, chia sẻ. Tác phẩm toát lên tình cảm nhân đạo đáng trân trọng.
Xét về nghệ thuật tiểu thuyết, Thoát Y Dưới Trăng có nhiều vấn đề cần được trao đổi.
Trước hết là văn báo chí lấn át văn tiểu thuyết. Ít nhất là 100 trang đầu, người đọc truyện có cảm giác như mình đọc một bản tin báo chí, tuy có tường thuật chi tiết hơn một chút. Đó là những bản tin đã cũ nhàu mà người đọc gặp trên báo hàng ngày. Dường như tác giả chưa phân biệt được đặc trưng phong cách văn báo chí và đặc trưng thể loại tiểu thuyết (?).
Báo chí thuật lại một  tin, một sự việc đã xảy ra. Tác giả là người hiện diện trực tiếp để tường thuật; còn tiểu thuyết là dựng lại dòng chảy cuộc sống ở thì hiện tại. Cuộc sống trong tiểu thuyết  hiện lên như cuộc sống thực đang diễn ra trước mắt người đọc. Kỹ thuật dựng truyện của tiểu thuyết và cách viết một bài báo là hoàn toàn khác nhau.
Xin đọc một đoạn :” Ôi cuộc đời! Mây nghĩ thầm. Ở nhân gian này vẫn còn những ông bố bà mẹ như vậy. Kẻ thì ôm con nhễ nhại đi ăn xin, kẻ thì bán trinh con gái lấy tiền đánh bạc, kẻ thì giết con vì ghen tuông. Tội ác nào cũng có thể bỏ qua, nhưng riêng tội ác hắt hủi giọt máu của mình thì thật đáng tống xuống địa ngục”(tr/53) . Đây là một đoạn văn trong một bài nghị luận của học trò. Đoạn văn có cấu trúc lập luận diễn dịch. Câu chủ đề ở đầu đoạn, sau đó là những dẫn chứng cụ thể và phần bày tỏ cảm tưởng. Câu “Mây nghĩ thầm” có thể bỏ đi mà không ảnh hưởng đến nội dung đọan văn. Hoặc có thể thay tên Mây bằng bất cứ ai, kề cả bằng đại từ nhân xưng Tôi. Xin đọc một đoạn nữa,  đoạn thuật lại Di có ý định cứu đưá bé :” Mỗi bước chân  đi  không ngớt cầu trời phù hộ cho đưá trẻ bất hạnh . Đưá bé đáng thương hơn cả cuộc đời của cô, nó chẳng biết cha mẹ nó là ai? Vì sao sinh ra nó mà không yêu thương nó.  đứng lại một giây…”. Đại từ nhân xưng ngôi thứ ba “ chỉ ra, đó là một đoạn trần thuật, không phải đoạn miêu tả cuả văn tiểu thuyết.
Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ hình tượng biểu cảm, ngôn ngữ đa nghiã và mang phong cách cá  nhân, không phải kiểu ngôn ngữ trung tính của báo chí. Trong TYDT, tác giả như một khách thể thuật truyện về người khác ở ngôi thứ ba (chẳng hạn, đại từ  ở trên và câu : lồng ngực bà mẹ thanh tân căng tròn.tr35 ); Chính vì thế cách viết của Thuỷ Anna làm giảm mất nhiều hứng thú khi người đọc tiếp cận tác phẩm. Những chuyện về trẻ bụi đời, về con nhà giàu hư hỏng là chuyện thời sự, báo chí đã nói quá nhiều. Tính thời sự trong Thoát Y Dưới Trăng lấn át tính tiểu thuyết.
Dường như  có sự lúng túng trong chọn lựa bút pháp, khiến cho tác phẩm khập khiễng khó đứng vững. Ở phần  đầu (tr.01-156) là bút pháp hiện thức. Thuỷ Anna nói về những cảnh đời thực, bằng những dòng tả chân, nhưng ở phần sau lại chuyển hoàn toàn sang bút pháp lãng mạn. Cuộc kết hôn của hai bút pháp này không cứu rỗi được ngòi bút Thuỷ Anna. Cuộc sống làm đĩ cuả mẹ Di và mẹ Mạnh, cuộc đời dưới đáy của Di và Mạnh, cuộc sống ăn chơi con nhà giàu của Mây là hiện thực. Vấn đề là , bức tranh xã hội Thuỷ Anna vẽ ra chẳng khác bức tranh xã hội trước 1945. Di phải bán mình cho lão Độ, phải làm lẽ lão Hồng, phải ngủ với trưởng phòng, xung quanh Di không có ai là người lương thiện, cuộc sống không có chỗ cho Di làm người, ngoại trừ làm con vật, con đĩ…Chẳng nhẽ xã hội VN những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI lại đen tối, bi đát đến thế sao?
