Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính
trong văn chương Việt Nam
đương đại
Thiên
tính nữ trong văn chương là đặc điểm, là thiên hướng tư duy nghệ thuật chi phối
cách thức tổ chức tác phẩm mang bản sắc phái nữ hoặc sự đề cao những phẩm chất
và giá trị của phụ nữ. Khuynh hướng này thể hiện một cách sâu rộng và phổ biến,
tạo thành nét đặc sắc cho văn học Việt Nam đương đại. Bài viết vận dụng kết hợp
phê bình Nữ quyền và các phương pháp nghiên cứu Văn hóa học, Thi pháp học, Tự sự
học để mô tả và phân tích nguồn gốc của Thiên tính nữ, sự thể hiện của Thiên
tính nữ và góc nhìn giới tính trong văn chương Việt Nam đương đại qua những hiện
tượng tiêu biểu, trên một số phương diện cơ bản.
Trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam
đương đại, sự xuất hiện ngày càng phong phú, đa hương sắc của một loạt cây bút
nữ đã khiến cho nền văn học mang một diện mạo mới. Tiếng nói của phụ nữ trong
văn chương không chỉ phá vỡ thế “độc tôn” của nam giới trong văn học mà thậm
chí, khiến cho cả sáng tác của nhiều nhà văn nam cũng mang đậm thiên tính nữ.
Thiên tính nữ - sự quan tâm đến số phận, tính cách, tâm hồn người phụ nữ, và
cách thức diễn tả, lý giải về thế giới từ góc nhìn giới tính được thể hiện rất
phong phú trên nhiều cấp độ đã khiến cho gương mặt văn chương trở nên vừa sắc sảo,
vừa khoan dung, nhân hậu và tinh tế. Vì lẽ đó, nhiều nhà nghiên cứu đã dùng những
cụm từ “gương mặt nữ”, “Thiên tính nữ”, “âm hưởng nữ quyền” để định tính nền
văn học. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích “Thiên tính nữ” và góc nhìn
giới tính như một hiện tượng thú vị và đặc sắc của văn chương Việt Nam đương đại.
Vài nét về Chủ nghĩa nữ quyền và sáng tác của các cây bút nữ trong văn học Việt
Nam đương đại
Chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) là một trào lưu tư tưởng - xã hội
chống lại chế độ nam quyền, đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, và văn học nữ quyền
là sự lên tiếng của các nhà văn nữ với tư cách là những chủ thể trải nghiệm và
chủ thể sáng tạo, chống lại sự kiềm toả, áp đặt của tư tưởng nam quyền về hình ảnh
người phụ nữ qua các sáng tác văn chương. Cùng với sáng tác, phê bình văn học nữ
quyền cũng ra đời gắn liền với những phong trào phụ nữ cuối thập niên 60, đầu
70 của thế kỷ XX. Lý thuyết về Chủ nghĩa nữ quyền được nêu và tổng kết trong một
số công trình quan trọng của Robert Stoller, Barbara Johnson, Dale Spender,
Mary Eagleton, Toril Moi, Julie Rivkin Michael Ryan, Judith Butler, Hélène
Cixous… Trong nghiên cứu và phê bình văn học, Annis Pratt xác định mục tiêu cơ bản của các nhà nữ quyền luận là phát hiện
tác phẩm của các tác giả nữ, phân tích đặc điểm hình thức văn bản của các tác
phẩm đó, tìm hiểu quan hệ giữa nam giới và nữ giới trong các tác phẩm đó, và
tìm hiểu sự phát triển của các yếu tố huyền thoại và tâm lý liên quan đến phụ nữ
trong văn chương. Elaine Showalter có tham vọng xây dựng được một bộ khung lý
thuyết và mỹ học riêng cho các nhà phê bình nữ để tiếp cận và giải mã tác phẩm
của các nhà văn nữ nhằm vượt thoát khỏi hệ thống lý thuyết và mỹ học do các nhà
phê bình nam giới xác lập nên… Nhìn chung, lý thuyết Nữ quyền có ảnh hưởng sâu
sắc đến hệ thống tri thức và văn hóa của thời đại, tạo nên những thay đổi đáng
kể trong cách đọc văn bản, trong phê bình và trong tiếp nhận văn học nói chung.
Sự vận dụng lý thuyết Nữ quyền trong nghiên cứu các hiện tượng văn học, các tác
giả và các nền văn học đã được thực hiện với những cấp độ khác nhau trong nền
văn học các nước và tạo ra những thành tựu quan trọng. Đặc biệt, cuốn sách của
Simonde de Beauvoir: Le deuxième sexe (đã được dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề
Giới nữ, NXB Phụ nữ ấn hành năm 1996) là một công trình có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
phê bình văn học từ lý thuyết về giới.
Trong văn học Việt Nam, việc có hay
không Chủ nghĩa nữ quyền trong sáng tác văn chương vẫn còn là vấn đề gây tranh
cãi giữa các nhà phê bình, nhưng sự thể hiện của Thiên tính nữ với những cấp độ
và sắc thái khác nhau, là điều đã được khẳng định, đồng thời tạo nên sự hấp dẫn
đối với độc giả và giới nghiên cứu *
Chú thích:
* Cuối năm 1996, nhà nghiên cứu Phương Lựu có bài viết “Suy nghĩ về đặc điểm của nữ văn sĩ” trên Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật; Bích Thu viết về “Văn xuôi của phái đẹp” trên Tạp chí Sông Hương, số 3/2001. Một loạt tuyển tập truyện ngắn của các nhà văn nữ được xuất bản vào đầu thế kỷ XXI. Sáng tác của các nhà văn nữ hải ngoại cũng được chú ý: Nhà xuất bản Phụ nữ giới thiệu 25 truyện ngắn của 21 tác giả nữ hải ngoại trong tuyển tập Khung trời bỏ lại. Năm 2012, Viện Văn học tổ chức tọa đàm Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn học Việt Nam đương đại với sự tham gia của gần 30 tham luận. Bàn về nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam đương đại trong bài Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến (2001) đã phân tích Thiên tính nữ như “sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo”, “điểm tựa tinh thần” của tác giả trong các truyện ngắn. Một loạt bài viết, luận văn, luận án cũng vận dụng lý thuyết Nữ quyền và góc nhìn về giới để soi chiếu một số hiện tượng văn học Việt Nam đương đại. Năm 2015, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức hội thảo khoa học Nữ quyền - những vấn đề lý luận và thực tiễn với nhiều tham luận về nữ tính, nữ quyền trong văn chương Việt Nam đương đại.
