Hình ảnh người nông dân trong ca dao Việt Nam
Làng quê Việt Nam ở đâu cũng vậy,
ẩn chứa trong nó bao điều gần gũi và thân thương. Mỗi một miền quê đều có những
câu hò, điệu hát rất chung mà lại rất riêng, mang âm hưởng của từng vùng, miền.
Tất cả cùng hòa vào câu thơ, giọng hát của những làn điệu, tạo thành dòng ca
dao dân ca Việt Nam rất đa dạng và phong phú. Ca dao là tiếng nói trung thực
miêu tả sự việc xảy ra trong cuộc sống và trở thành những câu hò, điệu hát của
nhân gian như những bản tình ca bất diệt, đượm màu thế tục, tình yêu, tình đời
với một ẩn dụ tự nhiên làm cho người ca ngâm cũng như người nghe có một cảm nhận
gần gũi, thân thiết.
Ca dao là khúc hát tâm tình của người dân quê Việt Nam lưu truyền
qua năm tháng thời gian, lan tỏa theo hương lúa đồng nội quê hương. Ngọt ngào
biết bao những vần thơ dân dã ấy đã thấm sâu vào tâm hồn thơ bé mỗi chúng ta
qua những điệu ru của mẹ, tiếng hát của bà. Chúng ta yêu vô cùng những bài ca
dao nói về công việc nhà nông “hai sương một nắng”, ca ngợi đức tính cần cù,
lòng kiên nhẫn của người dân cày quê ta.
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi, bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Hai câu đầu miêu tả cảnh cày đồng. Câu ca dao gợi lên trước mắt
chúng ta hình ảnh người nông dân đang lội bùn, tay cầm cày, theo sau con trâu,
dưới ánh nắng “ban trưa” chang chang mùa hạ. Người và con trâu phải làm việc vô
cùng vất vả. Mồ hôi luôn ra như mưa. Từ tượng thanh “thánh thót” gợi tả mồ hôi
rơi xuống từng giọt… từng giọt liên tiếp, gieo vào không gian âm thanh “thánh
thót”. “Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày” là hình ảnh so sánh thậm xưng gợi
tả công việc cày đồng vất vả, cực nhọc không thể nói hết. “Mưa” làm cho lúa
xanh tươi, cũng như “mồ hôi” đổ xuống luống cày làm cho đất đai thêm màu mỡ.
Nghệ thuật so sánh “mồ hôi” với “mưa” thật là sáng tạo, làm cho người đọc,
người nghe thấm thía, cảm thông với bao cực nhọc của nhà nông. Thật vậy, bà con
dân cày đã đổ biết bao mồ hôi, công sức vào luống cày, sá bừa, ngày này qua
ngày khác, tháng này qua tháng khác, để làm ra bông lúa, củ khoai nuôi sống xã
hội. Bài ca dao đã vẽ lên một hình ảnh tuyệt đẹp về người nông dân trên cánh
đồng quê hương. Đó là một con người khoẻ mạnh, dẻo dai, cần mẫn và chịu khó.
Hai tiếng cảm thán “ai ơi!” vang lên một cách tha thiết, đã tạo nên âm điệu êm
ái, ngọt ngào. Nhà thơ dân gian nhắn gửi mọi người gần xa một ý nghĩ với bao
tình cảm đẹp. Mỗi khi “bưng” bát cơm đầy chúng ta ghi nhớ công ơn khó nhọc của
người nông dân đã cuốc bẫm cày sâu, sản xuất ra lúa gạo cho nhân dân no ấm. Bài
ca dao đã nâng nhận thức và cảm xúc cho mọi người về giá trị của bông lúa, hạt
gạo, bát cơm dẻo thơm mà ta được hưởng thụ hàng ngày thật đáng quý vô ngần. Cho
nên, nhân dân ta mới gọi hạt gạo là “hạt vàng”, “hạt ngọc” với tất cả lòng tự
hào, trân trọng.