Cuối tác phẩm Thuỷ Anna để cho Mạnh lên chuà tịnh tâm một tháng, sau đó tìm đến Di. Lúc này đã ở trong trại cùi, cơ thể đang bị tàn phá dữ dội. Hai người yêu nhau trong đêm trăng và làm đám cưới trong khi cùi tay của Di máu chảy ròng ròng. Di chết trong hạnh phúc tình yêu. Tác giả có thể an ủi Di bằng cách kết như vậy. Nhưng tôi nghĩ, những cảnh như thế chỉ có thể diễn trên sân khấu cải lương (nghệ thuật ước lệ). Trong đời thực đó là những tưởng tượng hão. Tiểu thuyết không thể bẻ cong quy luật khách quan của hiện thực, dù tác giả có viết bằng bút pháp lãng mạn.
Như vậy tác phẩm không có sư thống nhất về bút pháp, phần đầu là bút pháp hiện thực, phần sau là bút pháp lãng mạn, điều này làm mất đi khả năng thể hiện chủ đề của tác phẩm. Với bút pháp hiện thực, tác giả phải đặt được vấn đề và chỉ ra con đường gỉai quyết vấn đề. Nghệ thuật hiện thực là nghệ thuật góp phần cải tạo xã hội. Thạch Lam, dù là một nhà văn lãng mạn cũng nhận thức được yêu cầu này :”Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên ; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vưà tố cáo vừa thay đổi một cái thế giới gỉa dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn “(Lời tựa Gío lạnh Đầu Mùa). Rõ ràng thế giới mà Thuỷ Anna miêu tả là một thế giới giả dối và tàn ác, thế nhưng cách giải quyết vấn đề của tác giả lại duy tâm. Giải pháp ấy là gì ? cả Di và Mạnh đều nói đến chữ TÂM của Phật giáo. Một tay anh chị như Mạnh, một tay Phó Giám Đốc công ty như Mạnh thì không thể có chuyện vào tu trong chùa, và sau đó lại lấy một người vợ cùi! Chính Thuỷ Anna cũng nghi ngờ giải pháp của mình. Mạnh nhìn con thạch sùng trên tường và tự hỏi về con đường của mình ”Phật dạy rằng : Biển cả vô biên, quay đầu lại là bờ. Vậy sao gã này khổ thế “(tr.171). Mạnh đã quay đầu lại con đường lương thiện (?) sao không thấy bến bờ hạnh phúc ? Câu trả lời có thể là : Những vấn đề xã hội đòi hỏi phải giải quyết bằng các giải pháp xã hội, không thể chỉ giải quyết bằng chữ TÂM như cách đề xuất của tác giả.
Nhưng TÂM  là gì trong cách hiểu của Thủy Anna?