Thiên tính nữ, nữ tính (Femininity) trong
văn chương là đặc điểm, là nguyên tắc tư duy nghệ thuật, cách thức tổ chức tác
phẩm mang bản sắc phái nữ hoặc sự đề cao những phẩm chất và giá trị của phụ nữ.
Đặc điểm này có thể có ở cả sáng tác của những nhà văn nam, không phải đặc điểm
riêng có trong tác phẩm của các cây bút nữ. Vậy, Thiên tính nữ trong văn chương
có nguồn gốc từ đâu trong đời sống văn hoá, lịch sử dân tộc?
Ở Việt Nam, tín
ngưỡng thờ Mẫu là một trong những tín ngưỡng quan trọng và phổ biến đối với đời
sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Một tôn giáo lớn là Phật giáo khi du
nhập vào Việt Nam cũng đã có sự kết hợp với tín ngưỡng này mà biểu hiện rõ nét,
dễ thấy là sự tồn tại đồng thời cả ban thờ Phật và ban thờ Mẫu trong các ngôi
chùa. Sự tôn thờ Mẫu dưới những dạng thức khác nhau cùng với sự lưu hành, truyền
tụng những thần thoại, truyền thuyết về sức mạnh khởi nguyên, kiến tạo vũ trụ,
sản sinh nòi giống dân tộc của người phụ nữ như Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc Long
Quân - Âu Cơ…, phải chăng ít nhiều đã trở thành một thứ tiềm thức, để người Việt
luôn bảo tồn và gìn giữ cái nhìn trân trọng, thành kính đối với người phụ nữ.
Và ở thời đại hiện nay, cái nhìn ấy hơn lúc nào hết được thể hiện rộng rãi
trong đời sống, đồng thời khúc xạ vào tư duy nghệ thuật của các nghệ sĩ, một
cách mạnh mẽ, sâu sắc và vô cùng phong phú.
Trong văn học trung đại, mặc dù dưới
sức ép của Nho giáo với tư tưởng trọng nam khinh nữ, nền văn học dân tộc, cho dẫu
là hi hữu, vẫn có những tác giả nữ ghi dấu ấn một cách mạnh mẽ. Đoàn Thị Điểm,
Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan là những hiện tượng tiêu biểu. Bên cạnh đó,
sự quan tâm đến thân phận và ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ - trên cả hai
phương diện thân và tâm, cũng đã trở thành một đề tài, chủ đề quan trọng trong
sáng tác của các tác giả nam, tạo nên những thành tựu rực rỡ cho nền văn học
trung đại, đặc biệt là cuối thời trung đại. Tinh thần nhân đạo, nhân văn của Đặng
Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Trần Tế
Xương, Tản Đà… đã kiến tạo nên những hình tượng có sức sống lâu bền, dệt nên những
tác phẩm đạt đến giá trị mang tính cổ điển mà sức ảnh hưởng, sự lan tỏa còn kéo
dài đến văn học hiện đại. Đó là những tiền đề quan trọng cho sự xuất hiện ngày
càng đỡ thưa thớt hơn của người phụ nữ trong văn chương Việt Nam thế kỷ XX, ở cả
đội ngũ sáng tác lẫn thế giới nhân vật.
Sau khi chế độ phong kiến với hệ tư tưởng
Nho giáo đề cao nam quyền chính thức kết thúc vào năm 1945, đất nước Việt Nam lại
trải qua 30 năm với điều kiện đặc biệt của chiến tranh - một điều kiện xã hội
mà nam giới chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Phải đợi đến thời kỳ đương đại
từ sau năm 1975, và đặc biệt là từ thời kỳ Đổi mới (1986 đến nay), người phụ nữ
mới thực sự được giải phóng về mọi mặt và có điều kiện tham dự vào hầu hết các
phương diện của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật, sự xuất
hiện với số lượng lớn và ngày càng thành công của các cây bút nữ là một hiện tượng
đặc sắc về đội ngũ sáng tác giai đoạn này. Hội Nhà văn Việt Nam - tổ chức chính
thống lớn nhất của những người làm văn chương, có hơn 200 hội viên nữ hoạt động
trong các lĩnh vực văn xuôi, thơ và nghiên cứu, phê bình. Nhiều thế hệ nhà văn
nữ đã ghi dấu tên tuổi của mình với sáng tác ở tất cả các thể loại: từ những
nhà văn trưởng thành trong chiến tranh như Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Hồng Ngát,
Nguyễn Thị Ngọc Tú, qua những nhà văn xuất hiện ngay sau cuộc chiến như Phạm Thị
Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, qua những nhà văn của
thời kỳ Đổi mới như Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Dạ Ngân, Võ
Thị Xuân Hà, đến một loạt nhà văn trẻ thế hệ 7X, 8X như Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy, Võ Diệu Thanh, Nguyễn Thị Châu
Giang, Phong Điệp, Trang Hạ, DiLi, và cả nhiều cây bút trẻ mới vào nghề.
Trước
sự góp mặt ngày càng đông đảo và mạnh mẽ của các cây bút nữ đối với quá trình vận
động và phát triển của văn học nước nhà, năm 2015, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã
cho ra mắt bộ sách Phái đẹp, Cuộc đời và Cây bút, tập hợp sáng tác của gần 100 nữ sĩ trong các lĩnh vực thơ, văn xuôi và lý luận phê bình văn học.