Người nông dân Việt Nam từ xưa đã đi vào thơ ca như những hình
tượng đẹp nhất: “Nông dân sống lặng thầm như đất; Có thể hoang
vu, có thể mùa màng; Xin chớ mất, chớ niềm tin sai lạc; Chín
phần mười đất nước - nông dân”. Người nông dân vẫn ngày đêm lặng thầm lao
động làm ra “hạt ngọc” dâng cho đời, nhưng họ vẫn chịu nhiều thiệt thòi trong
xã hội.
Nước ta là một nước nông nghiệp, trên 80% dân số sống bằng nghề
nông. Người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác, hiền lành, dũng cảm và giàu
lòng yêu nước. Nhà nông quê ta tượng trưng cho sức sống bền vững của dân tộc
qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Với đức tính cần mẫn, dẻo dai và sáng tạo, nhà nông đã làm nên những mùa vàng bát ngát, đem đến sự ấm no cho xã hội. Mọi gia đình có bát cơm dẻo thơm, đất nước có nhiều lương thực xuất khẩu là nhờ vào công sức nhà nông. Thời điểm chiến tranh, hạt gạo mang nặng tình hậu phương, ai mà quên được: “Hạt gạo làng ta - Gửi ra tiền tuyến - Gửi về phương xa - Em vui em hát - Hạt vàng làng ta” (Trần Đăng Khoa). Yêu kính và biết ơn nhà nông, mỗi một chúng ta khắc vào tâm hồn lời nhắn gọi thiết tha đã mấy ngàn năm vang lên sau luỹ tre xanh:
“Ai ơi, bưng bát cơm đầy
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng!”.
Với đức tính cần mẫn, dẻo dai và sáng tạo, nhà nông đã làm nên những mùa vàng bát ngát, đem đến sự ấm no cho xã hội. Mọi gia đình có bát cơm dẻo thơm, đất nước có nhiều lương thực xuất khẩu là nhờ vào công sức nhà nông. Thời điểm chiến tranh, hạt gạo mang nặng tình hậu phương, ai mà quên được: “Hạt gạo làng ta - Gửi ra tiền tuyến - Gửi về phương xa - Em vui em hát - Hạt vàng làng ta” (Trần Đăng Khoa). Yêu kính và biết ơn nhà nông, mỗi một chúng ta khắc vào tâm hồn lời nhắn gọi thiết tha đã mấy ngàn năm vang lên sau luỹ tre xanh:
“Ai ơi, bưng bát cơm đầy
Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng!”.
Quê hương là cánh đồng lúa thơm ngát, luỹ tre xanh trải dài dọc bờ
đê, là những hình ảnh thân thương nhất đối với cuộc sống mỗi con người. Hai
tiếng quê hương nghe gần gũi và thân thương, đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi
đã nuôi dưỡng ta trưởng thành. Qua ca dao dân ca những hình ảnh của miền quê
như trở nên gần gũi hơn, lung linh hơn nhờ những ca từ đầy hình ảnh. Khi nói
đến dân ca, chúng ta không thể quên những lời ru con thiết tha trìu mến, qua
tiếng ầu ơ mẹ ru con, những hình ảnh của miền quê yêu dấu của biển rộng non
cao, của gió Lào cát cháy, những người mẹ năm tháng tảo tần một nắng hai sương
nuôi dậy con khôn lớn. Những lời hát ru của mẹ đã hòa đồng với tâm hồn trẻ thơ,
vừa đằm thắm nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần trầm tư sâu lắng. Trong câu
hát của mẹ có ánh trăng soi rọi như đưa con vào giấc ngủ êm đềm, có áng mây
trôi bồng bềnh trên đỉnh núi, có dòng sông bên lở bên bồi, có mặt biển long
lanh ánh bạc và những con thuyền thấp thoáng ngoài khơi xa. Nghe lời ru của mẹ,
trẻ thơ như được tiếp thêm nguồn dự trữ lớn lao về lòng yêu quê hương, đất
nước, chắp cánh cho tuổi thơ của con thêm vững bước và sáng ngời niềm tin.