Sau ba năm làm lẽ ở nhà lão Hồng, về nhà, đêm đầu tiên không phải làm nô lệ tình dục, Di ngồi bàng hoàng không tin được những gì cô đã trải qua. “Đôi mắt Di sáng lên, ánh sáng ở tâm, con đường cũng ở tâm “(tr.120) Phải chăng Di đã “ngộ” ra được điều gì ? Tâm của Di là gì? Con đường của Di là con đường nào? Còn Mạnh ? Nhờ đâu Mạnh có thể trở nên giàu có? Sao Mạnh lại xử ác với Mây? Khi ở trong chùa, Mạnh nghĩ :” Thánh nhân cũng là người, kẻ phàm trần cũng là người, Phật tại tâm”(tr.116) Khi “xuống núi” anh hay nói đến lòng vị tha :”Chẳng lẽ trải qua đau thương con người biết vị tha và sống vì người khác”(tr156).Còn Mây ? Mây là nạn nhân của chính cô.  Mây chưa có ý thức xã hội, chưa có ý một tráo tim biết sám hối, sao Mây có thể đến gặp Mạnh nói lời tha thứ :” Cách duy nhất để em quên đi quá khứ buồn là học cách tha thứ. Chính vì vậy em quyết định tha thứ cho anh “( 153). Tất cả những điều Thuỷ Anna miêu tả trên, có lẽ đều là TÂM, là tấm lòng từ bi hỷ xả, biết hướng về người khác và sống yêu thương. “…tình yêu không có chỗ cho nỗi đau đời và sự thù hận “(tr.170) . Kềt thúc tác phẩm là hạnh phúc nồng ấm của tình yêu, hạnh phúc ấy lớn lao đến nỗi có thể làm tan đi những đớn đau máu chảy ròng ròng từ thân xác Di, xoá sạch những vết ô nhục và những nỗi hận thù trong tâm hồn Mây. Chữ TÂM đã sáng lên giữa đêm tối của đau thương và tội ác. Phải chăng Thuỷ Anna muốn xây dựng tác phẩm của mình thành tác phẩm tư tưởng? Nếu quả có ý thức sáng tạo này thì đây là một ý hướng tốt, tuy nhiên trong TYDT tác giả chưa thực hiện được. Đó chỉ là cách chọn lựa miễn cưỡng khi tác giả bế tắc trước phút pháp hiện thực. Máu, nước mắt, bất công, cái ác vẫn sừng sữ đó. Lão Độ, lão Hồng, lão trưởng phòng vẫn nhở nhơ ? còn sự đau đớn khôn cùng của bịnh cùi Di phải chịu là vì ai? Vì cái gì ? Hai đưá con của Di vẫn bơ vơ trôi dạt không biết về đâu, người đọc nhói tim nếu hai đứa trẻ ấy lặp lại số phận của mẹ nó! 
Thoát Y Dưới Trăng thất bại trong việc lý giải những vấn đề xã hội, vậy tác phẩm còn lại điều gì ? Người đọc dễ nhận ra thái độ cảm thông, bênh vực của tác giả với những người đàn bà vì hoàn cảnh mà phải làm đĩ nuôi con (mẹ Di. Mẹ Mạnh và Di). Tuy nhiên ngay cả tình cảm nhân đạo ấy cũng không có cơ sở để đứng vững. Nếu cho điều ấy là đúng thì ngày nay những cô gái chân dài, những diễn viên, ca sĩ làm gái gọi, đi tour, họ có vì hoàn cảnh đói nghèo và bức bách đến nỗi không thể làm gì khác ngoài việc bán thân ? Câu trả lời sẽ là khác với điều Thuỷ Anna đã đặt ra. Việc miêu tả quá nhiều lần cảnh người mẹ làm đĩ trước mặt con (Di và Mạnh ) là sự cố ý lộ liễu. Không người mẹ nào lại làm chuyện tồi bại đó trước mặt con và không người con nào khi chứng kiến những cảnh thú vật như thế lại có thể tha thức cho mẹ được. Thử hỏi,trong những hoàn cảnh đói nghèo và chiến tranh ác liệt nhất suốt 30 năm kháng chiến (1945-1975), có bao nhiêu phụ nữ Việt Nam chọn nghề làm đĩ nuôi con ? Hơn thế, mẹ của Di, mẹ của Mạnh còn tìm thấy hạnh phúc trong công việc hoàn toàn bản năng ấy. Khi đẩy vấn đề lên tầm khái quát, Thuỷ Anna đã đặt vấn đề một cách võ đoán, ngay cả đó là hư cấu cũng không thể chấp nhận được.
Sự bênh vực, cảm thông với những người phụ nữ phải bán thân để nuôi con là đáng qúy, nhưng vấn đề là giải pháp nào để giúp họ thoát ra khỏi cảnh ô nhục đó ? Tác giả không có câu trả lời, bởi vì tác phẩm đã cô lập hoá nhân vật, không đặt họ trong một bối cảnh lịch sử cụ thể nào. Các tổ chức đoàn thể Nhà Nước, các tổ chức từ thiện xã hội, các chính sách xoá đói giảm nghèo…đều có thể giúp đỡ họ được. Vậy mà tác giả lại miêu tả xung quanh các nhân vật của mình chỉ có caí xấu, cái ác và bóng tối. Điều này làm sao có thể thuyết phục được người đọc?
Thoát Y Dưới Trăng cũng có nhiều hạn chế về kỹ thuật dựng tiểu thuyết.
Đó là những trang văn xô bồ, ít chất văn chương. Nhiều câu chữ còn rất thô, thiếu sự tinh tế của tiếng Việt, dùng từ sai ngữ pháp, dùng từ không đúng nghiã, lặp từ vụng về.
Thí dụ
Là một bác sĩ, bà nghĩ rằng, sẽ vô hiệu hoá nếu dùng lửa dập lửa”(tr.112). Chữ vô hiệu hóa dùng không đúng cách về ngữ pháp. Vô hiệu hoá là một động từ, đòi buộc sau nó phải là một tân ngữ. ( thí dụ : vô hiệu hoá âm mưu khủng bố )
Tất cả những tiềm thức ấy trôi đi rất nhanh, nó giống như một thước phim mà được quay khi đang cưỡi ngựa”(tr.92) Trong mỗi bộ não người chỉ có một vùng tiềm thức, không thể có những tiềm thức. Hơn nữa, tiềm thức là một danh từ không đếm được, không thể đặt Lượng từ những đứng trước.
Di biết rất rõ rằng, cuộc sống phải luôn luôn chấp nhận sự thay đổi để thích nghi với cuộc sống mà mình đang có”(tr.131). Trong một câu mà dùng hai lần chữ cuộc sống, chứng tỏ khả năng diễn đạt không phong phú nếu không nói là vốn từ của tác giả rất nghèo.
Ngôn ngữ  nhân vật chưa được cá thể hoá, vì thế nhân vật không có cá tính. Tác phẩm chỉ có một giọng của tác giả. Di, Mây, Mạnh có cùng một giọng điệu, cùng một kiểu nói năng. Hình ảnh Mây hoàn toàn là sự áp đặt chủ quan, cách nhìn phiến diện có phần méo mó của tác giả đối với thế hệ học trò phổ thông.
Thuỷ Anna đặt vào miệng Mây, cô học trò lớp 10 mới 17 tuổi, lời khẳng định này: “Ở lớp em, các bạn sống thử với nhau lâu rồi. Đã yêu nhau thì phải yêu đến tận cùng chứ”   (tr 97), và miêu tả lối sống của Mây: “hàng xóm láng giềng cứ xì xèo về chuyện cô Mây hay về nhà rất muộn, có các chàng công tử nhìn phong lưu mã thượng, có xe ô tô đưa đón đi về. Mà cứ dăm bữa, nửa tháng lại thấy cô Mây thay người khác “(tr.45). Có thể có trong đời thực một cô học trò như thế, nhưng không phải là tất cả. Sự áp đặt này là chủ ý điển hình hoá hay do năng lực thâm nhập thực tế và khả năng tiểu thuyết hoá của Thuỷ Anna còn hạn chế ? Cũng có thể là do cách viết trình thuật báo chí, nhân vật tôi (tác giả) quán xuyến tất cả (?).
Yếu tố  thời gian trong Thoát Y Dưới Trăng cũng rất lỏng lẻo, nếu không nói là không logic với cốt truyện. Thời gian trong TYDT là thời gian thực, không phải là thời gian tượng trưng hay thời gian nghệ thuật. Truyện được kể theo thứ tự thời gian: một ngày, một tuần, một tháng, hai tháng mười ngày, một năm, ba năm, nhưng hành động của hai nhân vật lại diễn ra trong một thời gian so le. Di đi làm vợ lẽ cho Lão Hồng ba năm trở về nhà, Mây đi Hàn Quốc ba tháng về, hai người gặp nhau. Mây cho quà con của Di. Người đọc có cảm giác ba năm làm lẽ của Di xảy ra cùng một lúc và bằng với 3 tháng đi Hàn quốc của Mây. Nhiều cảnh đang từ hiện tại, nhân vật hồi tưởng quá khứ sau đó không thấy trở về hiện tai, hoặc người đọc không rõ đâu là thời gian tiểu thuyết (thời gian sự việc đang diễn ra ở hiện tại)?
Thoát Y Dưới Trăng lấy nguyên văn ý tưởng và cách thể hiện cuả I’m Đàn Bà (Y Ban ) ở đoạn tả Di làm ôsin cho Mạnh, giúp Mạnh hồi sinh, sau đó chung đụng xác thịt với Mạnh, làm nảy nở tình yêu (tr.130-139) . Việc lấy ý tưởng của người khác là không nên (tôi không tin rằng Thuỷ Anna không biết I’m Đàn Bà của Y ban), vì sẽ tạo ra sự ngộ nhận nơi người đọc và lộ ra sự hạn chế trong năng lực sáng tạo của tác giả. Ai cũng hiểu rằng, năng lực sáng tạo là một tố chất quyết định tài năng của nhà văn.
Tôi cứ  băn khoăn điều này, phải chăng tác giả bắt Di phải đi con đường số phận do mình hư cấu ? Bỗng dưngngười anh dẫn con về và bỏ trốn vì tội giết vợ, rồi bỗng dưng có đưá trẻ bị bỏ rơi trong bụi rậm, thế là Di phải làm mẹ hai đưá trẻ. Khả năng kiếm sống cũa Di để nuôi hai con trở nên ngặt nghèo, đẩy Di vào con đường bán thân cho lão Độ. Sao Di không đem cháu bé cho tổ chức từ thiện nào ? Chính cái bỗng dưng ấy làm người đọc hoài nghi tính logic hiện thực của cốt truyện. Rồi lại bỗng dưng Di đi bốc mộ cho bà già bịnh cùi, để lây bịnh cùi. Y khoa chỉ ra rằng, bệnh cùi từ lúc nhiễm đến lúc phát là rất lâu, có khi 15-20 năm, vậy mà chỉ mấy tháng thì tay Di đã bắt đầu cụt dần, máu chảy ròng ròng…(ngày nay y khoa đã có thuốc chữa khỏi căn bệnh này).Tất cả những điều như thế đặt một dấu hỏi lớn về tính chân thật nghệ thuật của tác phẩm
Có một chi tiết có thể làm người đọc bình thường rối trí. Đó là, toàn bộ đối thoại của các nhân vật đều không được đánh dấu bằng dấu gạch ngang đầu dòng. Lời đồi thoại được viết liền mạch với lời kể cuả tác giả. Điều này có ý nghiã gì ? Phải chăng viết như vậy, tác giả muốn lưu ý người đọc rằng đó là dòng ý thức của nhân vật, không phải là dòng hiện thực đang diễn ra. Tôi thấy rằng cách viết của Thuỷ Anna chưa đạt tới kỹ thuật “dòng ý thức” của văn chương hiện sinh. Cách trình bày như vậy chỉ làm rối trí người đọc thôi, không mang lại hiệu quả diễn đạt nào.
Trở  lại tên truyện Thoát Y Dưới Trăng và đoạn tả cảnh Di tắm trần dưới ánh trăng:”Bóng trăng đổ ập xuống căn nhà rất sớm. Di tắm trần như nhộng dưới bóng trăng nhễ nhại, cảm giác đau đớn và bỏng rát khi dội nước lên cơ thể đang nổi mần đỏ. Dường như trăng càng sáng nỗi đau đớn hành hạ Di dữ hơn. Cô lăn lộn dưới trăng như con sói hoang lăn lộn giữa rừng già cô độc”, tôi đã tra hỏi xem tác giả có ngụ ý gì trong hình ảnh ấy và nhan đề ấy ? Có thể nhận xét của An ninh Thủ đô là một kiến giải.
An ninh Thủ Đô nhận xét thế này: Ngoài lối hành văn truyền thống, biểu cảm, thì ấn tượng đối với “Thoát y dưới Trăng” chính là những… “cảnh nóng” được chị xây dựng trong câu chuyện đầy bản năng nhưng cũng rất con người, đó là những hình ảnh gây xúc động đối với người đọc. (2)
Có  thật rằng nhan đề truyện và đoạn tả cảnh trên là chí có dụng ý gây tò mò? Tôi đã không đọc được ngụ ý gì trong đoạn tả trên, ngoài hình ảnh trần trụi của việc tắm. Nhưng nếu chỉ quy TYDT về còn lại ấn tượng ở những “cảnh nóng”, tôi nghĩ người đọc đã không hiểu đúng những thông điệp cuả tác giả. Có điều, tác giả khai thác nhiều lần đoạn tả cảnh mẹ làm đĩ với khách một cách hoang dã trước mặt con, và sử dụng  những hình ảnh tục để tô đậm những cảnh sex sẽ là trái với quy luật sáng tạo nghệ thuật của văn chương.
Xin đọc:” mẹ là người lọc lõi trong tình trường, mẹ kéo khoá quần gã xuống. Di nhìn thấy rõ cái bộ phận đàn ông của gã như con chó con mới đẻ. Mẹ mơn trớn con chó con ấy đến khi gã không chịu được nữa vùng lên và quăng mẹ Di xuống ven đường, lột sạch quần áo, cả cái quần chip mẹ mới mua chiều nay trên phố huyện, trông diêm duá, nửa kín nửa hở. Mỗi nhịp gã thúc mạnh xuống người mẹ Di, lạ thay, mẹ tỏ ra mãn nguyện”(tr.12)
Sẽ chẳng ai tin rằng người mẹ này vì nghèo khổ mà phải làm đĩ nuôi con, như ý định của tác giả trong tác phẩm. Nếu An Ninh Thủ Đô có cho rằng “ấn tượng đối với “Thoát y dưới Trăng” chính là những… “cảnh nóng” được chị xây dựng trong câu chuyện đầy bản năng nhưng cũng rất con người, đó là những hình ảnh gây xúc động đối với người đọc”, thì nhận xét đó có lý của nó, nhưng Tôi không rõ “xúc động” người đọc nhận được qua “cảnh nóng” ấy là xúc động gì? Hay cũng chỉ là “xúc động” bản năng ? Nếu vậy thì cả người viết và người đọc (ANTĐ) chưa hiểu điều này là, con người khác loài vật ở chỗ, con người đã nâng bản năng lên thành văn hoá. Đó là điều đáng tiếc. Tôi nghĩ, có lẽ do mục đích câu khách, hay do “phong trào” viết sex bẩn như một mốt thời trang của tư tưởng giải phóng phụ nữ (kiểu đòi nữ quyền phương Tây) mà Thuỷ Anna chịu ảnh hưởng chăng ? Dù thế nào, Thuỷ Anna đã tỏ ra chưa đủ tự tin trong sự sáng tạo của mình.
Thoát Y Dưới Trăng có được ý tưởng sáng tạo tốt, có những trang văn hay (thí dụ, đoạn tả tâm trạng Mạnh sống trong mộng du, tr.108-116), có khơi gợi được tình cảm nhân đạo nơi người đọc, nhắc nhở người đọc quan tâm đến những con người bất hạnh chung quanh mình. Tác phẩm cũng hé lộ chút ánh sáng bất chợi trong năng lực sáng tạo của tác giả (Thí dụ, đoạn tả giấc mơ của Mạnh với thằng Đỏ - tr.114), điều ấy đem đến cho người đọc hy vọng ở ngòi bút trẻ này
Xin đọc giấc mơ của Di:”Di thấy mình bay bổng trên những chòm sao. Trong giấc mơ của Di, mỗi vì sao giống như một ngôi nhà trong xóm nghèo này, nhưng trên các chòm sao ấy có đầy ắp ánh sáng. Di cầm từng nắm ánh sáng ném vung vãi xuống nhân gian như cô tiên cầm cây đũa thần kỳ ban phát phép màu. Trên cơ thể Di khoác tấm áo màu lụa có gắn đôi cánh bạc lấp lánh, khi khoác đôi cánh ấy trên vai  Di có thể bay từ chòm sao này đến chòm sao khác..(tr.107)
Tất nhiên để đạt được thành tựu trong tiểu thuyết, Thuỷ Anna phải vượt qua được cách viết báo chí, đem văn chương vượt lên thời sự; phải tự tìm kiếm cho mình một bút pháp phù hợp (không phải là sự lắp ghép hiện thực và lãng mạn một cách vụng về như trong TYDT) và phát huy hơn nữa năng lực sáng tạo để không bị ảnh hưởng người khác. Điều ấy cần có thời gian, nỗ lực rèn luyện  và sự tìm tòi khổ công. Văn chương bao giờ cũng đền bù xứng đáng cho những khổ công như vậy.
Bùi Công Thuấn. Tháng 7. 2010
Nguồn: Phongdiep.net




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Đoàn Văn Cừ với hội xuân và những phiên chợ tết Những phiên chợ tết, những hội xuân của làng quê xưa, những làng quê cổ truyền Việt Nam ...