Không chỉ ở trong nước, có
những cây bút nữ người Việt đang định cư ở nước ngoài cũng thường xuyên xuất bản
tác phẩm tại Việt Nam mà trường hợp điển hình là Thuận và Đỗ Hoàng Diệu… Sự đa
dạng về bút pháp, phong cách của đội ngũ các nhà văn nữ đã làm nên một vườn hoa
nhiều hương sắc cho văn học Việt Nam đương đại. Tất nhiên, nói đến thành tựu
văn học giai đoạn này, cũng không thể không nhắc tới tên tuổi của rất nhiều nhà
văn nam xuất sắc như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Tạ
Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt Hà…, tuy nhiên, số lượng và chất lượng
của các nhà văn nữ, như chúng tôi vừa mô tả, đã đem lại cho đội ngũ sáng tác một
nét nữ tính rất đặc biệt, nét riêng của thời đương đại. Nhưng đó mới chỉ là sự
phác thảo trên bề mặt, Thiên tính nữ của văn chương Việt Nam đương đại được thể
hiện rõ nét trên các phương diện khác nhau của thế giới nghệ thuật. Thiên tính
nữ và một số phương diện của chủ nghĩa nữ quyền trong văn chương Việt Nam đương
đại
Từ sự mở rộng phạm vi phản ánh về thế giới phụ nữ…
Mặc dù số phận, cuộc sống
của người phụ nữ là một đề tài vô cùng quen thuộc trong văn học Việt Nam, thậm
chí đã từng đem lại thành tựu lớn cho nhiều tác phẩm văn học thời trung đại,
cũng như văn học hiện đại trước năm 1975, nhưng chưa bao giờ, nó được quan tâm
thể hiện một cách phong phú như trong văn chương đương đại. Không chỉ là sự đồng
cảm, xót thương của các nhà văn với những kiếp người bé nhỏ, tội nghiệp trong
xã hội, văn chương đương đại đã phản ánh cuộc sống của người phụ nữ trong tính
toàn vẹn, chân thực, đa dạng sắc thái thẩm mỹ bao gồm cả cái đẹp và cái xấu, hạnh
phúc và khổ đau; và tâm hồn họ cũng phức tạp với cả mặt cao thượng và thấp hèn,
cả sự tự tin, chủ động, mạnh mẽ lẫn yếu đuối, trì trệ, lệ thuộc, và đặc biệt là
tinh thần phản tư - tự đối diện và đấu tranh với chính mình. Có những người phụ
nữ là nạn nhân của hoàn cảnh, của chiến tranh với một số phận bi kịch như Thùy Châu trong Vũ điệu địa ngục của Võ Thị Hảo, các nhân vật nữ trong Nhiệt đới gió
mùa của Lê Minh Khuê. Trước sự khắc nghiệt của hoàn cảnh, với những phẩm chất
truyền thống như nhẫn nại, hy sinh, chung thuỷ, có những nhân vật đã trở thành
trung tâm của thế giới, trở thành biểu tượng cho cái Đẹp, cái Thiện cuối cùng
còn sót lại của thế gian, là điểm tựa để con người còn giữ được niềm tin, sự lạc
quan trước sự tha hóa khôn lường của tính cách như ở Trăng nơi đáy giếng của Trần
Thùy Mai.
Bên cạnh đó, nhiều tác giả nữ đã sáng tạo nên những nhân vật phụ nữ
vượt lên trên ràng buộc của hoàn cảnh, tự tạo ra những bước ngoặt để đưa cuộc đời
mình chủ động rẽ sang một hướng khác như Thảo trong Người sót lại của rừng cười
của Võ Thị Hảo, người vợ trong Tân cảng của Nguyễn Thị Thu Huệ. Người phụ nữ
dám sống hết mình, dấn thân, cuồng si trong tình yêu, trong những niềm tin, những
nguyên tắc riêng cực đoan, khờ dại của tuổi thanh xuân, cho dù những đam mê ấy
có thể phải trả những cái giá rất đắt như những cô gái trẻ trong Yêu, Khi người
ta trẻ của Phan Thị Vàng Anh. Thơ Vi Thùy Linh ở nhiều bài bộc lộ tâm tư của
người con gái chủ động bày tỏ tình yêu, khát vọng kiếm tìm hạnh phúc cá nhân, tự
dấn thân vào tình yêu - ngay cả khi tình yêu gắn với nỗi buồn và cô đơn tột độ:
Em lầm lũi lại đến trước nhà anh/ Nhặt xác nỗi buồn/Đốt lên thành lửa/ Rồi đi/ Sau
lưng em ngày nắng tắt (Từ phía ngày nắng tắt); Anh yêu của em/ Em yêu anh cuồng
điên/ Yêu đến tan cả em/ào tung ký ức/ Ngày dài hơn mùa/ Em mong mỏi/ Em (có lúc)
như một tội đồ nông nổi (Người dệt tầm gai)…
Với tư cách là những con người ý
thức cao về phẩm giá của bản thân và có cái nhìn thấu thị về đời sống, có những
nhân vật nữ trở thành người phán xử hiện thực như cô con gái phát hiện những lỗi
lầm của cha mình trong Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh. Và nhiều nhân vật nữ đã
tự nhìn ngắm tâm hồn mình để suy ngẫm, tự phản biện, tự đối thoại, tự phán xét
để trưởng thành như cô con gái trong Còn lại một vầng trăng, My trong Thiếu phụ
chưa chồng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Dư trong Một mình của Lê Minh Khuê: họ đã lầm
đường lạc lối, đã từng sai, đã từng ích kỷ, nhưng không cần đến sự bình phẩm,
phê phán, lên án của người khác, với những trải nghiệm của bản thân, họ đã tự
nhìn lại chính mình, tự đấu tranh với chính mình để vượt qua những sai lầm đó.