“À…ơi…con cò…bay lả bay la…bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng…”
Đã từ rất lâu, “cánh cò” theo lời mẹ hát đã đi vào trong tiềm thức
mỗi người dân quê Việt Nam. Đến khi ta lớn lên, “cánh cò” lại theo ta trên
những cánh đồng, trên những đồi cây, “cánh cò” trải dài khắp mảnh đất quê
hương, làm bạn với nhà nông trên những cánh đồng bao la bình dị. Và, không biết
tự bao giờ, “cánh cò” ấy đã len lén đi vào những bài ca dao của nhân dân ta,
làm nên những cung đàn muôn điệu cho khúc tâm tình của những người quê nghèo
chân chất. “Con cò” - hình ảnh luôn nổi bật trong phần lớn các bài ca dao than
thân chính là đại diện tiêu biểu cho số phận vất vả của nhân dân lao động. Than
rằng:
“Con
cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
- Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Chớ xáo nước đục, đau lòng cò con.”
Não nề và buồn thảm, bài ca dao như nói lên được tất cả những tâm
tư tình cảm của những người nông dân nghèo làm lụng vất cả, đồng thời ca ngợi
đức tính quý báu của những con người nghèo khó quanh năm chân lấm tay bùn: phải
luôn giữ cho tâm hồn mình trong sạch. Xưa nay, con cò chưa bao giờ đi ăn đêm.
Nhưng vì hoàn cảnh sống thiếu thốn, cò kiếm ăn ban ngày không đủ, đêm đến phải
kiếm thêm mới có thể nuôi sống đàn con của mình. Chữ “mà” ở đây được dùng rất
khéo! Nó như một điểm nhấn của câu ca dao, làm nổi bật sự mâu thuẫn, nghịch lý,
gợi lên cho ta cảm giác xót xa cho số phận của con cò. Rõ ràng ta thấy, có cùng
đường lắm, “con cò” mới phải “đi ăn đêm”. Hình ảnh “con cò” cần cù bắt từng cái
tôm, cái tép, nhặt từng hạt thóc vụn chính là hiện thân của những người nông
dân nghèo khó, phải làm lụng vất vả, chắt chiu từng li từng tý nhưng cũng không
đủ sống đành phải vay đầu này, mượn đầu kia, cày thuê cuốc mướn để mong sao
sống được qua ngày. Nông dân nghèo, suốt ngày chỉ biết “bán mặt cho đất, bán
lưng cho trời” ấy thể mà chỉ cần một cơn lũ, một đợt sâu bệnh là coi như mất
trắng.
Cần cù, chịu thương chịu khó như thế những tưởng sẽ kiếm được
nhiều thức ăn cho đàn con nhỏ, nhưng ngờ đâu, số phận đã đẩy đưa “con cò” vào
hoàn cảnh hoạn nạn. Rủi ro đã xảy ra: vì trời quá tối còn cò lại sức tàn lực
kiệt, nên đã “đậu phải cành mềm” để rồi “lộn cổ xuống ao”. “Cành mềm”, là
nguyên nhân bất ngờ dẫn đến tai hoạ đe doạ mạng sống của “con cò”. Đó phải
chăng là ẩn dụ cho những áp bức, bất công trong xã hội đã đè năng lên vai của
những con người cần cù lao động? Động từ “lộn” như một lời khẳng định “con cò”
chắc chắn sẽ không thể nào thoát khỏi cái tai nạn này. Đời cò lênh đênh giống
như thân phận của người nông dân nghèo cứ trôi nổi bấp bênh, và giờ đây, lại
gặp thêm thăng trầm, biến cố của cuộc sống. ta đã từng nghe:
“Nước non lận đận một mình
Thân cò lênh thác
xuống ghềnh bấy nay…”
Để rồi:
“Ai làm cho bể kia đầy
Cho ao
kia cạn cho gầy cò con”
Cuộc đời cò nắng mưa dãi dầu cũng giống như cuộc đời của nông dân
nghèo khi đói khi no. Họ không những chỉ làm để nuôi sống bản thân mà con mang
thêm cả gánh nặng gia đình. Họ chính là nạn nhân của sự nghèo đói, số phận của
họ như đã được trời đất an bày là phải sống cuộc đời gian nan, vất vả. Chính
bài ca dao này đã gieo vào trong ta một sự đồng cảm, một sự cảm thông đến lạ
kì...
Biết được không thể nào thoát nạn, cò không vùng vẫy, quẫy đạp mà
chỉ còn biết cất lên lời cầu cứu thảm thương:
“- Ông ơi, ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào, ông hãy xáo
măng.”
Nếu như hai câu đầu, ta thấy được một nghịch lý thực tế, thì khi
đọc hai câu tiếp theo, ta lại nhận thấy có sự tương phản trong cách nói giữa
“ông vớt tôi nao” và “ông hãy xáo măng”. Lời cầu cứu van xin ấy nghe chua xót
làm sao! Biết chắc sẽ không thể nào sống sót được nhưng con cò vẫn rực lên nghị
lực sống mạnh mẽ. Bởi chuyện “đi ăn đêm” cũng chỉ là do hoàn cảnh sống quá khắc
nghiệt gây nên. Một nồi măng nấu với cò là kết cục thê thảm của kẻ sa cơ thất
thế. “Con cò” chính là người dân cày làm lụng cực khổ kiếm được không bao nhiêu
ấy thế mà lại bị bọn cường hào hà sức bóc lột, vơ vét, họ phải đưa lưng ra để
nộp sưu, nộp thuế mà không cách nào phản kháng. Họ như bị đẩy đưa vào bước
đường cùng của cuộc đời nhưng vì khát vọng sống quá cháy bỏng, và vì quá yêu
con, thương con nên “cò” mới “đi ăn đêm”. Sự đau xót đó đã tìm được sự đồng cảm
khi Chế Lan Viên đã viết:
“Cò một mình, cò phải kiếm lấy
ăn,
Con có mẹ, con chơi
rồi lại ngủ”
Đời “cò đói” cũng như đời người nông dân nghèo dường như đã gắn
chặt với những nỗi khó khăn, gian khổ. Ấy thế mà ước muốn cuối cùng trước khi
chết của “con cò” thật là cao đẹp:
“Có xáo
thì xáo nước trong,
Chớ xáo nước đục,
đau lòng cò con.”
Một lần nữa, hình ảnh ẩn dụ - sự tương phản giữa “trong” và “đục”
lại làm cho ta có cảm giác xót xa, cay đắng cho thân phận “cò”. Dù có thế nào
đi chăng nữa, “cò” vẫn luôn muốn giữ cho mình hình ảnh đẹp đẽ, trong sáng, muốn
mình có bị “xáo măng” cũng phải được “xáo” trong dòng “nước trong” tinh khiết.
Ý nghĩa ấy như đã khẳng định, khắc sâu thêm cái ước muốn nhỏ nhoi sau cùng của
“cò”, rằng nó không muốn làm “đau lòng cò con”, không muốn phải để lại những
vết nhơ cho con cái nó mà chỉ muốn giữ tiếng thơm cho con cháu đời sau. Đức hy
sinh của “con cò” đã được thể hiện một cách mạnh mẽ. Cái chết trước mặt, ấy thế
mà điều nó nghĩ đầu tiên chính là nghĩ về con cái nó, về thế hệ tương lại của
nó. Nó chết vì sự nghèo đói, lòng thương con vô bờ bến của mình. Nó chết vì
con, hy sinh tất cả vì con đó là cái chết cao đẹp.
Hai cuộc kháng chiến oanh liệt của dân tộc đã đi qua, những người
dân quê nghèo đã khoác lên mình chiếc áo của anh bộ đội Cụ Hồ, làm nên những
chiến công oanh liệt. Hình ảnh “con cò” với cái đức tính cao quý ấy còn theo
mãi biết bao thế hệ Việt Nam. Họ đã anh dũng chiến đấu vì dân, vì nước, họ đã
hy sinh cả bản thân mình, “thà chết trong” trong vinh quang của đất nước còn
hơn “sống nhục” trong ách áp bức của bọn ngoại xâm. Có những bà mẹ VN anh hùng,
những ngưòi vốn đã lam lũ với cuộc đời nhưng khi đất nước cần, đã hy sinh bản
thân mình, để cho đứa con mình đứt ruột sinh ra đi theo tiếng gọi của non
sông...Họ chính là những “con cò” bất hữu của thời đại, làm nên những trang
vàng chói lọi trong lịch sử.
Cuộc sống của chúng ta ngày càng tất bật với những bươn chãi, bồn
bề, lo toan tính toán chuyện áo cơm danh lợi. Hình ảnh những “con cò” cần cù
chịu thương chịu khó vẫn hiện hữu đâu đây. Dẫu cho những “con cò” ấy không còn
phải mang trên mình số phận bi thảm như thế nữa nhưng dù xã hội có thay đổi,
con người có thay đổi, nhưng những đức tính cao đẹp ngày nào vẫn còn sống mãi
nơi tận đáy lòng. “Thân cò lặn lội” là hiện thân của những ngưòi phụ nữ đảm
đang, là mẹ, là bà, là cha, ông đêm ngày một nắng hai sương làm lụng vất vả để
nuôi con nuôi cháu:
“Con cò bay lả bay la
Bay ra cửa miếu bay ra cánh đồng
Cha mẹ sinh đẻ tay không
Cho nên bay khắp tây đông kiếm mồi
Trước là nuôi cái thân tôi
Sau nuôi đàn trẻ nuôi đời cò con”…
Và phải chăng, “cành mềm” chính là những đứa con bất hiếu, trời
đánh, phản bội lại tình cảm chân thành của những người đã vất vả sinh ra mình,
nuôi nấng mình khôn lớn...Là người học sinh, ta phải biết tránh xa những tệ nạn
xã hội, những thói hư tật xấu, phải biết thấm nhuần triết lý “đói cho sạch,
rách cho thơm”, không được làm những chuyện đồi bại, trái với lương tâm. Chúng
ta, thế hệ tương lai của đất nước, phải biết “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”, phải ra
sức học hành thật tốt, lao động thật tốt để những “con cò” ấy giảm bớt nỗi cực
khổ, để “con cò” không bao giờ phải “lộn cổ xuống ao” như thế nữa.
Tuy bận rộn vất vả trong những ngày mùa nhưng trâu cũng có ngày
thong thả đứng bên bờ ruộng ăn cỏ tươi hoặc nằm trong chuồng nhỏ nhẹ nhấm bó
rơm khô. Số phận của con trâu và người nông dân gắn bó đồng cam cộng khổ:
Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Xã hội ngày càng văn minh tiến bộ, nhưng những cánh cò dường như
đã trở thành biểu tượng bất hữu của con người Việt Nam. Giữa cái nền ngát xanh
của bầu trời, của đồng lúa của dòng sông, những cánh cò trắng lượn lờ bay bổng
nổi bật làm cho lòng ta thấy nhẹ nhàng phơi phới. Nhìn những cánh cò bay yếu
đuối, khẳng khiu nhưng có ngờ đâu lại mang trong mình một sức sống mãnh liệt,
một tầm hồn sống trong sạch, thanh cao đến như vậy. Bài ca dao “Con cò mà đi ăn
đêm” mang dáng dấp của một câu chuyện nhỏ đã vẽ nên tấm bi kịch thảm thương cho
số phận của một “con cò” cần cù, chịu khó, thương con cái vô bờ bến. Ngỡ như
một tiếng vọng về một nơi nào đó, mỗi khi có dịp nghe được bài ca dao này, ắt
hẳn phần lớn trong số chúng ta đều cảm thấy lắng đọng, thương vừa vừa cảm phục
“con cò”, bởi đó chính là cha anh, là bà, là mẹ...là tất cả những người đã hy
sinh bản thân vì thế hệ tương lai chúng ta. Và hơn bao giờ hết, bài học luân lý
“thà chết trong còn hơn sống đục” mà ta rút ra được từ bài ca dao này, chắn
chắn sẽ còn lưu mãi giá trị đến muôn đời sau.
Lương Bích Luyến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét