Pleiku, thơ và thi nhân
Có lẽ không có một
thành phố nào như Pleiku được nhắc nhở nhiều đến như vậy trong văn học Việt
nam. Những thi văn sĩ, đã sống và thở ở không gian
đó, đã trải qua những ngày tháng tao loạn chiến tranh, nên tác phẩm của họ đã
biểu hiện sinh động được tâm cảm của những người lính thú hay những nàng chinh
phụ của một thời đại chiến tranh.
Với tôi, phố núi Pleiku gợi lại cho
tôi rất nhiều vần thơ. Có thể là của riêng tôi mà cũng là của rất nhiều thi
sĩ đã gần gũi với thành phố ấy. Thêm vào nữa, Pleiku còn là cả một
kho tàng kỷ niệm của riêng tôi..
Ngay ngày đầu tiên đến Pleiku, tôi đã
cảm thấy như mình là một dòng sông đang đến một khúc quành.
Năm tôi lên nơi chốn ấy, tôi vừa đến
cái tuổi đôi mươi. Hai mươi tuổi, tâm hồn lúc ấy trắng bong, tràn đầy mơ với mộng. Chưa có kinh nghiệm
trường đời nên thường phản ứng trước những điều mà mình thấy không vừa lòng. Tuổi
trẻ lại hay thích thoải mái không ưa sự gò bó nên dù ở Nha Trang phong cảnh sơn
thủy cũng hữu tình lắm nên khoái chuyện giang hồ lang thang.
Ở đâu cũng xa nhà nên tôi tình nguyện đi biệt đội Pleiku mút mùa lệ thủy và khi
lập không đoàn thì cũng là một trong những sĩ quan thuộc hàng khai sơn phá
thạch của đơn vị kỹ thuật ở đây…
Thời gian ở thành phố biên trấn này
chỉ hơn hai năm mà sao tràn đầy kỷ niệm. Có những lúc, cơm
xấy đồ hộp ngày này qua tháng khác mà vẫn vui. Lãnh
lương xong, chỉ một vài ngày là sạch nhẵn, thế mà tối nào cũng lang thang
ở phố đến nửa đêm mới mò về phi trường. Ở đây, biết bao nhiêu đứa bạn, buổi
sáng còn đùa giỡn chọc ghẹo nhau mà vài tiếng đống hồ sau thân xác đã thành
sương khói cho những phi vụ không về. Ở đây có sáng mù sương, thấy đời mỏi mệt
như chiếc xe dodge của biệt đội ì ạch leo lên đầu dốc. Dù rằng
lúc ấy tôi chỉ vừa hai mươi tuổi…
Cảm giác đầu tiên của tôi khi đến
Pleiku thật là lạ lùng.
Ngày đầu tiên khi tôi từ Nha Trang
xuống phi trường Cù Hanh là một ngày mưa u ám. Phi cơ trực thăng khi bay qua Khánh Dương bị bắn và tôi hiểu chiến
tranh đã đón chào tên lính trẻ làm thân lính thú đồn xa như thế. Mưa sủi bọt trên mặt
nhựa phi đạo và bầu trời nặng nề u ám mầu mây đen. Gió
ào ạt lồng lộng ngoài kia khiến cho tôi thấy mình quá nhỏ nhoi trong cái buồn
mênh mang của đất trời. Lúc ấy, tôi thấy những câu thơ vẩn vơ trong
óc. của Kim Tuấn, Vũ Hữu Định, Nguyễn Bắc Sơn,… Thơ tự nhiên
thành một phần của một ngày, một tháng, một năm,… của riêng tôi. Thơ để quên đi hiện
tại. Những
giọt mưa quất vào mặt, buốt rát. Những ngọn gió thốc vào ngực.Nặng tê… Tự nhiên tôi
thấy mình thật gần gũi thân thiết với những vần thơ biết là bao nhiêu. Có
lúc, tôi nghĩ thi ca là một phần đời sống mình…
Thi sĩ làm thơ cho Pleiku thì rất đông
đảo. Và thơ hay cũng nhiều lắm, mỗi bài có ý vị riêng, có
phong thái riêng. Tôi bắt đầu với nhà thơ Vũ Hữu Đinh...
Nếu nói bài thơ “Còn Một Chút Gì Để
Nhớ” của thi sĩ họ Vũ đã làm cho Pleiku trở thành một nơi chốn cực kỳ lãng mạn
và thơ mộng của thi ca Việt Nam thì cũng chắng phải là ngoa ngôn, những câu thơ
dễ thương của một vài con phố nhỏ heo hút của vùng cao nguyên, với hình tượng
của “Em”, của thời tiết lạnh lạnh để má em thắm để môi em hồng. Có ai hỏi là những
nhân dáng này có thật không trong đời sống của người làm thơ không thì nhà thơ
họ Vũ đã trả lời rằng đó chỉ là hình tượng tổng hợp từ nhiều hình ảnh trong
thực tế để tổng hợp thành một hình tượng tuyệt diệu của tưởng tượng, của hư
cấu. Và trong cái không gian của một phố núi nhỏ nhoi,
con người thi sĩ và cảnh vật cũng như thiên nhiên ở đây hình như thở chung một
nhịp đập của trái tim tràn cảm xúc. Con phố hoang sơ
lạnh lùng nhưng dường như có một tâm hồn mà người thơ cảm thông được, hiểu được
từ nỗi cô đơn mà trời riêng dành cho người là thơ.
Bài thơ ấy gồm chỉ mười hai câu thơ
thôi mà chuyên chở rất nhiều tình, ý. Thơ có
thiên nhiên hòa hợp với con người. Thơ làm đời sống có nhiều chất thơ hơn để
quên đi những ám ảnh của chiến tranh:
“Phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật gần
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương
phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nao lòng bỗng bâng
khuâng
em Pkeiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong
xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc trên đồn biên giới
còn một chút gì để nhớ để quên.”
Hình như về sau này, khi chiếm miền Nam, thì trong các
tuyển tập thơ có trích đăng bài này. Bài
thơ này hình như vượt qua được giới tuyến của chiến tranh để trở thành một tài
sãn văn hóa của dân tộc...
Bài thơ này được trích đăng hoặc in
trong nhiều tuyển tập thơ xuất bản ở trong nước, nhưng không phải là nguyên văn
bài thơ. Thí dụ như hai câu thơ cuối thì nguyên bản là “mai
xa lắc trên đồn biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“ Thì sửa lại là “mai
xa lắc trên đồi biên giới / Còn một chút gì để nhớ để quên“. Chỉ sửa có một chữ
mà ý tưởng đã khác nhau nhiều!
Tôi không rõ Vũ Hữu Định viết bài thơ
này trong thời gian nào nhưng theo nhà thơ Luân Hoán một người bạn thân cùng
quê với anh đã tả chân dung nhà thơ ấy như sau:
“với chiều cao khoảng một
thước sáu nhưng có bề ngang, cộng với dáng đi chữ bát, cộng thêm lối an vận lè
phè nhà thơ Vũ Hữu Định trông gần như hơi thấp. Anh không
có khuôn mặt đẹp trai nhưng nhìn rất bắt mắt. Nụ cười xuề xòa luôn luôn đi trước giọng nói dí dỏm
bộc trực đã thắp sáng khuôn mặt ngả màu nâu sậm của anh thơ miền Trung ra đời
vào thập niên 40 này. Năm 1970 năm tôi không may mắn phải giã từ rừng núi và
phố chợ Quảng Ngãi để trở về Đà Nẵng tôi đã gặp và quen thân với Vũ Hữu Định.
Lúc đó hình như anh đang mặc áo cán bộ xây dựng nông thôn. Địa bàn công tác của
anh lòng vòng ven rìa thành phố Đà Nẵng như Thanh Khê, Hà Khê, An Hải, Sôn Trà,.. Anh chợt đi, chợt về. Đặc biệt
anh lúc nào cũng có vẻ thong dong giàu có thời giờ phất phơ phố xá. Anh làm
thơ nhiều trong giai đoạn này. Thơ của anh hầu hết được đăng trên các tạp chí văn
chương tại thủ đô Sài Gòn. Vũ Hữu Định có đời sống vật chất không mấy khả quan,
quen biết nhau khá lâu nhưng anh từ chối không thuận cho tôi đến nhà chơi. Cũng không
hề đề cập đến gia đình của anh. Biết anh có vô có con nhưng mãi về sau này tôi mới
tình cờ được gặp trong một hoàn cảnh thật buồn!
Ông mất năm 1981 ở Đà Nẵng và có nhiều
dư luận về cái chết của ông. Như ông đến nhà một người bạn văn chơi ở An Hải và
vì nhậu qúa say trong lúc tìm chỗ đi tiểu thì bị té từ căn gác lửng xuống và
chết. Một dư luận khác thì nói rằng trong cuộc nhậu ấy, ông bị một vài người cố
tình từ trên gác xô xuống và bị ngã chết. Những người bạn ông thì nửa tin nửa
ngờ và cũng hiểu rằng ỏ thời thế ấy thì chết vì bị cố tình mưu hại hay vì say
mà té ngã cũng đều như thế, chính quyền không quan tâm và chỉ đau xót cho gia
đình, bạn bè và những người yêu thơ ông …”
Nguyễn Bắc Sơn, một chứng nhân của cuộc chiến, làm thơ như
một cách thế sống, đã coi công việc viết như một phần của đời người. Sống ở Pleiku và
viết những bài thơ để gửi Pleiku. Thơ ông, có chút cảm khái ngậm ngùi của thời tao loạn nhưng cũng có
những xúc động bềnh bồng của tâm tư lãng mạn hay đùa cợt với cuộc đời. Thơ,
phảng phất vóc dáng một chàng cuồng sĩ…
Đọc bài thơ “Hoa Quì Vàng Lạnh
Pleiku”, tự nhiên tôi như người trở về thời gian ấy, không gian ấy. Trở về những ngày
tuổi trẻ, của những giây phút bốc đồng coi mọi việc như cuộc đùa chơi. Cái lạnh, chưa hẳn
là lạnh lẽo mùa đông, mà còn chứa đựng một chút nồng ấm nào đó của mùa hạ. Lạnh
ở bên ngoài nhưng rần rần nóng hồi ở tim óc bên trong. Sương mù ban đêm trên đỉnh cao nhìn về
phố buồn, tâm thức cũng ào ạt như sóng theo tầm
nhìn vời vợi…
“Đứng trên núi thấy hàng đèn thị
trấn
Là thấy mình buốt lạnh mấy nghìn năm
Vì đêm nay trời đất lạnh căm căm
Nên chợt nhớ chút lửa hồng bếp cũ
Nên phải nhớ mắt một người thiếu nữ
Đã nhìn mình rất ấm một ngày xưa
Dù mai sau ngày nắng tiếp ngày mưa
nhưng vĩnh cửu chút mơ màng thuở đó…”
Đọc bài thơ dài của Nguyễn Bắc Sơn
tôi chỉ thấy có hai câu nói về mầu hoa quì vàng. Thế mà cái mầu sắc hoa man dã ấy chỉ một nét thoáng qua nhưng lại
gợi nhiều dư âm. Mầu vàng, có
khi là mầu vàng lạnh, nhưng có khi là mầu nóng chói chang của nắng:
“Phố núi kia ơi, một đời phố lạnh.
Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao.”
Hoa quì vàng? Một loài hoa có lẽ
chỉ có ở Pleiku. Hoa quì vàng, một loài hoa nhỏ, cây từa tựa giống như hoa cúc, tôi
đã nhìn thấy miên man mầu vàng khi trên phi cơ nhìn xuống. Mầu vàng, mênh mang
trên những ngọn đồi loang lổ mầu xám của đá và mầu đỏ của đất. Hoa
quì, lẻ loi một cánh trên tay thú thực cũng chẳng hấp dẫn lắm nhưng nếu bạt ngàn
dưới cánh phi cơ, rào rạt trong nắng trong gió sẽ trở thành một ấn tượng khó
quên cho cảm xúc. Ơi hoa quì, mầu vàng không phải kiêu sa như
mầu hoàng cúc của áo tôn nữ mà có sự gần gũi với tà áo vàng của dân dã, của
thiên nhiên. Hèn chi, cũng có nhiều nhà thơ vấn vương với hoa quì vàng, như
Nguyễn Xuân Thiệp, như Kim Tuấn,…?
Người thơ kể chuyện của mình, một câu
chuyện có lẽ rất quen tai của những người lính thú. Cũng đi xuống, đi lên,
cũng loay hoay bồn chồn như những chàng gà trống...
“Đời lang bạt của một người lính
thú
Sáng hôm qua tôi là người thiếp ngủ
Đi một mình lên xuống phố mù sương
Phố núi kia ơi, phố có con đường
Lên xuống dốc tìm không ra bạn hữu
Không có bạn tôi làm sao uống rượu
Tôi làm sao sống nổi một ngày đây
Phố núi kia ơi, kẻ lạ đông đầy
Nhìn gã lính không khác gì gã lính…”
Không có bạn tôi làm sao uống rượu. Tôi làm sao sống nổi
một ngày đây. Nghe như một câu nói thường ngày, không có chất thơ mà sao nghe
tràn đầy thi tứ. Chắc lúc ấy, sự cảm khái của người thơ đã lên cao độ, và, nỗi lạnh
lùng thiên cổ như bám vào da vào thịt. Có nỗi nhớ mong, có niềm tiếc nuối. Người em, bây giờ
lưu lạc ở đâu?
ngó mông hoài khuất bóng của người em
sáng hôm nay đời sống thật bình yên
sao phố lại đuổi đi người yểu điệu
vườn đá tảng bàn chân em huyền diệu
in gót hồng lên lớp bụi đời tôi
là từ khi tôi hạnh phúc rong chơi
và quên lãng con thú mù phẫn nộ
Ôi phố núi đêm nay là cổ mộ
Một hàng đèn sáng lạnh cõi bi hoang…”
Nguyễn Bắc Sơn làm thơ với tâm trạng u
uất của thời đại trong một cuộc chiến kéo dài suốt gần hai chục năm. Ông
có người cha là một cán bộ quân sự cao cấp của Cộng sản nên trong thời kỳ ông
đi lính VNCH cũng bị ảnh hưởng. Cơ quan An Ninh Quân Đội bắt ông thuyên chuyển
đơn vị và theo dõi. Sau đó ông đào ngũ và
bị bắt lính lại và phục vụ tại một đơn vị địa phương quân ở Phan Thiết. Sau năm
1975, người cha trở về và là một viên chức cao cấp sau về hưu và bị chết một
cách bất thường vì bị tai nạn giao thông.
Có dư luận cho là bị mưu sát…
Đời sống của ông đã tạo cho thơ ông
niềm đau xót của những người bị kẹt giữa hai giới tuyến. Thơ
của ông hào sảng có nét chân thực thô nhám của đời lính trận có những câu như:
“Mai ta đụng trận may
còn sống
Về ghé Sông Mao phá phách chơi
Chia sớt nỗi sầu cùng gái điếm
đốt tiền mua vội một ngày vui...”
Có người phê phán những bài thơ có
chất phản đối chiến tranh của Nguyễn Bắc Sơn, nhưng họ phải công nhận ý thơ và
tứ thơ mạnh mẽ của ông, một kỹ thuật làm thơ với ngôn ngữ tuy bình dị gần gũi đời
thường nhưng đầy chất sáng tạo…
Có một nhà thơ nữ cũng nổi tiếng với
một bài thơ được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành nhạc khúc “Tưởng như còn người
yêu”. Đó là nhà thơ Lê Thị Ý và bài thơ “Thương ca 1”.
Trả lời một câu phỏng vấn của Đinh
Quang Anh Thái, tác gỉả Lê Thị Ý phát biểu:
“Lúc đó là năm 1970, tôi sống tại
Pleiku. Thành phố nhỏ bé này vào giai đoạn chiến tranh khốc liệt chỉ thấy lính,
vợ lính, xe tăng, xe jeep; hầu như không thấy gì khác nữa. Nhà tôi ở
gần nhà xác của quân đội. Tôi chứng kiến cảnh biết bao các bà đi nhận xác chồng. Tôi thấy đàn bà con nít đến lật cái poncho quấn xác
để nhìn rõ mặt người thân, cảnh đó khiến tôi đau đớn không chịu nổi. Rõ ràng
nỗi đau của những người có chồng chết trận là nỗi đau của chính mình. Thành
thật tôi vô cùng xúc động và chính tôi sống bằng hình ảnh những người vợ lính,
vợ sĩ quan khóc bên xác chồng. Nỗi buồn
đau đó là nỗi đau của mình.”
Khi trả lời câu hỏi khi thơ phổ thành
ca khúc thì có người chê là phản chiến, nhà thơ Lê Thị Ý nói :
”Khi tôi làm bài thơ tôi xúc cảm
thế nào thì tôi viết ra như thế. Thế thôi. Tôi không
nghĩ gì khác cả. Bài thơ được phổ biến cũng là một sự ngẫu nhiên. Một người bạn của anh Vương Đức Lệ tôi đến nhà chơi
thấy bài thơ bèn đưa cho cụ Nguyện Đức Quỳnh người trụ trì sinh hoạt Đàm Trường
Viễn Kiến ở nhà cụ ỏ Sài Gòn quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức, nhà văn,
nhà báo - Cụ Quỳnh đọc thấy hay bèn đưa cho ông Phạm Duy phổ nhạc. Cho nên bài
thơ của tôi được mọi người thưởng thức hoặc cho là phản chiến thì cũng là việc
tình cờ thôi chứ tôi không chú ý trước việc phổ biến bài thơ...”
Bài thơ rất cảm động, nguyên văn là:
“Ngày mai đi nhận xác chồng
say đi để thấy mình không là mình
say đi cho rõ người tình
cuồng si độ ấy hiển linh bây giờ
cao nguyên hoang lạnh ơ hờ
như môi thiếu phụ nhạt mờ dấu son
tình ta không thể vuông tròn
say đi mà tưởng như còn người yêu
phi cơ đáp xuống một chiều
khung mây bàng bạc mang nhiều xót xa
dài hơi hát khúc thương ca
thân côi khép kín trong tà áo đen
chao ơi thèm nụ hôn quen
đêm đêm hẹn sẽ chong đèn chờ nhau
chiếc quan tài phủ cờ màu
hằn lên ba vạch đỏ au phũ phàng
em không thấy được xác chàng
ai thêm lon giữa hai hàng nến chong?
Mùi hương cứ tưởng hơi chồng
Nghĩa trang mà ngỡ như phòng riêng ai”
Nếu hồi trước bản nhạc về phố núi của
Phạm Duy phổ nhạc từ thơ Vũ Hữu Định thì về sau này những người yêu thương
Pleiku cũng hay ngâm nga hoặc thích lắng nghe bản nhạc Phố Xưa của thi sĩ, nhạc
sĩ Hoàng Khai Nhan. Bản nhạc với ca từ như “Chiều mờ trên phố cao / Đưa em về
từ khi có nhau / những con đường từ khi có nhau / kết hoa ngày nào / chiều mờ
sương thung lũng sâu / quán trong phi trường đèn đêm thắp sao...” đã thành một
bài hát đáng yêu của những người lính trấn ải miền ba biên giới.
Bản nhạc thật hay và lãng mạn như trời
đất của vùng biên trấn ấy. Nhạc sĩ Hoàng Khai Nhan còn là một thi sĩ và làm khá nhiều thơ về
Pleiku.
Anh viết với cảm xúc của người lính,
lên đường làm nhiệm vụ của người tuổi trẻ thời chiến tranh. Có một bài thơ anh
làm để bắt đầu cho một cuộc lên đường, để làm người lính thú hôm nay. Thơ như chia sẻ với
đồng đội của anh những nhiệt thành vào cuộc, với thân phận giống như bầy ngựa
chiến đập móng đợi khởi sự vòng đua nhân sinh trong thời đại khói lửa mịt mù
trên quê hương.
Đó là một bài lục bát, gửi tặng những
người bạn chờ buổi lên đướng lên phố núi;
“một con ngựa đã lên đồi
hai con ngựa đứng bồi hồi ngó theo
ba con ngựa sải qua đèo
bốn con ngựa hí buồn thiu trong tàu
Năm con ngựa nối đuôi nhau
Sáu con ngựa đợi hôm sau lên đường.”
Những cuộc lên đường của những
người lính trẻ. Bắt đầu một cuộc đua của những con tuấn mã chạy vòng
trong cuộc chiến tranh. Hoàng Khai Nhan đã ví von ông và những đồng đội cùng
mặc áo lính thú khởi sự hiểu được những bất toàn của cuộc đời nhưng hùng khí
lúc nào cũng hừng hực như thuở đợi lúc lên đường.
Bây giờ là mùa thu nhưng
nghe bản nhạc Anh Cho Em Mùa xuân của nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ từ thơ Kim Tuấn
thì thấy trời đất vẫn dễ thương vô cùng. Thi sĩ Kim Tuấn cũng
là người làm thơ về Pleiku độc đáo và trước năm 1975 đã có một thời cư ngụ lâu
dài ở Pleiku. Với Pleiku, anh là một người cố cựu và đã sống đã
thở với phố núi này với tâm tình của một người chọn lựa một quê hương thứ hai.
Với riêng tôi thì thơ của ông có nhiều nét rất gần gũi với
cuộc sống mình cũng đã một thời ở đó.
Chúng ta hãy thử đọc bài thơ “Buổi
chiều ở Pleiku“:
“Buổi chiều ở Pleiku có cà phê và
có bạn hiền
Có biển hồ nước trong, có lúc buồn soi
mặt
Ôi mặt mình sao bỗng gớm ghê
Ôi đời mình sao nhìn muốn khóc
Ta với ta xa lạ vô cùng
Buổi chiếu ở Pleiku có gì lạ đâu hở em
Có nỗi cô đơn trong cõi sương mù
Có phố buồn hiu có đêm giấu mặt
Có giấc sầu dài trong cõi thiên thu
Có bức tường vôi ghi dấu đạn thù
Có cuộc đời ta chìm trong khói lửa
Kiếp người sao đã lãng du
Buổi chiều ở Pleiku
Buổi chiều như mọi buổi chiều
Tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng
Anh còn tiếng nào để nói yêu em.”
Những buổi chiều ở Pleiku, với “tiếng phi cơ, tiếng xe và tiếng súng”, đúng là tình
cảnh chúng tôi nhưng khác với thi sĩ là chúng tôi vẫn còn nhiều lời yêu em chứ
không phải ”anh còn tiếng nào để nói yêu em”.
Kim Tuấn làm thơ về Pleiku với nhiều
nỗi niềm trăn trở quá. Nhưng thơ của “Nụ hoa Vàng Cho Em” phổ nhạc
thành “Anh cho em mùa xuân“ hay “Kỷ Niệm” phổ thành “Những bước chân âm thầm”
lại có nhiều yêu đương tình tự và lãng mạn của những người cảm thông được với
thiên nhiên với thời tiết những vẻ đẹp của đất trời.
Thơ của ông cũng có nhiều bài rất lãng
mạn thơ mộng chứ không phải chỉ có trăn trở
suy tư. Có khi là thơ của tuổi học trò, của tuổi mười bảy mười tám mộng mơ...
Như bài “Ngày Em Còn Thắt Bím” chẳng
hạn:
“tóc bím nghĩa là tóc dễ thương
tóc bâng khuâng lá rụng bên đường
tóc chia đường gió chia thương nhớ
chia nỗi buồn cho ai vấn vương
Tóc bím nghĩa là tóc mộng mơ
Để ai thương nhớ để ai chờ
Để ai ngơ ngẩn giờ tan học
Em vẫn vô tình vẫn giả lơ
Tóc bím nghĩa là tóc ngẩn ngơ
Tình ta xanh biếc mộng ơ hờ
Chiều xanh áo trắng mùa mây trắng
Em ngọt ngào và em ngây thơ.”
Có rất nhiều thi sĩ viết về Pleiku với
tâm trạng của những người tham dự một cuộc chiến tranh mà ở đó sự sống chết
nhục vinh gần cận nhau đến gần như không biên giới. Những người lính
trước khi hành quân còn vui tươi chọc ghẹo nhau nhưng biết đâu chỉ trong giây
phút đã thành những người đã rời xa cuộc sống. Hay,
thành phố Pleiku này đầy kỷ niệm dễ thương cũng có lúc trở thành địa ngục mà ở
đó những người dân và những người lính cuống cuồng trong vòng lửa hun của tàn
phá chiến tranh của những ngày tháng ba chẳng thể nào quên của cuộc di tản đẫm
máu về phía duyên hải qua con đường số 7 la liệt xác người…
Chiến tranh lại rõ nét hơn với nhà thơ
Nguyễn Xuân Thiệp. Bài “Pleiku, tháng ba 1975”. Ba mươi năm trôi
qua, nhưng ngày tháng đó vẫn còn sinh động. Thơ, không ghi chép
lại nhật ký ngày tháng mà sao đầy dấu viết của một quãng đời. Ngày ấy, lửa cháy
đỏ. Ngày
ấy, là ngày thành phố cao nguyên quặn mình rồi gục ngã.
Người thi sĩ kể chuyện một mình. Đâu cần ai hiểu, chỉ
để nỗi niềm loang vào sương đêm thành nỗi nhớ mịt mùng.
“cầm bút viết, tháng ba rực cháy
hàng dầu cao trong bình minh
cơn sốt của trái chín và cánh đồng
trận gió hung trưa ngày ấy
cầm bút viết, đồi hoa quỳ vàng
tháng ba xuống khu rừng. Bóng quạ
rung những
nhánh cây màu tàn lửa
tiếng thét hư không. Chiều rượt qua
ngàn…”
Tháng 3 năm 1975, có phải là thời điểm
mà cao nguyên di tản và là một nỗi kinh hoàng còn ám ảnh mãi đến bây giờ. Nhà thơ hình như đã
mang cả tâm tình của một người yêu Peiku vào thơ qua những hình ảnh thật là đặc
biệt.
Những hình ảnh đan vào nhau với những
liên tưởng tiếp nối. Ảnh tượng có khi như không liên quan nhau, chỉ là những nét phác sơ
lược nhưng lại làm nổi bật được một không gian đầy biến động. Đồi hoa quỳ vàng,
khu rừng, bóng quạ, nhánh cây màu tàn lửa, tất cả như chìm đắm trong nỗi bàng
hoàng của thế thời. Cơn bão lửa dậy lên từ hoang vu:
“tháng ba, chân trời chớp tía
Những chuyến xe lên đường, cơn mưa chợt
đến
Rào qua mái nhà, bàng hoàng. Mưa ngưng bặt
Đêm. Những căn nhà gỗ sáng đèn.
Tháng ba. Trên
đồi vông nở
Tôi trở về thị trấn tháng ba
Những sợi dây trời cắt đau trí nhớ
Cườm tay em nhỏ máu hè xưa…”
Thơ như của lời chia biệt, như người
đánh mất tất cả. Pleiku cũng như cả nước phải khoác khăn tang. Nhà
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp như đã viết lời trăn trối
của một thành phố miền cao đầy lãng mạn dễ thương. Xa rồi những ngày
thơ mộng. Gần lắm rồi những nỗi kinh hoàng. Cái
linh cảm của một cuộc địa chấn là cái linh cảm chung của
những người như những con chuột đang cuống cuồng trong rọ. Thị trấn sẽ thành
biển lửa, nay mai. Sẽ đầy những cuộc chia ly đầy nước mát. Thảm họa xụp xuống,
như cơn hồng thủy đến.
chiều nay. Chớp bể mưa nguồn
chia tay nhau. Sương phụ
người đi râu bám bụi đường
tháng ba. Em. Những căn nhà gỗ
ánh đèn khuya. Vệt máu hè xưa
đừng tiếc chiếc khăn tay ngày
ấy
sẽ bay trong lửa hoàng hôn
tháng ba. Cơn giông rền mặt đất.”
Đọc xong hai bài thơ, tôi như ngươì
hụt hơi. Đời sống, như một hơi khói nhẹ, loãng bay vào hư
không. Tự nhiên, thấy lòng mình chùng xuống những kỷ niệm. Những bài thơ. Thuở đã xa. Ngày còn trẻ. Và hoa quì vàng, cái
màu vàng loang sắc nắng của buổi nào, bây giờ có còn vương trên núi đồi không? Cái
sắc màu hỏa hoàng trong những buổi chiều nhạt nắng ấy sao nhức nhối ký ức...
Lại chiến tranh, và lại chiến tranh. Nhiều tác giả viết
về Pleiku khói lửa với tâm cảm của người trong cuộc, của những người đã đổ mồ hôi
và đổ máu cho đất tây nguyên.Có
một nhà thơ đã viết những câu thơ để đời như:
“Chư Pao ai oán hờn trong gió
Mỗi một khăn tang một tấc đường”.
Chư pao là một đỉnh núi khống chế con
đường tiếp vận quốc lộ 14 từ Pleiku đi Kontum và chính nơi đây cả ngàn tử sĩ
của hai bên đã nằm xuống trong những trận chiến ác liệt thời mùa hè đỏ lửa. Người thi sĩ ấy là
Lâm Hảo Dũng, một pháo thủ đã có một thời gian chiến đấu ở Tây nguyên. Ông
làm thơ về tuổi thanh xuân chiến tranh của mình với những địa danh mà ông không
thể nào quên trong trí nhớ...
Trong những tập thơ của Lâm Hảo Dũng
có nhiều bài thơ ông đã viết về vùng tây nguyên như ”Ngày về Ban Het”, ”Miền Ba
Biên giới”, ”Ba năm làm lính về Dakto”...Có
một bài thơ mà tôi thích là bài “Chiều Hàm Rồng”. Hàm Rồng là một ngọn
búi mà bất cứ ai đã sống ở Pleiku đều biết vì cái hình dạng độc đáo gợi cảm nhớ
đến hình dạng của người thiếu nữ. Nhất là các chàng phi công, khi bay từ phía Ban mê
Thuật về Pleiku mà nhìn thấy núi Hàm Rồng thì biết là đã gần đến phi trường Cù
Hanh rồi.Cái hình dạng giống cái mu rùa ấy
sao gợi hình lạ.
Lại những buổi chiều. Hình như cái thời
khắc của cuối ngày ấy thường gợi trong lòng những người lính xa nhà những cảm
giác bâng khuâng khó quên. Bài thơ ấy chỉ có 3 đoạn mười hai câu:
”con đường ấy vẫn hoen mầu bụi đỏ
Anh sống thở trong tâm hồn trai trẻ
Nghe nỗi buồn đâu đó đến bâng khuâng
Hoa cúc dại thắm trên đường xa tắp
Và quê hương tha thướt lá xanh trà
Em có thả những chòm mây nhung nhớ
Cho rừng hoang im lắng tiếng chim ca
Đời viễn khách mơ hồ không biết được
Bước chân vang rộn rã buổi quay về
Em mắt biếc hồn nhiên bên cánh cửa
Gửi hương nồng quay quắt bóng người
đi.”
Thơ Lâm Hảo Dũng đầy cảm khái. Nhưng
hình như ở bên trong người lính vẫn còn hình bóng của cậu học trò mắt biếc với
môi tươi...
Thơ ông lãng mạn nhưng vẫn lạc quan:
”nên ta cố sống dù câm điếc
Dù có xuôi tay mắt có mù
Để thấy em ngày vui áo biếc
Để ta buồn suốt một đời thu
Lắm khi gái thượng mà duyên dáng
Đi tắm hò reo đêm sáng trăng
Ta muốn buông mình con thú dữ
Bắt đầu trong suốt kiếp cô đơn
Có không ngày của thanh bình đến
Ta nhớ vườn xưa nhớ mẹ già
Còn hái mồng tơi ngoài dậu cũ
Lệ buồn năm tháng có phôi pha?”
Các nhà thơ Không quân ở Pleiku cũng
có nhiều bài thơ độc đáo. Nói về thơ từ Pleiku mà không có những bài thơ này
là một điều thiếu sót lớn theo cảm nhận của nhiều người. Nếu gọi tên những thi sĩ
KQ thì không thể nhắc đến những tên tuổi như Lê Bá Định, như Hoàng Khai Nhan,
như Lê Văn Trước, Võ Ý.
Ông Võ Ý là một phi công, phi đoàn
trưởng phi đoàn quan sát 118 Bắc Đẩu. Ông cũng là người đã tình nguyện lên phố núi ”nhận nơi này làm quê hương dẫu cho khó thương” và
làm thơ với cả tấm lòng của mình, một người bay ở trên cao để thấy thiên nhiên
tươi đẹp biết bao, để thấy cuộc sống vẫn còn nét mơ mộng hào hoa và với ông
những nơi chốn những địa danh của phố núi như ngập tràn nỗi nhớ...
Thơ của những người lướt gió đè mây có
lúc lãng mạn hào hùng nhưng cũng có lúc thiết tha nhẹ nhàng của những tháng
ngày đầy kỷ niệm như bài thơ "Xưa Trên Đó”
“Xưa trên đó sương nhòa hơi thở
đượm
dốc cũng vừa ta bước xuống cô đơn
mê cho lắm cho tay dài với mộng
mặt trời lên chiếu rạng tới ưu phiền
mưa thì sình bụi mù thay nắng gió
gặp là vui cam khổ cũng cam đành
vui cho quên đâu bằng xưa trên đó
áo bay bay mờ ảo dấu Phượng Hoàng
quên được thì quên nhớ ai thì nhớ
quên cho rồi quyên gọi quốc từ đây
nhớ đâu đâu lạ lùng trăng đêm đó
tượng đá thần linh sao ta tỉnh say.
Một dạo bay qua nhìn qua trên đó
Đồi như vương cây như vấn chân nàng
Phố cũng xưa và tim thì
đau nhói
Quạt nồng đâu qua đó để cơ hàn...”
Với tôi thì một phần đời sống của mình
ở đó mà không làm thơ cho được. Ngày lên Pleiku, có
một bài thơ tôi đã làm như tiên đoán được cái không gian của biên tái, của
những câu thơ như Lương Châu Từ của Vương Hạn thời Thịnh Đường xa xưa. Pleiku có khác nào
Lương Châu, cũng là quan ải để trấn giữ biên cương. Ngày xưa thì ngăn
giặc Hồ, giặc Mông. Ngày nay, thì canh chừng ba biên giới, với những
trận đánh ác liệt mùa khô hàng năm tiếp diễn... Bài thơ ấy, làm vào một đêm
trước khi sáng mai lên trực thăng vào phố núi:
“Ừ mai tao lên Pleiku
đêm căm hơi đá ngày mù núi xanh
uống say quên mộng quẩn quanh
về nơi gió cát cũng đành cuộc chơi
Ừ mai cánh vỗ ngang trời
ngóng thiên thu một cõi đời tịnh yên
máu xương mãi chuyện ưu phiền
còn đâu tiếng gọi cho em miệt mài
Ừ mai súng khoác lên vai
Ngẩn ngơ phố núi những ngày đao binh
Chắc đâu rượu uống một mình
Trong thân phiêu bạc nhục vinh nửa vời
Ừ mai thương bóng trăng trôi
Chim quên vẫy mỏi cuối trời chiến
tranh
Uống đi mai hát quân hành
Nghe trong hơi bốc long lanh mắt
người...”
Tuổi trẻ, ngây thơ và bốc đồng. Tưởng rằng, mình như
một hiệp sĩ thời xưa đi vào nơi gió cát. Thơ cũng nghênh
ngang kiểu “túy ngọa sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tuổi trẻ, ơi những
giấc mơ của ngày chân không chấm đất cật chẳng đến giời. Có
phải là giấc mơ chung của những người lính trẻ chúng tôi…
Nguyễn Mạnh Trinh
eva air
đặt vé máy bay đi mỹ ở đâu
korean air
cách mua vé máy bay đi mỹ
giá vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Du Lich Tu Tuc
Kien Thuc Du Lich