Đó là sự phát triển lên một bước mới của yếu tố Nữ tính trong văn chương. Từ chỗ
bày tỏ những khát khao về hạnh phúc, khát khao làm chủ cuộc đời trong văn học
những giai đoạn trước, đến giai đoạn này, các nhân vật nữ đã thực sự là chủ
nhân của những diễn ngôn về đời sống trong tư thế đứng bên trên những lẽ phải
thông thường, những định kiến xã hội, tự mình tiếp cận chân lý.
Nếu các nhà văn
nam vẫn thiên về ca ngợi phụ nữ như một biểu tượng cho cái Đẹp bền bỉ và thuỷ
chung như Nguyễn Minh Châu trong Cỏ lau, Nguyễn Huy Thiệp trong Không có vua,
Nguyễn Quang Thiều trong Hai người đàn bà xóm Trại, Nguyễn Bình Phương trong
Thoạt kỳ thủy…, thì các nhà văn nữ đã để cho người phụ nữ trong sáng tác của họ
dám vượt lên trên những ràng buộc đạo đức truyền thống, dám từ bỏ những danh hiệu
đạo đức cao quý để đi theo tiếng gọi của bản năng, của khát vọng hạnh phúc,
khát vọng khẳng định cá tính, và lên tiếng vì những nhu cầu chính đáng đó. Đó
chính là cách để các cây bút nữ góp phần làm thay đổi quan niệm thẩm mỹ - đạo đức,
thay đổi những định kiến về giới trong xã hội đương đại. Viết về người phụ nữ,
văn chương đương đại thường xoay quanh các đề tài mang đậm dấu ấn giới tính:
tình yêu, hôn nhân, gia đình. Tình yêu, hôn nhân là lĩnh vực gần gũi nhất với
người phụ nữ, là điều mang đến cho họ nhiều trái ngọt và cũng nhiều vị đắng, đã
được các nhà văn diễn tả trong tác phẩm với vô vàn sắc thái, tình huống khác
nhau. Nhưng khác với các tác phẩm trước năm 1945 hướng đến đấu tranh cho tự do
yêu đương, tự do hôn nhân của người phụ nữ, văn chương đương đại xây dựng cả những
nhân vật dám hy sinh hạnh phúc gia đình, hy sinh hôn nhân như một sự ràng buộc
để bảo toàn tự do tư tưởng, lòng tự trọng, ý thức về bản ngã và cái tôi cá nhân
của mình. Tình yêu ơi, ở đâu?, Tân cảng của Nguyễn Thị Thu Huệ, Con chó và vụ
ly hôn của Dạ Ngân, Trò chơi huỷ diệt cảm xúc của Y Ban là những tác phẩm như vậy.
Và tình dục - một vấn đề rất hạn chế xuất hiện trong văn học các giai đoạn trước,
đã trở thành một phương diện làm nên đời sống của các nhân vật. Vẻ đẹp của cơ
thể, sức hấp dẫn nhục thể, những
khát khao và sự chủ động bày tỏ ham muốn tình dục là điều được các nhân vật nữ
ý thức sâu sắc và thể hiện ở những cấp độ khác nhau: khi thẹn thùng e lệ, khi nồng
nàn mãnh liệt; khi kín đáo qua những ẩn dụ nghệ thuật, khi trực tiếp, bột phát;
khi hồn nhiên trong trẻo, khi cuồng nhiệt đầy ý thức; và có những khi phá
phách, nổi loạn… Sau những mùa trăng của Đỗ Bích Thuý, I am đàn bà của Y Ban,
Bóng đè, Lam Vỹ của Đỗ Hoàng Diệu, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Paris
11 tháng 8, VânVy của Thuận, thơ Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư… là những tác phẩm
đề cập đến phương diện này ở mức độ khá đậm đặc. Bày tỏ khát vọng tình dục một
cách mạnh mẽ, táo bạo, các tác phẩm văn chương đương đại không chỉ nói lên
thiên tính, thiên chức của phụ nữ mà còn lý giải, nhìn nhận các vấn đề xã hội,
lịch sử, văn hoá từ góc nhìn nữ giới với tất cả những góc cạnh, những chiều
kích mang tính nhân bản của nó. Đó cũng là một cách để họ đả phá cái nhìn nam
quyền, gia trưởng, một chiều, đả phá văn hoá phụ quyền, tư duy “duy dương vật”
(phallocentric thinking) - “lối tư duy do nam giới áp đặt (trong hệ thống từ ngữ,
nguyên tắc logic, và hệ tiêu chí về các chủ đề tri thức được quan tâm) qua hệ
thống giáo dục, chính trị, pháp luật và kinh tế” [1], từ lâu tồn tại trong xã hội
như một lẽ đương nhiên và gây nên những định kiến, kìm nén, cản trở sự phát triển
tự nhiên, nhân bản của đời sống.
Không chỉ khai thác đời sống, tâm lý, tính
cách của người phụ nữ một cách phóng khoáng và sâu sắc hơn, nhiều tác phẩm còn
cho thấy những băn khoăn của nhà văn về bản sắc, căn tính dân tộc của phụ nữ Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập, giao lưu văn hoá quốc tế. Hình ảnh những nhân vật
nữ băn khoăn đi tìm ý nghĩa tồn tại của mình giữa một môi trường văn hoá ngoại
quốc - với cả khát vọng hoà nhập và ý thức giữ gìn bản thể - trong Phố Tàu,
Paris 11 tháng 8, T mất tích của nhà văn Thuận, Quyên của Nguyễn Văn Thọ, trong
tập truyện ngắn Khung trời bỏ lại của các nhà văn nữ hải ngoại, hay những cô
gái trẻ trung, năng động, tràn đầy năng lượng đang chinh phục thử thách để
thành công trong môi trường quốc tế nhằm khẳng định giá trị bản thân và kiếm
tìm tình yêu, hạnh phúc trong Oxford thương yêu, Nhắm mắt thấy Paris, Bồ câu
chung mái vòm, Cung đường vàng nắng, Chờ em đến San Francisco của Dương Thụy
chính là nơi để các nhà văn thể hiện quan niệm về căn tính dân tộc trong bối cảnh
hiện nay. Bản sắc, căn tính Việt không nhất thành bất biến, không chỉ đơn giản
là vịnh Hạ Long, Quốc Tử Giám hay món nem rán giòn rụm…, mà quan trọng hơn, phải
là hình ảnh, là những phẩm chất, những giá trị Việt được xác lập trong cộng đồng
quốc tế, là những suy tư, trăn trở về bản sắc dân tộc giữa sức hấp dẫn và cả những
áp lực của sự hội nhập. Với sự mẫn cảm bẩm sinh và khả năng tự cân bằng cuộc sống,
các nhân vật nữ đã hiện lên vừa như một sứ giả của dân tộc, của văn hóa Việt
Nam, vừa như những “công dân toàn cầu” mang làn gió mới vào thế giới trải nghiệm
tưởng tượng của người đọc. Đó cũng là một sự mở rộng phạm vi phản ánh của văn
chương mang Thiên tính nữ trong thời đại ngày nay, một nét riêng biệt mang tính
thời đại.
Như vậy, có thể thấy, dù hình tượng người phụ nữ đã vô cùng quen thuộc,
nhưng văn chương đương đại đã đưa người đọc vào hành trình khám phá hình tượng ấy
với một chiều rộng lớn lao và một bề sâu thăm thẳm, để đời sống và thế giới
tinh thần của người phụ nữ hiện lên trong tất cả sự đa dạng, phong phú, phức tạp,
nhiều màu sắc, từ đó những vấn đề của xã hội, của dân tộc, của thời đại cũng được
nhìn nhận và lý giải từ góc nhìn giới tính để trở nên mới mẻ, thú vị, đa chiều
hơn. Đó chính là sự thể hiện của Thiên tính nữ trên phương diện phạm vi phản
ánh của văn chương đương đại.
Đến sự đa dạng hóa và biệt sắc phái tính trong kỹ
thuật văn chương
Không chỉ đem đến một thế giới nhân vật phong phú và được khai
thác từ nhiều góc cạnh, Thiên tính nữ còn được thể hiện đa dạng trong kỹ thuật
văn chương mang biệt sắc phái tính rất đậm nét của các nhà văn đương đại. “Những
cây bút nữ đã góp phần quan trọng làm cho văn đàn sôi nóng lên, hấp dẫn hơn nhờ
vào sự đa hương sắc của tác phẩm” [2]. Mỗi cây bút một phong cách, một sắc
thái, và sự biến ảo linh hoạt, uyển chuyển của từng cây bút qua các tác phẩm cụ
thể đã giúp cho người đọc đương đại được thưởng thức một đời sống văn chương
nhiều màu sắc mà ở đó, tính thẩm mỹ được thể hiện nhuần nhuyễn không chỉ qua
giá trị của những thông điệp tư tưởng mà còn qua cấu trúc hình thức tác phẩm.
Xét trên phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật, Thiên tính nữ trong văn học
Việt Nam đương đại được thể hiện ở sự quan tâm đến thế giới cảm xúc, cảm giác,
tâm tư, tiềm thức của nhân vật. Để phơi bày tâm lý nhân vật, nhiều kỹ thuật
khác nhau đã được sử dụng. Có khi nhà văn để cho nhân vật trực tiếp bộc bạch,
tâm sự về mình với một nhân vật khác. Người phụ nữ trong Chuyện bếp núc của Lê
Minh Khuê đã tìm đến với anh họa sĩ để bộc lộ những trăn trở, suy nghĩ thầm kín
của mình từ khi người em chồng xuất hiện trong nhà mình, và tâm sự của chị đã
giúp người đọc thấy được những vấn đề sâu sắc về nhân sinh, thế sự.
Cũng là một
cách để cho nhân vật tự giãi bày tâm tư tình cảm của mình, nhưng thay vì đối
thoại trực tiếp, trong nhiều truyện, các tác giả đã xây dựng những cuộc đối thoại
tưởng tượng giữa nhân vật trung tâm với một nhân vật khác. Nhân vật cô gái cũng
là người kể chuyện trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ đã khẩn thiết bộc bạch tấm lòng
mình với Mẹ: “Mẹ ơi, từ bấy đến nay hai mẹ con ta cùng mang nỗi đau. Mẹ mang nỗi
đau của người mẹ, nỗi đau có đứa con hư hỏng. Con đau nỗi đau của con, và cũng
là nỗi đau của người mẹ…” [3]. Từ câu chuyện và nỗi đau đớn, xót xa của cô gái
trót một lần dại dột để rồi mãi mãi sống trong nỗi ám ảnh và mặc cảm tội lỗi,
cô đã đối thoại với mẹ Âu Cơ, với những xác tín ngàn đời làm nên nỗi đau cho những
người con, người mẹ, và khẩn cầu một sự thấu hiểu: “Mẹ ơi, mẹ hãy quan tâm đến
chúng con, đến nỗi đau của những cô gái, những bà mẹ. Mẹ kính yêu ơi! Xin mẹ
hãy tha thứ cho con”. Cũng là đối thoại tưởng tượng, sau khi phải trả giá quá đắt
cho lối sống buông thả, xô bồ bằng sự ruồng rẫy, chối bỏ của người yêu, Hoài
trong Xin hãy tin em của Nguyễn Thị Thu Huệ đã cay đắng thốt lên: “Bố mẹ ơi,
sao bố mẹ không dạy con rằng mọi chuyện đều xảy ra có một lần trong đời. Mọi
chuyện qua đi không lấy lại được. Sao bố mẹ chỉ nhăm nhăm gửi tiền cho con mà
không ở bên con mỗi sáng mỗi chiều cho con bớt cô đơn? Học mà làm cái gì khi
trong đầu con rỗng tuếch, chẳng có tí kiến thức nào ngoài sự lo toan cho cuộc sống sắp tới”. Đó phải chăng là tiếng
gọi chới với của một trái tim khao khát một tình yêu đích thực, một tâm hồn
khao khát trở về với sự trong trắng nguyên sơ, một ước vọng níu giữ chút niềm
tin dẫu mong manh mà đẹp đẽ cho cuộc đời. Như vậy, đối thoại tưởng tượng thực
chất chính là một cách để nhân vật đối diện với chính mình, nhìn nhận rõ hơn bản
thân mình. Nhờ đó, nhân vật giải tỏa những ẩn ức về tâm lý bị dồn nén trong đáy
sâu tâm hồn mình, để hóa giải nỗi đau, nỗi cô đơn đang bủa vây cuộc sống của
mình. Đó cũng là cách để nhân vật chiến thắng những trở ngại của hoàn cảnh bằng
chính sức mạnh tinh thần của bản thân.
Để diễn tả thành công thế giới tâm lý phức
tạp, không ngừng vận động của các nhân vật nữ, có một hiện tượng thường gặp
trong nhiều tác phẩm, đó là câu văn nửa trực tiếp, là sự thay đổi về ngôi kể và
điểm nhìn trần thuật, ở đó chủ thể của phát ngôn có sự dịch chuyển từ người kể
chuyện sang nhân vật một cách thầm lặng và tinh vi. Trong Tình yêu ơi, ở đâu?,
cuộc gặp gỡ giữa Quyên với chàng thi sĩ nát rượu và thô bỉ đã kết thúc trong những
câu văn nửa kể, nửa giãi bày: “Đó là buổi chiều cuối cùng nàng gặp chàng. Một
thần tượng thi ca sụp đổ trong lòng nàng. Nàng yêu những vần thơ của chàng
nhưng không thể yêu chàng - người đã viết nên những vần thơ đó. Thôi, đành xếp
vào góc cuộc đời một cuộc tình và chỉ nên đọc những bài thơ chàng in trên báo”
[4]. Đó không chỉ là lời của người trần thuật câu chuyện một cách khách quan mà
còn đan xen nỗi lòng chua xót, đắng cay của Quyên sau một lần thất vọng vì tình
yêu. Trong Con chó và vụ ly hôn của Dạ Ngân, khi tòa yêu cầu trình bày rõ hơn
lý do của việc xin ly hôn, tình cảnh của Đoan được diễn tả qua những câu văn vừa
như kể, vừa như độc thoại, vừa như căn vặn: “Chị nói gì nữa bây giờ? Toàn những
chi tiết thuộc về cảm giác. Bà chánh án đó, trang trọng trong chiếc áo bà ba bằng
soie trắng, trông bà cổ kính như một quá khứ đáng tôn thờ. Chắc là bà may mắn
có ông chồng hợp ý và yên ấm, bà yên phận. Bà có hiểu được nhu cầu tình cảm của
những chị em trẻ hơn bà, còn ham muốn hoàn thiện cuộc sống mình? Còn cô thư ký
trẻ, da ngăm ngăm, môi tô màu cam đỏ, tóc uốn xù theo mốt, quần chẽn và áo sọc
ca rô, cô ta thuộc về niên đại mới, quá mới, mới đến mức sẵn sàng “gút-bai” cái
người cản trở ý thích của cô ta hoặc ngược lại, sẵn sàng mỉm cười khi người đó
chào tay trái với cô nhưng chắc cô ta chưa chồng, cô xa lạ với loại cảm giác mà
chị buộc phải kể ra” [5]. Ở đây, chủ thể của lời kể chuyện vẫn là một người kể
hàm ẩn, tức là câu chuyện vẫn được kể từ ngôi thứ ba, nhưng nội dung của lời kể
lại là những cảm nhận, tâm trạng mang tính chủ quan - là thế giới bên trong nội
tâm nhân vật. Nói cách khác, bản chất của trần thuật từ chỗ tái hiện một câu
chuyện về người khác đã ngầm chuyển thành tự giãi bày nội tâm của bản thân
mình, qua đó, những phân tích của chính nhân vật về cảnh ngộ và tâm tư của mình
được thực hiện.
Hướng vào biểu thị đời sống nội tâm nhân vật, trật tự niên biểu
của cốt truyện thường bị phá vỡ, câu chuyện được tái hiện theo quy luật tâm lý
của nhân vật hơn là theo diễn tiến thông thường của thời gian vật lý. Dòng ý thức,
đồng hiện, lắp ghép là những thủ pháp quen thuộc trong nghệ thuật tâm lý của
các nhà văn. Ở tầng sâu nhất của nội tâm, tiềm thức, vô thức, trực giác, tâm
linh của con người cũng đã được khai phá trong nhiều truyện ngắn. Giấc mơ là một
chi tiết, thậm chí, một biểu tượng nghệ thuật được nhiều tác giả vận dụng để biểu
hiện những khát vọng, những mong ước, những ám ảnh, những ẩn ức nằm trong vùng
khuất lấp của tâm hồn người phụ nữ. Những ám ảnh về quá khứ, về thực tại thường
trực trong tâm trí, trong nỗi băn khoăn của nhân vật được diễn tả thông qua các
giấc mơ với Ám ảnh, Phù thủy của Nguyễn Thị Thu Huệ, Người sót lại của rừng cười
của Võ Thị Hảo. Những ẩn ức tâm lý và sinh lý của nhân vật nữ trong Bóng đè của
Đỗ Hoàng Diệu cứ chập chờn ẩn hiện, quằn quại, mãnh liệt trong những giấc mơ.
Và giấc mơ hay thế giới tâm linh, tín ngưỡng là nơi để các nhân vật hiện thực
hóa khát vọng của mình về một thế giới bình yên, đẹp đẽ, thuần khiết, đối lập với
hiện thực nhiều đau buồn trong Người đi tìm giấc mơ của Nguyễn Thị Thu Huệ,
Trăng nơi đáy giếng của Trần Thùy Mai. Khi logic của lý trí tỉnh táo không đủ để
giải tỏa tâm tư, giấc mơ, tiềm thức chính là một phương thức hữu hiệu để các
tác giả giúp cho nhân vật nữ phơi bày thế giới bí ẩn, phức tạp bên trong của
mình. Đối thoại trực tiếp, đối thoại tưởng tượng, độc thoại nội tâm, những ám ảnh
tiềm thức và các thủ pháp trong nghệ thuật trần thuật đã giúp cho các nhà văn
thể hiện tối đa năng lực phân tích tâm lý nhân vật của mình, từ đó người đọc có
thể tiếp cận và am hiểu nhân vật trong chiều sâu của tính cách, trong cả những
phần sâu kín tưởng như khuất lấp, khó giải mã nhất của tâm hồn.
Bên cạnh phương
diện xây dựng nhân vật, Thiên tính nữ còn được thể hiện trong sự linh hoạt, đa
dạng của các hình thức kết cấu tác phẩm. Truyện ngắn, tiểu thuyết đương đại thường
sử dụng các hình thức kết cấu gắn liền với logic tâm lý của nhân vật, cùng với
đó là các kiểu kết cấu mang tư duy đương đại, mang cảm quan hậu hiện đại như kết
cấu phân mảnh, lắp ghép, kết cấu xoắn kép, kết cấu tầng bậc, kết cấu liên hoàn.
Truyện ngắn Hậu thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ được cấu trúc bởi ba lớp
truyện, gắn với ba ngôi kể và điểm nhìn khác nhau: lớp truyện về những suy tư,
trăn trở đầy trải nghiệm của người mẹ; lớp truyện về thế giới ngập tràn cảm xúc
yêu đương - vừa bỡ ngỡ, ngượng ngập, vừa nồng nàn, si mê, vừa băn khoăn của cô
con gái 16 tuổi trong cuốn nhật ký; và lớp truyện ngắn gọn, khô khốc của người
kể chuyện hàm ẩn ở những dòng cuối tác phẩm. Cấu trúc tầng bậc đã giúp câu chuyện
được soi rọi từ nhiều góc độ khác nhau và người đọc có thể vừa quan sát, vừa đồng
cảm với từng nhân vật. Paris 11 tháng 8 của nhà văn Thuận là một tiểu thuyết có
kết cấu xoắn kép giữa câu chuyện của Liên, của Mai Lan, của những người bạn
khác trong khu ổ chuột Paris, với câu chuyện chung về Paris, về nước Pháp trong
niềm hổ thẹn sâu kín của một xã hội hậu tư bản viên mãn nhưng đầy lúng túng và
bất lực trước thiên tai: trận nắng nóng khủng khiếp ngày 11 tháng 8. 22 chương
là 22 mảnh hư cấu xoắn kép với 22 bài báo được tác giả trích dẫn ở đầu mỗi
chương tạo cho tác phẩm một sự song chiếu giữa cái riêng với cái chung, giữa
cái chủ quan với cái khách quan, giữa những thân phận, những cuộc đời cụ thể với
bối cảnh xã hội, giữa dạt dào suy tư, tâm trạng với cái nhìn khách quan có tính
tổng kết của báo chí. Tiểu thuyết Trò chơi huỷ diệt cảm xúc của Y Ban với 10
chương dài ngắn khác nhau là những mảnh ghép về cuộc sống đương đại. Ở đó, sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ
giúp con người có thêm phương tiện khám phá thế giới và tự khám phá nội tâm
mình trong một cuộc phiêu lưu không cùng, và đồng thời cũng có thể khiến con
người bị lệ thuộc và đi đến sự huỷ diệt cảm xúc. Thái Phan Vàng Anh (2017) [6]
đã phân tích các thủ pháp của tiểu thuyết đầu thế kỷ XXI như mặt nạ tác giả,
liên văn bản, giễu nhại, tự sự đa chủ thể, đa điểm nhìn trần thuật như là những
yếu tố thuộc về “Trò chơi và lối viết”. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép, xoắn kép,
với những thủ pháp kỹ thuật hiện đại đã khiến cho các tác phẩm tự sự nói chung
trở nên phóng khoáng, linh hoạt, đầy sức hấp dẫn, và kiến tạo nên chúng có một
phần không nhỏ của các nhà văn nữ. Tình hình cũng tương tự như với thơ. Bàn về
Nỗ lực đổi mới trong thơ nữ đương đại, Bích Thu (2015) [7] đánh giá: “Từ sau thời
kỳ đổi mới, nhất là trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thơ của những cây bút nữ
đã thực sự làm nóng thi đàn với sự ra đời của hàng loạt tác phẩm, với sự xuất
hiện của các hiện tượng, các hoạt động thơ tạo sự chú ý của công chúng và dư luận.
Trên mặt bằng chung, bên cạnh các cây bút nam giới, những người nữ làm thơ đã nỗ
lực tìm tòi, thể hiện theo thi pháp truyền thống hay hiện đại đều góp phần làm
cho đời sống thi ca được vận hành, cọ xát, va đập, không chịu bằng lòng với những
gì đã có, trở thành kích thích tố cho sự đổi mới thể loại trữ tình”. Trong bài
viết Đôi nét về thơ nữ đương đại, Lưu Khánh Thơ (2017) [8] nhận định: “Sự xuất
hiện của một số cây bút nữ trên thi đàn Việt Nam hiện đại đã tạo được ấn tượng
trong tâm lý tiếp nhận của người đọc. Từ sau 1986 đội ngũ các cây bút nữ xuất
hiện ngày càng đông đảo với hàng loạt tên tuổi như: Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng
Việt Hằng, Giáng Vân, Tuyết Nga, Phạm Thị Ngọc Liên, Đinh Thị Như Thuỳ... Trong
đó có những hiện tượng như Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Trương Quế
Chi, Trần Lê Sơn Ý… những cây viết trẻ đã gây nên những luồng dư luận khác nhau
trong giới cầm bút. Qua sáng tác của các cây bút nữ mới đã tạo được những dấu ấn
riêng, chúng ta bước đầu có thể rút ra nhận xét về những đặc điểm chính trong
thơ của họ. Những đặc điểm đó phần nào cũng là điểm chung cho những người làm
thơ hôm nay”. Các nhà thơ nữ trẻ thường hướng tới tự do hoá hình thức văn bản
thơ của mình thông qua việc sử dụng linh hoạt thơ tự do. Thể thơ tự do giúp cho
mạch cảm xúc, mạch tư duy và trường liên tưởng trong thơ uyển chuyển, phóng
khoáng hơn, phù hợp với thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của người phụ nữ.
Trên phương diện ngôn ngữ, có thể thấy các sáng tác mang Thiên tính nữ đều mang
dấu ấn rất riêng của phái tính, của cá nhân các tác giả gắn với hệ sinh thái tự
nhiên và tinh thần của họ - điều mà các nhà phê bình sinh thái nữ quyền gọi là
mối liên hệ chặt chẽ giữa môi trường (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội),
phụ nữ và văn chương [9]. Đó có thể là ngôn ngữ ngắn gọn, lạnh lùng của Phan Thị
Vàng Anh, là ngôn ngữ giàu trải nghiệm, suy tư của người phụ nữ đô thị trong thời
kỳ mở cửa như trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ, là ngôn từ sắc sảo mặn mà của Y
Ban, là giọng văn trang nhã của Dạ Ngân, là sự trong trẻo hồn hậu trong ngôn ngữ
Đỗ Bích Thuý, là chất Nam Bộ đậm đặc trong văn Nguyễn Ngọc Tư, là ngôn ngữ hiện
đại khoẻ khoắn của DiLi, là nét trầm tĩnh khoan dung của ngôn ngữ truyện Lê
Minh Khuê, là Thuận với sự pha trộn giữa nét cá tính mạnh mẽ và sự duyên dáng,
quyến rũ trong từng câu chữ, hay ngôn ngữ thơ mang màu sắc tượng trưng của Vi
Thuỳ Linh và sự từng trải pha chút giễu nhại trong thơ Phan Huyền Thư… Song với
tất cả những sắc thái trên, điểm gặp gỡ của ngôn ngữ văn chương của các tác giả
nữ là sự hàm súc, tinh tế và đằm thắm trên cả cấp độ từ vựng và cấp độ ngữ
pháp. Cái Thiên tính nữ, sự tinh tế, giàu cảm xúc khi biểu đạt cuộc sống và thế
giới tâm hồn của các nhân vật nữ, đôi khi còn lan sang cả sáng tác của các nhà
văn nam. Ngôn ngữ Nguyễn Quang Thiều, Hồ Anh Thái là những trường hợp điển
hình. Kết luận:
Qua khảo sát những trường hợp tiêu biểu, trên một số phương diện
cơ bản, có thể thấy Thiên tính nữ là một yếu tố, một đặc điểm đáng chú ý của
văn chương Việt Nam đương đại. Đặc điểm ấy được thể hiện cả ở sự mở rộng phạm
vi phản ánh về hình tượng người phụ nữ, cả ở sự đa dạng hoá và biệt sắc phái
tính trong kỹ thuật văn chương. Thiên tính nữ tuy có nguồn gốc sâu xa trong cội
rễ văn hoá Việt Nam và đã xuất hiện rải rác trong văn học Việt Nam các giai đoạn
trước, nhưng chỉ nở rộ với những biểu hiện đồng đều, sâu sắc trên hầu khắp các
bộ phận, các thể loại của nền văn học như một điểm đặc sắc trong giai đoạn
đương đại. Sự tiếp tục nghiên cứu về sự thể hiện của yếu tố này một cách cụ thể,
chi tiết trong từng thể loại, trong các đề tài, chủ đề, trong hệ thống hình tượng,
biểu tượng văn học, và nghiên cứu so sánh yếu tố này trong nền văn chương đương
đại Việt Nam với các nền văn chương trong khu vực có nhiều điểm tương đồng về lịch
sử, văn hoá, là cần thiết, để soi rọi vấn đề một cách sâu rộng và toàn diện
hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] L. Tyson (2006), “Feminist criticism”, Critical theory today: a user -
friendly guide, New York, Oxon.
[2] Bùi Việt Thắng (2006), “Một vườn hoa nhiều
hương sắc”, Mùa thu vàng rực rỡ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, tr.5-7.
[3] Y
Ban (2005), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Nhà xuất bản Thanh niên. [4] Nguyễn Thị Thu
Huệ (2018), Của để dành, Nhà xuất bản Trẻ.
[5] Dạ Ngân (1989), Con chó và vụ ly
hôn, Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
[6] Thái Phan Vàng Anh (2017), Tiểu thuyết Việt
Nam đầu thế kỷ XXI - lạ hóa một cuộc chơi, Nhà xuất bản Đại học Huế.
[7] Bích
Thu (2015), Văn học Việt Nam hiện đại - sáng tạo và tiếp nhận, Nhà xuất bản Văn
học.
[8] Lưu Khánh Thơ (2017), “Đôi nét về thơ nữ đương đại”, 30 năm đổi mới
nghiên cứu văn học nghệ thuật và Hán Nôm: Thành tựu - Vấn đề - Triển vọng, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.449-458.
[9] D.A. Vakoch (ed) (2014),
Feminist ecocriticism: environment, woman, and literature, Lexington Books,
Maryland.
11/12/2018
Nguyễn Thị Năm Hoàng
Theo https://vjst.vn/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét